Hiệp Thông Nhân Vị Và Quản Lý Tạo Vật (3)
CHƯƠNG BA:
Tạo Dựng Giống Hình ảnh Thiên Chúa: Quản Lý các tạo vật hữu hình
56. Chủ đề lớn trước tiên trong nền thần học về ‘imago Dei’ liên hệ đến việc thông phần vào đời sống hiệp thông của Thiên Chúa. Như ta đã thấy, khi được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, con người trở thành các hữu thể chia sẻ thế giới này cùng với các hữu thể khác, cũng mang xác thể nhưng lại nổi bật ở chỗ có trí năng, tình yêu và tự do, và chính vì thế, tự bản chất, con người phải sống hiệp thông với nhau. Bằng chứng hùng hồn đầu tiên của việc thông hiệp này chính là sự kết hiệp có tính sinh sản giữa người nam và người nữ, điều này phản chiếu sự hiệp thông tình yêu sáng tạo của Chúa Ba Ngôi. Chính cuộc khổ nạn, cái chết, và phục sinh của Chúa Kitô đã vượt thắng sự bóp méo hình ảnh Thiên Chúa do tội lỗi gây nên cùng với các hậu quả tác hại trên đời sống cá nhân và liên cá nhân. Ân sủng cứu độ từ việc thông phần vào mầu nhiệm vượt qua phục hồi lại ‘imago Dei’ theo khuôn mẫu của ‘imago Christi.’
57. Trong chương này, ta sẽ đề cập đến chủ đề chính thứ hai trong nền thần học về ‘imago Dei.’ Vì được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa để chia sẻ cuộc hiệp thông tình yêu của Chúa Ba Ngôi, thế nên, theo ý định của Chúa, con người phải nắm giữ một vị trí độc đáo trong vũ trụ: đó là hưởng đặc ân chia sẻ với Thiên Chúa quyền cai quản tạo vật hữu hình. Đặc ân này được ban cho con người từ bàn tay Tạo Hóa, là Đấng cho phép tạo vật được dựng nên giống hình ảnh mình, hầu có thể thông phần vào công trình của Chúa, đó là ý định tình yêu và cứu độ, cũng chính là thông phần vào việc cai quản vũ trụ. Do bởi vai trò quản cai của con người chính là thông phần vào việc cai quản vũ trụ của Thiên Chúa, cho nên ở đây ta nói đến một hình thức quản lý.
58. Theo ‘Gaudium et Spes’: “Được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, con người đã nhận mệnh lệnh chinh phục trái đất cùng tất cả những gì chứa đựng trong đó, cai quản vũ trụ trong công bình và thánh thiện; và khi nhìn nhận Thiên Chúa là Ðấng tạo dựng mọi loài, nó qui hướng về Người chính bản thân mình cũng như muôn vật: như thế, khi con người chinh phục tất cả thì danh Chúa được tôn vinh khắp địa cầu” (34). Ý niệm con người quản cai hoặc thống trị (địa cầu) đóng một vai trò quan trọng trong thần học Kitô giáo. Thiên Chúa chỉ định con người làm việc quản lý theo cung cách người chủ trong các dụ ngôn của Tin Mừng (x. Luke 19:12). Chỉ duy một loài thụ tạo được chính Thiên Chúa minh nhiên ưng thuận mới chiếm lĩnh được vị trí độc hữu trên chóp đỉnh tạo vật hữu hình (Gen 1:26; 2:20; Tv 8:6-7; Kn 9:2-3).
59. Thần học Kitô giáo dùng cả hai hình ảnh thông thường và vương đế để mô tả vai trò độc đáo này. Với hình ảnh vương đế, con người được kêu mời cai trị theo nghĩa nắm quyền thống lĩnh toàn thể thế giới hữu hình, y như phong cách của một hoàng đế. Thế nhưng ý nghĩa sâu kín bên trong của tư cách đế vương này, như Chúa Giêsu đã nhắc nhở các môn đệ, chính là phục vụ: bởi lẽ, chính vì tự nguyện chịu đau khổ như một nạn nhân hy sinh mà Chúa Kitô đã trở thành vua vũ trụ, với thập giá là ngai vàng. Với hình ảnh thông thường, thần học Kitô giáo đề cập đến con người như là người quản gia được Thiên Chúa tín cẩn trao phó cho việc trông coi nhà cửa (x. Mt 24:45). Con người có thể xử dụng toàn thể của cải tài nguyên có trong vũ trụ hữu hình tùy sở thích, và hành xử quyền thống trị này trên vũ trụ qua khoa học, kỹ thuật, và nghệ thuật.
