NHỮNG CUỘC HIỆN RA CỦA
CHÚA PHỤC SINH
Brian Purfield
Khoa giáo dục thần học
Mount Street Jesuit Centre
Sự
phục sinh của Đức Kitô là tâm điểm của đức tin Kitô giáo. Thánh Phaolô quả
quyết: “Nếu Đức Kitô không sống lại thì lời rao giảng của chúng tôi trở nên vô
ích và đức tin anh em cũng hão huyền” (1 Cr 15, 14). Từ Chúa Nhật Phục Sinh cho
đến kết thúc tuần bát nhật Phục Sinh, các bài đọc thuật lại những cuộc hiện ra
của Chúa Phục Sinh. Bài này viết về những cuộc hiện ra này với hy vọng chúng ta
có thể nếm trải điều gì đó trong kinh nghiệm phục sinh nơi những Kitô hữu tin
theo Đức Kitô vào thời kỳ đầu tiên.
Truyền thống đầu tiên: Thánh Phaolô
Thánh Phaolô đưa ra một trong những công thức loan báo đầu tiên và cho rằng
chính mình đã nhận lãnh sứ mệnh loan báo (có lẽ tại Damascus vào lúc ngài trở
lại, ba năm sau cái chết của Đức Kitô). Trong 1 Cr 15, 3-8, Phaolô liệt kê bốn
yếu tố chính trong công thức: Đức Giêsu chết, ngài được táng xác, đã sống lại
và hiện ra với Cephas. Sự kiện Đức Giêsu sống lại và hiện ra với Simon Phêrô
không tách lìa nhau. Đây là công bố cơ bản của giáo hội sơ thời và cũng đã được
trình bày trong Luca 24, 34. Dầu cho xét theo thời gian Phêrô (Cephas) có phải
là người đầu tiên mà Đức Giêsu hiện ra hay không, thì rõ ràng ngài tượng trưng
cho vị trí đứng đầu như là “đá tảng” hoặc nền tảng của đức tin Kitô giáo.
Sau đó Phaolô liệt kê hàng loạt những cuộc hiện ra: cho nhóm Mười Hai, cho hơn
500 người, cho Giacôbê và tất cả các tông đồ. Rồi ngài nói rằng Đức Giêsu “cuối
cùng đã hiện ra với tôi” (15, 8). Nhưng ngài nhấn mạnh rằng điều chính yếu là
tất cả đều có cùng một kinh nghiệm như nhau vì chỉ có một tin mừng và một mạc
khải duy nhất.
Phaolô là người duy nhất cho chúng ta trình thuật đầu tiên về kinh nghiệm này
(Gl 1, 6-24). Ngài không diễn tả kinh nghiệm bằng những hạn từ thể lý. Có thể
mặc lấy một hình thức nghe hoặc thấy nào đó, song Thánh Phaolô nhấn mạnh nhiều
hơn đến hành động của Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa đã “vui lòng mạc khải Con
của Ngài cho tôi” (Gl 1, 16). Ngài nhấn mạnh rằng tin mừng mà ngài công bố
không phải đến từ trung gian con người nhưng “qua mạc khải của Đức Giêsu Kitô”
(1, 11-12). Chính mạc khải này đã trao cho ngài sứ mệnh “để tôi có thể công bố
Ngài cho dân ngoại” (1, 16).
Phaolô luôn nhấn mạnh trong suốt sự nghiệp của ngài rằng mình cũng là tông đồ
vì đã nhìn thấy Đức Giêsu (1 Cr 9, 1). Một mạc khải độc nhất và duy nhất đã sản
sinh ra một tin mừng duy nhất dành cho các tông đồ (Gl 1, 6-9; 2, 1-10; 1 Cr
15, 1-2, 11). Như vậy, ở mức độ đầu tiên và cơ bản nhất, “những cuộc hiện ra”
có nghĩa là mạc khải của Thiên Chúa về sự hiện diện và ý nghĩa của Đức Giêsu.
