24/03/2010
1904

NGƯỜI DO THÁI VỚI ĐỨC GIÊSU

Jean Philippe De Tonnac

 

Sau hai ngàn năm, dân được chọn nói về vị “vua dân Do thái”.

Thông tin đáng ngạc nhiên trên là của Salomon Malka, giám đốc đài phát thanh cộng đoàn Do thái, nhân một cuộc nghiên cứu thú vị tại Giêrusalem.

Cái chết của đức Giêsu đã từng làm cho họ xa nhau từ nhiều thế kỷ nay. Chỉ có hai nhóm này, người Biệt phái và người Kitô hữu, thoát nạn sau biến cố triệt phá dền thờ Giêrusalem năm 70, thế mà họ đã xung khắc nhau kịch liệt. Người Biệt phái lo chiến đấu bảo vệ gia sản luật Torah, người Kitô hữu cố gắng củng cố niềm hy vọng vừa nảy sinh từ Tin Mừng. Nhưng tại sao bầu khí thinh lặng như thế đã kéo dài suốt hai ngàn năm qua trong khi họ là anh em sinh đôi? Lý do nào khiến họ phải chấp nhận một vết thương không bao giờ lành?

Hai ngàn năm thoáng “như một ngày”, theo kiểu nói của thánh Phêrô (2Pr 3,8). Số người Do thái trở về đất thánh năm 1948 đã nghiệm rõ điều đó. Hơn nữa, có hai biến cố làm sống lại kỷ niệm của những năm trước vụ tàn phá thành Giêrusalem.

Biến cố thứ nhất nổi tiếng hơn: ba em bé người Bédouins trong khi đi tìm một con chiên lạc, men theo bờ dốc thẳm phía Tây-Bắc Biển Chết, tình cờ tìm thấy lối vào một hang động lớn, trong đó có chứa những chiếc vại, trong những chiếc vại này là một thư viện gồm những cuộn sách chắc chắn là có từ trước năm 70. Dưới tay các nhà chuyên viên, những cuộn sách này chiếu ra một nguồn sáng mới trên lịch sử Giuđa giáo trước thời các rabbi (ND: từ rabbi chỉ được dùng phổ biến cho giới tăng lữ vào cuối thế kỷ thứ I), và về nguồn gốc Kitô giáo. Theo tài liệu này thì không thể kết luận vào thời đức Kitô, đã có nhiều phe nhóm trong Giuđa giáo. Sau cuộc thảm sát, chỉ còn lại người Biệt phái và người Kitô hữu, đúng như vậy. Nhưng những người Kitô hữu lẽ ra không bao giờ có thể phục hồi sau biến cố tàn phá của người Roma. Nếu như thế, có thể phải nhận định rằng người Kitô hữu không phải là một trong những phong trào thuộc Giuđa giáo của thời đệ nhị đền thờ, như trường hợp những nhóm Xađuxêu, Nhiệt thành, Eùtxênê là những nhóm đã biến mất sau vụ binh biến. Thế mà Kitô giáo vẫn tồn tại. Và, cho dù một số người Kitô hữu dễ dãi nói thế nào đi nữa, Giuđa giáo thời Chúa Giêsu cũng vẫn tồn tại.

Phải công nhận thật là thú vị khi nhắc lại đôi nét về lịch sử. Ngày 29.11.1947, trong lúc Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc bỏ phiếu chấp thuận chia cắt phần đất Palestin, mở ra con đường cho việc thành lập Nhà Nước Ítraen, giáo sư Eleazar Sukénik, trường đại học Do thái ở Giêrusalem, người đã biết tới những cuộn sách ở Biển chết, đã đến Bêlem tìm đến tận nơi người Bédouins cất giữ những cuộn sách trên. Huyền thoại về Qumran bắt đầu và kèm theo là những bóng ma về một quá khứ mà người ta tưởng đã quên.