60. Ở trên, và ở tận trong cõi thân mật của lương tâm mình, con người khám phá ra sự hiện hữu của một thứ luật mà truyền thống gọi là “luật tự nhiên.” Luật này phát xuất từ Thiên Chúa, và chính cái ý thức của con người về thứ luật này đã là sự thông phần vào lề luật của Thiên Chúa. Nó quy chiếu con người về các nguồn gốc chân thật của vũ trụ cũng như của chính nó (‘Veritatis Splendor’ số 20). Luật tự nhiên này thúc bách tạo vật có lý trí tìm về sự thật và điều thiện hảo trong khi thống lĩnh vũ trụ. Được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, con người hành xử quyền thống lĩnh tạo vật hữu hình này chỉ nhờ ở đặc ân Thiên Chúa ban cho. Nó noi theo luật Chúa, nhưng không thể thay đổi luật ấy được. Thánh Kinh đã từng cảnh báo về thứ tội danh tiếm quyền Thiên Chúa. Là một sai lầm nghiêm trọng về mặt luân lý khi con người quản cai vũ trụ hữu hình này mà lại tách mình khỏi lề luật cao cả của Chúa. Họ hành động như là quản gia thay quyền gia chủ (x. Mt 25:14 ff) để tự do và dùng sáng kiến táo bạo hầu đem những nén bạc gia chủ giao cho mà sinh lợi.
61. Người quản gia phải tính sổ về cách quản lý của mình, và Thiên Chúa trong vai gia chủ sẽ phán định các hành động của người quản gia này. Cách thức người quản gia sử dụng các phương tiện có hợp luật và kiến hiệu về mặt luân lý hay không chính là tiêu chuẩn cho việc phán định này. Khoa học cũng như kỹ thuật tự chúng đều không phải là cùng đích; cái khả hữu xét về mặt kỹ thuật không nhất thiết sẽ trở thành hữu lý hay hợp với đạo đức. Khoa học và kỹ thuật phải dùng để phục vụ kế hoạch Thiên Chúa đã an bài cho toàn thể công trình tạo dựng và cho hết mọi tạo vật. Kế hoạch này đem lại ý nghĩa cho vũ trụ và cho các công trình của con người nữa. Việc con người quản lý vũ trụ này chính là cách cai quản bằng thông phần vào quyền cai trị của Chúa, và lúc nào cũng phải phụ thuộc quyền này. Con người hành xử việc quản lý này bằng cách thủ đắc kiến thức khoa học về vũ trụ, bằng cách dùng tinh thần trách nhiệm mà chăm lo cho thế giới tự nhiên này (bao gồm cả thú vật và môi sinh), và bằng cách bảo vệ tính liêm khiết sinh học của chúng.
I. Khoa Học và Quyền Quản Lý Tri Thức
62. Nỗ lực thấu hiểu vũ trụ đã đánh dấu nét văn hóa của con người mọi thời và trong mọi xã hội. Trong bối cảnh niềm tin Kitô giáo, nỗ lực này chính là một bằng chứng quyền quản lý mà con người thực hành theo đúng kế hoạch của Thiên Chúa. Không hề tuân theo chủ nghĩa thỏa hiệp bất tín, các Kitô hữu có trách nhiệm định vị tri thức khoa học về vũ trụ trong bối cảnh của nền thần học tạo dựng. Vị trí của con người trong lịch sử vũ trụ tiến hoá này, như khoa học tân thời phác họa, chỉ có thể được nhìn thấy một cách toàn vẹn trong ánh sáng đức tin, như là một lịch sử cá biệt của việc Thiên Chúa Ba Ngôi can thiệp vào thế giới con người.
63. Theo lý thuyết khoa học đã được công nhận rộng rãi, vũ trụ này được khai sinh cách đây 15 tỉ năm từ một cơn bùng nổ gọi là “vụ Nổ Lớn” (Big Bang) khiến nó phồng giãn ra rồi nguội lại. Sau đó dần dần nẩy ra các điều kiện cần thiết tạo thành các nguyên tử, rồi kết tụ lại thành các giải ngân hà và tinh tú, để rồi khoảng 10 tỉ năm sau tạo thành các hành tinh. Trong thái dương hệ và quả đất chúng ta (thành hình khoảng 4.5 tỉ năm trước đây), các điều kiện thuận lợi đã làm nẩy sinh sự sống. Cho dù các khoa học gia ít đồng ý về cách lý giải nguồn gốc của mầm sống đầu tiên xẩy đến như thế nào, nhưng đại đa số đều đồng ý rằng sinh vật đầu tiên xuất hiện trên hành tinh này vào khoảng 3.5 đến 4 tỉ năm trước đây. Khoa học đã minh chứng rằng mọi sinh vật trên địa cầu, xét về mặt di truyền học, đều có tương quan với nhau, do đó, hiển nhiên là mọi sinh vật đều phát xuất từ sinh vật đầu tiên này. Nhiều bằng chứng từ các nghiên cứu trong khoa vật lý và sinh học đã hỗ trợ cho một vài lý thuyết về tiến hóa xét về mặt phát triển và đa dạng hóa sự sống trên trái đất, cho dù vẫn có tranh cãi về tiến độ và cơ giới tính của tiến hóa. Trong khi vấn đề nguồn gốc con người mang tính phức tạp và cần nhiều nghiên cứu và duyệt xét, thì tổng hợp kết quả của khoa nhân học vật lý và khoa sinh học phân tử đã đem lại các kết luận vững chắc về nguồn gốc nhân loại tại Phi Châu vào khoảng 150 ngàn năm trước đây, trong một tập thể con người mang cùng dòng giống di truyền chung. Tuy nhiên, cần phải giải thích thêm rằng yếu tố quyết định nguồn gốc con người chính là việc kích thước não bộ liên tục tăng triển, đạt cao điểm nơi ‘homo sapiens’ (con người thông thái). Với việc phát triển não bộ, bản chất và mức độ tiến hóa đã vĩnh viễn thay đổi: với việc du nhập các yếu tố nhân bản độc đáo như ý thức, chủ ý tính, tự do và sáng tạo tính, cuộc tiến hóa sinh học đã được đúc kết lại như là cuộc tiến hóa về xã hội và văn hóa.