Mạc khải thần linh này kêu mời lời đáp trả của đức tin bao gồm cả việc sai đi
loan báo tin mừng. Đây là nền tảng tông đồ của Giáo Hội.
Các bản văn của Phaolô đưa ra lời quả quyết cơ bản của Giáo Hội sơ thời rằng
Đức Giêsu đã sống lại và hiện ra với các tông đồ từ Thánh Phêrô cho đến chính
Phaolô. Những cuộc hiện ra này xảy ra lúc nào và khi nào? Điều gì đã xảy ra?
Đến khi nào thì chấm dứt hẳn những cuộc hiện ra này? Thánh Phaolô không nói
đến. Các Tin Mừng cố gắng giải đáp những câu hỏi này nhưng câu trả lời thì khác
nhau.
Những triển khai sau đó: các Tin Mừng
Ở đây chúng ta thấy được tài năng mục vụ của các thánh sử. Mỗi người viết cho
nhóm độc giả khác nhau, và khi trình bày sứ vụ công khai của Đức Giêsu thì mỗi
thánh sử nói cho những nhu cầu và hoàn cảnh của nhóm độc giả đặc thù đó. Kết
quả là mỗi người rút tỉa một điều gì đó trong truyền thống những cuộc hiện ra
của Đức Giêsu phục sinh để kết nối với những gì đã được viết ra trong toàn tác
phẩm Tin Mừng của mình. Như vậy các độc giả (hay thính giả) của Tin Mừng có thể
nhận thấy Sự Phục Sinh phù hợp như thế nào với toàn bộ những điều trình bày về
Đức Giêsu. Chúng ta hãy xem xét ngắn gọn về mỗi Tin Mừng theo trật tự thời gian
chúng được viết ra.
Marcô
Phaolô biết rằng Đức Giêsu đã được táng xác, song ngài không bao giờ đề cập đến
ngôi mộ trống. Cuộc hiện ra đầu tiên trong Marcô được thuật lại ở đoạn 16, 1-8.
Vì tính chất ngắn gọn và dường như còn dang dở của trình thuật này, nên các
Kitô hữu sơ thời đã thêm vào những đoạn cuối. Đoạn được biết đến nhiều nhất là
16, 9-20. Như vậy chúng ta nói đến hai trình thuật “Marcô” về sự Phục Sinh.
Marcô 16, 1-8 cơ bản là câu chuyện về ngôi mộ trống. Một “người trẻ tuổi” (diện
mạo giống như thiên thần) nói với người phụ nữ lời công bố cơ bản: “Ngài đã
sống lại” (c. 6). Có lời hứa ngài sẽ hiện ra với các môn đệ khác và Phêrô tại
Galilê, thế nhưng điều này không bao giờ được thuật lại và câu chuyện kết thúc
với sự kiện người phụ nữ rời ngôi mộ, sợ hãi và thinh lặng.
Trong suốt Tin Mừng, Thánh Marcô nhấn mạnh đến sự khó khăn mà những người theo
Đức Kitô đã gặp phải khi đặt hoàn toàn lòng tin vào ngài bởi vì họ không thể
hiểu được rằng sự đau khổ và sự từ chối là một phần cơ bản trong căn tính của
Con Thiên Chúa. Chỉ khi chính mình trải qua sự đau khổ thì các môn đệ mới hiểu
ra. Trong cuộc khổ nạn của Đức Giêsu, các đấng môn đệ đàn ông đã bỏ rơi và tháo
chạy – một kinh nghiệm phản ánh nỗi sợ hãi và sự yếu đuối đến hổ thẹn. Thế
nhưng niềm đau đã dẫn đưa họ đến ánh sáng. Sau khi họ nếm trải đau khổ và thất
bại, Đức Giêsu sẽ hiện ra với họ tại Galilê (Mc 14, 27-28).
Các phụ nữ đi theo Đức Giêsu, không tham dự phiên toà nơi vườn Gethsemane nơi
các môn đệ ngủ say và trốn chạy, họ đứng nhìn cuộc hành hình từ nơi xa xa. Họ
cũng phải kinh nghiệm sự khó khăn của lòng tin; ngay cả sau khi được loan báo
về sự Phục Sinh, họ cũng không tự động công bố sự vinh thắng của Đức Giêsu.
