Ngày của Bữa Tiệc Ly, một giả thuyết
Căn cứ vào một loạt nghiên cứu dựa
trên văn chương ngoại thư, tài liệu Biển Chết, các giáo phụ và phụng vụ tiên
khởi, trình thuật Khổ Nạn trong Phúc Âm, Sách Năm Thánh và được hỗ trợ bởi tư
liệu Qumran, người ta đã chứng minh được sự hiện hữu của một lịch phụng vụ khác
với lịch tư tế “chính thức”.
Chúa Kitô, khi theo lịch này, đã ăn
Bữa Tiệc Ly vào tối Thứ Ba. Giả thuyết này được hỗ trợ phần nào nhờ trình thuật
của Phúc Âm, nếu ta muốn giảng hòa giữa thời biểu Gioan và thời biểu Nhất Lãm,
nhờ thế ta có được thì giờ hợp lý cho một diễn tiến hoàn hảo của các biến cố.
Trước nhất ta có công trình nghiên
cứu của Cô Annie Jaubert. Cô là người phụ nữ duy nhất thuộc Trường Thánh Kinh
Giêrusalem và là một Phụ Tá tại Đại Học Sorbonne. Tư cách ấy khiến người ta lưu
ý đến các ý kiến của cô vào lúc (thập niên 1960) ngành nghiên cứu Thánh Kinh
gần như là độc quyền của nam giới. Cuốn sách của cô về Ngày của Bữa Tiệc Ly (1)
đã lôi cuốn chú ý của nhiều học giả lúc đó. Phản ứng của họ đi từ hân hoan đón
nhận các kết luận của cô tới gần như bác bỏ hoàn toàn và đầy xúc động. Tuy
nhiên, không ai có thể bác bỏ rằng cuốn sách của cô, đúng như lời cô nói, là
“một lời mời nghiên cứu”. Và quả nó đã dẫn nhiều nhà chuyên môn tiếp nhận lời
mời của cô, hay chấp nhận lời thách thức của cô, để “thử nghiệm, trong lãnh vực
của mình, tính vững chắc của giả thuyết, và trả lời cho những dấu hỏi mới xuất
hiện trên mỗi bước nghiên cứu”.
Lãnh vực nghiên cứu thì khá nhiều,
vì cô khởi đầu với ngoại thư Năm Thánh (Jubilees) và tư liệu Qumran, sau đó đi
vào giai đoạn thích thú nhất trong trình thuật Phúc Âm về Cuộc Khổ Nạn và sau
đó xem sét chi tiết các nền phụng vụ tiên khởi và các giáo phụ. Cuốn sách thực
ra chủ yếu in lại ba bài báo đã đăng tải trước đó (2). Có ba phụ lục và ba tờ
giấy gấp, mà hai trong số ấy dành trình bày theo lối dẫn đắc (concordance) các
đoạn Phúc Âm nói về Cuộc Khổ Nạn dưới ánh sáng giả thuyết của cô.
Lịch của Sách Năm Thánh và tài liệu
Qumran
Phần đầu tiên và là phần dài nhất
của sách nói đến sự hiện hữu và việc sử dụng một lịch Do Thái xưa. Sách ngoại
thư Năm Thánh (book of Jubilees), có từ thập niên cuối cùng của thế kỷ thứ hai
trước Công Nguyên (BC), cho thấy tự nó cũng đủ nói lên sự hiện hữu của lịch
này. Tuy nhiên, sở dĩ phải nghiên cứu về nó vì tác giả hiểu ra tầm quan trọng
rất lớn của sách này đối với cộng đoàn Qumran. Nhiều phần của ít nhất chín bản
chép Sách Năm Thánh bằng tiếng Hebrew đã được tìm thấy tại đây. Thủ Bản Môn Đệ
(Manual of Disciples) cho thấy lịch ấy là lịch của cộng đoàn này.
Lịch chia năm 364 ngày thành bốn
phần tư (quí) đều nhau, mỗi phần 13 tuần lễ, mỗi tuần lễ 7 ngày. Hai tháng đầu
của mỗi quí có 30 ngày, tháng thứ ba có 31 ngày. Không có bằng chứng nào cho
thấy sự khác biệt gần như 1 1/4 ngày giữa lịch này và lịch mặt trời đã được
giải quyết ra sao. Jaubert cho rằng cứ 28 năm lại chêm vào một tháng 35 ngày.
Một lịch như thế đem lại tính đều
đặn rất đáng kể cho bất cứ chu kỳ phụng vụ nào trong đó các ngày lễ được tính
theo ngày trong tháng. Mỗi quí sẽ bắt đầu vào cùng một ngày trong tuần, và một
khi ngày đầu năm đã được xác định, thì ngày trong tuần trong đó ngày lễ rơi vào
sẽ được tính dễ dàng. Linh mục Barthelemy O.P. (3) cho thấy rằng ngày đầu năm
rơi vào Thứ Tư. Thì, theo lịch này, ngày Lễ Vượt Qua, tức ngày thứ 15 của tháng
thứ nhất (4) cũng sẽ rơi vào ngày Thứ Tư, và Bữa Ăn Vượt Qua phải được ăn vào
tối Thứ Ba.
Đâu là nguồn gốc của lịch này?