64. Vài năm trước đây, Đức Giáo Hoàng (ĐGH) Gioan Phaolô II đã nói rằng “tri thức thời mới dẫn đến việc nhìn nhận rằng: lý thuyết tiến hoá có tính chất cao hơn là một giả thuyết. Điều đáng chú ý là lý thuyết này đã dần dần được các nhà nghiên cứu thừa nhận tiếp theo sau một chuỗi những khám phá trong nhiều lãnh vực tri thức khác nhau” (‘Sứ điệp gửi cho Hàn lâm viện khoa học giáo hoàng về Tiến Hoá’ 1996). Nối tiếp giáo huấn của Giáo Hoàng trong thế kỷ 20 về tiến hoá (nhất là Thông Điệp ‘Humani Generis’ của ĐGH Piô XII), sứ điệp của ĐGH Gioan Phaolô II nhìn nhận rằng có “nhiều lý thuyết tiến hoá mang tính duy vật, duy giản lược và duy linh” và do đó, không phù hợp với đức tin Công giáo. Chính vì thế mà ta không thể coi sứ điệp của ĐGH Gioan Phaolô II như là sự tán thành theo kiểu trùm mền trên tất cả mọi lý thuyết về tiến hoá, bao gồm cả chủ nghĩa tân-Darwin vốn minh nhiên chối bỏ sự quan phòng của Thiên Chúa, coi đó không phải là nguyên nhân phát triển sự sống trong vũ trụ. Quan ngại chủ yếu đối với thuyết tiến hoá chính là vì nó có “liên quan đến vấn đề con người,” tuy nhiên, sứ điệp của ĐGH Gioan Phaolô II đã cực lực phê phán lối lý giải duy vật về nguồn gốc con người, đồng thời nhấn mạnh đến sự cần thiết của khoa triết học và thần học hầu có được một tri thức tương đối đầy đủ về “bước nhẩy vọt hữu thể học” hướng đến con người, vốn không thể nào dùng các từ ngữ thuần túy khoa học mà giải thích được. Mối quan tâm chính của Hội Thánh về thuyết tiến hoá tập chú vào “quan niệm về con người,” là nhân vật đã được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, thành ra “không thể được coi như chỉ là phương tiện hay cách thức nhằm phục vụ chính nòi giống mình hoặc phục vụ xã hội.” Là ngôi vị được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, con người có khả năng thiết lập các mối tương quan hiệp thông với các ngôi vị khác và với Thiên Chúa Ba Ngôi, cũng như hành xử quyền thống lĩnh và quản lý trong vũ trụ. Các nhận định này hàm ý rằng các lý thuyết về tiến hoá và về nguồn gốc vũ trụ đều trĩu nặng nỗi trăn trở của thần học khi chạm đến giáo lý về việc tạo dựng ex nihilo--từ hư vô, và việc tạo dựng con người giống hình ảnh Thiên Chúa.
65. Ta đã thấy con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa hầu trở thành kẻ thông chia bản tính của Ngài (x. 2 Pet 1:3-4) và nhờ thế, chia sẻ cuộc hiệp thông đời sống Chúa Ba Ngôi cũng như việc Thiên Chúa thống trị trên tạo vật hữu hình. Trọng tâm hành vi sáng tạo của Thiên Chúa chính là thánh ý Ngài muốn dành chỗ cho con người thụ tạo được sống thông hiệp với các Ngôi Vị không-được-tạo-dựng là Chúa Ba Ngôi qua ơn làm nghĩa tử nhờ Chúa Kitô. Hơn thế nữa, việc có chung tổ tiên và tính duy nhất tự nhiên của loài người đã trở thành nền tảng cho sự hiệp nhất trong ân sủng của những con người đã được cứu chuộc dưới quyền thủ lãnh của Adam Mới trong niềm hiệp thông mang tính Hội thánh của các nhân vị hợp nhất với nhau và với các Đấng không-được-tạo-dựng là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Món quà đời sống tự nhiên chính là nền tảng của món quà đời sống ân sủng. Chính vì thế, ở đâu có sự thật chính yếu liên quan đến một nhân vị hoạt động tự do, thì ở nơi ấy không thể nói đến tính thiết yếu hoặc quyết lệnh sáng tạo, rốt cuộc là, nếu nói về Tạo Hoá như một quyền lực, hoặc năng động lực, hoặc nền móng thì chẳng hề thích hợp chút nào. Sáng tạo từ hư vô chính là hành động của một tác nhân siêu việt, hoạt động tự do và đầy chủ đích, với cái nhìn hướng về các mục tiêu bao trùm của việc dấn thân cá nhân. Trong truyền thống Công giáo, giáo lý về nguồn gốc con người biểu tỏ chân lý mạc khải về sự hiểu biết Thiên Chúa và con người, một sự hiểu biết tận căn bản đã mang tính tương giao và nhân vị. Việc loại trừ chủ trương phiếm thần và duy xuất phát (emanationism) trong giáo lý về tạo dựng có thể được lý giải như một phương cách để bảo vệ chân lý mạc khải. Giáo lý về việc tạo dựng trực tiếp hay đặc biệt của mỗi linh hồn con người không chỉ nêu lên tính bất liên tục hữu thể học giữa thể chất và tinh thần, mà còn thiết lập nền tảng cho mối dây thân mật xuất phát từ Thiên Chúa phủ trùm lên từng mỗi con người khởi đi từ khoảnh khắc hiện hữu đầu tiên của họ.