Thay vào đó, họ thinh lặng và sợ hãi bỏ đi (Mc 16, 8).
Đây có phải là lời cảnh báo cho những Kitô hữu ngày nay? Đức tin đến với chúng
ta qua những người khác, họ đã trải qua mạc khải về những gì Thiên Chúa đã làm,
nhưng khi chúng ta chấp nhận lời công bố thì không có nghĩa là chúng ta có đầy
đủ đức tin Kitô giáo. Ngay cả sau Phục Sinh chúng ta cũng có thể mang vác thập
giá và kinh nghiệm đau khổ cũng như sự từ chối trước khi ta đạt đến sự hiểu
biết thật sự về Đức Giêsu mà ta nói rằng mình tin vào ngài.
Dĩ nhiên Marcô không có ý nói rằng các phụ nữ thinh lặng và sợ hãi mãi đâu.
Đoạn thêm vào (Mc 16, 9-20) cho thấy rằng một sự gặp gỡ với Đức Giêsu phục sinh
mang lại đức tin, không chỉ đối với các phụ nữ mà còn đối với những người khác.
Trong mỗi trường hợp, sự gặp gỡ cá nhân đã hoàn tất điều mà khi lãnh nhận một
sứ điệp từ người khác đã không làm được. Đức tin đến từ sự hiểu biết của chính
mình về Chúa Phục Sinh.
Chúng ta cũng từng nghe những người bị Đức Giêsu quở trách vì thiếu đức tin và
cứng lòng, họ đã được tín thác công cuộc rao giảng tin mừng cho toàn thế giới.
Thông điệp này cũng phù hợp cho chúng ta. Nghe về Đức Giêsu không bao giờ thay
thế cho kinh nghiệm cá nhân về Ngài, và bổn phận mang người khác đến với Đức
Kitô cũng chẳng phải chỉ được tín thác cho những người hoàn hảo. Tin Mừng
Marcô nhắc nhở rằng các môn đệ đầu tiên cũng là những con người phải chật vật
phấn đấu như chúng ta.
Matthêu
Khi rút tỉa từ Tin Mừng Marcô, Thánh Matthêu luôn tỏ ra là người thầy khôn
khéo, chú tâm tới những độc giả không phải lúc nào cũng nhìn thấy được những ẩn
ý. Marcô 16, 1-8 không miêu tả những cuộc hiện ra của Đức Giêsu phục sinh,
Matthêu thì có. Trong 28, 9 ngài kể về cuộc hiện ra với người phụ nữ sau khi họ
rời khỏi ngôi mộ – một cuộc hiện ra (có ít nhiều trong Gioan và Marcô 16, 9) có
thể tiêu biểu cho một truyền thống cổ xưa mặc dầu không nằm trong giảng huấn
chính thức (ví dụ như trong 1 Cr 15).
Thêm thắt nhiều kịch tính, Matthêu 27, 62-66; 28, 4, 14-15 kể lại một âm mưu nhằm
che giấu sự Phục Sinh của các binh lính Philatô canh giữ mộ Chúa Giêsu. Một
trong những khía cạnh bi thảm trong kinh nghiệm của Thánh Matthêu, được phản
ánh trong suốt Tin Mừng của ngài, là mối tương quan thù nghịch giữa giới thẩm
quyền hội đường với các Kitô hữu. Ngay từ đầu Tin Mừng, Matthêu đã phát hoạ
Hêrod, các thượng tế và luật sĩ âm mưu tiêu diệt Đấng Cứu Thế vừa mới hạ sinh
(2, 3-5, 16-18, 20); nhưng Thiên Chúa đã làm cho kế hoạch thất bại. Ở cuối Tin
Mừng, ngài phát hoạ quan Philatô, các thượng tế và Pharisiêu âm mưu chống lại
Đức Giêsu. Một lần nữa Thiên Chúa ra tay làm hỏng âm mưu. Dầu không nên bắt
chước thái độ bút chiến ẩn sau câu chuyện, Thánh Matthêu cũng nhắc chúng ta
rằng loan báo tin mừng không phải là không có vất vả chiến đấu.
