ĐIỂM TIN THÁNG 01.2025
Thực hiện: Vp. Truyền thông
TIN GIÁO PHẬN MỸ THO
1. Giáo xứ Bắc Hòa: Đức Cha Phêrô ban Bí tích Thêm Sức nhân ngày lễ bổn mạng của giáo xứ
Bài viết và hình: Đôminicô Xuân
BTT hạt Tân An
(WGPMT) Giáo xứ Bắc Hòa hân hoan chào đón Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm - Giám mục Giáo phận Mỹ Tho về dâng thánh lễ ban Bí tích Thêm Sức cho 44 thiếu nhi trong giáo xứ. Đây cũng là thánh lễ mừng kính Thánh Maria, Mẹ Thiên Chúa bổn mạng của giáo xứ.
Lúc 9g30 sáng thứ Tư 01.01.2025, Đức Cha Phêrô đã chủ sự thánh lễ mừng bổn mạng và ban Bí tích Thêm Sức tại Giáo xứ Bắc Hòa. Đồng tế với ngài có cha Giacôbê Nguyễn Duy Hiếu – Cha sở Giáo xứ Bắc Hòa, cha phó Giuse Nguyễn Dương Phúc và quý cha ở các giáo xứ xung quanh. Ngoài ra còn có sự hiện diện của quý tu sĩ, quý phụ huynh, người đỡ đầu, cùng đông đảo giáo dân trong và ngoài giáo xứ.
Khởi đi từ nhà xứ, đoàn rước gồm hương, lửa, thánh giá, nến cao, các em sắp lãnh Bí Tích Thêm Sức, cha mẹ đỡ đầu, lễ sinh, quý cha đồng tế, và Đức Cha tiến vào thánh đường. Sau bài Tin Mừng, cha Giacôbê giới thiệu các em sắp được lãnh Bí tích với Đức Cha và cộng đoàn.
Trong phần giảng lễ, Đức Cha mở đầu bằng việc nhắc lại với các em thiếu nhi cùng cộng đoàn về Bí tích Thêm Sức và về Chúa Thánh Thần. Ngài hỏi các em về các biểu tượng nói về Chúa Thánh Thần và về ý nghĩa và lịch sử của ngày lễ Mừng Mẹ Thiên Chúa. Đức Cha cũng nhắc cho cộng đoàn biết là đã nhận Đức Maria là bổn mạng thì phải biết bắt chước Mẹ, và nên giống như Mẹ. Để kết thúc bài giảng, ngài nhắc nhở các phụ huynh và người đỡ đầu: “Anh chị em hãy nài xin Chúa Thánh Thần ban phúc lành cho chính mỗi người, để mỗi người ý thức bổn phận làm ông bà cha mẹ mà Chúa trao ban. Vì vậy, các vị phụ huynh phải sống gương mẫu cho con cháu noi theo”.
Sau khi các em sắp được lãnh Bí tích cùng nhau tuyên xưng đức tin, Đức Cha đặt tay và cầu nguyện để xin ơn Chúa Thánh Thần xuống trên các em. Đức Cha xức Dầu Thánh trên trán các em và đọc lời ban Bí tích Thêm Sức. Sau đó, Thánh lễ được tiếp nối với lời nguyện chung và phụng vụ Thánh Thể.
Sau lời nguyện hiệp lễ, một em đại diện có lời cám ơn Đức Cha, quý cha, quý dì, cha mẹ đỡ đầu, và cha mẹ sinh thành đã chăm lo cho các em có được ngày hôm nay. Tiếp theo, ông chủ tịch Hội đồng Mục vụ giáo xứ thay lời cộng đoàn dâng lời cảm tạ Đức Cha, quý cha cùng quý khách tới tham dự thánh lễ cầu nguyện cho các em và cho giáo xứ. Nhân ngày mừng Bổn mạng của giáo xứ, ông cũng cảm ơn tất cả mọi người đã chung lời tạ ơn Chúa và cầu nguyện cho các em. Một em đại diện giáo xứ dâng lên Đức Cha lẵng hoa tươi thắm, để tỏ lòng kính trọng và yêu mến của giáo xứ.
Đáp từ, Đức Cha nhắc lại truyền thống tốt đẹp chăm lo đời sống và việc học hành giáo dục con cái của giáo xứ. Đức Cha cũng có lời chúc mừng năm mới đến quý cha và cộng đoàn dân Chúa nhân ngày đầu năm Dương lịch.
Thánh lễ kết thúc lúc 11g15. Sau đó, các em chụp hình lưu niệm với Đức Cha và quý cha
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-phan-my-tho/giao-xu-bac-hoa-duc-cha-phero-ban-bi-tich-them-suc-nhan-ngay-le-bon-mang-cua-giao-xu-42327.html
2. Hạt Tân An: Hành hương kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam và kính Lòng Thương Xót Chúa
Bài viết, hình: Hoài Bão
BTT Giáo phận
(WGPMT) Chiều ngày 03.01.2025, có khoảng 500 giáo dân của Hạt Tân An hành hương kính các thánh tử đạo tại Trung tâm Hành hương (TTHH) Ba Giồng và kính Lòng Thương Xót Chúa tại Trung tâm Mục vụ (TTMV) Giáo phận Mỹ Tho.
Vào lúc 14g00 ngày 03.01.2025, giáo dân hạt Tân An Giáo phận Mỹ Tho đã đến TTHH Ba Giồng để kính viếng Cha thánh Phêrô Nguyễn Văn Lựu và các thánh tử đạo Việt Nam. Theo sự hướng dẫn của cha Giuse Nguyễn Huỳnh Bảo Sơn – Cha phó Giáo xứ Ba Giồng, mọi người tham dự cùng cung nghinh và thắp hương Cha thánh Phêrô và các thánh tử đạo. Sau khi kính viếng các thánh tử đạo xong, cha Giuse đã giải thích cho cộng đoàn ý nghĩa logo của Năm Thánh 2025. Sau đó, cộng đoàn lại tiếp tục di chuyển đến TTMV để kính Lòng Thương Xót Chúa.
Tại lễ đài kính Lòng Thương Xót Chúa, lúc 16g15 cha Giacôbê Nguyễn Duy Hiếu – Cha sở Giáo xứ Bắc Hòa hướng dẫn mọi người lần Chuỗi Thương Xót và hát kính Đức Mẹ. Tiếp đến, thánh lễ được diễn ra lúc 17g00 do Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm – Giám mục Giáo phận Mỹ Tho chủ sự. Đồng tế với ngài có cha Tổng Đại diện Phaolô Trần Kỳ Minh, cha Giacôbê Nguyễn Duy Hiếu và 17 cha trong giáo phận. Tham dự thánh lễ còn có quý tu sĩ nam nữ và giáo dân trong giáo phận.
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-phan-my-tho/hat-tan-an-hanh-huong-kinh-cac-thanh-tu-dao-viet-nam-va-kinh-long-thuong-xot-chua-42345.html
3. Họp hội đồng Curia hạt Cái Bè
Bài viết, hình: Anna Linh Phương
BTT hạt Cái Bè
(WGPMT) sáng ngày 14.01.2025 tại Nhà thờ Kinh Gãy có buổi họp hội đồng Curia hạt Cái Bè.
Lúc 9g00 sáng thứ Ba, ngày 14.01.2025, tại phòng họp Nhà thờ Giáo xứ Kinh Gãy, 27 hội viên Legio Mariae hoạt động và tán trợ từ 7 Praesidia các giáo xứ: Ba Giồng, Cai Lậy, Kim Sơn, Kinh Gãy, Tân Hiệp, Long Định, An Thái Trung đã về gặp mặt và tham gia họp Hội Đồng Curia. Buổi họp có sự hiện diện của anh Giuse Trần Văn Lý - Trưởng Comitium Mỹ Tho và đặc biệt là sự có mặt của cha Linh Giám Curia - Raphael Nguyễn Thiện Thuật
Sau những phần kinh và hoạt động thường lệ, từ phần học sách thiêng liêng Chương 39, Số lề 480 “Phải hoạt động tích cực”, trong huấn từ của mình, cha Linh Giám Raphael đã động viên tinh thần hoạt động của các hội viên, cùng việc chia sẻ về Năm Thánh 2025 và quy định về ban ân xá Năm Thánh. Cha nhắc nhở hội viên lưu tâm đến những người không tham gia hành hương nhưng có lòng sám hối chân thật, hiệp nhất thiêng liêng, đọc 1 kinh Lạy Cha 1 kinh Tin Kính, dâng những đau khổ và khó khăn cho Chúa thì cũng nhận được Ân xá.
Trong Năm Thánh này, ngoài những công tác thường xuyên, hội viên Legio Mariae quyết tâm tích cực tham gia vào các cuộc hành hương và những hoạt động của giáo hội nhằm giúp mình và mọi người đón nhận Ân xá Năm Thánh qua những giờ đạo đức, những cuộc thăm viếng, những giờ học các bài Huấn Giáo Năm Thánh 2025.
Cuối buổi họp, Chị trưởng Curia và toàn thể Hội Đồng chúc tết Cha Linh Giám Raphael. Xin Chúa thương tuôn đổ hồng ân của Ngài trên cha và anh chị em, qua lời chuyển cầu của Mẹ Maria, xin cho các hội viên luôn giữ lòng nhiệt thành, sống trọn vẹn tinh thần Năm Thánh, luôn đem tình yêu Chúa đến cho mọi người.
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/legio-mariae/hop-hoi-dong-curia-hat-cai-be-42405.html
4. Gx. Cao Lãnh: Buổi họp mặt của các cha trong tỉnh Đồng Tháp
Bài viết và hình ảnh: Cecilia Kim Ngân.
BTT hạt Cao Lãnh.
(WGPMT) Sáng ngày 15.01.2025, Cha Tổng Đại diện Phaolô Trần Kỳ Minh gặp gỡ quý cha hạt Cao Lãnh, hạt Cù Lao Tây và quý Hội đồng Mục vụ Giáo xứ (HĐMVGX) nhân dịp đầu năm 2025.
Tại Nhà thờ Cao Lãnh, vào lúc 09g30 ngày 15.01.2025, nhân dịp đầu năm Cha sở Nicola Nguyễn Tấn Hoàng - Hạt trưởng Cao Lãnh đã mời cha Phaolô Trần Kỳ Minh (TĐD) đến Nhà thờ Giáo xứ Cao Lãnh để gặp gỡ quý cha trong tỉnh Đồng Tháp. Chung niềm vui ấy có sự tham gia của cha Inhaxiô Võ Viết Chuyên - Cha hạt trưởng Cù Lao Tây cùng với 40 cha và các anh chị em trong Hội đồng Mục vụ Giáo xứ (HĐMVGX) của hai hạt.
Mở đầu buổi họp mặt, Cha TĐD Phaolô thông qua hình ảnh anh mù Bartimê, một người mù ăn xin đang ngồi ở vệ đường (Mc 10: 46-52) mời gọi tất cả mọi người hãy nắm bắt cơ hội trong Năm Thánh 2025: siêng năng, chịu khó tham dự thánh lễ, lãnh nhận ơn Ân xá để được đến gần với Chúa hơn. Cha nói “Anh, chị em hãy hưởng nhận Ơn Toàn Xá và hãy cảm nhận một cách sâu xa Đức Kitô trong chính chúng ta để thịt của Chúa trở thành thịt của anh chị em, máu của Chúa trở thành dòng chuyển trong lòng anh chị em.”
Trước khi kết thúc, Cha Inhaxiô Võ Viết Chuyên - Hạt trưởng Cù Lao Tây đại diện quý cha và các thành viên HĐMVGX gửi lời chúc Tết, trao quà mừng năm mới đến cha TĐD. Tất cả mọi người hoà chung niềm vui trong ngày họp mặt bằng những cái bắt tay, tiếng cười và những lời chúc bình an trong năm mới.
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-phan-my-tho/gx-cao-lanh-buoi-hop-mat-cua-cac-cha-trong-tinh-dong-thap-42415.html
5. Chia sẻ quà Tết cho người khiếm thị, người nghèo.
Bài viết, hình: Giáo xứ Phaolô Bà Từ
(WGPMT) – Ngày 27.01.2025 Giáo xứ Phaolô Bà Từ chia sẻ 250 phần quà Tết cho người khiếm thị, người nghèo nhân dịp đón xuân Ất Tỵ 2025.
Theo thông lệ hằng năm, cứ mỗi khi Tết đến, cha Giacôbê Nguyễn Minh Phụng - Cha sở Giáo xứ Phaolô Bà Từ cùng với bà con giáo dân trong giáo xứ đã chia sẻ quà Tết với những người khiếm thị và người nghèo.
Được biết, giáo xứ đã chia sẻ 250 phần quà Tết mỗi phần trị giá 600 nghìn đồng gồm: 2kg thịt heo, 10 kg gạo thơm, mì tôm, đường, dầu ăn, nước mắm, bột niêm.
Các phần quà do những ân nhân thân nhân từ nhiều nơi giúp cho bà con nghèo, khiếm thị với ước mong mọi người đón Tết tươi vui, đầm ấm.
Chia sẻ quà Tết cho những người nghèo, người khiếm thị trong Năm Thánh 2025, đây là việc làm lan toả yêu thương, niềm hy vọng cho những người đang sống trong buồn sầu thất vọng vì nghèo đói, bệnh tật… tất cả đều được đón nhận và đỡ nâng.
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-phan-my-tho/chia-se-qua-tet-cho-nguoi-khiem-thi-nguoi-ngheo-42484.html
6. Hành Hương Năm Thánh dịp cuối năm
Bài viết và hình: Anna Linh Phương
(WGPMT) Chiều ngày 27.01.2025 Giáo xứ An Thái Trung có cuộc hành hương Năm Thánh 2025 về Nhà thờ Chánh tòa Mỹ Tho.
Thực hiện lời dạy của Vị Cha Chung Giáo phận về Năm Toàn Xá - Năm Thánh 2025. Theo chân Thánh Giuse lên đường tiến về “Giêrusalem giáo phận”, vào lúc 16g45 ngày 27.01.2025, đoàn hành hương Giáo xứ An Thái Trung – được dẫn dắt bởi Cha sở Phêrô Nguyễn Thành Danh đã có mặt tại Nhà thờ Chánh Tòa Mỹ Tho. Hiện diện trong đoàn có quý soeurs đang phục vụ tại giáo xứ và 95 anh chị em trong các gia đình của giáo xứ.
Sau khi thăm viếng tự do, đoàn hành hương đã bước qua cửa Năm Thánh tiến vào nhà thờ cùng dâng lên Chúa những tiếng hát, lời kinh nguyện, lãnh nhận bí tích hòa giải và đỉnh cao là được hiệp dâng thánh lễ đồng tế với hai cha Phêrô Nguyễn Thành Danh và cha Gioan Lâm Trọng Bổn - Cha phó Chánh Tòa.
Khi hướng dẫn đoàn cha Phêrô đã giảng giải cho đoàn về Năm Hồng ân của Chúa: Đây là Năm Thánh thường lệ thứ 27 trong lịch sử Giáo Hội. Năm Thánh là gì?, Năm Toàn Xá là gì?, Điều kiện để lãnh nhận ơn Toàn xá. Trong bài giảng lễ, cha Gioan bày tỏ niềm vui khi đón tiếp đoàn hành hương. Cha chia sẻ: Năm Thánh là thời gian trở về với Chúa, đổi mới lối sống để xứng đáng là con cái Người và Thiên Chúa sẽ ban ơn đặc biệt khi con người mở lòng thống hối và canh tân. Với chủ đề Những Người Hành Hương Của Hy Vọng, nên không chỉ đón nhận ơn sủng, ân xá mà mọi người còn phải lên đường mang Chúa đến với người anh em bằng đức tin và đời sống gương mẫu của chính mình, muốn thế trước hết anh em phải ra đi khỏi con người cũ của bản thân, loại bỏ đi những gì ngăn trở, cản bước... Như vậy, Năm Thánh sẽ thành toàn với sự đón nhận và đổi mới trong yêu thương và hy vọng.
Sau lời nguyện hiệp lễ, cha sở Giáo xứ An Thái Trung kính lời cảm ơn đến cha sở, quý cha phó, quý ban ca đoàn, lễ sinh, hậu cần... Giáo xứ Chánh Tòa đã đón tiếp và tạo mọi điều kiện cho đoàn hành hương có chuyến đi cuối năm đầy ý nghĩa và nhiều ơn ích.
Thánh lễ đã hết, cuộc hành hương kết thúc. Nhưng đọng lại đây những lời nói chân tình. Vợ Chú Sơn tâm sự: “Tui nôn nao tự hổm nay, từ bữa cha kêu đăng ký đi hành hương Nhà thờ Chánh Tòa, tui chưa biết nhà thờ này, nay tới được rồi, tui vui lắm, tui cầu nguyện với Chúa nhiều lắm!”, Cô Út nói: “Được nghe các cha nói, tui cảm thấy còn phải ráng đi lễ nhiều hơn, nhớ cầu nguyện thêm cho tui nhe!”, một bạn trẻ nói nhỏ: “Nhà thờ đẹp, cha giảng dễ hiểu, ca đoàn người lớn hát tâm tình, con không lo ra trong thánh lễ!”, Bé Kim Cương-Lớp Chiên Con kề tai: “Cô nói ông cố mai mốt mình đi nữa nhe!”..
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-phan-my-tho/hanh-huong-nam-thanh-dip-cuoi-nam-42485.html
TIN GIÁO HỘI VIỆT NAM
1. Ba đạo sĩ là ai?
Không giống như các mục đồng Do Thái đến chào đón Chúa Giêsu Hài Đồng, Ba đạo sĩ là những người ngoại giáo, đến từ những vùng đất khác. Sự hiện diện của họ tượng trưng cho tính cách phổ quát của ơn cứu độ do Đức Kitô mang đến, mà thông điệp của Ngài là quy tụ tất cả các dân tộc trên Trái đất lại.
Cuộc viếng thăm của các đạo sĩ trong Kinh Thánh
Trình thuật về sự Hiển Linh được tìm thấy trong chương thứ hai của Tin Mừng Matthêô (1-12). Sau khi biết tin Chúa Giêsu hạ sinh, các đạo sĩ từ phương Đông đã đến Giêrusalem, theo một ngôi sao dẫn đường. Ở đó, họ gặp vua Hêrốt và hỏi vị vua của dân Do Thái mới sinh ở đâu. Hêrốt bối rối, triệu tập các kinh sư và yêu cầu họ tìm kiếm trong các bản văn cổ xưa để tìm ra dấu hiệu nói về nơi sinh hạ của trẻ sơ sinh nổi tiếng này. Sau đó, các kinh sư tìm thấy lời tiên tri nói đến thành Bêlem, ở Giuđêa. Hêrốt quay lại gặp các đạo sĩ và yêu cầu họ đi xác định vị trí của con trẻ và sau đó quay lại Giêrusalem để ông có thể tỏ bày lòng tôn kính với trẻ mới sinh này.
Các đạo sĩ lên đường và đi theo ngôi sao dẫn đường ở phía trước. Cuối cùng khi ngôi sao dừng lại phía trên nơi Hài nhi Giêsu ở, họ “vui mừng khôn tả”. Họ thấy căn nhà, bước vào và phát hiện ra Đức Maria và con trẻ. Sau đó, họ phủ phục và dâng Ngài vàng, nhũ hương và một dược. Sau đó, các đạo sĩ được cảnh báo trong giấc mơ là đừng quay lại gặp Hêrốt. Do đó, họ trở về nhà bằng con đường khác.
Tức giận, Hêrốt ra lệnh cho binh lính giết tất cả các bé trai dưới hai tuổi ở Bêlem (vụ thảm sát các Thánh Anh Hài). Được báo mộng, Giuse cùng gia đình trốn sang Ai Cập.
Ý nghĩa của hiển linh
Ba đạo sĩ là ai?
Tin Mừng Matthêô (2, 1-12) là văn bản Kinh thánh duy nhất đề cập đến việc Ba đạo sĩ đến Bêlem, mười hai ngày sau khi Đức Kitô giáng sinh. Văn bản không đề cập đến tên, số lượng cũng như xuất xứ của họ. Truyền thống qua nhiều thế kỷ đã thêm vào những chi tiết như chúng ta biết hiện nay.
Các đạo sĩ từ phương Đông
Các “Đạo sĩ” (mages) xuất phát từ magi trong tiếng Hy Lạp (số nhiều của magos). Thuật ngữ này chỉ các tư tế của Babylon và Ba Tư cổ đại, hai vương quốc nằm ở phía Đông của Đất Thánh. Vào thời điểm đó, các đạo sĩ là những nhà thông thái hay hiền triết có khả năng đọc được bầu trời. Họ là những nhà chiêm tinh, công việc của họ là đọc dấu hiệu của một vương triều mới qua các vì sao.
Không giống như các mục đồng Do Thái đến chào đón Chúa Giêsu Hài Đồng, Ba đạo sĩ là những người ngoại giáo, đến từ những vùng đất khác. Sự hiện diện của họ tượng trưng cho tính cách phổ quát của ơn cứu độ do Đức Kitô mang đến, mà thông điệp của Ngài là quy tụ tất cả các dân tộc trên Trái đất lại.
Tên gọi của các đạo sĩ?
Matthêô không nêu tên các đạo sĩ cũng không nói có bao nhiêu người. Theo số lượng lễ vật được dâng cho Hài nhi Giêsu (vàng, nhũ hương và một dược), nhà thần học Origen ở thế kỷ III, đã cho con số là ba vị. Mặc dù truyền thống chắc chắn đã đặt cho họ một cái tên từ lâu, song trong một bản thảo có niên đại từ thế kỷ thứ VII, Excerpta latina barbari, chúng ta mới tìm thấy dấu vết về những tên gọi được đặt cho ba đạo sĩ là: Gaspard, Balthazar và Melchior.
Nếu Matthêô không nói chính xác đến nguồn gốc của họ, thì truyền thống đã gán cho các đạo sĩ nguồn gốc chính xác hơn, nhờ vào những khám phá địa lý vào thời ấy. Thế nên, ngay từ đầu thời Trung cổ, người ta cho rằng Gaspard đến từ Châu Á, Balthazar đến từ Châu Phi và Melchior đến từ Châu Âu.
Đôi khi người ta còn nói ba đạo sĩ còn tượng trưng cho ba thời kỳ của cuộc đời: Tuổi trẻ, tuổi trung niên và tuổi già.
Tại sao các đạo sĩ cũng được gọi là vua?
Một số Giáo phụ Giáo hội (Tertullianô, Cyprianô thành Carthage, Ambrôsiô thành Milan, v.v.) đã gán tước hiệu “vua” cho các đạo sĩ. Về điều này, họ dựa vào một đoạn sách ngôn sứ Isaia (Is 60, 9): “Phải, các hải đảo đợi chờ Ta: Có đoàn tàu Tácsít dẫn đầu, chở con cái ngươi từ phương xa tới, mang theo vàng và bạc, để tôn vinh danh Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, để tôn vinh Đức Thánh của Israel, vì Người đã làm cho ngươi được vinh hiển”, và Thánh vịnh 72, 10-11: “Từ Tácsít và hải đảo xa xăm, hàng vương giả sẽ về triều cống. Cả những vua Ả Rập, Xơva, cũng đều tới tiến dâng lễ vật. Mọi quân vương phủ phục trước bệ rồng, muôn dân nước thảy đều phụng sự”.
Các đạo sĩ, đã trở thành các Vua, nên được củng cố thêm uy tín và khả năng đọc các dấu hiệu trên trời khi họ thông báo về sự xuất hiện của một triều đại mới. Vương quyền được gán cho họ cũng nhấn mạnh rằng ngay cả những người quyền lực nhất - không giống như vua Hêrốt cứ muốn giữ cho bằng được quyền lực của mình – cũng phải phủ phục trước Đức Kitô.
Ba đạo sĩ mang đến lễ vật gì?
Theo Matthêô, ba đạo sĩ dâng ba lễ vật: Vàng, nhũ hương và một dược. Những lễ vật này có ý nghĩa tượng trưng. Theo cuốn Légende dorée, khoảng từ 1261 đến 1266, của nhà chép sử biên niên và là tổng giám mục người Ý Jacques de Voragine, những lễ vật có ý nghĩa biểu tượng mạnh mẽ.
Theo tác giả, ba lễ vật ám chỉ ba dấu hiệu của Đức Giêsu Kitô. Vàng biểu trưng cho vương quyền Đức Giêsu (xét cho cùng, ba đạo sĩ đã lên đường tìm kiếm “vua dân Do Thái” mới hạ sinh). Nhũ hương được sử dụng trong các nghi lễ tôn giáo; do đó tác giả nhấn mạnh đến thần tính của Đức Kitô. Một dược, được sử dụng như một phương pháp ướp xác, gợi lại nhân tính của Đấng Cứu Thế đã nhập thể (được sinh ra và cuối cùng sẽ chết).
Từ cuối thế kỷ IV, trình thuật về các đạo sĩ đến tôn thờ Đức Giêsu Kitô đã được đọc trên khắp thế giới. Lễ Giáng Sinh và Lễ Hiển Linh, được chính thức thiết lập vào thời đại này, tượng trưng cho những phương tiện được nghi thức hóa để giúp các tín hữu hiểu (và sống) mầu nhiệm Nhập Thể. Rất có thể biểu tượng liên quan đến ba lễ vật này đã phù hợp với ý của Công đồng Nicea, được triệu tập vào năm 325, đã cố gắng xác định thần học về Chúa Ba Ngôi vốn có trong Đức Giêsu Kitô.
Đi theo ánh sao: Một truyền thống ngoại giáo và Do Thái
Trình thuật Hiển Linh và chuyến viếng thăm của Ba đạo sĩ tới Bêlem lấy một số chủ đề văn học ngoại giáo và Do Thái.
Theo nhà nhân chủng học Jean Lambert, hai chương đầu Tin Mừng Matthêô lấy cấu trúc văn học của truyền thống Cận Đông thời bấy giờ thông báo về sự ra đời của một hoàng tử mới (như trường hợp của Cyrus, ở Ba Tư). Theo truyền thống Ba Tư cổ đại, ngôi sao là dấu hiệu cho thấy một nhân vật đã được chỉ định làm người kế vị ngôi vương hiện tại. Các đạo sĩ từ phương Đông, đi theo ngôi sao trên trời dẫn họ đến máng cỏ. Theo nhà nghiên cứu, việc họ phủ phục trước Hài nhi Giêsu tượng trưng cho cử chỉ chính trị thể hiện lòng trung thành với quyền lực mới mà họ nhận ra nơi vị vua mới của người Do Thái. Đây có thể là lý do tại sao, trong số những điều khác, các đạo sĩ dâng vàng làm lễ vật cho Đức Giêsu như một thuộc tính của hoàng gia.
Đối với nhà thần học Joseph F. Kelly, Matthêô, người cũng kể lại sự ra đời của Đức Giêsu, đã liên hệ với lời tiên tri của một đạo sĩ ngoại giáo khác trong Cựu Ước là Balaam. Ông tiên đoán rằng “một vì sao xuất hiện từ Giacóp, một vương trượng trỗi dậy từ Israel đập vào màng tang Môáp, đánh vỡ sọ tất cả con cái Sết” (Ds 24, 17). Giacóp thật sự có một tên gọi khác: Israel. Theo Matthêô, Đức Giêsu thuộc dòng dõi vua Đavít, nên câu chuyện về Ba đạo sĩ cho thấy những lời tiên tri trong Cựu Ước đã thành hiện thực và được thế giới ngoại giáo công nhận, và họ đã cúi đầu trước Đấng Messia mới.
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-viet-nam/ba-dao-si-la-ai-42336.html
2. Ân xá Năm Thánh, cơn mưa lòng thương xót cho mọi người
Đức cha Antonio Staglianò, chủ tịch Hàn lâm viện Thần học Giáo hoàng, nói về nguồn gốc của ân xá, trọng tâm của tiến trình Năm Thánh.
«Non solum plenam, et largiorem immo plenissimam…» (“không chỉ là ân xá trọn vẹn và sâu rộng hơn, mà còn là đại xá… mọi tội lỗi của họ“) : đây là cách mà ân xá bách chu niên được định nghĩa, bằng tiếng Latinh, trong sắc chỉ Antiquorum habet fide relatio, của Năm Thánh năm 1300, Năm Thánh đầu tiên của Giáo hội Công giáo, được Đức Giáo hoàng Boniface VIII công bố.
Ba tính từ tăng dần – trọn vẹn, sâu rộng hơn và rất trọn vẹn – cố ý nhấn mạnh tính chất đặc biệt của nó so với các ân xá trước đó, liên quan đến các cuộc Thập tự chinh, hoặc với Năm Thánh của Aquila, được thiết lập trong sắc chỉ năm 1294 bởi vị Giáo hoàng tiền nhiệm, là Đức Célestin V.
Đức Boniface VIII đã nhờ cậy đến các Tông đồ Phêrô và Phaolô và dưới sự bảo vệ của hai vị thánh, ngài tuyên bố quyền ban ơn toàn xá, dựa trên những lời của Tin Mừng, và đặc biệt là đoạn từ Tin Mừng Matthêu 16, 19: “Dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy.”
Để nhận được ân xá, người Rôma phải viếng các vương cung thánh đường 30 lần trong 30 ngày liên tiếp, người nước ngoài 15 lần trong 15 ngày trong khi “thực sự sám hối và xưng tội”. Đức Boniface đã thiết lập nhịp biểu tượng là 100 năm, nhưng Năm Thánh thứ hai đã được công bố 50 năm sau dưới triều đại của Đức Giáo hoàng Clément VI, và lý do chính xác là để mang đến cho tất cả các thế hệ khả năng sống Năm Thánh – và do đó là một ân xá – trong cuộc đời của họ.
Trở lại trạng thái nguyên thủy và thuần khiết của Bí tích Rửa tội
Trước micro của Andrea Tornielli, giám đốc biên tập truyền thông Vatican, Đức cha Antonio Staglianò, chủ tịch Hàn lâm viện Thần học Giáo hoàng, đề cập đến định nghĩa của từ “ân xá”. Ý nghĩa thiêng liêng của ân xá “được liên kết với lòng thương xót của Thiên Chúa, tuôn đổ dồi dào trên đời sống con người. Và vì lòng thương xót của Thiên Chúa chính là chính Thiên Chúa, nên lòng thương xót này đi vào đời sống con người và thay đổi nó.”
Đức cha Staglianò nhấn mạnh thêm: “Ân xá là một sự thương xót, như một cơn mưa dồi dào, rơi xuống cuộc sống của con người và biến đổi họ, hướng họ tới sự tốt lành, tình yêu, tình huynh đệ, nghĩa là hướng tới việc phục hồi chính mình và nhân tính vốn đã bị hư mất, một cách nào đó, trong tội lỗi.”
Đức Cha nói tiếp: “Với tội lỗi, chúng ta phá hủy hình ảnh, sự giống như Thiên Chúa, Đấng đã tạo dựng nên chúng ta. Vì thế chúng ta hủy hoại vẻ đẹp của nhân tính mà Ngài hằng mơ ước khi nhìn vào chúng ta. Đó là lý do tại sao ân xá trước hết là một hồng ân của Giáo hội, bởi vì, như chúng ta đọc trong các Tin Mừng, Giáo hội có quyền cầm buộc và tháo cởi, và do đó, có quyền ban lòng thương xót này của Thiên Chúa vốn đã đạt được cho chúng ta nhờ Chúa Giêsu Kitô và các thánh trên trời”.
Những ân xá “có lợi”
Ngày nay kiểu nói này ít được sử dụng hơn, nhưng thời xưa người ta đã nói rằng các ân xá là “có lợi“. Theo giáo lý của Giáo hội, khả năng cho phép hủy bỏ hình phạt do tội lỗi của chúng ta gây ra này xảy ra chính bởi vì có những thiện ích thiêng liêng lưu chuyển trong sự hiệp thông của các thánh vốn kết hợp chúng ta với các ngài.
Ý tưởng về thị trường vẫn còn đó, nhưng liệu có thể hiểu nó theo nghĩa tích cực? Theo Đức cha Staglianò: “Chúng ta đang sống trong một xã hội tập trung vào thị trường, vào kinh doanh, một số người thậm chí còn nói rằng tiền đã trở thành biểu tượng tạo ra mọi giá trị, đến nỗi không có gì được làm nếu không vì tiền, và như người ta cũng nói trong ngôn ngữ phổ thông: “Không có tiền, người tôi thậm chí không hát lễ””.
Mối quan hệ giữa kinh nghiệm thiêng liêng, thậm chí cả bí tích, và tiền bạc là mối quan hệ luôn tồn tại trong Giáo hội, Đức Cha chủ tịch Hàn lầm viện Thần học Giáo hoàng nhắc nhớ. Quả thực vào thời xa xưa, khi người ta xưng tội, sẽ có những bảng biểu và thậm chí có thể có những bảng giá dành cho những hình phạt; một điều kỳ lạ đã được tạo ra và rõ ràng là không có tác dụng tốt, nhưng ngày nay chúng ta có thể hiểu điều này dưới một ánh sáng mới: ý tưởng cho rằng người giàu đã xưng tội và sau đó, để được xá tội, phải thực hiện một số hành vi thanh tẩy và hy sinh, đôi khi rất tốn kém, trả tiền cho người nghèo để người nghèo thực hiện chúng cho họ, và tục lệ này ở một mức độ nhất định đã được cho phép.
Đức cha Staglianò nói tiếp: “Có một phần của chủ nghĩa trọng thương trong khía cạnh này, nhưng nó đi theo hướng liên đới, nghĩa là nó cũng cho phép người nghèo được sống”. “Khi đề cập đến tục lệ này trong Kitô giáo nguyên thủy, Luther chắc chắn đã đúng khi cho rằng trong một số trường hợp, chủ nghĩa trọng thương đã bị phóng đại một cách khách quan. Tuy nhiên, có thể có một ý tưởng về một thị trường chia sẻ, liên đới, cùng tham gia vào những thiện ích thiêng liêng của những người có nhiều hơn và có thể cho đi nhiều hơn”.
Niềm tin không phải là ma thuật
Đức cha Antonio Staglianò cảnh báo về nguy cơ hiểu sai về ân xá: “Để hiểu sâu xa vấn đề tâm linh và đức tin, chúng ta phải nghĩ rằng để làm những cử chỉ gần như phép mầu thôi thì chưa đủ, chẳng hạn như việc đi qua Cửa Thánh hay một cử chỉ bác ái, như thể đó là những yếu tố máy móc của nhân quả. Đức tin không phải là ma thuật, nó mang tính bí tích, nghĩa là nó chạm vào thân xác tôi bởi vì nó chạm vào thân thể Chúa Kitô hiện diện trong bí tích, và bắt nguồn từ một sự hoán cải sâu sắc và nội tâm”.
Vì thế, cần phải quyết định sâu xa trong tâm hồn mình để thực hiện cuộc hành trình thánh thiện hướng tới tình yêu của Thiên Chúa, Đấng tha thứ và cứu chuộc. Việc nhận được các ân xá là một châm ngôn có thể được duy trì miễn là nó bắt nguồn từ niềm xác tín sâu xa về mong muốn thay đổi cuộc sống của một người. “Và làm sao có thể thay đổi cuộc sống của mình nếu tôi không muốn tha thứ cho người khác, nếu tôi vẫn khép kín nơi chính mình, thậm chí đòi quyền trả thù?”
Lòng thương xót của Thiên Chúa đã và đang luôn hiện hữu dành cho mọi người
Đức Cha chủ tịch Hàn lâm viện Thần học Giáo hoàng cũng nhắc lại rằng “hình ảnh mưa rơi xuống dồi dào trong xô, một hình ảnh của Tin Mừng, vì Chúa Giêsu nói rằng Thiên Chúa cho mưa xuống trên người công chính và người bất lương, có thể khiến chúng ta thay đổi viễn cảnh về vấn đề nhận được các ân xá nhờ lòng thương xót của Thiên Chúa”.
Ngài nói tiếp: “Chúng ta quen nghĩ về lòng thương xót của Thiên Chúa mà chúng ta nhận được bằng cách hiểu nó từ khía cạnh con người: ‘Tôi là một tín hữu, tôi đã được rửa tội, tôi phạm tội và do đó tôi cần được tha thứ”. Nhưng “điều đó không có tác dụng như vậy đối với tất cả mọi người, điều đó chỉ có tác dụng nếu chúng ta đặt mình vào viễn cảnh rằng dòng nước dồi dào của lòng thương xót của Thiên Chúa sẽ đổ xuống trên mọi người, không chỉ trên các tín hữu và các Kitô hữu, mà còn trên tất cả mọi người”.
Nguồn nước dồi dào của lòng thương xót của Thiên Chúa này thực sự đã có trước Abraham, trước Ađam, trước khi thế giới tồn tại. Tại Công đồng Nixêa, tất cả những ai nói rằng Chúa Giêsu “không có mặt ở đó khi Người không có mặt ở đó” đều bị rút phép thông công. “Chúa Giêsu thành Nadarét, Đấng là lòng thương xót của Thiên Chúa tuôn đổ trên nhân loại, đã có mặt ở đó “ngay cả” khi Người không có mặt ở đó, bởi vì Chúa Giêsu hiện hữu trước khi thế giới tồn tại.”
Cuộc cách mạng tha thứ
Cuối cùng, Đức Cha giải thích: “Sự tha thứ có một trách nhiệm thực sự mang tính cách mạng”. “Do đó, tôi tin rằng Năm Thánh sắp tới, liên quan đến các mặt trận chiến tranh trên thế giới, đặc biệt là Ucraina, cũng như đất nước của Chúa Giêsu, Palestine, có thể có một ý nghĩa chính trị mang tính cách mạng to lớn, và nói chính trị mang tính cách mạng không có nghĩa là ít thần bí hơn, nói xã hội không có nghĩa là kém thiêng liêng hơn, vì Ngôi Lời đã trở nên xác phàm, trời đã được đảo ngược, do đó toàn bộ tâm linh của thế giới cũng trở thành sự biến đổi của lịch sử, của xã hội, của nền văn minh.”
Đối với Đức cha Antonio Staglianò, “nếu Thiên Chúa tha thứ, đó là với một trách nhiệm mang tính cách mạng. Chỉ có một con đường thôi.” Vì thế, hòa bình, ở Ucraina và những nơi khác, chỉ có thể trở lại bằng cách vượt quá nền ngoại giao đơn giản: “Hòa bình thực sự, như Đức Thánh Cha Phanxicô nhấn mạnh, sẽ chỉ xảy ra nếu những dân tộc này tha thứ cho nhau”.
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-viet-nam/an-xa-nam-thanh-con-mua-long-thuong-xot-cho-moi-nguoi-42351.html
3. Cáo phó Đức cha Giuse Trần Xuân Tiếu
Tòa Giám mục Long Xuyên
WGPLX (07/01/2025) - Trong niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh, Tòa Giám mục Long Xuyên kính báo: Đức Giám mục Giuse Trần Xuân Tiếu vừa hoàn tất cuộc đời dương thế.
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-viet-nam/cao-pho-duc-cha-giuse-tran-xuan-tieu-42360.html
4. Sắc lệnh về ban ân xá trong Năm Thánh thường lệ 2025 được công bố bởi Đức Thánh Cha Phanxicô
Vatican News
Ngày 13/5, Toà Ân giải Tối cao đã công bố Sắc lệnh liên quan đến cách thức, thực hành và các nơi thánh tại Roma và trên thế giới để lãnh nhận Ân xá trong Năm Thánh thường lệ 2025. Sau đây là toàn văn Sắc lệnh bản dịch Việt ngữ của Vatican News tiếng Việt được hiệu đính một phần bởi Ủy ban Phụng tự trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam.
TÒA ÂN GIẢI TỐI CAO
_______
SẮC LỆNH VỀ BAN ÂN XÁ
TRONG NĂM THÁNH THƯỜNG LỆ 2025
ĐƯỢC CÔNG BỐ BỞI ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ
“Giờ đã đến lúc cho một Năm Thánh mới, trong đó việc mở Cửa Thánh một lần nữa mang lại kinh nghiệm sống động về tình yêu của Thiên Chúa” (Spes non confundit, 6). Trong sắc chỉ công bố Năm Thánh thường lệ năm 2025, vào thời điểm lịch sử hiện tại, trong đó “quên đi những bi kịch trong quá khứ, nhân loại phải chịu một thử thách mới và khó khăn khi chứng kiến nhiều dân tộc bị áp bức bởi sự tàn bạo của bạo lực” (Spes non confundit, 8), Đức Thánh Cha mời gọi mọi Kitô hữu trở thành những người hành hương của niềm hy vọng. Đây là một nhân đức cần được tái khám phá trong các dấu chỉ của thời đại, bao hàm “sự khao khát của tâm hồn con người, cần đến sự hiện diện cứu độ của Thiên Chúa. Những dấu chỉ ấy xin được biến đổi thành dấu chỉ của niềm hy vọng” (Spes non confundit, 7), vốn trước hết phải được rút ra từ ân sủng của Thiên Chúa và lòng thương xót trọn vẹn của Người. Ngay trong sắc chỉ công bố Năm Thánh ngoại thường Lòng Thương Xót vào năm 2015, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhấn mạnh rằng Ân xá có “một tầm quan trọng đặc biệt” trong bối cảnh đó (Misericordiae vultus, 22), vì lòng thương xót của Thiên Chúa “trở thành ân xá của Chúa Cha, Đấng, qua Hiền Thê của Chúa Kitô, đến với tội nhân được tha thứ và giải thoát họ khỏi mọi tàn dư của hậu quả tội lỗi” (ibid.). Tương tự như vậy, ngày nay Đức Thánh Cha tuyên bố rằng hồng ân của Ân xá “giúp chúng ta khám phá ra lòng thương xót của Thiên Chúa vô hạn như thế nào. Không phải ngẫu nhiên mà vào thời cổ đại, thuật ngữ “lòng thương xót” có thể thay thế bằng thuật ngữ “ân xá”, chính bởi vì nó có nghĩa là bày tỏ sự tha thứ trọn vẹn của Thiên Chúa, vốn là điều không có ranh giới” (Spes non confundit, 23). Vì thế, Ân xá là một ân sủng Năm Thánh.
Do đó, cũng nhân dịp Năm Thánh thường lệ năm 2025, theo ý muốn của Đức Thánh Cha, “Tòa án Lòng thương xót” này, nơi chịu trách nhiệm giải quyết mọi vấn đề liên quan đến việc ban và sử dụng Ân xá, có ý khuyến khích các linh hồn của các tín hữu mong muốn và nuôi dưỡng lòng đạo đức mong muốn nhận Ân xá như một ơn sủng, cụ thể và đặc thù của mỗi Năm Thánh và thiết lập các quy định sau đây, giúp các tín hữu có thể theo “các quy định để có thể nhận được và thực hiện hiệu quả việc thực hành Ân xá Năm Thánh” (Spes non confundit, 23).
Trong Năm Thánh thường lệ năm 2025, mọi Ân xá khác được ban vẫn có hiệu lực. Tất cả các tín hữu thực sự sám hối, loại trừ mọi ham muốn tội lỗi (xem Enchiridion Indulgentiarum, IV ed., Norm. 20, § 1) và được thúc đẩy bởi tinh thần bác ái và, trong Năm Thánh, đã được thanh tẩy nhờ bí tích Sám hối và được Rước lễ, cầu nguyện theo ý của Đức Thánh Cha, từ kho tàng của Giáo hội, họ sẽ có thể nhận được ơn Toàn xá, sự giải thoát và tha thứ tội lỗi của mình; những điều này có thể được áp dụng cho các linh hồn trong Luyện ngục dưới hình thức cầu bầu:
I.- Trong các cuộc hành hương
Các tín hữu, những người hành hương của niềm hy vọng, sẽ có thể nhận được Ân xá Năm Thánh do Đức Thánh Cha ban nếu họ thực hiện một cuộc hành hương đạo đức:
đến bất kỳ địa điểm thánh nào của Năm Thánh: ở đó bằng cách sốt sắng tham dự Thánh lễ (bất cứ khi nào các quy tắc phụng vụ cho phép, trên hết là Thánh lễ dành riêng cho Năm Thánh hoặc Thánh lễ ngoại lịch: cho sự hòa giải, cho sự tha tội, cho việc cầu xin nhân đức bác ái và sự hòa hợp giữa các dân tộc); trong một Thánh lễ nghi thức để ban các bí tích khai tâm Kitô giáo hoặc Xức dầu bệnh nhân; trong việc cử hành Lời Chúa; trong Giờ Kinh Phụng vụ (kinh sách, kinh sáng, kinh chiều); trong buổi ngắm Đàng Thánh Giá; trong Kinh Mân Côi; trong buổi thánh ca Akathistos; trong việc cử hành sám hối, kết thúc bằng việc xưng tội cá nhân của hối nhân, như được thiết lập trong nghi thức Sám hối (mẫu II);
tại Rôma: đến ít nhất một trong bốn Vương cung Thánh đường lớn của Giáo hoàng: Thánh Phêrô ở Vatican, Đấng Cứu Thế Cực Thánh ở Laterano, Đức Bà Cả, Thánh Phaolô Ngoại Thành;
tại Thánh Địa: ít nhất một trong ba vương cung thánh đường: Mộ Thánh ở Giêrusalem, Giáng Sinh ở Bêlem, Truyền Tin ở Nazareth;
tại các địa điểm khác của giáo hội: đến nhà thờ chính tòa hoặc các nhà thờ khác và những nơi linh thánh do Bản quyền địa phương chỉ định. Các Giám mục sẽ tính đến nhu cầu của các tín hữu cũng như cơ hội để giữ nguyên vẹn ý nghĩa của cuộc hành hương với tất cả sức mạnh biểu tượng của nó, có khả năng bày tỏ nhu cầu tha thiết của việc hoán cải và hòa giải;
II.- Trong các cuộc viếng thăm các địa điểm Năm Thánh
Tương tự như vậy, các tín hữu sẽ có thể nhận được Ân xá nếu, cá nhân hoặc theo nhóm, sốt sắng đến viếng bất kỳ địa điểm Năm Thánh nào và ở đó, trong một khoảng thời gian thích hợp, thực hành việc tôn thờ và suy niệm Thánh Thể, kết thúc bằng Kinh Lạy Cha, Tuyên xưng Đức Tin dưới bất kỳ hình thức hợp pháp nào và những lời cầu khẩn lên Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, để trong Năm Thánh này mọi người “sẽ có thể cảm nghiệm được sự gần gũi trìu mến nhất của những người mẹ, những người không bao giờ bỏ rơi con cái của mình” (Spes non confundit, 24).
Vào dịp đặc biệt của Năm Thánh, ngoài những địa điểm hành hương nổi bật nói trên, những nơi thánh khác cũng sẽ có thể được viếng thăm với những điều kiện tương tự:
tại Rôma: Vương cung Thánh đường Santa Croce ở Gerusalemme, Vương cung Thánh đường San Lorenzo al Verano, Vương cung Thánh đường San Sebastiano (được gọi là viếng thăm đạo đức “đến bảy nhà thờ”, rất được Thánh Filippo Neri yêu quý), Đền Thánh Divino Amore, Nhà thờ Santo Spirito ở Sassia, Nhà thờ San Paolo alle Tre Fontane, nơi Thánh Tông đồ Tử đạo, Các hang toại đạo Kitô giáo; các nhà thờ trên các con đường Năm Thánh dành riêng cho Iter Europaeum và các nhà thờ kính các Nữ Bổn mạng của Châu Âu và các Tiến sĩ của Giáo hội (Nhà thờ Santa Maria sopra Minerva, Santa Brigida ở Campo de’ Fiori, Nhà thờ Santa Maria della Vittoria, Nhà thờ Trinità dei Monti, Vương cung Thánh đường Santa Cecilia ở Trastevere, Vương cung Thánh đường Sant’Agostino ở Campo Marzio);
tại những nơi khác trên thế giới: hai tiểu Vương cung Thánh đường của Giáo hoàng ở Assisi, San Francesco và Santa Maria degli Angeli; các Vương cung Thánh đường Giáo hoàng Madonna di Loreto, Madonna di Pompeii, Sant’Antonio di Padova; bất kỳ tiểu vương cung thánh đường, nhà thờ chính tòa, nhà thờ đồng chính tòa, đền thánh Đức Mẹ cũng như, vì lợi ích của các tín hữu, bất kỳ đền thánh hoặc nhà thờ kinh sĩ nổi bật nào được chỉ định bởi mỗi giám mục giáo phận hoặc giáo phận đông phương, cũng như các đền thánh quốc gia hoặc quốc tế, “các nơi thánh chào đón và những không gian đặc hữu để tạo nên hy vọng” (Spes non confundit, 24), được các Hội đồng Giám mục chỉ định.
Những tín hữu thực sự sám hối, nhưng không thể tham gia vào các buổi cử hành long trọng, các cuộc hành hương và các cuộc viếng thăm đạo đức vì những lý do nghiêm trọng (như trước hết là các đan sĩ ẩn tu, người bệnh, người bị giam giữ, cũng như những người phục vụ liên tục cho người bệnh trong các bệnh viện hoặc những nơi chăm sóc khác), sẽ nhận được Ân xá Năm Thánh, với cùng những điều kiện nếu, hiệp nhất thiêng liêng với các tín hữu hiện diện, đặc biệt trong những thời điểm những lời của Đức Giáo hoàng hoặc các Giám mục giáo phận được truyền tải qua các phương tiện truyền thông; tại nhà của họ hoặc ở bất cứ nơi nào mà họ buộc phải hiện diện (ví dụ: trong nhà nguyện của đan viện, bệnh viện, viện dưỡng lão, nhà tù…), họ sẽ đọc Kinh Lạy Cha, Tuyên xưng Đức Tin dưới bất kỳ công thức hợp pháp nào và những lời cầu nguyện khác phù hợp với mục đích của Năm Thánh, dâng lên những đau khổ hoặc khó khăn trong cuộc sống của họ;
III.-Trong cử hành lòng thương xót và sám hối
Hơn nữa, các tín hữu sẽ có thể nhận được Ân xá Năm Thánh nếu, với tâm hồn đạo đức, họ tham gia vào các hoạt động truyền giáo bình dân, linh thao hoặc các cuộc gặp gỡ huấn luyện về các tài liệu của Công đồng Vatican II và Sách Giáo lý Giáo hội Công giáo, được tổ chức tại một nhà thờ hoặc một nơi nào khác thích hợp, theo ý của Đức Thánh Cha.
Bất chấp quy định về việc chỉ được lãnh một ơn toàn xá mỗi ngày (xem Enchiridion Indulgentiarum, IV ed., Norm. 18, § 1), các tín hữu thực thi hành động bác ái vì lợi ích các linh hồn trong Luyện ngục, nếu lãnh nhận bí tích Thánh Thể lần thứ hai trong cùng một ngày một cách hợp pháp, thì họ sẽ có thể lãnh ơn Toàn xá hai lần trong cùng một ngày, chỉ dành cho những người đã qua đời (điều này được hiểu là trong bối cảnh cử hành Thánh Thể; xem điều 917 và Ủy ban Giáo hoàng giải thích có thẩm quyền về Giáo luật, Trả lời cho sự nghi ngờ, 1, 11 tháng 7 năm 1984). Qua việc trao hiến kép này, tín hữu thực hiện một hành động đức ái siêu nhiên đáng ca ngợi, vì mối liên kết qua đó các tín hữu còn lữ hành trên trần thế được kết hợp với Thân Mình mầu nhiệm Chúa Kitô, cùng với những người đã hoàn tất cuộc hành trình của mình, nhờ thực tế là “ân xá Năm Thánh, bởi sức mạnh của lời cầu nguyện, được dành một cách đặc biệt cho những người đi trước chúng ta, để họ có thể nhận được lòng thương xót trọn vẹn” (Spes non confundit, 22).
Nhưng, một cách đặc biệt hơn, chính “trong Năm Thánh, chúng ta sẽ được mời gọi trở thành những dấu chỉ hy vọng hữu hình cho nhiều anh chị em đang sống trong điều kiện khó khăn” (Spes non confundit, 10): Do đó, Ân xá cũng được đi kèm với các công việc của lòng thương xót và sám hối, qua đó thực hiện việc hoán cải. Các tín hữu, theo gương và mệnh lệnh của Chúa Kitô, được khuyến khích thực hiện các công việc bác ái hoặc lòng thương xót thường xuyên hơn, chính yếu là để phục vụ những anh chị em đang bị đè nặng bởi nhiều nhu cầu khác nhau. Một cách cụ thể hơn, họ tái khám phá “các việc của lòng thương xót thể xác: cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc, tiếp đón người lạ, giúp đỡ người bệnh, thăm tù nhân, chôn cất kẻ chết” (Misericordiae vultus, 15) và cũng tái khám phá “các việc của lòng thương xót thiêng liêng: khuyên nhủ kẻ ngờ vực, dạy dỗ kẻ mê muội, răn bảo kẻ có tội, an ủi kẻ âu lo, tha thứ kẻ xúc phạm, chịu đựng kẻ làm phiền, cầu nguyện với Thiên Chúa cho kẻ sống và kẻ chết” (ibid.).
Tương tự như vậy, các tín hữu sẽ có thể nhận được Ân xá nếu họ đến thăm vào một khoảng thời gian thích hợp những anh chị em đang gặp khó khăn hoặc túng thiếu (người bệnh, tù nhân, người già cô đơn, người khuyết tật...), như thể thực hiện một cuộc hành hương đến với Chúa Kitô hiện diện trong họ (xem Mt 25,34-36) và tuân theo các điều kiện thiêng liêng, bí tích và cầu nguyện thông thường. Chắc chắn, các tín hữu sẽ có thể lặp lại những chuyến viếng thăm này trong Năm Thánh, nhận được ơn toàn xá cho mỗi cuộc viếng thăm, thậm chí hàng ngày.
Ơn Toàn xá Năm Thánh cũng có thể nhận được thông qua các sáng kiến thực hiện một cách cụ thể và quảng đại tinh thần sám hối như tinh thần của Năm Thánh, đặc biệt là tái khám phá giá trị sám hối của ngày Thứ Sáu: tiết độ, trong tinh thần sám hối, ít nhất là trong suốt một ngày, khỏi những phân tâm vô ích (thực cũng như ảo, chẳng hạn do phương tiện truyền thông và mạng xã hội gây ra) và khỏi sự tiêu dùng dư thừa (ví dụ bằng cách ăn chay hoặc kiêng thịt theo các quy tắc chung của Giáo hội và các quy định của các Giám mục), cũng như bằng cách quyên góp một khoản tiền tương ứng cho người nghèo; hỗ trợ các công việc có tính chất tôn giáo hoặc xã hội, đặc biệt là ủng hộ việc bào chữa và bảo vệ sự sống trong mọi giai đoạn và chất lượng cuộc sống, của trẻ em bị bỏ rơi, thanh thiếu niên gặp khó khăn, người già neo đơn hoặc túng thiếu, người di cư từ nhiều quốc gia khác nhau “những người rời bỏ vùng đất của mình để tìm kiếm một cuộc sống tốt đẹp hơn cho bản thân và gia đình của họ” (Spes non confundit, 13); dành một phần hợp lý thời gian rảnh của mình cho các hoạt động tình nguyện được cộng đồng quan tâm hoặc cho các hình thức dấn thân cá nhân tương tự khác.
Tất cả các Giám mục giáo phận hoặc giáo phận Đông phương và những người có thẩm quyền tương đương theo luật, vào ngày thích hợp nhất của thời gian Năm Thánh này, nhân dịp cử hành chính tại nhà thờ chính tòa và tại các nhà thờ Năm Thánh riêng lẻ, sẽ có thể ban Phép lành Giáo hoàng với ơn toàn xá kèm theo, mà tất cả các tín hữu sẽ nhận được Phép lành này theo những điều kiện thông thường. Để thuận tiện về mặt mục vụ việc lãnh nhận bí tích Hòa giải và nhận sự tha thứ của Thiên Chúa nhờ “năng quyền Chìa khóa”, các Đấng Bản quyền địa phương được mời gọi trao cho các kinh sĩ và linh mục, những người ngụ tại các Nhà thờ Chính tòa và Nhà thờ được chỉ định cho Năm Thánh, có thể lắng nghe xưng tội của các tín hữu, những năng quyền giới hạn ở toà trong, trong đó, đối với các tín hữu của các Giáo hội Đông phương, theo giáo luật số 728, § 2 của Bộ Giáo luật các Giáo hội Đông Phương, và trong trường hợp dành riêng, theo giáo luật số 727, ngoại trừ, như thấy rõ, các trường hợp được xem xét tại số 728, § 1; trong khi đối với các tín hữu của Giáo hội Latinh, các năng quyền được nói đến trong số 508, § 1 của Bộ Giáo luật.
Về vấn đề này, Tòa Ân giải này mời gọi tất cả các linh mục sẵn sàng quảng đại và cống hiến hết mình khả năng rộng rãi nhất để các tín hữu được hưởng từ các phương tiện cứu rỗi, qua việc dành và công bố các khoảng thời gian cho việc giải tội, với sự đồng ý của các linh mục giáo xứ hoặc giám quản của các nhà thờ lân cận, qua việc tạo thuận tiện cho việc tìm nơi xưng tội, qua việc lên kế hoạch cử hành sám hối một cách cố định và thường xuyên, đồng thời cũng qua sự sẵn sàng rộng rãi của các linh mục, những người đã đến tuổi giới hạn, không có vai trò mục vụ nhất định. Tùy theo khả năng, cũng nên nhớ, theo Tự sắc Misericordia Dei, cơ hội mục vụ của việc nghe xưng tội trong thời gian Thánh lễ đang được cử hành.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho nhiệm vụ của các cha giải tội, Tòa Ân Giải, theo lệnh của Đức Thánh Cha, quy định rằng các linh mục đồng hành hoặc tham gia các cuộc hành hương Năm Thánh bên ngoài Giáo phận của họ có thể sử dụng các năng quyền tương tự mà họ đã được ban trong Giáo phận của họ bởi Thẩm quyền hợp pháp. Kế đến, Tòa Ân Giải sẽ trao các năng quyền đặc biệt cho các cha giải tội của các vương cung thánh đường giáo hoàng ở Rôma, cho các cha giải tội kinh sĩ hoặc cho các cha giải tội giáo phận được thiết lập trong các địa hạt giáo hội riêng.
Các cha giải tội, sau khi đã yêu thương hướng dẫn các tín hữu về mức độ nghiêm trọng của các tội, vốn kèm một sự dành riêng hoặc một vạ, sẽ xác định, với lòng bác ái mục vụ, các hình thức đền tội thích hợp theo bí tích, chẳng hạn để dẫn họ đến sự sám hối lâu dài bao nhiêu có thể và, tùy theo tính chất sự việc mà mời họ sửa chữa những tai tiếng và thiệt hại.
Cuối cùng, Tòa Ân Giải nồng nhiệt mời gọi các Giám mục, với tư cách là những người giữ ba nhiệm vụ về giảng dạy, dẫn dắt và thánh hóa, quan tâm giải thích rõ ràng những điều khoản và nguyên tắc được đề xuất ở đây để thánh hóa các tín hữu, có tính đến hoàn cảnh, văn hóa địa phương và truyền thống. Một bài giáo lý phù hợp với đặc điểm văn hóa xã hội của mỗi dân tộc sẽ có thể giới thiệu Tin Mừng và toàn bộ sứ điệp Kitô giáo một cách hiệu quả, làm đâm rễ sâu hơn vào tâm hồn lòng khao khát hồng ân độc nhất này, nhờ trung gian của Giáo hội.
Sắc lệnh này có hiệu lực cho Năm Thánh thường lệ năm 2025, bất chấp những quy định trái ngược.
Ban hành tại Rôma, từ trụ sở của Tòa Ân Giải, ngày 13 tháng 5 năm 2024, Lễ Nhớ Đức Trinh Nữ Maria Fatima.
Đức Hồng y Angelo De Donatis
Chánh Toà Ân giải Tối cao
Đức cha Krzysztof Nykiel
Phó Toà Ân giải
Bản dịch Việt ngữ của Vatican News tiếng Việt.
Hiệu đính một phần của Ủy ban Phụng tự | HĐGMVN.
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/phung-vu/sac-lenh-ve-ban-an-xa-trong-nam-thanh-thuong-le-2025-duoc-cong-bo-boi-duc-thanh-cha-phanxico-42365.html
5. Te Deum là gì, ai phổ nhạc và được hát khi nào?
Theo truyền thống bài này được hát vào chiều tối ngày 31 tháng 12 để tạ ơn Chúa vì một năm đã qua, trong giờ Kinh chiều I lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa.
WGPQN (07/01/2025) - Te Deum là một trong những bài ca truyền thống của phụng vụ Kitô giáo, đã vang lên cách trang nghiêm và uy hùng trong các nhà thờ trên khắp thế giới hơn mười sáu thế kỷ qua. Bài ca cổ xưa này, mở đầu bằng câu “Te Deum laudamus” (Lạy Chúa, Chúng con ca ngợi Chúa), chứa đựng chính bản chất của lòng biết ơn và tôn sùng của người tín hữu. Theo truyền thống bài này được hát vào chiều tối ngày 31 tháng 12 để tạ ơn Chúa vì một năm đã qua, trong giờ Kinh chiều I lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa. Te Deum cũng được hát trong các dịp trọng đại khác như: khi một Giáo hoàng được bầu chọn, trước khi kết thúc mật nghị hoặc kết thúc một công đồng, trong các thánh lễ truyền chức linh mục, lễ khấn dòng và lễ cung hiến các nhà thờ mới, khi chiến tranh hoặc bệnh dịch kết thúc hoặc thậm chí dịp đám cưới…
Trong Phụng vụ các Giờ kinh, Te Deum được hát hoặc đọc vào cuối Giờ kinh Sách của các Chúa nhật và các ngày lễ trọng, thời gian thiêng liêng được đánh dấu bằng sự hiện diện của nó. Khả năng linh hoạt về mặt ngôn ngữ - bằng tiếng Latin và các ngôn ngữ địa phương - khiến nó trở thành cầu nối giữa truyền thống và hiện đại, giữa tính phổ quát và tính đặc thù của các giáo hội địa phương.
Tác giả của Te Deum?
Về tác quyền của bài thánh ca này vẫn còn tranh cãi. Tương truyền rằng Te Deum được Thánh Ambrôsiô và Thánh Augustinô cảm tác chung và được hát vào ngày rửa tội của thánh Augustinô tại Milan vào năm 386, do đó nó còn được gọi là "thánh ca Ambrôsiô".
Một truyền thống khác quy gán cho thánh Cipriano thành Carthage. Ngày nay các nhà nghiên cứu cho rằng bài thánh ca này được hoàn thành bởi Niceta, giám mục của Remesiana vào cuối thế kỷ thứ IV. Dù như thế nào đi nữa, bí ẩn xung quanh nguồn gốc của nó chỉ làm tăng thêm sức hấp dẫn cho bài ca này.
Ai đã phổ nhạc cho Te Deum?
Te Deum đã tạo nên nhiều cảm hứng cho các nhà soạn nhạc vĩ đại như Giovanni Pierluigi da Palestrina, de Victoria, Händel, Mendelssohn, Mozart, Haydn và Verdi.
Bài thánh ca này được sử dụng trong nhiều hoạt động khác nhau: khúc dạo đầu Te Deum H. 146 của Charpentier được dùng làm nhạc hiệu cho các buổi bắt đầu và kết thúc các chương trình truyền hình châu Âu và cũng được trình diễn vào phần cuối tất cả các buổi hòa nhạc của Nomadi. Te Deum cũng được dàn hợp xướng thể hiện ở cuối hồi thứ nhất trong vở opera Tosca của Giacomo Puccini.
Một vài đoạn của Te Deum được dùng làm nhạc nền cho bộ phim "Thằng gù Nhà thờ Đức Bà" của Disney, đặc biệt trong đoạn "Rifugio (Sanctuary!)", đi kèm cảnh Frollo chuẩn bị giết Esmeralda trên giá treo cổ và cảnh tấn công vào nhà thờ.
Cấu trúc và nội dung
Cấu trúc của bài thánh ca được phát triển như một bản giao hưởng thần học gồm ba phần:
- Từ đầu đến Paraclitum Spiritum, là lời ngợi khen long trọng hướng về Chúa Ba Ngôi. Bản văn này rất giống với Kinh nguyện Thánh Thể, bao gồm ba lần Thánh.
- Phần hai, Tu rex gloriæ đến sanguine redemisti, là lời ngợi khen Chúa Kitô và công trình cứu chuộc của Ngài.
- Kết thúc, từ Salvum fac, là một loạt các lời cầu xin và khẩn nguyện, các câu trích từ Thánh vịnh.
Te Deum thường được hát đối đáp: linh mục hoặc chủ tế và giáo dân.
Cấu trúc âm nhạc và chiều kích thiêng liêng này đã làm cho Te Deum trở thành nhạc nền cho những thời khắc quan trọng nhất của đời sống giáo hội như đã nói trên.
Giá trị tinh thần của bài thánh ca này vượt xa chức năng phụng vụ của nó. Đây là một bản tóm lược đức tin Kitô giáo, mỗi câu được cất lên mang đậm chất kinh thánh và giáo lý. Đó là lời cầu nguyện cá nhân và của cộng đoàn, biểu hiện sự hiệp thông của Giáo hội vượt qua mọi ranh giới.
Te Deum đã để lại một giá trị to lớn cho truyền thống phụng vụ Kitô giáo cũng như cho nền văn hóa âm nhạc của nhân loại. Trong các thế kỷ tiếp theo, chắc chắn Te Deum không chỉ là một di sản quý giá của phụng vụ, mà còn là một công cụ mạnh mẽ cho sự hiệp nhất và nâng cao tinh thần. Giai điệu hàng thế kỷ của nó tiếp tục chạm đến tâm hồn của các tín hữu, nhắc nhở chúng ta rằng lòng biết ơn, ngợi khen và cảm tạ luôn là những yếu tố cơ bản của kinh nghiệm Kitô giáo.
Và dù được vang lên trong ngôi thánh đường cao vút, dưới mái vòm theo kiểu Gothic hay trong một ngôi nhà thờ hiện đại ở đâu đó, Te Deum vẫn duy trì nguyên vẹn khả năng nâng cao tâm hồn con người, vượt qua không gian và thời gian, hướng tới cõi thiêng liêng và những giá trị cốt lõi của cuộc sống.
Tham Khảo:
https://periferiamonews.org/2024/12/30/te-deum-linno-solenne-che-attraversa-i-secoli-della-cristianita/
https://www.famigliacristiana.it/articolo/te-deum-cos-e-e-chi-ha-scritto-l-inno-che-si-canta-il-31-dicembre.aspx
https://pregareinsieme.altervista.org/te-deum/
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-viet-nam/te-deum-la-gi-ai-pho-nhac-va-duoc-hat-khi-nao-42370.html
6. Ngày 12 tháng 01: Lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa
WHĐ (08/01/2025) - Với cuộc cải tổ phụng vụ vào năm 1969, ngày cử hành lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa được ấn định vào Chúa nhật sau ngày 06 tháng 01 - lễ Chúa Hiển Linh. Nếu lễ Chúa Hiển Linh được cử hành vào Chúa nhật sau ngày 06 tháng 01, thì lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa được cử hành vào thứ Hai sau lễ Chúa Hiển Linh.
NHỮNG NGÀY LỄ PHỤNG VỤ
Ngày 12 tháng 01
Lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa
Ngay từ năm 300 sau Công nguyên, Giáo hội Đông phương đã cử hành lễ Chúa Hiển Linh và lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa vào ngày 06 tháng 01. Trong Giáo hội Tây phương, lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa được nhắc đến trong Phụng vụ Các Giờ kinh. Với cuộc cải tổ phụng vụ vào năm 1969, ngày cử hành lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa được ấn định vào Chúa nhật sau ngày 06 tháng 01 - lễ Chúa Hiển Linh. Nếu lễ Chúa Hiển Linh được cử hành vào Chúa nhật sau ngày 06 tháng 01, thì lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa được cử hành vào thứ Hai sau lễ Chúa Hiển Linh. Mùa Giáng sinh kết thúc với việc cử hành lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa, mặc dù vẫn có một "khoảng thời gian mở" kéo dài đến ngày 02 tháng 02, ngày lễ Dâng Chúa vào Đền Thánh. Lễ Dâng Chúa vào Đền Thánh còn được gọi là lễ Nến (Candlemas), vì Chúa Kitô được công bố là “ánh sáng soi đường cho muôn dân”.
Năm A
Bấy giờ, Đức Giêsu từ miền Galilê đến sông Giođan, gặp ông Gioan để xin ông làm phép rửa cho mình. Nhưng ông một mực can Người và nói: “Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi!” Nhưng Đức Giêsu trả lời: “Bây giờ cứ thế đã. Vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính.” Bấy giờ ông Gioan mới chiều theo ý Người. Khi Đức Giêsu chịu phép rửa xong, vừa ở dưới nước lên, thì các tầng trời mở ra. Người thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người. Và có tiếng từ trời phán: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người”. (Mt 3,13-17)
Chúa Giêsu bên sông Giođan
Trích đoạn Tin Mừng bắt đầu với một ghi chú địa lý: Chúa Giêsu từ miền Galilê đến sông Giođan để được Gioan Tẩy Giả làm phép rửa. Khi đến nơi, Chúa Giêsu không tuyên bố mình là Đấng Mêsia, cũng không rao giảng. Thay vào đó, Người đứng chung với tất cả những người khác ở đó, mong muốn được chịu phép rửa, qua đó bày tỏ sự liên đới của mình với những người tội lỗi. Chúa Giêsu không đứng tách biệt, nhưng Người đứng từ giữa dân chúng, kể cả những người đang mang thương tích của tội lỗi. Người chấp nhận nguy hiểm khi ở giữa họ, cũng như Người đã chấp nhận nguy hiểm khi trở thành Con Người trong cung lòng Đức Maria. Do đó, có một kế hoạch nhất quán trong cách Chúa Giêsu “di chuyển” dọc theo “lộ trình cứu độ” của Người.
Gioan Tẩy Giả
“Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi!” – Gioan Tẩy Giả thốt lên khi thấy Chúa Giêsu. Chúng ta chứng kiến sự bối rối của vị ngôn sứ, người chỉ vài câu trước đó đã tuyên bố: “Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người …” (Mt 3,11). Sự bối rối này dường như giống với tâm trạng của Phêrô tại thành Xêdarê Philípphê khi ông trách Chúa Giêsu, sau khi nghe Người mặc khải về Cuộc Thương khó, cái chết và sự phục sinh đang chờ đợi Người, rằng: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!” Và ông nhận được lời đáp của Chúa: “Xatan, lui lại đằng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16,22-23). Một lần khác là ở Phòng Tiệc Ly, Phêrô cũng khước từ khi Chúa Giêsu muốn rửa chân cho ông (x. Ga 13,6-8). Những phản ứng như của Gioan Tẩy Giả và Phêrô cho thấy sự lúng túng của chúng ta khi nhìn thấy Chúa Giêsu quá yếu đuối và nhún nhường như thế.