66. Giáo lý về ‘creatio ex nihilo’ (tạo dựng từ hư vô) là một xác nhận độc nhất về tính ngã vị của tạo dựng và trật tự của nó hướng về một loài thụ tạo có ngã vị, đã được tạo thành giống hình ảnh Thiên Chúa. Chính tạo vật có ngã vị ấy đã đáp lại tiếng gọi của một tạo hóa có ngã vị, chứ không phải một thứ nền tảng, quyền lực hay năng lực nào đó. Giáo lý về ‘imago Dei’ và ‘creatio ex nihilo’ dậy ta rằng vũ trụ hiện tại chính là sân khấu được dựng lên cho một tấn bi hùng kịch tự căn rễ mang tính chất ngã vị, trong đó Tam Vị Tạo Hóa kêu gọi con người bước ra từ cõi hư vô để rồi lại được gọi mời bước vào trong tình yêu. Chính nơi đây ta hiểu được ý nghĩa sâu xa đoạn trích từ ‘Gaudium et Spes’: “Con người là tạo vật duy nhất ở trần gian được Thiên Chúa dựng nên cho chính nó” (số 24). Được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, con người đảm trách vai trò làm người quản lý vũ trụ vật chất với tinh thần trách nhiệm. Dưới sự hướng dẫn của Chúa Quan Phòng, và nhìn nhận tính chất linh thánh của tạo vật hữu hình, loài người tái tạo trật tự tự nhiên, để rồi trở thành tác nhân trong cuộc tiến hóa của chính vũ trụ. Khi thực hành quyền quản lý tri thức, các nhà thần học có trách nhiệm định vị các hiểu biết khoa học thời mới trong nhãn quan Kitô giáo về thế giới tạo vật.
67. Về khía cạnh ‘creatio ex nihilo,’ các thần học gia có thể ghi nhận rằng lý thuyết ‘vụ Nổ Lớn’ không hề mâu thuẫn với giáo lý này trong mức độ có thể nói rằng: việc giả định về một khởi đầu tuyệt đối không phải là không chấp nhận được xét về mặt khoa học. Do bởi lý thuyết ‘vụ Nổ Lớn’ không hề loại bỏ tính khả hữu của một tầng chất thể tiền hữu, nên cần ghi nhận rằng lý thuyết này dường như chỉ gián tiếp ủng hộ giáo lý về ‘creatio ex nihilo,’ vốn tự nó chỉ có thể dùng đức tin mới hiểu thấu được.
68. Về khía cạnh tiến hóa của các điều kiện thuận lợi làm nẩy sinh sự sống, truyền thống Kitô giáo khẳng định rằng Thiên Chúa, vốn là nguyên nhân siêu việt phổ quát, không chỉ là nguyên nhân của hiện hữu, mà còn là nguyên nhân của các nguyên nhân nữa. Hành động của Thiên Chúa không hề thay thế hoạt động của các nguyên nhân thụ tạo, trái lại còn khiến cho chúng tác động theo bản chất của mình, để nhờ đó có thể đạt đến các mục tiêu Ngài đã ấn định. Khi tự ý tạo dựng và bảo tồn vũ trụ, Thiên Chúa muốn tác động và tích cực hỗ trợ tất cả mọi nguyên nhân thứ yếu nhằm góp phần khai mở trật tự tự nhiên mà Ngài đã định liệu. Thông qua hoạt động của các nguyên nhân tự nhiên, Thiên Chúa tác động khai sáng các điều kiện cần có để làm nẩy sinh và hỗ trợ các sinh vật, cũng như việc sinh sản và phân hóa của chúng nữa. Mặc dù khoa học còn tranh luận về mức độ của mục đích tính hoặc của thiết kế kiến hiệu và có thể quan sát thực nghiệm trong các bước phát triển này, các khoa học gia đã ‘de facto’ (thực sự) ủng hộ việc làm nẩy sinh và triển nở mầm sống. Đối với các thần học gia công giáo, lối lý luận này hỗ trợ cho sự xác nhận của niềm tin vào cuộc tạo dựng và quan phòng của Thiên Chúa. Trong kế hoạch quan phòng của cuộc tạo dựng, Chúa Ba Ngôi không chỉ dự liệu cho con người có được một nơi ở trên dương thế này, mà còn là, và nhất là, có được một nơi chốn trong dòng sống của chính Ba Ngôi. Hơn nữa, cho dù là nguyên nhân thứ yếu, con người vẫn thực sự góp phần tái tạo và biển đổi vũ trụ.