Cuối cùng, Matthêu thuật lại những gì được hứa trong Tin Mừng Marcô: cuộc hiện
ra với các môn đệ (Nhóm Mười Một) tại Galilê. Trong phần bắt đầu nói về sứ vụ
công khai tại Galilê trong Thánh Matthêu (chương 5-7), Đức Giêsu giảng trên núi
một bài giảng nêu lên những điểm chính yếu trong lời dạy của Ngài về Nước Trời.
Trong 10, 6-7 Đức Giêsu sai các môn đệ đi rao giảng Nước Trời này cho “mọi dân
tộc”, làm cho họ trở nên môn đệ bằng cách rửa tội cho họ.
Cộng đoàn Thánh Matthêu xem sự chuyển giao từ dân Do Thái đến dân ngoại là tiêu
điểm của sứ vụ. Thánh Matthêu cẩn thận minh chứng rằng chương trình của Thiên
Chúa dành cho Đức Giêsu là nhất quán từ đầu cho đến cuối. Trước khi được hạ
sinh, Đức Giêsu được công bố là Emmanuel (“Thiên Chúa ở cùng chúng ta” – 1,
23); và lời cuối cùng của Đức Giêsu là “Ta ở cùng các con mọi ngày cho đến tận
thế” (28, 20).
Luca
Tương tự, Thánh Luca cũng theo sát Marcô trong câu chuyện về ngôi mộ trống
nhưng đã đi theo đường hướng của riêng mình khi tường thuật các cuộc hiện ra.
Khi Matthêu thuật lại cuộc hiện ra của Đức Giêsu với hai phụ nữ tại Giêrusalem
thì Luca dài dòng kể lại (24, 13-35) việc ngài hiện ra với hai ông môn đệ trên
đường từ Giêrusalem về làng Emmaus. Trong sách Công Vụ (2:42, 46; 20: 7, 11),
cũng được Luca viết như là phần kế tiếp cho Tin Mừng của mình, ngài muốn nhắm
đến vai trò của “việc bẻ bánh” trong đời sống cộng đoàn Kitô giáo của mình.
Ngài chuẩn bị cho điều đó bằng câu chuyện làng Emmaus khi các môn đệ nhận ra
Đức Giêsu lúc bẻ bánh. Đây cũng là điều thật quan trọng cho các tín hữu ngày
nay bởi vì việc bẻ bánh trong Thánh Lễ cũng là sự hiện diện của Đức Giêsu phục
sinh – sự hiện diện duy nhất khác với mọi sự hiện diện khác.
Sau đó Luca quay trở lại với cuộc hiện ra của Đức Giêsu phục sinh với nhóm Mười
Một. Hơn cả Marcô và Matthêu, Luca nhấn mạnh đến điều đã hàm chứa trong ngôi mộ
trống: thân xác của Đức Giêsu phục sinh không chỉ là một cái bóng (23, 37 -43).
Điều đặc biệt có ý nghĩa là Đức Giêsu phục sinh giảng dạy cho nhóm Mười Một về
cái chết và sự phục sinh của mình bằng cách giải thích Kinh Thánh, “Tất cả mọi
sự được viết về ta trong luật Môisen, trong các sách Tiên Tri, trong Thánh Vịnh
phải được ứng nghiệm” (24, 44). Đối với Luca, sự Phục Sinh làm trọn vẹn lời
Kinh Thánh.
Hai môn đệ trên đường về Emmaus thấy tâm hồn mình bừng cháy khi ngài mở Kinh
Thánh ra cho họ. Một lần nữa, sự nhấn mạnh của Luca dọn đường cho đời sống của
Giáo Hội mà ngài sẽ nói đến trong sách Công vụ, nơi mà Phêrô, Stêphanô và
Phaolô bắt đầu việc rao giảng của mình bằng cách nói rằng Kinh Thánh đã nói
trước những gì đã xảy ra với Đức Giêsu (Cv 2, 14-21; 7, 1-50; 13, 16-22).