“Bây giờ cứ thế đã”
Có những lúc điều quan trọng là “bây giờ cứ thế đã”. Điều mà Gioan Tẩy Giả cảm thấy bất thường đến mức ngượng ngùng thực ra lại là một phần trong kế hoạch của Thiên Chúa, kế hoạch để “giữ trọn” đức công chính. Bởi lẽ, Chúa Giêsu – như chính Người đã tuyên bố một ngày kia – không đến để bãi bỏ lề luật và các ngôn sứ (x. Mt 5,17), nhưng để kiện toàn công lý của Thiên Chúa. Công lý này không làm nhục, không chia rẽ, cũng không xét đoán. Trái lại, công lý ấy làm hợp nhất, phá bỏ mọi rào cản, đáp ứng nhu cầu của mọi người và tôn trọng mọi người. Công lý của Thiên Chúa cao vượt công lý của con người: Ngài không dùng thước đo “bao nhiêu” – bạn trả giá theo mức độ mà bạn đã vi phạm. Thay vào đó, Ngài sử dụng thước đo của tình yêu, lòng thương xót và sự tha thứ – thước đo duy nhất có thể bắc cầu mọi khoảng cách và chữa lành những con tim tổn thương, bởi vì chính từ bên trong, mọi ý định xấu xa được sinh ra (x. Mc 7,1-23).
Các tầng trời mở ra
Sự lựa chọn của Chúa Giêsu được xác nhận qua việc các tầng trời mở ra, với ân ban của Chúa Thánh Thần và tiếng của Chúa Cha đóng ấn sứ vụ của Chúa Giêsu: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người”. Khi các tầng trời mở ra, “công lý” phá tan sự chia cách giữa nhân loại và Thiên Chúa, đưa chúng ta trở về buổi bình minh của công trình sáng tạo, khi Thần Khí bay lượn trên mặt nước. Trong Chúa Giêsu, Chúa Cha cho chúng ta thấy Con Người Mới, Đấng Ngài yêu dấu, Đấng làm đẹp lòng Ngài. Dường như Ngài đang nói: “Con làm Ta hạnh phúc biết bao. Ta rất tự hào về con”. Niềm hạnh phúc này hiện hữu trong mỗi người chúng ta, vì mỗi người chúng ta mang trong mình hình ảnh của Thiên Chúa. Chúng ta được tạo dựng theo “hình ảnh và giống như” Ngài (St 1,26). Không ai có thể xóa nhòa hình ảnh này, bởi vì “Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra quả là rất tốt đẹp!” (St 1,31). Việc Chúa Giêsu đến cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa luôn quan tâm đến chúng ta. Dường như Ngài đang nói: “Với con, Ta muốn bắt đầu một câu chuyện cứu độ mới, một khởi đầu mới”. Chúng ta được đổi mới đến mức chúng ta học cách nhận ra cuộc sống là một món quà của tình yêu, và chúng ta sống trọn vẹn trong Tình Yêu đó.
Năm B
Ông Gioan rao giảng rằng: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. Tôi thì tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần.” Hồi ấy, Đức Giêsu từ Nadarét miền Galilê đến, và được ông Gioan làm phép rửa dưới sông Giođan. Vừa lên khỏi nước, Người liền thấy các tầng trời xé ra, và thấy Thần Khí như chim bồ câu ngự xuống trên mình. Lại có tiếng từ trời phán rằng: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con.” (Mc 1,7-11)
Tóm tắt cuộc hành trình
Trong Mùa Giáng sinh, chúng ta đã tôn thờ Hài Nhi của Bêlem nằm trong máng cỏ. Chúng ta đã gặp gỡ Thánh Gia Nadarét vào Chúa nhật đầu tiên sau lễ Giáng sinh. Vào ngày đầu năm mới, chúng ta đã tôn kính Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Chúng ta đã suy ngẫm về việc Chúa Giêsu tỏ mình ra cho các nhà chiêm tinh, qua đó tỏ mình cho muôn dân, trong Lễ Hiển Linh.
Chúa Giêsu khởi đầu đời sống công khai
“Nadarét” là một ngôi làng nhỏ, không có truyền thống gì nổi bật. Người ta xem thường dân làng Nadarét: “Từ Nadarét, làm sao có cái gì hay được?” – Nathanaen đã hỏi (Ga 1,46). Thế nhưng, Chúa Giêsu đã sống ở đó suốt 30 năm. Đó là những năm tháng thinh lặng, lớn lên và trưởng thành, lao động, sống với gia đình, và cuộc sống bình thường... “Galilê” là một vùng bị coi thường từ quan điểm tôn giáo, vì bị xem là ô uế bởi dân ngoại. Thánh sử nêu lên những chi tiết này để giúp chúng ta hiểu rằng Chúa Giêsu bắt đầu đời sống “công khai” không như một người có “đặc quyền”, nhưng như một người bình thường. Các sách Tin Mừng chỉ cho chúng ta biết rằng suốt 30 năm đầu đời, Chúa Giêsu “ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa” (Lc 2,52). Chính sự trưởng thành này đã dẫn Người đến sự “liên đới” với những người bé mọn nhất, với những kẻ tội lỗi: “Đấng chẳng hề biết tội là gì”, như Thánh Phaolô viết, “thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta” (x. 2 Cr 5,21; Gl 3,13).
Tiếng nói
Khi vừa lên khỏi nước, chỉ mình Chúa Giêsu nhận ra tiếng nói từ trời: “Con là Con yêu dấu của Cha”. Những lời này hôm nay cũng dành cho chúng ta: “Con là con của Cha, người Cha yêu dấu”. Dường như Thiên Chúa đang nói: “Cha hài lòng về con”. Niềm hạnh phúc của Thiên Chúa hiện hữu trong mỗi người chúng ta, vì bất kể chúng ta là ai, sự thật không thể thay đổi là chúng ta được tạo dựng theo “hình ảnh và giống như” Ngài (St 1,26). Không ai có thể xóa nhòa sự thật rằng Thiên Chúa hài lòng về chúng ta, bởi vì “Thiên Chúa thấy mọi sự Ngài đã làm ra quả là rất tốt đẹp” (St 1,31). Việc Chúa Giêsu xuống thế cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa luôn quan tâm đến chúng ta. Dường như Ngài đang nói: “Với con, Ta muốn bắt đầu một câu chuyện cứu độ mới, một khởi đầu mới”.
Phép Rửa của Chúa Giêsu, phép rửa của chúng ta
Chúa Giêsu liên đới với những người đương thời và Người – Đấng không hề có tội – đứng chung hàng với những người tội lỗi. Người đặt mình bên cạnh chúng ta. Người là Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-ta, Emmanuel. Người gánh lấy số phận của mỗi người chúng ta. Đó cũng chính là điều mà chúng ta được mời gọi thực hiện – đặc biệt hơn nữa là những người đã được rửa tội, đã được đắm chìm trong tình yêu của Người – để biết cách quan tâm đến người khác, những người cùng chia sẻ kinh nghiệm sống với chúng ta, khởi đi từ những người bé mọn (tội nhân), những người bị loại trừ (Nadarét), và những người bị gán nhãn (Galilê). Mọi sự xét đoán hay định kiến cần được phá bỏ bằng sự thật rằng mỗi người chúng ta là “con yêu dấu của Chúa”, và Ngài “hài lòng” về từng người. Điều này đúng với tôi, và cũng đúng với mọi anh chị em tôi, bất kể tình trạng tội lỗi của chúng ta. Trong bí tích Thánh Tẩy, điều đã xảy ra vào lễ Giáng sinh lại tái diễn: Thiên Chúa hạ mình xuống, bước vào trong tôi để tôi được tái sinh trong Ngài như một thụ tạo mới. Nhưng chúng ta được mời gọi làm chứng cho “đời sống mới” này (x. Is 43,19), để như Chúa Giêsu đã nói: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14,9), thì những người khác cũng có thể nói về chúng ta rằng: “Tôi thấy Chúa Giêsu nơi bạn”. Điều này, xét về mặt con người, là không thể, nhưng “đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,37).
Từ Phép Rửa đến đời sống
Lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa khép lại Mùa Giáng sinh và mở ra Mùa Thường niên – mùa của đời sống. Nếu như qua Phép Rửa, Chúa Giêsu khai mở sứ vụ công khai của Ngài, thì đối với chúng ta, đó là khởi đầu của một sự dấn thân: rời “hang đá Bêlem,” nơi chúng ta đã thờ lạy Người, để bắt đầu sứ mạng làm chứng cho Người từng ngày. Được củng cố bởi niềm vui của Cộng đoàn/Dân Chúa quy tụ mỗi Chúa nhật, chúng ta để mình được dẫn dắt bởi “ánh sao” là Lời Chúa, được nuôi dưỡng bằng Thánh Thể – Bánh Hằng Sống trên hành trình. Với đời sống bác ái, chúng ta tiếp tục hành trình hướng về trời cao rộng mở, nơi Chúa Cha đang đợi chờ để chúng ta được sống đời đời với Ngài.
Năm C
Hồi đó, dân đang trông ngóng, và trong thâm tâm, ai nấy đều tự hỏi: biết đâu ông Gioan lại chẳng là Đấng Mêsia! Ông Gioan trả lời mọi người rằng: “Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa". Khi toàn dân đã chịu phép rửa, Đức Giêsu cũng chịu phép rửa, và đang khi Người cầu nguyện, thì trời mở ra, và Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng chim bồ câu. Lại có tiếng từ trời phán rằng: Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con. (Lc 3,15-16, 21-22)
Kinh nghiệm của toàn dân
Thật thú vị khi nhận thấy Thánh sử Luca thuật lại rằng phép rửa của Chúa Giêsu là một kinh nghiệm của toàn dân: “Khi toàn dân đã chịu phép rửa”. Khi ở giữa dân chúng, Chúa Giêsu biểu lộ một sự liên đới sâu sắc với những con người tội lỗi của Người, sự liên đới này ngay từ đầu đã đóng một “dấu ấn” đặc biệt trên sứ vụ của Người. Chúa Giêsu mạc khải rằng chính Người là Đấng đến để “hiến dâng mạng sống mình” để gánh lấy tội lỗi của nhân loại.
Phép Rửa
Khác với các thánh sử khác, Thánh Luca không tập trung chi tiết vào việc Chúa Giêsu chịu phép rửa, mà chỉ đề cập một cách đơn giản: “Đức Giêsu cũng chịu phép rửa”. Điều thánh sử nhấn mạnh là thái độ của Chúa Giêsu: “Đang khi Người cầu nguyện”. Đây là một chủ đề đặc biệt được Thánh Luca yêu thích và thường lặp lại trong Tin Mừng của ngài. Trong bầu khí cầu nguyện này, Chúa Giêsu lãnh nhận ân ban Chúa Thánh Thần và được Chúa Cha xác nhận, thừa nhận Người là “Con yêu dấu” và “Ta hài lòng” về Người. Điều này hàm ý rằng Chúa Cha đã đặt niềm tin nơi Chúa Giêsu. Đây cũng là cách để chỉ ra rằng việc Chúa Giêsu đến gần dân chúng và sống liên đới với họ chính là lý do khiến Ngài được sai đến.
Cầu nguyện
Trong bối cảnh cầu nguyện, Chúa Giêsu lãnh nhận ân ban Chúa Thánh Thần. Chi tiết này gợi ý rằng mỗi khi chúng ta cầu nguyện, khi chúng ta trò chuyện thân mật với Thiên Chúa (như Thánh Têrêsa Avila nói), chúng ta cũng có thể cảm nghiệm sự hiện diện của Chúa Thánh Thần. Cầu nguyện là trở về với Chúa, ở lại với Ngài. Đó chính là hơi thở của căn tính làm con cái Thiên Chúa mà chúng ta đã lãnh nhận qua Bí tích Thánh Tẩy. Chỉ trong cầu nguyện, đời sống của chúng ta như con cái Thiên Chúa mới được nuôi dưỡng. Trong những khoảnh khắc cầu nguyện, chúng ta để cho Thiên Chúa nói với chúng ta: “Con là con yêu dấu của Cha”, “Con quan trọng đối với Cha”.
Con yêu dấu của Chúa
Trong Chúa Giêsu, Người Con được Chúa Cha tuyển chọn, mỗi người chúng ta cũng là “người con yêu dấu của Chúa”, là những người mà Thiên Chúa “hài lòng”. Điều này đúng với tôi, và cũng đúng với mọi anh chị em tôi, bất kể tình trạng tội lỗi của chúng ta. Trong bí tích Thánh Tẩy, điều đã xảy ra vào lễ Giáng sinh lại tái diễn: Thiên Chúa hạ mình xuống, bước vào trong tôi để tôi được tái sinh trong Ngài như một thụ tạo mới. Nhưng chúng ta được mời gọi làm chứng cho “đời sống mới” này (x. Is 43,19), để như Chúa Giêsu đã nói: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14,9), thì những người khác cũng có thể nói về chúng ta rằng: “Tôi thấy Chúa Giêsu nơi bạn”. Điều này, xét về mặt con người, là không thể, nhưng “đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,37).
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-viet-nam/ngay-12-thang-01-le-chua-giesu-chiu-phep-rua-42376.html
7. Nước đóng vị trí, vai trò gì trong Kinh Thánh?
WTGHP (10/01/2025) - Chúa nhật tuần này, ngày 12 tháng 1, người Công giáo cử hành lễ Chúa Giêsu Kitô chịu phép rửa. Phép Rửa tội của người Kitô giáo bắt nguồn từ biểu tượng phong phú về nước trong Kinh Thánh. Nước là biểu trưng của nguồn sống và cũng là phương tiện diễn tả sự chết, nước giúp thanh tẩy cơ thể và tâm hồn. Kitô giáo đã làm cho nước trở thành dấu hiệu tuyệt hảo của sự sống mới được hứa hẹn trong sự phục sinh.
Vị trí của nước trong công trình Sáng Tạo của Thiên Chúa là gì?
Trong trình thuật Sáng tạo đầu tiên, sau thời gian được cụ thể hóa bởi sự luân phiên ngày và đêm, nước xuất hiện, chảy ra từ Lời phán của Đức Chúa (St 1, 6-8). Chỉ khi nơi nước rút đi, mặt đất mới xuất hiện và sinh ra đủ mọi thứ loại cây cỏ, thực vật (St 1, 9-12)
Trong trình thuật thứ hai về Sáng tạo, ngay cả trước khi Thiên Chúa làm mưa trên mặt đất, “một dòng suối mọc lên từ mặt đất và tưới tiêu toàn bộ bề mặt trái đất” (2, 6). Bằng cách trộn nước với “bụi đất”, Đức Chúa có thể ban hình dạng cho con người đầu tiên. Không có nước, trái đất trở nên cằn cỗi. Khi đuổi Adam và Eva ra khỏi Vườn Địa Đàng, Thiên Chúa đã báo trước về cái chết sắp đến của họ: “Cho đến khi các ngươi trở về vùng đất mà từ đó các ngươi đã đến” (3, 19).
Cha Marie-Émile Boismard, nhà chú giải thần học dòng Đa Minh (1916-2004), giải thích trong cuốn ‘‘Từ vựng Thần học Kinh Thánh’’ (Cerf, 2013) rằng: “Đức Chúa là chủ của mọi nguồn nước. Ngài có thể giữ lại hoặc trao ban chúng theo ý muốn của Ngài.” Đây là lý do tại sao nước được coi là một phúc lành, thậm chí là một phần thưởng thiêng liêng, còn hạn hán là một hình phạt: “Ai bước đi theo đường lối công chính (…), nước sẽ được ân ban cho người ấy” (Is 33, 15-16).
Nước, có phải là một biểu tượng của sự thánh thiêng?
Là một điều kiện của sự sống, nước còn có chức năng thanh tẩy. Các nghi lễ thanh tẩy xuất hiện rất nhiều trong Luật Môsê. Khi người ta chạm vào xác người chết hoặc chạm vào động vật ô uế, khi phụ nữ sinh con, hoặc khi tiếp xúc với người phong cùi... người ta buộc phải tắm rửa thân thể và giặt sạch quần áo của mình. Jean Gaillard khẳng định trong cuốn ‘‘Từ điển đời sống thiêng liêng’’ (Beauchesne) rằng: “Một số việc tẩy rửa dường như đơn giản nhưng là những biện pháp vệ sinh cơ bản cần thiết (…). Trên thực tế, vấn đề ở đây không phải là việc vệ sinh, mà là nghi lễ của sự thanh tẩy thuần khiết.’’ Rửa mình khỏi mọi vết nhơ sẽ giúp ta phục hồi mối tương quan với Thiên Chúa. Mối tương quan này đã bị tổn hại bởi sự ô uế, sự không thuần khiết, ngay cả khi điều đó là không tự nguyện.
Nước thanh tẩy này là biểu tượng của sự thanh sạch về mặt luân lý. Thánh vịnh cầu xin 50, 4 viết rằng: “Lạy Chúa, xin rửa con sạch hết lỗi lầm, tội lỗi con xin Ngài thanh tẩy.” “Người ta rửa tay để biểu thị rằng họ (…) không phạm tội ác,” Cha Boismard đã nhắc lại như vậy, khi đề cập đến Thánh vịnh 25, 6: “Lạy Chúa, con rửa tay nói lên lòng vô tội’’
Nước, sự chúc lành hay sự chúc dữ?
Nhưng Kinh Thánh không phải là không biết đến tính chất hai chiều của nước, bởi vì nước vừa là biểu tượng của sự chết cũng như của sự sống. Những cơn lũ lụt dữ dội, những cơn bão tàn khốc, những đợt thủy triều, trận đại hồng thủy, trong Cựu Ước, là những phương tiện biểu thị cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, giống như các đế quốc lớn càn quét qua dân tộc Do Thái: “Các dân tộc này gầm lên như tiếng gầm của những dòng nước lớn” (Is 17, 13).
Cha Thomas Osborne giải thích rằng: người Do Thái không phải là những nhà hàng hải cừ khôi. Việc tiếp cận Địa Trung Hải của họ “vẫn còn hạn chế. Một mặt, đồng bằng của người Philistin (kẻ thù của người Do Thái, sống dọc bờ biển, theo ghi chú của người biên soạn) là một rào cản chính trị; mặt khác, việc di chuyển của quân đội của các cường quốc dọc theo bờ biển (Ai Cập, La Mã... theo ghi chú của người biên soạn) đã áp đặt một sự dè chừng và khoảng cách chiến lược nhất định đối với người Do Thái’’, do đó họ đã đóng trại trong vùng đất liền nội địa.
Biển là biểu tượng của sự chết. Bị giam trong bụng một con cá lớn, ngôn sứ Giôna kêu lên: “Nước bủa vây con đến cổ, vực thẳm vây bọc con (…) Con đã xuống tận nền móng núi non, cửa lòng đất đã cài then nhốt con mãi mãi” (Gn 2, 6-7). Biển là nơi chứa đựng quyền lực của ma quỷ, giống như sinh vật thần thoại mà chỉ có Thiên Chúa mới có thể chế ngự được: “Chính Ngài đã nghiền nát bảy đầu con giao long, vứt nó làm mồi cho thủy quái” (Tv 73, 14).
Chính nhờ việc vượt qua những vùng nước nguy hiểm, vùng biển Đỏ, mà dân tộc Do Thái đã chạy trốn khỏi đất Ai Cập để đạt được tự do, được hướng dẫn bởi chính ông Môsê để “được cứu khỏi những dòng nước siết” (Xh 14, 15–15, 21). Sau 40 năm lưu lạc trong sa mạc, đoàn dân Do Thái vẫn sẽ phải băng qua sông Giođan để tiến vào Đất Hứa (Gs 3, 16). Trong cả hai trường hợp này, Đức Chúa đều ngăn giữ dòng nước lại, để cho dân có thể đi qua trên mặt đất khô cằn. Một số nhà chú giải coi hai cuộc vượt qua này là hình bóng của Phép Rửa tội.
Vậy còn Kinh Thánh Tân Ước nói gì về nước?
Trong cả bốn Tin Mừng, cuộc đời công khai của Chúa Giêsu đều bắt đầu bằng việc Người chịu phép rửa trong dòng nước sông Giođan, bởi người anh họ của Ngài là ông Gioan, được gọi là Tẩy Giả, thực hiện. Điều này “công bố phép rửa hoán cải để được tha tội” kèm theo việc thú tội công khai (Mc 1, 4-5). Thánh Gioan Tẩy Giả loan báo Chúa Giêsu sẽ không rửa anh em bằng nước mà bằng Chúa Thánh Thần.
Trong Cựu Ước, nước thường được liên kết với Thần Khí của Đức Chúa. Cả nước và Thánh Thần đều là chủ đề về lời hứa của Thiên Chúa cho những ngày trời mới đất mới: “Vì Ta sắp đổ mưa xuống những vùng hạn hán và cho suối chảy trên mảnh đất khô cằn; trên dòng dõi ngươi, Ta sẽ đổ thần khí, trên con cháu ngươi, Ta ban muôn phúc lành” (Is 44, 3). Cha Boismard nói rằng: “Sự mong đợi về mạch nước thiêng liêng đã được duy trì một cách nhiệt thành trong những phong trào chờ mong Đấng Thiên Sai của người Do Thái vào thế kỷ thứ nhất”.
Các môn đệ của Chúa Kitô tin rằng, nơi Người, những lời hứa với người Do Thái đã được thực hiện. Thánh Phaolô viết: “Thật thế, tất cả chúng ta, dầu là Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể. Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thần Khí duy nhất” (1Cr 12, 13). Như chính Chúa Giêsu đã giải thích cho ông Nicôđêmô, “không ai có thể vào Nước Thiên Chúa nếu không sinh ra bằng nước và Thánh Thần” (Ga 3, 5).
Nước là biểu tượng của sự sống, nhưng nó đã mang một chiều kích mới đối với các Kitô hữu, chiều hướng của sự sống thần linh được trao ban qua Phép Rửa. Đó là điều Chúa Giêsu hứa với người phụ nữ Samari, “nước hằng sống” làm thỏa mãn cơn khát mãi mãi (Ga 4, 13-14). Nhưng nước cũng tượng trưng cho sự chết mà chúng ta phải dìm mình vào đó trước khi đến với sự phục sinh (x. Rm 6, 3-11). Nước ban sự sống không miễn trừ cho chúng ta khỏi phải trải qua đau đớn và cái chết, như chính Chúa Kitô đã phải trải qua khi Ngài nói “Ta khát” (Ga 19, 28), một lời nói mang bản chất của con người thật, trong những lời cuối cùng của Ngài.
---
Đoạn trích xuất. “Nước chảy về phía đông”
Trích sách ngôn sứ Ê-dê-ki-en 47, 1…12
‘‘Người ấy dẫn tôi trở lại phía cửa Đền Thờ, và này: có nước vọt ra từ dưới ngưỡng cửa Đền Thờ và chảy về phía đông (…) Người ấy bảo tôi: “Nước này chảy về miền đất phía đông, xuống vùng A-ra-ba, rồi đổ ra biển Chết và làm cho nước biển hóa lành. Sông chảy đến đâu thì mọi sinh vật lúc nhúc ở đó sẽ được sống. Sẽ có rất nhiều cá, vì nước này chảy tới đâu, thì nó chữa lành; sông này chảy đến đâu, thì ở đó có sự sống (…) Trên hai bờ sông sẽ mọc lên mọi giống cây ăn trái, lá không bao giờ tàn, trái không bao giờ hết: mỗi tháng các cây đó sẽ sinh trái mới nhờ có nước chảy ra từ thánh điện. Trái dùng làm lương thực còn lá để làm thuốc’’
Link nội dung đầy đủ:https://giaophanmytho.net/giao-hoi-viet-nam/ngay-12-thang-01-le-chua-giesu-chiu-phep-rua-42376.html
8. Hành hương thời Tân Ước - Phần 1: Đức Giêsu hành hương lên thánh địa
Lm. Giuse Phạm Đình Ngọc, SJ
WHĐ (07/01/2025) - Biến cố lớn nhất trong giai đoạn ẩn dật là khi Đức Giêsu ở lại đền thờ Giêrusalem khi Người 12 tuổi (Lc 2,41-52). Đây là độ tuổi theo người Do Thái là khá trưởng thành về mặt đức tin.
Ý NGHĨA VÀ LỊCH SỬ CỦA HÀNH HƯƠNG
CHƯƠNG 2: HÀNH HƯƠNG THỜI TÂN ƯỚC
Phần 1: ĐỨC GIÊSU HÀNH HƯƠNG LÊN THÁNH ĐỊA
Nếu sống vào thời Đức Giêsu, chúng ta cũng phải lên đền thờ Giêrusalem mỗi năm ít là ba lần. Đây là luật buộc có nguồn gốc từ thời Cựu ước (Xh. 23,14-17; 34,22-23; Đnl 16,16). Sau khi hành hương từ Ai-cập trở về Nazaret, hằng năm gia đình Thánh gia đều tuân giữ lề luật này. Trước giai đoạn công khai sứ mạng của Đức Giêsu, Tin Mừng chỉ một lần duy nhất ghi lại biến cố này: Đức Giêsu ngồi giữa các bậc thầy Do Thái năm 12 tuổi.
Bản tiếng Việt dịch động từ “trẩy hội”, nhưng bản tiếng Hy lạp “ἐπορεύοντο” có nghĩa là đi lên, trên đường đi lên Giêrusalem. “Hằng năm cha mẹ Đức Giêsu trẩy hội đền Giêrusalem mừng lễ Vượt qua.” Khi đọc câu này, chúng ta hiểu ngay “việc đi” hay “trẩy hội” này là câu chuyện của hành hương, bởi gắn liền với biến cố Vượt qua.
Về mặt địa lý, biển hồ Galilê gần nhà Đức Giêsu, thấp hơn mặt nước biển 200m. Trong khi đó, Giêrusalem cao hơn mặt nước biển 760m. Đức Giêsu phải nói là giỏi môn địa lý, nên 3 lần tiên báo về cái chết của mình, Ngài đều nói: “Thầy phải đi lên Giêrusalem”[1]. Đi lên bao giờ cũng khó nhọc và hào hứng hơn đi xuống! Hơn nữa trong nhãn quan thần học của thánh sử Luca, con đường hành hương duy nhất của Đức Giêsu là từ Galilê lên Giêrusalem[2].
Về mặt tôn giáo, lễ Vượt qua có lẽ là lễ quan trọng nhất của đạo Do Thái. Họ hành hương về Giêrusalem không chỉ để tưởng nhớ ngày Thiên Chúa giải phóng dân khỏi ách thống trị của Ai-cập. Hơn hết, thời đó niềm tin Do thái vẫn cho rằng đền thánh Giêrusalem chính là nơi Thiên Chúa ngự trị. Hẳn nhiên khi đến đền thánh, họ cũng không được vào trong, nhưng chỉ ai được bầu chọn trong giới thượng tế mới được vào nơi cực thánh. Dù sao, khi đến thành thánh, lòng người hành hương vẫn bồi hồi vì được chiêm ngưỡng những điều kỳ diệu Thiên Chúa đã làm cho cha ông và cho con cháu họ.
Hẳn nhiên đền thờ là Nhà của Thiên Chúa. Chính thánh địa Giêrusalem gắn liền với cuộc đời Đức Giêsu[3]. Đây là lý do chúng ta cần phân tích kỹ hơn để trong những bài tiếp theo, chúng ta hiểu tại sao hành hương thường đến thánh địa, hoặc cần thăm những ngôi nhà thờ trang hoàng lộng lẫy. Hẳn nhiên vì nét đẹp của đền thờ, nhưng quan trọng hơn, đền thờ là nơi giúp chúng ta gặp được Thiên Chúa.
Đức Giêsu gặp Thiên Chúa Cha nơi đền thờ
Biến cố lớn nhất trong giai đoạn ẩn dật là khi Đức Giêsu ở lại đền thờ Giêrusalem khi Người 12 tuổi (Lc 2,41-52). Đây là độ tuổi theo người Do Thái là khá trưởng thành về mặt đức tin. Sau kỳ lễ, Đức Mẹ và Thánh Giuse lạc mất Đức Giêsu, lý do chắc các bạn cũng đoán ra. Khi trở lại đền thờ, các ngài gặp Đức Giêsu đang ngồi giữa các thầy dạy, vừa nghe họ, vừa đặt câu hỏi. Sau đó, Đức Giêsu hé lộ một chút sứ mạng của Người sẽ làm trong tương lai: “Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?” Hai ông bà ngơ ngác không hiểu!
Sau đó, Người cùng với cha mẹ trở về Nazarét. Tin Mừng cho thấy Đức Giêsu là một người trưởng thành như thế nào khi đúc kết rằng: “Người ngày càng khôn lớn và được Thiên Chúa cũng như mọi người thương mến.” (Lc 2,52).
Nếu có mặt với Đức Giêsu trong đền thờ, chúng ta cũng nghe được rất nhiều câu hỏi liên quan đến tôn giáo. Ngài trò chuyện, hỏi đáp với các kinh sư, những bậc thầy về tôn giáo. Tiếc là Tin Mừng không ghi lại bất kỳ thông tin vào liên quan đến cuộc trò chuyện này! Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể tưởng tượng được Đức Giêsu sẽ hỏi (giải thích) về Thiên Chúa Cha. Lý do là trong câu trả lời cho Đức Mẹ, Chúa Giêsu cũng đề cập đến Chúa Cha! Chắc Ngài cũng nói về Nhà của Cha. Đó là Ngôi Thánh Đường, là Thành đô như lời Thánh Vịnh ngân vang:
Giêrusalem khác nào đô thị
được xây nên một khối vẹn toàn.
Từng chi tộc, chi tộc của CHÚA,
trẩy hội lên đền ở nơi đây,
để danh CHÚA, họ cùng xưng tụng,
như lệnh đã truyền cho Ít-ra-en.
Cũng nơi đó, đặt ngai xét xử,
ngai vàng của vương triều Đa-vít.
Hãy nguyện chúc Giêrusalem được thái bình,
rằng: “Chúc thân hữu của thành luôn thịnh đạt,
tường trong luỹ ngoài hằng yên ổn,
lâu đài dinh thự mãi an ninh.”
Nghĩ tới anh em cùng là bạn hữu,
tôi nói rằng: “Chúc thành đô an lạc.”
Nghĩ tới Đền Thánh CHÚA, Thiên Chúa chúng ta thờ,
tôi ước mong thành được hạnh phúc, hỡi thành đô.
Ngoài tâm tình ca tụng trên đây, có lẽ Đức Giêsu cũng giống mọi người Do Thái thời đó đều náo nức được về thành thánh. Vì tâm tình này mà người nào cũng muốn hát lên: “Như nai rừng mong mỏi tìm đến suối nước trong, hồn con cũng trông mong được gần Ngài, lạy Chúa. Linh hồn con khao khát Chúa Trời, là Chúa Trời hằng sống. Bao giờ con được đến, vào bệ kiến Tôn Nhan?” (Tv 42,2-3).
Đức Mẹ là mẫu gương của người hành hương
Chặng đường dài đòi hỏi người hành hương cần để ý nhiều điều. Theo phong tục ngày đó, lúc đi hành hương lên đền thánh và lúc trở về, người nam thường đi riêng, người nữ đi riêng. Bởi thế khi Đức Mẹ và Thánh Giuse gặp lại, họ nhưng không thấy Đức Giêsu. Thực ra, Đức Giêsu ý thức rất rõ hành động ở lại đền thờ của mình. Trong lúc đó, Đức Mẹ và Thánh Giuse trở lại Giêrusalem, vì đã đi được ba ngày đường. Vất vả là vậy, lo lắng là thế, nhưng Đức Mẹ vẫn tin vào kế hoạch của Thiên Chúa.
Thánh Luca kể lại một chi tiết vô cùng quan trọng cho người hành hương: “Đức Maria ghi nhớ tất cả những điều ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng.” (Lc 2,19). Trên đường hành hương, biết bao điều tôi chiêm ngắm, biết bao thông tin tôi nghe được, hằng hà cảm xúc trào về trong tôi. Tất cả những điều đó là chất liệu quý giá để chúng ta nguyện cầu. Thiên Chúa của chúng ta không nghèo nàn; ngược lại, Ngài có rất nhiều cách thế để giúp chúng ta gặp được Ngài. Hoặc nói như xác tín của Giáo hội: “Trong đời sống của Dân Chúa lữ hành, có nhiều cử chỉ thờ phượng đơn sơ thuần khiết, chẳng hạn như khi ánh mắt của người hành hương hướng nhìn về một hình ảnh biểu lộ tình thương mến và sự gần gũi của Thiên Chúa. Yêu thương thì biết dừng lại, chiêm ngắm mầu nhiệm ấy, và thưởng thức mầu nhiệm ấy trong thinh lặng”[4]
Thật tốt để chúng ta bắt chước Đức Maria. Tôi cũng suy đi nghĩ lại nhưng điều gặp được trên đường hành hương. Kể cả khi về nhà, với nhiều thời gian hơn, tôi nghiền ngẫm nhưng điều kỳ diệu mà Thiên Chúa đã trao cho tôi. Mong thay!
Mách nhỏ khi hành hương:
- Lúc hành hương, rất tốt để dành giờ lần hạt mân côi.
- Để ý đến cung cách diễn tả đức tin của người hành hương sẽ giúp bạn thêm khao khát nguyện cầu.
- Hành trang càng ít càng tốt, để tập nhận ra và bỏ đi những gì là dư thừa.
Trích trong tập sách Ý nghĩa và lịch sử của hành hương, Nxb Tôn Giáo, 03/2024
_____
[1] Đức Giêsu ba lần tiên báo về cái chết của Ngài: lần 1 (Mt 16,21–23), lần 2 (Mt 17,22–23), lần 3 (Mt 20,17–19).
[2] Xem Đức Giêsu thành Nazaret cuốn II, chương 1.
[3] Chẳng hạn khi hành hương Thánh địa, chúng ta thường viếng thăm: miền Galile, biển hồ Tiberia, núi Tabor, sông Jodan. Ở Giêrusalem có Mộ Thánh, Núi sọ, vườn Cây Dầu, Nhà Tiệc Ly, Mộ Đức Mẹ Maria, v.v.
[4] Tông huấn Hãy Vui Mừng Hoan Hỉ (Gaudete et Exsultate), số 155, https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/tong-huan-hay-vui-mung-hoan-hi-gaudete-et-exsultate-ve-on-goi-nen-thanh-trong-the-gioi-ngay-nay-51169
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-viet-nam/hanh-huong-thoi-tan-uoc---phan-1-duc-giesu-hanh-huong-len-thanh-dia-42399.html
9. Nhịp sống Giáo Hội Việt Nam số 2
WHĐ (13/01/2025) - Trong buổi phát hôm nay, Thứ Hai, ngày 13 tháng Giêng năm 2025, chúng tôi kính gửi đến quý vị và các bạn những tin tức tại các giáo phận trong những ngày đầu năm:
1. Giáo phận Hà Tĩnh mừng Quan thầy và truyền chức Phó tế
2. Thánh lễ hành hương đầu năm mới tại Linh địa Đức Mẹ La Vang, Huế
3. Giáo phận Phát Diệm có mười một tân Phó tế
4. Thánh lễ khai mạc sứ vụ Giám mục Chánh tòa của Đức cha Phêrô Lê Tấn Lợi
5. Giáo phận Bà Rịa có thêm 8 tân linh mục
6. Quý Đức cha Giáo tỉnh Hà Nội họp mặt Tất niên năm Giáp Thìn
7. Thánh lễ an táng Đức Cố Giám mục Giuse Trần Xuân Tiếu, nguyên Giám mục Giáo phận Long Xuyên
8. Tổng Giáo phận Sài Gòn: Truyền chức phó tế và linh mục trong Dòng Linh mục Thánh Tâm Chúa Giêsu
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-viet-nam/nhip-song-giao-hoi-viet-nam-so-2-42403.html
10. Hành hương thời Tân Ước – Phần 2: tại sao hành hương cần thánh lễ?
WHĐ (13/01/2025) - Tại các địa điểm hành hương phải cung cấp nhiều phương tiện cứu rỗi phong phú hơn cho các tín hữu. Chẳng hạn Lời Chúa phải được công bố một cách cẩn thận; đời sống phụng vụ phải được phát huy một cách thích hợp, đặc biệt qua việc cử hành Bí tích Thánh Thể và việc sám hối; và những hình thức đạo đức bình dân đã được phê duyệt phải được cổ vũ.
Ý NGHĨA VÀ LỊCH SỬ CỦA HÀNH HƯƠNG
CHƯƠNG 2: HÀNH HƯƠNG THỜI TÂN ƯỚC
Phần 2: TẠI SAO HÀNH HƯƠNG CẦN THÁNH LỄ?
Lẽ dĩ nhiên ai cũng biết Thánh lễ là đỉnh cao của đạo Công giáo, là nguồn mạch nuôi sống linh hồn. Ở góc độ hành hương, chúng ta cũng hiểu tại sao mỗi đoàn hành hương cần có linh mục dâng lễ. Hơn nữa điều này cũng được văn bản Giáo hội nhắn đến những nhóm hành hương:
“Tại các địa điểm hành hương phải cung cấp nhiều phương tiện cứu rỗi phong phú hơn cho các tín hữu. Chẳng hạn Lời Chúa phải được công bố một cách cẩn thận; đời sống phụng vụ phải được phát huy một cách thích hợp, đặc biệt qua việc cử hành Bí tích Thánh Thể và việc sám hối; và những hình thức đạo đức bình dân đã được phê duyệt phải được cổ vũ” (Hướng dẫn về Lòng Đạo Đức Bình Dân và Phụng Vụ, số 375).
Để hiểu được ý nghĩa nguyên thủy của Thánh lễ, chúng ta trở lại nơi chốn và thời gian Đức Giêsu lập Bí Tích Thánh Thể tại Nhà Tiệc Ly.
Vào thời Đức Giêsu, Nhà Tiệc Ly xa trung tâm của dinh Philatô, nhưng gần nhà thượng tế Cai Pha. Là thành ở trên cao nên không có nguồn nước dồi dào như các nơi dưới thung lũng quanh thành Giêrusalem. Nằm ở địa thế cao nhất xa trung tâm nội thành, trên ngọn núi Sion, người ta xây những căn nhà không chỉ cho khách hành hương mỗi khi về thành thánh, nhưng họ còn thiết kế những căn phòng rộng rãi ở trên lầu. Nơi đây các nhóm có thể ăn uống, hoặc sinh hoạt chung với nhau. Bởi đó khi chuẩn bị ăn lễ Vượt Qua, chính Đức Giêsu đã chỉ cho các môn đệ đến chỗ này để dọn lễ Vượt Qua cho cả nhóm.
Theo truyền thống Kitô giáo, đây là phòng tiệc ly mà Đức Giêsu và các môn đệ ăn bữa Vượt Qua – bữa Tiệc Ly. Tên của căn phòng hiện nay được đặt theo La Tinh: Coenaculum nghĩa là phòng ăn tối, tiếng Anh là Upper Room hay Cenacle. Cũng theo Tin Mừng, trước ngày lễ ngũ tuần vì các môn đệ sợ người Do Thái, nên họ tụ họp tại phòng này, các cửa đều đóng kín. Chúa Giêsu phục sinh đầu tiên hiện ra với các ông tại phòng này, lần thứ hai cũng tại phòng này khi có mặt của Tôma (Ga 20,19-23). Đặc biệt đây cũng là nơi các môn đệ nhận được Chúa Thánh Thần trong ngày lễ Ngũ Tuần. Nhờ đó họ bắt đầu nói được các tiếng khác nhau (Cv 2,1-4).
Phòng tiệc ly là một phần của nhà thờ “Holy Zion” hay cũng được gọi là Nhà thờ các tông đồ trên núi Sion, được xây năm 390. Thời thế kỷ 15-16, nơi đây cũng là khu vực dành cho những người nghèo hoặc những ai muốn tham dự thánh lễ theo nghi thức Rôma. Trước giờ ở đây do các cha dòng Phanxicô quản lý. Bởi đó, tháng 9 năm 1523, đoàn hành hương thánh địa của thánh I-nhã đến ở chỗ này. Như thánh nhân kể: “Đang khi về nhà trọ ông (I-nhã) cảm thấy ước ao viếng Núi Cây Dầu một lần chót trước khi ra đi, bởi vì Chúa không muốn ông ở lại Đất Thánh. Trên núi có một phiến đá Chúa đã đứng trước khi lên trời, ngày nay còn được thấy dấu chân của Chúa. Ông muốn trở lại coi dấu chân của Chúa. Không nói gì với ai và không nhờ người hướng dẫn, ông lén lút bỏ đám người hành hương và tới núi cây dầu một mình” (Tự Thuật số 47).
Về câu chuyện hành hương Đất Thánh, chúng ta sẽ kể ở chương sau liên quan đến hành hương thời Thập Tự chinh.
1. Những lần tiên báo cuộc khổ nạn
Nếu lật lại Tin Mừng, chúng ta đọc thấy Đức Giêsu ba lần tiên báo về cái chết đang chờ Ngài tại Giêrusalem. Nếu số “3” ám chỉ số nhiều thì chắc hẳn Đức Giêsu rất nhiều lần nói đến cuộc khổ nạn tại Giêrusalem. Bởi đó là biến cố quan trọng, vì giờ Thầy phải đau khổ, phải chịu chết là sứ mạng Thiên Chúa Cha trao phó cho Đức Giêsu, nên Ngài thường xuyên thổ lộ điều ấy cho các môn đệ của mình. Phần các ông vẫn chẳng thể hiểu Đức Giêsu muốn nói gì, vì điều ấy nằm ngoài suy luận, phán đoán của bất kỳ ai.
Quả thực, khi Đức Giêsu lặp lại nhiều lần về biến cố Con Người sắp bị nộp vào tay người đời, phải chịu nhiều đau khổ, bị giết chết và ngày thứ ba sẽ trỗi dạy, Đức Giêsu muốn các môn đệ can đảm để bước theo Ngài. Thầy muốn các ông hiểu rằng theo Thầy không chỉ được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, gấp trăm, mà còn cùng với sự ngược đãi và sự sống vĩnh cửu ở đời sau (Mc 10,30). Các ông chỉ thích hiểu vế đầu, còn phận ngược đãi, bị bách hại là điều các ông làm ngơ không hiểu.
Rồi việc gì đến cũng đến. Gần đến lễ Vượt Qua của người Do Thái, Đức Giêsu cùng các môn đệ dọn bữa và ăn tiệc ly cùng với nhau. Chỉ Thầy biết rõ đây là bữa ăn sau cùng, bởi giờ của Người đã đến, giờ Người phải bỏ thế gian mà về cùng Chúa Cha (Ga 16,28). Nên trong bữa tiệc thân tình này, thầy Giêsu cho các môn đệ thấy Cuộc Khổ Nạn đang chờ Thầy ngoài kia: nội trong đêm nay người ta sẽ bắt Mục Tử và đàn chiên sẽ toán loạn.
Lúc chiều, Thầy dặn các ông đi chuẩn bị cho nhóm ăn Lễ Vượt Qua. Phần chính yếu của Lễ này là ăn thịt con chiên Vượt Qua. (Xh 12,21-28). Thầy sai Phêrô và Gioan đi chuẩn bị. Theo cha Nguyễn Công Đoan SJ, thực ra Thầy đã chuẩn bị sẵn hết rồi. Thầy đã mượn một căn phòng lớn trên lầu và chủ nhà đã trang bị mọi thứ. Thầy còn nhờ người ra đón các môn đệ với mật hiệu là “người đàn ông mang vò nước.” Thế là bữa tiệc hôm nay bí mật, chỉ có Thầy với trò trong căn phòng trên lầu yên ắng. Nơi đó chỉ còn nghe tiếng Thầy nói những lời sau cùng, thỉnh thoảng nghe những lời bàn tán của các môn đệ.
2. Bữa Tiệc Vượt Qua
Nếu đến Roma, chúng ta có thể đến nhà nguyện tu viện Santa Maria ở Milano, để chiêm ngắm bích họa nổi tiếng: Bữa ăn tối cuối cùng của Leonardo da Vinci (1494 –1498). Với những nét đẹp và ý nghĩa phong phú của bức tranh này, chúng ta có thể cầu nguyện và hiểu thêm câu chuyện của Kinh Thánh dưới đây:
Tiệc tùng bao giờ cũng cho người ta niềm hứng khởi vui mừng. Đi hành hương cũng cần có những bữa ăn ngon! Chúng ta đang đề cập đến tiệc lễ Vượt Qua của người Do Thái để tưởng nhớ đêm cuối họ ở bên Ai Cập. Họ giết chiên để ăn bữa tối cuối cùng trên đất khách quê người. Sau đêm nay, họ sẽ được giải phóng khỏi cảnh nô lệ áp bức, họ sẽ được trở về vùng đất của cha ông, nơi tràn trề sữa và mật. Kể từ ngày trở về quê hương, năm nào họ cũng mừng lễ Vượt Qua với nhau tại Giêrusalem, nơi đền thờ để sát tế con chiên tạ ơn Gia-vê đã giải phóng dân tộc. Do đó Lễ Vượt Qua là đại lễ ăn mừng chiến công.
Tuy nhiên sao đêm nay ở căn phòng trên lầu này, Thầy lại nói về một biến cố mà Thầy gọi là “giờ của Con Người”: Giờ khổ nạn. Đây là buổi Tiệc Ly vào chiều tối ngày thứ Năm Tuần Thánh. Tôi chiêm ngắm Thầy vào bàn cùng các môn đệ, ngồi xuống hàn huyên tâm sự. Các môn đệ ngạc nhiên khi nghe Thầy nói: “Thầy những khát khao mong mỏi ăn lễ Vượt Qua này với anh em trước khi chịu khổ hình.” Lời Thầy lại tiên báo về cái chết đang đến gần. Các môn đệ vẫn ngơ ngác, không hiểu.
a. Rửa chân, câu chuyện về tinh thần phục vụ
Các môn đệ càng ngạc nhiên đến lạ lùng, Phêrô còn ngăn xin Thầy đừng rửa chân cho ông. Thầy nói nếu Thầy không rửa cho ông, ông sẽ chẳng được chung phần với Thầy. Được chung chia cuộc sống với thầy Giêsu là điều Phêrô hằng mong ước, thế là ông vâng lời để Thầy đổ nước lên chân.
Trước khi ra đi chịu khổ hình, Thầy muốn để lại cho các môn đệ một mẫu hình về tinh thần phục vụ. Giêsu là Thầy và là Chúa mà còn rửa chân cho các ông, thì các ông chẳng lẽ lại không thể rửa chân cho nhau. Một biểu tượng, một gương mẫu dành cho những ai kết thân với Thầy. Bài học ấy vẫn hợp cho mọi thời đại, nhất là thời con người cần đến lòng thương xót của Chúa phải bằng hành động cụ thể từ các môn đệ của thầy Giêsu. Cúi xuống để đụng chạm đến những mảnh đời thấp cổ bé miệng, đau đớn tột cùng, đòi người môn đệ một tình yêu đủ lớn, lớn dành cho Thầy Giêsu, lớn dành cho chính người anh em đồng loại.
Căn phòng chỉ còn tiếng róc rách của nước đang rửa sạch những bàn chân rám bụi vì những ngày rong rủi cùng Thầy. Trời càng về khuya, buổi tiệc càng là nơi thầy Giêsu diễn tả về tình yêu, một tình yêu của người sắp ra đi dành cho người ở lại. Nếu hỏi tôi ấn tượng điều gì nhất khi ngồi trong căn phòng Tiệc Ly để nhìn ngắm Thầy và các môn đệ, thì chắc tôi trả lời là tình yêu. Đó cũng là điều cần thiết khi tôi đang còn ở giữa thế gian; đó cũng là điều răn mới Thầy muốn để lại trước khi Thầy được tôn vinh trên Nước của Người.
b. Thầy Giêsu lập phép Thánh Thể, bí tích của tình yêu
Thế là bữa tiệc bắt đầu. Ai cũng im lặng, chỉ mình Thầy “cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra trao cho các môn đệ và nói: Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em. Anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy.” Rồi đến cuối bữa ăn thầy Giêsu cầm lấy chén rượu và nói: “Chén này là giao ước mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em.” (Lc 22,19). Lời Thầy nói đầy thống thiết, như muốn trao cho các ông sự sống của chính thịt máu mình, nhờ đó các ông có sự sống nơi mình.
Một sáng kiến của tình yêu mà thầy Giêsu muốn để lại cho Giáo Hội: Bí tích Truyền Chức thánh và bí tích Thánh Thể. Tại nơi đây, Thầy là thượng tế tối cao dâng thánh lễ đầu tiên bằng chính máu thịt của Thầy hiến tế vì các môn đệ. Nhờ bí tích này mà Thầy vẫn hằng hiện diện với nhân loại nơi hình bánh đơn sơ. Trong khi đi hành hương vào bất cứ nhà thờ nào, chúng ta cũng bắt gặp tâm bánh đơn sơ là chính sự hiện diện của Thiên Chúa.
c. Giuđa phản bội
Chưa hết ngỡ ngàng với những lời Thầy vừa nói, các môn đệ xốn xang khi nghe Thầy nói có kẻ sẽ nộp Thầy. Ai vậy, kẻ nào dám tra tay làm việc động trời như thế? Lúc này bên ngoài phòng tiệc ly, các thượng tế và kinh sư tìm cách thủ tiêu Đức Giêsu (Lc 22,2), thì chính trong nhóm các môn đệ lại có người tiếp tay làm việc đó. Thù trong giặc ngoài, đau lòng! Nhưng biết làm sao được khi Xatan nhập vào Giuđa Ítcariốt và khiến y đến gặp giới lãnh đạo tôn giáo để tìm cách bắt thầy Giêsu. Dĩ nhiên họ rất mừng và đồng ý cho y số tiền. Y đã bán đứng Thầy với giá 30 đồng bạc cho tay quân dữ.
Thử tưởng tượng chung một bàn ăn, thầy Giêsu kín đáo và tế nhị để báo người môn đệ sẽ phản bội Thầy. Ông là người đã cùng Thầy chia cơm sẻ bánh, giờ lại giơ gót đạp Thầy. Công lao Thầy gọi để huấn luyện, kết thân, giờ đây ông bội nghĩa vong ơn, tiếp tay cho giặc. Thế là khi ăn xong miếng bánh Thầy trao, Giuđa Ítcariốt liền ra đi, ông lao vào đêm tối để bắt tay với Xatan phản bội Thầy.
d. Di chúc của thầy Giêsu
Ngoài trời bóng tối bao trùm mặt đất, thỉnh thoảng những bầy quạ gọi nhau về tổ, nghe vang cả một vùng trời. Những cơn gió thổi hắt lên từ thung lũng Kítrôn và Silwan khiến căn phòng thêm lạnh lẽo. Nhưng tất cả những lời trăn trối của Thầy khiến ấm lòng người ở lại. Các môn đệ ngồi nghe từng lời Thầy nói, từng điều Thầy căn dặn. Từng lời của Thầy văng vẳng biến cố ngày mai người ta sẽ tra tay giết Thầy. Thầy chỉ còn ở với các môn đệ ít lâu nữa thôi. Các ông không hiểu điều ấy, bởi nơi Thầy đến bây giờ các ông không thể đến được.
Trong thời khắc chia ly, Thầy thực sự muốn trao cho các môn đệ một điều răn mới: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” (Ga 13,34-35). Tôi nghe Thầy lặp lại lời này nhiều lần cho các môn đệ, cho chính tôi và cho cả bạn nữa, vì đó là tinh thần, là di chúc then chốt của Thầy. Nhờ đó mà sau này di chúc ấy giúp các ông đồng tâm nhất trí với nhau, cùng nhau loan báo Tin Mừng thầy Giêsu đã chết và đã phục sinh.
Cầu chuyện của Thầy còn dài, Thầy muốn nói hết những điều cần thiết cho các môn đệ và cho những ai đi theo Thầy. Thánh Gioan là người tựa vào lòng Thầy trong bữa tiệc Ly, đã ghi lại tất cả lời Thầy bữa hôm đó. Rồi khi đọc lại, chúng ta nghe Thầy kể tiếp nào là việc Phêrô sẽ chối Thầy, lời Thầy cáo biệt, Thầy là cây nho thật, nào là tương quan của các môn đệ với thế gian, Đấng Bảo Trợ sẽ đến, và quan trọng là Thầy sẽ mau trở lại và sau cùng là lời cầu nguyện đặc biệt của Thầy với Chúa Cha dành cho các môn đệ. (x. Ga chương 14-17).
Trời lúc này đã về đêm khuya, trong thành cũng yên vắng chỉ còn vài ánh đèn chiếu ra từ những căn phòng đang chuẩn bị cho lễ Vượt Qua. Bữa tiệc nào cũng tàn, cũng tới lúc chia ly. Lúc này thầy Giêsu không còn tiên báo hoặc giải thích cho các môn đệ thêm về Cuộc Khổ Nạn nữa, nhưng chính là lúc cuộc thương khó bắt đầu. Rời căn phòng chất chứa nhiều kỷ niệm của đêm Thầy trò hàn huyên tâm sự, tôi được mời gọi để cùng với Thầy và các môn đệ đi sang bên kia suối Kítrôn, cách phòng tiệc chừng độ một cây số. Ai cũng yên lặng bước đi, tiến về chỗ vườn Cây Dầu, nơi Thầy bị bắt.
Mách nhỏ khi hành hương:
- Có những chữ Latinh khi bạn đi hành hương. Bạn có thể dùng Google dịch để hiểu thêm về ngôn ngữ cổ này.
- Thiên Chúa có thể nói với chúng ta qua các dấu chỉ, biểu tượng và nghệ thuật. Biểu tượng và nghệ thuật thánh cũng là sách Giáo lý để đọc.
Trích trong tập sách Ý nghĩa và lịch sử của hành hương, Nxb Tôn Giáo, 03/2024
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-viet-nam/hanh-huong-thoi-tan-uoc--phan-2-tai-sao-hanh-huong-can-thanh-le-42400.html
11. Thánh lễ tạ ơn Bế Mạc Năm Thánh mừng Kim Khánh thành lập Giáo phận Phan Thiết
WGPPT (13/01/2025) - “Thánh lễ hôm nay không chỉ là dịp để nhìn lại 50 năm ân phúc mà còn là cơ hội để chúng ta tự vấn: Làm thế nào để mang theo lòng biết ơn và hy vọng từ Năm Thánh này vào cuộc sống và sứ mạng tiếp theo? Đây là câu hỏi mời gọi mỗi người trong chúng ta mở rộng tâm hồn và sống sứ mệnh của mình với niềm vui và hy vọng tràn đầy…”.
Đó là tâm tình Đức cha Giuse Đỗ Mạnh Hùng ngỏ với cộng đoàn khi chủ tế Thánh lễ tạ ơn Bế mạc Năm Thánh mừng Kim khánh, kỷ niệm 50 năm thành lập Giáo phận Phan Thiết. Thánh lễ được cử hành trọng thể lúc 7 giờ 00’ sáng Thứ Hai, ngày 13/01/2025, tại quảng trường Trung tâm Thánh Mẫu Tàpao.
Đồng tế với ngài có cha Tổng Đại diện Giáo phận - Giuse Hồ Sĩ Hữu, cha Giám đốc Chủng viện Nicolas - Gioan Trần Văn Thức, Đức ông Phêrô Nguyễn Chí Thiết, quý cha Quản hạt, quý cha Bề trên, khoảng 100 quý cha trong và ngoài Giáo phận.
Đến hiệp dâng Thánh lễ có quý tu sĩ nam nữ, các chủng sinh, quý khách hành hương và thành viên của các ca đoàn trong Giáo phận.
Trong lời mở đầu, Đức cha mời gọi mọi người sám hối, chuẩn bị bước vào thánh lễ với những tâm tình như: “Cùng với lời tạ ơn Thiên Chúa, chúng ta chân thành tri ân mọi thành phần dân Chúa […]; Tha thiết dâng lên Thiên Chúa Giáo phận Phan Thiết trong giai đoạn lịch sử sắp tới. Qua lời chuyển cầu của Đức Mẹ, xin Chúa tiếp tục đồng hành, bảo vệ và chúc lành cho chúng ta trên hành trình mới… Đặc biệt, khi Năm Thánh Kim Khánh Giáo phận khép lại, chúng ta cùng với toàn thể Giáo hội bước vào Năm Thánh với chủ đề ‘Những người hành hương của Hy vọng’. Xin Đức Mẹ cùng đi với chúng ta, hướng dẫn hành trình đức tin để đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu nơi Thiên Chúa”.
Chia sẻ sau Tin Mừng, Đức cha triển khai chủ đề “Hân hoan trong lòng biết ơn và hy vọng” qua: Sự hiện diện của Thiên Chúa giữa cộng đoàn; Lời mời gọi từ ngôn sứ Sôphônia; Lời nhắc nhở từ Thánh Phaolô; và qua Lời mời gọi của Chúa Giêsu. Từ mỗi tiêu điểm, Đức cha nhấn mạnh đến những bài học thực tế cần áp dụng trong cuộc sống như: Hãy nhớ lại những Ân sủng Chúa ban qua Đức Mẹ và ý thức về trách nhiệm trong đức tin, để bước vào một kỷ nguyên mới trong hành trình đức tin. Hãy mang niềm vui, lòng biết ơn và hy vọng vào mỗi hành động yêu thương, chia sẻ trong cuộc sống hằng ngày. Hãy làm cho cộng đoàn trở thành nơi của sự tha thứ, yêu thương, và bình an. Hãy đến với Chúa khi gánh nặng cuộc sống đè nặng lên đôi vai, bởi qua cầu nguyện, các Bí tích, và lòng sùng kính Đức Mẹ, chúng ta có thể tìm thấy sức mạnh và sự đổi mới cho hành trình đức tin...
Thánh lễ được tiếp nối trong trang nghiêm và sốt sắng với phần phụng vụ Thánh Thể. Sau lời nguyện hiệp lễ, vị đại diện ca viên các ca đoàn trong ngày hành hương bày tỏ tâm tình biết ơn Đức cha, quý cha và cộng đoàn.
Đáp lời, Đức cha ban huấn từ cám ơn sự đóng góp vô cùng quan trọng của ca viên các ca đoàn lớn nhỏ trong đời sống phụng vụ tại các Giáo xứ của Giáo phận và thông báo về chương trình hành hương mỗi tháng trong suốt Năm thánh thường lệ 2025. Kế đến, Đức cha làm phép nước và ảnh tượng cho cộng đoàn phụng vụ. Cuối cùng, ngài long trọng ban phép lành với Ơn toàn xá của Năm Thánh.
Lúc 8 giờ 30’ cùng ngày, Thánh lễ tạ ơn khép lại. Cộng đoàn ra về trong tâm tình cảm tạ - tri ân và tin yêu - phó thác khi kết thúc Năm Thánh Kim Khánh của Giáo phận Phan Thiết, cùng hướng tới Năm Thánh toàn cầu với chủ đề “Những Người Hành Hương của Hy Vọng”.
Xem thêm: Đêm cầu nguyện và chầu Thánh Thể - Bế mạc Năm Thánh Kim khánh Giáo phận Phan Thiết ngày 12/01/2025:
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-viet-nam/thanh-le-ta-on-be-mac-nam-thanh-mung-kim-khanh-thanh-lap-giao-phan-phan-thiet-42410.html
12. Cuba thả tù nhân, hoan nghênh sự trung gian hòa giải của Tòa Thánh
Những lời cầu nguyện của Đức Thánh Cha Phanxicô về việc trả tự do cho các tù nhân, đặc biệt là ở Cuba, đã được nhận lời một phần. Chính phủ Cuba đã công bố hôm thứ Ba, ngày 14/1/2025, rằng 553 người bị giam giữ sẽ được trả tự do “theo tinh thần của Năm Thánh thường lệ 2025”. Vài giờ trước đó, Tổng thống Mỹ Joe Biden đã loại Cuba khỏi danh sách đen các quốc gia tài trợ khủng bố.
Đó là kết quả của công việc kiên nhẫn lâu dài, của sự trung gian hòa giải kín đáo và liên lỉ trong nhiều năm của Tòa Thánh để ủng hộ việc trả tự do cho các tù nhân Cuba. Thứ Ba ngày 14/1/2025, chính phủ Cuba thông báo rằng 553 người bị giam giữ sẽ sớm được thả. Trong một thông cáo báo chí của Bộ Ngoại giao Cuba, có nêu rõ rằng Đức Thánh Cha Phanxicô đã được thông báo về quyết định này qua một lá thư do Tổng thống Díaz-Canal gửi vào đầu tháng Giêng. Ông giải thích rằng biện pháp này được thực hiện “theo tinh thần của Năm Thánh thường lệ 2025”.
Đối với Đức Thánh Cha, quyết định này của chính quyền Cuba trên thực tế là một sự đáp lại lời cầu nguyện của ngài được thể hiện trong sắc chỉ của Năm Thánh, Spes non confundit. Trong văn bản nền tảng này, Đức Phanxicô yêu cầu “những dấu hiệu hy vọng hữu hình” cho các tù nhân, đề xuất với các chính phủ trên khắp thế giới “các hình thức ân xá hoặc xóa án”, cũng như “các con đường tái hòa nhập cộng đồng”. Sự quan tâm này đối với các tù nhân được thể hiện qua việc mở Cửa Thánh vào ngày 26 tháng 12 trong nhà tù Rebibbia ở Rôma.
Những trao đổi lâu dài giữa Cuba và Vatican
Tuyên bố chính thức của Cuba nhấn mạnh vai trò của chính sách ngoại giao Vatican trong tiến trình này: “Chúng tôi duy trì mối quan hệ tôn trọng, thẳng thắn và mang tính xây dựng với Vatican và Đức Giáo hoàng, điều này tạo điều kiện thuận lợi cho các quyết định như quyết định được đưa ra gần đây”. Văn bản cũng nhắc lại các giai đoạn khác nhau dẫn đến kết quả này, chẳng hạn như chuyến thăm của Chủ tịch Cuba tới Vatican vào tháng 6 năm 2023, cuộc gặp gỡ của ông với Đức Thánh Cha, cuộc gặp của Bộ trưởng Bộ Ngoại giao của ông một năm trước đó, vào tháng 8 năm 2022. Đối với các nhà chức trách Cuba, đây là cơ hội đề cập cách sâu xa “bản chất bất công và những tác động có hại trong chính sách của Mỹ đối với Cuba“, và theo họ, “những dấu hiệu rõ ràng của việc sự cảm thông và trìu mến” của Đức Thánh Cha đối với nhân dân Cuba.
Đức Phanxicô đã phái Đức Hồng y Beniamino Stella đến Havana vào tháng 2 năm 2023 để kỷ niệm chuyến viếng thăm lịch sử của Thánh Gioan Phaolô II tới đảo quốc vào tháng 1 năm 1999, nơi ngài đã từng giám sát với tư cách là Sứ thần Tòa Thánh tại Cuba. Trong bài phát biểu tại Đại học Havana vào ngày 8 tháng 2, trước sự chứng kiến của nguyên thủ quốc gia Cuba, Đức Hồng y Stella đã kêu gọi thả những người biểu tình vào năm 2021, những người đã thách thức mạnh mẽ quyền lực của Castro, đồng thời nêu rõ rằng Đức Thánh Cha “mạnh mẽ” hy vọng rằng sẽ có “một câu trả lời tích cực” từ chính phủ Cuba trong vấn đề này. Ngài cũng công nhận rằng “Cuba phải tự do trước mọi sự can thiệp và lệ thuộc, cũng như nó cũng phải là một Cuba nơi con cái của họ là những người nam và người nữ tự do”.
Tiếp tục giảm căng thẳng giữa Havana và Washington
Quyết định của Cuba cũng được đưa ra ngay sau quyết định của Tổng thống Mỹ Joe Biden về việc loại Cuba khỏi danh sách đen các quốc gia ủng hộ khủng bố, một biện pháp được thực hiện vài ngày trước khi kết thúc nhiệm kỳ của ông và sẽ khuyến khích thả “một số lượng đáng kể tù nhân chính trị” như một quan chức cấp cao của Mỹ giải thích. Tuy nhiên, không có gì nói rằng Donald Trump, người sẽ nhậm chức vào ngày 20 tháng Giêng, sẽ đảo ngược sắc lệnh này, đặc biệt là khi chính đảng Cộng hòa đã đưa ra quyết định ngược lại vào tháng 1 năm 2021, vài ngày trước khi nhường chỗ cho đảng Dân chủ.
Nhà Trắng cũng gợi lên vai trò của Giáo hội Công giáo. Trong một thông cáo báo chí chính thức được công bố hôm thứ Ba 14/1/2025, có tuyên bố rằng biện pháp này nhằm mục đích “củng cố cuộc đối thoại đang diễn ra giữa chính phủ Cuba và Giáo hội Công giáo”.
Vì thế, đối với hoạt động ngoại giao của Tòa Thánh, đây là một thành công mới. Ngay trong năm 2014, ngoại giao này đã tạo ra tình trạng hòa hoãn lịch sử giữa Havana và Washington, dẫn đến việc thiết lập lại quan hệ ngoại giao của họ vào tháng 7 năm 2015. Tổng thống Mỹ lúc bấy giờ là Barack Obama đã cảm ơn Đức Thánh Cha Phanxicô vì vai trò “rất quan trọng” của ngài trong vấn đề này. Phủ Quốc vụ khanh từng nhắc lại rằng trong những tháng trước đó, Đức Thánh Cha đã viết thư cho Tổng thống Raul Castro và Barack Obama, “để mời họ giải quyết các vấn đề nhân đạo cùng quan tâm, bao gồm cả vấn đề liên quan đến tình hình của một số người bị giam giữ, với mục đích mở ra một giai đoạn mới trong quan hệ giữa hai bên. Tòa Thánh sẽ tiếp tục hỗ trợ các sáng kiến mà hai quốc gia thực hiện nhằm mục đích tăng cường quan hệ song phương và thúc đẩy phúc lợi của công dân mỗi nước”.
Tý Linh
Chuyển ngữ từ: vatican.va
Nguồn: xuanbichvietnam.net
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-viet-nam/cuba-tha-tu-nhan-hoan-nghenh-su-trung-gian-hoa-giai-cua-toa-thanh-42426.html
13. Hoa Kỳ: phép lạ của Đức Bà Cứu Chữa trước ngọn lửa
WHĐ (16/01/2025) - Ngày 8 tháng Mười 1871, một trận hỏa hoạn tàn khốc đã thiêu hủy ra tro thành phố Peshtigo (tiểu bang Wisconsin, Hoa Kỳ) và vùng lân cận. Từ 1500 đến 2000 người tử nạn. Khi ngọn lửa tiến gần đến khu Champion, một nhóm cư dân đã đến lánh nạn trong một nhà nguyện, được xây dựng nhiều năm trước ngay địa điểm Đức Mẹ nhiều lần hiện ra. Tất cả những người này đều được sống sót, được cứu khỏi ngọn lửa như một phép lạ.
Từ ngày 7 tháng Một vừa qua, những trận hỏa hoạn tàn phá đã biến nhiều khu dân cư ở Los Angeles thành tro bụi. Tiểu bang California ven biển ở phía Tây Hoa Kỳ, thường xuyên gánh chịu những trận hỏa hoạn mãnh liệt phi thường, càng trầm trọng hơn với những cơn gió nóng và khô đôi khi đưa tàn lửa bay xa nhiều cây số. Nhưng ở một vùng khác của nước Mỹ, đã diễn ra một trận hỏa hoạn được xem như thảm khốc nhất trong lịch sử, trận hỏa hoạn thành Peshtigo, đầu những năm 1870. Trong lúc khoảng 2000 người chết thảm, thì những người lánh nạn trong một nhà nguyện ở Champion (Wisconsin, Hoa Kỳ) đã được cứu khỏi ngọn lửa như một phép lạ.
Ngày 8 tháng Mười 1871, tại tiểu bang Wisconsin, như thường lệ, cư dân thành Peshtigo nhóm những đống lửa nhỏ để vỡ đất làm chăn nuôi, làm nông, hay lắp đặt những đường rầy xe lửa mới. Nhưng thiên nhiên đã quyết định theo hướng khác. Năm 1871 rất khô hạn, có rất ít mưa vào mùa hè. Ao hồ trong vùng khô cạn cả, đất đai khát nước, và một cơn áp thấp châm ngòi cho những trận gió quá mạnh đến từ hướng Tây Nam. Trận hỏa hoạn khơi mào từ trong rừng lan ra vơi tốc độ của một cơn lốc, sớm bao trùm thành phố Peshtigo. Cư dân thành phố bị thiêu sống, chết cả. Trong lúc lửa lan ra với tốc độ rất nhanh, nó đe dọa thiêu rụi một nhà nguyện nhỏ cung hiến cho Đức Bà Cứu Chữa. Nhà nguyện xây dựng ngay trong rừng, tại khu Champion, ngay nơi mà Adèle Brise, vài năm trước đã chứng kiến những lần hiện ra của Đức Trinh Nữ Maria, đây là những cuộc hiện ra duy nhất được Giáo hội Công giáo Hoa Kỳ công nhận cho đến nay. Năm đó 24 tuổi, cô gái di cư gốc Bỉ đã vâng lời Đức Trinh Nữ yêu cầu cô dạy đức tin và giáo lý : “Con hãy tập họp các trẻ em ở xứ hoang dã này và dạy các em những điều các em cần biết để được cứu chuộc. (…) Con hãy dạy các em giáo lý, cách làm dấu thánh giá và cách nhận các bí tích; đó là những gì ta cần con làm. Hãy đi, đừng sợ hãi gì hết, ta sẽ giúp con.” Sau khi cất nhà nguyện, Adèle đã cho xây một ngôi trường nhỏ.
Thánh địa của đức Maria (Sanctuaire marial)
Hoảng loạn vì lửa cháy, người ta đổ xô đến nơi có nhà nguyện. Họ còn dẫn theo cả gia súc của mình. Adèle mời họ cầu nguyện với Đức Trinh Nữ Maria; cầm tượng Đức Mẹ đưa lên cao, họ tổ chức một cuộc rước Mẹ chung quanh thánh địa, miệng lần chuỗi. “Sau nhiều giờ kinh hoàng và hồi hộp, trời cao mới gởi xuống một chút an ủi qua hình thức một cơn mưa rào”, linh mục Peter Pernin, cha sở Peshtigo, viết, chính ngài cũng là người sống sót qua hỏa hoạn sau khi ngâm mình hàng giờ dưới sông, Mình Thánh Chúa ôm chặt trong người. “Tất cả đều bị thiêu hủy quanh họ; nhiều cây số cảnh tan hoang khắp nơi. Nhưng tu viện, ngôi trường và nhà nguyện trong thánh địa dâng cho Đức Trinh Nữ Maria sáng lên như hòn đảo xanh tươi trong một biển tro tàn. Ngọn lửa đang hoành hành liếm tới hàng rào phía ngoài và để lại những vết thẹo cháy đen làm kỷ niệm. Những lưỡi lửa đã chạm tới hàng rào nhà nguyện và đe dọa thiêu hủy tất cả mọi thứ bên trong; nhưng lửa vẫn không lan đến được miếng đất của nhà nguyện”, vị linh mục còn làm chứng.
Từ dạo đó, rất nhiều tín hữu đã hành hương đến nhà nguyện, đặc biệt là vào ngày 8 tháng Mười hằng năm, ngày kỷ niệm cuộc hỏa hoạn và lần Mẹ hiện ra cuối cùng với Adèle. Về phần mình, Adèle tiếp tục việc dạy giáo lý cho trẻ em địa phương đến khi từ trần ngày 5 tháng Bảy 1896. Phải đến hai thế kỷ sau, Giáo hội Công giáo Hoa Kỳ mới công nhận những lần hiện ra của Mẹ Thiên Chúa. Sau khi mở cuộc điều tra, Đức Cha David L. Ricken, giám mục Green Bay, với thẩm quyền của Giáo Hội đã công bố những lần hiện ra đó là “đáng tin” và năm 2016, Hội đồng Giám mục Công giáo Hoa Kỳ đã nâng cấp địa điểm này thành Thánh Địa Quốc gia. 100.000 người đến hành hương ở đó mỗi năm.