69. Cuộc tranh luận hiện tại của khoa học về tính cơ giới tác động trong tiến hóa đòi hỏi lời bình của khoa thần học do bởi thường thấy có một hiểu biết sai lạc về bản chất của nguyên nhân đệ nhất--tức là Thiên Chúa. Nhiều khoa học gia thuộc trường phái tân-Darwin, cũng như một vài nhà phê bình của nhóm này, đã đi đến kết luận rằng: nếu tiến hóa là một tiến trình duy vật tự căn bản mang tính bất tất, bị điều động bởi nguyên tắc chọn lọc tự nhiên và biến thái di truyền ngẫu nhiên, thì tiến trình này không có chỗ cho Thiên Chúa đứng làm nguyên nhân. Ngày càng có nhiều phê bình khoa học về chủ thuyết tân-Darwin cho thấy bằng chứng về thiết kế (tỉ như các cơ cấu sinh học biểu tỏ một phức biệt tính nào đó) không thể nào lý giải được xét từ khía cạnh tiến trình thuần túy bất tất, điều mà chủ thuyết tân-Darwin đã không biết đến hoặc đã hiểu sai. Điểm trọng yếu của sự bất đồng rõ rệt hiện nay bao hàm việc quan sát và tổng quát hóa liên quan đến câu hỏi liệu xem các dữ kiện hiện hữu có hỗ trợ cho công thức quy nạp về thiết kế hay chỉ là may rủi, và là điều không thể dùng khoa thần học để dứt điểm được. Tuy nhiên, điểm quan trọng cần ghi nhận là theo cách hiểu của Công giáo về việc Thiên Chúa đứng ra làm nguyên nhân, thì tính bất tất đích thực trong trật tự thụ tạo không hề bất tương hợp với sự quan phòng có chủ đích của Thiên Chúa. Nguyên nhân tính nơi Tạo Hóa và nguyên nhân tính nơi tạo vật khác nhau triệt để về mặt bản chất, chứ không phải chỉ về mặt đẳng cấp. Do đó, ngay cả kết quả của một tiến trình tự nhiên và thực sự bất tất cũng vẫn có thể rơi vào quỹ đạo kế hoạch quan phòng của Thiên Chúa trong cuộc tạo dựng. Theo thánh Tôma Aquinô thì: “Kết quả quan phòng của Thiên Chúa không chỉ là sự vật phải xẩy đến như thế nào đó, mà còn là chúng phải hiện hữu trong tư thế hoặc là tất yếu hay là bất tất. Do đó, bất cứ điều gì Chúa Quan Phòng định cho phải xẩy đến một cách bất khả sai lầm và tất yếu thì nó phải xẩy ra theo kiểu bất khả sai lầm và tất yếu như thế; còn điều gì xẩy đến một cách bất tất, thì đó là do Thiên Chúa đã định cho nó xẩy ra bất tất như vậy” (Summa theologiae, I, 22, 4 ad 1). Trong bối cảnh Công giáo, các vị nào đi theo chủ thuyết tân-Darwin mà chủ trương rằng biến thái di truyền ngẫu nhiên và chọn lọc tự nhiên chính là bằng chứng cho thấy tiến hóa là một tiến trình tuyệt đối không hề được định hướng, thì các vị ấy đã vượt quá điều mà khoa học có thể minh chứng được. Nguyên nhân tính nơi Thiên Chúa vẫn có thể hoạt động tích cực ngay cả trong một tiến trình vừa bất tất lại vừa được định hướng. Bất kỳ một tính cơ giới tiến hóa nào mang tính bất tất thì chỉ có thể là bất tất bởi vì Thiên Chúa đã tạo ra nó như thế. Một tiến trình tiến hóa vô định hướng—cái rơi ra ngoài quỹ đạo quan phòng của Thiên Chúa—thì đơn thuần là không hiện hữu, bởi vì “nguyên nhân tính nơi Thiên Chúa--vốn là Tác Nhân Tiên Khởi—thì bao trùm trên mọi hữu thể, không chỉ như các nguyên lý cấu thành biệt loại, mà còn như là nguyên lý cá biệt hóa…Kết luận là: tất cả mọi sự, bao lâu còn thông phần hiện hữu, thì cũng phải lệ thuộc vào Chúa Quan Phòng” (Summa theologiae I, 22, 2).