Trong Tin Mừng Matthêu, Đức Giêsu phục sinh hiện ra với nhóm Mười Một tại
Galilê. Miến đất nầy là lựa chọn thích hợp theo truyền thống cho mục đích của
Matthêu. Đối với Matthêu, Galilê là miền đất của dân ngoại (4, 15) và sau khi
phục sinh Đức Giêsu đã truyền cho các môn đệ ra đi và thâu nạp dân ngoại làm
môn đệ (28, 19). Tuy nhiên, Luca lại lấy Giêrusalem làm bối cảnh cho những cuộc
hiện ra và lên trời của Đức Giêsu. Đây là lựa chọn thích hợp theo truyền thống
cho mục đích của Luca. Tin Mừng Luca bắt đầu bằng cuộc hiện ra của sứ thần
Gabriel với Zacharia trong đền thờ Giêrusalem và kết thúc khi các môn đệ Đức
Giêsu chúc tụng Thiên Chúa trong Đền Thờ.
Bắt đầu sách Công Vụ (1: 3, 9-12), Đức Giêsu lên trời tại Núi Cây Dầu 40 ngày
sau phục sinh. Song ở cuối cuốn Tin Mừng (Lc 24, 50-51), Luca nói ngài lên trời
tại cùng một miền đất với đêm Chúa Nhật Phục Sinh. Chúng ta nhận ra nhãn quan
thần học của Luca trong những điều vừa nói trên. Một đàng (được phát hoạ trong
Tin Mừng Luca), việc Đức Giêsu trở về với Thiên Chúa là kết thúc sự nghiệp trần
thế của Ngài, một sự nghiệp bắt đầu và kết thúc tại Giêrusalem và như vậy một
cách tượng trưng nó hạn hẹp trong giới hạn của Do Thái giáo. Đàng khác (được
phát hoạ trong sách Công Vụ), sự trở về của Đức Giêsu với Thiên Chúa là khởi
đầu cho đời sống của Giáo Hội được bắt đầu tại Giêrusalem (Do Thái giáo) và
phát triển đến Roma (thế giới Dân Ngoại).
Gioan
Đoạn Gioan 20, giống như Luca và Marcô 16, 9-20, nói Đức Giêsu hiện ra tại
Giêrusalem. Gioan 21 (nối kết lỏng lẻo với Gioan 20), giống như Matthêu và
Marcô 16, 7, nói rằng Đức Giêsu hiện ra tại Galilê. Mỗi chương đều thích hợp
với tư tưởng của Thánh Gioan theo cách khác nhau. Tin Mừng Thánh Gioan cho
chúng ta một số những cuộc gặp gỡ mà trong đó mỗi nhân vật đến gặp Chúa Giêsu
và có lời thưa gởi cùng ngài. Trong Gioan 20, Phêrô và người môn đệ Chúa yêu,
Maria Mađalêna, các môn đệ và Tôma lần lượt gặp gỡ Đức Giêsu.
Người Môn Đệ Chúa Yêu là người tin đầu tiên. Theo truyền thống (1 Cr 15, 5; Lc
24, 34), Simon Phêrô là người đầu tiên trong số các môn đệ nam giới nhìn thấy
Đức Giêsu phục sinh. Gioan không từ chối điều đó nhưng đưa ra quan điểm của
riêng mình: ở nửa phần sau của Tin Mừng, người Môn Đệ Chúa Yêu vô danh, người
đặc biệt được Chúa yêu thương gần gủi với Đức Giêsu hơn cả Phêrô. Trong đoạn
20, 3-10 Phêrô và người Môn Đệ Chúa Yêu đi đến mộ. Không ai nhìn thấy
Chúa Giêsu, nhưng người Môn Đệ Chúa Yêu đã tin mà không cần sự hiện ra của Đấng
Phục Sinh.