Lê Hưng
Chuyển ngữ từ: fr.aleteia.org (09/01/2025)
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-viet-nam/hoa-ky-phep-la-cua-duc-ba-cuu-chua-truoc-ngon-lua-42427.html
14. Hành hương thời Tân Ước - phần 3: Đức Giêsu, người hành hương chịu chết để cứu độ con người
WHĐ (20/01/2025) - Đức Giêsu đích thực là Con Thiên Chúa, là Đấng Mêsia đến để cứu chuộc con người bằng giá máu. Ước gì trong bước đường hành hương, tôi thêm xác tín và tin nhận căn tính của Đức Giêsu.
Ý NGHĨA VÀ LỊCH SỬ CỦA HÀNH HƯƠNG
CHƯƠNG 2: HÀNH HƯƠNG THỜI TÂN ƯỚC
Phần 3: ĐỨC GIÊSU, NGƯỜI HÀNH HƯƠNG CHỊU CHẾT ĐỂ CỨU ĐỘ CON NGƯỜI
Sau khi bị bắt tại Vườn Cây Dầu, tờ mờ sáng, lính tráng cùng các thành viên trong Thượng Hội Đồng[1] điệu Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta đến dinh tổng trấn Philatô. Cả đoàn đi băng qua nội thành lúc mọi người trong nhà còn đang yên giấc. Tuy nhiên tiếng la hét của bọn lính, tiếng lẻng kẻng của xiềng xích và lộc cộc của gậy gộc đập xuống đường thôi thúc Đức Giêsu đi, đã nhanh chóng khiến dân thành mất ngủ. Người ta kéo ra xem chuyện gì đang xảy ra.
Chẳng mấy chốc tin tức ông Giêsu, người Nazarét, bị bắt đêm qua và đang bị xử án lan nhanh khắp cả thành. Tin giật gân ấy cũng vượt qua những cửa thành đến các làng phụ cận Giêrusalem. Ai nghe cũng ngỡ ngàng. Kẻ yêu mến hoặc có cảm tình với Thầy lấy làm thương xót vì biết Thầy vô tội; người ghét Thầy thì hả hê vì cho rằng ông Giêsu đã phạm thượng tự nhận mình là Con Thiên Chúa. Thế là hai dòng người ấy đổ về dinh Philatô để theo dõi phiên tòa mỗi lúc một đông.
Vài môn đệ cùng mấy người phụ nữ đã đi theo sau Thầy sáng nay. Người thì khóc thương cho Thầy, kẻ khác hy vọng Thầy được tha. Chúng ta cũng có thể xin được nên đồng hình đồng dạng với Người[2] trong biến cố này. Bởi nhiều người trong chúng ta tin rằng Thầy chịu mọi sự vì yêu mến và vâng theo ý Chúa Cha; sau nữa là để cứu độ con người, cứu lấy cả tôi nữa. Thầy Giêsu đang chịu chết vì tôi.
Nhanh chóng đoàn người có mặt ở dinh Philatô. Hiện nay khu vực dinh là nhà thờ chính tòa “Ecce Humo-Này Là Người” thuộc các sơ Dòng Sion người Pháp quản lý. Dĩ nhiên đây là một dinh cơ phức tạp và được bảo vệ nghiêm ngặt vì bên trong là tổng trấn Philatô cư ngụ. Ông đại diện cho đế quốc Rôma cai quản cả vùng Giuđê này, bởi đó ông có toàn quyền dân sự để giữ gìn an ninh trật tự cho thành Giêrusalem.
Thầy bị người ta trói chặt tay, hai bên là toán lính hung hăng kèm cặp. Họ không dẫn Thầy vào trong nội vi của dinh, vì sợ bị nhiễm uế. Ai cũng biết đó là địa hạt của người ngoại giáo, của quân ngoại bang, nên họ ồn ào yêu cầu Philatô ra xử án. Trong lúc chờ tổng trấn ra, chúng ta muốn mon men lại gần Thầy.
1. Đức Giêsu là Con Chiên đặt trên bàn thờ
Có cách nào khác để Thiên Chúa cứu chuộc chúng ta không? Nhớ lại mấy ngày trước, trong vườn cây dầu, lòng Đức Giêsu xao xuyến bồi hồi, mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất (Lc 22,44). Đúng rồi, Đức Giêsu yêu quý sự sống này. Là con người, Thầy run sợ trước giờ người ta gây cho Người đau khổ và chết chóc. Khi ở Vườn Dầu, Đức Giêsu đã xin Chúa Cha cất chén đắng xa Người. Hóa ra cái chết luôn cho người ta sợ hãi và muốn lảng tránh nó[3].
Tuy vậy, ý Chúa Cha nhiệm mầu muốn dùng chính thịt và máu Con một của Ngài để cứu độ nhân loại. Đó là ý Cha, và ý Thầy muốn nên một với ý Cha. Vì yêu mến Cha nên Thầy hoàn toàn vâng phục uống trọn chén Cha trao. Tôi khó hiểu về một quyết định lạ lùng như thế. Chúng ta nhìn lên Chúa Cha, hướng mắt về Thầy để hy vọng nhận được chút ánh sáng cho vấn nạn này.
Thầy là mục tử nhân lành dám sống chết cho đoàn chiên. Đây là hình ảnh rất phổ biến trong các ngôi thánh đường khi chúng ta đi hành hương. Đúng rồi, không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình. Hơn nữa các môn đệ, bạn và tôi là bạn hữu được Thầy hy sinh mạng sống để cho con người được sống. Bản tiếng Anh: “No one has greater love than this, to lay down one’s life for one’s friends.” (Ga 15,13).
Thánh Gioan tinh tế định nghĩa chính xác về tình yêu. Một tình yêu cao thượng là “lay down – đặt để” mạng sống của mình trên bàn thờ để hiến tế vì bạn hữu của mình. Trong hành vi yêu thương này, người mục tử dâng mạng sống mình hoàn toàn trong tay Chúa Cha, dành cho nhân loại. Con chiên hiến tế giờ đây luôn sẵn sàng được đặt trên bàn thờ. Thầy không nắm giữ mạng sống cho riêng mình. Phải chăng đó cũng là lời mời gọi cho tôi dám hăng hái xông pha để tử vì đạo, chết vì đoàn chiên, nếu điều ấy đẹp ý Cha. Bởi thế đặt để mạng sống mình trên bàn thờ, sẵn sàng cho sứ mạng Thiên Chúa trao là nghĩa cử mà thầy Giêsu đã làm trong vườn cây dầu. Thầy đặt mạng sống của Thầy hoàn toàn trong tay Chúa Cha, để chấp nhận chén đắng Cha trao. Giờ đây sống chết là do Cha định đoạt và Thầy đã thi hành thánh ý nhiệm mầu này.
2. Đức Giêsu trong dinh tổng trấn Philatô
Philatô hỏi giới lãnh đạo tố cáo ông Giêsu về tội gì? Đương nhiên họ phải tìm đủ lý do để kết án ông Giêsu. Đây là ba lý do họ đưa ra:
a. Sách động dân tộc chúng tôi
Từ ngày Đức Giêsu làm phép lạ cho Ladarô sống lại ở Bêtania, rất nhiều người theo Đức Giêsu. Trước mối nguy dân chúng sẽ bỏ đạo truyền thống mà theo ông Giêsu, giới tôn giáo đã họp Thượng Hội Đồng để quyết định giết Ngài. Là người có trách nhiệm quản lý và hướng dẫn dân chúng theo truyền thống tôn giáo của cha ông, dĩ nhiên họ hoang mang vì sự xuất hiện của Đức Giêsu. Họ quy gán cho Đức Giêsu kéo bè kết đảng để chống lại luật lệ và giới chức tôn giáo. Bằng chứng là từ khi dân chúng nhận ra lời thầy Giêsu giảng có uy quyền, không như những thượng tế kinh sư, họ đã theo Thầy ngày càng nhiều. Bởi đó, họ cho động thái ấy là sách động dân tộc.
Đó cũng là lý do mà văn bản của buổi họp Thượng Hội Đồng cách đây mấy ngày trước ghi nhận. “Vậy các thượng tế và các người Pharisêu triệu tập Thượng hội Đồng và nói: "Chúng ta phải làm gì đây? Người này làm nhiều dấu lạ. Nếu chúng ta cứ để ông ấy tiếp tục, mọi người sẽ tin vào ông ấy, rồi người Rôma sẽ đến phá hủy cả nơi thánh của ta lẫn dân tộc ta". Một người trong Thượng Hội Đồng tên là Caipha, làm thượng tế năm ấy, nói rằng: “Các ông không hiểu gì cả, các ông cũng chẳng nghĩ đến điều lợi cho các ông là: thà một người chết thay cho dân còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt" (Ga 11,47-51).
b. Ngăn cản dân chúng không nộp thuế cho Xêda[4]
Dĩ nhiên những ai phản đối nộp thuế cho nhà nước thường bị quy vào tội phạm pháp, bị chính quyền truy tố. Thời Đức Giêsu, những kẻ trốn thuế hay phản đối mức thuế nặng sưu cao, có nghĩa là họ chống lại quyền lực và lợi ích của đế quốc.[5] Vả lại nguồn lợi chính của người Rôma trên vùng đất này là những đồng thuế họ thu từ dân. Thuế nặng sưu cao là cách họ bóc lột dân Do thái.[6] Do đó, ai cả gan dám trốn thuế hoặc phản đối chính sách tài khóa này của đế quốc là điều nguy hiểm, phạm pháp.
Bởi thế có lần giới tôn giáo thử Đức Giêsu rằng có nên nộp thuế cho Xêda không? Một câu hỏi lưỡng đao luận, trả lời kiểu nào cũng chết: Có thì chống lại dân tộc mình, không thì chống lại chính quyền Rôma. Đức Giêsu xin một đồng tiền, và trên đó có khắc hình hoàng đế Xêda[7], Thầy nói: “Của Xêda trả cho Xêda, của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa.” Lần đó họ không bắt bẻ được gì và lẳng lặng bỏ về. Hôm nay trong phiên tòa này, họ lại gợi lên lý do này để quy gán cho Thầy là một tay sách động người ta trốn thuế.
c. Thầy Giêsu xưng mình là Mêsia, là Vua
Đây là lý do thuộc lãnh vực tôn giáo của người Do Thái, không liên quan đến luật dân sự. Đấng Mêsia chỉ dành cho nội bộ niềm tin của người Do Thái vì họ đang mong chờ một Đấng đến từ Đức Chúa giải phóng dân tộc họ. Mêsia chính là Đấng được Thiên Chúa sai đến, Đấng ấy sẽ là vua Ítraen, vua của người Do Thái.
Hãy ngước nhìn Thầy trong lúc này để nhớ lại những điều Thầy luôn khẳng định căn tính của mình: “Thầy là Đấng Mêsia, là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.” Thầy đã khen ông Phêrô khi ông nói đúng căn tính của Thầy. Lúc nãy ở nhà ông Caipha, trước cả Thượng Hội Đồng, một lần nữa Thầy cũng xác định: Thầy là Con Thiên Chúa, là Đấng Mêsia. (Lc 22,70).
Vì không tin Thầy là Đấng Mêsia thật[8], nên họ quy án cho Thầy nói phạm thượng, vì Thầy gọi Đức Chúa của họ là Cha. Biết sao được, vì thực sự căn tính của Thầy là thế, nên có thì Thầy nói có, Thầy đâu thêm thắt điều chi ngược với căn tính của mình. Chỉ có điều nhiều người lúc này không chân nhận Thầy là Con Thiên Chúa, không chấp nhận Thầy là Đấng Mêsia, nên họ đang tố cáo Thầy gắt gao.
Với ba lời cáo buộc trên, Philatô vẫn không thấy Đức Giêsu có tội. Nhưng phía giới chức cứ khăng khăng Giêsu có tội vì họ nói: “Hắn đã xúi dân nổi loại, đi giảng dạy khắp vùng Giuđê, bắt đầu từ Galilê đến đây.”[9] (Lc 23,5). Thầy nghĩ họ nói đúng không? – Tôi vội hỏi nhỏ Thầy. Vế đầu sai, vế sau đúng. Sai vì Thầy luôn tôn trọng luật pháp Rôma, dù đó là người ngoại bang. Đó là chuyện của chính trị. Việc ưu tiên của Thầy là tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước tiên. Còn vế sau đúng vì cả cuộc đời Thầy cốt để làm điều đó. Thầy ước sao đi hết làng này đến làng khác để loan báo Tin Mừng Nước Trời.
Giáo thuyết của Thầy đến từ Chúa Cha, Đấng mà Thầy muốn người môn đệ nhận biết, kết thân và phải hằng làm vinh danh Cha là Đấng ngự trên trời. Thầy còn mong cho triều đại của Cha mau đến, và vì muốn làm theo ý Cha nên Thầy chấp nhận tất cả. Thậm chí cái chết đang tới gần, Thầy vẫn can đảm để giữ vững căn tính thần linh của mình.
d. Đức Giêsu với Philatô
Philatô trở vào trong dinh và cho gọi Thầy vào để “khảo cung” riêng. Dĩ nhiên không ai được vào, tôi cũng không ngoại lệ. Tuy vậy, tôi được may mắn đọc lại Tin Mừng mà thánh Gioan có mặt sáng hôm đó thuật lại câu chuyện giằng co, căng thẳng giữa Philatô và Đức Giêsu quanh vấn đề “Đức Giêsu có phải là vua không?”
Khi đọc câu hỏi này, vọng lại trong tôi biến cố Giáng Sinh. Thực vậy, ngày Thầy mở mắt chào đời tại Bêlem, một làng nhỏ gần Giêrusalem. Các nhà chiêm tinh Phương Đông nhìn thấy ngôi sao báo hiệu một vị vua vừa mới ra đời, nên họ tìm đến bái lạy Người. Thế là họ rong ruổi theo ánh sao. Đến Giêrusalem, họ hỏi vua Hêrôđê rằng “Vua dân Do Thái” mới sinh hiện ở đâu. Đó là câu hỏi xúc phạm mang tính thách đố, bởi rõ ràng vùng này đã có vua Hêrôđê, nếu có hoàng tử hạ sinh thì người biết đầu tiên phải là nhà vua chứ.
Thế là với tin động trời ấy, nhà vua rối bời, cả thành Giêrusalem bàn tán xôn xao. Chẳng lẽ vị vua họ hằng cầu mong nay đã đến. Họ hy vọng tràn trề. Phần vua Hêrôđê, ông liền triệu tập tất cả các thượng tế, các kinh sư trong dân lại, và hỏi cho biết Ðấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Họ trích sách Mikha chương 5 câu 1: “Tại Bêlem, miền Giuđê, vì trong sách ngôn sứ có chép rằng: Phần ngươi, hỡi Bêlem, miền đất Giuđa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giuđa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ítraen dân Ta sẽ ra đời.” (Mt 2,3-6). (Bạn cũng sẽ được đến Bêlem nếu hành hương đến Israel).
Sau khi biết mình bị các nhà chiêm tinh lừa, Hêrôđê đùng đùng nổi giận truy tìm giết lầm còn bỏ xót các con trẻ ở Bêlem và vùng lân cận từ 2 tuổi trở xuống. Tuy nhiên, ông đâu biết rằng Hài Nhi Giêsu đã trốn sang Ai-Cập. Thế là những ngày ấy, các thánh Anh Hài đã chịu tử đạo dưới bàn tay bạo tàn của ông vua độc ác.
Cả cuộc đời, Thầy luôn ý thức vai trò Quân vương nơi mình. Thậm chí trước mặt Philatô lúc này, Thầy cũng không chối căn tính ấy.
Philatô nhìn Thầy và hỏi: “Ông có phải là vua dân Do Thái không?” Thầy hỏi lại: “Ngài tự nói điều ấy hay những người khác đã nói với ngài về tôi?” Dĩ nhiên Philatô chỉ nghe lại lời ấy từ người Do Thái đang tố cáo Thầy ngoài kia về vấn đề Thầy tự nhận mình là vua của người Do Thái. Lúc ấy Philatô thắc mắc Thầy đã làm gì? Hỏi thế nhưng Thầy trả lời ông: “Nước tôi không thuộc về thế gian này, nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do Thái. Nhưng thật ra Nước tôi không thuộc chốn này.”
Philatô không màng đến câu trả lời này của Thầy, vấn đề ông vẫn băn khoăn là Thầy có thực sự là vua không. Dĩ nhiên Thầy trước sau vẫn trả lời: “Chính ngài nói tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi.” Thật lạ cho một người cầm cân nảy mực như Philatô lại băn khoăn: “Sự Thật là gì?” Tôi chợt hỏi ai đang là người xét xử vụ án này: Philatô hay thầy Giêsu?
Thực ra căn tính quân vương, Mêsia của Đức Giêsu không chỉ là vấn nạn thời đó, hôm nay cũng là một chủ đề nhức nhối đối với người Do Thái sùng đạo. Trong một bầu không khí tôn giáo người dân đang hướng về Đấng Mêsia, làm sao họ chấp nhận Đức Giêsu là người phàm mắt thịt làm vua của họ. Người ta vẫn hoài nghi về nguồn gốc của Thầy, ngay cả Gioan Tẩy giả cũng không ngoại lệ. Ông là tiếng hô trong hoang địa: “Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi” (Mt 3,3). Với ông dường như Đấng Mêsia vẫn phải là một Đấng uy phong lẫm liệt, sẵn sàng tra tay chặt bất cứ cây nào không sinh quả tốt và quăng chúng vào lửa. Đấng ấy sẽ cầm nia trong tay mà sẩy sân lúa của Người, lúa tốt thì cho vào kho, còn lúa lép thì đốt đi trong lửa không hề tắt." (Mt 3,10-12). Bên cạnh đó, sứ mạng của Mêsia mà tiên tri Malakhi nói đến không giống như những gì đang diễn ra với trường hợp của Thầy: "Này, Ta sai Thần Sứ của Ta, kẻ sẽ vén đường bạt lối trước nhan Ta. Ai chịu đựng nổi ngày Người đến? Ai đứng vững khi Ngài hiện ra ?" (Ml 3,1-3).
Khi Gioan bị Hêrôđê Antipa bắt bỏ tù vì liên quan đến chuyện tình cảm của nhà vua với bà Hêrôđia (Mt 14,4), chính ông cũng ngỡ ngàng về việc làm của thầy Giêsu sao khác xa với những gì ông loan báo. Do đó ông sai môn đệ đến hỏi Thầy sự thể như thế nào. Thầy có phải là Đấng Mêsia, là Vua phải đến không, hay họ phải chờ một Đấng nào khác? Thầy không trả lời trực tiếp, nhưng trích kinh thánh Cựu ước mà tiên tri Isaia (Is 35,10) đã loan bao về Mêsia: “Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng, và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi.”
Trong hàng ngũ các tông đồ cũng thế. Suốt hành trình làm môn đệ của Thầy, các ông vẫn chưa hiểu Thầy. Trên đường hành hương rảo bước lên vùng phía bắc kế cận thành Xêdarê Philípphê, Thầy dò hỏi xem người ta nói Thầy là ai? Là những người giao tiếp với các tầng lớp dân chúng, các môn đê nghe người ta đồn về Thầy như sau: Kẻ thì nói Thầy là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo Thầy là Êlia, có người lại cho Thầy là Giêrêmia hay một trong các vị ngôn sứ.
Thôi thì thiên hạ vẫn lầm về căn tính của Thầy, còn các môn đệ thì sao? Ông Simôn Phêrô đại diện nhóm thưa: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.” Thầy khen ông, khen cả nhóm đã nói chính xác căn tính của Thầy! Nhưng liền sau đó, Thầy báo cho các ông tin liên quan đến Đấng Kitô, Con Thiên Chúa phải lên Giêrusalem, Thầy phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại. Phêrô cản Thầy, Thầy mắng Phêrô là Xatan cản lối Đấng Mêsia. Cả nhóm cũng cúi mặt hoang mang về căn tính của Thầy khi nghe tin thân phận Đấng Kitô lại phải chịu chết sao. Thậm chí trước ngày Thầy chịu chết các ông vẫn chưa hiểu Thầy, nên Thầy mới mắng các ông: “Thầy ở với anh em bất lâu, thế mà anh Philipphê, anh chưa biết Thầy ư? (Ga 14,9).
Về phía người dân, dĩ nhiên họ không tin Thầy là Đấng Kitô, là Đấng Mêsia. Có chăng đó chỉ là con số nhỏ nhoi, là quân thu thuế và phường tội lỗi, những người nhận được phép lạ của Thầy, những người được Lời Thầy cải hóa. Rồi ngày tháng đến nghe Thầy giảng, chứng kiến Thầy làm phép lạ, họ sửng sốt, ngỡ ngàng bởi đâu ông này lại làm được như thế. Không ít lần họ bỏ Thầy đi, khi nghe Thầy nói những lời chướng tai: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời”. (Ga 6,54). Hoặc “Không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho. Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với Người nữa.” (Ga 6,65-66).
Giới lãnh đạo tôn giáo thì dĩ nhiên quyết liệt phủ nhận căn tính Mêsia của ông Giêsu. Họ không ít lần đuổi Người ra khỏi đền thờ, nhiều lần gài bẫy để hãm hại Người, không ít lần bàn luận xem phải “thanh toán” Thầy như thế nào. Cuối cùng họ đã triển khai một kế hoạch: “Thà một người chết thay cho dân còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt.” (Ga 11,50) Lúc này nơi dinh Philatô, họ vẫn đang hô hào đòi kết án Thầy vì Thầy tự xưng mình là Con Thiên Chúa, nhận mình là Đấng Mêsia.
Tóm lại, căn tính Mêsia của Thầy vẫn luôn làm người ta đau đầu nhức óc. Dẫu cho Cựu ước có nhiều lần nói về Thầy, nhưng lúc này thiên hạ chưa hiểu được, lãnh đạo tôn giáo nhất quyết giết Thầy. Biết sao được khi Thầy đích thực là Con Thiên Chúa, là Đấng Mêsia đến để cứu chuộc con người bằng giá máu. Do đó, Thầy không chối Thiên tính của mình. Ước gì trong bước đường hành hương, tôi thêm xác tín và tin nhận căn tính của Chúa Giêsu.
Sau khi tra khảo, chất vấn, tổng trấn đi ra gặp người Do Thái và tuyên bố rằng ông không tìm thấy lý do nào để kết tội Đức Giêsu. Tôi nhìn sang những người yêu mến Thầy với niềm hy vọng dâng trào: Thầy sẽ được tha. Tuy nhiên, những gì đang diễn ra lại hoàn toàn trái ngược. Người Do Thái không muốn tha vua của họ, mà đòi tha Baraba, một tên trộm cướp khét tiếng.
e. Thầy chịu đánh đòn
Trước tình hình đó, Philatô truyền đem Đức Giêsu đi đánh đòn Người. Thế là người ta chứng kiến cảnh Thầy bị hành hạ bạo tàn. Tôi chợt nhớ đến lời tiên tri Isaia: “Người đã bị thương tích vì tội lỗi chúng ta, bị tan nát vì sự gian ác của chúng ta. Người lãnh lấy hình phạt cho chúng ta được bình an, và bởi thương tích người mà chúng ta được chữa lành” (x. Is 52,13-53,1-13). Không chỉ vết roi hằn trên da thịt Thầy, bọn lính còn kết một vòng gai làm vương niệm, đặt lên đầu Thầy, rồi khoác cho Thầy một áo choàng đỏ. Trong bộ dạng như thế, Thầy bị chúng sỉ nhục, nhạo cười.
3. Thời khắc Thầy bị kết án tử hình
Philatô bước ra để một lần nữa khẳng định rằng tổng trấn không tìm thấy lý do nào để kết tội Đức Giêsu. Thầy Giêsu đứng đó, mình mặc áo choàng đỏ, đầu đội vương niệm bằng gai. Thầy không nói một lời, chỉ nhìn xuống phía dưới, nơi có Gioan, có Mẹ Maria và những người Thầy thương mến. Lúc này cuộc đời, mạng sống của Thầy thực sự được đặt trên bàn thờ, để những ai cần sự sống đời đời, cần Thầy, tự do đến và kín múc nguồn ân sủng. Thầy không giữ mạng sống ấy cho riêng Thầy, nhưng dâng hiến mạng sống ấy cho người Thầy thương mến. Cảm ơn Thầy vì tình yêu cao cả!
Nếu hành hương đến Giêrusalem, chúng ta sẽ gặp tấm bảng của nhà thờ “Ecce Homo” và vẳng nghe lại tiếng Philatô nói lớn với người Do Thái: “Đây là người.” Thì ra tên của nhà thờ được đặt từ lời tuyên bố của một vị tổng trấn người Rôma. Khi thấy Đức Giêsu, các thượng tế và các thuộc hạ liền kêu lớn tiếng đòi đóng đinh Thầy vào thập giá. Đó là một bản án tử hình của người Rôma chỉ dành cho những tên tội phạm không phải là người Rôma.
Tiếc là Philatô đã rửa tay để tỏ ý không liên quan đến việc đổ máu Thầy Giêsu. Ông giao Đức Giêsu cho người Do Thái đem đi mà đóng đinh, vì phần ông, ông vẫn không tìm thấy lý do để kết tội Đức Giêsu. Về phần người Do Thái, nếu họ chiếu theo Lề Luật thì Đức Giêsu phải chết, vì Thầy xưng mình là Con Thiên Chúa.
Lúc ấy giữa Philatô và giới lãnh đạo Do Thái quả là hai phương trời cách biệt, hai ý hướng khác nhau. Bên có quyền tuyên bố Đức Giêsu trắng án thì nhún nhường vì bị nhóm người dưới kia gây áp lực, bên không có quyền một mực đòi đóng đinh Thầy vào thập giá. Trong cảnh huống đó, Thầy Giêsu nói với Philatô rằng: “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài. Vì thế, kẻ nộp tôi cho ngài thì mắc tội nặng hơn.” (Ga 19,11).
Sau một hồi giằng co, Philatô truyền dẫn Đức Giêsu ra và đặt ngồi trên tòa cao, chỗ đó gọi là Nền Đá để tuyên bố với mọi người rằng: “Đây là vua các người!” (Ga 19,14) Lúc ấy khoảng gần trưa ngày thứ Sáu. Nghe câu ấy xong, tôi lặng người nhìn thấy đoàn người đông đảo giơ tay đòi đem Thầy đi để đóng đinh vào thập giá! Thế là một phiên tòa khép lại với việc ông Philatô trao Đức Giêsu cho họ tùy theo ý họ muốn. Dĩ nhiên mau chóng họ hả hê điệu Đức Giêsu đi để đóng đinh vào thập giá.
Mách nhỏ khi hành hương:
- Bạn có thể đọc trên Internet liên quan đến: Các biểu tượng và việc huấn giáo.
- Điện thoại bạn có thể tải App Kinh Thánh để đọc khi đến các điểm hành hương. Điều này sẽ giúp bạn cảm nghiệm một cách thực tế, sống động về các bối cảnh Thánh Kinh và cầu nguyện tốt hơn.
Trích trong tập sách Ý nghĩa và lịch sử của hành hương, Nxb Tôn Giáo, 03/2024
_____
[1] Dân Do Thái sau khi dành được độc lập từ đế quốc Hy Lạp chưa đầy 100 năm, họ lại rơi vào tay đế quốc Rôma, dưới quyền một tổng trấn. Thượng Hội Đồng người Do Thái gồm các kỳ mục, các thượng tế và một số luật sĩ tượng trưng duy nhất của quyền lực người Do Thái.
[2] “Vì những ai Người đã biết từ trước, thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Người, để con của Người làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc.” (Rm 8,29).
[3] Truyện xưa kể rằng có lần chú tiều phu vác bó củi từ rừng về nhà. Trên đường đi chú mệt mỏi, khát nước. Chú bực tức quăng bó củi và la lớn rằng: “Thà chết còn hơn là vác bó củi nặng nề như thế này!” Lúc đó thần chết hiện ra hỏi lại chú vừa nói gì. Chú trả lời: “Tôi muốn nhờ ông đưa bó củi kia cho tôi vác về nhà!”
[4] Gāius Jūlius Caesār là một lãnh tụ quân sự và chính trị, và tác giả văn xuôi Latin lớn của La Mã cổ đại. Ông đóng một vai trò then chốt trong sự chuyển đổi Cộng hòa La Mã thành Đế chế La Mã.
[5] Từ năm thứ sáu sau công nguyên, đế quốc Rôma sáp nhập Giu đê và Samari thành một tỉnh, mỗi người dân Do-thái phải nộp một thứ thuế thân. Dĩ nhiên không một người Do-thái ái quốc nào lại muốn nộp thứ thuế ấy.
[6] Người dân trong đế quốc Rôma phải nộp thuế nhà đất, thứ lợi tức, thuế thân, v.v. Nói chung gánh nặng thuế không phải là nhỏ.
[7] Julius Caesar là người tiền đầu tiên khắc hình mình trên tiền. Ví dụ đồng denarius với hình họa Julius Caesar được đúc vào năm 44 TCN; mặt sau là nữ thần Venus, tay bà nâng nữ hoàng chiến thắng Victoria và một thanh quyền trượng.
[8] Tại sao gọi Đức Giêsu là Kitô?
- Thuật ngữ “Đức Giêsu là Kitô”, nhằm nói lên tâm điểm của đức tin Kitô giáo. Đức Giêsu, con bác thợ mộc thành Nazaret, là Đấng Mêsia, Đấng Cứu thế được mong đợi từ lâu. Chữ Kitô là tiếng Hy Lạp, chữ Mêsia là tiếng Do Thái đều có nghĩa là “được xức dầu”. Ở Do Thái, vua, các tư tế, và các tiên tri đều được xức dầu. Theo các Tông đồ, Chúa Giêsu đã được Chúa Thánh Thần xức dầu (Cv 10,38). Khi theo Chúa Kitô, ta được gọi là Kitô hữu để diễn tả ơn gọi cao quý của ta. (Youcat, câu hỏi số 73. Bản dịch của Lm Antôn Nguyễn Mạnh Đồng.)
[9] Khi biết Đức Giêsu là người Galilê, Philatô liền cho giải Thầy đến Hêrôđê vốn đang có mặt trong thành Giêrusalem. Bởi lẽ về mặt địa dư dân sự, Thầy thuộc thẩm quyền quản lý của vua Hêrôđê. Tuy nhiên, khi đến nơi, thay vì Hêrôđê tra khảo hay xét xử, ông lại tò mò yêu cầu Thầy làm vài phép lạ xem chơi. Vì không một phép lạ xảy ra, nên Hêrôđê cho giải Thầy về trả lại cho Philatô. Trong vụ xử án lần này, Hêrôđê và Philatô nên thân thiện với nhau hơn, chứ trước kia hai bên vẫn hiềm thù. (x. Lc 23,8-12).
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-viet-nam/hanh-huong-thoi-tan-uoc---phan-3-duc-giesu-nguoi-hanh-huong-chiu-chet-de-cuu-do-con-nguoi-42447.html
15. Nhịp sống Giáo Hội Việt Nam số 3: Xuân yêu thương
WHĐ (20/01/2025) - Trong buổi phát hôm nay, thứ Hai, ngày 20 tháng 1 năm 2025, chúng tôi kính gửi đến quý vị và các bạn một số tin tức của các giáo phận trong tuần vừa qua.
- Giáo phận Phan Thiết bế mạc Năm Thánh Kỷ niệm 50 năm thành lập
- Các xứ họ trong Giáo phận Bắc Ninh chúc Xuân Ất Tỵ Đức cha Giuse Đỗ Quang Khang
- Giáo phận Hà Tĩnh tổ chức “Tết cho người nghèo”
- Tổng Giáo phận Sài Gòn có thêm 22 tân Phó tế
- Truyền chức Phó tế tại Giáo phận Vinh
- Giới thiệu Các nhà thờ hành hương trong năm Thánh 2025 tại Giáo phận Hà Tĩnh và Giáo phận Xuân Lộc.
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-viet-nam/nhip-song-giao-hoi-viet-nam-so-3-xuan-yeu-thuong-42448.html
16. Bạn còn muốn về nhà?
Chữ “nhà” trong văn hóa Việt Nam có một vị trí đặc biệt, là nơi của tình yêu, gắn kết và trở về. Nhưng với người Công giáo, khái niệm “nhà” còn khoác trên mình ý nghĩa thiêng liêng.
WHĐ (21/01/2025) – Các bạn trẻ Công giáo thân mến,
Tôi đang sống và làm việc tại Hungary. “Nhiều nồi bánh chưng” rồi, tôi chưa được về ăn tết cùng gia đình. Tất cả vì sứ mạng, nên tôi vui vẻ ăn tết xa nhà. Tôi biết rất nhiều người Việt đang lên đường về nhà ăn tết. Trong khoảnh khắc đặc biệt của những tuần cuối năm, khi cả đất nước đang náo nức chuẩn bị đón chào Tết Nguyên Đán, bạn có đang háo hức mong chờ những ngày đoàn tụ với gia đình? Hẳn là nhiều người đang và sẽ về nhà. Trong không khí này, xin cho tôi được chia sẻ với các bạn một khía cạnh thiêng liêng và sâu sắc của đời sống đức tin, đó là ý nghĩa của “nhà”.
Trước khi đọc tiếp, bạn có thể nghe bài hát này của nhạc sĩ Trần Tiến qua đường link sau:
https://www.youtube.com/watch?v=eGaNAr4y7c8
Trong đó, nhạc sĩ Trần Tiến thốt lên rằng: “Mẹ ơi! Thế giới mênh mông. Mênh mông không bằng nhà mình.” Thực ra chữ “nhà” trong văn hóa Việt Nam có một vị trí đặc biệt, là nơi của tình yêu, gắn kết và trở về. Nhưng với người Công giáo, khái niệm “nhà” còn khoác trên mình ý nghĩa thiêng liêng. Xin cho tôi được liệt kê nơi đây năm ý nghĩa:
1. Nhà thờ: nơi gặp gỡ Thiên Chúa và cộng đoàn
Về nhà, chúng ta sẽ đi lễ, đến với ngôi nhà thờ thân thương. Nơi đó, Thiên Chúa vẫn luôn chờ ta về, mừng những ngày xuân. Ngày xưa mình học giáo lý dạy rằng: “Nhà thờ là nơi bí tích Thánh Thể cực thánh được cử hành và cất giữ, nơi các tín hữu được quy tụ, nơi sự hiện diện của Con Thiên Chúa... Trong 'ngôi nhà của Thiên Chúa', sự chân thật và hài hòa của các dấu chỉ tạo nên ngôi nhà này, phải biểu lộ Đức Kitô đang hiện diện và hành động ở chính nơi này” (Giáo lý Hội Thánh Công Giáo, số 1181). Ước gì khi về nhà, chúng ta cũng háo hức đến nhà thờ để trình diện với Thiên Chúa: “Con đã về nhà rồi đây! Xin giúp con sống những ngày xuân an lành và thánh đức!”
Hơn nữa, qua Thánh Thể, nhà thờ trở thành nơi gặp gỡ không chỉ giữa con người với Thiên Chúa mà còn giữa các tín hữu với nhau. Đây là cộng đoàn đức tin. Nhà thờ là “trái tim” của mỗi cộng đoàn Kitô hữu, là nơi chúng ta cùng cầu nguyện, hiệp thông và yêu thương nhau. Nhiều người vẫn gọi giáo xứ là gia đình thiêng liêng, những người tin vào Đức Kitô.
2. Giáo hội tại gia
Gia đình không chỉ là nơi chúng ta sinh sống, mà còn là “Giáo hội tại gia”. Nơi đây, đức tin được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác. Từ ngàn xưa, gia đình đã là ngôi trường đầu tiên mà mọi Kitô hữu học được cách sống yêu thương. Thánh Phaolô nhấn mạnh rằng, tình yêu trong gia đình là hình ảnh thu nhỏ của tình yêu giữa Đức Kitô và Hội Thánh (x. Ep 5,25-33). Khi yêu thương và phục vụ trong gia đình, chúng ta đang sống lại tình yêu mà Đức Kitô dành cho Giáo hội của Người.
Tại sao gia đình lại được coi là “Giáo hội tại gia”? Vì đó là nơi chúng ta đầu tiên được học biết về Thiên Chúa, nơi chúng ta nhận ra tình yêu vô điều kiện và được giáo dục trong đức tin. Gia đình là nơi con cái được lớn lên trong sự che chở của cha mẹ, ông bà; và qua đức tin của họ, truyền lại cho con cháu những giá trị Kitô giáo. Giáo lý Hội Thánh Công giáo cũng khẳng định: “Các phần tử trong gia đình giúp nhau lớn lên trong đức tin, nhờ chứng từ của một đời sống Kitô hữu theo Tin Mừng.” (Giáo lý Hội Thánh Công Giáo, số 2226).
Tết Nguyên Đán là thời điểm thích hợp nhất để chúng ta cảm nhận sâu sắc hơn về ý nghĩa của gia đình. Những bữa cơm quây quần bên người thân, những câu chuyện bên nhau, tất cả đều là những khoảnh khắc quý giá để gia đình trở thành ngôi nhà của tình yêu, của niềm tin. Hãy trân trọng những khoảnh khắc ấy. Qua đó, ước gì mỗi người cũng cảm nhận rõ ràng hơn sự hiện diện của Thiên Chúa trong đời sống gia đình.
3. Ngôi nhà thiêng liêng
Nhà thờ và gia đình không phải là những nơi duy nhất chúng ta gọi là “nhà”. Giáo hội, trong một khía cạnh rộng lớn hơn, chính là ngôi nhà thiêng liêng của tất cả các Kitô hữu. Thánh Phaolô, trong thư gửi tín hữu Êphêsô, đã gọi Giáo hội là “nhà của Thiên Chúa” (Ep 2,19-22). Nơi đó thánh Phêrô mời gọi chúng ta nên “những viên đá sống động” để xây dựng ngôi đền thờ thiêng liêng (1 Pr 2,5). Điều này nhắc nhở chúng ta rằng, ngôi nhà đích thực mà Thiên Chúa muốn chúng ta xây dựng không phải chỉ là những cấu trúc vật lý, mà là một cộng đoàn đức tin đầy yêu thương, nơi mỗi người đều có vai trò và sứ mạng của mình. Đây là hình ảnh một Giáo hội hiệp hành!
Giáo hội là nơi chúng ta được kết nối với nhau qua tình yêu của Đức Kitô. Trong Giáo hội, mọi tín hữu đều là anh chị em, và chúng ta được mời gọi yêu thương, phục vụ lẫn nhau như trong một gia đình. Đặc biệt trong những ngày Tết Nguyên Đán, khi người ta thường về với gia đình của mình, đồng thời, xin nhớ rằng chúng ta luôn có một gia đình lớn hơn – đó là Giáo hội.
Giáo hội không chỉ là ngôi nhà ở trần thế, còn là hình ảnh của ngôi nhà thiên quốc mà chúng ta đang hướng tới. Chúa Giêsu đã nói: “Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở... Thầy đi dọn chỗ cho các con” (Ga 14,2). Điều này nhắc nhở chúng ta rằng, mọi ngôi nhà trên trần gian đều là biểu tượng của một ngôi nhà cao cả hơn – đó là Nước Trời. Nơi đó có mùa xuân vĩnh cửu.
4. Trở về với cội nguồn
Một điều quan trọng là về nhà không chỉ là việc hiện diện về mặt vật lý, mà còn là việc thực sự tham gia và kết nối với gia đình bằng cả tâm hồn. Nhiều người về nhà nhưng không hiện diện! Ở nhà đúng nghĩa là gì vậy bạn? Để trả lời câu này, chúng ta nhớ lại câu chuyện của thánh sử Luca. Ngài kể câu chuyện người con hoang đàng (Lc 15,11-32). Chúng ta thấy niềm vui lớn lao khi người con thứ trở về nhà, nơi cha của anh luôn đợi chờ anh với vòng tay rộng mở. Sự trở về ấy không chỉ là sự quay lại một không gian vật lý, mà là trở về với tình yêu, với mối quan hệ sâu sắc và sự tha thứ.
Tương tự, trong những ngày chuẩn bị Tết, khi chúng ta trở về với gia đình, đó cũng là dịp để nhìn lại cuộc sống của mình và cảm nhận ý nghĩa của trở về với tình yêu và hiện diện. Mái nhà không chỉ là nơi trú ngụ, mà là nơi yêu thương được biểu lộ, nơi mọi mâu thuẫn có thể được giải hòa. Đây là một thách đố. Ai càng để ý, người ấy càng hiện diện một cách sống động với các thành viên trong gia đình.
5. Xây dựng ngôi nhà tình yêu
Sau bao ngày xa cách, nay tôi được về nhà. Hẳn là có nhiều người được mời gọi xây dựng và củng cố ngôi nhà của mình. Giáo hội nhắn với chúng ta rằng: “Chính chứng từ của đời sống Kitô hữu và các việc tốt lành được thực thi với tinh thần siêu nhiên, có sức mạnh lôi kéo người ta đến với đức tin và đến với Thiên Chúa.” (Giáo lý Hội Thánh Công Giáo, số 2044). Ước gì mỗi người đều được mời gọi xây dựng gia đình, cộng đoàn, và Giáo hội bằng tình yêu, phục vụ và hi sinh.
Khi trở về nhà trong dịp Tết, bạn có can đảm mang về tình yêu và ánh sáng của Đức Kitô để chia sẻ với gia đình? Hãy trở thành những chứng nhân sống động của Tin Mừng, đem niềm vui và sự hòa giải đến với những người thân yêu. Chính trong ngôi nhà gia đình này, chúng ta sẽ tìm thấy sức mạnh để tiếp tục sứ mạng của mình trong xã hội.
Các bạn trẻ thân mến,
Trong dịp Tết Nguyên Đán này, hãy trân trọng ngôi nhà của mình – cả ngôi nhà vật lý và ngôi nhà thiêng liêng. Hãy để mỗi khoảnh khắc bên gia đình trở thành cơ hội để mình cảm nhận tình yêu của Thiên Chúa và để chúng ta trao ban tình yêu đó cho những người thân. Chúng ta cầu chúc cho nhau: mỗi người, mỗi gia đình hưởng một Mùa Xuân bình an, thánh thiện và niềm vui. Hãy trở về nhà với năng lượng tích cực. Hãy mạnh dạn sẵn sàng chia sẻ niềm vui, hy vọng và bình an của Chúa Xuân đến cho những người mình gặp gỡ.
Chúc mừng năm mới đến với muôn nhà!
Tái bút:
Chữ Hán:
Chữ viết: 家
Ý nghĩa chính: Nhà ở, gia đình, nơi sum họp
Đặc điểm nổi bật: Chữ "家" mang ý nghĩa ban đầu là một ngôi nhà có con heo ở bên trong, thể hiện một gia đình ổn định, sung túc và bình an.
Chữ Nôm
Chữ viết: 𡩋
Ý nghĩa chính: Nhà ở, tổ ấm
Đặc điểm nổi bật: Chữ Nôm 𡩋 giữ nguyên ý nghĩa cơ bản là nơi ở hoặc tổ ấm. Nó cũng thể hiện tính sáng tạo của người Việt khi dùng chữ Hán để biểu đạt ngôn ngữ của mình.
Tiếng Việt
Chữ viết: Nhà
Ý nghĩa chính: Nơi ở, gia đình, tổ chức, quê hương
Đặc điểm nổi bật: Nơi ở của con người, được xây dựng để sinh sống.
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-viet-nam/ban-con-muon-ve-nha-42449.html
17. Đâu là địa điểm thật sự diễn ra việc Chúa Giêsu chịu phép rửa?
Valdemar de Vaux
WHĐ (20/01/2025) - Để khép lại mùa Giáng Sinh, Giáo hội Công giáo mừng lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa của thánh Gioan Baotixita, anh em họ của Người. Ngành khảo cổ học đang vất vả để xác định địa điểm chính xác nơi diễn ra sự kiện. Khi đọc lại Cựu Ước, có vẻ như Đức Kitô đã được rửa tội ở phía đông sông Giođan, để khơi mào cho sự đăng quang cuối cùng của Đất Hứa.
Ngành khảo cổ học thật kiên trì. Từ nhiều thế kỷ nay, ngành vẫn tìm tòi dấu vết và bằng chứng về câu chuyện Chúa Giêsu chịu phép rửa. Đó đúng là mục đích của môn khoa học này, nhưng trong trường hợp cụ thể đang nói, nó rất vất vả để nhận diện vùng Bêtania “bên kia sông Giođan” mà Gioan Thánh sử đề cập (Gioan 1,28), được truyền thống ấn định ở Đông Nam thành Giêricô. Ngày nay ở nơi gọi là Al-Maghtas (tiếng ả rập nghĩa là dìm xuống nước), phía vương quốc Giođani, có một thánh địa và là điểm đến của nhiều cuộc hành hương. Dù người ta không biết cụ thể thánh Gioan Tẩy Giả giảng đạo ở đâu, vẫn rất khó để nghi ngờ rằng ông đã không dìm người anh em Giêsu của mình xuống nước, vì câu chuyện này là một trong những đoạn hiếm hoi của Tân Ước được cả bốn vị Thánh Sử thuật lại.
Tuy vậy, đức tin và truyền thống vẫn cho phép bổ sung cho đủ những sự mò mẫm của khảo cổ học. Cỏ vẻ rõ ràng là việc Chúa Giêsu chịu phép rửa đã diễn ra ở phía đông sông Giođan, như tông đồ Gioan đã nói. Nhưng ý nghĩa của sự kiện là gì? Chúa Giêsu khai mạc sứ vụ công khai của mình bằng cách vượt qua sông như một chứng tá. Người anh em họ Gioan Tẩy Giả của Chúa thực hành nghi thức thanh tẩy và tiên tri ngày đấng Messia (Cứu Thế) đến. Thánh nhân loan báo: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần (Mt 3,2) và khi đấng Kitô đến thánh nhân chỉ vào Người: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian (Gioan 1,29) trong lúc giải thích: “Tôi thì tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần (Mc 1,8). Đây chính là đấng Cứu độ đã hứa và được mong chờ, đúng như lời Kinh Thánh, “Chúa cứu”.
Cuộc vượt qua sông Giođan của Jôsuê
Nhưng vị mang tên “Chúa cứu” đầu tiên trong Kinh Thánh không ai khác hơn là ông Jôsuê, một cái tên đồng nghĩa với tên Giêsu, Jôsuê là cánh tay mặt của ông Môisen. Ông Môisen và cả thế hệ của ông không nhìn thấy Đất Hứa, điểm đến của cuộc di cư dài thăm thẳm trong sa mạc từ vùng đất nô lệ Ai Cập. Chúa đã dẫn họ đi trong sa mạc 40 năm, nhưng những lời thở than, rên rỉ của họ, dấu hiệu của thiếu lòng tin, ngăn họ đến được vùng đất của sữa và mật mà Chúa cho họ. Quả vậy, đến đất hứa không phải là đương nhiên mà là hành động thể hiện đức tin ra bên ngoài. “Coi đây, hôm nay tôi đưa ra cho anh (em) chọn: hoặc là được sống, được hạnh phúc, hoặc là phải chết, bị tai hoạ. Hôm nay tôi truyền cho anh (em) phải yêu mến ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), đi theo đường lối của Người, và tuân giữ các mệnh lệnh, thánh chỉ, quyết định của Người, để anh (em) được sống, được thêm đông đúc, và ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), chúc phúc cho anh (em) trong miền đất anh (em) sắp vào chiếm hữu” (Dnl 30, 15-16).
Môisen chết ở phía đông sông Giođan, trên núi Nebo (nê-bô), lúc ngắm nhìn mảnh đất mà ông sẽ không được ở, chính Jôsuê được giao trọng trách dẫn dân Chúa vào xứ sở Canaan (Đất Hứa) để “sở hữu nó”. Do đó, ông đã vượt qua sông Giođan, không ướt chân giống như ở Biển Đỏ bốn mươi năm trước, dưới sự hiện diện của Chúa. “Các tư tế khiêng Hòm Bia Giao Ước của ĐỨC CHÚA đứng yên tại chỗ, nơi đất khô cạn giữa lòng sông Gio-đan, trong khi toàn thể Ít-ra-en qua sông trên đất khô cạn, cho đến khi toàn dân đã qua hết” (Gs 3,17). Phần tiếp theo ai cũng đã biết, được thuật lại rất dài trong Cựu Ước. Theo thời gian, những người Do thái không tuân thủ Giao Ước nữa, không sống theo luật, quay lại lối sống cũ, chờ đợi đấng Messia (cứu thế) đến giải thoát họ khỏi những kẻ áp bức… dần dần hiểu ra rằng Đất Hứa không phải là mảnh đất được mong chờ mà chính là cuộc sống muôn đời.
Chúa Giêsu, một Jôsuê mới
Đó là điều mà Đức Kitô đến để hoàn thành. Ông Josuê mới này khai trương Vương quốc của Thiên Chúa, đến gần với con người những không phải “từ thế giới con người”. Để khởi đầu công cuộc rao giảng, sẽ dẫn Người tới cái chết và sự sống lại, sẽ mở của Thiên Đàng cho con người, xứ sở tràn trề cuộc sống thánh thiêng, Người cùng sẽ vượt qua sông Giođan. Nhưng cuộc vượt qua đó, phép rửa bằng nước, mới chỉ là biểu tượng của phép rửa trong Thánh Linh, một phép rửa mà các Tông đồ là những người được kêu gọi vào ngày Chúa Thăng Thiên, để đi rửa tội cho muôn dân, muôn nước. Nhưng cuộc vượt qua đó, được thực hiện từ vị trí thấp hèn, chính là dấu hiệu của sự tự hạ của Thiên Chúa làm người hầu cho phép mỗi người chúng ta mặc lấy thiên tính.
Lê Hưng chuyển ngữ
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-viet-nam/dau-la-dia-diem-that-su-dien-ra-viec-chua-giesu-chiu-phep-rua-42456.html
18. Weng Yirui, một phụ nữ Trung Quốc trở thành tín hữu Công Giáo nhờ khúc Gloria của Vivaldi
WHĐ (23/01/2025) - Weng Yirui, 31 tuổi, lớn lên trong một gia đình vô thần ở Trung quốc. Nhưng người nghệ sĩ tài năng này đã tìm thấy Chúa qua âm nhạc, đặc biệt là qua bản Gloria của Vivaldi.
Khi cô gái trẻ Weng Yurui bắt đầu học piano, cô đã không ngờ rằng chính qua trung gian của âm nhạc mà cô sẽ gặp Chúa. Lớn lên trong một gia đình vô thần ở Trung quốc, cô thường tự đặt cho mình những câu hỏi về vấn đề hiện sinh, nhưng cha mẹ cô chỉ khuyến khích cô tự tin vào chính bản thân và vào việc tích cực lao động. Mẹ cô, giáo viên vật lý trường trung học phổ thông, và cha cô, giáo sư tâm lý học, chỉ có một triết lý cuộc đời: thuyết vị lợi. “Cha mẹ chẳng tin vào gì cả”, cô gái trẻ nói với tạp chí Ý Tempi, trong số tháng Một 2025.
Không thể diễn ta bằng lời nói vì “ở Trung quốc không có nhiều sự cởi mở giữa cha mẹ và con cái”, Yirui học thể hiện bằng âm nhạc mà cụ thể hơn là nhờ những lớp piano mà cô đã bắt đầu học từ nhỏ. Thầy dạy của cô ở Trung quốc chỉ tập trung vào kỹ thuật, nhưng cô thiếu nữ Weng Yirui chắc chắn rằng có cái gì đó hơn nữa trong âm nhạc dù cô không hiểu đó là cái gì. “Giờ tôi mới hiểu không có Chúa, những nhạc tố (motifs) đó là không thể có được. Chắc là chúng phải có, nhưng ở Trung quốc, chủ đề này thậm chí còn không được nhắc đến”, người phụ nữ trẻ 30 tuổi giải thích.
Agnus Dei, Filius Patri
Tốt nghiệp trường đại học sư phạm Hangzhou, cô theo chuyên ngành dạy học, piano và thanh nhạc. Vì tình yêu âm nhạc cô chuyển đến sống ở Ý năm 2016 để tiếp tục học và trở thành người đệm đàn cho dàn hợp xướng. Chính tại đây, lần đầu tiên, cô gái trẻ lúc đó 22 tuổi, đã khám phá ra một thánh đường Công giáo. “Một trong những địa điểm đầu tiên mà ông thầy dạy tiếng Ý của chúng tôi dẫn đi tham quan là vương cung thánh đường Duomo ở Thành phố Milan. Tôi sững sờ: chưa từng bao giờ thấy cái gì đẹp như thế và tôi tự hỏi ngay lập tức sao một công trình tuyệt mỹ như vậy lại được làm ra.”
Trong thời gian rảnh rỗi, cô gái trẻ khám phá thêm nhiều nhà thờ khác ở thành phố Ý đó. “Tôi ngạc nhiên vì sự im lặng. Tôi nhìn thấy người ta ngồi ở băng ghế hay đứng, mà không nói chuyện. Tôi tự hỏi họ làm gì vậy. Rồi tôi thấy mọi người đều ngước lên thánh giá mà tôi chẳng hiểu tại sao”, cô thuật lại. Những câu hỏi đó cháy bỏng trong tâm hồn cô, như lửa vùi trong tro, và chúng trổi dậy năm 2018, khi cô vào năm thứ hai tại Nhạc Viện Milan, lúc cô bắt đầu khóa thánh nhạc (musique sacrée). Khi học bản Gloria của Vivaldi, Yirui tự đặt ra câu hỏi về ý nghĩa của lời bản nhạc “Agnus Dei, Filius Patri” (Chiên Thiên Chúa, Con của Chúa Cha). Tác phẩm này đã hoàn toàn mở ra trong lòng cô một loạt câu hỏi hiện sinh về Thiên Chúa và cái chết của Chúa Giêsu. Lúc đó, giáo sư dạy cô mới nói với cô về Chúa Giêsu. Sự cảm nhận âm nhạc thánh thiêng của cô, thứ nhạc đã làm cô mê hoặc mà không hiểu chiều kích tinh thần của nó, bắt đầu sáng tỏ dưới ánh sáng của Kitô giáo.
Gặp Chúa đã thật sự thay đổi đời tôi, vì bây giờ tôi chẳng còn sợ hãi gì nữa
Nhưng chính cuộc gặp gỡ với cha Francesco Zhao, phụ trách cộng đoàn Công giáo Trung Hoa ở Milan, mới thật sự thay đổi đời cô năm 2020. “Cha không bao giờ tìm cách làm tôi theo đạo và lúc đầu tôi cũng chẳng có ý định làm điều đó”, cô nhạc sĩ kể lại; nhờ vị linh mục này, cô đã khám phá ra vẻ đẹp của việc cầu nguyện và bắt đầu theo học giáo lý. “Thật không dễ để hiểu tại sao Chúa Giêsu lại dạy phải tha thứ, đó không phải là điều tôi được học ở Trung quốc. Nếu ai đó làm hại tôi, tôi liền tự nhủ: tại sao tôi lại phải tha thứ cho họ? Nếu tôi làm điều đó, tôi sẽ không tha thứ. Làm sao tôi có thể tha thứ cho họ được? Tôi có thể tha thứ cho chính mình không? Cha mẹ tôi dạy tôi phải tự bảo vệ mình, không được tốt quá vì người ta hay lợi dụng người tốt. Mặt khác, Giáo hội xem nhưng người biết tha thứ đều mạnh mẽ và dũng cảm”, cô gái trẻ nhớ lại, một cô gái luôn được mẹ dạy là không nên tha thứ cho người khác.
Ngày nọ, trước một buổi hòa nhạc, cô đã thử cầu nguyện bằng cách đọc một kinh Kính Mừng và cầu xin Đức Mẹ bảo vệ cô suốt buổi hòa nhạc. “Ngạc nhiên sao, tôi chơi đàn hay hơn và không mắc sai lầm nào. Từ ngày đó, tôi bắt đầu cầu nguyện thường xuyên hơn”, cô giải thích tiếp.
Hy vọng các bạn trẻ ở Trung quốc tìm lại Đức Tin
Ngày 8 tháng Tư 2023, cô lãnh phép Rửa tội tại Thành phố Milan với tên thánh Éléonore. Hiện nay, Yirui cầu nguyện đều đặn và đức tin trở thành một trụ cột trong cuộc sống của cô, cả trên phương diện cá nhân lẫn nghề nghiệp.
Khi trở về quê hương, cô đi nhà thờ ở Hàng Châu, nhà thờ vẫn bị đóng cửa ngoại trừ giờ lễ lúc 6 giờ sáng các ngày trong tuần và một số thánh lễ trong ngày Chúa nhật. Cô cũng nói với cha mẹ về đức tin của mình. “Thấy tôi hạnh phúc như vậy, cha mẹ ủng hộ tôi như các vị đã từng ủng hộ tôi học nhạc”, Yirui tâm sự, sung sướng khi nhận thấy cha mẹ cô có vẻ như cũng quan tâm đến đạo Công giáo. “Cha tôi còn bắt đầu làm dấu (thánh giá) nữa.” Nói vậy chứ chuyện đâu còn có đó. “Cha mẹ tôi vẫn còn làm việc trong trường công ở Trung quốc, do đó sẽ không hay nếu nói nhiều quá về tôn giáo, nhất là bằng điện thoại, vì họ có thể bị nghe lén”, cô gái trẻ nhìn nhận; cô mong sớm được dẫn cha mẹ đi khám phá những ngôi nhà thờ tuyệt đẹp ở Milan, khi cha mẹ cô sang thăm cô ở Ý. “Được gặp Chúa đã thật sự thay đổi đời tôi, vì bây giờ tôi thật sự không sợ hãi điều gì nữa”, cô nhạc sĩ piano kết luận.
Lê Hưng
Chuyển ngữ từ: fr.aleteia.org (15/01/2025
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-viet-nam/weng-yirui-mot-phu-nu-trung-quoc-tro-thanh-tin-huu-cong-giao-nho-khuc-gloria-cua-vivaldi-42468.html
19. Giới thiệu tuyển tập “Thánh ca Năm Thánh 2025”
WHĐ (24/01/2025) - Tuyển tập THÁNH CA NĂM THÁNH 2025 với chủ đề “Những người hành hương của hy vọng” đã được Ủy ban Thánh nhạc phát hành vào ngày 21/01/2025.
Tuyển tập gồm 82 bài ca là những sáng tác mới của 24 tác giả mong được hiệp hành và chung lòng sốt sắng với Dân Chúa khi cử hành các nghi lễ phụng vụ, khi hành hương hoặc lúc cầu nguyện riêng trong năm hồng ân. Các giáo xứ và các cộng đoàn cần sử dụng sách này xin vui lòng liên lạc với Linh mục Nguyễn Duy:
- Email: rochnguyenduy@gmail.com
- Điện thoại: 0907 242 678
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-viet-nam/gioi-thieu-tuyen-tap-thanh-ca-nam-thanh-2025-42471.html
20. Thư gửi sinh viên, học sinh Công Giáo nhân dịp mừng Xuân Ất Tỵ 2025
Giám mục Phêrô Huỳnh Văn Hai
WHĐ (24/01/2025) – Nhân dịp mừng xuân Ất Tỵ, Đức cha Phêrô Huỳnh Văn Hai, Chủ tịch Ủy ban Giáo dục Công giáo có thư gửi sinh viên, học sinh Công giáo. Sau đây là nguyên văn bức thư của Đức cha Phêrô.
ỦY BAN GIÁO DỤC CÔNG GIÁO
trực thuộc
Hội Đồng Giám Mục Việt Nam
THƯ GỬI SINH VIÊN, HỌC SINH CÔNG GIÁO
NHÂN DỊP MỪNG XUÂN ẤT TỴ
Các con thân mến,
Cùng với toàn thể Giáo Hội trên thế giới, chúng ta vừa khai mạc Năm Thánh 2025, mang theo tâm tình “những người hành hương của hy vọng” để bước vào mùa xuân của ân sủng. Giờ đây, chúng ta lại chuẩn bị đón Tết Nguyên Đán năm Ất Tỵ 2025, một sự kiện quan trọng trong phong tục tập quán Việt Nam. Có thể nói rằng, khắp mọi miền đất nước, người người cùng đón Tết, nhà nhà cùng mừng xuân. Cho dù cuộc sống hôm nay có thêm nhiều tiện nghi mới mẽ, những công nghệ trang trí hiện đại đắt tiền, nhưng với cha, những ngày này luôn gợi lại nhiều ký ức khó quên về việc chuẩn bị cho ngày Tết xưa: Dọn nhà, Lau cửa, Lặt lá mai, Làm mới lại các vật dụng trên Bàn thờ… và rất nhiều những công việc khác nữa. Tất cả làm nên một bầu khí thật đặc biệt mỗi khi Tết đến xuân về. Như vậy, chỉ còn ít ngày nữa là chúng ta mừng xuân Ất Tỵ, bước vào một tuổi mới, một chu kỳ mới trong dòng đời của mình, chúng ta cầu xin Chúa chúc lành cho Năm Mới Ất Tỵ này.
1. Năm mới trong cái nhìn đức tin.
“Chúc Mừng Năm Mới”, một câu nói rất quen thuộc mà chúng ta dành tặng cho nhau trong những ngày Tết. Đó là một lời cầu chúc ngắn gọn, nhưng lại bao hàm một ý nghĩa phong phú: một năm mới, một chu kỳ mới cho đời người với tất cả mọi điều mới mẽ tích cực. Nếu như Tết là một thời khắc giao mùa giữa cũ và mới, thì với Thánh Phaolô, sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô chính là cánh cửa, khép lại thời gian của tội lỗi và sự chết, mở ra cho chúng ta “sống một đời sống mới” (Rm 6, 4). Nghĩa là, bởi dòng nước thanh tẩy, chúng ta quyết tâm chết cho con người tội lỗi và yếu đuối của mình, thì giờ đây, cùng với Chúa Phục Sinh, chúng ta được được bước vào một chu kỳ mới trong ân sủng của Người. Như vậy, đời sống của chúng ta, những người tin vào Chúa Phục sinh, là đời sống của những người luôn và phải sống trong tinh thần của Năm mới, vì chúng ta đã mặc lấy con người mới, con người được đổi mới theo hình ảnh của Chúa (x. Cl 3, 10). Cũng trong ý hướng đó, Êdêkien đã loan báo cho dân Chúa bước vào một thời kỳ ngập tràn sắc xuân, chan chứa tình người: “Ta sẽ ban tặng các ngươi một quả tim mới, sẽ đặt thần khí mới vào lòng các ngươi. Ta sẽ bỏ đi quả tim bằng đá khỏi thân mình các ngươi và sẽ ban tặng các ngươi một quả tim bằng thịt” (Ed 36, 26).
Một nghiên cứu khác về chủ đề này được thực hiện và trình bày, có thể làm chúng ta ngạc nhiên. Theo đó, Tết như là một sự kiện đưa mọi người đến gần Thiên Chúa chân thật và duy nhất, thông qua niềm tin vào Con Một của Ngài là Chúa Giêsu. Nghĩa là mỗi khi Tết đến, số tuổi con người được dài thêm, nhưng cuộc đời thì càng ngắn lại. Như thế, ngày chúng ta về trình diện trước mặt Chúa càng đến gần hơn. Chủ đề này không có ý gây chia rẽ hay tạo nên hoang mang, nhưng giúp chúng ta tích cực xây dựng thân thể Chúa Kitô ở trần gian một Hội thánh chân chính và bình an. Với tư cách là những người Kitô hữu, chúng ta được kêu gọi giữ gìn bản thân khỏi những thói quen của một thế giới đang chết dần trong xu hướng tục hóa, để tiếp tục loan báo Tin mừng cho anh chị em mình, nhằm lan rộng chiều kích ơn cứu độ đến cho mọi người.
2. Năm mới trong truyền thống dân tộc.
Tết cổ truyền luôn là ngày lễ lớn nhất trong năm, là thời khắc thiêng liêng mà mọi người tạm gác lại tất cả công việc thường ngày, để sum họp gia đình, kết chặt tình nghĩa họ hàng. Tết cổ truyền của mỗi đất nước đều có những nét đặc trưng riêng, thể hiện bản sắc văn hóa của dân tộc đó. Người Công giáo chúng ta luôn mang trong mình bản sắc văn hóa Việt Nam đa dạng, nhưng các con đừng quên ba mối tương quan mật thiết sau đây.
a. Thờ phượng Thiên Chúa
Khi được hỏi đâu là Điều răn quan trọng nhất, Đức Giêsu đã trả lời: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi” (x. Mt 22, 35-38). Câu trả lời này hoàn toàn không chứa đựng một ý muốn độc quyền trong đức tin và tôn giáo, nhưng Chúa Giêsu muốn giới thiệu và dẫn người ta đi vào một mối tương quan thật mới mẽ và thân tình với Thiên Chúa của mình, một liên hệ mà không một người Do thái nào ở thời điểm đó dám nghĩ đến: “Lạy Cha chúng con…” (Kinh Lạy Cha). Dĩ nhiên lời kinh ấy là cầu xin và ước nguyện của chúng ta, nhưng nó sẽ cho thấy được lý do mà Giáo Hội kêu gọi và dành những giờ phút đầu tiên của Năm mới để cùng nhau hướng về Chúa trong tâm tình cảm tạ và tri ân. Việc làm này vừa thể hiện được nét văn hóa đặc trưng của người Việt trong những ngày Tết, vừa biểu lộ lòng biết ơn và sự khiêm nhường đúng nghĩa khi nhìn nhận rằng: “Bốn mùa Chúa đổ hồng ân. Ngài gieo màu mỡ ngập tràn lối đi” (Tv 65, 12). Một kinh nghiệm nhỏ của cá nhân mà cha muốn chia sẻ với các con như một xác tín rằng: cuộc đời của chúng ta luôn được kết nối bởi những ơn lành của Chúa, kể cả những khi ta không hiểu được những gì đang xảy ra với chính mình. Vậy, chúng ta không những chỉ tạ ơn Chúa trong ngày đầu năm, mà còn phải yêu mến và thờ phượng Chúa ở bất cứ hoàn cảnh nào trong cuộc sống của mình.
b. Tôn kính Cha Mẹ
Từ góc nhìn văn hóa, có thể nói chữ “Hiếu” là cái hồn của Tết Việt. Đạo Hiếu là một truyền thống lớn và nổi bật trong văn hóa Việt Nam. Nghĩa là nó được trải dài trong cuộc sống và con người đất Việt. Tuy nhiên, vào những ngày mừng xuân đón Tết, lòng hiếu thảo được thể hiện một cách đặc biệt hơn qua những phong tục đa dạng và phong phú: Thăm viếng, Mâm cơm, Chúc tuổi, Lì xì, …
Trong các Điều răn mà chúng ta đang tuân giữ, hiếu thảo là bổn phận được đưa lên hàng đầu trong nhóm các việc phải làm và không được phép làm đối với tha nhân. Một lý do giải thích sự quan trọng này là cả Thánh Kinh Cựu Ước và Tân Ước đều nhắc nhở chúng ta phải tôn kính cha mẹ mình. “Hãy tôn kính cha mẹ ngươi, để ngươi được sống lâu trong xứ sở mà Đấng Hằng Hữu, Thiên Chúa của ngươi ban cho ngươi” (Xh 20, 12), “Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này” (Ep 6,1-3). Như thế, việc sống hiếu thảo với ông bà cha mẹ, không những là một nét đẹp văn hóa, mà còn là một phương tiện để đạt đến hạnh phúc ở đời này và đời sau vĩnh cửu. Vậy, Giáo Hội muốn các con sống và thực hành lòng hiếu thảo như thế nào? Sách Giáo Lý của Hội Công Giáo từ số 2214 – 2220 đã hướng dẫn thật đầy đủ và phong phú. Trong phạm vi của những lời nhắn nhủ này, cha muốn tóm gọn lại để các con dễ nhớ trong ba thực hành cụ thể: sự biết ơn, vâng phục và trợ giúp. Ước mong rằng: các con sẽ không dừng lại ở các lễ nghi phong tục của ngày Tết về lòng hiếu thảo, nhưng chúng con phải cầu nguyện cho Ông Bà Cha Mẹ lúc còn sống cũng như đã qua đời.
c. Cầu nguyện cho Tổ Quốc
Sách Giáo Lý của Hội Công Giáo từ số 2238 – 2243 đã nhắc đến bổn phận của một người công dân đối với quê hương đất nước. Trong tinh thần đó, lòng yêu mến và sự phục vụ Tổ quốc phát xuất từ bổn phận của lòng hiếu thảo, biết ơn những người đã mang lại cho chúng ta di sản văn hóa tinh thần, nhớ ơn những người đã chăm lo gìn giữ và xây dựng đất nước nơi mình đang sinh sống. Điều này gợi nhớ đến lời Cầu nguyện thứ 9 trong Phụng vụ thứ sáu Tuần Thánh, thật cảm động và gần gũi, Giáo Hội đã long trọng dâng lời Cầu nguyện cho những nhà lãnh đạo quốc gia, luôn biết hành động theo thánh ý Chúa mà tận tình lo cho dân nước được an cư lạc nghiệp và vui hưởng tự do.
Hướng về cội nguồn trong ngày Tết, thật đẹp lòng Chúa khi chúng ta thêm lời cầu nguyện cho quê hương đất nước của mình, để trước hết, nhờ ơn Chúa ban, “chúng ta được an cư lạc nghiệp mà sống thật đạo đức và nghiêm chỉnh” (x. 1 Tm 2, 2). Đồng thời, khi cầu nguyện cho các vị lãnh đạo đang điều hành đất nước, chúng ta vừa thể hiện lòng biết ơn sâu sắc của mình, nhưng cũng vừa minh chứng nét đẹp truyền thống của văn hóa Tết quê hương.
Các con thân mến, Giáp Thìn đã chuẩn bị rời đi để nhường chỗ cho Ất Tỵ đang về, mang theo những hoài bảo và khát vọng cho một Năm mới tròn đầy hơn. Với tất cả niềm vui và lòng yêu mến, hy vọng và ân sủng của mùa xuân Năm Thánh, cha cầu chúc cho tất cả các con và gia đình một năm mới luôn an bình mạnh khỏe, điềm tĩnh, hiền lành, và thành công trên đường đời, ân sủng trong đường đạo. Các con hãy cố gắng tham dự đầy đủ các Thánh lễ đầu năm để nguyện cầu Chúa Xuân chúc lành và gìn giữ các con. Xin Người thương mến và ban bình an cho các con (x. Ds 6, 24-26).
CHÚC MỪNG NĂM MỚI ẤT TỴ 2025.
Vĩnh Long, ngày 25 tháng Chạp năm Giáp Thìn.
+ Phêrô Huỳnh Văn Hai
Giám mục Giáo Phận Vĩnh Long
Chủ tịch Ủy Ban Giáo Dục Công Giáo
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-viet-nam/thu-gui-sinh-vien-hoc-sinh-cong-giao-nhan-dip-mung-xuan-at-ty-2025-42472.html
21. Con đường: hành hương theo quan điểm Kinh Thánh
Những lý do đầu tiên để bắt đầu một cuộc hành hương là thực hiện lời thề hoặc lời khấn, tuân theo một mệnh lệnh thiêng liêng cảm nhận được, sám hối vì một số lỗi lầm hoặc tội lỗi, tìm kiếm ơn chữa lành khỏi một số đau khổ hay bệnh tật, tạ ơn vì một số ước nguyện đã được ban cho, hoặc xuất phát từ mong muốn được đích thân trải nghiệm một số địa điểm linh thiêng liên quan đến Chúa.