Sách Năm Thánh và cộng đoàn Qumran
coi việc họ giữ lịch này là biện pháp họ trung thành với luật Môsen, vì lịch
này do Môsen áp đặt, nên nếu không theo nó là ‘bước đi theo đường lối Dân
Ngoại’ (5), một điều cũng xấu như ‘ăn máu’ vậy. Đâu là lý do khiến họ có thái
độ hoàn toàn không chịu thỏa hiệp này?
Jaubert chứng minh rằng đây là một
lịch truyền thống có nguồn gốc trong các giới tư tế ít nhất từ thời Lưu Đày.
Sau cùng, một nhóm tư tế, vì muốn trung thành với lịch của Sách Năm Thánh, buộc
phải tách rời khỏi việc thờ phượng ở Đền Thờ là nền phụng vụ từng bỏ lịch này
để thoả hiệp với lịch Hy Lạp dựa trên cách tính mặt trăng. Đó là động lực khiến
cộng đoàn Qumran ly khai khỏi Do Thái Giáo chính thức.
Nếu lịch này thực sự là một truyền
thống tư tế cổ xưa, thì người ta có quyền trông mong tìm được một vài dấu chỉ
của nó trong các phần Cựu Ước mà nền phê bình chữ nghĩa thường gán cho truyền
thống tư tế. Khi khảo sát các phần này, Jaubert đạt được một vài kết luận đáng
chú ý. Đổi các ngày có đánh số của các tháng có đánh số trong Ngũ Kinh (6) sang
ngày trong tuần, ta sẽ thấy rằng ngày đến phải là ngày Thứ Sáu, không ai du
hành vào ngày Sabát, ngày lên đường bắt đầu vào Chúa Nhật, ngày sau ngày Sabát
(7). Các kết quả tương tự cũng có được nhờ khảo sát Sách Paralipomena, Étra,
Nơkhemia và Êdêkien. Đây là một thủ nghiệm tiêu cực, nhưng lịch sách Năm Thánh
và Qumran rất tương đắc với các đoạn văn này.
Ta biết rằng lịch này được tuân giữ
nghiêm nhặt tại cộng đoàn Qumran. Ta không biết nó được tuân giữ ra sao trong
các giới khác. Có thể có những người khác theo đường trung dung bằng cách thích
nghi với các giai đoạn của mặt trăng, nhưng vẫn cử hành các ngày lễ hàng năm
vào cùng một ngày trong tuần. Dù sao, ta biết chắc bắt đầu từ thế kỷ thứ nhất,
đã có sự hiện diện của hai lịch phụng vụ. Trong một lịch, các ngày lễ được cử
hành vào ngày của tháng mặt trăng. Đó là lịch chính thức mà ta biết được là nhờ
Do Thái Giáo của các thầy Rabbi sau này (8). Trong lịch kia, các ngày lễ rơi
vào ngày nhất định trong tuần. Các tín liệu của chúng ta liên quan đến lịch này
là rút tỉa từ các tài liệu của Qumran, Thủ Bản Môn Đệ, Tài Liệu Đa-mát, Sách
Năm Thánh.
Giả thuyết mới về ngày của Bữa Tiệc
Ly
(a) Giả thuyết
Giả thuyết của Jaubert như sau: Chúa
Kitô ăn Bữa Tiệc Ly vào tối Thứ Ba. Khi làm thế, Người đã theo một lịch xưa,
ngược với lịch ‘chính thức’ là lịch cử hành Lễ Vượt Qua vào một ngày trong tuần
và ngày này thay đổi hàng năm và năm Chúa Kitô chịu chết, nó rơi vào ngày Thứ
Bẩy. Lịch ‘chính thức’ được các tư tế tuân giữ, họ là những người xếp đặt cái
chết của Người và họ ăn Bữa Vượt Qua vào đêm Thứ Sáu.
(b) Hỗ trợ cho giả thuyết này trong
truyền thống Kitô Giáo
Tài liệu nào có thể biện minh cho
giả thuyết trên? Dù có chấp nhận sự hiện hữu của hai thứ lịch, liệu ta có lý do
gì để tin rằng Chúa Kitô theo một lịch nhất định nào đó? Thực ra, có nhiều tài
liệu tiên khởi của Kitô Giáo cho thấy họ duy trì truyền thống cho rằng Chúa
Kitô ăn Bữa Tiệc Ly vào tối Thứ Ba. Tài liệu Didascalia Apostolorum, một
tuyển tập Kitô Giáo của thế kỷ thứ ba hay thế kỷ thứ hai, quả quyết trong ba
ngữ cảnh khác nhau việc Chúa Kitô ăn Bữa Vượt Qua vào tối Thứ Ba, bị trao nộp
hôm Thứ Tư và chịu đóng đinh hôm Thứ Sáu (9). Chứng cớ tương tự như thế cũng
tìm thấy trong Epiphanius (10). Dù biết Didascalia, nhưng Epiphanius xem
ra không lệ thuộc nó để biết truyền thống này. Hơn nữa, ông còn biết truyền
thống đêm Thứ Năm và phản đối không chấp nhận truyền thống này (11). Victorinus
thành Pettau, Syria (Pannonia), qua đời năm 304, mà chứng cớ cho thấy không hề
chịu ảnh hưởng của Didascalia, cũng biết và nhìn nhận truyền thống cho
rằng Chúa Giêsu bị bắt hôm Thứ Tư (12).