Như trong Matthêu và đoạn cuối được thêm vào của Thánh Marcô, Maria Mađalêna là
người đầu tiên nhìn thấy Đức Giêsu phục sinh. Bà không nhận ra ngài bằng thị
giác nhưng chỉ nhận ra lúc Ngài gọi tên bà, điều này làm trọn vẹn lời tiên báo
về người Mục Tử Nhân Lành (10, 3-5), người sẽ gọi đích danh con chiên thuộc về
mình và chúng sẽ theo Ngài. Đức Giêsu nói với bà về “Cha của ta và là Cha của
các con” và gọi các môn đệ là “anh em” mình. Như vậy, với Maria, Đức Giêsu đã
làm trọn vẹn lời hứa trong phần Lời Tựa của Thánh Gioan (1, 12): “Tất cả những
ai đón nhận thì Ngài cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa”. Hậu quả là Maria
Mađalêna ra đi và loan báo rằng: “Tôi đã nhìn thấy Thiên Chúa”. Nếu người Môn
Đệ Chúa Yêu là người tin đầu tiên thì Maria Mađalêna là người đầu tiên loan
truyền Chúa Phục Sinh.
Sau đó Đức Giêsu hiện ra với nhóm các môn đệ (20, 19-23), các thành viên của
nhóm Mười Hai. Như trong sách Khởi Nguyên 2, 7 Thiên Chúa tạo dựng con người từ
bụi đất bằng cách thổi vào lỗ rốn hơi thở sự sống, thì Đức Giêsu cũng thổi trên
các môn đệ và họ nhận lãnh Chúa Thánh Thần, tái tạo dựng họ như con cái Thiên
Chúa với sự sống vĩnh cửu. Đây là sự sinh ra bởi Thánh Thần được hứa trong
Gioan 3, 5. Khắp Tin Mừng Gioan, Đức Giêsu cho mình là Đấng được Thiên Chúa sai
đến; các môn đệ giờ đây cũng được sai đi để tiếp tục công việc của Ngài trong
thế giới với quyền lực trên sự dữ và tội lỗi.
Các Tin Mừng nói đến sự nghi ngờ khi Đức Giêsu hiện ra sau Phục Sinh với những
người theo Ngài (Mt 28, 17; Lc 24, 37-38; Mc 16,14). Gioan biên tập mối nghi
ngờ này lại trong một cá nhân (20, 24-29). Thật mâu thuẩn, lời tuyên xưng đức
tin long trọng nhất trong Tin Mừng lại xuất phát từ môi miệng của “Tôma nghi
ngờ”: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi”. Tin Mừng Gioan bắt đầu với sự
khẳng định trongLời Tựa (1, 1), “ Ngôi Lời là Thiên Chúa”. Giờ đây con người đã
nhận biết được điều đó.
Gioan 21 chuyển bối cảnh đến Galilê và làm nổi bật hai màn có liên quan đến
Simon Phêrô. Mẻ cá lạ lùng do Đức Giêsu phục sinh chỉ chổ đã được Phêrô kéo vào
bờ, một biểu tượng cho vai trò truyền giáo của Phêrô. Thế nhưng tính tượng
trưng đột nhiên thay đổi khi Phêrô được giao nhiệm vụ chăn dẫn đàn chiên của
Đức Giêsu. Sự thay đổi này nói lên một kinh nghiệm: công cuộc truyền giáo vĩ
đại trong những thế hệ đầu tiên giờ đây nhường bước cho việc chăm sóc mục vụ
dành cho những người đã được mang về với Đức Kitô. Sự nhấn mạnh của Gioan về
Đức Giêsu như “Mục Tử Nhân Lành” duy nhất đã làm chậm đi việc chấp nhận những
mục tử là con người trong cộng đoàn Thánh Gioan; nhưng khi qua tính biểu tượng
của Phêrô thì vai trò mục tử được xác định, kèm theo vài điều kiện của riêng
Gioan. Phêrô phải yêu mến Đức Giêsu và con chiên không thuộc về mình – chúng
vẫn thuộc về Đức Giêsu.