CON ĐƯỜNG: HÀNH HƯƠNG THEO QUAN ĐIỂM KINH THÁNH
Một phương cách tạ ơn và hiệp thông với Thiên Chúa qua nhiều thời đại
WGPQN (24/01/2025) - Mặc dù điều quan tâm nhất ở đây là nền tảng Kinh thánh của những cuộc hành hương, song phải thừa nhận rằng thực hành này không chỉ giới hạn trong truyền thống Do Thái – Kitô giáo. Thời cổ đại, đã có nhiều cuộc hành hương nổi tiếng. Người Ai Cập hành hương đến các đền thờ khác nhau để xin lời khuyên từ thần thánh hoặc để thực hiện lời thề. Ở Hy Lạp cổ đại, một số điểm hành hương được biết đến, trong đó nổi tiếng nhất là đền Delphi. Những người đạo đức đã đến đó để tham khảo "lời sấm" - thường là những dự đoán rất mơ hồ - để đoán về tương lai. Các địa điểm ở Hy Lạp, chẳng hạn như thánh địa Epidaurus hoặc núi Olympas, liên quan đến các cầu xin chữa lành hoặc tìm kiếm sự khôn ngoan từ các thần linh. Trên thực tế, một cách nào đó hầu hết các tôn giáo có tổ chức đều cổ vũ những cuộc hành hương. Ngay cả ngày nay, người Hồi giáo ngoan đạo vẫn thực hiện Hajj (hành hương) hàng năm đến thánh địa Mecca ở Ả Rập Xê Út khi có thể. Tóm lại, cuộc hành hương có tính phổ quát nơi con người.
Nguồn gốc Kinh Thánh
Nhưng nguồn gốc Kinh thánh của những cuộc hành hương thì như thế nào? Kinh thánh nhiều lần đề cập đến các cuộc hành hương. Sớm nhất là những hành trình đến các đền thờ liên quan đến Đức Chúa (Yahweh/Elohim) hoặc các sự kiện mặc khải đặc biệt. Vì thế, có những cuộc hành hương đến Bethel (Stk 35,1), Shiloh (1 Sm 1, 3), Gilgal (Gs 4, 20-22), và những “nơi cao”, được coi là ngự trị của thần linh (1 Sm 9, 12-19). Tất nhiên, những cuộc hành hương sau này đã bị lên án vì liên quan đến ngoại giáo (2 V 23, 5).
Theo thời gian, khi độc thần giáo đã được thiết lập vững chắc, trọng tâm của các cuộc hành hương đã thay đổi. Sau khi Solomon xây dựng Đền thờ Giêrusalem trên Núi Xion, nơi này đã trở thành trung tâm của tôn giáo hiến lễ Do Thái giáo. Đền thờ, đặc biệt là Nơi Cực Thánh (Holy of Holies), được coi là nơi ngự trị của Đức Chúa. Sự hiện diện của Đức Chúa (Shekinah) đã được xác định ở đây. Sau này, truyền thống Do Thái thậm chí còn coi Núi Đền thờ là "rốn của vũ trụ", như một địa điểm hành hương. Tất nhiên, sau khi Giêrusalem và Đền thờ bị người Rôma phá hủy hoàn toàn vào năm 70 sau Công nguyên, không còn một cuộc hành hương đích thực như vậy nữa. Tuy nhiên, trong nhiều thế kỷ, những người Do Thái thuần thành vẫn đến thăm Giêrusalem và đi bộ quanh nó, cầu nguyện và hát thánh ca. Ngày nay, dấu tích của tập tục cổ xưa này có thể được nhìn thấy trong chuyến viếng thăm cầu nguyện đến tất cả những di tích của Đền thờ, Bức tường Than khóc (hoặc Bức tường phía Tây), nơi nhiều người Do Thái sùng đạo vẫn họp nhau cầu nguyện.
Gắn liền với Lễ hội
Cựu Ước kết nối ba cuộc hành hương chính đến Giêrusalem với các lễ hội tôn giáo cụ thể xoay quanh chu kỳ nông nghiệp. Quan trọng nhất là Lễ Vượt Qua (Pesach hoặc lễ Bánh không men), diễn ra vào mùa xuân và gắn liền với vụ thu hoạch lúa mạch. Sau đó là Lễ Ngũ Tuần (Shavuot hoặc Các tuần), diễn ra vào đầu mùa hè và cử hành vụ thu hoạch lúa mì. Cuối cùng, có Lễ lều tạm (Sukkot), diễn ra vào mùa thu vào thời điểm thu hoạch hoa quả, đặc biệt là nho và ôliu.
Mỗi ngày lễ này đều kêu gọi những người Do Thái ngoan đạo hành hương "lên" Giêrusalem – nằm trên một ngọn núi cao - để tạ ơn Đức Chúa, Đấng đã ban tặng mọi sự tốt đẹp của trái đất vì lợi ích của Dân được chọn. Ba cuộc hành hương lễ hội này đã trở thành tiêu chuẩn cho đàn ông con trai Israel (xem Xh 23, 17: “Mỗi năm ba lần, tất cả đàn ông con trai phải đến trước nhan Chúa Tể là Đức Chúa”), những người được mong đợi sẽ tham gia, nếu có thể, để xứng đáng cử hành các nghi lễ tế tự của Đền thờ. Tuy nhiên, như ta thấy trong Tân Ước, đôi khi cả gia đình cùng nhau hành hương, chẳng hạn như Chúa Giêsu, Đức Maria và Thánh Giuse (Lc 2, 41-45). Ngay cả những người Do Thái kiều (Diaspora) sống bên ngoài Palestine cũng sẽ đi đến Giêrusalem để tham dự các lễ trọng, chẳng hạn như Lễ Ngũ Tuần (Cv 2, 5-11), hoặc những người ngoại đạo có thể đến, như trường hợp những người Hy Lạp muốn gặp Đức Giêsu trong ngày lễ hội (Ga 12, 20). Lượng du khách đông đảo đến thành thánh thường có nghĩa là thiếu nơi tạm trú - vì không có khách sạn - khiến cho sự bấp bênh của một cuộc hành hương càng trở nên thách thức hơn.
Nói cách khác, hành hương là một phần bổn phận của Do Thái giáo, đồng thời cũng hình thành nền tảng cho các hoạt động Kitô giáo sau này.
Các Ca Khúc Lên Đền
Cảm xúc rõ ràng nhất đi cùng những người hành hương là Các Ca Khúc Lên Đền (Tv 120-134). Bộ sưu tập này trong sách Thánh Vịnh thể hiện cả niềm vui lẫn sự nhiệt thành đi cùng với những người hành hương trên con đường đến Giêrusalem. Các thánh vịnh mang tính vừa cá nhân vừa cộng đồng. Thật vậy, các cuộc hành hương thường được thực hiện vì lý do cá nhân nhưng có sự đồng hành của những người khác. Hai ví dụ từ các thánh vịnh này cho thấy cảm xúc đi kèm với cuộc hành hương.
Chẳng hạn, Thánh vịnh 122: “Vui dường nào khi thiên hạ bảo tôi: / "Ta cùng trẩy lên đền thánh CHÚA! " / Và giờ đây, Giêrusalem hỡi, / cửa nội thành, ta đã dừng chân. / Giêrusalem khác nào đô thị / được xây nên một khối vẹn toàn” (câu 1-2).
Thánh vịnh 125 nói lên lòng tin tưởng tuyệt đối của những người trung thành nơi Đức Chúa khi họ lên Giêrusalem: “Ai tin tưởng vào CHÚA, khác nào núi Xion / chẳng bao giờ lay chuyển, muôn thuở vẫn trường tồn. / Như núi đồi bao bọc thành Giêrusalem, / CHÚA bao bọc dân Người bây giờ và mãi mãi” (câu 1-2). Thánh vịnh này toát lên lòng tin cậy.
Sự bày tỏ sâu sắc lòng tạ ơn cũng được thể hiện rõ trong những thánh vịnh này, cất lên tiếng nói của niềm vui và lòng biết ơn đối với Đức Chúa đã cứu dân Israel khỏi cảnh lưu đày, bảo vệ họ khỏi hiểm nguy và giải cứu họ khỏi quân thù. Chúng ta có thể tưởng tượng những bài thánh ca này được hát lên khi họ đi qua con đường lên thành thánh, reo hò (và có thể là nhảy múa) trong niềm vui khi bước vào những cánh cổng đồ sộ. Họ đang trở về nhà. Họ đang trở về với mẹ mình, Núi Xion, nơi cư ngự của Đức Chúa Tối Cao. Khi ca hát trên đường đi, hẳn đã khiến cho thời gian trôi qua nhanh hơn, nhưng cũng thúc đẩy tinh thần đoàn kết. Những thánh vịnh này đã củng cố trọng tâm: Hành hương là để cảm tạ Chúa.
Tân Ước và xa hơn nữa
Nếu cội nguồn hành hương nằm sâu trong Cựu Ước, thì chúng cũng hiện diện trong Tân Ước. Đức Giêsu và các môn đệ mình, với tư cách là những người Do Thái trung thành và ngoan đạo, được miêu tả là tham gia trọn vẹn vào truyền thống hành hương. Tin Mừng Gioan nói riêng, đã thuật lại Đức Giêsu nhiều lần lên Giêrusalem dự lễ (so sánh Ga 2, 23; 5,1), mặc dù các Tin Mừng Nhất Lãm dường như nói Ngài tham dự chỉ một Lễ Vượt Qua và đón nhận cái chết của mình. Tuy nhiên, cách hiểu về các cuộc hành hương của Chúa Giêsu đã dần phát triển ít theo nghĩa đen và theo nghĩa bóng nhiều hơn, như chúng ta sẽ thấy.
Một khía cạnh thú vị của dữ liệu Kinh thánh về các cuộc hành hương là từ vựng (vocabulary). Từ ngữ Kinh thánh nói người hành hương thực sự có nghĩa là “người khách lạ” (stranger) hoặc “người tạm trú” (sojourner) - tiếng Do Thái là gēr; tiếng Hy Lạp là xenos hoặc paroikos; và tiếng La tinh là peregrinus. Điều này nhắc nhở chúng ta rằng việc thực hiện một cuộc hành hương đưa chúng ta ra xa, dẫn ta ra khỏi môi trường quen thuộc và đặt chúng ta “trên đường”. Không phải ngẫu nhiên mà các Kitô hữu sơ thời tự cho mình là “đạo” hay “con đường” (Cv 9, 2: “Ông Saolô vẫn còn hằm hằm đe doạ giết các môn đệ Chúa, nên đã tới gặp thượng tế xin thư giới thiệu đến các hội đường ở Đamát, để nếu thấy những người theo Đạo, bất luận đàn ông hay đàn bà, thì bắt trói giải về Giêrusalem”; Cv 19, 9: “Nhưng có một số người cứng lòng, không chịu tin, lại còn nói xấu Đạo trước mặt cộng đoàn, nên ông tuyệt giao với họ”). Nhận thức về bản thân của các Kitô hữu sơ thời nhấn mạnh đến khái niệm mình đang trên một cuộc hành trình. Như Thánh Phaolô khẳng định, quyền công dân của chúng ta không phải dưới đất mà là “ở trên trời” (Pl 3, 20). Do đó, chính cuộc sống cuối cùng là cuộc hành hương, một hành trình nhất quán để trở về nhà, trở về với cội nguồn của chúng ta và đoàn tụ với Đấng Tạo Dựng chúng ta.
Khi thần học Kitô giáo phát triển, thực tại những cuộc hành hương mang tính biểu tượng hơn nữa. Bản thân đời sống Kitô hữu bắt đầu được xem là một cuộc hành hương thiêng liêng dẫn đến thiên đàng và hạnh phúc đích thực (x. Dt 11, 13-16; 1 Pr 2, 11-12). Gần đây hơn, Đức Giáo hoàng Phanxicô tái nhấn mạnh về tính hiệp hành gắn liền với bản chất của Giáo hội như một cộng đồng tín hữu đi cùng nhau tiến về Nước Chúa. Việc Công đồng Vatican II tái khám phá ra khái niệm Giáo hội như một dân tộc “lữ hành” (x. Lumen Gentium, số 48, 50) cũng là một phần của sự triển khai này.
Tại sao mọi người thực hiện các cuộc hành hương, vốn gian khổ, tốn kém và thậm chí nguy hiểm? Như đã nhắc ở trên, các cuộc hành hương ban đầu trong Kinh thánh liên quan đến một số hình thức hiệp thông với Thiên Chúa. Các cuộc hành hương là những dịp để thể hiện lòng sùng kính của một người đối với Chúa và tôn vinh Chúa bằng các hy lễ và cử chỉ tạ ơn. Tuy nhiên, trên thực tế, mọi người qua nhiều thời đại đã tham gia các cuộc hành hương vì nhiều lý do, như có thể thấy trong sự gia tăng các cuộc hành hương từ thời Trung cổ cho đến ngày nay. Một trong những khía cạnh rõ ràng nhất của các cuộc hành hương là chúng không đơn thuần chỉ là những kỳ nghỉ. Đi hành hương không bao giờ đơn thuần là một cách để ngắm nhìn thế giới hoặc tham quan nhưng luôn có những lý do sâu sắc hơn. Người ta không bắt đầu chúng cách tình cờ.
Những lý do đầu tiên để bắt đầu một cuộc hành hương là thực hiện lời thề hoặc lời khấn, tuân theo một mệnh lệnh thiêng liêng cảm nhận được, sám hối vì một số lỗi lầm hoặc tội lỗi, tìm kiếm ơn chữa lành khỏi một số đau khổ hay bệnh tật, tạ ơn vì một số ước nguyện đã được ban cho, hoặc xuất phát từ mong muốn được đích thân trải nghiệm một số địa điểm linh thiêng liên quan đến Chúa. Nhiều người Công giáo ngày nay liên kết các cuộc hành hương với các đền thánh Đức Mẹ nổi tiếng, chẳng hạn như Lộ Đức hoặc Fatima. Nhưng cũng có nhiều đền thánh địa phương khác thu hút sự chú ý ở nhiều quốc gia khác nhau (chẳng hạn như đền thánh Đức Mẹ Czestochowa ở Ba Lan). Ngay cả các giám mục cũng thực hiện một loại hành hương khi, khoảng năm năm một lần, họ đến Rôma để viếng thăm ad limina apostolorum ("đến ngưỡng cửa các tông đồ") để báo cáo với Đức Giáo hoàng về tình hình giáo phận của mình. Một chuyến viếng thăm như vậy luôn bao gồm việc cử hành Thánh lễ tại mộ Thánh Phêrô như một phương cách cụ thể nói lên sự tiếp nối với quá khứ trong cộng đoàn các tông đồ.
Nhưng nếu ai đó không thể thực hiện chuyến hành hương đến một nơi xa xôi thì sao? Không hẳn đây là một trở ngại không thể vượt qua. (Hãy nghĩ đến những chuyến hành hương của các bệnh nhân đến Lộ Đức do các Hiệp sĩ và Quý bà Dòng Malta tài trợ hàng năm!) Nhờ có Internet và phương tiện truyền thông hiện đại, chúng ta có thể trải nghiệm những chuyến hành hương trên ghế bành, một chuyến hành hương có thể truyền cảm hứng cho lòng sùng kính hoặc đáp ứng các nhu cầu tâm linh. Ngay cả khi xem bộ phim như "The Way" (2010) của Emilio Estevez, kể lại một chuyến hành hương như vậy đến Compostela, cũng có thể mang đến cho ai đó cơ hội để suy ngẫm gián tiếp. Cũng có những nguồn khác, chẳng hạn như trên YouTube, mô tả các chuyến tham quan Thánh Địa, hoặc hành trình đến Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ "theo dấu chân của Thánh Phaolô", hoặc đến Rôma và nhiều địa điểm tôn giáo của thành phố này. Có thể đây không phải là những lựa chọn hấp dẫn, nhưng chúng vẫn là những chuyến tham gia mở rộng vào ước muốn cơ bản của con người là tìm cách vượt ra ngoài bản thân, bước vào một không gian linh thiêng nào đó, nơi chúng ta có thể gặp gỡ Thiên Chúa.
Lm. Phaolô Nguyễn Minh Chính
Chuyển ngữ từ:thepriest.com (16/06/2024)
Nguồn: gpquinhon.net (24/01/2025)
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-viet-nam/con-duong-hanh-huong-theo-quan-diem-kinh-thanh-42473.html
TIN GIÁO HỘI HOÀN VŨ
1. Kinh Truyền Tin lễ trọng Đức Maria Mẹ Thiên Chúa
Vatican - Sau khi dâng Thánh lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa, vào lúc 12 giờ trưa, như thường lệ, Đức Thánh Cha đã xuất hiện tại cửa sổ Dinh Tông tòa và đọc kinh Truyền Tin với các tín hữu hiện diện tại Quảng trường Thánh Phêrô.
Trong bài huấn dụ, Đức Thánh Cha nhắc rằng Chúa Giêsu, Thiên Chúa nhập thể làm người, là sự mặc khải về tình yêu vĩnh cửu và vô hạn của Người, Đấng mang lại hòa bình cho thế giới. Và trái tim của Đức Maria, Mẹ của chúng ta, đang đập nhịp niềm hy vọng cứu độ cho mọi người.
Đức Thánh Cha nói:
Anh chị em thân mến, chúc mừng năm mới!
Sự ngạc nhiên và niềm vui của lễ Giáng Sinh tiếp tục được diễn tả trong bài Phúc Âm của phụng vụ hôm nay (Lc 2,16-21). Bài Phúc Âm thuật lại việc các mục đồng đến hang Bêlem. Thật vậy, sau khi được các thiên thần loan báo, họ “hối hả lên đường và gặp thấy Đức Maria, Thánh Giuse và Hài Nhi nằm trong máng cỏ” (c. 16). Cuộc gặp gỡ này khiến mọi người hết sức ngạc nhiên, bởi vì các mục đồng “đã thuật lại những điều họ đã được nghe nói về Hài Nhi” (c. 17): Hài nhi mới chào đời là “Đấng Cứu Thế”, là “Chúa Kitô” (c. 11)!
Chúng ta hãy suy tư về những điều các mục đồng đã nhìn thấy ở Bêlem, tức là Hài Nhi Giêsu, và cả những gì họ đã không nhìn thấy, đó là tâm lòng của Đức Maria, người đã ghi nhớ và suy niệm tất cả những sự kiện này (xem câu 19).
Trước hết là Hài Nhi Giêsu: tên Do Thái này có nghĩa là “Thiên Chúa cứu độ”, và đó chính là điều Người sẽ làm. Thực vậy, Chúa đã đến thế gian để ban cho chúng ta chính sự sống của Người. Chúng ta hãy nghĩ về điều này: tất cả mọi người đều là con và được sinh ra, nhưng không ai trong chúng ta chọn sinh ra. Ngược lại, Thiên Chúa đã chọn sinh ra cho chúng ta: Chúa Giêsu là sự mặc khải về tình yêu vĩnh cửu và vô hạn của Người, Đấng mang lại hòa bình cho thế giới.
Tâm lòng của Đức Maria, Đức Mẹ Đồng Trinh, đồng nhịp với Đấng Mêxia mới sinh, Đấng biểu lộ lòng thương xót của Chúa Cha. Tâm lòng Mẹ là đôi tai đã nghe lời loan báo của tổng lãnh thiên thần Gabrien; tâm lòng này là bàn tay tân nương được trao cho Thánh Giuse; tâm lòng này là vòng tay gần gũi giúp đỡ bà Êlidabét khi về già. Trong trái tim Đức Maria đang đập nhịp niềm hy vọng cứu độ cho mọi thụ tạo.
Các bà mẹ luôn quan tâm đến con cái của mình. Hôm nay, vào ngày đầu tiên của năm mới, ngày cầu nguyện cho hòa bình, chúng ta hãy nghĩ đến tất cả những người mẹ đang vui mừng trong lòng, và nghĩ đến tất cả những người mẹ lòng đầy đau đớn, vì con cái của họ đã bị cướp đi bởi bạo lực, bởi kiêu hãnh, bởi hận thù. Hoà bình đẹp đẽ biết bao, nó làm bừng sáng cuộc sống của các dân tộc! Chiến tranh thật vô nhân đạo, nó làm tan nát tấm lòng của những người mẹ!
Dưới ánh sáng của những suy tư này, mỗi người chúng ta có thể tự hỏi: tôi có biết cách giữ thinh lặng và chiêm ngưỡng sự ra đời của Chúa Giêsu không? Và tôi có cố gắng ghi nhớ Biến cố này, thông điệp về sự tốt lành và ơn cứu độ của nó trong lòng mình không? Và làm thế nào tôi có thể đáp lại một món quà lớn lao như vậy bằng một cử chỉ hòa bình, tha thứ, hòa giải?
Xin Mẹ Maria, Thánh Mẫu Thiên Chúa, dạy chúng ta giữ gìn trong lòng và làm chứng cho niềm vui Tin Mừng trên thế giới.
Sau kinh truyền tin,
Đức Thánh Cha chúc tất cả mọi người, các tín hữu Rôma và các tín hữu hành hương, cũng như tất cả những ai theo dõi qua các phương tiện truyền thông, một năm mới tràn đầy ân sủng và bình an. Ngài cảm ơn Tổng thống Cộng hòa Ý về những lời chúc trong thông điệp gửi đến toàn dân, và Ngài xin đáp lại bằng lời cầu nguyện và chúc ông một năm mới an lành!
Ngài nói: Đức Thánh Cha Phaolô VI đã muốn ngày đầu năm trở thành Ngày Thế Giới Cầu Nguyện cho Hòa Bình. Năm nay, với ý nghĩa của Năm Thánh, ngày này có một chủ đề đặc biệt: đó là việc xóa bỏ các món nợ. Người đầu tiên xóa nợ cho chúng ta chính là Thiên Chúa, như chúng ta vẫn xin Ngài trong Kinh Lạy Cha, khi cầu nguyện về tội lỗi của chúng ta và cam kết tha thứ cho những ai đã xúc phạm đến chúng ta. Ngài nhắc: Năm Thánh mời gọi chúng ta đem sự tha thứ này vào trong thực tế xã hội, để không ai, không gia đình, không dân tộc nào bị nỗi ách nợ đè nén. Vì vậy, Ngài khuyến khích các nhà lãnh đạo các quốc gia có truyền thống Kitô giáo hãy làm gương sáng, xóa bỏ hoặc giảm thiểu càng nhiều càng tốt các món nợ của các quốc gia nghèo hơn.
Ngài cảm ơn tất cả những sáng kiến cầu nguyện và nỗ lực vì hòa bình được các cộng đoàn giáo phận và giáo xứ, các hiệp hội, phong trào và nhóm hội thánh tổ chức khắp nơi trên thế giới, như Cuộc Diễu Hành Quốc Gia vì Hòa Bình đã diễn ra hôm qua tại Pesaro. Ngài cũng gửi lời chào đến những người tham gia cuộc biểu tình "Hòa Bình cho tất cả các miền đất" do Cộng đoàn Sant'Egidio tổ chức ở nhiều quốc gia. Đồng thời, Ngài chào Cộng đoàn Sant'Egidio đang hiện diện tại quảng trường thánh Phêrô.
Sau đó, Ngài xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến tất cả những ai đang làm việc vì đối thoại và đàm phán ở những khu vực đang có xung đột. Ngài mời gọi cùng cầu nguyện để các cuộc chiến tranh trên mọi mặt trận chấm dứt, và tất cả đều hướng đến hòa bình và hòa giải. Ngài nghĩ đến đất nước Ukraina đau khổ, đến Gaza, đến Israel, đến Myanmar, đến Kivu và rất nhiều dân tộc đang phải sống trong chiến tranh. Ngài đã nhìn thấy những hình ảnh trong chương trình "A Sua Immagine" về sự tàn phá mà chiến tranh gây ra. Ngài nói: chiến tranh phá hủy tất cả, luôn luôn là sự tàn phá! Chiến tranh luôn luôn là một thất bại, luôn luôn.
Ngài gửi lời chào thân ái đến tất cả mọi người, các tín hữu và hành hương, đặc biệt là các ban nhạc của một số trường học đến từ Hoa Kỳ: từ Michigan, California, Oklahoma và North Carolina, vì họ đã mang đến những giai điệu tuyệt vời! Ngài cũng chào các tín hữu tại Pontevedra, Tây Ban Nha, và các tình nguyện viên của Fraterna Domus. Và Ngài gửi lời chào đến các em thiếu nhi thuộc nhóm Immacolata: các em hãy luôn chiến đấu vì hòa bình!
Ngài chúc tất cả mọi người một khởi đầu năm mới thật tốt đẹp, với ơn lành của Chúa và Đức Mẹ Vô Nhiễm. Xin đừng quên cầu nguyện cho Ngài.
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-hoan-vu/kinh-truyen-tin-le-trong-duc-maria-me-thien-chua-42323.html
2. ĐHY Phó Giám quản Đền thờ Đức Bà Cả mở Cửa Thánh Đền thờ
Nhân lễ trọng kính Đức Maria Rất Thánh Mẹ Thiên Chúa, Đức Hồng y Giám quản Đền thờ Đức Bà Cả cử hành nghi thức Năm Thánh. Trong bài giảng ngài nhắc lại rằng chúng ta được mời gọi đến với niềm hy vọng vui tươi. Ngài suy tư về món quà thời gian, "thụ tạo của Chúa" và cảnh báo về tác động của các công nghệ mới có nguy cơ không định giá được nó. Không phải chúng mang đến sự “an ủi” trước những khó khăn, lo lắng, mà là khuôn mặt của Đức Trinh Nữ, “con tàu an toàn giữa cơn lũ”.
Vatican News
Cửa Thánh được mở ra giữa tiếng vang của quả chuông “Người Lạc đường”. Chuông này được đưa đến tháp chuông mới của Đền thờ Đức Bà Cả vào năm 1376, điểm cao nhất của trung tâm Roma, và được đặt tại đây cho đến năm 1884. Khi chuông bị nứt và được gỡ xuống và đưa đến Bảo tàng Vatican. Chuông được gióng lên vào lúc 9 giờ tối để nhắc nhớ câu chuyện về người hành hương bị lạc trong đêm và nhờ tiếng chuông đã tìm được đường trở lại thành phố. Từ nay trở đi, câu chuyện về “Người Lạc Đường” sẽ không chỉ đề cập đến người hành hương trẻ tuổi mà còn đề cập đến chính chiếc chuông lịch sử đã quay trở lại Đền thờ sau 140 năm.
Trong bài giảng, Đức Hồng y đã liên kết ý nghĩa của những thánh tích quý giá được lưu kính tại Đền thờ Đức Bà Cả với ý nghĩa của Năm Thánh. Ngài cũng nhắc rằng "Không phải những ý tưởng hay công nghệ sẽ mang lại cho chúng ta niềm an ủi và hy vọng, mà là khuôn mặt của Mẹ Thiên Chúa".
Tiếng Chuông “Người Lạc Đường” - tiếng Mẹ Thiên Chúa kêu gọi chúng ta
Trước tiên là chuông “Người Lạc Đường”. Đức Hồng y nói rằng tiếng chuông “Người Lạc Đường” là tiếng Mẹ Thiên Chúa gọi chúng ta. Ngài nói: "Từ đỉnh đồi Esquilino, điểm cao nhất của trung tâm Roma, kể từ Năm Thánh đầu tiên của Giáo hội, tiếng chuông tiếp tục tỏa lan âm thanh của nó khắp Kinh thành muôn thưở, mang đến niềm an ủi cho mọi người hành hương".
Ngài giải thích rằng âm thanh của chiếc chuông này không chỉ đánh dấu giờ và giờ cầu nguyện, mà còn biến thành âm thanh hình ảnh truyền thống được gán cho Đức Maria, hình ảnh người hướng dẫn và biển chỉ dẫn, Stella Maris (Sao Biển), soi sáng con đường trong đêm tối".
Thời gian - thụ tạo của Thiên Chúa
Ngài nói tiếp: "Không chỉ âm thanh của chuông “Người Lạc Đường” mà cả những lời của Tông Đồ Phaolô: 'Khi thời gian viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con của Người sinh ra bởi một người phụ nữ' (Gl 4,4), hôm nay soi sáng và hướng dẫn suy tư của chúng ta trong Thánh lễ trọng kính Đức Maria Mẹ Thiên Chúa và trong hoàn cảnh đặc biệt của việc mở Cửa Thánh của Đền thờ Giáo hoàng này".
“Thời gian viên mãn”, Đức Hồng y giải thích, là "khi Thiên Chúa trở thành con người và nhập thể trong lòng một người phụ nữ là Đức Maria. Mẹ là con đường Chúa đã chọn; Mẹ là điểm đến của nhiều người và nhiều thế hệ đã chuẩn bị cho việc Chúa đến trong thế giới". Do đó, "Thời gian đạt được sự viên mãn khi nó được kết hợp với vĩnh cửu, nghĩa là với thời gian vô tận của Thiên Chúa".
Đức Hồng y lưu ý rằng thời gian do Chúa tạo dựng. Con người thường muốn gia tăng hoặc hoàn thiện thời gian theo những cách khác nhau bằng các công nghệ mới, nhưng mọi nỗ lực đều kết thúc bằng sự mất mát hoặc theo cách mà chúng ta có thể định nghĩa là "sự mệt mỏi về thời gian". Ngài đưa ra ví dụ về computer hoặc điện thoại di động: được thiết kế để tiết kiệm và làm phong phú thêm thời gian, nhưng chúng thường trở thành kẻ thù tồi tệ nhất của thời gian.
Tuy nhiên, Đức Hồng y nhấn mạnh, "con người không bao giờ có thể cảm thấy lạc lõng, lạc hướng hay mệt mỏi bởi thời gian dành cho Chúa. Đức Trinh Nữ Maria là tâm điểm của thời gian này: Thiên Chúa vui lòng thay đổi lịch sử và thời đại của chúng ta qua Mẹ, Người Nữ Vô Nhiễm Nguyên Tội của dân được tuyển chọn".
Ảnh Đức Maria là Phần rỗi của dân thành Roma - Mẹ nhận biết các thời gian và sự khẩn cấp của các con của Mẹ
Tiếp tục bài giảng, Đức Hồng y suy tư về bức ảnh Đức Maria là Phần rỗi của dân thành Roma và nói rằng Mẹ nhận biết các thời gian và sự khẩn cấp của các con của Mẹ. Ngày lễ hôm nay các tín hữu đặc biệt tôn vinh bức ảnh được tôn kính trong Đền thờ. Đây cũng là lòng sùng kính của người Roma và của các tín hữu trên thế giới đối với Đức Mẹ. Đức Hồng y nhắc lại lời của Đức Thánh Cha khi cử hành Thánh lễ tại Đền thờ cách đây 7 năm.
“…Mẹ bảo vệ đức tin, bảo vệ các tương quan, cứu giúp khi thời tiết xấu và bảo vệ khỏi sự dữ. Nơi có Đức Mẹ, ma quỷ không vào. Ở đâu có Mẹ, rối loạn không thắng thế, sợ hãi không thống trị. Ai trong chúng ta không cần điều này, ai trong chúng ta không đôi khi bối rối hay bồn chồn?"
"Biết bao lần trái tim là biển giông bão, nơi những làn sóng khó khăn chồng lên nhau và những cơn gió lo âu không ngừng thổi! Đức Maria là chiếc tàu an toàn giữa đại lụt. Không phải những ý tưởng hay công nghệ sẽ mang lại cho chúng ta niềm an ủi và hy vọng, mà là khuôn mặt của Mẹ Thiên Chúa”.
"Bàn tay của Mẹ Maria vuốt ve cuộc đời chúng ta, áo choàng của Mẹ che chở chúng ta, cũng như Mẹ bảo vệ chúng ta trong vòng tay của Mẹ - vòng tay của một người trong chúng ta! - Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ".
Đức Hồng y nói rằng các tín hữu hành hương bước qua Cửa Thánh của Đền thờ Đức Bà Cả trong Năm Thánh và cầu nguyện trước Linh ảnh Mẹ Thiên Chúa và trước Nôi Thánh Chúa Giêsu sẽ có ảm giác và sự chắc chắn rằng Mẹ Thiên Quốc đang ở bên mình. Mọi người sẽ bắt đầu từ đây với sự chắc chắn rằng mình được ân sủng, sự bảo vệ, chăm sóc và dịu hiền mẫu tử của Đức Maria đồng hành.
Ngài nhấn mạnh rằng việc chúng ta đến với Mẹ sẽ trở thành việc Mẹ đi đến với chúng ta và ở với chúng ta. "Như Mẹ đã đi theo Chúa Giêsu Con của Mẹ - từ khi sinh ra cho đến khi chết, trong những lúc vui tươi cũng như trong những giờ phút đau đớn đen tối - Mẹ, với tư cách là một Người Mẹ, đồng hành cùng toàn thể Giáo Hội và mỗi tín hữu hướng tới Con của Mẹ. Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa và Mẹ chúng ta, Mẹ là người quyết định trong thời viên mãn, Mẹ cũng là người quyết định đối với cuộc sống của mọi Kitô hữu. Bởi vì không ai biết rõ thời gian và sự cấp bách của con cái mình hơn Mẹ".
Chiếc Nôi Thánh - chứng nhân thầm lặng về việc Chúa Giêsu giáng sinh.
Cuối cùng, Đức Hồng y nói đến Chiếc Nôi Thánh được lưu kính tại Đền thờ Đức Bà Cả, một chứng nhân thầm lặng về việc Chúa Giêsu giáng sinh.
Đền thờ Đức Bà Cả còn được gọi là Bêlem của phương Tây, bởi vì nơi đây có lưu kính thánh tích Nôi Thánh, ngôi nhà khiêm nhường và nghèo khó đầu tiên của Chúa Giêsu. Đức Hồng y lưu ý rằng từ chứng nhân âm thầm về sự giáng sinh của Con Thiên Chúa, nhân loại đã bắt đầu đếm những năm của kỷ nguyên Kitô giáo: "thời gian của chúng ta được xác định chính xác bắt đầu từ Cái nôi đó!".
Ngài nhắc lại rằng những người hành hương Kitô giáo đầu tiên đến máng cỏ của Chúa Giêsu là các mục đồng. Các mục đồng, trong đêm thánh đó, mang theo cốt lõi của Kitô giáo: lên đường gặp Chúa, đi theo ngôi sao của Người.
Đền thánh Đức Bà Cả cổ kính này nằm ở trung tâm Roma, ngay trung tâm của một con đường có cấu trúc hình ngôi sao gợi nhớ đến Ngôi sao Bêlem. Theo Đức Hồng y, ngôi sao này gói gọn một cách hoàn hảo sứ mạng của Đền thờ: trở thành một ngôi sao sáng, phục vụ Ánh sáng Chân thật, biểu thị Đấng Cứu Thế, Thiên Chúa thật và là người thật, được sinh ra bởi Đức Trinh Nữ Maria. Do đó, từ 1.600 năm qua, Đền thờ này đã như ngôi sao Bêlem, nơi truyền bá lời loan báo của thiên thần gửi đến các mục đồng: đừng sợ hãi, nhưng lên đường đến với Chúa.
Mọi người đều được mời gọi đến với cùng niềm hy vọng
Kết thúc bài giảng, Đức Hồng y mời gọi cộng đoàn cầu xin "ân sủng để Năm Thánh này thúc đẩy chúng ta bước về phía Chúa với mối quan tâm đích thực và chân thành đối với những người thân yêu của chúng ta, đối với người nghèo, người bệnh, đối với những người đã mất đi con đường chân lý, niềm vui và của hòa bình".
Bởi vì "Tất cả chúng ta đều được mời gọi đến với cùng niềm hy vọng này, không có sự phân biệt. Tất cả chúng ta đều có thể bước đi trên con đường hy vọng vui tươi này. Mọi người! Và Mẹ Maria ở bên cạnh tất cả mọi người, không có ngoại lệ. Giống như một người mẹ, Mẹ yêu thương tất cả các con và luôn chăm sóc tất cả".
Cảm nghiệm được sự gần gũi nhất trìu mến nhất của người mẹ
Và Đức Hồng y mời gọi cộng đoàn đón nhận lời Đức Thánh Cha, trong Sắc chỉ công bố Năm Thánh Spes non confundit, "mời gọi những người hành hương đến Roma hãy dừng lại cầu nguyện tại các đền thánh Đức Mẹ của thành phố để tôn kính Đức Trinh Nữ Maria và cầu xin sự bảo vệ của Mẹ". Đức Thánh Cha viết: "Tôi tin tưởng rằng tất cả mọi người, đặc biệt là những người đau khổ và sầu khổ, sẽ có thể cảm nghiệm được sự gần gũi nhất trìu mến nhất của những người mẹ, những người không bao giờ bỏ rơi con cái mình. Đối với Dân thánh của Thiên Chúa, Mẹ là 'dấu hiệu của niềm hy vọng chắc chắn và niềm an ủi' (Niềm Hy vọng không làm thất vọng, số 24)”.
Phó thác cuộc đời, thời gian của chúng ta cho Mẹ Thiên Chúa
Và Đức Hồng y kết thúc với lời mời gọi: "Hôm nay, vào đầu Năm Thánh, chúng ta hãy phó thác cuộc đời, thời gian của chúng ta cho Mẹ Thiên Chúa, để Mẹ dẫn chúng ta đến với Chúa Giêsu: thời gian viên mãn, của mọi thời gian, của thời gian của mỗi người chúng ta. Amen".
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-hoan-vu/dhy-pho-giam-quan-den-tho-duc-ba-ca-mo-cua-thanh-den-tho-42324.html
3. Đức Cha Phêrô Lê Tấn Lợi làm Giám mục Chính tòa Cần Thơ
Ngày 1/1/2025, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chấp thuận cho Đức Cha Stêphanô Tri Bửu Thiên từ nhiệm. Đức Cha Phêrô Lê Tấn Lợi, hiện là Giám mục phó Giáo phận, kế vị Giám mục Chính tòa Giáo phận Cần Thơ.
Vatican News
Tiểu sử Đức Cha Phêrô Lê Tấn Lợi
- Sinh ngày 28 tháng 07 năm 1972, tại giáo xứ An Hội, Cần Thơ. Gia đình hiện nay thuộc giáo xứ Hậu Bối, hạt Trà Lồng, giáo phận Cần Thơ
- 1991-1993: Dự tu lớp Carôlô của giáo phận Cần Thơ
- 1993-2000: Học tại Đại Chủng Viện Thánh Quý, Cái Răng, Cần Thơ
- Được truyền chức linh mục ngày 22 tháng 06 năm 2000
- 2000-2003: Phó xứ giáo xứ Phụng Hiệp, hạt Đại Hải, giáo phận Cần Thơ
- 2004-2011: Du học tại đại học Giáo Hoàng Urbaniana (Università Urbaniana), Rôma; tốt nghiệp học vị Tiến sĩ Thần Học Thánh Kinh
- Từ năm 2011 đến 2023: Phục vụ tại Đại Chủng Viện Thánh Quý, Cần Thơ:
o Đặc trách Chủng Sinh giáo phận Cần Thơ
o 2012-2018: Trưởng Ban Thánh Kinh, giáo phận Cần Thơ
o 2017 đến 2023: Giám học Đại Chủng Viện Thánh Quý
o 2015 đến nay: Giáo sư thỉnh giảng tại Đại Chủng Viện Đức Mẹ Vô Nhiễm (Bùi Chu).
- Ngày 25 tháng 03 năm 2023, Đức Thánh Cha Phanxicô đã bổ nhiệm linh mục Phêrô Lê Tấn Lợi, làm giám mục phó giáo phận Cần Thơ
- Được truyền chức giám mục ngày 18 tháng 05 năm 2023 tại Trung tâm Mục vụ giáo phận Cần Thơ, với khẩu hiệu giám mục: “Chúa biết con”
- Ngày 01 tháng 01 năm 2025: Giám mục chính toà giáo phận Cần Thơ
Tiểu sử Đức Cha Stêphanô Tri Bửu Thiên
- Sinh ngày 15 tháng 02 năm 1950 tại Trà Lồng, Long Mỹ, Hậu Giang
- Học tại Tiểu Chủng Viện Thánh Quý Cái Răng từ năm 1963 đến năm 1971
- Học tại Giáo Hoàng Học Viện Pio X Đà Lạt từ 1972 đến năm 1977
- Được truyền chức linh mục ngày 22 tháng 07 năm 1987 tại nhà thờ Xuân Hòa, Đại Hải, giáo phận Cần Thơ
- 1987-1992: Chánh xứ giáo xứ Xuân Hòa, hạt Đại Hải
- 1992 - 1994: Giáo sư tại ĐCV Thánh Quý, Cần Thơ
- 1994 -1999: Du học Rôma, tốt nghiệp học vị Tiến sĩ Thần Học Luân Lý
- 1999-2007: Giáo sư thường trú Đại Chủng Viện Thánh Quý, Cần Thơ kiêm chánh xứ giáo xứ Cái Răng
- Ngày 26 tháng 11 năm 2002 Tòa Thánh bổ nhiệm làm giám mục phó giáo phận Cần Thơ
- Ngày 18 tháng 02 năm 2003 được truyền chức giám mục phó giáo phận Cần Thơ tại Đại Chủng Viện Thánh Quý, Cái Răng, Cần Thơ với khẩu hiệu giám mục: "Ðến Với Muôn Dân"
- Ngày 17 tháng 10 năm 2010: Giám mục Chánh tòa giáo phận Cần Thơ
- Ngày 01 tháng 01 năm 2025: Nghỉ hưu
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-hoan-vu/duc-cha-phero-le-tan-loi-lam-giam-muc-chinh-toa-can-tho-42325.html
4. Các Giám mục Hàn Quốc kêu gọi chính phủ và các bên liên quan cải thiện an toàn hàng không
Trong một tuyên bố, sau vụ tai nạn máy bay thảm khốc tại sân bay quốc tế Muan, các Giám mục Hàn Quốc bày tỏ nỗi đau và cú sốc không thể diễn tả, đồng thời kêu gọi chính phủ và các bên liên quan thực hiện các biện pháp cải thiện an toàn hàng không nhằm tránh lặp lại những thảm kịch tương tự.
Vatican News
Ngày 29/12/2024, chiếc máy bay Boeing 737-800 của hãng hàng không Jeju Air, chở 181 người gồm 175 hành khách và 6 thành viên phi hành đoàn, đã gặp tai nạn nghiêm trọng tại sân bay quốc tế Muan, tỉnh Nam Jeolla, Hàn Quốc. Trong số 181 người trên máy bay, 179 người đã thiệt mạng. Tai nạn đã gây chấn động dư luận và làm dấy lên nhiều cáo buộc liên quan đến trách nhiệm và an toàn hàng không.
Trước những phản ứng này, cùng với tình trạng hỗn loạn chính trị sâu sắc trong giai đoạn hiện tại, trong một tuyên bố, Đức cha Mathias Ri Iong-hoon, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Hàn Quốc viết: “Sự phát triển khoa học và công nghệ làm cho đời chúng chúng ta thêm phong phú, nhưng đồng thời cũng mang đến những hình thức nguy hiểm và đe doạ mới. Mặc dù không thể ngăn chặn trước hoàn toàn tất cả các yếu tố rủi ro này nhưng các bên liên quan và cơ quan chính phủ phải loại bỏ chúng một cách tốt nhất có thể.”.
Thay mặc các Giám mục Hàn Quốc, Đức cha Chủ tịch mời gọi mọi người, trong khi chờ kết quả điều tra nguyên nhân vụ tai nạn, và trước “cú sốc đau đớn”, ưu tiên hàng đầu không phải là “tìm ra ai chịu trách nhiệm”. Trái lại, chính phủ và các bên liên quan cần phải thực hiện các biện pháp cải thiện an toàn hàng không nhằm tránh lặp lại những thảm kịch tương tự.
Cuối cùng hướng về người thân của các nạn nhân, xác định “lời an ủi thôi thì chưa đủ”, các Giám mục hy vọng “Thiên Chúa nhân hậu sẽ đón nhận linh hồn các nạn nhân và chạm đến nỗi đau và vết thương của các gia đình đang đau buồn”.
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-hoan-vu/cac-giam-muc-han-quoc-keu-goi-chinh-phu-va-cac-ben-lien-quan-cai-thien-an-toan-hang-khong-42326.html
5. Đức Thánh Cha kêu gọi các lãnh đạo thế giới xóa nợ cho các quốc gia nghèo hơn
Sau khi đọc Kinh Truyền Tin vào trưa ngày 1/1/2025, Đức Thánh Cha đã mạnh mẽ kêu gọi các nhà lãnh đạo chính trị, thúc giục họ "làm gương bằng cách xóa hoặc giảm đáng kể các khoản nợ của các quốc gia nghèo nhất".
Vatican News
Một lần nữa, Đức Thánh Cha nhấn mạnh lời nói "không" với chiến tranh và tuyên bố rằng nó "luôn hủy diệt". Ngài cũng thúc giục để không một quốc gia hay dân tộc nào "bị đè bẹp bởi nợ nần".
Tha nợ cho các nước nghèo hơn
Đức Thánh Cha nói: "Thiên Chúa là Đấng đầu tiên tha các nợ nần, như chúng ta luôn cầu xin trong 'Kinh Lạy Cha'. Năm Thánh kêu gọi chúng ta biến sự tha thứ này thành các điều khoản xã hội để không có cá nhân, gia đình hay dân tộc nào bị đè nặng bởi nợ nần. Tôi khuyến khích các nhà lãnh đạo của các quốc gia có truyền thống Kitô giáo làm gương bằng cách xóa hoặc giảm đáng kể các khoản nợ của các quốc gia nghèo nhất".
Cảm ơn những người kiến tạo hòa bình
Tiếp đến, Đức Thánh Cha tiếp tục gửi lời cảm ơn chân thành đến tất cả những người đang nỗ lực ngoại giao để thúc đẩy công lý và hòa bình tại các khu vực xung đột trên toàn cầu. Ngài nói: "Tôi bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với tất cả những người đang nỗ lực hướng tới đối thoại và đàm phán tại nhiều khu vực đang bị xung đột tàn phá. Chúng ta hãy cầu nguyện để chấm dứt mọi cuộc chiến và tập trung quyết liệt vào hòa bình và hòa giải. Tôi nghĩ đến Ucraina, Gaza, Israel, Myanmar, [Bắc] Kivu đang bị chiến tranh tàn phá và rất nhiều dân tộc khác đang sống trong xung đột".
Ngài cũng cảm ơn những người tổ chức các cuộc biểu tình và các buổi cầu nguyện để duy trì niềm khao khát hòa bình. Có rất nhiều sáng kiến ở mọi nơi trên thế giới, nơi đi đầu là các cộng đồng giáo phận và giáo xứ, các hiệp hội, phong trào và các nhóm giáo hội. Đặc biệt, Đức Thánh Cha nhắc lại cuộc tuần hành quốc gia truyền thống vì hòa bình diễn ra lần này tại Pesaro, được tổ chức bởi Ủy ban về các vấn đề xã hội và việc làm, công lý và hòa bình của Hội đồng Giám mục Ý, Caritas Ý, Công giáo Tiến hành, Phong trào Hòa bình Chúa Kitô ở Ý, Phong trào Focolari, Agesci, Acli, Libera với Tổng giáo phận Pesaro và Urbino-Urbania-Sant'Angelo ở Vado. Ngài cũng chào những người tham gia sự kiện “Hòa bình ở mọi vùng đất” do Cộng đồng Thánh Egidio tổ chức ở nhiều quốc gia khác nhau.
Chiến tranh luôn là chiến bại
Đức Thánh Cha nhắc đến chương trình truyền hình Ý "A Sua Immagine" (Theo hình ảnh Người); ngài cho biết ngài đã xem các cảnh quay và hình ảnh mô tả sự tàn phá do chiến tranh gây ra trên chương trình này. Ngài lặp lại: "Chiến tranh tàn phá. Nó luôn tàn phá! Chiến tranh luôn là một chiến bại. Luôn luôn. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến tất cả những người đang đấu tranh vì hòa bình".
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-hoan-vu/duc-thanh-cha-keu-goi-cac-lanh-dao-the-gioi-xoa-no-cho-cac-quoc-gia-ngheo-hon-42333.html
6. Những sự kiện quan trọng dự kiến diễn ra tại Vatican trong năm 2025
Năm Thánh, các chuyến tông du, các cử hành, là những sự kiện mà theo trang internet Công giáo "Aleteia" tiếng Tây Ban Nha, có thể đánh dấu năm 2025 của Đức Thánh Cha và Vatican.
Các giai đoạn của Năm Thánh
Năm 2025, về cơ bản, sẽ được đánh dấu bằng các giai đoạn khác nhau của Năm Thánh: bắt đầu vào ngày 24/12/2024 với việc Đức Thánh Cha Phanxicô mở Cửa Thánh tại Đền thờ Thánh Phêrô, và sau đó Cửa Thánh tại nhà tù Rebibbia, ngày 26/12. Các Cửa Thánh còn lại được mở trong Năm Thánh 2025 là tại 3 Đền thờ Giáo hoàng khác ở Roma: Đền thờ Thánh Gioan Laterano, vào ngày 29/12/2024; Đền thờ Đức Bà Cả vào ngày 01/01/2025, và Đền thờ Thánh Phaolô Ngoại Thành vào Chúa nhật ngày 05/01/2025.
Những sự kiện lớn trong năm 2025 là Năm Thánh Thế giới Truyền thông (24-26/1/2025); Năm Thánh của Lực lượng Vũ trang, Cảnh sát và An ninh (8-9/2); Năm Thánh của nghệ sĩ (15-18/02); Năm Thánh Phó tế (21-23/2); Năm Thánh Tình nguyện viên (8-9/3).
Bên cạnh đó cũng có Năm Thánh các Thừa sai Lòng Thương Xót (28-30/3); Năm Thánh Bệnh nhân và Lĩnh vực Y tế (5-6/4); Năm Thánh Thanh thiếu niên (25-27/4); Năm Thánh Người Khuyết tật (28-29/4); Năm Thánh Công nhân (1-4/5); Năm Thánh Doanh nhân (4-5/5); Năm Thánh các Ban nhạc (10-11/5); Năm Thánh của các Giáo hội Đông phương (12-14/5).
Tiếp đến sẽ là Năm Thánh của các Huynh đoàn, được tổ chức từ 16-18/5; Năm Thánh Gia đình, Trẻ em, Ông bà và Người cao tuổi (30/5-1/6); Năm Thánh của các Phong trào, Hiệp hội và Cộng đoàn mới (7-8/6).
Trong số các sự kiện, sẽ có Năm Thánh của Tòa Thánh (9/6); Năm Thánh của Giới Thể thao (14-15/6); Năm Thánh của Chính phủ (20-22/6); Năm Thánh của các chủng sinh (23-24/6); Năm Thánh của các Giám mục (25/6); Năm Thánh của các Linh mục (25-27/6); Năm Thánh các nhà truyền giáo kỹ thuật số và những người Công giáo có ảnh hưởng (28-29/7); Năm Thánh giới trẻ (28/7-3/8); Năm Thánh An Ủi (15/9), nhắm đến tất cả những người đang trải qua thời kỳ đau đớn và phiền muộn vì bệnh tật, tang chế, bạo lực và lạm dụng.
Cuối cùng sẽ là Năm Thánh của ngành Công lý (20/9); Năm Thánh Giáo lý viên (26-28/9); Năm Thánh Thế giới Truyền giáo (4-5/10); Năm Thánh Người Di cư (4-5/10); Năm Thánh Đời sống Thánh hiến (8-9/10); Năm Thánh Linh đạo Thánh Mẫu (11-12/10); Năm Thánh Thế giới Giáo dục (31/10-2/11); Năm Thánh Người nghèo (16/11); Năm Thánh các Ca đoàn và Hợp xướng (21-23/11); và Năm Thánh của các Tù nhân (14/12).
Trong số những ngày quan trọng liên quan đến Năm Thánh, đã có ngày ấn định cho hai lễ phong thánh: lễ phong thánh cho Chân phước Carlo Acutis, sẽ diễn ra vào ngày 27/4, Năm Thánh Thanh Thiếu Niên; và lễ phong thánh cho Chân phước Pier Giorgio Frassati, sẽ được cử hành vào ngày 03/8, Năm Thánh Giới Trẻ.
Năm Thánh sẽ kết thúc vào ngày 6/01/2026, lễ Hiển Linh. Dự kiến có 34 triệu du khách sẽ đến Roma trong Năm Thánh này.
Cuốn tự truyện mới của Đức Thánh Cha Phanxicô
Chưa đầy một năm sau khi xuất bản cuốn tự truyện “Cuộc đời: Câu chuyện của tôi qua lịch sử”, cuốn sách mới dày 400 trang tựa đề “Hy vọng”, nói về cuộc đời Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ được ra mắt vào ngày 14/01/2025 bởi khoảng 10 nhà xuất bản, trong đó có cả nhà xuất bản Albin Michel ở Pháp.
Nhà xuất bản Random House cho biết, theo kế hoạch ban đầu thì sách sẽ chỉ được phát hành sau khi Đức Thánh Cha qua đời. Tuy nhiên, nghĩ đến ích lợi cho mọi người, ngài đã quyết định xuất bản trong Năm Thánh Hy vọng 2025.
Trong đoạn trích đầu tiên, được báo “Người đưa tin chiều” của Ý công bố vào ngày 17/12/2024, Đức Thánh Cha tiết lộ chi tiết về hai vụ mưu sát mà ngài đã thoát khỏi trong chuyến viếng thăm Iraq vào năm 2021.
Một Lễ Phục Sinh chung
Năm 2025 này sẽ có tính biểu tượng đại kết mạnh mẽ, với việc cử hành chung Lễ Phục sinh vào cùng ngày 20/4, thông qua sự thống nhất giữa lịch Giulianô (được Chính thống giáo và các Giáo hội Đông phương sử dụng) và lịch Grêgôrianô (được Công giáo Latinh và các hệ phái Kitô khác sử dụng).
Trong buổi tiếp kiến với nhóm làm việc liên tôn “Pasqua Together 2025-Phục sinh cùng nhau 2025” tại Vatican vào tháng 9/2024, Đức Thánh Cha giải thích sáng kiến về ngày lễ này là điều cần thiết cho sự đáng tin cậy của chứng tá Kitô giáo.
Ngài nhấn mạnh: “Trong nhiều dịp, tôi đã nhận được lời kêu gọi tìm kiếm một giải pháp cho vấn đề thống nhất ngày lễ Phục sinh, để việc cử hành chung ngày Chúa sống lại không còn là một luật trừ nữa, nhưng trở thành điều bình thường”.
Một chuyến tông du có thể đến Thổ Nhĩ Kỳ vào tháng 5
Một tháng sau lễ Phục sinh năm 2025, Đức Thánh Cha có thể đặt nền móng mới để tăng cường mối quan hệ giữa Chính thống giáo và Công giáo trong chuyến tông du đến Nixêa, nay là thành phố Iznich, ở phía bắc Thổ Nhĩ Kỳ. Ngài có thể thực hiện chuyến đi này với Đức Thượng Phụ Bartolomeo I vào cuối tháng 5, nhân dịp kỷ niệm 1700 năm Công đồng được tổ chức tại thành phố này, công đồng đặc biệt dẫn đến việc xác định Kinh Tin Kính. Trong một lá thư gửi Thượng phụ Constantinople vào ngày 30/11/2024, Đức Thánh Cha cho biết việc chuẩn bị cho một cuộc gặp có thể đã bắt đầu.
Hiện tại, không có chuyến đi nào khác trong chương trình nghị sự, vì sức khỏe của Đức Thánh Cha và lịch trình bận rộn của Năm Thánh dường như thu hẹp các khả năng của các chuyến viếng thăm. Những kế hoạch còn lại được đề cập thường xuyên là việc Đức Thánh Cha về thăm quê hương Argentina của ngài, có thể kết hợp với các điểm dừng ở Quần đảo Canary và Uruguay.
Chuyến đi tới Ấn Độ dự kiến vào năm 2026 vẫn đang được nghiên cứu. Ở châu Âu, Serbia và Kosovo có thể là những điểm đến phù hợp với mong muốn của Đức Thánh Cha là bày tỏ sự ưu ái các quốc gia mà chưa một vị tiền nhiệm nào của ngài từng đến thăm. Việc bổ nhiệm một Hồng y gần đây ở Belgrade có thể cho thấy một dấu hiệu về mặt này.
Tiếp tục tiến trình hiệp hành
Phiên họp thứ hai của Thượng Hội đồng về Hiệp hành, quá trình suy tư rộng lớn bắt đầu vào năm 2021 nhằm làm cho Giáo hội Công giáo trở nên toàn diện hơn, có tính tham gia nhiều hơn và ít tính giáo sĩ hơn, đã chính thức kết thúc vào ngày 27/10/2024. Nhưng trên thực tế, công việc vẫn đang diễn ra.
Một mặt, 10 nhóm làm việc do Đức Thánh Cha thành lập để nghiên cứu một số vấn đề nhạy cảm – lãnh đạo chung, cải cách chủng viện, phó tế phụ nữ, v.v. – phải đưa ra kết luận vào tháng 6/2025. Mặt khác, Tài liệu chung kết của Thượng Hội đồng, mà Đức Thánh Cha đã ký, đưa ra những hướng dẫn cụ thể cho các giáo phận về việc trao quyền cho giáo dân. Cả một chương trình chỉ mới bắt đầu.
Phiên tòa phúc thẩm tòa nhà Luân Đôn
Sau 86 phiên xét xử, ngày 16/12/2023, phiên toà tại Vatican do thẩm phán Giuseppe Pignatone chủ trì đã tuyên phạt 10 bị cáo liên quan đến việc Phủ Quốc vụ khanh Toà Thánh mua toà nhà ở số 60 Đại lộ Sloane ở Luân Đôn trong các giai đoạn giữa năm 2014 và 2018 từ doanh nhân người Ý Raffaele Mincione, người vào thời điểm đó đang quản lý hàng trăm triệu euro thuộc các quỹ của Phủ Quốc vụ khanh Toà Thánh.
Toà cho rằng các bị cáo đã phạm tội tham ô trong việc sử dụng bất hợp pháp, vi phạm các luật về quản lý tài sản của Giáo hội, với tổng số tiền là hơn 200 triệu đô-la Mỹ, tương đương với khoảng một phần ba số tiền mà Phủ Quốc vụ khanh Tòa Thánh có thời đó. Số tiền này được thanh toán từ năm 2013 đến 2014, theo quyết định của Đức Tổng giám mục Phụ tá Quốc vụ khanh Tòa Thánh bấy giờ là Angelo Becciu.
Với các tội phạm này, toà đã tuyên án các bị cáo, từ phạt hành chính đến hình sự, đến hơn 7 năm tù. Tòa án cũng ra lệnh tịch thu số tiền 166 triệu euro từ những người bị kết án và yêu cầu họ bồi thường cho các bên dân sự số tiền hơn 200 triệu euro.
Tòa án nhìn nhận tội trạng của Đức Hồng Y Becciu và ông Raffaele Mincione đã liên hệ trực tiếp với Phủ Quốc vụ khanh để được khoản thanh toán, cả khi không có những điều kiện dự kiến xảy ra, lạm dụng chức vụ và xúi giục các nhân chứng vi phạm trách nhiệm. Với tội phạm này, Đức Hồng Y Becciu bị tuyên án với mức 5 năm 6 tháng tù giam, 8.000 euro tiền phạt và cấm vĩnh viễn không được đảm nhận các chức vụ công quyền.
Phần thứ hai của vụ việc dự kiến sẽ bắt đầu vào năm 2025, nhưng vẫn chưa ấn định ngày nào. Người kế nhiệm Chủ tịch Tòa án Vatican, ông Giuseppe Pignatone, người đã nghỉ hưu vì lý do tuổi tác, sẽ phải phụ trách vụ việc.
Hướng tới việc bổ nhiệm nữ Tổng trưởng đầu tiên?
Đức Thánh Cha Phanxicô vẫn chưa thực hiện lời hứa mà ngài đã đưa ra vào cuối năm 2022: “trong vòng hai năm” đưa một phụ nữ lên làm Tổng trưởng của một Bộ của Toà Thánh. Trong một cuộc phỏng vấn gần đây với “Canal Orbe 21” đài truyền hình Công giáo Argentina, Đức Thánh Cha nhắc lại ý định này, đồng thời bày tỏ mong muốn “ngày càng có nhiều phụ nữ” tham gia Giáo triều Roma. Dù lần này ngài không cho biết ngày cụ thể nhưng việc bổ nhiệm “nữ Tổng trưởng” có thể sẽ diễn ra trong thời gian ngắn.
Trong trường hợp này, một số người đang nghĩ đến một trong hai người, đó là Phó Tổng Thứ ký Bộ Giáo dân, Gia đình và Sự sống, bà Gabriella Gambino hoặc Tổng Thư ký Bộ tu sĩ, Sơ Simona Brambilla.
Kỷ niệm Công đồng Vatican II và ngày qua đời của Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II
Ngày 02/4/2025 sẽ đánh dấu 20 năm ngày qua đời của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Mặc dù hiện tại cả Vatican lẫn cộng đoàn Ba Lan ở Roma đều chưa công bố một chương trình sự kiện chính xác, nhưng vào ngày đó, dự kiến sẽ có một số cử hành. Lễ kỷ niệm này có lẽ sẽ là một trong những cử hành cuối cùng diễn ra với sự hiện diện của những cộng tác viên thân cận của Đức Giáo Hoàng người Ba Lan.
Một cử hành quan trọng khác sẽ là kỷ niệm 60 năm kết thúc Công đồng Vatican II, vào ngày 08/12/2025. Trong số các giám mục trực tiếp tham gia Công đồng, chỉ có ba vị còn sống đến ngày nay, trong số đó có Đức Hồng Y người Nigeria Francis Arinze, 92 tuổi, vẫn là một nhân vật năng động và được kính trọng trong số các hồng y sống ở Roma. Được bổ nhiệm làm giám mục phụ tá của Onitsha vào tháng 8/1965, ở tuổi 32, Đức Hồng Y đã tham gia phiên họp cuối cùng của Công đồng.
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-hoan-vu/nhung-su-kien-quan-trong-du-kien-dien-ra-tai-vatican-trong-nam-2025-42334.html
7. Các Giáo hội tại Á Châu khai mạc Năm Thánh
Chúa Nhật ngày 29/12/2024, các giáo phận trên toàn thế giới, từ các giáo phận ở Việt Nam, cho đến Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, đã hiệp thông với Giáo hội hoàn vũ, long trọng khai mạc Năm Thánh với sự tham dự của đông đảo tín hữu.
Hồng Thủy - Vatican News
Chúa Nhật ngày 29/12/2024, tại Roma, Đức Hồng y Baldo Reina, Giám quản Giáo phận Roma, vị đại diện Đức Thánh Cha cai quản giáo phận Roma, đã chủ sự Thánh lễ mở Cửa Thánh tại Đền thờ Thánh Gioan ở khu vực Laterano của Roma, Nhà thờ Chính tòa của giáo phận Roma, giáo phận của Đức Thánh Cha, và do đó cũng là Nhà thờ Chính tòa của ngài. Đền thờ này là nhà thờ Mẹ của các nhà thờ trên thế giới. Nghi lễ mở Cửa Thánh tại Đền thờ Thánh Gioan Laterano cũng đánh dấu việc khai mạc Năm Thánh 2025 tại tất cả các giáo phận trên toàn thế giới. Năm Thánh này, theo ý muốn của Đức Thánh Cha, có chủ đề là "Những người hành hương hy vọng".
Tổng giáo phận Hà Nội
Tại Việt Nam, các giáo phận đã hiệp thông với Giáo hội hoàn vũ, long trọng khai mạc Năm Thánh với sự tham dự của đông đảo tín hữu. Tổng giáo phận Hà Nội khai mạc Năm Thánh với Thánh lễ do Đức Tổng Giám mục Giuse Vũ Văn Thiên chủ sự, và đặc biệt, có sự hiện diện của Đức Tổng Giám mục Marek Zalewski – Đại diện Toà Thánh thường trú tại Việt Nam.
Mở đầu nghi thức, Đức Tổng Giám mục của Hà Nội lưu ý rằng Năm Thánh là năm hồng ân, trong đó tín hữu được kín múc ơn cứu độ từ thập giá Đức Ki-tô, được hoà giải, sám hối và canh tân. Năm Thánh cũng là năm thế giới đón nhận ơn lành và hòa bình.
Trong bài giảng, ngài giải thích với cộng đoàn về nghi thức khai mạc Năm Thánh đã diễn ra đơn sơ nhưng đầy ý nghĩa. Cánh cửa là chính Chúa Giêsu. Cánh cửa ấy không chỉ mở ra không gian mới, mà còn mở ra một thời gian mới để mọi tín hữu đón nhận hồng ân, trở thành những người hành hương của hy vọng trong một thế giới còn tối tăm của hận thù, chia rẽ. Cánh cửa ấy còn nói lên điều vô cùng kỳ diệu, đó là mở cửa cho con người bước vào Giáo hội. Nghi thức làm phép nước và rảy nước thánh nhắc lại bí tích Rửa Tội, khi con người được trở nên con Thiên Chúa.
Tuy nhiên, Đức Tổng Giám mục lưu ý rằng chúng ta không chỉ bước qua ngưỡng cửa và đứng yên đó, nhưng như lời mời gọi của vị cha chung Giáo hội toàn cầu, mỗi người hãy lên đường hành hương. Hành hương không phải du lịch mà là suy tư, cầu nguyện, dọn mình chịu các Bí tích. Dù thế giới có nhiều bóng tối, Đức Tổng mời gọi cộng đoàn đặt niềm hy vọng vào Đức Giêsu. Ngài mời gọi cầu nguyện, canh tân chính bản thân, tìm niềm hy vọng cho chính mình và mang niềm hy vọng lan toả trong đời sống mỗi người. (Web TGPHN 29/12/2024)
Tổng Giáo phận Sài Gòn
Tại Sài Gòn, chủ sự Thánh lễ khai mạc Năm Thánh, Đức Tổng Giám mục Giuse Nguyễn Năng của Tổng giáo phận Sài Gòn khích lệ các tín hữu rằng giữa thế giới đầy dẫy những đau khổ và tăm tối, từ chiến tranh, nghèo đói, di cư, cho đến sự hủy diệt môi trường, "Chúng ta hãy sống niềm hy vọng Kitô giáo, trở thành những người lan tỏa niềm hy vọng ấy cho những ai đang đau khổ. Chính chúng ta là những người hành hương hy vọng, mang lại niềm tin và sự an ủi cho thế giới xung quanh". Ngài cũng nhắn nhủ mọi người "thực hành lòng thương xót, bằng cách trở thành niềm hy vọng cho những người xung quanh". Ngài nói thêm: "Mỗi lần thực hành lòng thương xót, chúng ta sẽ nhận được ơn toàn xá, và đây là cơ hội để chúng ta làm lan tỏa niềm hy vọng Kitô giáo, làm ngọn lửa sưởi ấm những trái tim lạnh giá".
Điều quan trọng được Đức Tổng Giám mục Sài Gòn nhắc nhở là: "Chúng ta hãy cầu nguyện để khơi dậy niềm hy vọng trong tâm hồn, vì chỉ khi cầu nguyện, chúng ta mới nhận ra rằng: dù cuộc đời hiện tại đầy tăm tối, chúng ta vẫn có thể nhìn thấy ánh sáng hy vọng ở cuối đường hầm. Chúng ta không chỉ sống cho chính mình, mà còn cần lan tỏa niềm hy vọng này cho mọi người, trở thành niềm hy vọng cho những người đau khổ. Khi chúng ta làm như vậy, chúng ta sẽ thực sự sống trọn vẹn với ý nghĩa của Năm Thánh này”. (Web TGPSG 29/12/2024)
Giáo phận Thượng Hải
Tại Trung Quốc, từ Thượng Hải đến Bắc Kinh, nhiều cộng đồng Công giáo cùng với các Giám mục và linh mục của họ đã cùng nhau cử hành Thánh lễ khai mạc Năm Thánh vào thứ Bảy ngày 28/12, để các linh mục và Giám mục có thểcử hành phụng vụ Chúa Nhật tại các giáo phận và giáo xứ của họ. Tham dự Thánh lễ khai mạc Năm Thánh, ngoài các tín hữu, còn có nhiều người hiếu kỳ, đặc biệt là giới trẻ.
Tại Thượng Hải, Thánh lễ khai mạc Năm Thánh của giáo phận được Đức Cha Giuse Thẩm Bân (Shen Bin) chủ sự. Trong bài giảng, Đức Cha Giuse Thẩm khuyến khích mọi người “nhen lại ngọn lửa hy vọng trong trái tim chúng ta bằng sức mạnh mà Lời Chúa ban cho chúng ta, và truyền niềm hy vọng này đến mọi người bằng những hành động cụ thể, trở thành những người xây dựng hòa bình, những người mang lại hòa bình cho anh chị em chúng ta đang gặp khó khăn, cho người bệnh tật và người nghèo, người trẻ, người di tản, người cô đơn và người già”.
Sau bài giảng, Đức Cha chỉ định 6 nhà thờ và đền thánh của giáo phận là địa điểm mà các tín hữu có thể hành hương Năm Thánh để lãnh nhận ơn toàn xá. Trong số các địa điểm này có đền thánh Đức Mẹ Xà Sơn (Sheshan). Sau đó toàn thể cộng đoàn long trọng đọc lời nguyện Năm Thánh, cử hành việc sám hối cộng đồng (theo yêu cầu để lãnh nhận ơn toàn xá liên quan đến Năm Thánh) và nhận phép lành của Đức Giám mục. Đức Cha nói: “Trong Năm Thánh 2025, tất cả chúng ta sẽ có thể cảm nghiệm được tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa một cách dồi dào hơn, và nhờ đó giữ cho ngọn lửa hy vọng luôn bùng cháy và thực hành các công việc bác ái và lòng thương xót một cách nhiệt thành”. (Fides 29/12/2024)
Tổng Giáo phận Seoul
Nhà thờ Myeongdong trở thành tâm điểm của cộng đồng Công giáo Seoul vào ngày 29/12 khi Đức Tổng Giám mục Peter Soon-taick Chung chủ sự Thánh lễ khai mạc Năm Thánh 2025.
Trước bàn thờ là Thánh giá của Năm Thánh Hy vọng, được chế tác từ những sợi dây sắt lấy từ Khu phi quân sự (DMZ) chia cắt Bắc và Nam Triều Tiên, mang ý nghĩa sâu sắc như một biểu tượng của hy vọng và hòa giải.
Trong bài giảng, Đức Tổng Giám mục Chung đã chia sẻ với cộng đoàn một thông điệp mạnh mẽ về bản chất của hy vọng. Ngài nói: “Hy vọng không chỉ là một mong muốn thụ động; đó là một đức tin kiên định trước những thách thức”, đồng thời kêu gọi các tín hữu nắm bắt Năm Thánh như một cơ hội cho sự canh tân một cách có ý nghĩa và tham gia tích cực vào công lý trong cộng đồng của họ. Ngài giải thích thêm rằng “Hy vọng khuyến khích chúng ta đối mặt với thực tế khắc nghiệt của thế giới và tin vào khả năng thay đổi của chúng ta, cả trong cuộc sống và trong xã hội của chúng ta”.