Truyền thống chung của Victorinus và
Didascalia hẳn phải có trước họ. Nếu ta định niên biểu cho Didascalia
ở đầu thế kỷ thứ 3, thì truyền thống này hẳn phải có từ thế kỷ thứ 2. Các dấu
chỉ trong nó cho thấy nó có nguồn gốc Do Thái và Kitô Giáo.
(c) Nguồn gốc của Truyền Thống Thứ
Năm
Truyền thống coi Bữa Tiệc Ly diễn ra
vào hôm vọng ngày Chúa Kitô chịu chết đã có từ lúc nào?
Nhắc tới Bữa Tiệc Ly lần đầu chính
là Thánh Phaolô. Thánh nhân nói rằng: “vào đêm bị phản bội” (13). Đó là những
lời thuộc truyền thống lâu đời nhất ta hiện có, nhưng chúng đâu có nói tới hôm
trước ngày (eve) Chúa Chết. Trên thực tế, cũng những lời ấy đã được sử dụng
trong các nền phụng vụ lâu đời nhất, trong Truyền Thống Tông Đồ của Hippolytus,
trong Ước Thư Chúa Giêsu Kitô Chúa Chúng ta và trong Hiến Chương Tông Đồ (14).
Phụng vụ Rôma dùng thuật ngữ “pridie quam pateretur” (15). Ấy thế nhưng, trước
hạ bán thế kỷ thứ tư, lại không có việc tưởng niệm Bữa Tiệc Ly vào Thứ Năm Tuần
Thánh (16).
Nhưng nếu các nguồn phụng vụ chậm
trễ trong việc chứng nghiệm truyền thống Thứ Năm thì một số giáo phụ đã nhắc
đến nó từ hạ bán thế kỷ thứ nhất (17). Và kể từ năm 165, điều ấy đã được coi
như hậu quả tự nhiên của khoa giải thích về việc Chúa Kitô chịu chết hôm Thứ
Sáu. Xem ra đó là một diễn dịch từ văn bản Phúc Âm hơn là một truyền thống có
từ thời trước.
Thời Biểu Trong Trình Thuật Khổ Nạn
Của Phúc Âm
Có thể nào giảng hòa Bữa Tiệc Ly đêm
Thứ Ba với bản văn Phúc Âm được chăng? Đây là câu hỏi được bàn tới trong phần
thứ ba và là phần đáng lưu ý nhất của sách.
(a) Thời biểu Gioan và Nhất Lãm?
Từ giữa thế kỷ thứ hai, các nhà chú
giải đã phải vật lộn với vấn đề thời biểu phát sinh từ các chi tiết khác nhau
giữa trình thuật Gioan và trình thuật Nhất Lãm về Cuộc Khổ Nạn. Cả hai truyền
thống Gioan và Nhất Lãm đều nhất trí rằng Chúa qua đời ngày Thứ Sáu (18). Nhưng
đối với Gioan, Chúa Kitô bị nộp cho người Do Thái vào hôm vọng Lễ Vượt Qua
(19). Mà lễ Vượt Qua là ngày Thứ Bẩy. Trong trình thuật Nhất Lãm, Chúa Kitô bị
nộp vào tay kẻ thù của Người vào đêm Người dùng bữa mà bề ngoài đúng là Bữa Tối
Vượt Qua (20). Như thế, rõ ràng Lễ Vượt Qua xẩy ra vào ngày Thứ Sáu. Thế nhưng,
các phúc âm Nhất Lãm lại nhắc tới những biến cố cho thấy sinh hoạt ấy, ít nhất
theo Mishna, hoàn toàn bị cấm trong ngày lễ (21).
Các giải đáp được các nhà chú giải
đưa ra thì đa dạng (22). Có thể phân chia thành ba loại tùy theo họ chấp nhận
Bữa Vượt Qua vào Thứ Sáu như Nhất Lãm, Bữa Vượt Qua vào Thứ Bẩy như Gioan, hay
nói tới hai ngày khác nhau do các nhóm khác nhau tuân giữ. Một số vị còn đề
nghị giải thích việc đó là do việc theo các lịch khác nhau (23). Đề nghị này
lúc đó không được một tài liệu nào nâng đỡ vì vào thời Chúa Giêsu, không một
nhóm nào trong lòng đất nước Do Thái theo một lịch khác với lịch chính thức.
Đến thời ta, việc ấy mới được chứng minh nhờ điển hình cộng đoàn Qumran.
Nếu ta áp dụng truyền thống trong Didascalia
vào trình thuật Phúc Âm, thì sự dị biệt giữa Gioan và Nhất Lãm sẽ được giải
quyết. Vì như thế, Chúa Kitô cử hành Lễ Vượt Qua vào tối Thứ Ba, ngày vọng Lễ
Vượt Qua theo lịch tư tế xưa. Bị bắt đêm Thứ Ba rạng ngày Thứ Tư, Người qua đời
hôm Thứ Sáu, ngày vọng Lễ Vượt Qua theo lịch chính thức.