Song lời cuối cùng của Đức Giêsu không phải nói về Phêrô mà là Người Môn Đệ
Chúa Yêu. Người này không được ban cho vai trò quyền bính nào nhưng chiếm ưu
thế trong việc được yêu thương, điều này rất quan trọng trong Tin Mừng Thánh
Gioan. Khả năng được ở lại đấy cho đến khi Đức Giêsu đến đã được mở ra cho
Người Môn Đệ Chúa Yêu. Nói cách tượng trưng, đấy là hoa trái cuối cùng của sự
Phục Sinh: một cộng đoàn đức tin gồm các môn đệ Đức Kitô sẽ ở lại cho đến ngày
cuối cùng.
Những trình thuật này nói gì với chúng ta?
Dường như chúng ta nhận ra cách diễn tả về thân xác của Đức Giêsu khi nhìn sâu
vào các câu chuyện trong Tin Mừng so với trình thuật của Phaolô. Luca tả lại
Đức Giêsu đi và nói chuyện với các môn đệ trên đường về Emmaus (24, 13-27).
Bằng những cách khác nhau, Luca và Gioan tả lại Chúa Phục Sinh tỏ mình cho các
môn đệ trong bối cảnh bữa ăn (Lc 24, 29-31, 41-43; Ga 21, 10-14). Cả hai đưa ra
những tình tiết Đức Giêsu lôi kéo sự chú ý đến chân tay mình, chỉ ra chổ bị
đóng đinh là bằng chứng ngài bị hành hình thập giá (Lc 24, 39 tt; Ga 20, 20,
25-27). Cả bốn Tin Mừng ghi lại Đức Kitô phục sinh hướng dẫn các môn đệ trước
khi về trời.
Thật dễ dàng khi kết luận rằng các Tin Mừng cố đưa ra hình ảnh về Đức Kitô phục
sinh trông giống như thế nào. Nhưng như thế là bỏ sót những cách thế tinh tế mà
các thánh sử đã sử dụng để nói rằng những cuộc hiện ra của Chúa Phục Sinh thách
đố mọi sức tưởng tượng. Vì thế mỗi thánh sử cố ý vẽ ra Đức Kitô khác lạ và
không nhận ra được. Maria Mađalêna tưởng Đức Giêsu là người làm vườn (Ga 20,
15). Phêrô và vài môn đệ khác đi đánh lưới đã chạm mặt Đức Giêsu trên bãi biển
nhưng không nhận biết đó là ai (Ga 21, 4). Các môn đệ đi về Emmaus nói chuyện
với Đức Giêsu suốt cả quảng đường nhưng cũng chẳng biết là ai, chỉ nhận ra Ngài
lúc “bẻ bánh” (Lc 24: 16, 30 tt). Một dịp khác, các môn đệ thấy Chúa
Giêsu nhưng nghĩ mình thấy ma (Lc 24, 37). Mỗi người mỗi cách, mỗi câu chuyện
đều xác định điều mà Thánh Marcô nói cách chính xác hơn. Đức Giêsu đã hiện ra
“dưới một hình dạng khác” với hai môn đệ “đang đi về quê” (Mc 16, 12). Dầu cho
hình dạng thân xác của Đức Giêsu rõ ràng và sờ mó được, các thánh sử cũng chứng
thực rằng nó hoàn toàn khác; Đức Giêsu không thể nhận biết được ngay tức khắc.
Một điều có vẻ bí nhiệm nữa là với vẻ ngoài thân xác, Đức Giêsu có khả năng đến
và đi theo ý muốn. Ngài xuất hiện ở phòng trên lầu “dù cho các cửa đóng kín”
(Ga 20, 19). Khi bẻ bánh, ngài chỉ biến mất khi các môn đệ nhận ra ngài (Lc 24,
30 tt). Ngài từ đâu đó xuất hiện khi nhóm Muời Một ngồi vào bàn ăn, chỉ để
khiển trách họ vì thiếu lòng tin và cứng lòng (Mc 16, 14). Trong các Tin Mừng
Nhất Lãm, Đức Giêsu rời khỏi các môn đệ (thăng thiên) cũng hoàn toàn bí ẩn như
lúc ngài hiện ra lần đầu. Mỗi tác giả đều cố khẳng định rằng thân xác của Đức
Giêsu có những đặc tính rất khác với chúng ta. Những đặc tính này làm cho Đức
Giêsu không thể nhận ra được trong những giây phút đầu tiên khi xuất hiện và
cho phép ngài tự do di chuyển ra vào, ngoài không gian và thời gian mà chẳng
gặp bất cứ sự cấm vận nào.