Bên cạnh những cuộn sách đó, còn một sự kiện khác. Bốn tháng sau khi thành lập Nhà Nước Do thái, Toà án tối cao Ítraen được triệu tập, chủ tịch là tiến sĩ Moshé Zamora. Cuộc họp diễn ra trong vòng bí mật, mục đích để giải quyết lá thư của một giáo sư người Hà lan, ông Henri Douba Groskempf, ông này yêu cầu phải xem lại vụ án đức Giêsu. Theo ông, Toà án tối cao Ítraen có thể được coi là toà thượng thẩm đối với những quyết định của các vị tiền nhiệm của họ, thượng hội đồng ngày xưa. Những chứng cứ vị giáo sư đưa ra thật đáng ngạc nhiên. Ông lập luận rằng những người Do thái ngày xưa đã từ chối nhìn nhận đức Kitô là đấng Metxia vì theo quan niệm của họ, đấng Metxia gắn liền với việc giải phóng. Vậy nay đã có giải phóng rồi, Nhà nước Ítraen đã hồi sinh từ đống tro tàn, vụ án đức Giêsu phải được xét lại.

Toà quyết nghị: yêu cầu trên không thuộc thẩm quyền của toà, và cũng quyết định việc điều tra vẫn được thực hiện một cách âm thầm. Nhưng công việc đã bị rò rỉ, báo chí săn tin tới tấp. Thư từ đầy ắp trên chiếc bàn tại văn phòng ông chánh án. Tất cả những thư từ đó đều yêu cầu phải xét lại vụ án. Ai cũng bảo vệ lập trường của mình. Có thư nêu lên những sai sót trong tiến trình vụ án, đặt vấn đề về thẩm quyền của thượng hội đồng, và thẩm quyền của Philato. Có thư bổ sung những tình tiết củng cố lý do tố cáo: việc chữa bệnh trái phép, quấy rối trật tự xã hội… Trước những dư luận đó, toà án có thể giữ im lặng đến bao giờ? Moshé Zamora nhờ đến anh con rể của mình là Haim Cohen, cố vấn pháp luật của David Ben Gourion và là chuyên viên lịch sử pháp luật. Họ tìm hiểu xem những khẩn cầu gởi đến toà án có mục đích gì? Giá trị của những lập luận đòi xét lại vụ án của đức Giêsu? Ai đã kết án đức Giêsu? Vì mục đích gì? Và rất nhiều câu hỏi mà Haim Cohen phải trả lời bằng thư riêng. Công việc này đã chiếm thời gian của ông rất nhiều. Mãi 20 năm sau mới có một bản điều tra cẩn thận có tính cách pháp lý về vụ án của đức Giêsu. Năm 1968, một cuốn sách được xuất bản tựa đề “Vụ án và cái chết của đức Giêsu”. Cuốn sách đã gây được tiếng vang lớn tại Ítraen.

Trở lại với những sự kiện như đã được tác giả các sách Tin Mừng kể lại. Buổi tối trước ngày lễ Vượt qua, hay theo Gioan, buổi chiều ngày lễ Vượt qua, người Do thái đã bắt đức Giêsu và giải đến nhà vị thượng tế. Theo phần đông các sử gia, vị thượng tế đã triệu tập thượng hội đồng tại nhà ông để giải quyết một vụ án hình sự theo luật Do thái. Còn tội danh? Đức Giêsu bị tố cáo là đã xúc phạm danh Thiên Chúa nên bị kết án tử hình. Theo Haim Cohen, diễn tiến đó không tuân thủ luật pháp. Về những tội hình sự, thượng hội đồng chỉ được triệu tập trong “căn phòng có tường đá chẻ” được trù liệu cho công việc như thế, không thể diễn ra tại nhà vị thượng tế. Thượng hội đồng cũng không thể tập họp giữa đêm khuya và càng không thể vào những ngày lễ hay ngày áp lễ. Tội nhân cũng không thể bị kết án theo lời khai của chính mình. Thế mà vị trước câu hỏi của vị thượng tế có phải ngài là con Thiên Chúa? Chính đức Giêsu đã trả lời: “đúng như ông nói” (Mt 26,64). Cuộc họp tại nhà vị thượng tế không thích hợp cho một phiên toà, theo Haim Cohen, có thể đó chỉ là một cuộc điều tra. Thượng hội đồng được triệu tập để canh chừng đức Giêsu. Chẳng có cách nào khác để tránh những đe doạ từ phía người Roma nguy hại cho đức Giêsu hay sao? Tại sao khi muốn giải cứu đức Giêsu, thượng hội đồng đã không tìm cách theo ý kiến dân chúng? Sáng hôm sau, đức Giêsu được dẫn tới vị tổng trấn, “ông có phải là vua dân Do thái không?” Philatô hỏi. “Đúng như ông nói” đức Giêsu trả lời. Đến đây vụ án đã được quyết định.