Hai Lễ Vượt Qua ấy cách nhau 3 ngày
(24). Trong các Phúc Âm Nhất Lãm, Lễ Vượt Qua đây chỉ Lễ Vượt Qua theo lịch xưa.
Trong các giới mà các Phúc Âm này được viết cho, ai cũng hiểu điều ấy. Trái
lại, Thánh Gioan viết cho cử tọa chiụ ảnh hưởng Hy Lạp, và đối với dân Do Thái
tản mạn bên ngoài lãnh thổ (Diaspora), có lẽ Lễ Vượt Qua chỉ là Lễ được cử hành
vào ngày 15 của tháng mặt trăng. Vả lại, vì Thánh Gioan là người vốn quan tâm
đến việc chứng tỏ Chúa Kitô là Đấng thiết lập ra việc thờ phượng Thiên Chúa
“trong tinh thần và trong chân lý”, nên ngài muốn thay thế hy lễ Đền Thờ bằng
hy lễ của Chúa Kitô.
Như thế, điều ta nhận được ở đây
không phải là sự dị biệt về thời biểu mà là hai quan điểm khác nhau. Đây không
phải là vấn đề hoặc là/hoặc là (either/or); mà có thể là cả hai (both). Nhưng
điều này sẽ đem lại lý lẽ lý thú cho những tranh cãi sau này về Lễ Vượt Qua.
Trong các tranh cãi này, cả hai bên đều nhấn mạnh rằng họ theo truyền thống
tông đồ. Đức Giáo Hoàng Victor nhấn mạnh vào ngày nhất định trong tuần, trong
khi các Kitô hữu vùng Tiểu Á lại theo một ngày thay đổi, chỉ cố định vào ngày
14 trong tháng.
Một vấn đề khác trong thời biểu Phúc
Âm mà Jaubert nghĩ giả thuyết của cô sẽ giải quyết được là vấn đề ngày xức dầu
thơm tại làng Bethany, được Thánh Gioan nói là xẩy ra 6 ngày trước Lễ Vượt Qua,
trong khi Thánh Mátthêu và Thánh Máccô lại đặt ngày ấy sau ngay câu nói: Lễ
Vượt Qua sẽ xẩy tới sau đó hai ngày (25). Theo nghĩa vốn gán cho bản văn này,
và đếm từ Lễ Vượt Qua vào ngày Thứ Ba, thì việc xức dầu thơm kia sẽ là ngày
Chúa Nhật, hay, như Jaubert nghĩ, là ngày Thứ Bẩy, cùng ngày như cách tính 6
ngày từ Thứ Sáu Vượt Qua của Phúc Âm Gioan.
(b) Yếu tố thời gian trong trình
thuật Phúc Âm
Khó khăn vẫn là dường như các phúc
âm không duy trì một ký ức nào về 3 ngày của cuộc Khổ Nạn. Nhưng có một câu hỏi
hiển nhiên xuất hiện từ trình thuật Phúc Âm. Nếu Chúa Kitô bị bắt vào buổi tối
trước khi Người chịu đóng đinh, thì tại sao lại có quá nhiều biến cố xẩy ra
trong khoảnh khắc giữa lúc bị bắt và lúc bị đóng đinh? Hãy chỉ xem các Phúc Ấm
Nhất Lãm mà thôi:
i. Xuất hiện trước Thượng Hội Đồng
“Các thượng tế, kỳ mục và kinh sư tề
tựu đông đủ” (26), “toàn thể Thượng Hội Đồng” (27). Họ tìm nhân chứng buộc tội
nhưng không tìm ra ai. Tuy nhiên, có nhiều lời cung khai, nhưng không ăn khớp
với nhau. Và mãi về sau (28), mới có những người tố cáo Chúa Kitô có ý định phá
Đền Thờ (29). Cuối cùng, là lời kết án long trọng của thượng tế và sau đó bản
án nhất trí đã kết thúc thảm kịch.
Các bản văn này không cho ta cảm
tưởng đó là một phiên tòa vội vàng. Thánh Máccô không hề có ý định rút ngắn
phiên họp của Thượng Hội Đồng bằng cách vội vã cho triệu tập một số ít thành
viên giữa đêm khuya, cũng không phải để chỉ nghe 2 hay 3 nhân chứng được mua
chuộc từ trước. Mà đúng hơn, Thượng Hội Đồng đã được triệu tập một cách trang
trọng; khó khăn mãi mới tìm ra nhân chứng để biện minh cho bản án.
ii. Sau đó
, Mátthêu và Máccô miêu tả sự xỉ vả và đánh đập Chúa Kitô,
một màn cũng được Thánh Luca mô tả, và rồi đến phiên họp thứ hai của Thượng Hội
Đồng vào “sáng sớm”. Toàn thể Thượng Hội Đồng lại được triệu tập (30). Sau
phiên họp này, Chúa Kitô bị dẫn tới Philatô.
iii. Chúa Kitô trước Philatô
Philatô chả có lý do gì phải vội vã
đưa ra quyết định. Các bản văn đều cho thấy ông ta do dự; ông ta thẩm vấn Chúa
Kitô nhiều lần, bối rối vì vụ kiện đặc biệt này (31). Khi biết Chúa là người
Galilê, ông ta bèn cho điệu Người tới Herod. Sau khi không khiến cho Người lên
tiếng, ông này đã cho điệu Người trở lại với Philatô (32).