Đức Giêsu nói
Mỗi thánh sử đều khẳng định rằng trong những cuộc hiện ra các môn đệ chỉ nhận
biết Chúa phục sinh khi ngài nói với họ cách nào đó. Gioan trình bày một Maria
Mađalêna ngơ ngác chỉ nhận ra Đức Giêsu khi Ngài gọi tên bà (Ga 20, 15-18).
Ngài diễn tả Tôma đi từ sự nghi ngờ sang niềm tin khi Đức Giêsu nói với ông,
mời gọi mời gọi Tôma nhận biết Ngài là Đấng chịu đóng đinh bằng cách xem lỗ
đinh và thương tích nơi cạnh sườn (Ga 20, 24-28). Gioan nói Phêrô và các môn đệ
chỉ nhận ra Đức Giêsu sau khi Ngài bảo họ thả lưới để được mẻ cá đầy sau một
đêm vất vả mà không được gì (Ga 21, 4-7).
Luca nhấn mạnh đến ý nghĩa của việc Đức Giêsu nói với các môn đệ như là mở màn
cho việc nhận ra Ngài. Khi kể lại câu chuyên hai môn đệ làng Emmaus, Luca nói
rằng họ chỉ nhận ra Đức Giêsu khi Ngài giải thích Kinh Thánh và “bẻ bánh” với
họ (24, 13-35). Tin Mừng Nhất Lãm kết nối sự nhận biết Chúa Phục Sinh của các
môn đệ với việc “uỷ nhiệm cho họ”, đây cũng là những lời thân tình nói về bổn
phận của họ phải tiếp nối sứ vụ của Ngài. Các câu chuyện Tin Mừng cho thấy rằng
khả năng nhận biết Chúa Phục Sinh của các môn đệ không chỉ dựa vào hình dáng
của Đức Giêsu trước mắt họ nhưng còn nhờ Ngài nói những lời lẽ rất riêng tư với
họ.
Kết luận
Các trình thuật Tin Mừng cẩn thận nhấn mạnh đến hiệu quả cuối cùng của hình
dạng và lời nói của Chúa Phục Sinh. Hình dạng của Ngài dẫn đưa các môn đệ đến
đức tin phong phú và sâu đậm hơn vào Ngài. Họ diễn tả đức tin sâu đậm này bằng
cách gọi Ngài bằng một danh tính mới khi nhận ra Ngài là Đấng chịu đóng đinh.
Từng cá nhân hay cùng với nhau, họ mừng rỡ reo lên: “Chúng tôi đã nhìn
thấy Chúa” (Ga 20: 18, 25; 21:7), trong khi Tôma tuyên xưng cách rõ ràng hơn:
“Lạy Chúa tôi và Thiên Chúa của tôi” (Ga 20, 28). Giống như Phaolô viết cho các
tín hữu Philipphê, các thánh sử cố làm nổi bật lên sự kiện rằng các môn đệ khi
nhìn thấy và nghe tiếng Đức Kitô Phục Sinh, họ đã gọi Ngài bằng một “danh hiệu
vượt trên mọi danh hiệu” (Pl 2, 9): Đức Giêsu là một với Thiên Chúa; Ngài tràn
đầy sự sống của Thiên Chúa: “Đức Giêsu là Chúa”.
Lm. Phaolô Nguyễn Minh Chính chuyển ngữ
(trích “Bản Thông Tin” Giáo phận Qui Nhơn)
Posted on 04/04/2010 by Xuân
Bích Việt Nam