Tổng Giám mục của Seoul cũng thu hút sự chú ý đến ý nghĩa của Thánh giá Năm Thánh. Ngài khẳng định: “Đây là minh chứng hùng hồn cho khát vọng chung của chúng ta về hòa bình tại Hàn Quốc. Nó kêu gọi chúng ta nhìn xa hơn những thách thức cá nhân và cam kết chữa lành và đoàn kết với những người đang phải chịu đựng khó khăn”. Ngài nhấn mạnh tiềm năng biến đổi của hy vọng tập thể khi nói rằng “Hy vọng thực sự mang sức mạnh định hình không chỉ trái tim chúng ta mà còn cả cấu trúc xã hội của chúng ta, truyền cảm hứng cho chúng ta sống cuộc sống phục vụ và yêu thương”.
Thánh lễ thu hút nhiều giáo dân khác nhau, bao gồm các linh mục giáo phận, thành viên của các cộng đồng tôn giáo và các đại biểu trẻ, tất cả cùng nhau cam kết chung về hành trình đức tin. Giáo hội tại Seoul kêu gọi các tín hữu làm việc để biến đổi cả cuộc sống cá nhân và xã hội nói chung, thể hiện tinh thần phục vụ và lòng trắc ẩn.
Giáo phận Kalookan của Philippines
Tại Philippines, Đức Hồng y Pablo Virgilio David của giáo phận Kalookan đã kêu gọi các tín hữu Công giáo hãy đón nhận sứ mạng là “Những người hành hương của hy vọng” khi Giáo hội chính thức khai mạc Năm Thánh 2025. Ngài mô tả tín hữu hành hương là một loại lữ khách đặc biệt.
Ngài nói trong bài giảng: “Người hành hương là một loại lữ khách độc đáo. Không giống như những người có hành trình du lịch, kinh doanh hoặc các mục đích khác, người hành hương du hành với lòng sùng kính thiêng liêng. Đó là lý do tại sao tôi đề xuất dịch thuật ngữ này là 'Những người du hành mộ đạo của hy vọng'".
Suy tư về sự lạc quan của người Philippines, Đức Hồng y David đã nhấn mạnh một cuộc khảo sát gần đây cho thấy 96% người Philippines bày tỏ hy vọng về một tương lai tốt đẹp hơn vào năm 2024, ngay cả trong nghịch cảnh. Ngài cho rằng sức bền bỉ này là nhờ đức tin mạnh mẽ của đất nước. “Mức độ hy vọng cao của chúng ta bắt nguồn sâu sắc từ niềm tin rằng ‘Nơi nào có sự sống nơi đó có hy vọng’. Bất chấp những thử thách mà chúng ta phải đối mặt, chúng ta luôn giữ vững niềm tin rằng ‘Chúa là Đấng nhân từ’ và ‘Chúa sẽ chăm lo mọi thứ’”.
Tuy nhiên, Đức Hồng y David thừa nhận rằng hy vọng này không phải là phổ quát. Nhiều người Philippines vẫn tiếp tục sống trong cảnh nghèo đói hoặc chịu đựng những điều kiện vô nhân đạo, trầm trọng hơn do thiên tai và những thách thức của xã hội. Ngài nhấn mạnh rằng chủ đề “Những người hành hương của hy vọng” đóng vai trò như một lời mời gọi thắp lại đức tin và lòng can đảm. Ngài giải thích: “Đức Giáo hoàng Phanxicô đã chọn chủ đề này để khôi phục bầu không khí tin tưởng và tự tin, thắp lại ngọn lửa hy vọng trong chúng ta và giúp mọi người có thêm sức mạnh và sự chắc chắn khi chúng ta hướng tới tương lai với trái tim rộng mở, sự bình yên trong tâm hồn và một chân trời rộng mở”.
Đức Hồng y nhắc nhở các tín hữu rằng hy vọng Kitô giáo bắt nguồn từ tình yêu của Thiên Chúa: “Tình yêu là nền tảng của hy vọng của chúng ta; chúng ta kiên trì vì chúng ta được Thiên Chúa yêu thương” và trích dẫn Thánh Phaolô: “Không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa, dù là sự chết, hiện tại hay tương lai” (x. Rm 8,39).
Kêu gọi sự hiệp nhất và hành động tập thể theo tinh thần hiệp hành, Đức Hồng y chỉ vào biểu tượng Năm Thánh, mô tả Dân Chúa trên một chiếc thuyền vượt biển động với Thánh giá là mỏ neo và nói: “Chúng ta được kêu gọi biến đổi các mối quan hệ của mình để phát triển trong tình bạn và sự hiệp thông, để học cách tin tưởng và lắng nghe nhau”.
Khuyến khích các tín hữu đón nhận vai trò của mình là những tông đồ truyền giáo, Đức Hồng y David nói: “Là những người hành hương của hy vọng, chúng ta được sai đi thành lập một cộng đồng tông đồ truyền giáo. Năm Thánh thường niên 2025 là cơ hội tốt nhất để bắt đầu định hình tính hiệp hành trong các cộng đồng giáo hội cơ bản, giáo xứ và giáo phận của chúng ta. Cùng nhau, chúng ta hành trình trong hy vọng. Cùng nhau, chúng ta bước đi trong tình yêu”.
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-hoan-vu/cac-giao-hoi-tai-a-chau-khai-mac-nam-thanh-42335.html
8. Số tín hữu hành hương Đền thánh Giacôbê ở Tây Ban Nha tăng kỷ lục trong năm 2024
Số tín hữu hành hương đến Đền thánh Giacôbê tại Santiago de Compostela, đông bắc Tây Ban Nha, tăng kỷ lục. Các chuyên gia ước tính số người hành hương khoảng 1,5 triệu người, bao gồm cả những người không yêu cầu giấy chứng nhận.
Vatican News
Theo Văn phòng hành hương tại nhà thờ chính tòa Santiago de Compostela, trong năm qua, Văn phòng đã trao giấy chứng nhận cho 500.000 tín hữu đến kính viếng mộ của thánh Giacôbê, là những người đã thực sự đi trên con đường thánh Giacôbê. Con số này cho thấy mức tăng 12% so với năm trước và là mức cao nhất trong lịch sử Đền thánh.
Các chuyên gia ước tính số người hành hương thực tế vượt hơn 1,5 triệu người, vì nhiều người đã hoàn thành hành trình mà không yêu cầu giấy chứng nhận. Sự gia tăng này đã khẳng định lại vị thế của hành trình này là một trong những cuộc hành hương tôn giáo và văn hóa quan trọng nhất trên toàn thế giới.
Trong năm 2024, số tín hữu hành hương nước ngoài chiếm 58% tổng số. Trong đó, đứng đầu là người Mỹ, tiếp đến là người Ý, Đức, Bồ Đào Nha, Anh và Pháp. Các tín hữu của Tây Ban Nha, hầu hết đến từ Andalusia (23%), Madrid (17%) và Valencia (12%).
Truyền thống hành hương đến mộ thánh Giacôbê tông đồ có từ thế kỷ thứ VIII và Santiago là một trong những nơi hành hương chính của Giáo hội Công giáo. Không chỉ mang ý nghĩa tâm linh và văn hoá sâu sắc, con đường này còn là hành trình giúp khám phá chính mình, kết nối và hiệp nhất đối với các tín hữu và cả những người chưa tin. Khi cùng đi trên con đường này, những người hành hương xuất phát từ những hoàn cảnh, tôn giáo khác nhau, tìm được nguồn cảm hứng chung và tình người.
Khi lập kỷ lục mới, con đường hành hương Đền thánh Giacôbê tiếp tục toả sáng như một biểu tượng toàn cầu về đức tin, giao lưu văn hoá và canh tân cá nhân, kết nối các thế hệ và biên giới trong một hành trình chung có mục đích.
Những con số lịch sử của năm 2024 phản ánh tầm quan trọng lâu dài của con đường hành hương này. Cho dù được thúc đẩy bởi đức tin, văn hoá hay sự biến đổi cá nhân, hàng triệu người hành hương tiếp tục tìm thấy ý nghĩa sâu sắc trong hành trình có truyền thống xa xưa này.
Ngày 25/7, lễ kính thánh Giacôbê Tiền, chính là cao điểm trong cuộc hành hương của các tín hữu.
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-hoan-vu/so-tin-huu-hanh-huong-den-thanh-giacobe-o-tay-ban-nha-tang-ky-luc-trong-nam-2024-42337.html
9. 900.000 người kính viếng thi hài Chân phước Carlo Acutis trong năm 2024.
Đức cha Domenico Sorrentino, Giám mục Assisi cho biết trong năm 2024, có 900.000 người đến kính viếng thi hài Chân phước Carlo Acutis, được đặt tại nhà thờ Santa Maria Maggiore ở Asissi, cũng được gọi là đền thánh Spogliazione, bởi vì tại quảng trường này Thánh Phanxicô đã cởi bỏ y phục quyền quý, dấu hiệu của sự từ bỏ của cải trần thế.
Vatican News
Tại buổi giới thiệu sách mới gần đây, tựa đề “Carlo Acutis theo vết chân của Phanxicô và Clara của Asissi: Bản gốc, không phải bản sao”, Đức cha Domenico Sorrentino giải thích rằng Chân phước Carlo Acutis an nghỉ tại thành phố Asissi vì muốn theo bước chân của hai vị thánh này. Chân phước đã đón nhận linh đạo của Thánh Phanxicô và Thánh Clara và thể hiện nơi tuổi trẻ của mình. Cuộc sống của Carlo là một cuộc sống bình thường, hàng ngày như những người trẻ khác, nhưng tập trung vào cuộc gặp gỡ Chúa và lòng sùng kính Đức Maria.
Theo Đức cha, với một cuộc sống đơn sơ nhưng đầy lòng yêu mến Chúa như thế, Carlo đã thu hút nhiều người đến với mình. Trong năm 2024, có 900.000 người đến kính viếng thi hài Chân phước, được đặt tại đền thánh Spogliazione ở Asissi.
Giám mục Assisi cũng nói rõ ngài muốn viết cuốn sách này như sự chuẩn bị cho việc phong thánh, đồng thời cũng giải thích ý nghĩa của đền thánh, nơi thi hài Chân phước yên nghỉ. Khi nghĩ về Thánh Phanxicô và Thánh Clara và di sản của các ngài, chúng ta luôn hình dung những người mặc áo dòng, các nữ tu dòng kín hoặc dòng ba Phanxicô. Carlo không phải như vậy, nhưng điều gắn kết vị Chân phước với hai vị thánh này là bài ca tạo vật, như mẹ Chân phước nói “Carlo yêu mến bài ca này đến mức tuyên bố đây là bài thơ hay nhất”.
Trong cuốn sách, Giám mục Assisi trả lời những câu hỏi được nhiều người đặt ra: Tại sao Carlo Acutis lại an nghỉ ở Assisi? Giữa người trẻ Milano và hai vị thánh này có mối quan hệ như thế nào? Và những chi tiết chưa được công bố sau khi ngài qua đời cũng được trình bày trong sách.
Tại buổi giới thiệu sách, cha Francesco Piloni, tu sĩ Dòng Phanxicô nói về cuốn sách: “Một điều rất đơn giản làm tôi chú ý: khi đến các đan viện nữ, Carlo xin cầu nguyện cho bạn bè, vì 'họ không có Chúa Giêsu'". Cha bày tỏ mong muốn khi cầu nguyện xin ơn chuyển cầu của Chân phước Carlo và Thánh Phanxicô, chúng ta cầu nguyện đặc biệt cho giới trẻ, cho niềm hy vọng vào tương lai.
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-hoan-vu/900000-nguoi-kinh-vieng-thi-hai-chan-phuoc-carlo-acutis-trong-nam-2024-42338.html
10. Ý cầu nguyện của Đức Thánh Cha trong tháng 1: Cầu cho quyền được giáo dục
Trong video ý cầu nguyện của Đức Thánh Cha trong tháng 1/2025, Đức Thánh Cha bảo vệ "quyền được giáo dục" của các trẻ em và người trẻ, những người vì di dân hay di tản vì chiến tranh không có được quyền này. Ngài mời gọi cầu nguyện để quyền được giáo dục của họ được tôn trọng.
Vatican News
Mở đầu video Đức Thánh Cha nói rằng "Ngày nay, chúng ta đang chứng kiến một 'thảm họa giáo dục'. Đây không hề là một sự phóng đại". Ngài giải thích: "Do hậu quả của chiến tranh, di cư và nghèo đói, khoảng 250 triệu trẻ em trai và gái trên toàn cầu đang bị tước đi quyền được giáo dục.
Gián đoạn giáo dục vì di dân, di tản
Trên thực tế, tiến trình giáo dục cho trẻ em và người trẻ di dân và di cư bị gián đoạn vì họ phải di tản khỏi quê hương. Nhiều trường học ở các vùng xung đột hay trại tị nạn không có đủ tài liệu giáo dục hay cơ sở hạ tầng thích hợp, và thiếu cả giáo viên được đào tạo. Hơn nữa, khi họ di cư đến các quốc gia hay vùng khác, tình trạng di dân khiến họ không được đến trường và hậu quả là không có được tương lai tốt đẹp hơn.
Giáo dục là nguồn hy vọng cho mọi người
Đức Thánh Cha khẳng định rằng "Mọi trẻ em và thanh thiếu niên đều có quyền được đến trường, bất kể tình cảnh di trú của họ". Ngài nói thêm: "Giáo dục chính là một nguồn hy vọng cho tất cả mọi người", bởi vì "nó có thể giải thoát những người di cư và tị nạn khỏi sự kỳ thị, thoát khỏi các mạng lưới tội phạm và nạn bóc lột". Ngài cũng than phiền: "Biết bao nhiêu trẻ em đang phải chịu cảnh bị bóc lột!". Do đó, giáo dục là điều thiết yếu. "Giáo dục có thể giúp các em hòa nhập vào những cộng đồng tiếp đón".
Đức Thánh Cha nhấn mạnh: "Giáo dục mở ra những cánh cửa đến tương lai tươi sáng hơn. Nhờ vậy, những người di cư và tị nạn có thể đóng góp cho xã hội, dù là tại quốc gia mới hay quốc gia gốc, nếu họ chọn quay trở về".
Tôn trọng quyền được giáo dục
Kết thúc video, Đức Thánh Cha mời gọi: "Chúng ta hãy cầu nguyện cho những người di cư, những người tị nạn, và những ai bị ảnh hưởng bởi chiến tranh, để quyền được giáo dục của họ, điều vốn cần thiết để xây dựng một thế giới nhân văn hơn, luôn được tôn trọng".
Video ý cầu nguyện cho thấy sự dấn thân của Giáo hội trên tuyến đầu để bảo đảm quyền được giáo dục cho các trẻ em và người trẻ trong những hoàn cảnh phức tạp nhất.
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-hoan-vu/y-cau-nguyen-cua-duc-thanh-cha-trong-thang-1-cau-cho-quyen-duoc-giao-duc-42346.html
11. Hơn 21.000 bạn trẻ Mỹ tham dự hội nghị tìm kiếm Chúa Giêsu vào đầu năm mới
Hơn 21.000 người đã tham gia hội nghị dành cho thanh thiếu niên Công giáo lớn nhất trong năm tại Hoa Kỳ, được tổ chức tại hai địa điểm. SEEK25, do Hội sinh viên đại học Công giáo tổ chức, diễn ra từ ngày 1 đến ngày 5/1/2025 tại Salt Lake City và từ ngày 2 đến ngày 5/1/2025 tại thủ đô Washington.
Hồng Thủy - Vatican News
Năm nay, số lượng đăng ký đạt kỷ lục mới với 17.274 người tham gia trả phí tại Salt Lake City. Ngoài địa điểm thứ hai tại thủ đô Washington, với 3.355 người đăng ký, hội nghị SEEK còn có một hội nghị nhỏ hơn tại Cologne, Đức, năm nay có 486 người tham dự đã đăng ký. Hơn 100 linh mục và phó tế tham dự Thánh lễ khai mạc SEEK 25 tại Salt Lake City.
Một lượng lớn người tham dự tại Salt Lake City đến từ các cơ sở của Hội sinh viên đại học Công giáo, nơi các nhà truyền giáo của tổ chức này giúp xây dựng các cộng đồng Công giáo trong khuôn viên trường.
Trong khi SEEK hướng đến sinh viên đại học, những người lớn trong chương trình “Làm môn đệ truyền giáo”, cũng như các gia đình có con nhỏ, cũng tham dự sự kiện này.
Bài phát biểu quan trọng đầu tiên của hội nghị là của Arthur Brooks, một tác giả và giáo sư của Harvard, người đã nói về hạnh phúc. Ông đã nhấn mạnh rằng sự hài lòng không phải là vĩnh viễn và hạnh phúc đến từ việc có ý nghĩa trong cuộc sống. “Lý do của cuộc sống của bạn là tối quan trọng”. Ông lưu ý rằng nhiều người trong nền văn hóa của chúng ta đã gặp phải tình trạng mất ý nghĩa; ông liên hệ điều này với cuộc khủng hoảng sức khỏe tâm thần. Theo ông, thật khó để tìm thấy hạnh phúc khi bạn không biết “lý do” của cuộc sống của mình.
Tammy Peterson, người dẫn chương trình podcast nổi tiếng, phát biểu tại phiên thảo luận nhóm SEEK25 ở Salt Lake City về lòng biết ơn và việc cô mới theo đạo Công giáo. Còn Trent Horn đã chia sẻ câu chuyện hoán cải của mình trong bài nói chuyện có tên “Tại sao chúng ta là người Công giáo”.
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-hoan-vu/hon-21000-ban-tre-my-tham-du-hoi-nghi-tim-kiem-chua-giesu-vao-dau-nam-moi-42347.html
12. ĐHY Giám quản Đền thờ Thánh Phaolô ngoại thành mở Cửa Thánh Đền thờ
Sáng Chúa Nhật ngày 5/1/2025, Đức Hồng y James Harvey, Giám quản Đền thờ Thánh Phaolô ngoại thành, đã chủ sự nghi thức mở Cửa Thánh Đền thờ. Ngài nói rằng Năm Thánh 2025 mời gọi chúng ta trở thành những người hành hương, bước đi trên các nẻo đường thế giới loan báo về Chúa Kitô Phục Sinh. Ngài nhắc lại lời Đức Thánh Cha rằng chúng ta không được chỉ thỏa mãn với việc có niềm hy vọng, nhưng cũng cần tỏa ra hy vọng, là người gieo hy vọng, món quà đẹp nhất mà Giáo hội trao cho nhân loại.
Hồng Thủy - Vatican News
Đây là Cửa Thánh cuối cùng của bốn Đền thờ Giáo hoàng được mở trong Năm Thánh 2025. Nghi thức bắt đầu với những lời của Thánh Vịnh 122: "Vui dường nào khi thiên hạ bảo tôi: 'Ta cùng trẩy lên đền thánh Chúa!'"...
Sau lời nguyện, Đức Hồng y chủ tế đã đến gần Cửa Thánh và đọc: "Hỡi cửa công chính hãy mở cho tôi vào, để tôi vào tạ ơn Thiên Chúa" và mở Cửa Thánh. Sau khi cầu nguyện trong giây lát, ngài cùng cộng đoàn Dòng Biển Đức tại đan viện Thánh Phaolô và một số đại diện dân Chúa cùng bước qua Cửa Thánh, tiến về bàn thờ chính, trong khi ca đoàn hát bài Thánh ca "Những người hành hương hy vọng", là Thánh ca Năm Thánh 2025.
Vui mừng và hy vọng
Trong bài giảng, nhắc lại Thánh vịnh 122, Đức Hồng y James Harvey chia sẻ về niềm vui và niềm hy vọng, hai yếu tố đi đôi với nhau trong phụng vụ mở Cửa Thánh. Ngài nói: "Vui mừng bởi vì Đấng Cứu Thế đã sinh ra; hy vọng bởi vì Chúa Kitô là niềm hy vọng của chúng ta!". Ngài giải thích rằng niềm vui là đặc tính của mùa Giáng Sinh khi chúng ta chiêm ngắm kế hoạch diệu kỳ của Thiên Chúa, khi chúng ta được trở thành con Thiên Chúa nhờ Chúa Giêsu Kitô. Thiên Chúa Nhập Thể không chỉ để ở giữa chúng ta nhưng còn vì mỗi người chúng ta, để thông ban sự sống của Người cho chúng ta, để chúng ta được kết hiệp mật thiết với Chúa Cha. Vui mừng vì chúng ta được cứu độ nhờ Chúa Giêsu Kitô. Chúa Cha giàu lòng thương xót đã sai Con của Người đến cứu độ chúng ta. Chúa Con đã khiêm nhường đón nhận cái chết trên thập giá để xóa tội trần gian và cho chúng ta bước vào chiều kích của "niềm hy vọng ân phúc", trong lời hứa về sự sống đời đời.
Với đức tin, đi qua Cửa Thánh là đi vào lòng thương xót và tha thứ
Đức Hồng y nhấn mạnh rằng việc mở Cửa Thánh đánh dấu con đường cứu độ được Chúa Kitô mở ra bằng sự nhập thể, cái chết và phục sinh của Người và bằng việc mời gọi mọi thành phần của Giáo hội hòa giải với Thiên Chúa và tha nhân. Do đó, ngài lưu ý, "Đi qua Cửa Thánh Đền thờ này, với đức tin, chúng ta đi vào lòng thương xót và tha thứ, ... để con đường hy vọng không làm thất vọng được mở ra cho mỗi người (xem Rm 5,5)".
Những ai hy vọng sẽ sống khác đi, bởi vì họ đã được ban sự sống mới
Tiếp tục bài giảng, Đức Hồng y Giám quản Đền thờ Thánh Phaolô nói rằng thế giới hiện nay cần hy vọng biết bao, đặc biệt là sau đại dịch, giữa bao thương tích của chiến tranh và khủng hoảng môi trường thiên nhiên. Hy vọng là điều kết nối với tương lai nhưng chúng ta có thể cảm nghiệm nó trong hiện tại. Bởi vì, như Đức cố Giáo hoàng Biển Đức viết trong Thông điệp "Spe salvi", "hy vọng Kitô giáo mang lại một chiều kích nguyên thủy trong tương quan giữa hiện tại và tương lai". Với ơn cứu độ trong Chúa Giêsu, "chúng ta được ban một niềm hy vọng đáng tin và nhờ đó chúng ta có thể đối mặt với hiện tại; cho dù là một hiện tại vất vả mệt mỏi cũng có thể được sống, được chấp nhận, nếu nó dẫn đến một đích điểm và nếu chúng ta có thể chắc chắn về đích điểm này, nếu đích điểm này thật quan trọng để có thể lý giải cho vất vả của chúng ta trên hành trình.
Tin mừng của Kitô giáo chính là lời loan báo về một thực tại đã được hiện thực: Chúa Giêsu Kitô, đã chết, đã sống lại và được tôn vinh, là niềm hy vọng của chúng ta. Đức Biển Đức XVI viết: "Cảnh cửa tăm tối của thời gian, của tương lai, đã được mở rộng. Những ai hy vọng sẽ sống khác đi, bởi vì họ đã được ban sự sống mới" (Spe salvi, 1-2).
Hy vọng dựa trên lòng trung thành của Thiên Chúa với lời hứa của Người
Đức Thánh Cha Phanxicô cũng nói về hy vọng trong các bài giáo lý gần đây. Ngài giải thích: "Hy vọng không phải là một từ ngữ sáo rỗng, hay là một ao ước mơ hồ của chúng ta rằng mọi sự sẽ tốt hơn. Ngược lại, hy vọng là một điều chắc chắn, bởi vì được dựa trên sự trung thành của Thiên Chúa với lời hứa của Người". Ngài nói thêm rằng hy vọng được Thiên Chúa ban và được Người bảo đảm. Nó không phải là nhân đức thụ động, nhưng là nhân đức tích cực giúp tạo nên sự thành công. Hy vọng là một nhân đức siêu nhiên và chính Chúa Thánh Thần là nguồn mạch của niềm hy vọng Kitô giáo.
Đón nhận Năm Thánh với lòng thống hối, hoán cải và tha thứ
Cuối cùng, Đức Hồng y Harvey nhắc lại rằng Năm Thánh 2025 mời gọi chúng ta trở thành những người hành hương, như cộng đoàn Kitô hữu hai ngàn năm trước đi trên các nẻo đường thế giới loan báo về Chúa Kitô Phục Sinh. Ngài mời gọi các tín hữu Roma đón tiếp các tín hữu hành hương từ mọi nơi và sống Năm Thánh như một món quà ân sủng, thống hối, hoán cải và tha thứ tội lỗi. Để qua kinh nghiệm này, Giáo hội mời gọi mỗi tín hữu hành hương bắt đầu hành trình thiêng liêng theo bước chân đức tin. Giáo hội hy vọng rằng hành trình này sẽ thắp lại ngọn đuốc hy vọng trong lòng mọi người.
Hy vọng - món quà đẹp nhất Giáo hội có thể trao cho nhân loại
Đức Hồng y kết thúc bài giảng bằng cách nhắc lại rằng chúng ta không được chỉ thỏa mãn với việc có niềm hy vọng, nhưng cũng tỏa ra hy vọng, là người gieo hy vọng. Đó chắc chắn là món quà đẹp nhất mà Giáo hội có thể trao tặng tới toàn thể nhân loại, đặc biệt là vào thời điểm này trong lịch sử của nhân loại (Đức Thánh Cha Phanxicô, Bài giáo lý trong buổi Tiếp kiến chung thứ Tư ngày 11 tháng 12 năm 2024)
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-hoan-vu/dhy-giam-quan-den-tho-thanh-phaolo-ngoai-thanh-mo-cua-thanh-den-tho-42349.html
13. Các giám mục Tây Ban Nha lên án chương trình truyền hình Tây Ban Nha chế giễu ảnh Thánh Tâm Chúa Giêsu
Các giám mục Tây Ban Nha đã lên tiếng sau khi người dẫn chương trình đếm ngược năm mới trên truyền hình công cộng Tây Ban Nha chiếu trong chương trình phát sóng một bức ảnh như ảnh Thánh Tâm Chúa Giêsu truyền thống, nhưng gương mặt Chúa Giêsu bị thay bằng khuôn mặt của linh vật của một chương trình nổi tiếng.
Hồng Thủy - Vatican News
Laura Yustres Vélez, được gọi là "Lalachús", là một nữ diễn viên và diễn viên hài người Tây Ban Nha xuất hiện trong chương trình "La Revuelta", một chương trình hài kịch đêm trên truyền hình công cộng Tây Ban Nha. Trong chương trình Đêm giao thừa vừa qua, Lalachús đã chiếu một hình ảnh giống như bức ảnh Thánh Tâm Chúa Giêsu truyền thống, nhưng trong đó có khuôn mặt của một con bò đực trong chương trình "El Gran Prix", một chương trình giải trí gia đình nổi tiếng ở Tây Ban Nha.
Bức ảnh có một vầng hào quang phía sau đầu nhân vật, một Thánh Tâm trên ngực nơi tay trái được đặt lên, và tay phải giơ lên với ba ngón tay duỗi thẳng và hai ngón tay gập lại, tượng trưng cho Chúa Ba Ngôi.
Phản ứng của các Giám mục Tây Ban Nha
Tổng giám mục Luis Argüello, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Tây Ban Nha, cho biết ngài rất buồn bởi hình ảnh gây tranh cãi này. Ngài nói: "Với lý do tự do ngôn luận và sự thái quá của lễ hội, [đài truyền hình công cộng Tây Ban Nha] TVE đã chế giễu biểu tượng trái tim rất được mọi người Công giáo yêu quý". "Điều đáng buồn nhất là những người chịu trách nhiệm không nhận thức được việc họ đang làm. Một lần nữa, sự tầm thường lại bao quanh chúng ta".
Tổng giám mục của Sevilla, José Ángel Saiz Meneses, cũng chỉ trích sự chế giễu này và hỏi: "Họ sẽ lợi dụng sự kiên nhẫn của chúng ta đến bao giờ?"
Tổng giám mục của Oviedo, Jesús Sanz Montes, nhấn mạnh rằng "nếu cô ấy cố gắng làm [điều tương tự] với [hình ảnh] của Mohammed, thì điều đó sẽ không hề buồn cười chút nào".
Giám mục của Vitoria, Juan Carlos Elizalde, chỉ ra rằng "Người Công giáo không phải là công dân hạng hai, và càng không phải như vậy ở một đất nước mà phần lớn công dân được rửa tội hoặc là con của người Công giáo".
Còn Đức Cha Fernando Prado, giám mục của Bilbao, đã kêu gọi mọi người phản đối vụ việc bằng cách chọn các kênh truyền hình khác vào năm tới.
Phản ứng của tổ chức luật sư Công giáo của Tây Ban Nha
Trong khi đó, tổ chức các luật sư Công giáo của Tây Ban Nha đã nộp đơn khiếu nại chống lại chủ tịch của Đài phát thanh truyền hình Tây Ban Nha, José Pablo López, và Yustres với cáo buộc phạm tội thù hận theo Điều 510 của Bộ luật Hình sự Tây Ban Nha và một đơn khiếu nại khác vi phạm tình cảm tôn giáo theo Điều 525 của bộ luật.
Tổ chức này cũng cáo buộc "các cuộc tấn công vào các Kitô hữu đang được sử dụng để gây tranh cãi và do đó tăng lượng người xem, điều đã xảy ra với lễ khai mạc Thế vận hội Olympic" và "việc sử dụng hình ảnh Thánh Tâm Chúa Giêsu với [con bò đực] trên 'Gran Prix' biểu thị sự khinh miệt và chế giễu rõ ràng đối với các nghi lễ và biểu tượng của Công giáo và cấu thành sự xúc phạm, lăng mạ và phẫn nộ đối với tình cảm tôn giáo và niềm tin Công giáo".
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-hoan-vu/cac-giam-muc-tay-ban-nha-len-an-chuong-trinh-truyen-hinh-tay-ban-nha-che-gieu-anh-thanh-tam-chua-giesu-42350.html
14. Đức Thánh Cha chủ sự lễ Chúa Hiển Linh tại Đền thờ Thánh Phêrô
Vào lúc 10 giờ sáng thứ Hai ngày 6/1/2025, tại Đền thờ Thánh Phêrô, Đức Thánh Cha đã chủ sự lễ Chúa Hiển Linh. Trong bài giảng, ngài suy tư về ba đặc tính của ngôi sao chỉ đường cho các Đạo sĩ: rực sáng, mọi người có thể nhìn thấy và chỉ đường. Ngài mời gọi các tín hữu trở thành ánh sáng đưa mọi người đến với Chúa bằng cách làm cho tâm hồn chúng ta sáng ngời trong đức tin, với ánh nhìn quảng đại khi chào đón, và bằng những cử chỉ và lời nói đầy tình huynh đệ, đầy lòng nhân hậu và nhân ái.
Vatican News
Bài giảng của Đức Thánh Cha
“Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện và chúng tôi đến thờ lạy Người” (Mt 2,2): đây là chứng từ mà các Đạo sĩ đưa ra cho cư dân Giêrusalem, khi loan báo cho họ biết rằng Vua dân Do Thái đã giáng sinh.
Các Đạo sĩ làm chứng rằng họ đã bắt đầu một cuộc hành trình, đánh dấu một bước ngoặt trong cuộc đời họ, vì họ đã nhìn thấy một ánh sáng mới trên bầu trời. Chúng ta hãy dừng lại để suy ngẫm về hình ảnh này khi chúng ta cử hành Lễ Hiển Linh của Chúa trong Năm Thánh Hy Vọng. Tôi muốn nhấn mạnh ba đặc điểm của ngôi sao mà thánh sử Luca nói với chúng ta: rực sáng, mọi người đều có thể nhìn thấy nó và nó chỉ đường đi.
Ánh sáng duy nhất giúp chúng ta hạnh phúc: tình yêu Thiên Chúa
Trước hết, ngôi sao rực sáng. Nhiều nhà cai trị vào thời Chúa Giêsu tự gọi mình là “ngôi sao”, vì họ cảm thấy mình quan trọng, quyền lực và nổi tiếng. Tuy nhiên, ánh sáng đã mặc khải điều kỳ diệu của biến cố Giáng sinh cho các đạo sĩ không phải là ánh sáng nào trong số những "ánh sáng" này. Sự huy hoàng, giả tạo và lạnh lùng của họ, là kết quả của những tính toán và trò chơi quyền lực, đã không thể đáp ứng nhu cầu của các Đạo sĩ, những người đang tìm kiếm điều mới lạ và hy vọng. Ngược lại, họ được thỏa mãn bởi một loại ánh sáng khác, được tượng trưng bởi ngôi sao, chiếu sáng và sưởi ấm người khác bằng cách để cho mình bị thiêu đốt và tiêu hao. Ngôi sao cho chúng ta biết về ánh sáng duy nhất có thể chỉ cho mọi người con đường dẫn đến sự cứu rỗi và hạnh phúc: con đường tình yêu. Đây là ánh sáng duy nhất có thể làm cho chúng ta hạnh phúc.
Chúng ta được mời gọi trở thành dấu chỉ hy vọng cho nhau
Trước hết, ánh sáng này là tình yêu của Thiên Chúa, Đấng đã trở thành con người và hiến thân cho chúng ta bằng cách hy sinh mạng sống mình. Khi chúng ta suy tư về ánh sáng đó, chúng ta có thể thấy rằng ánh sáng này mời gọi chúng ta hiến thân cho nhau, và với sự giúp đỡ của Người, trở thành dấu chỉ hy vọng cho nhau, ngay cả trong những đêm tối của cuộc sống. Chúng ta có thể suy nghĩ về điều này: chúng ta có thể rực sáng hy vọng không? Chúng ta có khả năng mang lại hy vọng cho người khác bằng ánh sáng đức tin của chúng ta không?
Bằng tình yêu, chúng ta có thể đưa người khác đến gặp Chúa
Giống như ngôi sao rực sáng đã dẫn đường cho các đạo sĩ đến Bêlem, chúng ta cũng vậy, bằng tình yêu của mình, có thể đưa những người chúng ta gặp đến với Chúa Giêsu, giúp cho họ nhận biết vẻ đẹp của khuôn mặt Chúa Cha nơi Con Thiên Chúa làm người. (x. Is 60,2) và cách yêu thương của Người, qua sự gần gũi, cảm thương và dịu dàng. Chúng ta đừng bao giờ quên điều này: Thiên Chúa gần gũi, cảm thương và dịu hiền. Đây là tình yêu. Và chúng ta có thể làm được điều đó mà không cần những công cụ phi thường và những phương tiện phức tạp, nhưng đơn giản bằng cách làm cho tâm hồn chúng ta sáng ngời trong đức tin, giúp cho chúng ta có cái nhìn quảng đại khi chào đón người khác, và giúp những cử chỉ và lời nói của chúng ta đầy tình huynh đệ, đầy lòng nhân hậu và nhân ái.
Vì vậy, khi chúng ta chiêm ngắm các đạo sĩ, những người hướng mắt lên bầu trời để tìm kiếm ngôi sao, chúng ta hãy cầu xin Chúa để chúng ta có thể trở thành ánh sáng dẫn đưa nhau đến gặp gỡ với Người (xem Mt 5,14-16). Thật là điều tồi tệ khi một người không trở nên ánh sáng cho người khác.
Mọi người có thể nhìn thấy ngôi sao
Đức Thánh Cha nói tiếp: Chúng ta đến với đặc điểm thứ hai của ngôi sao: mọi người có thể nhìn thấy nó. Các đạo sĩ không làm theo chỉ dẫn của một mật mã bí mật nhưng đi theo một ngôi sao mà họ nhìn thấy đang tỏa sáng trên bầu trời. Trong khi họ nhận thấy điều đó, những người khác, như Vua Hêrôđê và các kinh sư, thậm chí không nhận thấy sự hiện diện của nó. Tuy nhiên, ngôi sao vẫn luôn ở đó, bất kỳ ai nhìn lên bầu trời, tìm kiếm một dấu hiệu hy vọng đều có thể nhìn thấy được nó. Tôi có là dấu chỉ hy vọng cho người khác không?
Thiên Chúa tìm kiếm mọi người
Đây cũng là một thông điệp quan trọng: Thiên Chúa không tỏ mình ra cho những nhóm độc quyền hay một số ít người có đặc quyền, nhưng Người đồng hành và hướng dẫn bất cứ ai tìm kiếm Người với tấm lòng chân thành (xem Tv 145,18). Thật vậy, Người thường đi trước những câu hỏi của chúng ta, đến tìm kiếm chúng ta trước cả khi chúng ta hỏi Người (xem Rm 10,20; Is 65,1). Chính vì lý do này, trong cảnh Chúa giáng sinh, chúng ta đại diện cho các Đạo sĩ với những đặc điểm của mọi lứa tuổi và mọi chủng tộc - một người trẻ, một người trưởng thành, một người già, với những đặc điểm của các dân tộc khác nhau trên trái đất - để nhắc nhở chúng ta rằng Thiên Chúa luôn luôn tìm kiếm mọi người. Thiên Chúa tìm kiếm tất cả mọi người.
Và thật tốt biết bao khi chúng ta suy ngẫm về điều này ngày hôm nay, trong một thời điểm mà các cá nhân và các quốc gia, mặc dù có các phương tiện truyền thông ngày càng mạnh mẽ, dường như ngày càng trở nên ít sẵn sàng để hiểu, chấp nhận và gặp gỡ nhau trong sự đa dạng của họ!
Mọi người có cùng sứ mạng: loại bỏ mọi sự phân biệt
Ngôi sao chiếu sáng bầu trời và soi sáng cho mọi người, nhắc nhở chúng ta rằng Con Thiên Chúa, đến thế gian để gặp gỡ mọi người trên trái đất, bất kể họ thuộc sắc tộc, ngôn ngữ và dân tộc nào (xem Công vụ 10,34- 35; Kh 5,9), và Người ủy thác cùng một sứ mạng phổ quát cho chúng ta (xem Is 60,3). Nghĩa là, Thiên Chúa kêu gọi chúng ta loại bỏ mọi hình thức phân biệt, gạt ra ngoài lề và loại bỏ con người, đồng thời thúc đẩy, trong chính cộng đồng chúng ta và trong các môi trường chúng ta đang sống, một nền văn hóa chào đón mạnh mẽ, trong đó những không gian chật chội của nỗi sợ hãi và sự từ chối được thay thế bằng những không gian rộng mở của gặp gỡ, hội nhập và chia sẻ cuộc sống; những nơi an toàn, nơi mọi người có thể tìm thấy sự ấm áp và nơi trú ẩn.
Giấc mơ của Thiên Chúa: toàn thể nhân loại hợp thành một gia đình hòa thuận
Đây là lý do tại sao ngôi sao ở trên bầu trời: không phải để ở xa và không thể chạm tới, mà trái lại để ánh sáng của nó được mọi người nhìn thấy, chiếu sáng đến mọi nhà và vượt qua mọi rào cản, mang lại hy vọng cho những góc xa xôi và bị lãng quên nhất của hành tinh. Ngôi sao ở trên bầu trời để nói với mọi người, bằng ánh sáng quảng đại của mình, rằng Thiên Chúa không chối bỏ hay lãng quên bất cứ ai (xem Is 49,15). Bởi vì Người là Người Cha mà niềm vui lớn nhất của Người là được thấy con cái của Người trở về nhà, đoàn tụ với nhau từ mọi nơi trên thế giới (xem Is 60,4). Người vui khi nhìn thấy con cái của Người xây những cây cầu, mở đường, tìm kiếm những người lạc lối và mang trên vai những người đang cố gắng bước đi, để không ai bị bỏ rơi và mọi người đều được tham gia vào niềm vui trong nhà Cha của mình.
Ngôi sao nói với chúng ta về giấc mơ của Thiên Chúa: đó là toàn thể nhân loại, trong sự phong phú của những khác biệt, có thể hợp thành một gia đình và sống hòa thuận trong thịnh vượng và hòa bình (xem Is 2,2-5).
Ngôi sao chỉ đường
Cuối cùng, Đức Thánh Cha giải thích đặc điểm cuối cùng của ngôi sao: đó là chỉ đường. Đây cũng là ý nghĩa quan trọng để suy tư, đặc biệt trong bối cảnh Năm Thánh mà chúng ta đang cử hành, trong đó một trong những cử chỉ đặc trưng là hành hương.
Hành hương
Ánh sáng của ngôi sao mời gọi chúng ta thực hiện một cuộc hành trình nội tâm, như Thánh Gioan Phaolô II đã viết, giải thoát tâm hồn chúng ta khỏi mọi thứ không phải là đức ái, để “gặp gỡ Chúa Kitô một cách trọn vẹn, và tuyên xưng đức tin vào Người và đón nhận lòng thương xót dồi dào của Người” (Thư gửi những người đang chuẩn bị cử hành Đại Năm Thánh, 29 tháng 6 năm 1999, 12).
Tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống
Cùng nhau bước đi “là việc điển hình của những người tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống” (x. Sắc chỉ Spes non confundit, 5). Và khi nhìn lên ngôi sao, chúng ta cũng có thể canh tân cam kết trở thành những người “theo Đạo”, như các Kitô hữu đã được định nghĩa ngay từ thuở ban đầu của Giáo hội (xem Cv 9,2).
Mang ánh sáng tình yêu vào thế giới
Xin Chúa làm cho chúng ta trở thành những ánh sáng mang người khác đến với Người, giống như Đức Maria, quảng đại trong việc trao tặng chính mình, cởi mở chào đón người khác và khiêm nhường bước đi cùng nhau, để chúng ta có thể gặp Người, nhận ra Người và tôn thờ Người. Được Chúa biến đổi, chớ gì chúng ta có thể lên đường mang ánh sáng tình yêu của Người vào thế giới.
Vào cuối Thánh lễ, Đức Thánh Cha đã đến cầu nguyện trước hang đá Giáng Sinh trong Đền thờ Thánh Phêrô.
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-hoan-vu/duc-thanh-cha-chu-su-le-chua-hien-linh-tai-den-tho-thanh-phero-42356.html
15. Đức Thánh Cha bổ nhiệm Sơ Simona Brambilla làm nữ Tổng trưởng đầu tiên ở Vatican
Vào ngày 6/1/2025, Đức Thánh Cha đã bổ nhiệm Sơ Simona Brambilla, một nữ tu người Ý thuộc Dòng Truyền giáo Consolata, làm Tổng trưởng của Bộ các Tu hội Đời sống Thánh hiến và các Hiệp hội Đời sống Tông đồ.
Vatican News
Đức Thánh Cha cũng chọn Đức Hồng y Ángel Fernández Artime, 65 tuổi, nguyên Bề trên Tổng quyền Dòng Salêdiêng, được phong làm Hồng y trong Công nghị Hồng y vào ngày 30/9/2023, làm "pro-prefetto" của cùng Bộ các Tu hội Đời sống Thánh hiến và các Hiệp hội Đời sống Tông đồ, để hỗ trợ vị Tổng trưởng của Bộ.
Sơ Simona Brambilla 60 tuổi, đã là một y tá chuyên nghiệp trước khi gia nhập Dòng Nữ tu Truyền giáo Consolata và đã truyền giáo ở Mozambique. Sơ đã phục vụ trong chức vị Bề trên Tổng quyền của Dòng Truyền giáo Consolata từ năm 2011 đến năm 2023.
Vào ngày 8/7/2019, lần đầu tiên Đức Thánh Cha bổ nhiệm bảy phụ nữ làm thành viên của Bộ các Tu hội Đời sống Thánh hiến và các Hiệp hội Đời sống Tông đồ. Sau đó, vào ngày 7/10/2023, Sơ Simona đã được Đức Thánh Cha bổ nhiệm làm Tổng Thư ký của cùng Bộ này. Và ngày 6/1/2025, sơ trở thành người phụ nữ đầu tiên được bổ nhiệm làm Tổng trưởng của một Bộ của Tòa Thánh.
Kể từ thời Đức Giáo hoàng Phanxicô, số phụ nữ làm việc tại Vatican đã tăng lên. Theo dữ liệu chung bao gồm cả Tòa Thánh và Quốc gia Thành Vatican, từ năm 2013 đến năm 2023, tỷ lệ phụ nữ ở Vatican đã tăng từ 19,2% lên 23,4%.
Theo một lộ trình được nêu trong Tông hiến Praedicate Evangelium, được ban hành năm 2022, Đức Thánh Cha đã tạo điều kiện cho giáo dân, bao gồm cả phụ nữ, lãnh đạo một Bộ của Tòa Thánh và trở thành Tổng trưởng, một vai trò trước đây chỉ dành cho các Hồng y và Tổng Giám mục.
Tại Quốc gia Thành Vatican, Đức Thánh Cha đã bổ nhiệm hai phụ nữ vào các vị trí lãnh đạo. Năm 2016, ngài đã bổ nhiệm bà Barbara Jatta làm Giám đốc Bảo tàng Vatican, nơi theo truyền thống do giáo dân lãnh đạo. Năm 2022, ngài đã bổ nhiệm Sơ Raffaella Petrini làm Tổng thư ký của Phủ Thống đốc, một vai trò thường do một Giám mục đảm nhiệm.
Có một số phụ nữ giữ chức vụ Phó Tổng Thư ký các Bộ của Tòa Thánh, ví dụ như Gabriella Gambino và Lina Ghisoni tại Bộ Giáo dân, Gia đình và Sự sống, trong khi Sơ Carmen Ros Nortes thuộc Dòng Đức Mẹ An ủi giữ chức Phó Tổng Thư ký tại Bộ các Tu hội Đời sống Thánh hiến và các Hiệp hội Đời sống Tông đồ. Cũng có một số phụ nữ cũng giữ các chức vụ cao tại các cơ quan khác của Tòa Thánh.
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-hoan-vu/duc-thanh-cha-bo-nhiem-so-simona-brambilla-lam-nu-tong-truong-dau-tien-o-vatican-42357.html
16. Kinh truyền tin Lễ Hiển Linh 06/01.
Như thường lệ, vào lúc 12 giờ trưa ngày 6/1, lễ Chúa Hiển Linh, từ cửa sổ Dinh Tông Tòa, Đức Thánh Cha đọc Kinh Truyền Tin với các tín hữu hiện diện tại Quảng trường Thánh Phêrô. Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh, Đức Thánh Cha mời gọi các tín hữu suy nghĩ xem mình có tìm kiếm để gặp Chúa không. Ngài nhắc rằng chúng ta có thể nhận ra Chúa Giêsu đang gần gũi với chúng ta, trong Bí tích Thánh Thể, nơi người nghèo, nơi người bị bỏ rơi, nơi tù nhân, và mời gọi dành giờ cho Chúa và tha nhân.
Mở đầu bài huấn dụ, Đức Thánh Cha nói:
Anh chị em thân mến, mừng Lễ Chúa Hiển Linh!
Hôm nay Giáo hội cử hành sự kiện Chúa Giêsu tỏ mình ra, và Phúc Âm tập trung nói về các đạo sĩ. Cuối một cuộc hành trình dài, được ngôi sao dẫn đường, họ đã đến Giêrusalem để thờ phượng Chúa Giêsu (xem Mt 2,1-12).
Nếu để ý, chúng ta phát hiện ra một điều hơi kỳ lạ: trong khi những nhà thông thái từ xa đến tìm Chúa Giêsu, thì những người ở gần lại không đi đến hang đá Bêlem, dù chỉ một bước. Được ngôi sao thu hút và hướng dẫn, các đạo sĩ phải chịu những chi phí đắt đỏ, dành thời gian và chấp nhận những rủi ro cũng như bất ổn không bao giờ thiếu vào thời đó. Tuy nhiên, họ đã vượt qua mọi khó khăn để được gặp Vua Messia, bởi vì họ biết rằng một điều gì đó đặc biệt trong lịch sử nhân loại đang xảy ra và họ không muốn bỏ lỡ sự kiện này. Lòng họ đã được soi sáng và đi theo sự hướng dẫn này.
Ngược lại, những người sống ở Giêrusalem, những người lẽ ra phải là những người hạnh phúc nhất và sẵn sàng đi đến nhất, lại vẫn ở yên. Các tư tế và các nhà thần học giải thích chính xác Kinh Thánh và đưa ra những chỉ dẫn cho các Đạo sĩ về nơi tìm thấy Đấng Mêxia, nhưng họ không rời khỏi “bục giảng” của mình. Họ hài lòng với những gì họ có và không lên đường tìm kiếm; họ không nghĩ rằng việc rời Giêrusalem là điều đáng để làm.
Thưa anh chị em, sự kiện này khiến chúng ta phải suy gẫm và ở một khía cạnh nào đó, nó gây khó chịu cho chúng ta, bởi vì nó đặt ra câu hỏi: tôi, chúng ta, những người thời nay, thuộc về nhóm nào? Chúng ta có giống những mục đồng vội vã đến hang động ngay trong đêm đó, và các đạo sĩ phương Đông, những người tin tưởng lên đường tìm kiếm Con Thiên Chúa làm người; hay chúng ta giống như những người, mặc dù rất gần gũi với Người về mặt thể lý, nhưng lại không mở cánh cửa tâm hồn và cuộc sống của mình, vẫn khép kín và vô cảm trước sự hiện diện của Chúa Giêsu? Chúng ta hãy đặt câu hỏi này. Tôi đang thuộc về nhóm người nào?
Theo một câu chuyện, Đạo sĩ thứ tư đến Giêrusalem trễ, ngay lúc Chúa Giêsu chịu đóng đinh - đây là một câu chuyện hay; nó không mang tính lịch sử, nhưng đó là một câu chuyện hay - bởi vì ông đã dừng lại trên đường để giúp đỡ tất cả những người túng thiếu bằng cách tặng những món quà quý giá mà ông đã mang đến cho Chúa Giêsu. Cuối cùng, một ông già đến và nói với ông: “Thật tôi nói với anh, mọi điều anh đã làm cho những người hèn mọn nhất trong chúng ta là anh đã làm cho tôi”. Chúa làm mọi điều chúng ta đã làm cho người khác.
Chúng ta hãy xin Đức Trinh Nữ Maria giúp đỡ chúng ta, để noi gương các mục đồng và các đạo sĩ, chúng ta biết cách nhận ra Chúa Giêsu gần gũi với chúng ta, trong Bí tích Thánh Thể, nơi người nghèo, nơi anh chị em của chúng ta, nơi người bị bỏ rơi, và nơi tù nhân.
--------------
Sau kinh truyền tin, Đức Thánh Cha nói:
Lễ Hiển Linh là ngày truyền giáo Trẻ Em Thế Giới, năm nay có chủ đề “hãy đi và mời tất cả mọi người đến dự tiệc”. Ngài gửi lời chào đến các em nhỏ trên toàn thể giới, và khuyến khích các em dấn thân cầu nguyện và liên đới với nhau thay cho các bạn nhỏ ở những châu lục khác.
Ngài vui mừng gửi những lời chúc ấm ấp nhất đến các cộng đồng Giáo Hội Đông Phương vì ngày mai sẽ cử hành lễ Giáng Sinh Thánh. Ngài đảm bảo cầu nguyện đặc biệt cho những người đang phải chịu đau khổ vì xung đột đang diễn ra. Ngài cầu xin Đức Giêsu, Hoàng Tử Hòa Bình mang lại bình an và bình lặng cho mọi người.
Ngài vui mừng chào đón những người rước kiệu lịch sử-dân gian, năm nay cuộc rước kiệu dành riêng cho Thành phố Amelia và những thị trấn lân cận. Đồng thời, xin thánh hiến những giá trị nhân văn và tôn giáo của họ.
Kế tiếp, Ngài tiếp tục xin mọi người cầu nguyện cho hòa bình ở đất nước Ucraina tử đạo, Palestine, Israel, Myanmar cùng tất cả những nơi đang xảy ra chiến tranh.
Ngài gửi lời chào các tín hữu ở Massafra, những người trẻ của phong trào “Tra Noi - Ở giữa chúng ta”, những “người bạn của lịch sử và truyền thống” thuộc làng Carovilli, Ý và ca đoàn Soriano ở Cimino. Ngài gửi lời chào đến những người tham gia rước kiệu Ba Vua Vĩ Đại của Ba Lan, vốn luôn làm chứng cho đức tin trong các nhà thờ và trên đường phố ở Warsaw, các thành phố khác, và ngay cả ở Roma.
Ngài cầu chúc mọi người một ngày Lễ Hiển Linh hạnh phúc, và đừng quên cầu nguyện cho ngài.
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-hoan-vu/kinh-truyen-tin-le-hien-linh-0601-42358.html
17. Nữ tu Brazil 116 tuổi có thể là người cao tuổi nhất thế giới
Sau khi cụ Tomiko Itooka người Nhật Bản qua đời vào ngày 29/12/2024, theo nhóm LongeviQuest, nhóm các nhà nghiên cứu chuyên lập bản đồ về những người trên một trăm tuổi, Sơ Inah Canabarro Lucas, sinh ngày 27/5/1908, 116 tuổi, một nữ tu đến từ bang Rio Grande do Sul của Brazil, có thể là người cao tuổi nhất thế giới.
Hồng Thủy - Vatican News
Vào tháng 3/2024, Sơ Inah chia sẻ với trang tin tiếng Bồ Đào Nha ACI Digital rằng một trong những bí quyết sống lâu của sơ là cầu nguyện: “Tôi cầu nguyện lần hạt Mân Côi mỗi ngày cho mọi người trên thế giới”.
Ở tuổi 116, Sơ Inah đôi lúc gặp vấn đề về sức khỏe. Hiện nay Sơ không còn nghe rõ, nói rất khó khăn, và cũng nhìn không rõ, nhưng sơ vẫn tiếp tục cuộc sống của mình với những kế hoạch mà Chúa đã ban cho sơ.
Theo ông Cleber Vieira Canabarro Lucas, 84 tuổi, một người cháu của Sơ Inah, “Chúa đã đối xử tốt và tiếp tục đối xử tốt với tôi tớ của Người, Sơ Inah Canabarro Lucas”.
Cũng theo ông Cleber, Sơ Inah sống thọ là nhờ đời sống thiêng liêng của sơ. "Sơ luôn là một nữ tu nhỏ cầu nguyện rất nhiều, cầu nguyện rất nhiều, tận tâm cầu nguyện suốt cuộc đời”. Ông cũng nói về những đặc điểm khác như “lòng tốt của sơ khi luôn muốn làm điều tốt cho người khác, sự hài hước điển hình trong tính cách của sơ, sự lạc quan và quyết tâm trong cuộc sống”.
Năm 1927, khi 19 tuổi, Sơ Inah được nhận vào Tỉnh Dòng các Nữ tu Thánh Têrêsa của Brazil ở Porto Alegre, Rio Grande do Sul. Giờ đây, ở tuổi 116, Sơ Inah lại cư trú cạnh trụ sở tỉnh dòng, trong nhà dưỡng lão Santo Enrique de Ossó.
Sơ Inah đã sống hơn một thế kỷ, trong thời gian có nhiều thay đổi trên thế giới và trong Giáo hội, với 10 vị Giáo hoàng. Sơ là một giáo viên dạy tiếng Bồ Đào Nha, toán học, khoa học, lịch sử, nghệ thuật và tôn giáo tại các trường Dòng Têrêsa ở Rio de Janeiro, Itaqui và Santana do Livramento, một thành phố mà sơ rất yêu quý vì đó là nơi sơ đã sống phần lớn cuộc đời.
Một thành tựu đáng chú ý trong cuộc đời Sơ Inah là việc thành lập ban nhạc của Trường Santa Teresa ở Santana do Livramento. Ban nhạc có 115 nhạc cụ và đã đi biểu diễn ở Brazil, Uruguay và Argentina. Sơ cũng hướng dẫn và hợp tác thành lập ban nhạc cũng nổi tiếng Liceo Pomoli, ở Rivera (Uruguay), thành phố kết nghĩa với Santana do Livramento. (ACI Prensa 06/01/2024)
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-hoan-vu/nu-tu-brazil-116-tuoi-co-the-la-nguoi-cao-tuoi-nhat-the-gioi-42364.html
18. Trong 2 tuần sau khi khai mạc, có hơn nửa triệu người đã đi qua Cửa Thánh Đền thờ Thánh Phêrô
Theo một thông cáo báo chí của Bộ Loan báo Tin Mừng, trong khoảng 2 tuần sau khi Đức Thánh Cha mở Cửa Thánh Đền thờ Thánh Phêrô vào đêm 24/12/2024, đã có hơn nửa triệu khách hành hương từ khắp thế giới đi qua Cửa Thánh Đền thờ Thánh Phêrô.
Vatican News
Hàng trăm nhóm các tín hữu hành hương đã đi theo lộ trình hành hương từ Piazza Pia, đầu đường Hòa giải, với Thánh Giá Năm Thánh đi đầu, vừa đi vừa cầu nguyện, dọc theo đường Hòa Giải, đến Đền thờ và đi qua Cửa Thánh.
Một khởi đầu đầy ý nghĩa
Nhận xét về sự kiện, Đức Tổng Giám mục Rino Fisichella, “Phụ Tổng trưởng” của Bộ Loan báo Tin Mừng, đơn vị được Đức Thánh Cha ủy thác việc tổ chức Năm Thánh, nói rằng đây là một khởi đầu rất ý nghĩa, với lượng người tham gia đông đảo.
Vấn đề an ninh và điều hành
Ngài cũng nhận xét rằng sự hiện diện của đông đảo tín hữu hành hương ở đường Hòa giải là dấu hiệu cho thấy rằng họ cảm nhận được sự an toàn và bảo vệ trong thành phố Roma và xung quanh bốn Đền thờ Giáo hoàng. Kết quả này là sự hợp tác chặt chẽ của Tòa Thánh với lực lượng an ninh của Ý và Vatican, và với Quận Roma.
Trong khi thừa nhận rằng có những khó khăn trong thời gian đầu, Đức Tổng Giám mục Fisichella cho biết Bộ Loan báo Tin Mừng “đang làm việc không mệt mỏi để đảm bảo cho những người hành hương sự chào đón và trải nghiệm đáp ứng mong đợi của họ”.
Hiện nay các tín hữu hành hương có thể đi qua Cửa Thánh của bốn Đền thờ: Thánh Phêrô ở Vatican, Thánh Gioan ở khu vực Laterano, Đức Bà Cả và Thánh Phaolô Ngoại thành.
Đăng ký trước
Thông cáo của Bộ Loan báo Tin Mừng nhắc các tín hữu đăng ký trước giờ đi qua các Cửa Thánh trên trang web iubilaeum2025.va, để tránh phải xếp hàng chờ đợi.
Sự hiện diện của hàng ngàn người trong bốn ngày mở Cửa Thánh ở bốn Đền thờ Giáo hoàng, theo Bộ Loan báo Tin Mừng, cho thấy lòng khao khát được tham dự Năm Thánh của các tín hữu.
Sự kiện quan trọng đầu tiên của Năm Thánh sẽ là Năm Thánh của thế giới Truyền thông, từ ngày 24 đến 26/1. Dự kiến sẽ có hàng ngàn nhà báo, chuyên gia và các nhà hoạt động truyền thông từ khắp thế giới về Roma để tham dự sự kiện.
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-hoan-vu/trong-2-tuan-sau-khi-khai-mac-co-hon-nua-trieu-nguoi-da-di-qua-cua-thanh-den-tho-thanh-phero-42366.html
19. Tổng Giám mục Santiago cử hành Thánh lễ gửi hơn 1.500 sinh viên đi truyền giáo
Đức Hồng y Fernando Chomali, Tổng Giám mục Santiago, đã cử hành Thánh lễ sai đi truyền giáo, gửi hơn 1.500 sinh viên Chile và ngoại quốc tham gia các dự án khác nhau như Nhà nguyện ở làng quê, Gieo mùa hè, Nhà ở và Ca đoàn Truyền giáo của Đại học Công giáo Chile.
Hồng Thủy - Vatican News
Các sinh viên được chia thành các nhóm theo các sứ vụ khác nhau. Họ ra đi, xây dựng và làm việc dưới sự soi sáng của sứ điệp của Chúa Kitô và mang sứ điệp này đến với người dân ở 55 khu vực ở Chile với mục đích trở thành một “Giáo hội sống động”.
Trong Thánh lễ được cử hành tại khuôn viên đại học Công giáo Chile, Đức Hồng y Tổng Giám mục Santiago đã chia sẻ với các nhà truyền giáo trẻ những lời khuyên của Đức Thánh Cha Phanxicô dành cho ngài khi thăng ngài làm Hồng y.
Những lời khuyên của Đức Thánh Cha
Đức Hồng y Chomali kể rằng Đức Thánh Cha đã gửi cho ngài một lá thư, trong đó nói rằng “hãy bớt trở thành một người vị vọng và giống một người phục vụ hơn”. Đức Hồng y áp dụng cho các sinh viên, bảo họ hãy có tinh thần phục vụ hơn.
Điểm thứ hai Đức Thánh Cha nói với Đức Hồng y Chomali là “hãy ngước mắt lên cao để nhìn xa hơn và thoát ra khỏi chính mình”. Đức Hồng y cũng nói với các sinh viên: “thời điểm này là cơ hội tuyệt vời để các con mở rộng tầm nhìn, để biết rằng cuộc sống không bắt đầu hay kết thúc ở việc học”.
Và lời khuyên thứ ba của Đức Thánh Cha là nhìn thế giới qua trái tim bị đâm thâu của Chúa Kitô từ máng cỏ Giáng Sinh, nghĩa là với một thái độ khiêm tốn, thái độ của người phục vụ.
Nói đến hy sinh của những người trẻ dành thời gian nghỉ ngơi trong mùa hè để cống hiến cho sứ mạng truyền giáo, Đức Hồng Y Chomali bảo đảm rằng nỗ lực của họ sẽ không vô ích, nhưng sẽ làm nên một đất nước tốt đẹp hơn.
Cuối cùng, Đức Hồng y mời gọi các sinh viên cầu xin các ơn Chúa Thánh Thần và tuân theo ba lời khuyên của Đức Thánh Cha Phanxicô: “hãy nhìn lên cao và thoát ra khỏi chính mình bởi vì Chúa Kitô là trung tâm, với đôi bàn tay chắp lại bởi vì chúng ta là những người cầu nguyện, và với chân trần để chúng ta cảm thông với sự nghèo đói”.
Các dự án truyền giáo
Dự án Nhà nguyện làng quê với phương châm “Xây dựng Giáo hội của chúng ta thành nơi gặp gỡ mọi người”, chuyên xây dựng các nhà thờ ở các khu vực khác nhau của Chile, đã cảm ơn những người trẻ đã tham gia sáng kiến này: “Cảm ơn vì kể từ khi đăng ký, các bạn không còn là khách du lịch của cuộc sống, nhưng các bạn đi gặp gỡ, hòa mình vào thực tế của Chile và gặp gỡ Chúa Kitô”.
Trong khi những người phụ trách Dự án Nhà ở nhấn mạnh đến số lượng gia đình không có một ngôi nhà tươm tất và khuyến khích các sinh viên: “Chúng ta đừng bao giờ ngừng di chuyển hoặc làm việc vì một Chile có phẩm giá hơn, huynh đệ và nhân đạo hơn”.
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-hoan-vu/tong-giam-muc-santiago-cu-hanh-thanh-le-gui-hon-1500-sinh-vien-di-truyen-giao-42367.html
20. Tiếp kiến chung 8/1/2025: Kitô hữu không thể làm ngơ khi các trẻ em bị bóc lột và lạm dụng
Trong buổi tiếp kiến chung sáng thứ Tư ngày 8/1/2025, Đức Thánh Cha đã dành bài giáo lý đầu tiên trong năm 2025 để suy tư về các trẻ em. Ngài nhắn nhủ các Kitô hữu, theo gương Chúa Giêsu, không bao giờ được phép để trẻ em bị ngược đãi, tổn thương hoặc bị bỏ rơi; ngược lại, phải ngăn chặn và lên án mạnh mẽ mọi hành vi lạm dụng trẻ vị thành niên.
Vatican News
Đức Thánh Cha nói rằng Kinh Thánh cho chúng ta biết trẻ em là một hồng ân của Thiên Chúa, nhưng cũng mô tả những hoàn cảnh trong đó trẻ em không được yêu thương hay tôn trọng, thậm chí còn bị bách hại và tử đạo. Đây là một thực tế đáng buồn vẫn còn lặp đi lặp lại cho đến ngày nay.
Ngài nhắn nhủ các Kitô hữu, theo gương Chúa Giêsu, không bao giờ được phép để trẻ em bị ngược đãi, tổn thương hoặc bị bỏ rơi; ngược lại, phải ngăn chặn và lên án mạnh mẽ mọi hành vi lạm dụng trẻ vị thành niên. Đặc biệt, ngài nhấn mạnh đến tai họa lao động trẻ em làm mất đi nụ cười và ước mơ của trẻ em, đồng thời ngăn cản các em phát triển tài năng của mình. Ngài nói rằng trẻ em chiếm một vị trí đặc biệt trong trái tim Thiên Chúa và bất cứ ai làm hại chúng sẽ phải trả lời trước mặt Người.
Trước khi Đức Thánh Cha bắt đầu bài giáo lý, cộng đoàn cùng lắng nghe đoạn Tin Mừng Thánh Mátthêu (Lc 18,15-17):
Người ta còn đem cả trẻ thơ đến với Đức Giêsu, để Người đặt tay trên chúng. Thấy vậy, các môn đệ la rầy chúng. Nhưng Đức Giêsu gọi chúng lại mà nói: “Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa là của những ai giống như chúng. Thầy bảo thật anh em: Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào”.
Sau đó, Đức Thánh Cha bắt đầu bài giáo lý như sau:
Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Tôi muốn dành bài giáo lý này và bài giáo lý tiếp theo nói về trẻ em, trong bối cảnh thích hợp của mùa Giáng Sinh. Chúng ta sẽ đặc biệt suy tư về tệ nạn lao động trẻ em. Thực ra, ngày nay chúng ta biết cách hướng tầm mắt đến Sao Hỏa hoặc về các thế giới ảo, nhưng chúng ta gặp khó khăn khi nhìn vào đôi mắt của một đứa trẻ bị bỏ rơi bên lề và bị bóc lột và lạm dụng. Thế kỷ trong đó tạo ra trí tuệ nhân tạo và lên kế hoạch cho sự sống ở các hành tinh vẫn chưa đối diện với bệnh dịch tuổi thơ bị sỉ nhục, bị bóc lột và bị thương tổn nặng nề.
Trẻ em là hồng ân của Thiên Chúa
Trước hết chúng ta tự hỏi: Kinh Thánh mang lại cho chúng ta thông điệp gì về trẻ em? Thật là hiếu kỳ khi nhận thấy rằng từ ngữ xuất hiện nhiều nhất trong Cựu Ước, sau tên Thiên Chúa Giavê (hơn 6.800 lần), lại là từ ben, nghĩa là “con”, với gần 5.000 lần. “Này con cái là hồng ân của Chúa; con mình sinh hạ là phần thưởng Chúa ban” (Tv 127,3). Trẻ em là hồng ân của Thiên Chúa, thật không may, món quà này không phải lúc nào cũng được đối xử tôn trọng. Chính Kinh Thánh dẫn chúng ta vào những con đường lịch sử, nơi vang lên những bài ca vui mừng, nhưng cũng không thiếu tiếng kêu la của các nạn nhân. Ví dụ, trong sách Ai Ca, chúng ta đọc: “Bé thơ măng sữa, vì quá khát, nên lưỡi dính với hàm; còn đám trẻ nhỏ đòi ăn bánh, nhưng nào có ai cho!” (4,4); và ngôn sứ Nakhum, khi nhớ lại những gì đã xảy ra ở các thành phố cổ Thebes và Ninivê, đã viết: “Các con thơ của nó bị vật chết nơi góc phố đầu đường” (3,10). Chúng ta hãy nghĩ xem ngày nay có bao nhiêu trẻ em đang chết đói và khốn khổ, hoặc bị phanh thây vì bom đạn.
Cơn bão bạo lực đã và vẫn đổ xuống trên trẻ em
Cơn bão bạo lực của Hêrôđê, người đã tàn sát trẻ em ở Bêlem, đổ xuống ngay cả với Hài Nhi Giêsu. Một vở kịch đen tối lặp lại dưới những hình thức khác trong lịch sử. Và đối với Chúa Giêsu và cha mẹ Người, cơn ác mộng phải trở thành người tị nạn ở nước ngoài, như đang xảy ra với nhiều người ngày nay (xem Mt 2,13-18). Khi cơn bão đi qua, Chúa Giêsu lớn lên ở một ngôi làng chưa từng được nhắc đến trong Cựu Ước, Nazareth; ngài học nghề thợ mộc từ người cha theo luật là Thánh Giuse (xem Mc 6,3; Mt 13,55). “Con trẻ lớn lên, thêm mạnh mẽ, đầy khôn ngoan, và đầy ân sủng của Thiên Chúa” (Lc 2,40).
Chúa Giêsu yêu mến và bảo vệ trẻ em
Trong cuộc đời công khai của Người, Chúa Giêsu đã cùng với các môn đệ đi rao giảng khắp các làng mạc. Một ngày nọ, một số bà mẹ đến gặp Người và dâng con của họ cho Người để Người chúc lành cho chúng; nhưng các môn đệ quở trách chúng. Sau đó, Chúa Giêsu, phá vỡ truyền thống chỉ coi trẻ em như một đối tượng thụ động, đã gọi các môn đệ đến với Người và nói: “Hãy để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cản chúng; thực ra, Nước Thiên Chúa thuộc về những ai giống như chúng”. Và Người coi trẻ em là hình mẫu cho người lớn. Và Người long trọng nói thêm: “Thầy bảo thật anh em: Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào” (Lc 18,16-17).
Trong một đoạn tương tự, Chúa Giêsu gọi một em nhỏ, đặt em vào giữa các môn đệ và nói: “Nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 18,3). Rồi Người cảnh cáo: “Nhưng ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin Thầy đây phải sa ngã, thì thà treo cối đá lớn vào cổ nó mà xô cho chìm xuống đáy biển còn hơn” (Mt 18,6).
Kitô hữu có nhiệm vụ dấn thân ngăn chặn và lên án mạnh mẽ bạo lực hoặc lạm dụng trẻ vị thành niên
Anh chị em thân mến, các môn đệ của Chúa Giêsu Kitô không bao giờ được phép để trẻ em bị bỏ rơi hoặc lạm dụng, bị tước đoạt các quyền lợi hoặc không được yêu thương và bảo vệ. Các Kitô hữu có nhiệm vụ dấn thân ngăn chặn và lên án mạnh mẽ bạo lực hoặc lạm dụng trẻ vị thành niên.
Đặc biệt, ngày nay có quá nhiều trẻ em bị buộc phải làm việc. Một đứa trẻ không cười, không ước mơ sẽ không thể nhận biết và phát huy tài năng của mình. Ở mọi nơi trên trái đất đều có những trẻ em bị bóc lột bởi một nền kinh tế không tôn trọng sự sống; một nền kinh tế mà khi làm như vậy sẽ thiêu hủy kho hy vọng và tình yêu lớn nhất của chúng ta. Nhưng trẻ em có một vị trí đặc biệt trong trái tim Thiên Chúa và bất cứ ai làm hại trẻ em sẽ phải chịu trách nhiệm trước mặt Người.