Thánh Luca phân biệt hai lần xuất
hiện trước Philatô. Trong lần thứ hai, Philatô cho vời các thượng tế và lãnh tụ
dân (33) lúc đó đang tản mạn khắp nơi. Mátthêu gợi ý một khoảng cách ở đây bằng
cách cho chêm vào câu truyện Giuđa hối hận đi tìm các thượng tế và kỳ mục (34).
Ngay trong phiên họp thứ hai, việc lên án cũng không xẩy ra ngay tức khắc. Vẫn
còn việc thảo luận với đám đông và việc thả tự do cho Baraba (35). Cuối cùng
còn có màn đánh đập và chuẩn bị đóng đinh.
Câu truyện sẽ trở nên khả tín hơn
nếu các biến cố trên trải dài trong khoảng từ Thứ Tư tới Thứ Sáu. Sụ thay đổi
nơi đám đông cũng sẽ dễ hiểu hơn nếu các tư tế có ít nhất một ngày để gây ảnh
hưởng.
iv. Thánh Máccô
tuyên bố rằng Chúa Kitô bị đóng đinh vào giờ thứ ba. Có một
khó khăn thời danh ở đây vì Thánh Gioan cho rằng phiên xử của Philatô xẩy ra
vào khoảng giờ thứ sáu (36). Người ta thường thích thời khóa biểu dài của Gioan
hơn là thời khóa biểu ngắn của Máccô và giờ thứ ba của Máccô đã được kéo dài ra
để phù hợp với Gioan. Nhưng giờ của Máccô đã được duy trì trong truyền thống
phụng vụ (37). Dù sao, nếu duy trì giờ trễ hơn của Gioan, thì giờ ấy vẫn ngắn,
và khó mà quan niệm được việc có quá nhiều biến cố xẩy ra trong một khoảng thời
gian ngắn ngủi như thế. Nại tới Phúc Ân thứ tư lại càng gia tăng cái khó khăn
về thì giờ, vì nó còn thêm vào trình thuật Nhất Lãm các biến cố như việc Annas
tra vấn Chúa Giêsu trước khi Người bị giải tới Caiphas (38).
Nhét ngần ấy các biến cố vào khoảng
thời gian chỉ có 12 tiếng xem ra hơi quá đáng. Đàng khác, Mishna buộc phải có
khoảng cách 24 tiếng giữa phiên tòa và việc lên án trong trường hợp phải trừng
phạt bằng án tử hình. Do đó, bộ luật này nhấn mạnh rằng nhnữg vụ như thế không
được xử vào vọng ngày sabát hay vọng ngày lễ (39). Bị bắt vào đêm Thứ Ba rạng
Thứ Tư sẽ giúp khả thể có quyết định vào Thứ Năm, cho phép khoảng cách một ngày
như vừa nói. Sự do dự của Philatô đã đem màn cuối cùng qua tới sáng Thứ Sáu.
(c) Phêrô chối Chúa
Giả thuyết cũng cung cấp giải đáp
cho nhiều khó khăn khác. Liệu có chi tiết nào trong Phúc Âm có thể phá hủy được
giả thuyết này không?
Cả bốn Phúc Âm đều đặt các lần Phêrô
chối Chúa vào đêm Chúa bị bắt. Mátthêu và Máccô chêm câu truyện xử án tại nhà
thượng tế vào câu truyện Phêrô chối Thày (40). Như thế, nếu các lần chối này
xẩy ra trong đêm, thì dường như phiên xử cũng vậy. Nhưng Thánh Luca lại đặt nó
vào ban ngày (41). Thánh Gioan hình như cùng ý kiến như Thánh Luca, vì cuộc tra
vấn của Annas xẩy ra ban đêm.
Nhưng Thánh Gioan không mô tả cả
phiên toà lẫn án tòa, mà chỉ kể việc Annas tra vấn, sau đó, Chúa Giêsu bị dẫn
tới Caiphas (42). Điều ấy xem ra bất thường đến nỗi một số người đề nghị đặt
câu 24: “Annas cho giải Người còn bị trói tới thượng tế Caiphas” giữa câu 13 và
14 để cuộc tra vấn diễn ra trước mặt Caiphas (43).
Đối với giả thuyết đang bàn, điều ấy
không cần thiết. Thánh Gioan mô tả đêm Chúa bị bắt. Chúa Kitô bị dẫn tới Annas.
Cuộc tra vấn này rất khác với phiên xử, nên không cần phải gán nó cho Caiphas.
Theo Thánh Gioan, các lần chối Chúa của Phêrô xẩy ra tại nhà Annas. Phêrô vào
sân trước của nhà này, và các lần ông chối Chúa xẩy ra tại đó, hai lần sau xẩy
ra bên cạnh đống lửa nơi ông tới sưởi ấm (44). Ở đây, truyền thống mà Thánh
Gioan theo đã được Thánh Luca nhập cuộc (45). Thứ tự các biến cố đặt hai lần
chối cuối cùng ở lúc Chúa Giêsu bị Annas cho dẫn tới Caiphas cũng xưa như cuốn
Diatesseron (cuốn phối hòa 4 Phúc Âm) của Tatian (46).