70. Về việc trực tiếp tạo dựng linh hồn con người, thì thần học Công giáo xác nhận rằng các hành động đặc thù của Thiên Chúa đều đem lại hiệu quả siêu vượt khả năng của các nguyên nhân thụ tạo khi chúng hành động theo bản tính của mình. Việc nhờ cậy đến nguyên nhân tính nơi Thiên Chúa để lý giải cho các khoảng trống mang tính nguyên nhân--để phân biệt với các khoảng trống chỉ mang tính giải nghĩa—không thể cài đặt Thiên Chúa như tác nhân hầu có thể khỏa lấp các “khoảng trống” trong tri thức khoa học của con người (do đó mà có câu: “Thiên Chúa lấp đầy khoảng trống”). Các cấu trúc của vũ trụ có thể coi là mở ngỏ cho hành động không gián đoạn của Thiên Chúa trong các biến cố được trực tiếp tác động trong thế giới. Thần học Công giáo xác nhận rằng việc các nhân vật đầu tiên của loài người xuất hiện—dù là cá nhân hay tập đoàn--đều biểu hiện cho một biến cố không thể giải thích thuần túy tự nhiên được, mà chỉ lý giải được một cách thích hợp khi cho đó là việc Thiên Chúa can thiệp. Tác động gián tiếp qua từng chuỗi nguyên nhân ngay từ bước khởi đầu của lịch sử vũ trụ, Thiên Chúa đã chuẩn bị con đường cho điều mà ĐGH Gioan Phaolô II gọi là “một bước nhẩy vọt hữu thể học…, khoảnh khắc tiếp chuyển vào vùng linh thánh.” Trong khi khoa học có thể nghiên cứu các chuỗi nguyên nhân này, vai trò của thần học là phải định vị công trình đặc biệt tạo dựng linh hồn con người trong lòng kế hoạch bao trùm của Chúa Ba Ngôi, đó là kế họach chia sẻ sự hiệp thông đời sống Tam Vị với những hữu thể nhân vị đã được tạo dựng, từ hư vô, theo đúng hình ảnh và giống như Thiên Chúa. Các hữu thể nhân vị này—nhân danh Chúa và tuân theo kế hoạch của Ngài--thực hiện quyền quản lý và thống lĩnh vũ trụ vất chất.
II. Trách Nhiệm đối với Thế Giới Tạo Vật
71. Các tiến bộ về khoa học và kỹ thuật trong vòng 150 năm qua đã tạo ra một hoàn cảnh hoàn toàn mới mẻ cho tất cả mọi sinh vật trên hành tinh chúng ta. Cùng với vật chất dồi dào, tiêu chuẩn sống cao hơn, sức khỏe tốt hơn và tuổi thọ cao hơn, thì cũng thấy xẩy ra nạn ô nhiễm không khí và nước uống, chất phế thải độc hại của kỹ nghệ, việc phá họai và đôi khi còn hủy diệt những vùng môi sinh tế nhị. Trong tình huống này, con người đã có được ý thức cao hơn rằng mình gắn liền một cách hữu cơ với các sinh vật khác. Thiên nhiên được coi như một sinh cầu trong đó mọi sinh vật hình thành một mạng lưới sự sống phức tạp nhưng có tổ chức chặt chẽ. Hơn nữa, hiện nay người ta nhận thức được rằng cái gì cũng có giới hạn, từ tài nguyên thiên nhiên cho đến khả năng khôi phục sau khi bị gây tổn hại bởi việc khai thác tài nguyên quá mức.
72. Một khía cạnh bất hạnh trong ý thức mới về mặt sinh thái học này là Kitô giáo bị coi là có trách nhiệm phần nào về cơn khủng hoảng môi trường, do bởi quá coi trọng vị trí của con người vốn được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa để cai quản tạo vật hữu hình. Có những nhà phê bình còn đi xa hơn nữa khi bảo rằng truyền thống Kitô giáo thiếu mất nguồn tài nguyên hầu có thể xây dựng một nền đạo đức sinh thái lành mạnh, bởi vì nó coi con người nhất thiết cao quý hơn tất cả mọi loài trên trần gian, và vì thế, cần phải hướng về các tôn giáo Châu Á và có tính truyền thống thì mới phát huy được một nền đạo đức sinh thái cần thiết.
73. Lời phê phán này thực ra là do việc hiểu sai lệch và một cách sâu xa đối với nền thần học Kitô giáo về tạo dựng và về ‘imago Dei.’ Nói đến một cuộc ‘hoán cải sinh thái’, ĐGH Gioan Phaolô II đã nhận định rằng: “Quyền thống trị của con người không hề mang tính tuyệt đối, mà chỉ mang ý nghĩa phục vụ, …không phải như sứ mệnh của một chủ nhân tuyệt đối và độc đoán, mà là một quản gia trong nước Chúa” (Diễn từ ngày 17 tháng 1 năm 2001). Việc hiểu sai lạc về giáo lý này có thể đã khiến một số người hành động bất chấp môi trường thiên nhiên, thế nhưng giáo huấn Kitô giáo về tạo dựng và ‘imago Dei,’ không hề mảy may cổ võ cho việc khai thác bừa bãi đi đến chỗ phá hoại tài nguyên trái đất. Lời nhận định của ĐGH Gioan Phaolô II phản ảnh một ưu tư về phía Huấn Quyền ngày càng sâu đậm trước cuộc khủng hoảng sinh thái. Mối ưu tư này bén rễ trong dòng lịch sử lâu dài thấy được trong các thông điệp về xã hội của các ĐGH mới đây. Trong bối cảnh của giáo huấn này, cuộc