Trẻ em phải được yêu thương và bảo vệ
Anh chị em thân mến, những ai nhận mình là con Thiên Chúa, nhất là những người được sai đi mang Tin Mừng đến cho người khác, không thể thờ ơ; không thể chấp nhận việc các trẻ em, thay vì được yêu thương và bảo vệ, lại bị cướp mất tuổi thơ, ước mơ, nạn nhân của sự bóc lột và bị gạt ra ngoài lề xã hội.
Chúng ta cầu xin Chúa mở rộng tâm trí chúng ta để đón nhận sự quan tâm và dịu dàng, để mọi bé trai, bé gái trên thế giới đều có thể lớn lên về tuổi tác, sự khôn ngoan và ân sủng (xem Lc 2,52), bằng cách đón nhận tình yêu và trao tặng nó.
Vào cuối buổi tiếp kiến, cộng đoàn cùng hát kinh Lạy Cha bằng tiếng Latin và sau đó Đức Thánh Cha ban phép lành cho tất cả mọi người.
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-hoan-vu/tiep-kien-chung-812025-kito-huu-khong-the-lam-ngo-khi-cac-tre-em-bi-boc-lot-va-lam-dung-42368.html
21. Bí quyết kinh doanh của Luz Maribel Jimenez: Có Chúa là có tất cả.
“Có Chúa là có tất cả, không có Chúa thì không có gì” là bí quyết kinh doanh của Luz Maribel Jimenez, Giám đốc Nhân sự công ty Carnicerias Jimenez, một doanh nghiệp gia đình Công giáo từng đạt giải thưởng ở Chicago.
Vatican News
Cô chia sẻ đã nhận được định hướng kinh doanh theo tinh thần Công giáo này từ cha mẹ, và hôm nay muốn truyền lại cho những ai muốn đứng đầu một doanh nghiệp có giá trị và mục đích rõ ràng.
Maribel nói: “Những bài học quan trọng nhất tôi học được từ cha mẹ, gồm đặt Chúa và gia đình lên hàng đầu, duy trì đạo đức làm việc, tự hào và yêu thích những gì đang làm, tôn trọng và giúp đỡ người khác khi có thể”.
1. Đức tin là nền tảng
Theo Maribel, đức tin Công giáo là động lực hỗ trợ gia đình Jimenez trong mọi quyết định. Cô nói: “Cha mẹ tôi luôn đặt Chúa là nền tảng cho mọi hành động, từ hoạt động kinh doanh đến đời sống tinh thần. Đó là một hướng dẫn không ngừng, một lời nhắc nhở về những ưu tiên và những nguyên tắc mà chúng tôi luôn duy trì”.
Giám đốc Nhân sự của Carnicerías Jiménez xác tín “đức tin là nền tảng” trong sự phát triển của doanh nghiệp cũng như trong lúc khó khăn. Cầu nguyện và suy tư là sức mạnh hướng dẫn, giúp thấy rõ tầm nhìn và đưa ra những quyết định mang tính quyết định. Cầu nguyện cũng giúp củng cố khả năng phục hồi trong những thời điểm khó khăn, duy trì thái độ tích cực và tiếp tục tiến về phía trước.
2. Duy trì và truyền tải những giá trị gia đình
Theo Maribel, tính liên tục và các giá trị gia đình là một trong những trụ cột khác của Carnicerías Jiménez. Cô giải thích: “Cha mẹ tôi luôn duy trì và truyền tải các giá trị gia đình cho con cháu, bằng cách khuyến khích giao tiếp cởi mở, chia sẻ những câu chuyện, khuyến khích tham gia vào các truyền thống và làm gương”.
Theo nghĩa này, cô khuyến khích thế hệ trẻ luôn nhớ đến cội nguồn và trân trọng cũng như đề cao đức tin, gia đình, truyền thống và tài năng. Cô nói: “Đức tin sẽ hướng dẫn bạn đi trên con đường đúng, trong khi lòng biết ơn về những gì đã lãnh nhận sẽ tiếp thêm sức mạnh cho bạn. Truyền thống gia đình và những giá trị chung là những kết nối quan trọng với tương lai”.
3. Biết ơn vì một mình chúng ta không thể thành công
Maribel chỉ ra rằng một trong những bài học chính mà gia đình Jiménez có thể để lại cho các thế hệ doanh nhân Công giáo là đã học được cách “lãnh đạo bằng sự chính trực, tôn trọng và biết ơn” đối với cộng tác viên.
Cô nói: “Mặc dù tăng trưởng kinh doanh và tài chính rất quan trọng nhưng chúng tôi nhận ra mình không thể đạt được thành công một mình. Chúng ta biết ơn nhân viên, khách hàng, cộng đồng nơi chúng ta đặt trụ sở, nhà cung cấp và cố vấn: tất cả những người đã đóng góp vào việc xây dựng hoạt động kinh doanh của chúng ta”.
4. Thường xuyên giáo dục bản thân và không đánh mất ước mơ
Maribel Jiménez cũng khuyên các doanh nhân dấn thân học hỏi không ngừng, vì theo cô, “giáo dục là điều cần thiết để tạo ra những thay đổi tích cực trong cuộc sống của bạn và cuộc sống của người khác”. Cô nói thêm: “Đừng bao giờ đánh mất ước mơ của mình; bạn có khả năng đạt được chúng. Ngoài ra, không quên đánh giá cao những người đã hỗ trợ bạn trên con đường đạt được mục tiêu của mình”.
5. Duy trì môi trường trong đó nhân viên cảm thấy như gia đình
Một trong những ưu tiên của Jiménez luôn là phúc lợi của nhân viên trong gần 50 năm hoạt động trên thị trường. Maribel nhấn mạnh rằng công ty đã nỗ lực tạo ra “một môi trường mà họ cảm thấy như gia đình, được trân trọng và đánh giá cao. Chúng tôi muốn cung cấp cho nhân viên, cộng đồng của chúng tôi và tất cả những người đã giúp chúng tôi đạt được năm thứ 50 hoạt động kinh doanh. Ngoài ra các chính sách của công ty đều dựa trên các nguyên tắc bền vững về “trung thực, khiêm tốn, phục vụ và lòng biết ơn”.
6. Tiền là công cụ, không bao giờ là mục đích
Đối với gia đình Jiménez, kinh doanh không chỉ là phương tiện kiếm lợi nhuận, kinh doanh vì lợi nhuận không bao giờ là giải pháp. Kết quả cuối cùng và việc đưa ra quyết định chỉ dựa trên các con số không phải là thước đo duy nhất để xác định liệu doanh nghiệp có sinh lời hay không. Tiền là một công cụ, không bao giờ là mục đích. Thước đo thực sự cho sự thành công của công ty là những gì doanh nghiệp có thể làm cho cộng đồng.
Cô nhắc lại: “Hoạt động kinh doanh của chúng tôi luôn tự đo lường bản thân và khả năng sinh lời của mình bằng những gì chúng tôi có thể làm để tiếp tục mang lại việc làm và sự ổn định cho các khu vực lân cận của mình. Chúng tôi làm mọi thứ có thể để cung cấp hỗ trợ tài chính cho cộng đồng địa phương, Giáo hội Công giáo và toàn cầu”.
Là một công ty thành công, Carnicerías Jiménez đã cố gắng thu hút sự tham gia của dân địa phương thông qua việc quyên góp hỗ trợ tài chính cho các tổ chức bác ái, Giáo hội và trường học. Ngoài ra, công ty còn tài trợ cho các sự kiện cộng đồng và cung cấp các chương trình giáo dục cũng như đào tạo nghề cho các nhóm có hoàn cảnh khó khăn.
Trên toàn cầu, dưới sự lãnh đạo của José Jiménez, công ty cung cấp cứu trợ thiên tai, gửi hàng đến nhiều khu vực như Mexico, Trung Mỹ, Haiti và Puerto Rico, đồng thời hợp tác xây dựng trường học, phòng khám và nhà ở tại những khu vực nghèo khó.
7. Lời khuyên cuối cùng: Luôn cầu nguyện, chú ý đến lời Chúa Giêsu
Cuối cùng Maribel Jiménez khuyên các bạn trẻ, chìa khóa để điều hành một doanh nghiệp có giá trị là cầu nguyện, luôn chú ý đến Lời Chúa, và hành động của Người trong mọi việc chúng ta làm. Ngoài ra, phải trau dồi chính mình và nhân viên, tránh bị cám dỗ khai thác tài nguyên chỉ vì mục đích tài chính. Cần biết rằng chất lượng cuộc sống được tạo ra, chất lượng môi trường làm việc cho mình và mọi người sẽ có tác động lớn đến lợi nhuận cho những nỗ lực.
Cô chia sẻ hai câu nói luôn đồng hành và tóm tắt triết lý làm việc và cuộc sống của cô: Không có việc làm nào là vô nghĩa. Mọi công việc nâng cao nhân loại đều có phẩm giá và tầm quan trọng và phải được thực hiện một cách tỉ mỉ và xuất sắc. Thứ hai: Tất cả vì vinh danh Chúa.
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-hoan-vu/bi-quyet-kinh-doanh-cua-luz-maribel-jimenez-co-chua-la-co-tat-ca-42369.html
22. Cháy rừng ở Los Angeles phá hủy một nhà thờ, nhiều trường học phải đóng cửa.
Nhà thờ Corpus Christi ở Pacific Palisades thuộc hạt Los Angeles đã bị thiêu hủy trong trận cháy rừng trong những ngày vừa qua. Hình ảnh được đăng trên trang tin tức Angelus của Tổng giáo phận Los Angeles cho thấy nhà thờ chỉ còn lại phần khung sắt. Ngoài ra, ít nhất 65 trường Công giáo đã phải đóng cửa vào sáng ngày 8/1/2025 do một số vụ cháy xảy ra ở khu vực Los Angeles.
Hồng Thủy - Vatican News
Nhà thờ Corpus Christi nằm ở trung tâm Pacific Palisades, một khu phố giàu có giữa Santa Monica và Malibu ở phía tây Los Angeles. Nhà thờ được xây dựng vào những năm 1950 và từ lâu đã là nơi sinh sống của một số người nổi tiếng Hollywood, ngôi sao thể thao và những người nổi tiếng khác ở Los Angeles.
Các thiệt hại
Theo thông tin từ cuộc họp báo sáng ngày 8/1/2025 với các quan chức thành phố và quận Los Angeles, đám cháy Palisades đã thiêu rụi khoảng 11.000 hécta rừng và khoảng 1.000 công trình, hầu hết là nhà ở, và rất nhiều người bị thương.
Trong khi đó, có hai người đã thiệt mạng và ước tính 100 công trình bị phá hủy và gần 2,200 hécta rừng bị thiêu rụi bởi Đám cháy Eaton. Giáo xứ và trường học thánh Elizabeth Hungary ở Altadena nằm trong khu vực sơ tán bắt buộc của Đám cháy Eaton và được các viên chức cứu hỏa theo dõi chặt chẽ.
Các đám cháy trong khu vực lan rộng nhanh chóng do “gió Santa Ana” cực kỳ khô ở Nam California, dẫn đến nguy cơ cháy rừng tăng cao sau nhiều tháng hầu như không có mưa ở khu vực Los Angeles.
Lời kêu gọi cầu nguyện của Tổng Giám mục Los Angeles
Đức Tổng giám mục José H. Gomez của Los Angeles đã kêu gọi: “Xin hãy tiếp tục cầu nguyện cho tất cả những người đang phải chịu đau khổ trong các vụ cháy rừng đang quét qua Nam California. Tôi xin gửi lời chia buồn đến những người lân cận của chúng tôi đã mất nhà cửa và kế sinh nhai. Chúng ta hãy cầu nguyện cho họ và cầu nguyện cho lính cứu hỏa và những người ứng cứu đầu tiên của chúng ta. Cầu xin Thiên Chúa giữ cho tất cả anh chị em chúng ta được an toàn và chấm dứt những đám cháy này”.
Đến chiều ngày 8/1, Giám đốc Sở Cứu hỏa Quận Los Angeles, Anthony C. Marrone, cho biết trong một cuộc họp báo rằng tất cả các đám cháy vẫn chưa được khống chế phần nào.
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-hoan-vu/chay-rung-o-los-angeles-pha-huy-mot-nha-tho-nhieu-truong-hoc-phai-dong-cua-42373.html
23. Đức Thánh Cha tiếp Ngoại giao đoàn cạnh Toà Thánh.
Sáng ngày 09/01, Đức Thánh Cha Phanxicô đã tiếp kiến Ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh. Trong dịp này, khi trình bày một số điểm của ngoại giao hy vọng, ngài mời gọi các đại sứ thực hiện và nhấn mạnh trách nhiệm mà mỗi lãnh đạo chính trị cần ghi nhớ trong khi thi hành nhiệm vụ, là hướng đến việc xây dựng công ích và sự phát triển con người toàn diện.
Vatican News
Mở đầu cuộc gặp gỡ, Đại sứ Cộng hòa Cipro cạnh Tòa Thánh, ông George Poulides, Niên trưởng đoàn ngoại giao, đã đại diện mọi người chúc mừng Đức Thánh Cha nhân dịp đầu năm mới và nhắc đến những hoạt động của ngài đã mang lại những hướng đi cho cộng đồng các dân nước.
Trong diễn văn đáp lời, Đức Thánh Cha nhắc đến những phát triển trong các quan hệ ngoại giao của Tòa Thánh trong năm qua với các nước, đặc biệt việc ký hiệp định bổ sung thứ hai cho hiệp định về quy chế pháp lý của Giáo hội Công giáo tại Burkina Faso, hiệp ước song phương với Cộng hòa Séc về một số vấn đề pháp lý, và Thoả thuận Tạm thời giữa Tòa Thánh-Trung Quốc về bổ nhiệm Giám mục.
Cách riêng, Đức Thánh Cha bày tỏ lòng biết ơn chính phủ Ý vì các hoạt động chuẩn bị cho Năm Thánh. Theo ngài, nhờ công việc không ngừng của nhiều người mà hôm nay dân thành Roma, khách hành hương và khách du lịch có thể tận hưởng vẻ đẹp của thành phố muôn thuở. Ngài cũng gửi lời cám ơn đến các lực lượng cảnh sát, bảo vệ dân sự, cơ quan y tế và các tình nguyện viên, mỗi ngày làm việc hết sức để đảm bảo an toàn cho Năm Thánh.
Năm mới khởi đầu với những bất ổn
Đức Thánh Cha nhận xét về tình hình thế giới với những bất ổn xảy ra đầu năm, đó là sự tái diễn các hành động khủng bố ở Magdeburg của Đức và ở New Orleans của Hoa Kỳ. Ngày nay, mọi người phải sống trong bối cảnh xã hội ngày càng phân cực, với cảm giác lo sợ và không tin tưởng người khác và tương lai. Điều này càng trở nên trầm trọng hơn bởi việc tạo ra và loan tin giả, bóp méo sự thật và lương tâm, khơi dậy nhận thức sai lầm về thực tế và tạo ra bầu khí nghi ngờ kích động hận thù, gây nguy hiểm cho sự an toàn của người dân và ảnh hưởng đến sự chung sống và sự ổn định của toàn quốc gia. Những ví dụ bi thảm về điều này là các cuộc tấn công nhắm vào Thủ tướng Slovakia và Tổng thống đắc cử Hoa Kỳ.
Mong ước của Đức Thánh Cha
Trước thực trạng thế giới như vậy, Đức Thánh Cha bày tỏ mong ước năm mới và cũng là Năm Thánh này có thể là cơ hội để tất cả mọi người, Kitô hữu và không Kitô hữu, suy nghĩ lại các mối liên hệ để vượt qua tư duy đối đầu và thay vào đó là tư duy gặp gỡ, để thời gian tới mọi người không phải sống trong sự tuyệt vọng, nhưng như những người hành hương hy vọng trên một hành trình dấn thân xây dựng một tương lai hoà bình.
Mặt khác, trước mối đe doạ ngày càng rõ của chiến tranh thế giới, ơn gọi ngoại giao là khuyến khích đối thoại với tất cả, gồm cả những người được xem là “không dễ chịu” và những người không cho là hợp pháp để đàm phán. Đây là cách duy nhất để phá vỡ xiềng xích hận thù và trả thù đang giam cầm, và để tháo gỡ ích kỷ, kiêu ngạo con người.
Ngoại giao hy vọng
Với những suy xét này và khởi đi từ những lời của ngôn sứ Isaia, được Chúa Giêsu nhận cho chính mình trong hội đường Nazareth vào lúc bắt đầu cuộc đời công khai: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi… sai tôi đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân, công bố một năm hồng ân của Đức Chúa” (Is 61,1-2a), Đức Thánh Cha nói rằng ngài muốn trình bày với các đại sứ một số điểm của ngoại giao hy vọng mà tất cả đều được kêu gọi thực hiện. Nói chung, ngài muốn nhấn mạnh một số trách nhiệm mà mỗi lãnh đạo chính trị cần ghi nhớ trong khi thi hành nhiệm vụ, vốn phải hướng đến việc xây dựng công ích và sự phát triển con người toàn diện.
Mang tin vui cho kẻ nghèo hèn
Trước hết mang tin vui cho kẻ nghèo hèn. Đức Thánh Cha nhận xét chưa bao giờ nhân loại đạt được những tiến bộ, phát triển và giàu có như thời đại hôm nay, nhưng cũng chưa bao giờ con người cảm thấy cô đơn, lạc lối, thích thú cưng hơn là trẻ em như ngày nay. Vì thế, nhu cầu đón nhận tin vui càng trở nên cấp thiết. Tin vui này Thiên Chúa ban cho nhân loại trong đêm Giáng sinh. Mọi người, cả những người không phải là Kitô hữu đều có thể trở thành người mang niềm hy vọng và sự thật.
Mặt khác, con người được ban cho một khát khao bẩm sinh về sự thật. Nhưng thời nay, với các phương tiện truyền thông hiện đại và trí tuệ nhân tạo, dường như việc phủ nhận sự thật luôn chiếm ưu thế. Vì thế, một ngoại giao hy vọng trước hết là một ngoại giao của sự thật. Nơi nào thiếu mối liên kết giữa thực tế, sự thật và kiến thức, thì nơi đó nhân loại không còn có thể nói và hiểu nhau nữa, vì thiếu nền tảng của một ngôn ngữ chung, như ở câu chuyện Tháp Babel trong Kinh Thánh. Truyền thông, đối thoại và dấn thân vì công ích đòi hỏi thiện chí và tuân thủ một ngôn ngữ chung. Điều này đặc biệt quan trọng trong lĩnh vực ngoại giao.
Băng bó những tấm lòng tan nát
Đức Thánh Cha đi đến điểm thứ hai: một ngoại giao hy vọng cũng là một ngoại giao của sự tha thứ. Ngài mong muốn trong Năm Thánh 2025, tất cả Cộng đồng quốc tế nỗ lực trước hết chấm dứt cuộc chiến tranh đẫm máu ở Ucraina đã diễn ra trong ba năm và gây ra nhiều nạn nhân. Một số dấu hiệu khích lệ đã xuất hiện ở phía chân trời, nhưng vẫn còn nhiều việc phải làm để xây dựng các điều kiện cho một nền hoà bình công bằng và lâu dài, cũng như chữa lành những vết thương do cuộc xâm lược gây ra.
Đồng thời, ngài nhắc lại lời kêu gọi ngừng bắn và thả các con tin Israel ở Gaza, nơi mà tình hình nhân đạo rất nghiêm trọng, và yêu cầu làm sao để người Palestine nhận được mọi viện trợ cần thiết. Ngài hy vọng người Israel và Palestine có thể tái xây dựng những cây cầu đối thoại và tin tưởng nhau, để các thế hệ tương lai có thể sống cạnh nhau trong hoà bình.
Cũng liên quan đến chiến tranh, Đức Thánh Cha lưu ý các loại vũ khí ngày càng tinh vi và huỷ diệt. Ngài kêu gọi sử dụng tiền mua vũ khí để thành lập quỹ toàn cầu xoá đói và phát triển các nước nghèo.
Về việc dân thường và cơ sở hạ tầng bị tấn công, ngài hy vọng Năm Thánh này sẽ là thời điểm thuận tiện để cộng đồng quốc tế làm việc tích cực để đảm bảo quyền con người không phải hy sinh trước các đòi hỏi quân sự.
Ngoài Ucraina, Israel, Palestine, Đức Thánh Cha còn nhắc đến những nơi chiến tranh và xung đột đang tàn phá đời sống người dân: Châu Phi: Sudan, Sahel, Sừng châu Phi, Mozambique, Haiti; Châu Á với Myanmar; Châu Mỹ Latinh với Venezuela, Bolivia, Colombia và Nicaragua.
Công bố tự do cho nô lệ
Về công bố tự do cho các nô lệ, Đức Thánh Cha nói: “Hai ngàn năm Kitô giáo đã đóng góp loại bỏ chế độ nô lệ khỏi mọi hệ thống pháp luật. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều hình thức nô lệ”.
Ngài liệt kê những hình thức đó: Trong lao động với điều kiện làm việc vô nhân đạo. Phải làm sao để lao động thực sự mang lại phẩm giá và phát triển cho con người; Tình trạng nô lệ khủng khiếp của nghiện ma tuý, đặc biệt ảnh hưởng đến người trẻ. Không thể chấp nhận được khi chứng kiến nhiều cuộc đời, gia đình và đất nước bị huỷ hoại bởi tai hoạ này; Nô lệ của hoạt động buôn người, hình thức nô lệ khủng khiếp nhất. Ngoại giao hy vọng là ngoại giao của tự do, đòi hỏi cam kết chung của cộng đồng quốc tế loại bỏ hình thức thương mại khốn khổ này.
Về điểm này, Đức Thánh Cha còn đề cập đến hiện tượng di cư, mà theo ngài vẫn còn bị bao phủ bởi một đám mây đen ngờ vực, thay vì được coi là một nguồn tăng trưởng. Điều quan trọng nữa là phải giải quyết các nguyên nhân gốc rễ của việc di chuyển, để việc rời khỏi nhà của một người nhằm tìm một nhà khác là một lựa chọn chứ không phải là một “nghĩa vụ sinh tồn”. Trong cái nhìn này, ngài tin rằng một cam kết chung để đầu tư vào hợp tác phát triển là điều cần thiết, để giúp xóa bỏ một số nguyên nhân khiến người dân di cư.
Công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm
Đức Thánh Cha nói đến điểm cuối cùng: Công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm. Ngài nhắc lại Năm Thánh là thời gian thuận tiện để thực hành công lý, tha nợ và ân xá cho các tù nhân, bãi bỏ án tử hình. Theo ngài, không có khoản nợ nào cho phép ai đó, kể cả nhà nước, đòi hỏi mạng sống của người khác. Mặt khác, chúng ta không thể quên rằng theo một nghĩa nào đó, tất cả chúng ta đều là tù nhân, bởi vì tất cả chúng ta đều là những người mắc nợ: nợ Thiên Chúa, người khác và cả Trái đất thân yêu của chúng ta.
Với cái nhìn này, Đức Thánh Cha kêu gọi các quốc gia giàu có tha nợ cho những quốc gia không bao giờ có thể trả được. Đó không chỉ là một hành động liên đới hay cao thượng, nhưng trên hết là công lý.
Về phần Giáo hội, ngài nhấn mạnh, Tòa Thánh sẵn sàng đồng hành với tiến trình này với ý thức rằng không có biên giới hay rào cản nào, chính trị hay xã hội, mà chúng ta có thể che giấu đằng sau.
Đức Thánh Cha kết thúc: “Theo quan điểm Kitô giáo, Năm Thánh là thời gian ân sủng. Và tôi ước mong năm 2025 này thực sự là một năm ân sủng, giàu sự thật, tha thứ, tự do, công lý và hòa bình! Niềm hy vọng được chứa đựng trong trái tim mỗi người như một niềm khao khát và chờ đợi sự tốt lành, và mỗi người chúng ta được mời gọi làm cho niềm hy vọng đó lan toả xung quanh chúng ta. Đây là lời chúc chân thành nhất gửi tới quý vị, các Đại sứ thân mến, tới gia đình, các chính phủ và những dân tộc mà các quý vị đại diện: cầu mong niềm hy vọng nảy nở trong trái tim chúng ta, và thời đại của chúng ta tìm thấy hòa bình đáng mong muốn”.
Sau bài diễn văn dài, Đức Thánh Cha bắt tay chào thăm tất cả các vị đại sứ hiện diện.
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-hoan-vu/duc-thanh-cha-tiep-ngoai-giao-doan-canh-toa-thanh-42374.html
24. Trong Năm Thánh, Đức Thánh Cha sẽ có thêm các buổi Tiếp kiến Năm Thánh vào thứ Bảy.
Vào lúc 9 giờ sáng thứ Bảy ngày 11/1/2025 Đức Thánh Cha sẽ bắt đầu buổi Tiếp kiến Năm Thánh đầu tiên của Năm Thánh 2025.
Hồng Thủy - Vatican News
Ngoài các buổi Tiếp kiến chung vào thứ Tư hàng tuần như truyền thống từ trước đến nay, trong Năm Thánh 2025, Đức Thánh Cha sẽ có thêm buổi Tiếp kiến Năm Thánh dành cho các tín hữu vào thứ Bảy, mỗi hai tuần một lần nếu như không trùng vào dịp lễ trọng hay sự kiện đặc biệt nào.
Theo chương trình dự kiến, trong tháng 1 sẽ có một buổi Tiếp kiến Năm Thánh vào thứ Bảy, vào ngày 11/1. Trong tháng 2 sẽ có 2 buổi, vào ngày 1 và ngày 15; trong tháng 3 cũng sẽ có hai buổi vào ngày 1 và ngày 15, trong khi tháng 4 chỉ có một buổi vào ngày 5, bởi vì thứ Bảy ngày 19/4 sẽ là thứ Bảy Tuần Thánh.
Thông tin về thời gian của các buổi Tiếp kiến Năm Thánh vào thứ Bảy được đăng trên trang web: https://www.iubilaeum2025.va/it/pellegrinaggio/calendario-giubileo/udienze-del-santo-padre/udienza-santo-padre-gennaio.html
Một điều cần lưu ý là cũng giống như các buổi Tiếp kiến chung thứ Tư hàng tuần, trong thời gian diễn ra buổi Tiếp kiến Năm Thánh vào các thứ Bảy trong Năm Thánh, Cửa Thánh Đền thờ Thánh Phêrô sẽ đóng và các tín hữu chỉ có thể đi qua Cửa Thánh sau khi buổi Tiếp kiến kết thúc.
Vấn đề xin vé tham dự các buổi Tiếp kiến vào thứ Bảy trong Năm Thánh cũng tương tự như cách xin vé cho các buổi Tiếp kiến chung vào thứ Tư hàng tuần, nghĩa là cần gửi thư cho Phủ Giáo hoàng. Mẫu xin vé tại link: https://www.vatican.va/various/prefettura/index_en.html
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-hoan-vu/trong-nam-thanh-duc-thanh-cha-se-co-them-cac-buoi-tiep-kien-nam-thanh-vao-thu-bay-42375.html
25. Đức Thánh Cha khích lệ các bệnh nhân nhi dâng đau khổ để cầu nguyện cho Giáo hội.
Sáng thứ Sáu, ngày 10/01, Đức Thánh Cha tiếp ban Giám đốc và các bệnh nhân của Trung tâm Ung bướu - Huyết học Nhi khoa của thành phố Wroclaw bên Ba Lan, đến Roma hành hương Năm Thánh. Trong dịp này, ngài khích lệ các em dâng đau khổ để cầu nguyện cho ý chỉ của Đức Giáo Hoàng.
Vatican News
Đức Thánh Cha nói khi gặp mọi người, ngài cảm thấy vui trong tâm hồn vì có cơ hội trao cho nhau niềm hy vọng và tình thương. Và đặc biệt với các bệnh nhân nhi, ngài nói: “Các con thân mến, đối với cha, các con là dấu hiệu của hy vọng. Vì cha chắc chắn rằng Chúa Giêsu hiện diện trong các con. Và nơi nào có Chúa, nơi đó có hy vọng không làm thất vọng! Chúa Giêsu đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta vì tình yêu, và vì thế, qua tình yêu của Người, chúng ta cũng có thể hiệp nhất với Người khi chúng ta đau khổ”.
Đức Thánh Cha giải thích thêm rằng, thử thách của tình bạn là: khi hai người thực sự là bạn của nhau, niềm vui của người này cũng là niềm vui của người kia, và nỗi đau của người này cũng là đau khổ của người kia. Chúa Giêsu đã từng nói với các môn đệ Người: “Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (Ga 15, 15). Các thiếu nhi cũng là bạn của Chúa Giêsu, vì thế các em cũng có thể chia sẻ niềm vui và nỗi buồn với Chúa.
Và một bằng chứng khác về tình bạn của Chúa Giêsu đối với các bệnh nhân nhi là tình yêu thương và sự hiện diện không ngừng của cha mẹ các em, đó là nụ cười ân cần và dịu dàng của các bác sĩ, y tá, chuyên gia vật lý trị liệu, những người chăm sóc và làm việc để cải thiện sức khỏe của các em, để các em không đánh mất ước mơ và hy vọng.
Đức Thánh Cha nói thêm: “Cha cũng gọi các con là bạn. Và cha muốn các con giúp cha phục vụ Giáo hội. Thỉnh thoảng dâng lời cầu nguyện và đau khổ của các con cho ý chỉ của Đức Giáo Hoàng”.
Cuối cùng, ngài cám ơn những người đã đồng hành với các em đến Roma trong cuộc hành hương hy vọng, đồng thời phó thác mọi người cho Thánh Tâm Chúa Giêsu và Trái tim Vô nhiễm Mẹ Maria.
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-hoan-vu/duc-thanh-cha-khich-le-cac-benh-nhan-nhi-dang-dau-kho-de-cau-nguyen-cho-giao-hoi-42382.html
26. Một nữ tu thành lập trung tâm đào tạo thần học và tu đức đầu tiên ở Namibia.
Ơn gọi tu trì ở Namibia, một quốc gia ở phía tây nam châu Phi, đang gia tăng, làm nảy sinh nhu cầu cấp thiết về việc đào tạo thích hợp cho các nữ tu. Đáp lại lời kêu gọi này, Sơ Anna Arabome đã đi đầu trong việc thành lập trung tâm đào tạo thần học và tu đức đầu tiên tại Namibia để giúp các nữ tu có khả năng thi hành sứ vụ trong ơn gọi của họ.
Sơ Michelle Njeri, OSF
Các Bề trên cao cấp ở Namibia hiện nay có thể theo chương trình đào tạo thần học và tu đức tại Windhoek, Namibia.
Theo Niên giám Thống kê của Giáo hội năm 2023, ơn gọi tu trì ở Châu Phi gia tăng đáng kể và bền vững. Mặc dù sự gia tăng này là một món quà đáng hoan nghênh, nhưng nó cũng nảy sinh nhu cầu quan trọng về các chương trình đào tạo thần học và tu đức cho các nữ tu Công giáo không được tiếp cận với giáo dục mục vụ chuyên ngành.
Để cung cấp đầy đủ các dịch vụ cho những người thiệt thòi và sống trong cảnh nghèo đói, những phụ nữ đang cống hiến cuộc đời mình để phục vụ Chúa Kitô xứng đáng có được nền tảng vững chắc về thần học, Kinh Thánh, tu đức và các kỹ năng lãnh đạo.
Sơ Anna Arabome, thành viên của Dòng Nữ tu Phục vụ Xã hội ở Los Angeles, đã đáp lại nhu cầu đào tạo nữ tu tại Châu Phi bằng cách thành lập Học viện Nghiên cứu Thần học và Đào tạo Tâm linh có tên Sophia tại Namibia.
Sơ Anna cho biết, “Đặc sủng của Dòng Nữ tu Phục vụ Xã hội là giúp cho các thành viên phát triển nhận thức về Chúa Thánh Thần và hoạt động của Chúa Thánh Thần trên thế giới bằng cách tích cực tham gia vào Sứ mạng Xã hội của Giáo hội. Học viện Sophia là hiện thân của đặc sủng này”.
Trở lại Châu Phi như lời kêu gọi dành cho các nữ tu
Sau nhiều năm phục vụ và làm mục vụ tại Hoa Kỳ, Sơ Anna đã trở lại Châu Phi để tạo ra những cơ hội đào tạo cách sáng tạo cho các nữ tu Châu Phi, dựa trên các giá trị và nguyên tắc sống tôn giáo và tâm linh độc đáo của Châu Phi.
Sơ Anna chia sẻ về động lực thành lập Viện Sophia: “Tôi luôn có cảm giác mạnh mẽ rằng mình được Chúa kêu gọi; tiếng gọi này đã đưa tôi trở lại Châu Phi, cụ thể là Namibia và miền Nam Châu Phi. Những nữ tu ở khu vực Châu Phi này có ít cơ hội được đào tạo về nghiên cứu thần học và tu đức. Có rất nhiều nữ tu tài năng, có năng khiếu và có năng lực, những người đam mê việc truyền giáo của Giáo hội – mang ánh sáng của Chúa Kitô đến với người khác. Họ cần và xứng đáng được hỗ trợ về mặt tinh thần, thần học và kỹ năng lãnh đạo”.
Sơ nói thêm rằng đây chính là lời kêu gọi của Học viện Sophia, nơi đã cung cấp một chương trình dành cho những phụ nữ sẽ đào tạo những phụ nữ trẻ khác về đời sống tu trì.
Sơ giải thích: “Chương trình đào tạo này theo hình thức trực tuyến, tiếp cận những nữ tu ở Nam Phi, Botswana, Zimbabwe và Lesotho. Và điều này được thực hiện với chi phí tài chính tối thiểu".
Một chuyên gia đam mê sứ vụ và công lý xã hội
Hồ sơ kinh nghiệm và chuyên môn của Sơ Anna về linh đạo Thánh Inhaxiô và thần học bao gồm tám năm làm Phó giám đốc Trung tâm Faber về Linh đạo Thánh Inhaxiô tại Đại học Marquette ở Wisconsin.
Sơ đã là thành viên của phân khoa thần học tại Hekima, Nairobi, cung cấp các lớp học về nhân chủng học, linh đạo và đời sống tu trì như một phần của chương trình các Nữ tu Học giả. Sơ Anna có bằng Tiến sĩ về Thần học Hệ thống từ Đại học Roehampton ở Vương quốc Anh cũng như Tiến sĩ về Mục vụ và Linh đạo tại trường Catholic Theological Union ở Chicago.
Sáng kiến của Sơ Anna trải dài trên hai châu lục khi sơ cũng điều phối một chương trình nghiên cứu thần học và sống liên văn hóa dành cho các nữ tu châu Phi hợp tác với Trung tâm Linh đạo Thánh Inhaxiô tại Glasgow, Scotland.
Sơ Anna cho biết: "Tôi đam mê việc mục vụ, công lý xã hội và nghiên cứu, tập trung vào đời sống tâm linh của phụ nữ châu Phi và linh đạo Thánh Inhaxiô". Sơ nói thêm rằng sơ lấy cảm hứng từ mô hình hiệp hành trong việc đào tạo các nhà lãnh đạo châu Phi, sơ đã "kết hợp các giá trị, nguyên tắc và thực hành hiệp hành vào sứ mạng đào tạo của mình".
Trao khả năng và khôi phục phẩm giá của các nữ tu châu Phi
Suy tư về hành trình cho đến nay, Sơ Anna đã chia sẻ những hy vọng mãnh liệt của sơ đối với Học viện Sophia: “Tôi ước mơ rằng sáng kiến này sẽ là phương tiện trao khả năng và khôi phục lại phẩm giá và vẻ đẹp của các nữ tu châu Phi và cộng đồng của họ thông qua việc suy tư thần học cách sáng tạo và trong bối cảnh, việc đào tạo, sự đổi mới, sự đồng hành tâm linh và các cuộc tĩnh tâm theo linh đạo Thánh Inhaxiô".
Sơ Anna kết luận: “Đây là một cuộc phiêu lưu thú vị. Tôi thực sự cảm nghiệm sự Hiện diện của Đấng vĩ đại hơn tôi rất nhiều, Đấng đã kêu gọi tôi đồng hành cùng các nữ tu. Theo cách này, tôi đang thực hiện sứ mạng xã hội của Giáo hội”.
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-hoan-vu/mot-nu-tu-thanh-lap-trung-tam-dao-tao-than-hoc-va-tu-duc-dau-tien-o-namibia-42383.html
27. ĐHY Gambetti khai mạc “Năm Thánh các nhà tù Ý” và trao “Ngọn đèn hy vọng” cho các linh mục tuyên úy nhà tù
Sáng ngày 9/1/2025, tại bàn thờ Ngai tòa trong Đền thờ Thánh Phêrô, Đức Hồng y Mauro Gambetti, Giám quản Đền thờ, đã chủ sự Thánh lễ khai mạc “Năm Thánh Hy Vọng trong các Nhà tù Ý”. Ngài đã làm phép những chiếc đèn làm từ những chiếc lọ do các tù nhân ở nhà tù Salerno thực hiện và trao cho các linh mục tuyên úy và mời gọi mọi người dùng trái tim để hiểu các tù nhân.
Vatican News
Tham dự Thánh lễ có Cha Raffaele Grimaldi, Tổng tuyên úy các nhà tù Ý, cùng với 15 đại biểu khu vực khác và một số thành viên của ủy ban tổ chức Năm thánh dành cho tù nhân.
Những “ngọn đèn hy vọng”, những chiếc bình gốm mang biểu tượng của Năm Thánh 2025, được Đức Hồng y Gambetti trao cho các tuyên úy và trong tháng 1 này, họ sẽ mang chúng đến tất cả các nhà tù và nhà giam.
Trước Thánh lễ, tại nhà tù Regina Coeli ở Roma, đã có buổi trình bày các hoạt động của “Năm Thánh Hy vọng trong các nhà tù”, với sự tham gia của nhiều chính quyền dân sự.
Hiểu bằng trái tim
Trong bài giảng, Đức Hồng y Giám quản Đền thờ Thánh Phêrô nhận xét rằng sau phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều, các môn đệ của Chúa Giêsu chưa hiểu được Người; họ muốn ở lại để tận hưởng thành công của phép lạ. Khi Chúa ra lệnh cho họ lên thuyền, họ cảm thấy là một sự ép buộc. Các tù nhân trong các nhà tù trên khắp thế giới cũng trải qua “cảm giác bị ràng buộc, bị áp bức”, điều mà các tuyên úy của các nhà tù có nhiệm vụ xoa dịu, bằng cách đảm nhận vai trò của Chúa Giêsu.
Các tù nhân phải “đối mặt với con người thật của mình và những gì họ mang trong lòng”, trong đó có cảm xúc sợ hãi. Thánh Máccô nhấn mạnh đến sự hiểu biết, và hiểu bằng trái tim. Và đây là điều, theo Đức Hồng y, mà bất kỳ ai có vai trò hỗ trợ - không chỉ cho các tù nhân mà “cho bất kỳ ai” - đều phải hướng tới.
“Chỉ khi Chúa Giêsu ngự trong lòng chúng ta thì chúng ta mới có thể là người mang đến hòa bình và ánh sáng”
Nhắc lại thông điệp “Dilexit nos” của Đức Thánh Cha, Đức Hồng y Giám quản Đền thờ Thánh Phêrô thúc giục mọi người “trở về với trái tim” và một lần nữa “hiểu bằng trái tim”, như “nơi trú ngụ của trí tuệ, ý chí và tình cảm”, đại diện cho toàn thể “trung tâm” của con người. Đối với những người được kêu gọi giúp đỡ các tù nhân, lời khuyên này càng cần thiết hơn, bởi vì các tù nhân chỉ có thể tìm thấy tự do nếu họ đi đến tận sâu thẳm lòng mình.
Đức Hồng y mời gọi các tuyên úy “noi gương Chúa Giêsu trong cầu nguyện”, “đặt mình vào vị trí của Người” và để “Thần Khí Chúa Cha” hành động. Ngài nói thêm, để làm tan chảy trái tim, “đến mức chế ngự được các thế lực” khiến họ kích động. “Chỉ khi Chúa Giêsu ngự trong lòng chúng ta thì chúng ta mới có thể là người mang đến hòa bình và ánh sáng”.
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-hoan-vu/dhy-gambetti-khai-mac-nam-thanh-cac-nha-tu-y-va-trao-ngon-den-hy-vong-cho-cac-linh-muc-tuyen-uy-nha-tu-42384.html
28. Hai nữ tu Nigeria bị bắt cóc.
Hai nữ tu thuộc dòng Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội đã bị bắt cóc ở bang Anambra, miền đông nam Nigeria.
Vatican News
Sơ Vincentia Maria Nwankwo và Sơ Grace Mariette Okoli đã bị bắt cóc vào tối thứ Ba ngày 7/1.
Theo một tuyên bố của hội dòng của hai sơ, các chị đã bị những người đàn ông có vũ trang bắt cóc dọc theo đường Ufuma khi các chị đang trở về nhà sau khi tham dự cuộc họp của Hiệp hội nghề nghiệp tại Ogboji.
Sơ Vincentia Maria là hiệu trưởng của Trường Trung học Cơ sở mang tên Tổng Giám mục Charles Heerey ở Ufuma và Sơ Grace Mariette là giáo viên tại Trường trung học Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội, một trường dành cho nữ sinh, ở Nnewi
Theo phát ngôn viên của cảnh sát, một chiến dịch an ninh chung đã được triển khai để truy tìm và giải cứu hai nữ tu. (Agenzia Fides 9/1/2025)
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-hoan-vu/hai-nu-tu-nigeria-bi-bat-coc-42385.html
29. Buổi Tiếp kiến Năm Thánh đầu tiên - Đức Thánh Cha: Năm Thánh là một khởi đầu mới.
Vào sáng thứ Bảy ngày 11/1 Đức Thánh Cha đã chủ sự buổi đầu tiên trong chương trình các buổi Tiếp kiến Năm Thánh mà ngài giải thích rằng để chào đón và đón nhận tất cả những người từ khắp nơi trên thế giới đến Roma để tìm kiếm một khởi đầu mới. Bởi vì, ngài giải thích: "Năm Thánh là một khởi đầu mới, cơ hội cho mọi người bắt đầu lại từ Thiên Chúa. Với Năm Thánh, chúng ta bắt đầu một cuộc sống mới, một giai đoạn mới". Ngài mời gọi các tín hữu hãy bắt đầu lại cuộc sống.
Vatican News
Đức Thánh Cha giải thích thêm trong bài giáo lý: Vào những ngày thứ Bảy này, thỉnh thoảng tôi muốn nhấn mạnh đến một số khía cạnh của hy vọng. Đây là một nhân đức đối thần. Và trong tiếng Latin, virtus - nhân đức - có nghĩa là “sức mạnh”. Hy vọng là sức mạnh đến từ Thiên Chúa. Do đó, hy vọng không phải là thói quen hay đặc điểm tính cách – mà người ta có hoặc không có – mà là sức mạnh cần cầu xin. Đây là lý do tại sao chúng ta trở thành người hành hương: chúng ta đến để xin một ân sủng, để bắt đầu lại trên hành trình cuộc sống.
Gioan Tẩy Giả là vị Ngôn sứ của hy vọng
Chúng ta sắp mừng lễ Chúa Giêsu chịu Phép Rửa và điều này khiến chúng ta nghĩ đến vị ngôn sứ vĩ đại của hy vọng là Thánh Gioan Tẩy Giả. Chúa Giêsu đã nói những điều tuyệt vời về ngài: là người lớn nhất trong số những người được sinh ra bởi người nữ (xem Lc 7,28). Do đó chúng ta hiểu tại sao có rất nhiều người đổ xô đến với ngài, với mong muốn có một khởi đầu mới; với mong muốn bắt đầu lại và Năm Thánh giúp chúng ta trong việc này. Vị Tẩy Giả thực sự vĩ đại và xuất hiện một cách đáng tin cậy trong tính cách của ngài. Cũng như ngày nay chúng ta bước qua Cửa Thánh, thì Thánh Gioan cũng đề xuất băng qua Sông Jordan, tiến vào Đất Hứa như ông Giosua đã làm trước tiên. Thưa anh chị em, chúng ta hãy bắt đầu lại, tiếp nhận lại đất đai, như lần đầu tiên.
Đón nhận Vương quốc của Thiên Chúa đưa chúng ta đến một trật tự mới của sự vĩ đại
Nhưng ngay sau lời khen ngợi tuyệt vời đó, Chúa Giêsu đã nói thêm một điều khiến chúng ta phải suy nghĩ: "Ta bảo anh em, trong số những người được sinh ra bởi người nữ, không có ai lớn hơn ông Gioan, nhưng kẻ nhỏ nhất trong Nước Thiên Chúa còn lớn hơn ông" (câu 28). Thưa anh chị em, hy vọng nằm ở bước nhảy vọt về phẩm chất này. Điều này không phụ thuộc vào chúng ta, mà phụ thuộc vào Vương quốc của Thiên Chúa. Đây là điều ngạc nhiên: đón nhận Vương quốc của Thiên Chúa đưa chúng ta đến một trật tự mới của sự vĩ đại. Thế giới của chúng ta, tất cả chúng ta, đều cần nó!
Tôi có thực sự mong muốn bắt đầu lại không?
Khi Chúa Giêsu loan báo những lời này, Gioan Tẩy Giả đang ở trong tù, lòng đầy những câu hỏi. Chúng ta cũng mang theo nhiều câu hỏi trong chuyến hành hương và anh chị em có biết tại sao không? Bởi vì vẫn còn nhiều vua “Hêrôđê” chống đối Vương quốc Thiên Chúa. Tuy nhiên, Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta con đường mới, con đường của các Mối Phúc, là luật gây ngạc nhiên của Phúc Âm. Vậy thì chúng ta tự hỏi: liệu tôi có thực sự mong muốn bắt đầu lại không? Mỗi người hãy suy nghĩ về điều này: tôi có muốn bắt đầu lại từ nội tâm không? Tôi có muốn học từ Chúa Giêsu, Đấng thực sự vĩ đại không? Người nhỏ nhất trong Vương quốc Thiên Chúa là người vĩ đại nhất. Và chúng ta phải bắt đầu lại, bắt đầu lại!
Nhìn nhận quan tâm đến những người bé mọn
Từ Gioan Tẩy Giả, chúng ta học cách thay đổi suy nghĩ. Hy vọng cho ngôi nhà chung của chúng ta – Trái đất này của chúng ta, bị lạm dụng và tổn thương – và hy vọng cho tất cả con người nằm ở sự khác biệt của Thiên Chúa. Sự vĩ đại của Người thì khác biệt. Và chúng ta bắt đầu lại từ bản chất độc đáo này của Thiên Chúa, được tỏa sáng nơi Chúa Giêsu và giờ đây thúc đẩy chúng ta phục vụ, yêu thương huynh đệ, nhìn nhận mình là nhỏ bé. Và để thấy những người bé nhỏ nhất, lắng nghe họ và trở thành tiếng nói của họ. Đây là sự khởi đầu mới của chúng ta, Năm Thánh của chúng ta và chúng ta phải bắt đầu lại! Cảm ơn anh chị em!
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-hoan-vu/buoi-tiep-kien-nam-thanh-dau-tien---duc-thanh-cha-nam-thanh-la-mot-khoi-dau-moi-42390.html
30. Một nhà thờ mới được khánh thành tại nơi Chúa Giêsu chịu phép rửa ở Jordan.
Ngày 10/1/2024, Đức Hồng y Quốc vụ khánh Tòa Thánh Pietro Parolin đã chủ sự Thánh lễ thánh hiến một nhà thờ Công giáo mới tại địa điểm Chúa Giêsu chịu phép rửa ở Al-Maghta, nơi được tôn kính là nơi Chúa Giêsu chịu phép rửa, trên bờ sông Jordan của Jordan. Nhà thờ đã được thánh hiến sau 15 năm khởi công.
Vatican News
Thánh lễ diễn ra trong bối cảnh các tín hữu Công giáo Jordan hành hương hàng năm nhân lễ Trọng Chúa Giêsu chịu phép rửa. Trong Thánh lễ, Đức Hồng y cũng thánh hiến bàn thờ của nhà thờ mới.
Al-Maghtas: Di sản thế giới
Truyền thống hành hương đến Sông Jordan đã được tái lập vào năm 2000. Kể từ đó, địa điểm này đã được mở rộng đáng kể với sự hỗ trợ của Vua Jordan Abdullah II và một số nhà thờ của các hệ phái Kitô khác nhau đã được xây dựng. Từ năm 2002, địa điểm này đã cung cấp các tour du lịch có hướng dẫn viên cho du khách. Năm 2015, Al-Maghtas đã được UNESCO đưa vào Danh sách Di sản Thế giới.
Nhà thờ mới
Nhà thờ mới có sức chứa lên đến 2.000 người và có diện tích khoảng 1.500 mét vuông. Đây là nhà thờ lớn thứ hai tại địa điểm này và là một trong những nhà thờ lớn nhất ở Trung Đông. Nhà thờ, do Dòng Ngôi Lời Nhập Thể điều hành, cũng là điểm hành hương để các tín hữu nhận được ân xá trong Năm Thánh 2025.
Khu phức hợp, do hoàng gia Jordan cung cấp rộng khoảng ba hécta đất, cũng bao gồm hai tu viện. Nhà thờ mới đã được Đức cố Giáo hoàng Biển Đức đặt viên đá đầu tiên vào ngày 10/5/2009 trong chuyến viếng thăm Thánh Địa. Đức Thánh Cha Phanxicô cũng đã đến thăm địa điểm này vào năm 2014 và gặp gỡ những người tị nạn Syria và Iraq trong tòa nhà chưa hoàn thành.
Thiên Chúa đến gặp gỡ chúng ta
Trong Thánh lễ thánh hiến nhà thờ, Đức Hồng y Parolin nói rằng cơ hội này mời gọi các Kitô hữu dấn thân canh tân đời sống thiêng liêng thật sự, đồng thời bảo đảm sự gần gũi của Giáo hội hoàn vũ đối với các Kitô hữu ở Trung Đông.
Trong bài giảng, ngài nói rằng nơi này từ lâu đã là điểm hành hương, "bởi vì chính ở đây, Chúa Giêsu đã chịu phép rửa bởi ông Gioan Tẩy Giả". Ngài cũng nói rằng đặc điểm địa lý của nơi này cũng nói với chúng ta: "Ở đây, chúng ta ở điểm thấp nhất của trái đất, nhưng chính ở đây, Thiên Chúa đến gặp gỡ chúng ta, như thể để ôm trọn vào lòng Người cả những người từ phương xa nữa”.
Dấu hiệu sự gần gũi của Giáo hội hoàn vũ
Đức Hồng y nói tiếp rằng sự hiện diện của ngài ở đây, "theo mong muốn của Đức Giáo hoàng, có nghĩa là một dấu hiệu hữu hình về sự gần gũi của toàn thể Giáo hội đối với các cộng đồng Kitô giáo ở Trung Đông”. Đặc biệt theo lời của Đức Thánh Cha, ngài cho biết sự gần gũi này đã tìm thấy nhiều cách diễn đạt trong suốt nhiều tháng đau khổ và chiến tranh.
Kitô hữu đóng góp xây dựng xã hội
Đại diện của Đức Thánh Cha nói: “Tôi muốn khuyến khích mọi người đừng để những khó khăn nghiêm trọng của thời điểm hiện tại lấn át, và hãy tin rằng Thiên Chúa dẫn dắt lịch sử nhân loại, bất kể nó mang nhiều vết sẹo của bạo lực, tội lỗi và cái chết. Vào thời điểm trong lịch sử khi khu vực này đang trải qua sự biến động nghiêm trọng, điều quan trọng là các Kitô hữu cũng phải đóng góp vào việc xây dựng một xã hội công bằng và hòa bình”.
Kêu gọi các nhà lãnh đạo tìm kiếm hòa bình
Trong bối cảnh này, Đức Hồng y kêu gọi, “Tôi sẽ hướng tầm nhìn của mình vượt khỏi sông Jordan và kêu gọi ngừng bắn, thả tù nhân và con tin, và tôn trọng luật nhân đạo”. Ngài thúc giục: “Mong rằng trái tim của các nhà lãnh đạo các quốc gia được thúc đẩy để tìm kiếm hòa bình và sự chung sống hòa hợp giữa các dân tộc”, đồng thời nhấn mạnh rằng bạo lực không được quyết định tương lai của chúng ta.
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-hoan-vu/mot-nha-tho-moi-duoc-khanh-thanh-tai-noi-chua-giesu-chiu-phep-rua-o-jordan-42391.html
31. Nhà Thờ Đức Bà Cả - Bêlem Roma.
Xin chào cả nhà, trong video này Vatican News Tiếng Việt mời quý vị khám phá Vương cung thánh đường Đức Bà Cả - một nơi được ví như "Bêlem của Rome"!
Ngôi thánh đường được xây dựng sau một dấu lạ Đức Mẹ cho một trận tuyết rơi giữa mùa hè trời Rome, nên còn được gọi là Thánh Đường Đức Mẹ Xuống Tuyết và đây cũng là đền thờ kính Đức Mẹ đầu tiên trên thế giới, vì vậy mà được gắn với danh xưng “Đức Bà Cả”.
Thánh đường Đức Bà Cả đóng một vai trò vô cùng quan trọng với Giáo Hội Công giáo vì những “kho báu” vô giá đang được cất giữ tại đây, đó là thánh tích Nôi Thánh - những mảnh gỗ từ máng cỏ đã ôm ấp Hài Nhi Giêsu khi chào đời, bởi đó mà nhà thờ Đức Bà trở thành một nơi linh thiêng, một “Bêlem” thứ hai của Giáo Hội.
Ngoài ra, nơi đây còn lưu giữ linh ảnh Đức Mẹ cứu rỗi dân thành Roma, bức ảnh đã được người dân Roma tôn kính đặc biệt, những người chạy đến với Đức Mẹ để xin ngăn chặn những nguy hiểm và bất hạnh.
Cửa Thánh tại đền thờ Đức Bà Cả đã được mở vào ngày 1 tháng 1 năm 2025, ngay ngày lễ trọng đại về tín điều Mẹ Thiên Chúa nhắc nhở chúng ta năng chạy đến cùng Mẹ, vì “Đức Maria là cánh cửa mà qua đó Chúa Kitô bước vào thế giới này”, nhờ mẹ mà nhân loại được ơn cứu độ.
Bạn đã sẵn sàng để cùng bước với chúng tôi trong cuộc hành hương lần này chưa? Đừng quên bấm like nếu thích, subscribe nếu muốn, và để lại cảm nghĩ và ước nguyện của bạn trong Năm Thánh này nhé!
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-hoan-vu/nha-tho-duc-ba-ca---belem-roma-42392.html
32. Tổng thống Biden trao tặng Đức Thánh Cha Huân chương Tự do.
Ngày 11/1/2025, trong cuộc điện đàm với Đức Thánh Cha Phanxicô, tổng thống Mỹ Joe Biden đã thông báo việc trao Huân chương Tự do - huân chương dân sự cao quý nhất của quốc gia - cho Đức Thánh Cha và nhìn nhận sự dấn thân của ngài cho hòa bình, nhân quyền, chăm sóc người nghèo và bảo vệ môi trường.
Vatican News
Theo chương trình trước đây, ông Biden sẽ có cuộc gặp gỡ với Đức Thánh Cha vào ngày 10/1/2025, nhưng ông đã hủy chương trình vì những trận hỏa hoạn ở Los Angeles.
Cuộc điện đàm ngày 11/1/2025
Cuộc điện đàm ngày 11/1/2025 đánh dấu cuộc đối thoại lần thứ hai giữa hai vị lãnh đạo. Trước đó, Đức Thánh Cha và ông Biden đã trò chuyện với nhau qua điện thoại vào ngày 20/12, tập trung vào các vấn đề nhân quyền, đặc biệt là quan tâm của Đức Thánh Cha về các tử tù liên bang. Sau đó, ông Biden đã giảm án tử hình cho 37 cá nhân, thể hiện cam kết chung đối với công lý và lòng trắc ẩn.
Trong cả hai cuộc điện đàm, ông Biden bày tỏ lòng biết ơn đối với những nỗ lực không mệt mỏi của Đức Thánh Cha để xoa dịu đau khổ trên toàn cầu, thăng tiến nhân quyền và bảo vệ các quyền tự do tôn giáo. Những điều này nằm trong các lý do được nêu lên trong việc trao tặng Huân chương Tự do.
Danh dự này đã được trao cho 19 cá nhân xuất sắc khác trong năm, ghi nhận những đóng góp đặc biệt của họ cho sự thịnh vượng, các giá trị và an ninh của Hoa Kỳ, hòa bình toàn cầu và các nỗ lực quan trọng khác. Các nhà quan sát đã lưu ý rằng danh sách những người nhận giải có vẻ chưa đầy đủ, một bí ẩn giờ đây đã được tiết lộ khi ông Biden đã chọn việc thông báo về sự công nhận Đức Thánh Cha cho dịp này.
Lý do trao tặng Huân chương
Tuyên bố chính thức do Nhà Trắng đưa ra có đoạn:
“Khi còn trẻ, Jorge Bergoglio đã theo đuổi sự nghiệp khoa học trước khi đức tin dẫn dắt ngài đến với cuộc sống với các tu sĩ Dòng Tên. Trong nhiều thập kỷ, ngài đã phục vụ những người không có tiếng nói và dễ bị tổn thương trên khắp Argentina. Khi là Giáo hoàng Phanxicô, sứ mạng phục vụ người nghèo của ngài chưa bao giờ dừng lại. Là một mục tử đầy lòng yêu thương, ngài vui vẻ trả lời những câu hỏi của trẻ em về Thiên Chúa. Là một nhà giáo đầy cảm hứng, ngài yêu cầu cho chúng ta đấu tranh vì hòa bình và bảo vệ hành tinh. Là một nhà lãnh đạo nồng nhiệt, ngài tiếp cận với nhiều tín ngưỡng khác nhau. Là Giáo hoàng đầu tiên đến từ Nam bán cầu, Giáo hoàng Phanxicô không giống bất kỳ ai trước đó. Trên hết, ngài là Giáo hoàng của người dân - một ánh sáng đức tin, hy vọng và tình yêu chiếu sáng trên khắp thế giới”.
Lời biểu dương Đức Thánh Cha của ông Biden
Huân chương được trao cho Sứ thần Tòa thánh tại Hoa Kỳ, Đức Tổng giám mục Christophe Pierre, thay mặt cho Đức Thánh Cha. Một bức ảnh được chia sẻ bởi tài khoản chính thức của ông Biden trên X (@POTUS) cho thấy khoảnh khắc này, kèm theo một thông điệp chân thành:
“Đức Giáo hoàng Phanxicô, sự khiêm nhường và ân sủng của ngài không thể diễn tả bằng lời, và tình yêu của ngài dành cho tất cả mọi người là vô song. Là Đức Giáo hoàng của người dân, ngài là ánh sáng đức tin, hy vọng và tình yêu chiếu sáng trên khắp thế giới. Hôm nay, tôi rất vinh dự được trao tặng Đức Thánh Cha Phanxicô Huân chương Tự do của Tổng thống”.
Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II cũng được tặng Huân chương Tự do
Đây là lần thứ hai một Giáo hoàng nhận được Huân chương Tự do của Tổng thống Mỹ. Vào ngày 4/6/2004, Tổng thống George W. Bush đã trao giải thưởng này cho Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II trong chuyến thăm Vatican, ghi nhận sự dấn thân không mệt mỏi của ngài cho hòa bình và phẩm giá con người.
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-hoan-vu/tong-thong-biden-trao-tang-duc-thanh-cha-huan-chuong-tu-do-42401.html
33. Đức Thánh Cha bất ngờ thăm Tổ chức Roma.
Chiều ngày 11/01, Đức Thánh Cha đã có cuộc viếng thăm bất ngờ trụ sở của Tổ chức Roma ở Via del Corso. Ngài cám ơn những người đứng đầu của tổ chức, vì sự dấn thân đối với các hoạt động thể chế, nhấn mạnh tầm quan trọng của tính vô vị lợi trong mọi lĩnh vực, đặc biệt trong văn hoá.
Vatican News
Tổ chức Roma được Đức Giáo Hoàng Phaolô III thành lập vào năm 1500, hiện nay hoạt động trong năm lĩnh vực: y tế, nghiên cứu khoa học, hỗ trợ các thành phần xã hội dễ bị tổn thương, giáo dục và đào tạo, nghệ thuật và văn hoá. Mục đích của tổ chức là thúc đẩy sự phối hợp giữa các tổ chức công và tư, một cộng đồng phúc lợi lấy cảm hứng từ các nguyên tắc liên đới và bổ trợ.
Đức Thánh Cha đã đến thăm cơ sở của Tổ chức này hai lần: một lần gần đây tại cuộc triển lãm “Crocifissione bianca” của Chagalla, và lần khác vào tháng 4/2019, tại làng Emanuele ở Bufalotta, ở ngoại ô bắc Roma, một khu dành riêng chăm sóc những người mắc bệnh Alzheimer.
Khi đến nơi, Đức Thánh Cha được Chủ tịch Tổ chức Roma, ông Franco Parasassi cùng với ban lãnh đạo, và một số gia đình chào đón tại lối vào, rồi ngài đến nhà nguyện nhỏ trong toà nhà để cầu nguyện trong giây lát.
Tại Hội trường, trong lúc trò chuyện với mọi người, Đức Thánh Cha đã cám ơn vì sự “dấn thân đối với các hoạt động thể chế, nhấn mạnh tầm quan trọng của tính vô vị lợi trong mọi lĩnh vực, đặc biệt trong văn hoá”. Đức Thánh Cha cũng nhắc mọi người điều ngài hay nói trong các cuộc gặp gỡ với mọi thành phần, từ linh mục đến chính trị gia, đó là sự hài hước. Ngài nhấn mạnh sự hài hước phải luôn hiện diện trong cuộc sống hằng ngày của mỗi người.
Về phần Chủ tịch Tổ chức Roma, ông Franco Parasassi thay mặt Tổ chức cám ơn Đức Thánh Cha về cuộc viếng thăm đặc biệt. Ông cũng trình bày với ngài những hoạt động mà Tổ chức đang thực hiện, mà theo ông ngày càng tăng để đáp ứng nhu cầu của mọi người. Trước những trường hợp khẩn cấp, Tổ chức phản ứng bằng cách mở rộng phạm vi hoạt động ra nước ngoài, như những sáng kiến về y tế và nhân đạo ở một số khu vực trên thế giới như, Argentina, Togo, Ucraina, Libăng và Palestine. Những sáng kiến này được thực hiện thông qua các cơ quan trực thuộc Giáo hội, được bổ sung vào các hoạt động can thiệp truyền thống được thực hiện với Caritas Giáo phận Roma.
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-hoan-vu/duc-thanh-cha-bat-ngo-tham-to-chuc-roma-42402.html
34. “Biết cười, men tạo nên niềm vui”. Tự truyện của Đức Thánh Cha Phanxicô.
Ngày 12/1/2025, nhật báo “Tương lai” (Avvenire) của Hội đồng Giám mục Ý đã đăng một phần trong cuốn tự truyện của Đức Thánh Cha. Phần trích đăng này có tựa đề: “Biết cười, men tạo nên niềm vui”. Đức Thánh Cha nói rằng hài hước giúp chúng ta có sức mạnh đối mặt với khó khăn và vượt qua chúng. Ngài mời gọi hãy tìm lại khả năng vui cười như trẻ thơ và sống thật lòng mình.
Vatican News
Cuốn tự truyện của Đức Thánh Cha Phanxicô với tựa đề “Hy vọng”, dày 400 trang, được viết chung với ông Carlo Musso, đã được nhà xuất bản Mondadori của Ý xuất bản và phát hành tại hơn 100 quốc gia vào thứ Ba ngày 14/1/2025. Đây là cuốn tự truyện đầu tiên của một Giáo hoàng còn đương nhiệm. Ban đầu, Đức Thánh Cha chỉ muốn xuất bản tự truyện sau khi ngài qua đời. Nhưng do Năm Thánh Hy vọng được công bố vào năm 2025 và do nhu cầu của thời đại, ngài đã quyết định trao tặng di sản quý giá này ngay năm nay. Ngài muốn đặt tên cho tự truyện là “Hy vọng” nhân dịp Năm Thánh.
“Biết cười, men tạo nên niềm vui”
Phần tự truyện về sự hài hước bắt đầu như sau:
Hy vọng cũng là sự hài hước. Nó biết rằng sự hài hước và nụ cười chính là chất men của cuộc sống và là công cụ để đối mặt một cách kiên cường với khó khăn, thậm chí là thử thách. Sự châm biếm, trong trường hợp này, có thể đúng với một định nghĩa khôn ngoan của nhà văn Romain Gary, đó là một tuyên bố về phẩm giá, một “khẳng định về sự cao vượt của con người so với những gì xảy ra với họ”. […]
Trong gia đình, khi tôi còn nhỏ, đây cũng là những đề tài mà cha mẹ dạy dỗ chúng tôi. Đối với tất cả anh em chúng tôi, phương pháp sư phạm về ý nghĩa của sự vui vẻ, sự trêu chọc lành mạnh, sự đùa giỡn được coi là điều quan trọng.
[…] Cuộc sống gia đình tôi đã trải qua nhiều khó khăn, đau khổ, nước mắt, nhưng ngay cả trong những khoảnh khắc khó khăn nhất, chúng tôi đã cảm nghiệm được rằng một nụ cười, một tiếng cười có thể mang lại năng lượng để bắt đầu lại. Trên hết, cha chúng tôi đã dạy chúng tôi rất nhiều điều. Vấn đề không phải là loại bỏ, giả vờ như không có gì xảy ra, giảm nhẹ các vấn đề – vì hài kịch thực ra là bi kịch được nhìn từ phía sau – nhưng đúng hơn là giữ trong lòng mình một không gian vui vẻ mang tính quyết định để đối mặt và vượt qua các vấn nạn […].
Chính để nhấn mạnh mối liên kết không thể tách rời này, cuộc kết hợp may mắn giữa hy vọng và niềm vui mà trong những tháng trước khi mở Cửa Thánh của Năm Thánh mới, tôi đã muốn gặp gỡ tại Vatican một nhóm hơn một trăm nghệ sĩ từ giới hài kịch, thuộc nhiều quốc tịch và ngành nghề khác nhau. Một số người chỉ ra rằng đây là một bước nhảy vọt so với thời điểm khi các diễn viên và những chú hề chỉ được chôn cất ở mảnh đất không được thánh hiến, nhưng nếu một người chọn mang tên Phanxicô, “chú hề của Thiên Chúa”, thì đó có lẽ là điều tối thiểu mà người đó có thể làm. Không lâu sau đó, một người trong số họ dí dỏm nói với tôi rằng thật tuyệt khi cố gắng làm cho Thiên Chúa cười... ngoại trừ việc, vì Người là Đấng toàn tri, Người luôn biết trước tất cả các câu đùa, khiến cho chuyện cười của bạn không còn hài hước nữa. Chính đây là loại hài hước tốt cho tâm hồn.
Cuộc sống tất yếu có những cay đắng của nó, chúng là một phần của mọi hành trình hy vọng và hoán cải. Nhưng bằng mọi giá chúng ta phải tránh chìm đắm trong nỗi buồn và không để nó ám ảnh trong tâm hồn. […] Đây là những cám dỗ mà ngay cả những người tận hiến cũng không tránh khỏi. Và thật không may là chúng ta gặp một số người cay đắng, u sầu, độc đoán hơn là có thẩm quyền, giống “những ông khó tính” hơn là các vị hôn phu của Giáo hội, giống viên chức hơn là mục tử, hoặc nông cạn hơn là vui tươi, và điều này chắc chắn cũng không tốt. Nhưng nhìn chung, những linh mục chúng tôi có khiếu hài hước và cũng khá quen thuộc với những câu chuyện cười và câu chuyện mà chúng tôi, ngoài việc bị trở thành đối tượng, thường là người kể chuyện hay.
Ngay cả các giáo hoàng cũng có tính hài hước. Đức Gioan XXIII, người nổi tiếng là hay đùa, trong một bài phát biểu, đã nói đại khái rằng: “Tôi thường bắt đầu suy nghĩ về một loạt các vấn đề hệ trọng vào ban đêm. Do đó, tôi đưa ra quyết định can đảm và kiên quyết là sẽ đến gặp Đức Giáo hoàng vào sáng mai. Sau đó, tôi tỉnh dậy, người ướt đẫm mồ hôi và nhớ ra mình là Giáo hoàng”. Và Đức Gioan Phaolô II cũng không ngoại lệ. Trong các phiên họp chuẩn bị cho một mật nghị, khi ngài vẫn còn là Hồng y Wojtyła, một Hồng y lớn tuổi và khá cứng nhắc đã đến gặp ngài với ý định khiển trách ngài, vì ngài đã đi trượt tuyết, leo núi, đạp xe, bơi lội “Tôi không nghĩ rằng những hoạt động này phù hợp với vai trò của ngài”, Đức Hồng y đó nói nhỏ với ngài. Đức Giáo hoàng tương lai trả lời: “Nhưng ngài có biết rằng ở Ba Lan, đây là những hoạt động chung của ít nhất 50 phần trăm các Hồng y không?” Khi đó ở Ba Lan chỉ có hai Hồng y.
Sự châm biếm chính là thuốc chữa lành, không chỉ nâng cao và khai sáng cho người khác, mà còn đối với chính mình, bởi vì tự châm biếm là một công cụ mạnh mẽ để vượt qua sự cám dỗ của tính tự luyến ái. Những người mắc chứng tự luyến ái thường xuyên nhìn mình trong gương, tô vẽ, ngưỡng mộ bản thân, nhưng lời khuyên tốt nhất khi đứng trước gương là hãy luôn cười vào chính mình. Điều đó sẽ có lợi cho chúng ta. Điều đó sẽ chứng minh sự đúng đắn của câu châm ngôn cổ của Trung Quốc rằng chỉ có hai người hoàn hảo: một người đã chết và người kia chưa bao giờ được sinh ra. […] Về việc này, Giáo hội cũng có một loạt các phân loại không chính thức về các câu đùa và truyện cười theo các dòng tu, hội dòng và nhân vật. […] Những câu chuyện cười về Dòng Tên và do Dòng Tên sáng tác thực sự là một thể loại riêng biệt, có lẽ chỉ có thể so sánh với những câu đùa về các cảnh sát ở Ý, hay về những bà mẹ Do Thái trong truyện cười bằng tiếng Yiddish, [là ngôn ngữ vùng Tây Đức, được người Do Thái gốc Trung Âu hay Đông Âu sử dụng].
Có thể ngăn ngừa nguy hiểm của chứng tự luyến ái bằng cách tự mỉa mai bản thân đúng cách. Tôi nhớ đến câu chuyện về một tu sĩ dòng Tên hơi kiêu ngạo, mắc bệnh tim và phải nhập viện. Trước khi vào phòng phẫu thuật, vị tu sĩ Dòng Tên này hỏi Thiên Chúa: “Lạy Chúa, giờ của con đã đến chưa?”. - “Không, con sẽ sống ít nhất bốn mươi năm nữa,” Thiên Chúa nói với tu sĩ đó. Ngay khi hồi phục, tu sĩ này tận dụng cơ hội để cấy tóc, nâng mặt, hút mỡ, chỉnh sửa mí mắt, răng nói tóm lại, khi ra khỏi đó tu sĩ này trở thành một người khác. Nhưng ngay bên ngoài bệnh viện, một chiếc xe đã đâm vào tu sĩ này và tu sĩ này đã tử vong. Ngay khi đến trước mặt Thiên Chúa, tu sĩ này phản đối: “Lạy Chúa, nhưng Chúa đã bảo con sẽ sống thêm bốn mươi năm nữa!” Và Thiên Chúa nói: “Ồ, xin lỗi. Ta không nhận ra con”.