Thời biểu chi tiết sau đây đã được
đề nghị:
Đêm Thứ Ba rạng Thứ Tư
: Chúa Giêsu bị bắt, bị dẫn tới thượng tế (Mc 14:53; Lc
22:54) Annas (Ga 18:13), và bị ông này tra vấn (Ga 18:19f). Lúc gà gáy, Người
bị dẫn tới Caiphas (Ga 18:24).
Thứ Tư
: Xử án (Mc 14:55-64); bị nhục mạ và đánh đập (Mt 26:68)
Sáng Thứ Năm
: Lên án (Mt 27:1; Mc 15:1); Chúa Giêsu bị dẫn tới Philatô
(Mt 27:2; Mc 15:1; Lc 23:1; Ga 18:28); Chúa Giêsu bị điệu tới Herod (Lc 23:
6-12).
Sáng Thứ Sáu
: Trước mặt Philatô lần thứ hai (Lc 23:13); bị kết án và bị
đóng đinh.
Không một phúc âm gia nào mô tả hết
mọi biến cố trên. Chỉ có Thánh Gioan thuật lại việc Annas tra vấn. Thánh Luca
là soạn giả duy nhất thuật lại hai lần xuất hiện trước Philatô, dù ngài gói gọn
việc xử án và lên án vào phiên sử buổi sáng của Thượng Hội Đồng. Thánh Mátthêu
và Thánh Máccô nói tới hai phiên xử. Mỗi phúc âm trong 4 phúc âm này đều chỉ kể
lại một số sự kiện (episodic), rút gọn bằng cách lồng (telescoping) nhiều biến
cố vào nhau. Khi sắp đặt các sự kiện, các ngài biết việc mình cho các biến cố
rời rạc nhau một trật tự nào đó, nhưng không hề có ý định quả quyết rằng đó là
thứ tự thời gian chính xác. Bằng cách sử dụng các dấu mốc của Thánh Gioan và
Thánh Luca, ta có thể làm tròn bức tranh của Thánh Mátthêu và của Thánh Máccô.
(d) Thời biểu này đã phai mờ ra sao?
Vẫn còn một câu hỏi quan trọng cần
được trả lời. Trong các trình thuật Phúc Âm hiện ta đang có, ghi chép minh
nhiên về ba ngày Khổ Nạn đã bị mất như thế nào?
Việc dạy giáo lý khẩu truyền lúc ban
đầu, tức giáo huấn đi trước các Phúc Âm bằng chữ viết phần lớn quan tâm nhiều
đến nội dung các sự kiện và ý nghĩa tín lý của chúng hơn là diễn biến theo thứ
tự thời gian. Nó nhằm trình bày các sự kiện được giáo huấn tông đồ dựa vào, chỉ
giữ lại những chi tiết mà giáo huấn này thấy cần thiết, chứ ít chú trọng tới
ngày tháng chính xác xẩy ra các sự kiện ấy. Phúc Âm Thánh Máccô, chẳng hạn,
không giúp ta xác định ngày tháng của thừa tác vụ Chúa Giêsu, cũng như thời
gian kéo dài của thừa tác vụ ấy. Việc rút ngắn bằng cách lồng hai biến cố riêng
rẽ hay tương tự nhau không phải là việc khó khăn gì. Hai cuộc tra vấn của Annas
và Caiphas, cả hai đều là thượng tế, đã được kết hợp thành một trong hai Phúc
Âm Mátthêu và Máccô. Hai phiên họp của Thượng Hội Đồng cũng có cùng một số phận
trong Luca. Hai lần Chúa Giêsu xuất hiện trước Philatô cũng trở thành một trong
Máccô và Gioan. Điều quan trọng là trình bày nhục cảnh chưa nghe thấy bao giờ
về một Đấng Quân Vương bị đóng đinh, cho thấy rõ ai chịu trách nhiệm về việc
ấy, nghĩa là những sự việc mà giáo huấn tông đồ muốn minh họa. Việc rút gọn
bằng cách lồng các sự kiện vào nhau thay vì làm cản trở, thực ra đã giúp rất
nhiều trong việc tóm lược các bài giáo lý tiên khởi.
Nhưng khi việc dạy giáo lý này bước
từ khung cảnh Palestine, là khung cảnh vốn quen thuộc với Lễ Vượt Qua vào Thứ
Ba, qua thế giới ngoại giáo, vốn không biết một Lễ Vượt Qua nào khác mà chỉ là
Lễ Vượt Qua của người Do Thái ở hải ngoại (Diaspora) được tổ chức vào ngày thứ
15 của tháng Nisan, tính theo lịch mặt trăng, thì Bữa Tiệc Ly đã được liên kết
với Lễ Vượt Qua này, Lễ Vượt Qua ‘chính thức’. Jaubert nghĩ rằng trường hợp rút
gọn bằng cách lồng vào nhau rõ ràng nhất chính là việc hai Phúc Âm Mátthêu và
Máccô chuyển phiên họp của Thượng Hội Đồng lên đêm hôm trước. Chắc chắn điều ấy
giả thiết rằng các điều kiện thực sự mà việc xử án dựa vào đã bị bỏ quên, và cả
việc thiếu nhân chứng tận mắt nữa. Nhưng đến lúc sứ điệp Kitô Giáo được Phúc Âm
Máccô loan truyền thời Nêrông bách hại Đạo, điều quan trọng là phải loan truyền
sứ điệp chủ yếu của cứu độ, chứ không cần phải đảm bảo tính chính xác trong
thời biểu các biến cố. Mà cũng không cần thiết phải làm hại một truyền thống
vốn đã thành hình. Trình thuật phiên xử tại Thượng Hội Đồng, lúc ấy đã hiện hữu
như một đơn vị hoàn hảo, có lẽ đã được chêm vào trình thuật Phêrô chối Chúa
(47).