khủng hoảng sinh thái là một vấn đề của con người và xã hội gắn liền với sự vi phạm nhân quyền và việc khai thác tài nguyên trái đất một cách thiếu đồng đều. ĐGH Gioan Phaolô II đã tóm tắt truyền thống giáo huấn xã hội này khi viết thông điệp Centesimus Annus: “Cũng đáng quan tâm lo lắng là vấn đề sinh thái đi kèm theo và gắn liền với vấn nạn về chủ nghĩa tiêu thụ. Mang khao khát sở hữu và hưởng thụ hơn là hiện hữu và phát triển, con người tiêu dùng các tài nguyên của trái đất cũng như của cuộc sống mình một cách thái quá và bất trật tự. Nằm ở bên dưới sự hủy hoại môi sinh thiên nhiên một cách phi lý, chính là một sai lầm về mặt nhân học hiện đang lan tràn một cách đáng tiếc. Trong khi khám phá ra khả năng biến đổi, và một cách nào đó, tái tạo thế giới qua chính công việc làm của mình, con người quên mất rằng tất cả mọi sự đều là quà tặng trước tiên và nguyên thủy từ Thiên Chúa” (37)
74. Nền thần học Kitô giáo về tạo dựng trực tiếp đóng góp cho việc giải quyết cơn khủng hoảng sinh thái bằng cách xác nhận chân lý căn bản này: tạo vật hữu hình chính là quà tặng từ Thiên Chúa, món “quà nguyên thủy” vốn tạo ra một “vùng không gian” dành cho hiệp thông nhân vị. Quả vậy, ta có thể bảo rằng một nền thần học về sinh thái đúng nghĩa Kitô giáo chính là một áp dụng của nền thần học về tạo dựng vậy. Cần ghi nhận rằng hạn từ ‘ecology’ là do hai từ Hy Lạp ‘oikos’ (nhà) và ‘logos’ (lời) ghép lại, có nghĩa là môi trường hiện hữu thể lý của con người có thể được hiểu như là một ‘mái nhà’ cho con người sinh sống. Nếu đời sống thâm nội của Chúa Ba Ngôi là một cuộc hiệp thông, thì hành vi sáng tạo của Thiên Chúa chính là một tạo tác nhưng không, phát sinh ra những thành viên để chia sẻ niềm hiệp thông này. Theo nghĩa ấy, có thể bảo rằng việc hiệp thông của Thiên Chúa tìm được ‘mái nhà’ nơi vũ trụ được tạo dựng. Do đó, ta có thể nói về vũ trụ như là một môi trường của hiệp thông nhân vị.
75. Kitô học và cánh chung học cùng nhau soi sáng cho chân lý này càng thêm sâu xa hơn nữa. Trong mầu nhiệm ngôi hiệp của Ngôi Con với nhân tính, Thiên Chúa đến trần gian và mặc lấy xác thể mà chính Ngài đã sáng tạo. Trong mầu nhiệm nhập thể, qua Con Một sinh bởi Đức Mẹ Đồng Trinh do quyền năng Chúa Thánh Thần, Ba Ngôi Thiên Chúa đã khiến cho có thể có được một hiệp thông ngôi vị thân tình với con người. Do lòng từ ái, Thiên Chúa đã muốn cất nhắc con người thụ tạo lên để được thông phần đời sống với Ngài, bởi thế Ngài đã hạ mình xuống ngang hàng với loài thụ tạo. Một vài thần học gia nói đến việc Thiên Chúa khiêm nhường hạ mình như là một cuộc “nhân hóa” qua đó Thiên Chúa thong dong làm cho cuộc “thần hóa” trở thành khả hữu. Thiên Chúa không chỉ biểu lộ vinh quang Ngài trong vũ trụ qua các hành vi hiển linh, mà còn qua việc mặc lấy xác thể nữa. Trong bối cảnh Kitô học này, việc “nhân hóa” của Thiên Chúa chính là một hành vi liên đới, không chỉ với các con người thụ tạo, mà còn với toàn thể thế giới tạo vật cùng định mệnh lịch sử của chúng nữa. Thêm vào đó, trong bối cảnh cánh chung, việc trở lại lần thứ hai của Chúa Kitô có thể được coi như biến cố Thiên Chúa cư ngụ một cách thể lý trong vũ trụ đã được kiện toàn để hoàn thành kế hoạch tạo dựng nguyên thủy.
76. Không những không cổ võ sự khinh miệt một cách thiếu thận trọng đối với môi sinh tự nhiên, một sự khinh miệt do chủ trương đặt con người làm trung tâm, trái lại, nền thần học về ‘imago Dei’ còn xác nhận vai trò trọng yếu của con người khi cùng góp phần hiện thể hóa việc Thiên Chúa cư ngụ trong vũ trụ hoàn chỉnh. Theo đúng kế hoạch của Thiên Chúa, con người là những tác nhân của sự biến đổi mà toàn thể tạo vật hằng trông ngóng. Tất cả mọi loài, không chỉ riêng con người, mà còn toàn thể tạo vật hữu hình, đều được kêu gọi tham dự vào đời sống Thiên Chúa. “Không phải muôn loài mà thôi, cả chúng ta cũng rên siết trong lòng: chúng ta đã lãnh nhận Thần Khí như ân huệ mở đầu, nhưng còn trông đợi Thiên Chúa ban cho trọn quyền làm con, nghĩa là cứu chuộc thân xác chúng ta nữa” (Rom 8:23). Trong bối cảnh Kitô giáo, trách nhiệm đạo đức của chúng ta đối với môi trường tự nhiên—mái nhà hiện hữu của ta—bén rễ từ trong một hiểu biết thần học sâu xa về thụ tạo hữu hình và về nơi ăn chốn ở của ta trong đó nữa.