Và họ cũng kể cho tôi một câu chuyện liên quan trực tiếp đến tôi, đó là câu chuyện về Đức Giáo hoàng Phanxicô ở Mỹ. Câu chuyện diễn ra đại khái như thế này: ngay khi vừa xuống sân bay New York để thực hiện chuyến tông du tới Hoa Kỳ, Đức Giáo hoàng Phanxicô thấy một chiếc xe limousine to lớn đang đợi ngài. Ngài hơi bối rối vì tất cả sự xa xỉ đó, nhưng rồi ngài nghĩ rằng mình đã không lái xe trong nhiều năm, và chưa bao giờ lái một chiếc xe như thế, và tóm lại ngài tự nhủ: ừ, khi nào mình mới có cơ hội khác... Ngài nhìn ngắm chiếc xe limousine và hỏi người lái xe: “Anh có thể cho tôi thử không?” Và người lái xe trả lời: “Thưa Đức Thánh Cha, tôi thực sự xin lỗi, nhưng tôi không thể làm được, ngài biết các thủ tục, các nghi thức mà...”. Nhưng bạn biết đấy, người ta vẫn nói rằng khi Đức Giáo hoàng nảy ra ý định gì đó, ngài sẽ khăng khăng đòi cho đến khi người kia chịu nhượng bộ. Sau đó, Đức Giáo hoàng Phanxicô ngồi vào ghế lái trên một trong những con đường rộng lớn đó và nếm trải cảm giác đó, bắt đầu nhấn ga: 50 dặm một giờ, 80, 120. Cho đến khi ngài nghe thấy tiếng còi báo động và tiếng xe cảnh sát đến bên cạnh ngài và chặn ngài lại. Một cảnh sát trẻ tiến đến gần cửa sổ tối màu, Đức Giáo hoàng hơi xấu hổ và hạ cửa xuống, còn người đàn ông thì tái mặt. Anh ta nói: “Xin lỗi chờ một lát”, rồi quay lại xe để gọi về trung tâm. “Thưa sếp tôi nghĩ là tôi gặp vấn đề rồi”. Và ông sếp hỏi: “Có vấn đề gì vậy?” “À, tôi đã chặn một chiếc xe chạy quá tốc độ nhưng trong xe có một người rất quan trọng”. “Quan trọng thế nào? Ông ấy có phải là thị trưởng không?”. - “Không, thưa sếp, còn hơn cả thị trưởng nữa”. - “Ngoài thị trưởng ra còn có ai nữa? Thống đốc à?” -“Không, hơn nữa -“Nhưng liệu ông ấy có thể là tổng thống không?”. -“Tôi nghĩ là còn hơn nữa”. -“Vậy ai có thể quan trọng hơn tổng thống?”. -“Thưa sếp, tôi không biết chính xác ông ta là ai, nhưng tôi có thể nói với ông rằng Đức Giáo hoàng là tài xế của ông ta!”
Tin Mừng khuyên chúng ta hãy trở nên như trẻ thơ (Mt 18,3), vì ơn cứu độ của chính chúng ta và cũng bằng cách này nhắc nhở chúng ta tìm lại khả năng mỉm cười của các trẻ em, những người mà theo các nhà tâm lý học, có khả năng cười nhiều gấp mười lần người lớn.
Ngày nay không có điều gì làm tôi vui hơn việc được gặp các trẻ em: nếu như khi còn nhỏ tôi có những người thầy dạy tôi cách cười, thì giờ đây khi đã lớn tuổi, trẻ em thường là người thầy hướng dẫn tôi. Đây là những cuộc gặp gỡ khiến tôi phấn khích nhất, khiến tôi cảm thấy tốt nhất. Và rồi những người lớn tuổi: những người lớn tuổi chúc lành cho cuộc sống, gạt bỏ mọi oán giận, những người có niềm vui của thứ rượu càng lâu ngày càng ngon, thật không thể cưỡng lại. Họ có ơn khóc và cười, như trẻ thơ.
Khi tôi bế các em bé trên tay, trong những buổi tiếp kiến ở Quảng trường Thánh Phêrô, hầu hết các em đều luôn mỉm cười; tuy nhiên, một số em khác khi thấy tôi mặc đồ trắng đã nghĩ rằng tôi là bác sĩ đến tiêm thuốc cho chúng, và rồi chúng khóc. Các em là những tấm gương của sự tự nhiên, của nhân tính, và các em nhắc nhở chúng ta rằng ai từ bỏ bản chất người của mình tức là từ bỏ tất cả, và khi chúng ta thấy khó có thể khóc một cách nghiêm túc hay cười một cách say mê, thì đó chính là lúc chúng ta thực sự bắt đầu suy thoái. Chúng ta trở nên vô cảm, và những người lớn vô cảm không làm được điều gì tốt cho chính họ, cho xã hội hay cho Giáo hội.
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-hoan-vu/biet-cuoi-men-tao-nen-niem-vui-tu-truyen-cua-duc-thanh-cha-phanxico-42407.html
35. Chương trình Năm Thánh của giới Truyền thông.
Các chuyên gia truyền thông từ nhiều quốc gia sẽ tụ họp tại Roma từ ngày 24 đến 26/1/2025 để tham dự sự kiện Năm Thánh đầu tiên - Năm Thánh của giới Truyền thông, trong đó có buổi yết kiến Đức Thánh Cha.
Hồng Thủy - Vatican News
Các nhà báo, nhà sản xuất video, biên tập viên, nhà thiết kế đồ họa và quản lý phương tiện truyền thông xã hội đều được mời tham gia chuyến hành hương đến Roma để canh tân đức tin và trải nghiệm những ân sủng được ban tặng bởi Năm Thánh Hy vọng năm 2025.
Ngày 24/1/2025
Vào ngày 24/1/2025, trước hết sẽ có sự kiện chào đón các tham dự viên; tiếp đến, vào lúc 5:30 chiều sẽ có phụng vụ sám hối; và sau đó các tham dự viên sẽ tham dự Thánh lễ tại Đền thờ Thánh Gioan Laterano nhân ngày lễ Thánh Phanxicô đệ Salê, vị thánh bổn mạng của các nhà báo và nhà văn.
Ngày 25/1/2025
Vào ngày 25/1/2025, một cuộc hành hương sẽ bắt đầu lúc 8 giờ sáng đến Cửa Thánh Đền thờ Thánh Phêrô. Vào cuối Thánh lễ, các tham dự viên sẽ đến Vatican để tham dự một cuộc gặp gỡ lúc 10 giờ sáng, do nhà báo người Philippines Maria Ressa và nhà văn người Ai Len Colum McCann dẫn chương trình. Sau đó, lúc 12 giờ rưỡi trưa sẽ có buổi tiếp kiến của Đức Thánh Cha Phanxicô tại Hội trường Phaolô VI.
Vào ban chiều ngày 25/1, Bộ Truyền thông sẽ tổ chức một cuộc họp về văn hóa và tinh thần, cũng tại Hội trường Phaolô VI; tiếp theo là chương trình phát sóng trực tiếp giờ Kinh Chiều do Đức Thánh Cha chủ sự tại Đền thờ Thánh Phaolô Ngoại thành để kết thúc Tuần lễ cầu nguyện cho sự hiệp nhất của các Kitô hữu. Sau đó, họ sẽ xem bộ phim tài liệu “Green Lava”.
Chỉ những người có thư mời mới có thể tham gia sự kiện dành cho những nhà truyền thông trẻ tuổi có tên “Đoàn kết các nhà truyền thông cho một hành trình chung”.
Ngoài ra còn có một số sự kiện khác được Giáo phận Roma hay Hội đồng Giám mục Ý, Hội đồng Giám mục Tây Ban Nha tổ chức.
Ngày 26/1/2025
Cuối cùng, vào ngày 26/1/2025, các chuyên gia truyền thông sẽ tham dự Thánh lễ Chúa Nhật Lời Chúa do Đức Thánh Phanxicô chủ sự lúc 9:30 sáng tại Đền thờ Thánh Phêrô ở Vatican.
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-hoan-vu/chuong-trinh-nam-thanh-cua-gioi-truyen-thong-42408.html
36. Giáo hội Ý cử hành Tuần lễ cầu nguyện cho sự hiệp nhất các Kitô hữu.
Tuần lễ cầu nguyện cho sự hiệp nhất các Kitô hữu trong Năm Thánh 2025 được cử hành đặc biệt, vì cũng là dịp kỷ niệm 1.700 Công đồng Đại kết Nicea (năm 325). Với chủ đề “Anh có tin điều này không?” (Ga 11,26), Giáo hội Ý cử hành Tuần lễ này bằng “buổi canh thức cầu nguyện lưu động” tại các nhà thờ Tin lành, Chính thống giáo và nhà thờ Công giáo Thánh Camillo de Lellis.
Vatican News
Tại Đền thờ Thánh Phaolô Ngoại thành, ngày 25/01/2025, ngày bế mạc Tuần lễ cầu cho sự hiệp nhất các Kitô hữu lần thứ 58, vào lúc 5:30 chiều, Đức Thánh Cha sẽ chủ sự giờ Kinh Chiều II lễ Thánh Phaolô Tông đồ trở lại.
Trước đó, vào ngày 23/01, vào lúc 6 giờ chiều, Giáo phận Roma sẽ tổ chức một buổi canh thức cầu nguyện lưu động - theo Năm Thánh mời gọi chúng ta trở thành “những người hành hương của hy vọng” - gồm ba địa điểm ở Roma: nhà thờ Tin lành, nhà thờ Chính thống giáo Thánh Andre, và nhà thờ thánh Camillo De Lellis. Đây là một cuộc hành hương ngắn gồm ba giai đoạn, với ba bài suy niệm Kinh Thánh do mỗi vị mục tử của các Giáo hội hướng dẫn. Trong mỗi nhà thờ, đèn và hình ảnh suy tư, tượng trưng cho ánh sáng và hy vọng sẽ được chuẩn bị.
Cha Marco Gnavi, Trưởng Văn phòng Đại kết và Đối thoại Liên tôn của Giáo phận Roma cho biết, lời nguyện và suy tư được viết bởi các anh chị em của Cộng đoàn Đan viện Đại kết Bose, ở miền bắc nước Ý; một nhóm quốc tế được bổ nhiệm bởi Bộ Cổ võ Hiệp nhất các Kitô hữu và Ủy ban Đức tin và hiến pháp của Hội đồng các Giáo hội Kitô Thế giới đã làm việc cùng với các biên tập viên.
Cha Gnavi nhận xét chủ đề được chọn cho năm nay được lấy từ cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và bà Martha trước cái chết của Ladarô và đức tin vào sự Phục sinh trong Chúa Kitô. Một chủ đề trung tâm, bởi vì ngày nay không chỉ các Giáo hội Kitô mà các dân tộc cũng phải đối diện với nhiều biểu hiện của cái chết thực sự, nghĩa là chia rẽ, ly tán, dẫn đến xung đột và thảm sát những người vô tội. Ngay cả trong cuộc sống cá nhân, do phải sống cô đơn và bất an, nhiều người đặt câu hỏi với mong muốn được trả lời. Cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và Martha cho thấy trong mỗi người nam và nữ đều có một câu hỏi về đức tin. Những lời này cũng giúp chúng ta nhớ đến Công đồng Nicea, một công đồng đưa ra lời tuyên xưng đức tin, một đức tin kết hợp tất cả chúng ta trong Bí tích Rửa tội.
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-hoan-vu/giao-hoi-y-cu-hanh-tuan-le-cau-nguyen-cho-su-hiep-nhat-cac-kito-huu-42409.html
37. Tiếp kiến chung 15/01/2025 - Đừng đồng lõa với tệ nạn bóc lột trẻ em.
Trong buổi Tiếp kiến chung sáng thứ Tư ngày 15/1/2025, nói về tệ nạn bóc lột trẻ em, Đức Thánh Cha nói rằng bất kỳ sự lạm dụng nào đối với trẻ em cũng là vi phạm điều răn của Chúa. Ngài kêu gọi đừng đồng lõa với tệ nạn bóc lột trẻ em. Ngài mời gọi mỗi người tự hỏi xem mình có thể làm gì một cách cụ thể để chăm sóc và bảo vệ trẻ em đang phải chịu đựng hoặc có nguy cơ rơi vào mạng lưới lạm dụng và bóc lột?
Vatican News
Trong bài giáo lý tại buổi Tiếp kiến chung sáng thứ Tư ngày 15/1/2025, Đức Thánh Cha tiếp tục suy tư về trẻ em. Đức Thánh Cha nhắc lại rằng trong Phúc Âm, Chúa Giêsu nói về tầm quan trọng của việc bảo vệ, chào đón và yêu thương những trẻ nhỏ, đồng thời lưu ý rằng ngày nay trên thế giới có hàng triệu trẻ em bị buộc phải trưởng thành trước tuổi.
Đức Thánh Cha nói rằng trẻ em phải trả giá cho nạn nghèo đói, cho việc thiếu các công cụ xã hội để hỗ trợ các gia đình và tình trạng bấp bênh của việc làm. Ngài mời gọi thức tỉnh lương tâm, thể hiện sự gần gũi và liên đới với các trẻ vị thành niên bị lạm dụng. Bất kỳ hình thức lạm dụng trẻ em nào cũng đều vi phạm các điều răn của Chúa. Do đó cần phải nâng cao nhận thức, lên án những hành vi tàn bạo này và cùng nhau xây dựng những nơi chốn an toàn để trẻ em có thể lớn lên khỏe mạnh và hạnh phúc.
Bắt đầu buổi Tiếp kiến, cộng đoàn cùng nghe đoạn Tin Mừng Thánh Mátthêu (18, 1-3.6):
Lúc ấy, các môn đệ lại gần hỏi Đức Giêsu rằng: “Thưa Thầy, ai là người lớn nhất trong Nước Trời?” Đức Giêsu liền gọi một em nhỏ đến, đặt vào giữa các ông và bảo: “Thầy bảo thật anh em: nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời. [...] Nhưng ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin Thầy đây phải sa ngã, thì thà treo cối đá lớn vào cổ nó mà xô cho chìm xuống đáy biển còn hơn”.
Sau đó, Đức Thánh Cha bắt đầu bài giáo lý như sau:
Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Trong buổi tiếp kiến chung lần trước chúng ta đã nói về các trẻ em. Hôm nay chúng ta cũng sẽ nói về các trẻ em. Tuần trước, chúng ta tập trung vào cách Chúa Giêsu, trong hoạt động của Người, đã nhiều lần nói về tầm quan trọng của việc bảo vệ, chào đón và yêu thương những người bé nhỏ nhất.
Mọi hình thức lạm dụng trẻ em đều vi phạm giới răn của Chúa
Tuy nhiên, ngay cả ngày nay, trên thế giới vẫn còn hàng trăm triệu trẻ vị thành niên, mặc dù chưa đủ tuổi để tuân thủ các nghĩa vụ của người trưởng thành, vẫn bị buộc phải làm việc và nhiều em phải làm những công việc đặc biệt nguy hiểm. Chưa kể đến tình trạng các bé trai bé gái bị buôn bán làm nô lệ cho nạn mại dâm hoặc khiêu dâm và hôn nhân cưỡng bức. Điều này thật cay đắng. Thật không may, trong xã hội của chúng ta, trẻ em bị ngược đãi và đối xử bất công bằng nhiều cách. Lạm dụng trẻ em, dưới bất kỳ hình thức nào, đều là hành vi đê hèn và tàn bạo. Nó không chỉ đơn thuần là một tệ nạn xã hội và một tội ác; nó là hành vi vi phạm rất nghiêm trọng các điều răn của Chúa. Không một đứa trẻ nào phải bị ngược đãi. Ngay cả một trường hợp cũng đã là quá nhiều.
Cần phải đánh thức lương tâm của chúng ta
Do đó, cần phải đánh thức lương tâm của chúng ta, thực hành sự gần gũi và liên đới cụ thể với trẻ em và thanh thiếu niên bị lạm dụng, đồng thời xây dựng lòng tin tưởng và sự hợp tác giữa những người dấn thân cung cấp cho các em cơ hội và nơi an toàn để lớn lên trong bình an. Tôi biết có một nước ở Châu Mỹ Latinh, nơi có một loại trái cây đặc biệt, được gọi là arandano [giống một loại dâu rừng]. Để hái loại trái này chúng ta cần những bàn tay mềm mại và họ bắt các trẻ em làm việc này, họ biến chúng thành nô lệ làm công việc thu hoạch.
Những lý do khiến trẻ em bị bóc lột sức lao động
Tình trạng nghèo đói lan rộng, thiếu các công cụ xã hội hỗ trợ gia đình, tình trạng bị gạt ra bên lề ngày càng tăng trong những năm gần đây cùng với tình trạng thất nghiệp và mất an ninh việc làm là những yếu tố khiến thế hệ trẻ phải trả giá đắt nhất. Ở các thành phố lớn, nơi sự chia rẽ xã hội và suy thoái đạo đức gây ảnh hưởng xấu, có những trẻ em tham gia vào việc buôn bán ma túy và các hoạt động bất hợp pháp đa dạng nhất. Chúng ta đã chứng kiến bao nhiêu trẻ em trở thành nạn nhân bị hiến tế! Đôi khi, thật bi thảm khi các em bị buộc phải trở thành “kẻ hành quyết” những bạn đồng trang lứa, cũng như tự làm tổn hại đến chính mình, phẩm giá và nhân tính của các em. Nhất là, khi trên đường phố, trong khu phố giáo xứ, những cuộc sống bị đánh mất này hiện ra trước mắt chúng ta, chúng ta thường ngoảnh mặt làm ngơ.
Ở đất nước tôi cũng có một trường hợp như vậy, một cậu bé tên Loan đã bị bắt cóc và không ai biết cậu bé ở đâu. Và một trong những giả thuyết là cậu bé bị gửi đi để lấy nội tạng từ cậu để cấy ghép. Và người ta làm điều này, anh chị em biết rõ điều này. Một số người trở về với vết sẹo, một số người chết. Đây là lý do tại sao hôm nay tôi muốn tưởng nhớ cậu bé tên Loan.
Chống bóc lột trẻ em là cách xây dựng tương lai tốt hơn
Thật khó để chúng ta thừa nhận sự bất công xã hội đẩy hai trẻ em, có thể là cư dân của cùng một khu phố hoặc một tòa nhà chung cư, đi theo những con đường và số phận hoàn toàn trái ngược nhau, chỉ vì một trong hai em sinh ra trong một gia đình khó khăn. Một sự rạn nứt không thể chấp nhận được giữa con người và xã hội: giữa người có thể mơ ước và người phải dập tắt ước mơ. Nhưng Chúa Giêsu muốn tất cả chúng ta được tự do và hạnh phúc; và nếu Người yêu thương mọi người nam nữ như con của Người, thì Người cũng yêu thương các trẻ em bằng tất cả sự dịu dàng của trái tim Người. Vì vậy, Người yêu cầu chúng ta dừng lại và lắng nghe nỗi đau khổ của những người không có tiếng nói, những người không được giáo dục. Chống nạn bóc lột, đặc biệt là bóc lột trẻ em, là con đường chính để xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn cho toàn xã hội. Một số quốc gia đã khôn ngoan viết về các quyền trẻ em. Anh chị em hãy tìm trên internet xem đâu là các quyền của trẻ em.
Đừng tiếp tay cho tình trạng bóc lột trẻ em
Và do đó chúng ta có thể tự hỏi: tôi có thể làm gì? Trước hết, chúng ta phải nhận ra rằng nếu muốn xóa bỏ tình trạng lao động trẻ em, chúng ta không thể tiếp tay cho tình trạng này. Và chúng ta tiếp tay cho tệ nạn này khi nào? Ví dụ khi chúng ta mua những sản phẩm sử dụng lao động trẻ em. Làm sao tôi có thể ăn và mặc khi biết rằng đằng sau những thức ăn hoặc bộ quần áo đó là những đứa trẻ bị bóc lột, phải làm việc thay vì được đến trường? Nhận thức về những gì chúng ta mua là bước đầu tiên để tránh trở thành kẻ đồng lõa. Hãy xem chúng là sản phẩm đến từ đâu. Một số người cho rằng, với tư cách cá nhân, chúng ta không thể làm được nhiều. Đúng vậy, nhưng mỗi người chúng ta có thể là một giọt nước, cùng với nhiều giọt nước khác, có thể trở thành biển cả. Tuy nhiên, cũng cần phải nhắc nhở các tổ chức, bao gồm cả các tổ chức của Giáo hội, và các doanh nghiệp về trách nhiệm của họ: họ có thể tạo ra sự khác biệt bằng cách chuyển hướng đầu tư của mình sang các công ty không sử dụng hoặc không cho phép sử dụng lao động trẻ em. Nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế đã ban hành luật và chỉ thị chống lao động trẻ em, nhưng chúng ta vẫn có thể làm được nhiều hơn nữa. Tôi cũng kêu gọi các nhà báo hãy làm phần việc của mình: họ có thể giúp nâng cao nhận thức về vấn đề này và tìm ra giải pháp. Anh chị em đừng sợ; hãy lên án những điều này.
Là tiếng nói cho các trẻ em
Và tôi cảm ơn tất cả những ai không ngoảnh mặt làm ngơ khi thấy trẻ em bị ép phải trở thành người lớn quá sớm. Chúng ta hãy luôn ghi nhớ lời Chúa Giêsu: “Bất cứ điều gì các ngươi làm cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40). Thánh Têrêsa thành Calcutta, một người thợ vui vẻ trong vườn nho của Chúa, là mẹ của những đứa trẻ thiệt thòi và bị lãng quên nhất. Với ánh mắt dịu dàng và quan tâm, Mẹ có thể hướng dẫn chúng ta nhìn thấy những đứa trẻ vô hình, rất nhiều nô lệ của một thế giới mà chúng ta không thể bỏ mặc cho sự bất công của nó. Bởi vì hạnh phúc của người yếu nhất sẽ mang lại hòa bình cho tất cả mọi người. Và cùng với Mẹ Têrêsa, chúng ta hãy trao tiếng nói cho các trẻ em:
“Tôi xin một nơi an toàn, nơi tôi có thể chơi đùa.
Tôi xin một nụ cười của những người biết yêu thương.
Tôi xin quyền được làm một đứa trẻ, là niềm hy vọng của một thế giới tốt đẹp hơn.
Tôi xin được lớn lên như một con người.
Tôi có thể tin tưởng vào bạn không?" (Thánh Têrêsa Calcutta)
Buổi tiếp kiến kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành Đức Thánh Cha ban cho mọi người.
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-hoan-vu/tiep-kien-chung-15012025---dung-dong-loa-voi-te-nan-boc-lot-tre-em-42417.html
38. Vatican gia tăng biện pháp an ninh cho Năm Thánh.
Nhằm đảm bảo an ninh cho Năm Thánh, Quốc gia Thành Vatican tăng phạt hành chính và phạt tù đối với những ai vi phạm các quy định an ninh.
Vatican News
Theo nghị định được Đức Hồng Y Fernando Vergez Alzaga, Chủ tịch Phủ Thống đốc thành Vatican ban hành ngày 19/12 năm ngoái, đối với những vi phạm an ninh, đặc biệt đối với những người nhập cảnh bằng bạo lực, đe dọa hoặc lừa dối, trốn tránh kiểm soát biên giới hoặc hệ thống an ninh, mức phạt tiền từ 10.000 đến 25.000 euro, và mức tù từ một đến bốn năm.
Ngoài ra, những người nhập cảnh với giấy phép đã hết hạn hoặc không đáp ứng các yêu cầu đã đề ra sẽ bị xử phạt hành chính từ 2.000 đến 5.000 euro.
Các tình tiết tăng nặng cũng được quy định nếu hành vi vi phạm được thực hiện bằng súng, dụng cụ tấn công, chất huỷ hoại, bởi một người cải trang hoặc nhiều người cùng thực hiện. Hoặc nếu người vi phạm lái xe vào lãnh thổ Vatican, trốn tránh hoặc xâm phạm kiểm soát biên giới.
Nghị định cũng quy định hành vi bay trái phép qua không phận Vatican, bao gồm cả việc sử dụng máy bay không người lái, có thể bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm, ngoài ra còn phải nộp khoản tiền phạt lên tới 25.000 euro.
Một điểm mới nữa của quy định này là lệnh cấm nhập cảnh vào lãnh thổ Vatican trong thời hạn lên tới 15 năm. Nếu vi phạm lệnh phạt này, người vi phạm có thể bị phạt tù từ một đến năm năm.
Hơn nữa, người bảo vệ công lý của Vatican có thể triệu tập bất kỳ người nào bị bắt quả tang ra hầu toà vào ngày sau khi phạm tội. Người bị kết tội có thể bị cấm nhập cảnh lãnh thổ Vatican trong vòng 10 năm.
Là quốc gia nhỏ nhất thế giới, Quốc gia Thành Vatican có những khu vực mọi người được phép vào, như Đền thờ Thánh Phêrô hoặc Bảo tàng Vatican, nhưng phải kiểm tra an ninh trước.
Tuy nhiên, vẫn còn những lối vào khác như cổng Thánh Anna, hoặc cổng Perugino dành cho nhân viên hoặc người có giấy phép đặc biệt.
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-hoan-vu/vatican-gia-tang-bien-phap-an-ninh-cho-nam-thanh-42418.html
39 Các tổ chức Công giáo huy động cứu trợ các nạn nhân hỏa hoạn ở Los Angeles.
Các giáo phận và các tổ chức Công giáo trên khắp Hoa Kỳ đang nỗ lực quyên góp để giúp các nạn nhân của các đám cháy ở Los Angeles. Các cơ sở của các giáo xứ và trường học đang trở thành các trung tâm thu nhận quần áo, đồ dùng vệ sinh, chăn và đồ chơi, cũng như nơi cung cấp các bữa ăn và chỗ tắm giặt...
Hồng Thủy - Vatican News
Bất chấp sự tàn phá, các tình nguyện viên đã nhanh chóng tổ chức cứu trợ. Trong Thánh lễ cử hành tại Nhà thờ Thánh Monica, nơi đang che chở cho cộng đồng phải di dời, Đức ông Liam Kidney nhắc các giáo dân rằng “tòa nhà không phải là Giáo hội. Chúng ta là Giáo hội”.
Các tín hữu trợ giúp cách tự phát
Ông Paul Escala, giám đốc các trường Công giáo của Tổng giáo phận Los Angeles, cho biết các khoản quyên góp đã đổ về từ các giáo phận trên toàn quốc. “Mọi người đang hỏi cách giúp đỡ, tặng thẻ quà tặng, xe tải vật tư, hoặc thậm chí tài trợ cho toàn bộ các lớp học. Một phó tế ở Missouri có kế hoạch tự mình lái xe chở các mặt hàng quyên góp đến đây”.
Tổng giáo phận Los Angeles đã khởi động Quỹ cứu trợ nạn nhân cháy rừng, trong khi các tổ chức bác ái Công giáo Hoa Kỳ tiếp tục thu thập các khoản quyên góp cho thực phẩm, quần áo và nhà ở tạm thời. Văn phòng của ông Escala cũng đang hoàn thiện một chương trình học bổng để các gia đình mất nhà cửa hoặc việc làm có thể tiếp tục cho con em mình theo học tại các trường Công giáo.
Ông nhấn mạnh rằng nhiều người Công giáo không chờ đợi chỉ dẫn; họ phản ứng một cách tự phát bằng các khoản quyên góp, nơi trú ẩn và các biện pháp cứu trợ khác. “Họ biết phải làm gì, và họ chỉ cần làm thôi”.
Sự hỗ trợ khơi lên niềm hy vọng
Sự hỗ trợ đã giúp khơi lên niềm hy vọng từ đống tro tàn đổ nát. Nhà Tạm Thánh Thể của nhà thờ giáo xứ Corpus Christi ở Pacific Palisades đã trở thành biểu tượng cho hy vọng của vô số gia đình bị tàn phá bởi các vụ cháy rừng đang lan rộng ở Nam California. Mặc dù ngọn lửa đã thiêu rụi toàn bộ các tòa nhà, nhưng Nhà Tạm bằng kim loại cất giữ Mình Thánh Chúa vẫn gần như nguyên vẹn.
Ông Escala nói rằng “Với tôi, đó là một dấu hiệu kỳ diệu cho thấy ngay cả khi mọi thứ đã mất, Chúa Kitô vẫn còn”.
Các đám cháy đã khiến ít nhất hai chục người thiệt mạng, hàng ngàn ngôi nhà và các công trình khác, bao gồm cả nhà thờ, đã bị phá hủy hoặc hư hại nghiêm trọng.
Khu vực Pacific Palisades và Altadena nằm trong số những khu vực bị ảnh hưởng nặng nề nhất. Nhà thờ Công giáo Corpus Christi đã bị phá hủy thành đống đổ nát, và toàn bộ khu phố xung quanh đã bị xóa sổ.
Tổng giáo phận đã lập các địa điểm để các gia đình phải di dời có thể tập trung cho đến khi việc xây dựng lại có thể bắt đầu.
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-hoan-vu/cac-to-chuc-cong-giao-huy-dong-cuu-tro-cac-nan-nhan-hoa-hoan-o-los-angeles-42419.html
40. Đức Thánh Cha bị ngã và bị bầm ở cẳng tay phải.
Văn phòng Báo chí Tòa thánh cho biết Đức Thánh Cha đã bị ngã tại nhà Thánh Marta sáng nay (16/01/2025). Cánh tay của ngài được cố định như một biện pháp phòng ngừa.
Vatican News
Thông cáo của Phòng báo chí Toà Thánh cho biết: “Sáng nay, do bị ngã tại nhà Thánh Marta, Đức Thánh Cha Phanxicô đã bị bầm ở cẳng tay phải, nhưng không bị gãy xương”.
Thông cáo cũng giải thích thêm: "Cánh tay phải của ngài đã được cố định như một biện pháp phòng ngừa".
Sáng nay, Đức Thánh Cha vẫn giữ lịch trình làm việc và các cuộc tiếp kiến vẫn diễn ra. Cụ thể ngài tiếp bà Nosipho Nausca-Jean Jezile, Chủ tịch Uỷ ban An ninh Lương thực Thế giới; phái đoàn Hồi giáo Bektashi đến từ Albania; và ban giám đốc, giáo sư và sinh viên trường nội trú dành cho các linh mục Argentina đang học ở Roma.
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-hoan-vu/duc-thanh-cha-bi-nga-va-bi-bam-o-cang-tay-phai-42423.html
41. Đức Thánh Cha: Ơn gọi linh mục không phải là phương tiện để đạt những mục đích khác.
Sáng thứ Năm, ngày 16/01, Đức Thánh Cha tiếp ban giám đốc, giáo sư và sinh viên trường nội trú dành cho các linh mục Argentina đang học ở Roma. Ngài mời gọi các linh mục sống căn tính đích thực của linh mục, đồng thời nhắc nhở rằng ơn gọi linh mục không phải phương tiện để đạt những mục đích khác, ngay cả khi đó là mục đích đạo đức.
Vatican News
Đức Thánh Cha đề cập đến mẫu gương của cha thánh Brochero, - linh mục người Argentina, cống hiến cả đời cho người nghèo, người bị bỏ rơi - mà ngài cho rằng rất phù hợp với các linh mục, những người đang chuẩn bị để đối diện với cuộc chiến khó khăn của Tin Mừng.
Cha Brochero được mọi người nhận xét là một linh mục đích thực, về điều này, Đức Thánh Cha nói: “Chúng ta phải kiên quyết đảm nhận căn tính linh mục này, thấm nhuần sự thật rằng ơn gọi của chúng ta không phải là một phần phụ, một phương tiện để đạt những mục đích khác, ngay cả khi đó là mục đích đạo đức, như mục đích cứu rỗi chính mình. Ơn gọi là kế hoạch của Chúa trong cuộc sống chúng ta, là điều Chúa nhìn thấy nơi chúng ta”.
Từ xác tín này, Đức Thánh Cha nói cha Brochero đã sống và phục vụ tha nhân cho đến giây phút cuối đời, như Thánh Phaolô “đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin” (2 Tm 4, 7). Đồng thời chiến đấu với kẻ thù linh hồn, một cuộc chiến cần sự khiêm nhường mới thắng được.
Đức Thánh Cha lưu ý đến một điểm quan trọng khác, đó là tình huynh đệ linh mục. Trước hết với giám mục, các linh mục phải coi mình như một người lính chiến đấu bên cạnh giám mục cho đến viên đạn cuối cùng. Và với các anh em linh mục khác, linh mục muốn chia sẻ tất cả những gì mình có, sửa lỗi một cách tin tưởng và thẳng thắn, sống đạo đức sâu sắc, thường xuyên xưng tội, chia sẻ đời sống vật chất, tinh thần và tông đồ.
Đức Thánh Cha đưa lời khuyên cuối cùng: Thánh Thể. Ngài nhấn mạnh, dù nhiệm vụ rất khó khăn, nhưng cha Brochero luôn dành nhiều giờ với Thánh Thể ở mọi nơi mọi lúc.
Ngài kết thúc với lời cầu nguyện xin Chúa chúc lành cho các linh mục và xin Đức Trinh Nữ gìn giữ mọi người. Và ngài xin các linh mục khi dâng Thánh lễ nhớ cầu nguyện cho ngài.
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-hoan-vu/duc-thanh-cha-on-goi-linh-muc-khong-phai-la-phuong-tien-de-dat-nhung-muc-dich-khac-42424.html
42. Đức Thánh Cha mời gọi Caritas là thiên thần cho những người phải chịu bất công.
Trong buổi tiếp kiến các chủ tịch và ban giám đốc quốc gia Caritas Mỹ Latinh và Caribe, đang tham dự khoá đào tạo ở Roma, trong những ngày này, Đức Thánh Cha cám ơn mọi người vì nỗ lực củng cố các quy trình nhằm thúc đẩy văn hoá chăm sóc.
Vatican News
Từ ngày 13 đến 17/01, các chủ tịch và ban giám đốc của Caritas Mỹ Latinh tham dự khoá học “Môi trường Giáo hội an toàn: đào tạo về bảo vệ trẻ vị thành niên và những người dễ bị tổn thương”.
Tiếp các thành viên của khoá học ngày 15/01, nói bằng tiếng Tây Ban Nha, nhấn mạnh ý nghĩa tinh thần và nhân văn của việc “bảo vệ”, Đức Thánh Cha mô tả đó là nghĩa vụ nhìn nhận phẩm giá con người và bảo vệ những người dễ bị tổn thương. Ngài lưu ý trong tiếng Tây Ban Nha cụm từ “bảo vệ” được định nghĩa là “chăm sóc, che chở, đảm bảo”. Nhưng cụm từ này còn có ý nghĩa khác: “Trong thời chiến, đó là một dấu hiệu được đặt theo lệnh của chỉ huy quân sự tại lối vào thị trấn hoặc trên cửa nhà, để binh lính không gây hại nhà đó”.
Theo Đức Thánh Cha ý nghĩa này gợi nhớ đến đoạn văn của ngôn sứ Êdêkien, trong đó Chúa yêu cầu thiên thần: “Hãy ghi dấu chữ thập trên trán những người đang rên siết khóc than về mọi điều ghê tởm đang xảy ra trong khắp thành” (Ed 9, 4).
Ngài nhấn mạnh, ở đây Chúa yêu cầu chúng ta, những sứ giả của Người “ghi dấu thánh giá Người trên trán tất cả những ai đến với Caritas, than thở và khóc lóc về nhiều bất công, thâm chí cả những điều ghê tởm đã gây ra cho họ”.
Ngài tiếp tục giải thích rằng việc ghi dấu “thực tế” này trên mỗi người mà chúng ta gặp trong suốt cuộc đời có nghĩa là nhìn nhận phẩm giá của họ như những anh chị em trong Chúa Kitô. Nhưng “điều đó cũng có nghĩa là chấp nhận mệnh lệnh không thể bỏ qua của Chúa: Không được đụng vào những người được xức dầu của Ta’”.
Ngài giải thích, theo nghĩa này, bảo vệ là một danh xưng thánh thiêng, “chính Chúa Kitô được viết trên trán của mỗi người nam và nữ, và như một tấm gương, trong trái tim của mỗi người chúng ta, những người, trong sự mỏng manh của mình, mong muốn trở thành người mang tình yêu của Người thông qua những hành động bác ái và chăm sóc nhỏ bé”.
Cuối cùng, Đức Thánh Cha cầu nguyện xin Chúa Giêsu tưởng thưởng cho những nỗ lực của những người hiện diện, Chúa Thánh Thần hướng dẫn công việc của họ, và xin Đức Trinh Nữ che chở họ bằng áo choàng của Mẹ, “để anh chị em có thể học từ nơi Mẹ cách mang lại sự chăm sóc và bảo vệ cho tất cả mọi người”.
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-hoan-vu/duc-thanh-cha-moi-goi-caritas-la-thien-than-cho-nhung-nguoi-phai-chiu-bat-cong-42425.html
43. Đức Thánh Cha: Hy vọng là những dấu chỉ đường trong hành trình cuộc sống.
Sáng thứ Sáu ngày 17/01, Đức Thánh Cha tiếp ban giám đốc và các chủng sinh của Giáo phận Cordoba, Tây Ban Nha. Ngài nói: “Hy vọng là những dấu chỉ đường cho chúng ta trong hành trình cuộc sống”.
Vatican News
Đức Thánh Cha giải thích, dấu chỉ đầu tiên là hướng đi: hướng về Trời cao, cuộc gặp gỡ sau cùng với Chúa Giêsu. Hướng đi này không dẫn đến những vị trí cao, thoải mái nhất. Đó là những ngõ cụt, mà nếu không may bước vào chúng ta phải quay trở lại một cách khó khăn và xấu hổ.
Về dấu hiệu thứ hai: những nguy hiểm trên đường đi, Đức Thánh Cha nói: “Các con đến từ một nơi rất đẹp mang tên thánh Pelagius, một địa điểm cổ xưa của cánh đồng các vị tử đạo. Như vị thánh trẻ đó đã làm, giữa đau khổ và sự tàn ác của chiến tranh, được trang bị bằng mũ chiến hy vọng, chúng ta có thể làm chứng, kiên trung trong hành trình của Chúa, tin rằng Chúa Giêsu sẽ luôn nâng đỡ chúng ta, và cũng sẽ ban sức mạnh để chúng ta trở thành những người gieo niềm hy vọng”.
Cuối cùng dấu hiệu thứ ba: nơi để lấy lại sức. Ngài giải thích, hành trình đã đưa mọi người đến Roma, qua Cửa Thánh và viếng thăm mộ các Tông đồ, các chủng sinh cần được nâng đỡ, để cảm nhận sự hiện diện của Đấng là niềm hy vọng duy nhất, Chúa Giêsu. Chính Chúa đã tỏ ra cho chúng ta thấy Người là Thầy, là Chúa, hiến mình cho chúng ta làm của ăn trong Lời và Thánh Thể, hỗ trợ khi chúng ta gặp sự cố trên đường đi, và đón nhận chúng ta khi chúng ta mệt mỏi, giúp chúng ta phải dừng lại để nghỉ ngơi. Nếu không có hy vọng này, việc dấn thân của chúng ta sẽ là một hành động liều lĩnh, nhưng khi tin cậy nơi Người, chúng ta không nghi ngờ gì và sẽ đến bến mong muốn.
Tuy nhiên, Đức Thánh Cha nhắc nhở các chủng sinh đừng bao giờ nghĩ rằng gieo hy vọng là nói những lời lịch sự hoặc sự tử tế bề ngoài. Hành trình này là con đường của Chúa Giêsu, dẫn đến Giêrusalem trên trời, đi qua trần gian, cùng với thập giá, và được nâng đỡ bởi nhiều người như ông Simon thành Kyrênê. Một hành trình không thể đi một mình nhưng với cộng đoàn để hướng dẫn, bảo vệ, trợ giúp và chúc lành cho những người mà Chúa đã để lại cho chúng ta như một nhiệm vụ.
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-hoan-vu/duc-thanh-cha-hy-vong-la-nhung-dau-chi-duong-trong-hanh-trinh-cuoc-song-42428.html
44. Các Giám mục Ý phủ nhận việc nhận người đồng tính vào chủng viện.
Sau khi một số phương tiện truyền thông và cả một số giáo sĩ cho rằng tài liệu mới của Hội đồng Giám mục Ý về việc đào tạo linh mục mở đầu cho việc phong chức linh mục cho những người nam đồng tính, Đức Cha Stefano Manetti, Chủ tịch Ủy ban Giám mục về giáo sĩ và đời sống thánh hiến, đã cho biết trên báo Avvenire (Tương lai) rằng đây không phải là cách diễn giải đúng về tài liệu.
Vatican News
Tài liệu mới của Hội đồng Giám mục Ý về đào tạo linh mục có tựa đề “Việc đào tạo linh mục trong Giáo hội Ý: Hướng dẫn và quy tắc cho các chủng viện” và được đăng vào ngày 9/1/2025 trên trang web của Bộ Giáo sĩ.
Những quy tắc được nói đến đã được các Giám mục Ý phê chuẩn vào tháng 11/2024 trong đại hội toàn thể diễn ra tại Assisi.
Đoạn 44 của tài liệu nêu rõ rằng “mục tiêu của việc đào tạo các ứng viên chức linh mục, trong phạm vi tình cảm-tính dục, là khả năng chấp nhận như một món quà, tự do lựa chọn và sống có trách nhiệm sự khiết tịnh trong đời sống độc thân”.
Cách giải thích sai
Trong một bài đăng ngày 10/1/2025 về vấn đề này, báo New York Times viết rằng “Vatican cho phép những người đàn ông đồng tính người Ý được đào tạo để trở thành linh mục, nếu họ vẫn độc thân” và rằng “theo các hướng dẫn mới của Giáo hội tại Ý, các ứng viên vào chủng viện không nên bị loại dựa trên khuynh hướng tính dục”.
Theo Đức Cha Manetti, cách giải thích này “không phải là cách hiểu đúng vì ở phần đầu đoạn văn này nhắc lại các chuẩn mực của giáo quyền”.
Trung thành với giáo huấn của Giáo hội
Theo báo Avvenire, đoạn 44 “lặp lại, từng chữ một, những gì được thiết lập trong số 199 của tài liệu do Bộ Giáo sĩ khi đó ban hành ngày 8/12/2016, có tựa đề là ‘Món quà của ơn gọi linh mục: Nguyên tắc căn bản về đào tạo linh mục. Tài liệu này lấy lại nội dung của hướng dẫn do Bộ Giáo dục Công giáo khi đó công bố vào năm 2005”.
Cả hai tài liệu đều nói rằng những người có khuynh hướng đồng tính luyến ái “tại căn” không thể được nhận vào các chủng viện.
Tài liệu “Món quà của ơn gọi linh mục” nêu rõ rằng “về những người có khuynh hướng đồng tính luyến ái tìm cách gia nhập chủng viện, hoặc phát hiện ra tình trạng như vậy trong quá trình đào tạo, Giáo hội, kiên định với giáo huấn của chính mình, trong khi tôn trọng sâu sắc những người này, không thể chấp nhận vào chủng viện hoặc vào chức thánh những người thực hành đồng tính luyến ái, thể hiện khuynh hướng đồng tính luyến ái sâu sắc hoặc ủng hộ cái gọi là ‘văn hóa đồng tính’. Trên thực tế, những người như vậy ở trong một tình huống cản trở nghiêm trọng đến việc họ có thể tương quan đúng đắn với nam giới và nữ giới”.
Giúp các ứng viên chức linh mục phân định
Báo Avvenire chỉ ra rằng điều mới trong tài liệu mới của Giáo hội Ý nằm ở “sự phân định” của các ứng viên, đặc biệt là trong ba năm đầu tiên của quá trình đào tạo.
Đức Cha Manetti giải thích với Avvenire: “Chúng tôi nhắm đặt con người lên hàng đầu bằng cách giúp các ứng viên chức linh mục làm sáng tỏ trong chính họ... một sự đồng hành để tự nhận thức mà thường thiếu ở các thế hệ trẻ và điều đó không loại trừ ngay cả những người trẻ mới vào chủng viện”.
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-hoan-vu/cac-giam-muc-y-phu-nhan-viec-nhan-nguoi-dong-tinh-vao-chung-vien-42430.html
45. Làm linh mục là một trong những sứ vụ gặp nguy hiểm nhất hiện nay.
Sau 121 vụ bạo lực chống lại các linh mục và tu sĩ vào năm 2024, theo tổ chức Trợ giúp các Giáo hội Đau khổ, việc trở thành một linh mục Công giáo ngày nay là “một trong những sứ mạng nguy hiểm nhất tại một số nước trên thế giới”.
Vatican News
Báo cáo của tổ chức Trợ giúp các Giáo hội Đau khổ bổ sung cho báo cáo của hãng tin Fides của các Hội Giáo hoàng Truyền giáo được công bố vào cuối năm 2024.
Báo cáo đưa ra con số 13 vụ sát hại, 37 vụ bắt cóc và 71 vụ bắt giữ trong năm 2024. 10 trong số những vụ việc này liên quan đến phụ nữ, trong đó 8 người bị bắt cóc và 2 người bị bắt.
Tổ chức Trợ giúp các Giáo hội Đau khổ xác nhận con số vụ bắt cóc trong năm 2024 tăng so với năm 2023, với 33 linh mục và tu sĩ Công giáo bị bắt cóc. Haiti là quốc gia ghi nhận nhiều vụ bắt cóc nhất trong năm 2024, tổng cộng là 18 vụ, hậu quả của tình trạng hỗn loạn và bạo lực do các nhóm tội phạm có tổ chức gây ra. Một vụ bắt cóc đã được báo cáo ở Colombia.
Nigeria vẫn là một trong những quốc gia nguy hiểm nhất thế giới đối với các mục tử, với 11 vụ bắt cóc được báo cáo trong năm 2024. Các nạn nhân này đều đã được thả. Tuy nhiên, 3 linh mục bị bắt cóc trước đó vẫn chưa có tin tức gì.
Tổ chức Trợ giúp các Giáo hội Đau khổ báo cáo rằng trong suốt năm 2024 có ít nhất 71 giáo sĩ đã bị bắt giữ “vì đức tin của họ hoặc chỉ vì thực hiện sứ mạng tôn giáo”. Nicaragua đứng đầu danh sách do cuộc đàn áp mà chế độ độc tài Daniel Ortega và Rosario Murillo đã tiến hành chống lại Giáo hội Công giáo. (ACI Prensa 14/01/2025)
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-hoan-vu/lam-linh-muc-la-mot-trong-nhung-su-vu-gap-nguy-hiem-nhat-hien-nay-42432.html
46. Theo tinh thần Năm Thánh, Cuba trả tự do cho 553 tù nhân.
Chính phủ Cuba đã thông báo quyết định trả tự do cho 553 tù nhân bị kết án về các tội danh khác nhau “theo tinh thần của Năm Thánh thường kỳ năm 2025 do Đức Giáo hoàng Phanxicô công bố”.
Vatican News
Quyết định của chính phủ Cuba trong thư của Chủ tịch Cuba Miguel Díaz-Canel đã được thông báo cho Đức Thánh Cha hồi đầu tháng qua. Ông cho biết việc thả các tù nhân được thực hiện “theo tinh thần của Năm Thánh thường kỳ năm 2025”.
Một tuyên bố của Bộ Ngoại giao Cuba cũng lưu ý rằng việc thả tù nhân diễn ra trong bối cảnh “mối quan hệ chặt chẽ và linh hoạt với Quốc gia Vatican” và nêu rõ các mối liên hệ giữa quốc gia này và Vatican trong suốt những năm qua.
Hoa Kỳ bỏ Cuba khỏi danh sách “quốc gia bảo trợ khủng bố”
Tuyên bố đặc biệt lưu ý đến cuộc gặp giữa Đức Thánh Cha Phanxicô và Chủ tịch Díaz-Canel vào tháng 8/2022. Trong cuộc gặp gỡ đó hai bên đã thảo luận về tình cảnh của các tù nhân cũng như chính sách của Hoa Kỳ.
Tuyên bố của Cuba được đưa ra sau tuyên bố của Nhà Trắng rằng Tổng thống Joe Biden đã thông báo cho Quốc hội về ý định gỡ bỏ Cuba khỏi danh sách “quốc gia bảo trợ khủng bố”, như một phần của thỏa thuận được Giáo hội cổ vũ.
Các tù nhân dự kiến sẽ được trả tự do trong những ngày và tuần tới, một số người sẽ được trả tự do trước khi nhiệm kỳ của ông Biden kết thúc vào ngày 20/1/2025.
Quan hệ ngoại giao giữa Cuba và Vatican
Tuyên bố của Cuba hôm thứ Ba ngày 14/1/2025 cho biết nước này duy trì “mối quan hệ tôn trọng, thẳng thắn và mang tính xây dựng với Vatican và Giáo hoàng, tạo điều kiện cho các quyết định như quyết định mới được đưa ra”.
Việc trả tự do cho tù nhân cũng đánh dấu các mối quan hệ trước đây với các Giáo hoàng. Năm 1998, khi Thánh Gioan Phaolô II đến thăm Cuba, Chủ tịch Fidel Castro đã thả khoảng 200 người. Trong khi đó hàng ngàn tù nhân đã được trả tự do vào đêm trước chuyến thăm Cuba của Đức Biển Đức XVI vào năm 2012, và khoảng 3.500 người nữa được thả trước chuyến tông du của Đức Thánh Cha Phanxicô vào năm 2015.
Vào tháng 12 năm 2014, quan hệ ngoại giao giữa Washington và Cuba đã được khôi phục. Tổng thống Hoa Kỳ lúc bấy giờ là ông Barack Obama và Chủ tịch của Cuba, ông Raúl Castro, đã cảm ơn Đức Thánh Cha Phanxicô vì những đóng góp của ngài trong việc đạt được thỏa thuận.
Lời Đức Thánh Cha kêu gọi ân xá
Trong Sắc lệnh công bố Năm Thánh, Đức Thánh Cha Phanxicô đề xuất rằng “các chính phủ thực hiện các sáng kiến nhằm khôi phục hy vọng; các hình thức ân xá hoặc tha thứ nhằm giúp các cá nhân lấy lại niềm tin vào bản thân và xã hội; và các chương trình tái hòa nhập vào cộng đồng, bao gồm dấn thân cụ thể về việc tôn trọng luật pháp”.
Nhận định của Đức Hồng y Parolin
Đức Hồng y Quốc vụ khanh Tòa Thánh Pietro Parolin đã bình luận rằng “Tin tức về việc thả dần 553 tù nhân Cuba là dấu hiệu hy vọng lớn lao vào đầu Năm Thánh này”. “Điều quan trọng là chính quyền Havana đã liên kết trực tiếp quyết định này với lời kêu gọi của Đức Thánh Cha Phanxicô, người mà trong Sắc lệnh công bố Năm Thánh, và trong nhiều dịp khác, đã yêu cầu những cử chỉ ân xá, như thường xảy ra trong Năm Thánh”.
Đức Hồng y nói thêm: “Năm 2024 kết thúc với việc Tổng thống Hoa Kỳ giảm án tử hình xuống còn chung thân, và với tin tức rằng Zimbabwe đã bãi bỏ án tử hình. Chúng tôi hy vọng rằng năm 2025 sẽ tiếp tục theo hướng này và tin tốt lành sẽ được nhân lên, đặc biệt là với lệnh ngừng bắn cho nhiều cuộc xung đột vẫn đang diễn ra”.
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-hoan-vu/theo-tinh-than-nam-thanh-cuba-tra-tu-do-cho-553-tu-nhan-42433.html
47. Các Giám mục ở Thánh địa chào mừng lệnh ngừng bắn ở Gaza.
Các Giám mục Công giáo tại Thánh địa bày tỏ sự hài lòng về lệnh ngừng bắn ở Gaza được công bố ngày 15/01, nhưng cảnh báo rằng đây chỉ là bước đầu tiên trong một “quá trình dài”.
Vatican News
Trong một thông cáo báo chí, Hội đồng - gồm tất cả các Giám mục Công giáo tại Giêrusalem, Palestine, Israel, Jordan và đảo Sýp – chào mừng thông báo ngừng bắn ở Gaza và bày tỏ hy vọng rằng lệnh ngừng bắn sẽ chấm dứt đau khổ do bạo lực gây ra trong 15 tháng xung đột.
Tuy nhiên, các vị mục tử cũng nhấn mạnh rằng kết thúc chiến tranh không có nghĩa là chấm dứt xung đột. Hoà bình thực sự và lâu dài chỉ có thể đạt được qua một giải pháp công bằng giải quyết tận gốc nguyên nhân của cuộc xung đột kéo dài này. Đó là tạo ra “một quá trình dài” để giải quyết các vấn đề sâu xa ở trung tâm của cuộc xung đột, để chứng tỏ ý muốn cùng nhận ra những đau khổ của nhau và thúc đẩy một nền giáo dục hướng đến lòng tin tưởng, vượt qua nỗi sợ hãi người khác và biện minh cho bạo lực như một công cụ chính trị.
Về vấn đề này, thông cáo báo chí của các Giám mục kêu gọi cộng đồng quốc tế “phát triển một tầm nhìn chính trị rõ ràng và công bằng cho giai đoạn hậu chiến”, vì một tương lai được xây dựng trên “nhân phẩm, an ninh và tự do cho tất cả các dân tộc là điều kiện tiên quyết cho một nền hoà bình thực sự và lâu dài”.
Các Giám mục nói thêm rằng rất mong những người hành hương trở lại để kính viếng các Địa điểm Thánh. Đó là những nơi cầu nguyện và bình an. Thực tế, trước đây, các Kitô hữu hành hương thường đến các địa điểm thánh ở Palestine và Israel quanh năm, nhưng kể từ khi chiến tranh nổ ra vào tháng 10/2023, họ gần như biến mất hoàn toàn - gây ra hậu quả kinh tế thảm khốc cho nền kinh tế địa phương phụ thuộc vào du lịch.
Cuối cùng, các các Giám mục cũng nhắc đến Năm Thánh 2025 của Giáo hội, với chủ đề “Những người hành hương hy vọng”, coi lệnh ngừng bắn là “một dấu hiệu nhắc nhở chúng ta về lòng thành tín của Chúa”.
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-hoan-vu/cac-giam-muc-o-thanh-dia-chao-mung-lenh-ngung-ban-o-gaza-42434.html
48. Lần đầu tiên Đức Thánh Cha tiếp phái đoàn Phật giáo Mông Cổ.
Vào đầu tuần lễ này, Đức Thánh Cha đã tiếp phái đoàn Phật giáo Mông Cổ, do Đức Hồng Y Giorgio Marengo, Phủ doãn Tông tòa Ulaanbaatar, dẫn đầu. Ngài nói: “Trong bối cảnh thiên tai và xung đột do con người gây ra, Năm Thánh mời gọi chúng ta hướng tới mục tiêu chung: xây dựng một thế giới hòa bình hơn, thúc đẩy sự hòa hợp giữa các dân tộc với ngôi nhà chung”.
Vatican News
Đây là chuyến viếng thăm Vatican đầu tiên của cộng đồng Phật giáo Mông Cổ, một tôn giáo chiếm đa số ở quốc gia châu Á này, trong khi người Công giáo chỉ có hơn 1200 tín hữu. Tuy nhiên, đây là một vùng đất của đối thoại và chung sống hòa bình.
Về điều này, trong buổi gặp gỡ Đức Thánh Cha nhận xét rằng, sự hiện diện của phái đoàn Phật giáo Mông Cổ tại Roma là một dấu hiệu về “mối quan hệ thân thiện và lâu dài giữa Tòa Thánh và dân tộc Mông Cổ”. Một tình bạn thực sự mà Đức Thánh Cha đã trải nghiệm trong chuyến tông du lần thứ 43 đến đất nước này.
Đức Thánh Cha nhắc đến cuộc gặp gỡ vào ngày 03/9/2023 với 11 nhà lãnh đạo thuộc các tôn giáo khác nhau. Tại sự kiện này ngài đã nhấn mạnh rằng tôn giáo phải phục vụ điều tốt đẹp và khuyến nghị không nhầm lẫn niềm tin với bạo lực.
Ngài nói: “Hôm đó, cùng với các đại diện của các tôn giáo, chúng ta đã suy tư về niềm khao khát tâm linh sâu sắc của tất cả mọi người nam nữ, điều mà chúng ta có thể so sánh với một sự kết hợp vĩ đại của các anh chị em bước đi trong cuộc đời với đôi mắt hướng về trời cao”.
Đức Thánh Cha còn nhắc lại thời kỳ khó khăn nhưng rất hưng thịnh của những năm 1990, khi đất nước trải qua một cuộc đổi mới tôn giáo sâu sắc, cũng nhờ vào sự cống hiến của Phật giáo. Ngài lưu ý: “Bằng cách khôi phục các thực hành tâm linh truyền thống và đưa vào sự phát triển của đất nước, Mông Cổ đã khôi phục được di sản tôn giáo phong phú của mình, đồng thời thể hiện nỗ lực cho một quá trình chuyển đổi dân chủ thành công”.
Đức Thánh Cha khen ngợi “cam kết tự do tôn giáo và đối thoại giữa các tôn giáo khác nhau đã vun trồng một môi trường tôn trọng đối với mọi truyền thống, thúc đẩy một xã hội không chỉ phong phú về mặt vật chất, nhưng giàu những giá trị thiết yếu cho tình liên đới huynh đệ. Bằng cách thúc đẩy những giá trị này, các tôn giáo đóng một vai trò cơ bản trong việc xây dựng một xã hội công bằng và gắn kết”.
Sau đó, hướng về Năm Thánh, Đức Thánh Cha giải thích, theo truyền thống Kitô giáo, Năm Thánh là thời gian hành hương, hòa giải và hy vọng. Và trong bối cảnh hiện nay với thảm họa thiên nhiên và xung đột của con người, Năm Thánh kêu gọi chúng ta hướng tới mục tiêu chung là xây dựng một thế giới hòa bình hơn, thúc đẩy sự hòa hợp giữa các dân tộc và hướng tới ngôi nhà chung của chúng ta.
Từ đây, ngài nói rõ: “Niềm khao khát hòa bình phổ quát thách đố tất cả chúng ta hành động một cách cụ thể: đặc biệt, với tư cách là những nhà lãnh đạo tôn giáo bắt nguồn từ giáo lý của mình, chúng ta có trách nhiệm hướng dẫn nhân loại từ bỏ bạo lực và đón nhận một nền văn hóa hòa bình”.
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-hoan-vu/lan-dau-tien-duc-thanh-cha-tiep-phai-doan-phat-giao-mong-co-42438.html
49. Kinh Truyền Tin 19/1: Với sự túng thiếu của chúng ta, Thiên Chúa ban dư tràn.
Trưa Chúa Nhật 19/1, từ cửa sổ Dinh tông toà, Đức Thánh Cha đã cùng đọc Kinh Truyền Tin với các tín hữu hiện diện tại Quảng trường Thánh Phêrô. Trước khi đọc Kinh, ngài đã có một bài huấn dụ ngắn dựa trên đoạn Tin Mừng Chúa Nhật II thường niên về việc Chúa Giêsu làm phép lạ hoá nước thành rượu tại tiệc cưới Cana.
Vatican News
Bài huấn dụ của Đức Thánh Cha trước khi đọc Kinh Truyền Tin
Anh chị em thân mến, chúc Chúa Nhật tốt lành!
Tin Mừng phụng vụ hôm nay (Ga 2,1-11) kể cho chúng ta về dấu lạ đầu tiên của Chúa Giêsu khi Người hoá nước thành rượu trong tiệc cưới ở Cana miền Galilê. Đây là câu chuyện tiên báo và tóm tắt toàn bộ sứ mạng của Chúa Giêsu: vào ngày Đấng Mêsia đến - các tiên tri đã nói như vậy - Chúa sẽ đãi muôn dân “một bữa tiệc rượu ngon” (Is 25:6) và “các núi đồi sẽ tuôn ra rượu nho mới” (Am 9,13); Chúa Giêsu là Chàng Rể mang đến “rượu mới”.
Trong đoạn Tin Mừng này, chúng ta có thể nhận thấy hai điều: thiếu thốn và dư tràn. Một đàng, rượu đã hết và Đức Maria nói với Con: “Họ hết rượu rồi” (câu 3); Đàng khác, Chúa Giêsu can thiệp bằng cách đổ đầy sáu chum lớn, và cuối cùng, rượu trở nên dồi dào và tuyệt hảo đến nỗi người quản tiệc hỏi chú rể vì đã giữ rượu ngon cho đến tàn tiệc (câu 10). Vì thế, “dấu chỉ của chúng ta là sự thiếu thốn”, trong khi “dấu chỉ của Thiên Chúa luôn là sự dư đầy” và “sự dư đầy của Cana là dấu chỉ đó” (Bênêđictô XVI, Chúa Giêsu thành Nazareth, tập I, 294). Trước sự thiếu thốn của con người, Thiên Chúa đáp lại như thế nào? Người ban cách dư tràn (x. Rm 5:20). Thiên Chúa không keo kiệt. Khi Người ban, Người ban rất nhiều. Người không ban từng chút một, mà ban rất nhiều. Trước sự thiếu thốn của chúng ta, Thiên Chúa đáp lại bằng sự dư tràn của Người.
Trong bữa tiệc cuộc đời, chúng ta có thể nói, đôi khi chúng ta nhận ra rằng rượu đang cạn dần: cạn về sức lực và nhiều thứ khác. Điều này xảy ra khi những lo lắng làm chúng ta đau khổ, nỗi sợ hãi tấn công chúng ta, hoặc những thế lực phá hoại của cái ác lấy đi niềm vui sống, sự phấn khởi của niềm vui và hương vị hy vọng của chúng ta. Chúng ta để ý: trước sự thiếu thốn này, Chúa ban cho chúng ta sự dư tràn. Luôn có một sự trái ngược: chúng ta càng thiếu thốn, Thiên Chúa ban càng dư đầy. Bởi vì Thiên Chúa muốn tham dự tiệc mừng với chúng ta, bữa tiệc không kết thúc.
Chúng ta cùng cầu nguyện với Đức Trinh Nữ Maria. Xin Mẹ, là “Người Phụ Nữ của rượu mới” (x. A. Bello, Maria, người phụ nữ của thời đại chúng ta), cầu bầu cho chúng ta và, trong Năm Thánh này, giúp chúng ta tái khám phá niềm vui của cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu.
---
Sau Kinh Truyền Tin, Đức Thánh Cha diễn tả sự vui mừng về lệnh ngừng bắn ở Gaza có hiệu lực hôm nay. Ngài bày tỏ lòng biết ơn đến tất cả các bên trung gian và ngài cảm ơn các bên liên quan đến thành tựu quan trọng này. Đức Thánh Cha hy vọng những gì đã thỏa thuận sẽ được các bên tôn trọng ngay lập tức và tất cả các con tin sẽ có thể trở về nhà và ôm chầm lấy những người thân yêu của mình. Đức Thánh Cha diễn tả: “Tôi cầu nguyện rất nhiều cho họ và gia đình họ. Tôi cũng hy vọng rằng viện trợ nhân đạo sẽ đến được với người dân Gaza nhanh hơn và với số lượng lớn hơn vì nhu cầu hiện tại rất cấp thiết”.
Về chính trị, Đức Thánh Cha nói: “Cả người Israel và người Palestine đều cần những dấu hiệu hy vọng rõ ràng. Ước mong chính quyền cả hai nước, với sự giúp đỡ của cộng đồng quốc tế, có thể đạt được giải pháp đúng đắn cho hai nhà nước”.
Đức Thánh Cha cũng diễn tả vui mừng về một sự kiện khác: “Một vài ngày trước, người ta đã công bố việc thả một nhóm tù nhân khỏi các nhà tù Cuba. Đây là cử chỉ hy vọng lớn lao, cụ thể hóa một trong những ý hướng của Năm Thánh này. Tôi hy vọng rằng trong những tháng tới, chúng ta sẽ tiếp tục thực hiện những sáng kiến tương tự ở nhiều nơi khác nhau trên thế giới, qua đó tạo niềm tin vào con đường của mỗi cá nhân và dân tộc”.
Đức Thánh Cha cũng nhắc đến việc cầu nguyện cho sự hiệp nhất các Kitô hữu trong những ngày này. Ngài kêu gọi mọi người đừng quên cầu xin Thiên Chúa “ban cho chúng ta món quà quý giá là sự hiệp thông trọn vẹn giữa tất cả các môn đệ của Chúa”.
Cuối cùng Đức Thánh Cha chúc mọi người một Chúa nhật tốt lành, và xin đừng quên cầu nguyện cho ngài.
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-hoan-vu/kinh-truyen-tin-191-voi-su-tung-thieu-cua-chung-ta-thien-chua-ban-du-tran-42439.html
50. Sau 1 tháng mở cửa lại, Nhà thờ Đức Bà Paris có 860 ngàn người viếng thăm.
Trong cuộc họp báo ngày 15/1/2025, bà Sybille Bellamy-Brown, người đứng đầu bộ phận đối ngoại của nhà thờ, cho biết, kể từ khi mở cửa trở lại đón công chúng vào ngày 16/12/2024, đã có 860.000 du khách viếng thăm Nhà thờ Đức Bà Paris. Ước tính có khoảng 29.000 người viếng thăm mỗi ngày. Con số này có thể tăng lên tới 35.000 vào tối thứ Năm.
Vatican News
Đây là những con số đáng kể khi so sánh với con số 30.000 lượt khách tham quan bảo tàng Louvre mỗi ngày. Trước vụ hỏa hoạn tàn phá nhà thờ vào tháng 4/2019, lượng khách tham quan ước tính khoảng 23.500 người mỗi ngày.
Nhà thờ Đức Bà Paris được mở cửa trở lại vào cuối tuần ngày 7 và 8/12/2024 trước sự hiện diện của nhiều nhà chức trách. Sau đó là tuần “cầu nguyện chín ngày” với lượng người ra vào hạn chế.
Kể từ khi mở cửa trở lại hoàn toàn cho công chúng vào ngày 16/12/2025, các cử hành lễ Giáng sinh đã khiến cho “nhà thờ mới” này trở nên hấp dẫn hơn, tạo nên những hàng dài người xếp hàng vào cuối năm. Nhưng “trong hai tuần” mọi việc diễn ra trôi chảy hơn và khách viếng thăm không còn phải xếp hàng nữa. Mọi người đều có thể tự do vào nhà thờ vì được vào cửa miễn phí.
Khách viếng thăm có thể đặt tour tham quan nhà thờ có hướng dẫn viên trên trang web trước ngày diễn ra sự kiện tối đa hai ngày.
Với lượng khách được ghi nhận cho đến nay, trung bình có 2.200 người ở trong nhà thờ trong khi sức chứa tối đa là 3.000 người và mỗi lần tham quan kéo dài 32 phút (không tính các cử hành phụng vụ).
Kể từ thứ ngày 1571/2025, nhà thờ cũng đã mở cửa đón khách hành hương “dành cho các nhóm đã đăng ký trước” và bao gồm tối thiểu 40 người và tối đa 2.900 người.
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-hoan-vu/sau-1-thang-mo-cua-lai-nha-tho-duc-ba-paris-co-860-ngan-nguoi-vieng-tham-42440.html
51 ĐTC Phanxicô: Một nữ tu sẽ là Chủ tịch Phủ Thống đốc thành Vatican.
Trong cuộc phỏng vấn dành cho chương trình “Che tempo che fa” của đài truyền hình RAI 3 của Ý, Đức Thánh Cha cho biết, ngài sẽ bổ nhiệm sơ Raffaella Petrini làm Chủ tịch Phủ Thống đốc thành Vatican, vào tháng 3 tới, thay thế Đức Hồng Y Fernando Vérgez Alzaga nghỉ hưu.
Vatican News
Từ năm 2005, sơ Raffaella Petrini, dòng Phan Sinh Thánh Thể đã là công chức của Bộ Loan báo Tin Mừng cho các dân tộc. Sơ đã đậu cử nhân về khoa học chính trị tại Đại học Quốc tế Libera và đậu tiến sĩ khoa học xã hội tại đại học Giáo hoàng thánh Tô-ma Aquinô ở Roma, và là giáo sư tại đại học này.
Ngày 04/11/2021, Đức Thánh Cha đã bổ nhiệm sơ Petrini làm Tổng Thư ký Phủ Thống đốc thành Vatican, một chức vụ trước đây thường do một giám mục nắm giữ.
Trong cuộc phỏng vấn được phát vào tối Chúa nhật ngày 19/01/2025, Đức Thánh Cha thông báo bắt đầu vào tháng 3 tới, sơ Raffaella Petrini sẽ là Chủ tịch Phủ Thống đốc thành Vatican, thay thế Đức Hồng Y Fernando Vérgez Alzaga nghỉ hưu.
Đức Thánh Cha lưu ý: “Công việc của phụ nữ trong Giáo triều từng tiến triển chậm nhưng hiệu quả. Bây giờ, chúng ta có nhiều người nữ”. Và khi liệt kê các vai trò được giao cho phụ nữ tại Vatican, ngài nói thêm: “Tại Phủ Thống đốc, Tổng thư ký, người sẽ trở thành Chủ tịch vào tháng 3, là một nữ tu. Phụ nữ quản lý tốt hơn chúng ta”.
Trong cuộc phỏng vấn, Đức Thánh Cha còn đề cập đến một số vấn đề. Trước hết trả lời câu hỏi về Hoa Kỳ trong bối cảnh có tin đồn về kế hoạch trục xuất hàng loạt những người di cư sau lễ nhậm chức của Tổng thống Donald Trump, Đức Thánh Cha mô tả đây là một sự bất hạnh.
Về chủ đề di cư, Đức Thánh Cha nhắc lại bốn điều cần làm để giải quyết tình trạng khẩn cấp này: “Người di cư phải được chào đón, đồng hành, thăng tiến và hòa nhập”.
Ngài cũng đề cập đến mối quan ngại về tỷ lệ sinh giảm, và trích dẫn độ tuổi trung bình của Ý là “46”. Ngài nói: “Nếu bạn không có con, bạn phải cho người di cư vào”.
Đức Thánh Cha cũng nói về cuộc chiến ở Trung Đông, lưu ý đến lệnh ngừng bắn bắt đầu vào Chủ nhật tại Gaza và việc thả ba phụ nữ bị Hamas bắt làm con tin, đồng thời ngài cũng bày tỏ lòng biết ơn những người đã đàm phán lệnh ngừng bắn.
Sau đó, thảo luận về giải pháp hai Nhà nước, ngài nhấn mạnh: “Tôi tin rằng đó là giải pháp duy nhất. Một số người sẵn sàng, những người khác thì không. Hòa bình lớn hơn chiến tranh”. Theo ngài, cần phải can đảm để theo đuổi hòa bình, bởi vì “đôi khi bạn mất đi một thứ gì đó, nhưng bạn đạt được nhiều hơn thế”.
Tiếp tục nói về hy vọng, chủ đề chính của Năm Thánh, Đức Thánh Cha gọi hy vọng là “mỏ neo” để bám vào như ngài đã nhấn mạnh trong Thánh lễ mở Cửa Thánh ở nhà tù Rebibbia, đồng thời kêu gọi: “Đừng quên tù nhân; nhiều người bên ngoài còn có tội hơn họ”.