Phúc Âm Mátthêu theo chân Phúc Âm
Máccô trong việc chuyển đổi này, nhưng Thánh Luca, người biết cách sử dụng Phúc
Âm Máccô khi cần, nên đã không theo Phúc Âm này ở đây, có lẽ vì ngài có nguồn
tín liệu khác. Phúc Âm thứ tư bỏ qua phiên xử của Thượng Hội Đồng để nói chi
tiết nhiều hơn tới cuộc tra vấn của Annas. Điều này cho người ta cảm tưởng như
một hồi ức bản thân. Hai cuộc xuất hiện trước Philatô đã được ép lại thành một.
Vì quan tâm hàng đầu ở đây là quan tâm thần học, muốn làm nổi bật tư cách làm
vua của Chúa Kitô. Trung điểm trong trình thuật Gioan là việc đội mão gai.
Jaubert kết luận rằng: đối với thế
hệ Kitô hữu đầu tiên, Chúa Kitô cử hành Lễ Vượt Qua vào đêm Thứ Ba, theo một
lịch thánh từng điều hòa cuộc hành trình lâu dài của Dân Riêng qua sa mạc cũng
như nền phụng vụ xưa kia của Đền Thờ. Bởi thế, Bữa Tiệc Ly chất chứa mọi liên
kết với truyền thống tư tế đáng kính. Nó thay thế cho các bữa ăn hy tế của Luật
Cũ. Nó là đỉnh cao của nền phụng vụ Bánh Miến Không Men (Azymes).
Nhưng khi chết vào Thứ Sáu, ngày
vọng Lễ Vượt Qua chính thức, Chúa Kitô đã dùng chính mình Người thay thế cho
chiên sát tế của Đền Thờ. Không những Bữa Tiệc Ly là Bữa Vượt Qua, mà chính
Chúa Kitô cũng là Chiên Vượt Qua nữa. Từ giây phút ấy trở đi, Người là của hy
sinh độc nhất đã dùng máu mình thay thế máu chiên dê. Như thế, Chúa Kitô đã đem
lại với nhau gia tài kép của truyền thống Do Thái và làm nó nên hoàn hảo. Khi
Thánh Phaolô viết: “anh chị em hãy thanh tẩy khỏi men cũ… Chúa Kitô, đã chịu
hiến tế làm Chiên Lễ Vượt Qua của chúng ta” (48) là ngài đang nói lên niềm tin
tiên khởi của cộng đoàn Kitô hữu.
Ghi chú
(1) La Date De La Cène, Calendrier
Biblique et Liturgie Chrétienne. Etudes Bibliques. Paris, 1957
(2) Le Calendrier des Jubilés et de
la Secte de Qumran. Ses Origines Bibliques, trong Vetus Testamentum, III
(1953), 250-264
La Date de la Dernière Cène, trong Revue
de l’Histoire des Religions, CXLVI (1954), 140-173
Le Calendrier des Jubilés et les
Jours Liturgiques de la Semaine. Vetus Testamentum, VII (1957), 35-61.
(3) Notes en Marge de Publications
Récentes sur les Manuscrits de Qumran, Revue Biblique, LIX (1952),
199-203
(4) Lv 23:5; Đnl 16:8
(5) Jubilees 6:35; 6:38. Bản văn
trong R.H. Charles, The Apocrypha and Psedepigrapha of the Old Testament,
Oxford, 1913.
(6) St 7:11; 8:4; 8: 5, 13, 14; Xh
12:3, 31-35; 16:1; 40:1-17; Ds 1:1; 9:11; 10:11; 33:38; Đnl 1:3. Có thể thêm Gs
4:19.
(7) Ngay hòm bia cũng phải nghỉ vào
ngày Thứ Sáu (St 8:4)
(8) Muốn biết đầy đủ chi tiết về
lịch Do Thái, cách tính ngày và tháng, cách thêm ngày, xin xem Holmeister, Chronologia
Vitae Christi, Rome, 1933, 180-194.
(9) Didascalia Apostolorum,
chương 21; 14:4-9; 14:18-20; 17:7-8
(10) Các bản văn dễ thấy là Adversus
Haereses, II, 51, 26 trong Migne, PG XLI,
933ff, Expositio Fidei, XXII,
PG. XLII, 825f.
(11) Trong một mảnh tài liệu công bố
năm 1927, được Jaubert trích dẫn, tr.88
(12) Tractatus de Fabrica Mundi,
III, PL. V, 304f.