Đề tài trên có nhiều giải đáp. Haim Cohen rất nghiêm túc và tôn trọng tính tế nhị của vấn đề. David Ben Gourion cũng không thể ngồi yên. Chỉ cần đến thăm nơi ở của vị sáng lập nhà nước Ítraen, số 3, đường Sderot-Ben-Gourion, thành phố Tel-Aviv đủ thấy điều đó. Tủ sách của ông có khoảng 4.000 cuốn sách, suốt một vách tường toàn những sách về Kitô giáo và những mối liên hệ giữa Do thái giáo và Kitô giáo. Những tư liệu này đã không ngừng giúp ông đào sâu về căn tính của người Do thái. Câu trả lời trong một cuộc phỏng vấn năm 1961 là bằng chứng (xin xem dưới đây).

Công việc của Haim Cohen, các mục giới thiệu trên phương tiện truyền thông, kèm thêm việc khám phá những thủ bản ở Biển Chết, việc Giáo hội Công giáo thay đổi thái độ với những người Do thái – một cuộc cách mạng mà lập trường can đảm của Giáo hội Pháp đã nhanh chóng tham gia –, việc toà thánh nhìn nhận nhà nước Ítraen, tất cả những yếu tố đó thúc đẩy có cái nhìn mới về vị trí của Kitô giáo thời đầu trong việc khai sinh Do thái giáo thời rabbi. Rất nhiều nhà nghiên cứu người Ítraen, phần đông là những người Do thái thực hành, đã dấn thân vào con đường mà Joseph Klausner, người tiên phong, đã mở ra năm 1922 với tác phẩm “Giêsu Nagiaret, thời đại, cuộc đời và giáo lý”. Trong tác phẩm này, ông tuyên bố: “thật thích thú, khi lần đầu tiên thế giới không Do thái có thể nghe một người Do thái trung thành với tôn giáo và dân tộc mình nói về biến cố hoàn toàn thuộc về người Do thái mà người ta gọi là “Giêsu Nagiaret”. Những nhà  nghiên cứu đó hiện nay vẫn còn: Salomom Malka đã có những cuộc găp gỡ với họ.

Trong chuyện hoàng tử nhỏ, khi cậu bé muốn người ta vẽ ra cho cậu hình ảnh con cừu, anh phi công đã vẽ một chiếc hộp và nói rằng con cừu ở trong chiếc hộp. Triết gia Emmanuel Levinas cũng tưởng tượng rằng trong chiếc hộp này cũng chứa đựng mầu nhiệm về các mối liên hệ giữa Do thái giáo và Kitô giáo: “Tôi không thể vẽ ra giải pháp cho những vấn đề không thể giải quyết. Nó còn nằm ngủ dưới đáy chiếc hộp được gìn giữ bởi những con người đang xích lại gần nhau (…) Tôi có cảm tưởng về một điều có thể nơi cái không thể”.

TSTH Số 18

Nguồn : Đaminh Việt Nam