Kết thúc cuộc phỏng vấn, Đức Thánh Cha đưa ra một yêu cầu cho Năm Thánh: “Đừng để cơ hội này trôi qua. Hãy can đảm tiến về phía trước. Và đừng bao giờ đánh mất ý nghĩa hài hước”.
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-hoan-vu/dtc-phanxico-mot-nu-tu-se-la-chu-tich-phu-thong-doc-thanh-vatican-42445.html
52. Đức Thánh Cha: Làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa nhập thể là ơn gọi đại kết của các Giáo hội.
Sáng thứ Hai ngày 20/1/2025, trong lời chào phái đoàn đại kết đến từ Phần Lan, nhắc đến Kinh Tin Kính Nixêa, nói về Thiên Chúa thật đã nhập thể làm người, Đức Thánh Cha nói: “Làm chứng cho tình yêu nhập thể này là ơn gọi đại kết của chúng ta, trong sự hiệp thông của tất cả những người đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội”.
Hồng Thủy - Vatican News
Phái đoàn đại kết từ Phần Lan được hướng dẫn bởi Tổng Giám mục Chính Thống giáo Elia Wallgrén của Helsinki và toàn Phần Lan, Đức Cha Raimo Goyarrola của Giáo phận Helsinki và Giám mục Tin Lành Luther Matti Salomäki. Như hàng năm, phái đoàn Đại kết Phần Lan hành hương Roma nhân dịp lễ Thánh Henry xứ Uppsala, một Giám mục Công giáo người Anh, được Công giáo tôn kính là một vị thánh và được các Giáo hội khác xem như nhà loan báo Tin Mừng của Phần Lan.
Đừng bao giờ ngừng cầu nguyện cho món quà hòa bình
Trong bối cảnh Năm Thánh Hy vọng 2025, Đức Thánh Cha nhận định rằng Thánh Henry là biểu tượng của niềm hy vọng tìm thấy nền tảng chắc chắn và vững chắc nơi Thiên Chúa. Ngài nói thêm: “Là sứ giả của hòa bình, Thánh Henry thúc giục chúng ta đừng bao giờ ngừng cầu nguyện cho món quà quý giá nhưng cũng mong manh là hòa bình. Đồng thời, vị thánh bảo trợ của Phần Lan là biểu tượng cho sự hiệp nhất mà Thiên Chúa ban tặng, vì ngày lễ của ngài tiếp tục hiệp nhất các Kitô hữu thuộc nhiều Giáo hội và cộng đồng tôn giáo khác nhau để cùng nhau ca ngợi Chúa”.
Đại kết bằng lời ngợi khen Thiên Chúa Ba Ngôi
Tham gia cuộc hành hương Roma của phái đoàn đại kết Phần Lan còn có các ca đoàn. Đức Thánh Cha nói rằng “tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi bằng âm nhạc là một dấu hiệu tuyệt đẹp của đại kết bằng lời ngợi khen”. Ngài nói tiếp: “Quay lại chủ đề âm nhạc, chúng ta có thể nói rằng Kinh Tin Kính Nixêa, mà tất cả chúng ta cùng chia sẻ, là một ‘bản nhạc’ đức tin đặc biệt. Và ‘bản giao hưởng chân lý’ này chính là Chúa Giêsu Kitô. Người là chân lý đã trở nên xác phàm: là Thiên Chúa thật và là người thật, là Chúa và là Đấng Cứu Thế của chúng ta. Bất cứ ai lắng nghe ‘bản giao hưởng chân lý’ này – không chỉ bằng đôi tai, mà còn bằng trái tim – sẽ được chạm đến bởi mầu nhiệm Thiên Chúa đang vươn tới chúng ta, đầy tình yêu thương, nơi Con của Người. Và trên nền tảng tình yêu trung thành này là niềm hy vọng không bao giờ thất vọng!”.
Làm chứng cho tình yêu nhập thể là ơn gọi đại kết
Đức Thánh Cha kết thúc bài diễn văn với lời nhắc nhở rằng làm chứng cho tình yêu nhập thể là ơn gọi đại kết của chúng ta, trong sự hiệp thông của tất cả những người đã chịu phép rửa tội. Và ngài mời gọi họ bày tỏ ơn gọi này bằng lòng tin tưởng của người con bằng cách cùng nhau đọc kinh Lạy Cha, mỗi người bằng ngôn ngữ của mình.
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-hoan-vu/duc-thanh-cha-lam-chung-cho-tinh-yeu-thien-chua-nhap-the-la-on-goi-dai-ket-cua-cac-giao-hoi-42446.html
53. Đức Thánh Cha: Việc phục vụ Chúa nơi người nghèo canh tân Giáo hội.
Nhân kỷ niệm 400 năm thành lập Dòng Truyền giáo Thánh Vinh Sơn Phaolô, Đức Thánh Cha đã gửi thư cho Cha Tomaž Mavrič, Bề trên Tổng quyền của dòng, trong đó ngài nhấn mạnh cách “phục vụ Chúa Kitô nơi người nghèo” mang lại sự đổi mới trong Giáo hội ngày nay.
Vatican News
Dòng Truyền giáo Thánh Vinh Sơn Phaolô được thành lập ngày 17/4/1625. Trong 400 năm, những người thuộc mọi nền văn hóa và xuất thân đã noi theo cách sống của Thánh Vinh Sơn, từ Thánh Phanxicô Regis và Thánh Giustino Jacobis đến Thánh Catherine Labouré và Thánh Elizabeth Ann Seton.
Phục vụ Chúa Kitô nơi người nghèo giúp canh tân Giáo hội
Trong thư, Đức Thánh Cha viết: “Tôi hy vọng rằng lễ kỷ niệm 400 năm thành lập sẽ làm nổi bật tầm quan trọng của tầm nhìn của Thánh Vinh Sơn về việc phục vụ Chúa Kitô nơi người nghèo để canh tân Giáo hội trong thời đại chúng ta”. Sự phục vụ này, theo ngài, có thể mang hình thức “môn đệ truyền giáo và hỗ trợ những người túng thiếu và bị bỏ rơi ở nhiều vùng ngoại vi của thế giới”.
Ngài bày tỏ hy vọng rằng tấm gương của đấng sáng lập dòng sẽ “đặc biệt truyền cảm hứng cho những người trẻ tuổi, những người, với lòng nhiệt thành, lòng quảng đại và mối quan tâm xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn, được kêu gọi trở thành những chứng nhân táo bạo và can đảm của Phúc Âm giữa những người đồng trang lứa và bất cứ nơi nào họ đến”.
Sự đa dạng của Gia đình Thánh Vinh Sơn
Ngày nay, Gia đình Thánh Vinh Sơn bao gồm hơn 100 nhánh linh mục, nam tu, nữ tu và giáo dân. Bất kể họ thuộc nhánh nào, sứ mệnh của họ vẫn như vậy: tham gia và tổ chức các công việc bác ái và hỗ trợ trong việc hướng dẫn và đào tạo thiêng liêng cho giáo sĩ và giáo dân. Ví dụ như Hội Thánh Vinh Sơn Phaolô, được thành lập vào năm 1833 bởi Chân phước Frederic Ozanam. Trong thư, Đức Thánh Cha gọi tổ chức này là “một lực lượng phi thường vì mục đích tốt đẹp trong việc phục vụ người nghèo, với hàng trăm ngàn thành viên trên toàn thế giới”.
Đức Thánh Cha cũng lưu ý đến hai tổ chức khác cũng theo lối sống của gia đình Vinh Sơn: “Hội Bác ái”, hiện được gọi là Hiệp hội Bác ái Quốc tế hoặc các Tình nguyện viên Vinh Sơn và “Nữ tử Bác ái”. Ngài nói rằng dòng “Nữ tử Bác ái” là “một hình thức cộng đoàn phụ nữ mang tính cách mạng” vì Thánh Vinh Sơn khuyến khích những người phụ nữ đi ra ngoài và chăm sóc người nghèo và người bệnh.
Học theo cách sống của Thánh Vinh Sơn
Cuối thư, khi ban phép lành và bảo đảm cầu nguyện cho họ, Đức Thánh Cha bày tỏ mong muốn rằng họ có thể được truyền cảm hứng từ đấng sáng lập và tiếp tục sống và làm việc theo sứ mạng mà Thánh Vinh Sơn đã trao cho các thành viên đầu tiên của Hội Dòng, là can đảm hiến mình với tình yêu mới để phục vụ người nghèo, tìm kiếm những người khốn khổ và bị bỏ rơi nhất.
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-hoan-vu/duc-thanh-cha-viec-phuc-vu-chua-noi-nguoi-ngheo-canh-tan-giao-hoi-42450.html
54. Những lời các Giáo hoàng kêu gọi ân xá cho tù nhân trong Năm Thánh.
Trong lịch sử Giáo hội, nhiều Giáo hoàng đã đưa ra lời kêu gọi các chính phủ trên toàn thế giới trả tự do cho các tù nhân hoặc giảm án tù cho họ trong Năm Thánh, bởi vì Năm Thánh là thời gian để đọc công lý dưới ánh sáng của Phúc Âm.
Vatican News
Trong Sắc lệnh công bố Năm Thánh 2025, Đức Thánh Cha Phanxicô đề xuất rằng “các chính phủ thực hiện các sáng kiến nhằm khôi phục hy vọng; các hình thức ân xá hoặc tha thứ nhằm giúp các cá nhân lấy lại niềm tin vào bản thân và xã hội; và các chương trình tái hòa nhập vào cộng đồng, bao gồm dấn thân cụ thể về việc tôn trọng luật pháp”.
Trong lịch sử Giáo hội, nhiều Giáo hoàng đã đưa ra lời kêu gọi các chính phủ trên toàn thế giới trả tự do cho các tù nhân hoặc giảm án tù cho họ trong Năm Thánh, bởi vì Năm Thánh là thời gian để đọc công lý dưới ánh sáng của Phúc Âm. Bộ Giáo luật nói rằng Năm Thánh là cơ hội lãnh nhận ân xá, “sự tháo giải trước mặt Chúa các hình phạt thế tạm vì các tội lỗi đã được xóa bỏ. Người tín hữu dọn mình xứng đáng và thi hành ít nhiều điều kiện đã chỉ định thì được hưởng ơn tha thứ ấy nhờ sự trung gian của Giáo Hội” (GL số 992).
Thuật ngữ “ân xá” – “indulgenza” trong tiếng Ý, có cùng gốc với một từ khác liên quan đến Năm Thánh. Thuật ngữ “indulto” bắt nguồn từ tiếng Latin “indultum”, có nghĩa là sự khoan nhượng hoặc đặc quyền được ban, nhờ ân sủng hoặc lòng nhân từ, bởi một thẩm quyền cấp cao hơn. Trong luật hình sự, thuật ngữ này định nghĩa biện pháp khoan hồng dẫn đến việc xóa bỏ bản án đã áp dụng cho người bị kết án. Ân xá và khoan dung giải thoát con người khỏi xiềng xích, khỏi hậu quả của tội lỗi hoặc mặc cảm, để mang đến cho con người một khởi đầu mới, một cơ hội cứu chuộc và một cuộc sống mới.
Sự quan tâm của Giáo hội đối với tù nhân
Sự quan tâm của Giáo hội đối với những anh chị em tù nhân được thể hiện qua các việc bác ái đáp lại lời giáo huấn cổ xưa: “Hãy thăm viếng những người bị giam cầm”. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đồng nhất mình với tù nhân: “Ta ngồi tù, các ngươi đã thăm viếng Ta”. Trong bối cảnh Năm Thánh, sự quan tâm liên tục này cũng được thể hiện qua lời kêu gọi chân thành của các Đức Giáo hoàng. Khi nói về huấn quyền của các Giáo hoàng trong lịch sử gần đây của Giáo hội, trước tiên chúng ta phải nhắc đến sắc chỉ “Spes non confundit” (Hy vọng không làm thất vọng). Đức Thánh Cha Phanxicô yêu cầu các chính phủ ân xá cho các tù nhân trong Năm Thánh Hy vọng này. Ngài viết: “Tôi nghĩ đến những tù nhân bị tước mất tự do, hàng ngày phải chịu đựng, ngoài sự khắc nghiệt của sự giam cầm, còn là sự trống rỗng về mặt cảm xúc, những hạn chế được áp đặt và trong nhiều trường hợp là sự thiếu tôn trọng. Tôi đề xuất với các chính phủ rằng trong Năm Thánh, họ hãy thực hiện các sáng kiến khôi phục lại hy vọng”.
Hơi thở của hy vọng
Chúng ta có thể được Thiên Chúa luôn luôn tha thứ. Trong các trang Phúc Âm, hình ảnh người trộm lành trên thập giá ăn năn tội lỗi được nêu bật cách đặc biệt. Ông là vị thánh duy nhất được Chúa Giêsu trực tiếp phong thánh. “Hôm nay, anh sẽ ở trên Thiên đàng với Ta,” Chúa Kitô thực sự đã nói với ông trên Thập giá. Khi cầu xin cho con người và trên hết là những người bị tước mất tự do, hơi thở hy vọng, Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc lại rằng lời kêu gọi hành động khoan dung “là lời kêu gọi cổ xưa, xuất phát từ Lời Chúa”. Những vị tiền nhiệm của ngài, đặc biệt vào dịp Năm Thánh, cũng kêu gọi các hình thức miễn giảm án cho các tù nhân.
Đức Piô XII và Năm Thánh 1950
Năm Thánh 1950, như Đức Giáo hoàng Piô XII đã nhấn mạnh trong thông điệp phát thanh nhân dịp Giáng sinh năm 1949, là “năm tha thứ vĩ đại”. Ngài phát biểu trước nhiều thế hệ bị ảnh hưởng bởi thảm kịch chiến tranh. “Những khuôn mặt đau buồn của trẻ mồ côi, các góa phụ, những bà mẹ đang chờ đợi sự trở về mà có lẽ sẽ không bao giờ đến, những người bị bách hại vì công lý và tôn giáo, những tù nhân, người tị nạn, những người bị lưu đày cưỡng bức, những tù nhân, những người thất nghiệp, những người bị áp bức, những người đau khổ về tinh thần và thể xác, những nạn nhân của mọi bất công, đi qua trước mắt chúng ta như thể trong một cuộc duyệt binh buồn thảm”. Hy vọng của Đức Giáo hoàng là mọi chuyện trong quá khứ sẽ được chôn vùi “bằng sự ăn năn chân thành”. Ngài nói: “Bất cứ ai muốn trở thành một Kitô hữu chân thành thì phải biết cách tha thứ”.
Ân xá và khoan dung trong thời gian Năm Thánh 1950
Chiến tranh thế giới thứ hai đã gây ra những vết thương sâu sắc cho cấu trúc xã hội của nhiều quốc gia. Ở một số quốc gia, sau cuộc xung đột đó, các biện pháp khoan hồng đã được áp dụng. Ví dụ, ở Ý, ngay trước khi bắt đầu Năm Thánh 1950, lệnh ân xá và tha thứ đã được ban hành. Những bản án tù dưới năm năm đã hoặc sắp được áp dụng sẽ được ân xá hai năm.
Năm 1975, Đức Phaolô VI kêu gọi các hành động khoan hồng
Năm Thánh 1975 tập trung vào sự hòa giải. Trong sắc chỉ Năm Thánh “Apostolorum Limina”, Thánh Giáo hoàng Phaolô VI yêu cầu rằng, theo truyền thống của các Năm Thánh trước, “các cơ quan có thẩm quyền của các quốc gia khác nhau xem xét khả năng, theo các đề xuất từ sự khôn ngoan của họ, tha thứ theo tinh thần của lòng khoan dung và công bằng, đặc biệt là đối với những tù nhân đã đưa ra bằng chứng đầy đủ về sự phục hồi đạo đức và dân sự, hoặc là nạn nhân của tình trạng rối loạn chính trị và xã hội quá lớn khiến họ không thể chịu hoàn toàn trách nhiệm về những tình trạng đó”. Ngài cũng bày tỏ lòng biết ơn “đối với tất cả những ai sẽ làm việc để đảm bảo rằng thông điệp về lòng bác ái, tính xã hội và tự do mà Giáo hội gửi đến tất cả mọi người, với hy vọng sống động là được hiểu và lắng nghe, được chào đón và được biến thành một trật tự chính trị và xã hội”.
Năm 1983, Đức Gioan Phaolô II ân xá cho Ali Agca
Một vài năm sau lời kêu gọi của Đức Phaolô VI, Giáo hội đang trải qua một Năm Thánh khác. Năm Thánh Cứu Độ khai mạc vào năm 1983, kỷ niệm 1950 năm Chúa Giêsu chịu chết và sống lại. Năm Thánh này cũng là bối cảnh của một cuộc gặp gỡ đặc biệt: giữa một Giáo hoàng và người đã cố sát hại ngài. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nhắc lại sự kiện này trong bài phát biểu vào ngày 27/12/1983 trước các tù nhân của nhà tù Rebibbia ở Roma: “Tôi cũng đã có thể gặp một người mà tất cả các bạn đều biết, tên là Ali Agca, người mà vào ngày 13/5/1981 đã cố gắng ám sát tôi, nhưng Thiên Chúa đã điều khiển mọi việc theo cách riêng của Người, tôi có thể nói là đặc biệt, thậm chí là kỳ diệu. Hôm nay, sau hơn hai năm, tôi đã có thể gặp kẻ tấn công mình và tôi cũng có thể lặp lại lời tha thứ mà tôi đã bày tỏ ngay sau vụ tấn công và sau đó tôi cũng tuyên bố công khai, khi có thể, từ bệnh viện. Tôi nghĩ rằng cuộc gặp gỡ hôm nay, trong bối cảnh, trong khuôn khổ Năm Thánh Cứu Độ, là một sự quan phòng”. Đức Gioan Phaolô II đã giải thích vào dịp đó rằng: “Mọi biến cố trong cuộc đời chúng ta phải khẳng định tình huynh đệ xuất phát từ thực tế rằng Thiên Chúa là Cha chúng ta và tất cả chúng ta đều là con cái của Người trong Chúa Giêsu Kitô”.
Năm 2000, Đức Gioan Phaolô II yêu cầu giảm án
Đại Năm Thánh mở đầu thiên niên kỷ thứ ba phù hợp với truyền thống của những năm Năm Thánh trước đó. Trong thông điệp nhân Năm Thánh các Nhà tù, Đức Gioan Phaolô II nhấn mạnh rằng “các quốc gia và chính phủ đang trong quá trình hoặc có ý định tiến hành sửa đổi hệ thống nhà tù của họ để thích ứng tốt hơn với nhu cầu của con người” rất đáng được khuyến khích. Ngài phát biểu trước các nhà lãnh đạo của các quốc gia để kêu gọi một dấu hiệu khoan hồng vì lợi ích của tất cả các tù nhân: “việc giảm nhẹ bản án, thậm chí là một thời gian ngắn, đối với các tù nhân, sẽ là một dấu hiệu rõ ràng về sự nhạy cảm đối với tình trạng của họ; điều này sẽ khơi dậy được tiếng vang tích cực trong tâm hồn họ, khuyến khích họ ăn năn về điều ác đã làm và thúc giục họ ăn năn sám hối”.
Ân xá năm 2006 ở Ý
Yêu cầu giảm án, được Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đưa ra trong Năm Thánh 2000 và được nhắc lại vào năm 2002 với các nghị sĩ và dân biểu trong chuyến thăm Quốc hội Ý, đã nhận được phản hồi cụ thể từ các chính trị gia vài năm sau đó. Trên thực tế, vào ngày 29/7/2006, luật ân xá cho những tội phạm được thực hiện cho đến ngày 2/5 năm đó đã được thông qua tại Ý với đa số phiếu của nhiều đảng phái, đối với các bản án không quá ba năm tù và mức giảm tối đa là 10.000 euro cho những khoản tiền tệ. Không nằm trong chương trình giảm án là những tội ác gây ra báo động xã hội lớn nhất, chẳng hạn như các tổ chức đảo chính, bắt cóc và hành vi khủng bố.
Năm Thánh 2015, Đức Thánh Cha Phanxicô cầu xin lòng thương xót của Chúa Cha
Năm Thánh ngoại thường Lòng Thương Xót bắt đầu vào năm 2015. Trong lá thư ban ơn toàn xá nhân dịp Năm Thánh này, Đức Thánh Cha Phanxicô cũng nghĩ đến các tù nhân, “những người đang chịu sự hạn chế về tự do”. Ngài viết: “Năm Thánh luôn là cơ hội để thực hiện một cuộc đại xá, nhằm mục đích liên quan đến nhiều người, mặc dù đáng bị trừng phạt, nhưng vẫn nhận thức được sự bất công đã gây ra và chân thành mong muốn tái hòa nhập vào xã hội, mang theo đóng góp trung thực. Nguyện xin lòng thương xót của Chúa Cha, Đấng muốn gần gũi với những ai cần ơn tha thứ của Người nhất, được ban cho tất cả những người này một cách cụ thể”.
Vào ngày 6/11/2016, một số đông tù nhân từ nhiều nơi khác nhau của Ý và các quốc gia khác đã có mặt tại Đền thờ Thánh Phêrô để sống Năm Thánh của họ với Đức Thánh Cha Phanxicô. Ngài nhấn mạnh trong bài giảng rằng “việc tước đoạt tự do là hình phạt nặng nhất phải chịu vì nó chạm đến tận sâu thẳm bên trong con người. Nhưng hy vọng không thể mất đi”.
Năm 2016, các hành động ân xá và tha thứ
Năm 2016, chính quyền Cuba đã quyết định ân xá cho 787 tù nhân, bao gồm phụ nữ, trẻ vị thành niên và người bệnh, để đáp lại lời kêu gọi của Giáo hoàng nhân dịp Năm Thánh Lòng Thương Xót. Những người bị kết tội “giết người, bóc lột trẻ vị thành niên, hiếp dâm và buôn bán ma túy” không được ân xá.
Lời kêu gọi của Đức Thánh Cha Phanxicô dành cho các tù nhân, như một phần của Năm Thánh Lòng Thương Xót, cũng được hoan nghênh tại Paraguay. Thực tế, 22 tù nhân của “Ngôi nhà Mục tử nhân lành” đã được ân xá.
Cũng trong năm 2016, Tổng thống Mozambique Filipe Nyusi - như được nhắc đến trong nguyệt san “Mondo e Missione”, tạp chí hàng tháng của Hội Giáo hoàng Truyền giáo Hải ngoại - đã tuyên bố ân xá cho một ngàn tù nhân bị kết án vì những tội danh thông thường.
Mở các cánh cửa
Cũng nhân dịp Năm Thánh 2025, Đức Thánh Cha Phanxicô, trong sắc chỉ công bố Năm Thánh, đã yêu cầu rõ ràng “các hình thức ân xá hoặc miễn án nhằm giúp mọi người lấy lại niềm tin vào bản thân và xã hội; con đường tái hòa nhập cộng đồng tương ứng với cam kết cụ thể về việc tuân thủ luật pháp”. Lần đầu tiên, một Giáo hoàng mở Cửa Thánh bên trong một nhà tù. Trong bài giảng ngày 26/12/2024 tại nhà tù Rebibbia, ngài đã tuyên bố: “Hôm nay, tôi muốn mở rộng Cánh cửa tại đây. Tôi mở Cửa đầu tiên ở Đền thờ Thánh Phêrô, Cửa thứ hai là của anh chị em. Thật là một cử chỉ đẹp khi mở toang cánh cửa. Nhưng quan trọng hơn là ý nghĩa của nó: đó là mở rộng trái tim. Trái tim mở rộng. Và đây chính là ý nghĩa của tình huynh đệ”.
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-hoan-vu/nhung-loi-cac-giao-hoang-keu-goi-an-xa-cho-tu-nhan-trong-nam-thanh-42451.html
55. Đức Thánh Cha: Con cái không bao giờ phải là “con tin” giữa cha mẹ ly thân.
Trong số mới của tạp chí “Quảng trường Thánh Phêrô”, Đức Thánh Cha trả lời thư của một người cha kể với ngài về kinh nghiệm khó khăn của việc chia tay vợ, trong đó ngài khuyến khích việc tôn trọng lẫn nhau và công bình với lòng thương xót. Đặc biệt, ngài lưu ý rằng con cái không bao giờ phải là “con tin” của cha hay mẹ, nhưng chúng phải được yêu thương và bảo vệ.
Vatican News
Câu chuyện của ông Giorgio
Trong thư gửi Đức Thánh Cha, ông Giorgio tâm sự với ngài rằng ông đã ly thân với vợ sau 5 năm chung sống theo yêu cầu của vợ ông, “người đã có người đàn ông khác”. Họ có chung một con gái. Nhiều năm sau, người phụ nữ này yêu cầu thẩm phán cấp hộ chiếu cho đứa con “để chuyển đến Athens với người bạn đời mới của bà, người gốc Hy Lạp”, nhưng thẩm phán đã từ chối. Một tháng sau, ông Giorgio bị bắt vì cảnh sát tìm thấy ma túy trong xe của ông khi con gái cũng đang ở trên xe. Ông kể: “Trong tù, con đã cầu nguyện rất lâu với Cha Piô Pietrelcina”. Sau 8 ngày, thẩm phán và cảnh sát đã phát hiện ra sự thật và ông được trả tự do. Bà mẹ vợ cũ của ông và hai đồng phạm khác đã bị kết án.
Ông Giorgio tâm sự với Đức Thánh Cha rằng ông đã biến “điều ác mà ông nhận được thành điều tốt cho người khác” và ông đã đánh bại “lòng căm thù và sự trả thù” trong chính mình. Ông đã phản ứng bằng cách mời gọi nhiều người trong cùng hoàn cảnh của ông tham gia để đạt được những cải cách luật gia đình đảm bảo quyền của con cái của cha mẹ ly thân để chúng được yêu thương bởi cha mẹ và ông bà của mình. Ông yêu cầu Đức Thánh Cha chia sẻ “việc bảo vệ quyền bất khả xâm phạm này của trẻ em, quyền này phải luôn được bảo vệ” và nhấn mạnh rằng “chúng ta phải chấm dứt bạo lực sử dụng và bóc lột trẻ em bằng các cuộc tranh cãi, tống tiền và lạm dụng có thể dẫn đến những bi kịch gia đình rất nghiêm trọng với các vụ giết người và tự tử”.
Đặt trái tim vào các tương quan
Trả lời thư của ông Giorgio, Đức Thánh Cha nói rằng điều quan trọng trong mọi tương quan là chúng ta cần đặt trái tim mình vào đó, nghĩa là yêu quý chúng. Ngài nói: “Chỉ khi bắt đầu từ trái tim, gia đình chúng ta mới có thể thống nhất các trí tuệ và ý chí khác nhau và giúp chúng hòa hợp với nhau để Chúa Thánh Thần có thể hướng dẫn chúng ta như một mạng lưới các anh chị em, bởi vì hòa hợp cũng là nhiệm vụ của trái tim”. Ngài nói thêm rằng “phép lạ xã hội” này chỉ có thể xảy ra nếu trái tim chúng ta “kết hợp với trái tim Chúa Kitô” và chỉ bằng cách này “mới có thể ngăn chặn và phòng ngừa bạo lực trong gia đình”.
Chứng tá hòa bình
Đức Thánh Cha khen ngợi chứng tá hòa bình của ông Giorgio trong thế giới đang bị chiến tranh và hận thù thiêu đốt, khủng hoảng hy vọng. Ngài cũng hy vọng, như những gì ông Giorgio đề xuất, “rằng ngày càng có nhiều luật lệ đầy đủ hơn để cho phép con cái của cha mẹ ly thân được gặp gỡ và phát triển về mặt tình cảm và tình yêu thương với tất cả các thành viên trong gia đình”.
Đồng hành cùng các gia đình bị tổn thương
Cuối cùng, Đức Thánh Cha khuyến nghị các cộng đồng Kitô giáo “đồng hành cùng các gia đình bị tổn thương để trẻ em không bao giờ trở thành con tin của cha mẹ chúng”. Ngài kêu gọi đừng bao giờ biến trẻ em thành con tin “của cha hoặc mẹ chúng, nhưng là những đứa trẻ cần được yêu thương và bảo vệ”. Ngài cũng nhắc nhở cần cẩn thận ngay cả “trong việc tặng quà cho con cái chúng ta”, bởi vì “quà tặng có thể là sự tống tiền thực sự” để kéo con cái ra khỏi “tình cảm của cha hoặc mẹ”.
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-hoan-vu/duc-thanh-cha-con-cai-khong-bao-gio-phai-la-con-tin-giua-cha-me-ly-than-42453.html
56. Tổng giáo phận Seoul đạt tới con số 1.000 linh mục.
Sau Thánh lễ truyền chức linh mục tại nhà thờ chính tòa Myeongdong vào ngày 7/2/2025, tổng giáo phận Seoul sẽ đạt tới cột mốc 1.000 linh mục của giáo phận.
Hồng Thủy - Vatican News
Trong lễ truyền chức linh mục được cử hành vào tháng 2/2025, tổng giáo phận Seoul sẽ có 26 phó tế được thụ phong linh mục, trong đó có một phó tế thuộc chủng viện Mẹ Đấng Cứu Chuộc.
Trước lễ truyền chức linh mục, vào chiều ngày 6/2/2025, 17 chủng sinh của tổng giáo phận và một của Dòng Capuchinô sẽ được lãnh nhận chức phó tế.
Công giáo Hàn Quốc
Công giáo được du nhập vào Hàn Quốc thông qua các sách Công giáo được dịch và viết bằng chữ Hán. Một số học giả Hàn Quốc nghiên cứu các sách này đã đến với đức tin. Lee Seung-hun, một trong những học giả, đã được rửa tội tại Bắc Kinh, Trung Quốc, vào năm 1784. Sau đó ông trở về Hàn Quốc và rửa tội cho một số người. Cộng đoàn Công giáo đầu tiên ở Hàn Quốc hình thành nhưng đến năm 1785 thì bị chính quyền bách hại. Qua các đau thương bách hại, các tín hữu vẫn giữ vững đức tin và tiếp tục truyền bá Phúc Âm. Lịch sử Công giáo Hàn Quốc sau đó tiếp tục trải qua nhiều cuộc bách hại khốc liệt nhưng vẫn phát triển nhờ sự kiên cường trong đức tin của các tín hữu.
Tổng giáo phận Seoul được chính thức thành lập vào năm 1962. Theo trang web của tổng giáo phận Seoul, hiện nay tổng giáo phận có một Hồng y hưu trí, một Tổng Giám mục, 3 Giám mục phụ tá và 974 giáo sĩ phụ trách 233 giáo xứ với tổng số 1.583.170 giáo dân.
Thánh lễ truyền chức linh mục sẽ được truyền hình trực tiếp trên Đài phát thanh Công giáo Hòa bình của Hội đồng Giám mục Hàn Quốc, để các tín hữu trên khắp quốc gia chứng kiến cột mốc lịch sử này tại Tổng giáo phận Seoul.
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-hoan-vu/tong-giao-phan-seoul-dat-toi-con-so-1000-linh-muc-42454.html
57. HĐGM Sudan và Nam Sudan kêu gọi không trả thù sau vụ giết người tàn bạo.
Cuộc tấn công tàn bạo gần đây ở Sudan nhằm vào những người tị nạn Nam Sudan đã dấy lên làn sóng bạo lực trả thù chống lại người Sudan ở Nam Sudan. Đức Hồng Y Ameyu Martin Mulla, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Công giáo Sudan và Nam Sudan kêu gọi các Kitô hữu và toàn xã hội tránh trả thù và đón nhận sự tha thứ, tình yêu thương và sự hiểu biết.
Vatican News
Trong một tuyên bố, Đức Hồng Y lên án vụ giết người bạo lực khiến 16 người Nam Sudan chết và lưu ý vụ giết người tàn bạo nhằm vào những công dân Nam Sudan vô tội là “hành động tàn ác bắt nguồn từ lòng căm thù và sự đàn áp”.
Tổng Giám Mục của Juba cho rằng đàng sau các hành động bạo lực chống người Nam Sudan là các chế độ và hệ thống đàn áp coi thường nhân phẩm do sắc tộc, tín ngưỡng hoặc khuynh hướng chính trị của họ.
Đưa ra lời kêu gọi dựa trên các nguyên tắc của tình thương, tha thứ và hiểu biết mà Chúa đã dạy, ngài nói: “Trước những hành động tàn bạo này, chúng tôi kêu gọi người dân Nam Sudan thân yêu kiềm chế và có lòng trắc ẩn. Trong khi nỗi đau và sự tức giận xuất phát từ những sự kiện này là điều dễ hiểu, chúng tôi xin các bạn kiềm chế sự trả thù những người tị nạn Sudan đang ở đất nước chúng ta”.
Ngài nói thêm: “Nhiều người trong số những cá nhân này đang chạy trốn khỏi chính quyền chuyên chế đã gây ra bạo lực chống chúng ta. Họ cũng là nạn nhân của một hệ thống tàn bạo không có lòng thương xót”.
Lo ngại về sự trả thù, vì sẽ làm gia tăng xung đột và hận thù, ngài giải thích: “Trả thù chỉ gây ra nhiều bạo lực và đau khổ hơn, làm sâu sắc thêm hận thù ràng buộc chúng ta. Trái lại, chúng ta hãy dang rộng vòng tay liên đới với những người đã tìm nơi trú ẩn giữa chúng ta, nhìn nhận hoàn cảnh của họ là một phần trong trải nghiệm chung của nhân loại”.
Bày tỏ lòng biết ơn đối với tinh thần hiệp nhất trong cộng đồng Nam Sudan và đảm bảo cầu nguyện cho các gia đình bị ảnh hưởng trong lúc họ đau buồn vì người thân yêu của mình, Đức Hồng Y Mulla cũng kêu gọi mọi người tham gia đối thoại, thúc đẩy sự đồng cảm và xây dựng cầu nối hiểu biết, và lưu ý thông qua những hành động này, “chúng ta tôn vinh ký ức về những người đã mất và đóng góp vào tương lai nơi hòa bình, công lý và hòa giải chiếm ưu thế”.
Thay mặt Hội đồng Giám mục Sudan và Nam Sudan, Đức Hồng Y gửi lời chia buồn và cầu nguyện đến gia đình các nạn nhân, và liên đới với những người đang đau buồn vì thảm kịch không thể chịu đựng được này. Ngài viết: “Chúng tôi tự hào về tinh thần đoàn kết và khả năng phục hồi đặc trưng của cộng đồng Nam Sudan. Cùng nhau, chúng ta phải nỗ lực hướng tới việc chữa lành và tái thiết, thúc đẩy một môi trường nơi mọi người đều có thể cảm thấy an toàn và được coi trọng, bất kể nguồn gốc của họ”.
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-hoan-vu/hdgm-sudan-va-nam-sudan-keu-goi-khong-tra-thu-sau-vu-giet-nguoi-tan-bao-42455.html
58. Đức Thánh Cha tiếp các thành viên của Mạng lưới cầu nguyện toàn cầu của Đức Giáo Hoàng.
Sáng thứ Năm ngày 23/1/2025, gặp gỡ các thành viên của Mạng lưới cầu nguyện toàn cầu của Đức Giáo Hoàng, Đức Thánh Cha đề cao đóng góp quan trọng của họ cho Năm Thánh, đó là “giúp mọi người và cộng đồng sống tinh thần của Năm Thánh, như một hành trình mà việc cầu nguyện và lòng trắc ẩn, việc cầu nguyện và sự gần gũi với những người yếu thế nhất, việc cầu nguyện và làm việc bác ái được kết hợp không thể tách rời”.
Hồng Thủy - Vatican News
Trong lời chào những người tham dự cuộc tiếp kiến, trước hết Đức Thánh Cha chào vị tân giám đốc của Mạng lưới cầu nguyện toàn cầu của Đức Giáo Hoàng là Cha Cristóbal Fones, đồng thời cảm ơn Cha Fornos, nguyên giám đốc, đã phục vụ với lòng nhiệt thành tông đồ.
Sau đó, Đức Thánh Cha nhắc lại Thông điệp Dilexit nos về tình yêu của Thánh Tâm Chúa Kitô theo hai chiều kích nhân tính và thiên tính, tình yêu được gọi là “con đường của Trái tim”. Theo ngài, đây là một hành trình kép: đó là “cuộc hành trình của Chúa Giêsu, của Trái Tim thánh thiện của Người, qua mầu nhiệm nhập thể, khổ nạn, chịu chết và sống lại; và đó cũng là con đường của trái tim chúng ta, bị tổn thương vì tội lỗi, để cho chính nó được chinh phục và biến đổi bởi tình yêu”.
Đức Thánh Cha nói: “Trong hành trình của trái tim này, chúng ta được hướng dẫn, như thường lệ, bởi Mẹ Maria, người đi trước chúng ta trong cuộc hành hương của đức tin và hy vọng và dạy chúng ta giữ những lời nói và cử chỉ của Chúa Giêsu trong trái tim mình. Điều này – như anh chị em cũng biết – là công việc của Chúa Thánh Thần: không có hành trình nào của trái tim với Chúa Kitô nếu không có nước hằng sống của Chúa Thánh Thần”.
Đức Thánh Cha kết thúc với lời khích lệ họ hãy tiến bước và hợp tác vui vẻ với nhau. Sau đó ngài cũng chúc lành cho họ và mời họ hiệp nhất với ngài trong lời cầu nguyện cho nhau.
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-hoan-vu/duc-thanh-cha-tiep-cac-thanh-vien-cua-mang-luoi-cau-nguyen-toan-cau-cua-duc-giao-hoang-42463.html
59. Tổng trưởng Bộ Truyền thông: Giá trị lớn nhất của truyền thông là tương quan.
Nói về Năm Thánh của giới Truyền thông, diễn ra từ ngày 24 đến 26/1/2025, ông Paolo Ruffini, Tổng trưởng Bộ Truyền thông nhấn mạnh, Năm Thánh là cơ hội để chất vấn và bắt đầu tìm lại ý nghĩa sâu xa nhất trong ơn gọi của các nhà truyền thông.
Vatican News
Trong một cuộc trò chuyện với Vatican News, khi được hỏi về thực tế các nhà báo được kêu gọi trở thành người mang hy vọng và sự thật, ông Ruffini nhắc lại “không có tương quan thì không có hy vọng, người ta khép kín trong chính mình. Mối quan hệ là tin tưởng vào người khác và tin rằng chúng ta có thể bước vào một tương quan với người khác ngay cả khi họ có thể không nghĩ như chúng ta. Mối quan hệ cũng có thể bao gồm những điều rất khó khăn như sự tha thứ, nghĩa là bắt đầu lại. Như Đức Thánh Cha đã nói, đôi khi một mối quan hệ đổ vỡ, nhưng sau đó chúng ta có thể bắt đầu một lần nữa theo một cách khác. Mối quan hệ đó, xét cho cùng, được sinh ra từ sự tin tưởng lẫn nhau và hy vọng là tin tưởng và giao phó cho nhau rồi xây dựng nó. Theo nghĩa này, khái niệm truyền thông cũng không phải một chiều, nhưng dựa trên tình yêu, lòng tin, mối quan hệ”.
Về sự kiện kéo dài ba ngày dành riêng cho Năm Thánh truyền thông bao gồm nhiều điểm nhấn, ông Ruffini giải thích, những điều này được nảy sinh một cách tự phát, từ mong muốn tự vấn bản thân, và có lẽ bắt đầu tìm lại ý nghĩa ban đầu sâu xa nhất, nguồn gốc của ơn gọi của các nhà báo. Vì vậy, truyền thông, chọn truyền thông làm nghề nghiệp, về mọi mặt, đều là một ơn gọi. Trong các sự kiện, quan trọng nhất là buổi tiếp kiến Đức Thánh Cha và cuộc hành hương cùng qua Cửa Thánh và suy ngẫm về nơi chúng ta đang ở và nơi chúng ta muốn đến, từ đó tìm ra nguồn gốc hy vọng của chúng ta.
Về tính xác thực của những câu chuyện trong cuộc sống được truyền thông đưa tin, ông Ruffini nhấn mạnh, chính những người làm truyền thông là những câu chuyện. Trí thông minh con người là sự kết hợp giữa thông minh của trái tim và thông minh của lý trí. Nếu không có trái tim, chúng ta không thể thực sự hiểu được mọi thứ. Sau đó, nhấn mạnh về thời điểm của truyền thông, ông cho rằng với tốc độ chạy đua với thời gian hiện nay, để hiểu được mọi thứ, chúng ta cũng cần một chút chậm rãi, đôi lúc cũng cần dừng lại để tìm kiếm tâm hồn mình, để nắm bắt tâm hồn người khác nếu chúng ta muốn để trở thành những nhà báo giỏi.
Tổng trưởng Bộ Truyền thông còn nói thêm: “Nuôi dưỡng trí nhớ là có khả năng kết nối mọi thứ để đưa ra một góc nhìn tốt đẹp. Đó là nhiệm vụ của các nhà báo, nếu không, chúng ta sẽ sống xa cách, quên đi và không có nghĩa. Đây là một phần công việc của các nhà báo và đó là những gì chúng ta có lẽ đang mất đi trong sự vội vã của thời gian, mà dường như bị tiêu hao trong cùng một khoảnh khắc.
Ông Ruffini kết luận: “Chúng tôi không muốn làm gì hơn là chia sẻ cách diễn giải về thế giới. Đó là sự thật đã được tiết lộ cho chúng ta và chúng tôi muốn tìm kiếm sự thật trong lịch sử của chúng ta bằng tất cả sự nỗ lực”.
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-hoan-vu/tong-truong-bo-truyen-thong-gia-tri-lon-nhat-cua-truyen-thong-la-tuong-quan-42464.html
60. Bốn cử chỉ cổ võ sự hiệp nhất các Kitô hữu trong năm 2025.
Tuần lễ cầu nguyện cho sự hiệp nhất các Kitô hữu, bắt đầu vào ngày 18 và kết thúc vào ngày 25/01, lễ Thánh Phaolô Tông đồ trở lại. Năm nay, 2025, có chủ đề “Anh có tin điều này không?” (Ga 11,26).
Vatican News
Sự kiện đại kết đã được Giáo hội cử hành hàng năm trong 117 năm qua, tuần lễ hiệp nhất Kitô giáo khai mạc vào ngày 18/01 là cơ hội tốt đẹp để nhắc nhở các Kitô hữu, dù là Công giáo, Tin lành hay Chính thống giáo, rằng sự hiệp thông giữa tất cả những người đã được rửa tội là một đòi hỏi thiêng liêng vốn có trong đức tin. Cầu nguyện cho sự hiệp nhất các Kitô hữu là đáp lại yêu cầu đầu tiên của Chúa Kitô trong Kinh Lạy Cha: “Danh Cha cả sáng”. Một sự hiệp nhất cũng được trải nghiệm trong hành động, như được chứng minh qua những tiến bộ của phong trào đại kết đạt được trong năm 2024 và những mong muốn cho năm 2025!
Lễ chung đầu tiên của các vị tử đạo Copte
21 vị tử đạo Kitô giáo, trong đó có 20 người Copte bị IS sát hại vào năm 2015 ở Libya, được đưa vào danh sách các thánh tử đạo của Giáo hội Công giáo Latinh. Một sáng kiến lịch sử: nếu từ những thế kỷ đầu Giáo hội Công giáo và Giáo hội Copte đã có các vị thánh chung, thì 21 vị tử đạo này sẽ là những vị thánh đầu tiên được hai Giáo hội công nhận kể từ thế kỷ thứ năm bị gián đoạn.
Ngày 11/5/2023, trong buổi tiếp kiến Đức Thượng phụ Chính thống giáo Copte Tawadros II, Đức Thánh Cha đã thông báo rằng 21 vị tử đạo của Giáo hội Chính Thống Copte sẽ được đưa vào danh sách các thánh tử đạo của Giáo hội Công giáo Latinh như một dấu chỉ của sự hiệp thông thiêng liêng giữa hai Giáo hội Kitô giáo. Ngài nói: “Cầu mong lời cầu nguyện của các vị tử đạo Copte, hiệp nhất với lời cầu nguyện của Mẹ Thiên Chúa, tiếp tục giúp các Giáo hội chúng ta phát triển trong tình bạn, cho đến ngày hồng phúc khi chúng ta có thể cử hành trên cùng một bàn thờ và cùng nhau rước Mình và Máu Chúa Cứu Thế”.
Vì thế, ngày 15/02/2024, lần đầu tiên Giáo hội Công giáo và Giáo hội Copte có thể cùng nhau kính nhớ sự hy sinh của các vị tử đạo và cùng nhau làm chứng cho sự kết hợp của các vị tử đạo bằng máu. Ngày 15/02 là ngày kính nhớ các vị chịu tử đạo.
20 người Ai Cập, hầu hết đến từ thành phố Al-Nour, đã đến Libya, ở vùng Sirte, để làm việc hỗ trợ gia đình. Vào tháng 12/2014, họ đã bị các thành viên của Nhà nước Hồi giáo bắt cóc. Cùng với họ, một người Ghana, cũng đang làm việc tại Libya, bị bắt và gia nhập nhóm. Sau nhiều tuần bị giam giữ, 21 người đàn ông mặc quần áo màu cam, màu của những người bị kết án tử hình, bị những người đàn ông mặc đồ đen, giương cao lá cờ Nhà nước Hồi giáo đưa đến một bãi biển ở Sirte. Đối diện với việc từ chối chối bỏ đức tin của mình, họ đã bị chặt đầu vào ngày 15/02/2015. Thi thể của họ không được tìm thấy cho đến tháng 10/2017, vào cuối Trận chiến Sirte và sau khi khai quật một ngôi mộ tập thể.
Thượng Hội đồng về hiệp hành
Mười sáu đại diện của các Giáo hội Kitô đã tham gia Thượng hội đồng về Hiệp hành, phiên họp thứ hai được tổ chức tại Roma từ ngày 2 đến 27/10/2024. Các “đại biểu huynh đệ” này là dấu hiệu và là tác nhân của việc tìm kiếm sự hiệp nhất của các Giáo hội Kitô.
Nhân dịp này mục sư Anne-Cathy Graber thuộc Hội đồng Mennonite thế giới, quy tụ 1,45 triệu những người đã được rửa tội trên toàn thế giới, không giấu sự ngạc nhiên lớn, bày tỏ: “Giáo hội Công giáo không cần tiếng nói của chúng tôi, vốn là một số rất nhỏ. Nhưng việc chúng tôi được mời đến đây nói lên rất nhiều điều về tính hiệp hành, cho thấy rằng mọi tiếng nói đều có giá trị, mọi tiếng nói đều quan trọng”.
Tổng Giám Mục Chính thống Job Getcha của Pisidia, thuộc Tòa Thượng phụ Constantinople cũng bày tỏ tâm tình biết ơn tương tự. Vị đang cai quản giáo phận bao gồm miền nam Thổ Nhĩ Kỳ xung quanh thành phố Antalya, đã đảm bảo rằng Thượng hội đồng này là cơ hội để thực hiện Giáo hội học của Công đồng Vatican II. Theo Tổng Giám Mục, tiến trình hiệp hành mà Giáo hội Công giáo đã trải qua kể từ năm 2021 không phải là một “sự đổi mới” nhưng là một “thời gian học hỏi”, điều cũng nuôi dưỡng Chính thống giáo và truyền thống hiệp hành tốt đẹp của họ.
Cha Hyacinthe Destivelle, phụ trách khu vực phía đông của Bộ Cổ võ Hiệp nhất các Kitô hữu xác tín: “Con đường hiệp hành là con đường đại kết; và con đường đại kết chỉ có thể là con đường hiệp hành”.
Lễ Phục sinh chung
Theo sự giao nhau của lịch Giuliano và Gregoriano, năm nay, các Giáo hội Chính thống và Công giáo sẽ cử hành Lễ Phục sinh vào cùng một ngày, ngày 20/4/2025. Đối với người Công giáo cũng như Chính thống, Lễ Phục sinh là đỉnh cao của đời sống phụng vụ. Nhưng do cách tính khác nhau nên không phải lúc nào lễ này cũng được cử hành trong cùng một ngày. Tuy nhiên, việc tìm một ngày chung để cử hành sự phục sinh của Chúa Kitô vẫn là mong muốn của Đức Thánh Cha Phanxicô.
Kể từ khi bắt đầu triều Giáo hoàng, Đức Thánh Cha đã nhắc lại lời kêu gọi người Công giáo và Chính thống cử hành sự phục sinh của Chúa Kitô trong cùng một ngày. Một nhóm làm việc liên tôn, được gọi là “Pasqua Together 2025-Phục sinh cùng nhau 2025” , được thành lập vào năm 2022. Nhóm bao gồm đại diện các Giáo hội Kitô, các Hiệp hội và Phong trào giáo dân, với các lĩnh vực hoạt động khác nhau như chính trị, chuẩn bị cho Thiên niên kỷ thứ hai của Ơn Cứu Độ - vào năm 2033 - và các sáng kiến tương tự khác.
Vào ngày 19/9/2024, khi tiếp đón các thành viên của nhóm làm việc này, Đức Thánh Cha giải thích: sáng kiến về ngày lễ này là điều cần thiết cho sự đáng tin cậy của chứng tá Kitô giáo. Ngài nhấn mạnh: “Trong nhiều dịp, tôi đã nhận được lời kêu gọi tìm kiếm một giải pháp cho vấn đề thống nhất ngày lễ Phục sinh, để việc cử hành chung ngày Chúa sống lại không còn là một ngoại lệ, nhưng trở thành điều bình thường. Do đó, tôi khuyến khích những ai đang dấn thân vào cuộc hành trình này hãy kiên trì và nỗ lực hết sức để tìm kiếm sự hiệp thông có thể có, tránh mọi điều có thể dẫn đến sự chia rẽ sâu sắc hơn giữa anh em”.
Về việc này, Đức Thánh Cha cũng nhắc nhở: “Lễ Phục Sinh không diễn ra theo sáng kiến của chúng ta hay do lịch này hay lịch khác: biến cố Phục Sinh xảy ra vì Thiên Chúa ‘yêu mến thế gian đến mức ban Con Một, để ai tin vào Người thì sẽ không bị hư mất mà được sự sống đời đời’ (Ga 3,16)”. Do đó, “chúng ta đừng khép kín mình trong các kế hoạch, dự án, lịch trình, Lễ Phục Sinh ‘của chúng ta’. Lễ Phục sinh thuộc về Chúa Kitô!”.
Do đó, theo Đức Thánh Cha, chúng ta cần suy tư, chia sẻ và cùng nhau lên kế hoạch, đặt Chúa ở trước mặt chúng ta, biết ơn vì lời kêu gọi mà Người đã ngỏ với chúng ta và mong muốn trở thành, trong sự hiệp nhất, những chứng nhân của Người, để thế giới có thể tin (xem Ga 17,21).
Cử hành 1.700 năm Công đồng Nicea
Năm 2025 cũng đánh dấu kỷ niệm 1.700 năm Công đồng Đại kết đầu tiên, diễn ra tại Nicea vào năm 325, nay là thành phố Iznich, ở phía bắc Thổ Nhĩ Kỳ, cách thủ đô Istanbul khoảng hơn 100 km. Trong thời gian qua Giáo hội Công giáo và Chính thống đã có những bước chuẩn bị cho sự kiện lịch sử này. Một trong những điều đó là mong muốn cử hành lễ Phục sinh chung.
Vào tháng 6/2024, trong buổi tiếp kiến phái đoàn của Toà Thượng phụ Đại kết Constantinople, Đức Thánh Cha bày tỏ mong muốn đến Nicea để cử hành kỷ niệm quan trọng với Đức Thượng phụ Bartolomeo.
Ðức Thánh cha nói: “Tôi cầu mong rằng biến cố kỷ niệm rất quan trọng này làm gia tăng nơi tất cả các tín hữu Kitô ý chí cùng nhau làm chứng về đức tin và lòng khao khát một sự hiệp thông lớn hơn”.
Do đó, một cuộc họp đại kết quy mô lớn được tổ chức với Đức Thượng phụ Bartolomeo của Chính Thống Constantinople, có thể diễn ra vào tháng 5/2025 trên bờ Hồ Iznik - trước đây là Nicea -, ở Thổ Nhĩ Kỳ, với sự hiện diện của Đức Thánh Cha.
Tiếp theo, trong buổi tiếp kiến các tham dự viên của Khoá họp Toàn thể của Uỷ ban Thần học Quốc tế, ngày 28/11/2024, Đức Thánh Cha nói Năm Thánh sắp đến mời gọi mọi người tái khám phá khuôn mặt Chúa Kitô và “tái tập trung” vào Người. Năm Thánh này cũng là dịp cử hành 1.700 năm Công đồng Đại kết Nicea, một cột mốc lịch sử của Giáo hội và toàn thể nhân loại. Đức tin vào Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa nhập thể “vì loài người chúng ta và vì ơn cứu độ chúng ta”, đã được định nghĩa và tuyên xưng như ánh sáng chiếu soi ý nghĩa thực tại và vận mệnh của toàn bộ lịch sử.
Sau đó, Đức Thánh Cha nói với mọi người rằng ngài dự tính đến đó nhân kỷ niệm sự kiện quan trọng này.
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-hoan-vu/bon-cu-chi-co-vo-su-hiep-nhat-cac-kito-huu-trong-nam-2025-42466.html
61. Các nhà truyền thông Công giáo châu Phi hy vọng Năm Thánh giúp tái cơ cấu chiến lược truyền thông.
Các nhà truyền thông Công giáo của Đông Phi đang chuẩn bị tham dự sự kiện Năm Thánh đầu tiên - Năm Thánh của giới Truyền thông, từ ngày 24 đến 26/1/2025, với hy vọng khám phá các chiến lược truyền thông, đặc biệt những tiến bộ trong công nghệ kỹ thuật số.
Vatican News
Theo cha Andrew Kaufa, điều phối viên truyền thông xã hội của Hiệp hội các Hội đồng Giám mục Đông Phi (Amecea), trong bối cảnh công nghệ số thống lĩnh truyền thông, sau nhiều năm thực hiện sắc lệnh Inter Mirifica (1963) về phương tiện truyền thông xã hội, và hướng dẫn mục vụ Comunico et Progressio (1971), đã đến lúc cần phải xem xét lại các chiến lược được đề cập trong cuộc họp của các Giám mục Đông Phi tại Zambia vào năm 1973.
Năm Thánh 2025 với chủ đề “Những người hành hương của hy vọng” tạo cơ hội cho nhiều nhóm khác nhau trong Giáo hội tăng cường hành trình loan báo Tin Mừng. Điều này cũng đúng đối với Hiệp hội các Hội đồng Giám mục Đông Phi. Nói với Vatican News, cha Kaufa cho biết Năm Thánh mang đến cho Giáo hội ở Đông Phi cơ hội nâng cao nhận thức giữa các Giám mục và điều phối viên truyền thông quốc gia về các xu hướng mới và các tiếp cận mục vụ. Những người làm truyền thông Công giáo đảm bảo tham gia cùng mọi người trong việc phản ánh chủ đề Năm Thánh nhằm mang lại cho mọi người niềm hy vọng.
Cha Kaufa lưu ý, tám khu vực thuộc Hiệp hội các Hội đồng Giám mục Đông Phi không cùng lối nhìn khi nói về cơ cấu truyền thông và việc tích hợp truyền thông vào kế hoạch mục vụ, vì một số khu vực đầu tư nhiều hơn các khu vực khác.
Cha kết luận: “Năm Thánh này là một cơ hội khác cho tất cả các tham dự viên đến từ châu Phi, một lần nữa cùng nhau tìm hiểu những cách thức mới để thực hiện truyền thông Giáo hội, và tư vấn cho Hội nghị chuyên đề của các Hội đồng Giám mục Châu Phi và Madagascar (SECAM) thông qua Uỷ ban Giám mục Phi châu về Truyền thông (CEPAC). Điều này có thể đòi hỏi một cuộc họp khác ở châu Phi, sau cuộc họp được tổ chức ở Roma”.
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-hoan-vu/cac-nha-truyen-thong-cong-giao-chau-phi-hy-vong-nam-thanh-giup-tai-co-cau-chien-luoc-truyen-thong-42467.html
62. Đức Thánh Cha: Trí tuệ nhân tạo phải thăng tiến và không bao giờ xâm phạm nhân quyền.
Trong sứ điệp gửi đến chủ tịch Diễn đàn Kinh tế Thế giới diễn ta tại Davos, Thụy Sĩ, từ ngày 20-24/1/2025 với chủ đề “Cộng tác vì một Thời đại Trí tuệ”, Đức Thánh Cha kêu gọi sử dụng trí tuệ nhân tạo một cách có đạo đức và có trách nhiệm, trí tuệ nhân tạo phải giúp ích cho con người vì lợi ích của tất cả mọi người và không bao giờ vi phạm nhân phẩm vì mục đích hiệu quả.
Vatican News
Trước hết, Đức Thánh Cha nhắc lại truyền thống Kitô giáo xem trí tuệ như khía cạnh thiết yếu của con người được tạo dựng “theo hình ảnh Thiên Chúa. Đặc biệt, Giáo hội Công giáo luôn đóng vai chính và ủng hộ tiến bộ khoa học, kỹ thuật, nghệ thuật và các hình thức nỗ lực của con người và xem chúng như các lĩnh vực cộng tác của con người với Thiên Chúa để hoàn thành công trình sáng tạo”.
Những thách đố từ trí tuệ nhân tạo
Tiếp đến ngài nêu lên những câu hỏi và thách đố từ trí tuệ nhân tạo. Trong khi được đào tạo theo sự sáng tạo của con người, trí tuệ nhân tạo tạo nên những kết quả vượt khả năng của con người. Điều này tạo nên lo ngại về ảnh hưởng của nó đối với vai trò của con người trên thế giới.
Trí tuệ nhân tạo đưa ra những chọn lựa một cách tự chủ và cung cấp những câu trả lời mà người lập trình không nghĩ đến. Điều này đưa ra câu hỏi nền tảng về trách nhiệm đạo đức, sự an toàn của con người và áp dụng rộng rãi hơn của những tiến bộ này cho xã hội.
Trí tuệ nhân tạo hỗ trợ con người hoàn thành ơn gọi của họ, trong sự tự do và trách nhiệm
Khen ngợi rằng trí tuệ nhân tạo hỗ trợ con người hoàn thành ơn gọi của họ, trong sự tự do và trách nhiệm, Đức Thánh Cha cũng nhấn mạnh rằng trí tuệ nhân tạo phải hướng đến con người và trở thành một phần các nỗ lực để đạt được “công lý hơn, tình huynh đệ trải rộng hơn và trật tự nhân bản hơn trong các tương quan xã hội”.
Nguy hiểm khi sử dụng trí tuệ nhân tạo để thúc đẩy “mô hình kỹ trị”
Đức Thánh Cha cũng nêu lên nguy hiểm là trí tuệ nhân tạo sẽ được sử dụng để thúc đẩy “mô hình kỹ trị”; mô hình này coi mọi vấn đề của thế giới đều có thể giải quyết được chỉ bằng các phương tiện công nghệ. Ngài giải thích rằng “Trong mô hình này, phẩm giá và tình huynh đệ của con người thường bị hạ thấp trong quá trình theo đuổi hiệu quả, như thể thực tế, lòng tốt và sự thật phát xuất từ sức mạnh công nghệ và kinh tế. Ngài nhấn mạnh rằng các tiến bộ kỹ thuật mà không cải thiện cuộc sống của mọi người nhưng tạo nên hay làm cho các bất công và xung đột tệ hơn thì không thể được gọi là tiến bộ thật sự”.
Đảm bảo rằng trí tuệ nhân tạo hướng đến lợi ích của tất cả
Từ đó Đức Thánh Cha kêu gọi các chính phủ và doanh nghiệp hành động cách khôn ngoan và cảnh giác, phải đánh giá nghiêm túc các ứng dụng trí tuệ nhân tạo để quyết định xem việc sử dụng nó có thăng tiến nhân phẩm, ơn gọi của con người và công ích không. Điều này đòi có những phản ứng thích hợp ở mọi cấp độ xã hội; từng người sử dụng, các gia đình, xã hội dân sự, các hợp tác xã, tổ chức, chính phủ và tổ chức quốc tế phải làm việc ở cấp độ phù hợp của họ để đảm bảo rằng trí tuệ nhân tạo hướng đến lợi ích của tất cả”.
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-hoan-vu/duc-thanh-cha-tri-tue-nhan-tao-phai-thang-tien-va-khong-bao-gio-xam-pham-nhan-quyen-42474.html
63. Tuyên bố của Hội đồng Giám mục Thái Lan về chăm sóc mục vụ cho các đôi đồng tính.
Sau khi Thái Lan đưa ra Đạo luật Bình đẳng Hôn nhân, có hiệu lực vào ngày 22/1/2025, và từ ngày 23/1/2025 các đôi đồng tính sẽ có thể đăng ký kết hôn chính thức, các Giám mục nước này đã đưa ra tuyên bố mục vụ, trong đó tái khẳng định tính thánh thiêng của hôn nhân Kitô giáo, trong khi đồng hành cùng mọi người với lòng trắc ẩn và sự quan tâm.
Hồng Thủy - Vatican News
Tuyên bố được ký bởi Đức cha Joseph Chusak Sirisut, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Thái Lan, có viết: “Thông điệp mục vụ này truyền tải lập trường và cách tiếp cận của Giáo hội Công giáo trong việc chăm sóc các cặp đôi đồng tính đăng ký kết hôn theo luật định, nhằm đảm bảo các hoạt động mục vụ phù hợp”.
Giáo hội tôn trọng mọi người
Nhận thức được quan điểm xã hội đang thay đổi về khuynh hướng tính dục và căn tính tính dục, tuyên bố của các Giám mục Thái Lan nhấn mạnh lời kêu gọi của Giáo hội về sự tôn trọng và lòng trắc ẩn đối với tất cả các cá nhân. Trích dẫn tuyên bố Dignitas Infinita (55) về phẩm giá con người, các Giám mục nhấn mạnh rằng “mọi người, bất kể khuynh hướng tính dục của họ là gì, đều phải được đối xử một cách tôn trọng và có phẩm giá, đồng thời tránh mọi dấu hiệu phân biệt đối xử bất công, gây hấn hoặc bạo lực”.
Ảnh hưởng của lý thuyết về giống
Tuy nhiên, các Giám mục bày tỏ lo ngại về ảnh hưởng của lý thuyết về giống đối với các diễn văn hiện nay. Các ngài cảnh báo về “chủ nghĩa thực dân tư tưởng” và nhấn mạnh rằng bất kỳ nỗ lực nào nhằm định nghĩa lại giới tính mà không coi sự sống là món quà của Thiên Chúa đều có nguy cơ làm xói mòn những chân lý nền tảng về bản chất con người. Tuyên bố nhắc lại nền tảng Kinh Thánh của hôn nhân Kitô giáo là “sự kết hợp giữa một người nam và một người nữ, gắn bó với nhau suốt đời”.
Các nguyên tắc chăm sóc mục vụ cho các cặp đôi đồng tính,
Cam kết chăm sóc mục vụ cho các cặp đôi đồng tính, các Giám mục Thái Lan đã phác thảo các nguyên tắc sau: Đạo luật Bình đẳng Hôn nhân không thay đổi đạo lý của Giáo hội về hôn nhân như một bí tích dành riêng cho các cặp đôi khác giới tính.
Các chúc lành mục vụ cho các cặp đồng tính không nhằm xác nhận tình trạng dân sự của họ nhưng như là dấu hiệu của lòng thương xót của Thiên Chúa và là phương tiện để khuyến khích cuộc sống lấy Phúc Âm làm trung tâm.
Các mục tử phải đối xử với mọi cá nhân bằng tình yêu thương, phẩm giá và sự tôn trọng, nuôi dưỡng sự phát triển tâm linh của họ và hướng dẫn họ đến sự thánh thiện.
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-hoan-vu/tuyen-bo-cua-hoi-dong-giam-muc-thai-lan-ve-cham-soc-muc-vu-cho-cac-doi-dong-tinh-42475.html
64. Kinh Truyền Tin 26/1: Mở rộng tâm trí để nhận biết Chúa
Trưa Chúa Nhật 26/1, sau khi dâng Thánh Lễ tại đền thờ thánh Phêrô, Đức Thánh Cha đã đến cửa sổ Dinh Tông Toà để cùng đọc Kinh Truyền Tin với các tín hữu hiện diện tại quảng trường thánh Phêrô.
Vatican News
Bài huấn dụ ngắn của Đức Thánh Cha dựa trên đoạn Tin Mừng Chúa Nhật III thường niên
Anh chị em thân mến, chúc Chúa Nhật tốt lành!
Chúa Nhật hôm nay, Thánh sử Luca trình bày Chúa Giêsu cho chúng ta tại hội đường Nazareth, nơi Người lớn lên. Chúa Giêsu đọc đoạn sách của tiên tri Isaia loan báo sứ mạng loan báo Tin Mừng và giải phóng của Đấng Mêsia, rồi trong sự im lặng của cả hội đường, Người nói: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh này” (x. Lc 4:21).
Chúng ta hãy tưởng tượng sự ngạc nhiên và thất vọng của những người đồng hương của Chúa Giêsu, những người đã biết Người là con bác thợ mộc Giuse và không bao giờ tưởng tượng rằng Người có thể tự giới thiệu mình là Đấng Mêsia. Thật là khó tin. Nhưng thực tế đúng như vậy: Chúa Giêsu tuyên bố rằng, với sự hiện diện của Người, “năm hồng ân của Chúa” đã đến (câu 19). Đây là tin mừng cho mọi người và đặc biệt là cho người nghèo, cho tù nhân, cho người mù, cho người bị áp bức, như Tin Mừng đã nói (xem câu 18).
Ngày hôm đó, tại Nazareth, Chúa Giêsu đã đặt những người đối thoại với mình trước sự chọn lựa về căn tính và sứ mạng của Người. Không ai trong hội đường Do Thái không khỏi thắc mắc: Liệu ông này chỉ là con của bác thợ mộc mà lại dám nhận một vai trò không thuộc về mình, hay ông ấy thực sự là Đấng cứu thế, được sai đến để cứu dân khỏi tội lỗi?
Thánh sử cho chúng ta biết rằng người Nazareth đã không nhận ra Chúa Giê-su là Đấng được Chúa xức dầu. Họ nghĩ rằng họ hiểu Người quá rõ và điều này, thay vì giúp họ mở rộng tâm trí và trái tim, thì lại chặn họ lại, giống như một tấm màn che khuất ánh sáng.
Anh chị em thân mến, sự kiện này, với những điểm tương đồng, cũng xảy ra với chúng ta ngày nay. Chúng ta cũng bị chất vấn bởi sự hiện diện và lời nói của Chúa Giêsu; chúng ta cũng được mời gọi nhận ra nơi Người là Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ chúng ta. Nhưng có thể cũng xảy ra với chúng ta, giống như những người đồng hương của Người, khi nghĩ rằng chúng ta đã biết Người, rằng chúng ta đã biết mọi thứ về Người, rằng chúng ta đã lớn lên cùng Người, ở trường, trong giáo xứ, trong giáo lý, trong một đất nước có nền văn hóa Công giáo... Và đối với chúng ta cũng vậy, Người là một Con Người gần gũi, thực sự, “quá” gần gũi.
Nhưng chúng ta hãy tự hỏi: chúng ta có nhận ra được thẩm quyền độc nhất mà Chúa Giêsu thành Nazareth dùng để nói không? Chúng ta có nhận ra rằng Người là Đấng mang đến lời loan báo về ơn cứu độ mà không ai khác có thể ban cho chúng ta không? Còn tôi, tôi có cảm thấy cần ơn cứu rỗi này không? Tôi có cảm thấy rằng mình cũng nghèo nàn, bị giam cầm, mù quáng, bị áp bức không? Chỉ khi đó, “năm hồng ân” mới dành cho tôi!
Chúng ta hãy tin tưởng hướng về Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa và Mẹ chúng ta, để Mẹ giúp chúng ta nhận ra Chúa Giêsu.
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-hoan-vu/kinh-truyen-tin-261-mo-rong-tam-tri-de-nhan-biet-chua-42482.html
65. Đức Thánh Cha là nhân vật công chúng đáng tin cậy nhất của Ý
Theo một cuộc khảo sát gần đây do Viện nghiên cứu quốc gia Demopolis tiến hành, chuyên phân tích các xu hướng trong xã hội Ý, Đức Thánh Cha Phanxicô là nhân vật công chúng đáng tin cậy nhất tại Ý.
Vatican News
Hơn 3.000 người Ý trên 18 tuổi đã tham gia cuộc khảo sát được thực hiện vào tháng 1, bày tỏ quan điểm của họ về những thách thức mà Giáo hội Công giáo tại quốc gia này đang phải đối mặt, nhận thức của họ về Năm Thánh Hy vọng và đánh giá của họ về Đức Giáo hoàng.
Kết quả nghiên cứu đã được ông Pietro Vento, Giám đốc Viện nghiên cứu quốc gia Demopolis, cùng với các nhà nghiên cứu, trình lên Đức Thánh Cha trong một buổi tiếp kiến .
Theo ông Vento, giáo hoàng “ngày nay là một nhân vật đáng tin cậy” đối với người dân, vì cuộc khảo sát cho thấy 76% tin tưởng vào sự lãnh đạo của ngài.
Ông nói: “Kể từ năm đầu tiên của triều đại giáo hoàng, ngài là nhân vật công chúng mà người Ý tin tưởng nhất: không kể khía cạnh đức tin hay thực hành tôn giáo. Họ thích rằng ngài hiểu được nhu cầu thực sự của các gia đình, sự rõ ràng và tự nhiên trong lời nói của ngài”.
Ngoài ra, hai phần ba người Ý cho biết huấn quyền của Đức Giáo hoàng Phanxicô được đặc trưng bởi lời kêu gọi không ngừng về hòa bình, tình huynh đệ và sự phản đối kiên quyết của ngài đối với chiến tranh. Trong số những người được khảo sát, 60% người Ý nhấn mạnh sự quan tâm của Đức Thánh Cha đối với những thành viên yếu thế nhất của xã hội và lời ngài mời gọi quay trở lại với Phúc Âm.
Kết quả khảo sát cũng cho thấy 4 trong số 10 người Ý đặc biệt ấn tượng trước tầm quan trọng mà Đức Giáo hoàng dành cho những người trẻ tuổi và cũng chỉ ra sự dấn thân của ngài đối với một Giáo hội Công giáo chào đón cũng như khả năng tự canh tân của Giáo hội bằng cách lắng nghe các dấu hiệu của thời đại. Ngoài ra, 40% nhấn mạnh mối quan tâm của ngài đối với cuộc khủng hoảng khí hậu.
Về Giáo hội Công giáo, 45% người Ý bày tỏ sự tin tưởng vào thể chế này. Mặc dù 72% tự nhận mình là người Công giáo, nhưng khoảng 17% là người Công giáo thực hành và tham dự Thánh lễ thường xuyên, theo nghiên cứu.
Nghiên cứu cho thấy theo nhận thức của người Ý, khó khăn chính của Giáo hội Công giáo nằm ở việc “hòa giải đức tin và lịch sử” với những thách thức của thế giới đương đại.
Trong bối cảnh của Năm Thánh Hy Vọng, 75% người Ý cho biết có một cuộc khủng hoảng hy vọng và hy vọng rằng Năm Thánh sẽ ưu tiên cho các nhu cầu xã hội bên cạnh chiều kích tâm linh.
Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/giao-hoi-hoan-vu/duc-thanh-cha-la-nhan-vat-cong-chung-dang-tin-cay-nhat-cua-y-42483.html