(13) 1Cor 11:23
(14) Apostolic Tradition, do
Dix hiệu đính, tr.8
Testament of Our Lord Jesus Christ
, do Rahmani hiệu đính, 41 (cả hai được Jaubert trích dẫn,
tr. 94)
Apostolic Constitutions
, VIII, 12 Tập XVII của bộ Ante-Nicene Christian Library, do
Roberts và Donaldson hiệu đính, Edinburgh, 1870, tr,231.
(15) Trong Lễ Qui Thánh Lễ Latinh,
“Paretur” (chịu khổ hình) chỉ việc Chúa Giêsu chịu chết. Từ ngữ này trích từ
Phúc Âm Luca 22:15; trong câu này, Người chọn kiểu nói ám chỉ Người sắp chịu
chết, và nghĩa này là nghĩa được các giáo phụ và phụng vụ tiếp nhận. “Thuật ngữ
‘pridie quam pateretur’ là ám chỉ phụ lấy từ bản văn Phúc Âm của một xã hội coi
ngày bắt đầu vào buổi sáng” (xem bài Patrick W. Skehan điểm sách của Jaubert
trong The Catholic Biblical Quarterly, XX (1958), nhất là tr. 198.
(16) Một sắc lệnh của Công Đồng
Carthage lần thứ ba ấn định việc ăn chay để rước lễ ngoại trừ vào ngày kỷ niệm
khi cử hành Bữa Tiệc Ly của Chúa. Xem Thánh Augustinô, Thư LIV Gửi Januarium,
dịch sang tiếng Anh trong The Fathers of the Church, New York, vol. 12,
256f.
(17) Clement of Alexandria, PG.
IX, 757f
Irenaeus, Adversus Haereses,
II, 22, 3. (Jaubert, tr.96).
(18) Mt 27:62; Mc 15:42; Lc 23:54;
Ga 19:31
(19) Ga 19:14
(20) Mt 26:17-19; Mc 14:12-16; Lc
22:7-15
(21) Như các hành vi phạm luật,
chuẩn bị vật liệu để xức xác (Lc 23:56), mang vũ khí (Mt 26:47, 51).
(22) Muốn có tóm lược các giải pháp
này, không cần đi đâu xa chỉ cần tham khảo cuốn thủ bản của Simon-Dorado, ấn
bản thứ 7, 1947, các trang 878-882.
(23) Xem Lagrange, Évangile selon
Saint Marc, ấn bản thứ 4, Paris 1947, tr. 362
(24) Việc cách biệt thời gian nhỏ
nhoi trong dịp này có thể là do tình cờ hay do đường lối trung dung giữa hai
thứ lịch, một đường lối chấp nhận lịch tư tế nghiêm nhặt tính theo chu kỳ mặt
trăng, nhưng duy trì cùng một ngày trong tuần cho lễ lạc phụng vụ. Xem Jaubert
tr.58.
(25) Mt 26:2,6; Mc 14:1,3
(26) Mc 14:53
(27) Mc 14:55
(28) Mt 26:40
(29) Mc 14:56-58; Mt 26:60f.
(30) Mc 15:1
(31) Mc 15:2-5; Mt 27:11-14
(32) Lc 23:6-12
(33) Lc 23:13
(34) Mt 27:3-10
(35) Mc 15:6-15; Mt 27:15-26; Lc
23:17-25
(36) Mc 15:25; Ga 19:14. Lagrange
nghĩ rằng vì Thánh Máccô rõ ràng chia ngày thành 3 phần khi ngài nhắc đến tảng
sáng, giờ thứ ba, giờ thứ sáu và giờ thứ chín (15: 1, 33, 34), thì các con số
này chỉ là ước tính, còn giờ của Thánh Giaon thì chính xác hơn. Tài liệu đã
dẫn, tr.429.
(37) Apostolic Tradition, Canons
of Hippolytus, Testament of Our Lord Jesus Christ, do Jaubert trích dẫn,
tr.119
(38) Ga 18:13-24
(39) Sanhedrin IV, I. Muốn biết tóm
lược các qui luật về thủ tục pháp lý, xin xem Everyman’s Talmud, của A.
Cohen, London 1948, nhất là các trang 309-314.
(40) Mc 14:54-72; Mt 26: 58-75
(41) Lc 22:66
(42) Ga 18: 12-28.
(43) Xem Lagrange, Évangile selon
Saint Jean, ấn bản thứ 8, Paris 1948, 459-461. Nhưng tác giả này cho rằng
không thể dịch là “Annas trước đó đã sai dẫn Người…” v ìnếu dịch như thế là
biến câu 24 trở thành “một ghi chú trễ”, như đã được bản dịch của Đức Ông Knox
giải thích.
(44) Ga 18:18, 25
(45) Lc 22:61
(46) Đây cũng là lối giải thích của
P. Benoit trong Angelicum, XX (1943), 143-165, “Jesus devant le
Sanhedrin”, nhất là các trang 158-160.
(47) Jaubert cho rằng nó đã được
chuyển đổi từ vị trí nguyên thủy giữa 14:7 và 15:1.
(48) 1Cor 5:7
Viết theo Jerome Crowe C.P., The
Australasian Catholic Record, Vol.XXXVI, January 1959, no.1
VietCatholic News (25 Mar 2010 22:39)