77. ĐGH Gioan Phaolô II đã ám chỉ trách nhiệm này trong một đoạn văn quan trọng của Evangelium Vitae: “Như một người được mời gọi trồng tỉa và vun xới mảnh vườn thế giới (x. Gen 2:15), con người đảm nhận một trách nhiệm biệt loại đối với môi sinh của mình, đối với muôn loài thụ tạo được Thiên Chúa đặt định phục vụ cho phẩm gía con người. Từ việc bảo trì các môi sinh tự nhiên của các loài vật và các hình thái khác, cho đến “sinh thái học nhân bản” đúng nghĩa, câu hỏi mang tính sinh thái chính là: ta tìm thấy được trong Thánh Kinh một chiều hướng đạo đức rõ ràng và mãnh liệt, dẫn đến một giải pháp dựa trên việc tôn trọng sự thiện hảo của đời sống, của từng nếp sống…Khi nói đến thế giới tự nhiên, ta không chỉ bị lệ thuộc các quy luật sinh học, mà còn lệ thuộc cả các quy luật luân lý mà nếu vi phạm thì sẽ không thể tránh được sự trừng phạt” (số 42).
78. Cuối cùng, cần ghi nhận rằng tuy thần học không thể cống hiến cho ta một bản liệt kê mang tính kỹ thuật về biện pháp giải quyết cơn khủng hoảng sinh thái, nhưng, như đã thấy, nó có thể giúp ta nhìn môi sinh tự nhiên bằng đôi mắt của Thiên Chúa, như là ‘vùng không gian’ của hiệp thông nhân vị, trong đó, vì được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, con người phải tiến đến hiệp thông với nhau và kiếm tìm sự thành toàn sau hết của vũ trụ hữu hình.
79. Trách nhiệm này trải rộng sang đến thế giới loài vật. Loài vật là thụ tạo của Thiên Chúa, và theo Thánh Kinh, Thiên Chúa hằng quan phòng che chở chúng (Mt 6:26). Con người phải đón nhận chúng trong niềm tri ân, với thái độ tạ ơn đối với từng yếu tố của cuộc tạo thành, cùng cảm tạ Thiên Chúa thay cho chúng. Loài vật muông thú chúc tụng và tôn vinh Thiên Chúa bằng chính sự hiện diện của chúng. “Chúc tụng Chúa đi, hỡi muôn loài chim chóc. Chúc tụng Chúa đi, hỡi gia súc lẫn thú rừng” (Dn 3:80-81). Thêm nữa, sự hài hòa mà con người phải tạo lập hoặc phục hồi trong toàn thể tạo vật, bao gồm chính mối tương quan của nó với loài vật. Khi Chúa Kitô đến trong vinh quang, Ngài sẽ “thâu tóm” toàn thể tạo vật trong một khoảnh khắc hài hòa mang tính cánh chung và dứt khoát.
80. Tuy nhiên, giữa con người và loài vật, có một khác biệt hữu thể học, bởi vì chỉ duy con người mới được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, và được Thiên Chúa ban quyền thống trị trên loài vật (Gen 1:26, 28; Gen 2: 19-20). Suy tư về truyền thống Kitô giáo liên quan đến việc đối xử chính đáng đối với loài vật, Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo khẳng định rằng: “Thiên Chúa giao phó việc trông coi loài vật cho những người Ngài đã tạo dựng giống hình ảnh Ngài. Do đó, việc dùng loài vật làm thức ăn và áo mặc là điều chính đáng. Chúng có thể được nuôi trong nhà để giúp con người làm việc và giải trí” (số 2417). Đoạn văn này cũng cho thấy sự chính đáng trong việc sử dụng loài vật cho các thí nghiệm y học và khoa học, nhưng luôn phải nhìn nhận rằng “làm cho loài vật phải đau đớn không cần thiết là điều trái với phẩm giá con người” (số 2418). Do đó, bất cứ việc sử dụng loài vật nào cũng phải được hướng dẫn bởi các nguyên tắc vừa nói: đó là quyền thống trị của con người trên loài vật chủ yếu là một sự quản lý mà con người phải tính sổ một cách đúng nghĩa nhất đối với Thiên Chúa là Chúa muôn loài.
III. Trách Nhiệm đối với Việc Bảo Toàn Sinh Học của Con Người
81. Cùng với những tiến triển mới nhất trong lãnh vực sinh hóa và sinh học phân tử, kỹ thuật tân tiến tiếp tục cung cấp cho khoa y học hiện đại các khả năng chẩn đoán và trị liệu tân thời. Các kỹ thuật này không chỉ cống hiến các phương cách chữa bệnh vừa mới mẻ lại vừa hữu hiệu, mà còn đem lại các tiềm năng biến đổi được chính con người. Tính sẵn sàng và tiện lợi của các kỹ thuật này lại nêu lên câu hỏi sau đây một cách khẩn thiết hơn: con người được phép tái tạo chính mình tới mức độ nào? Việc thực thi quyền quản lý có trách nhiệm trong lãnh vực đạo đức sinh học đòi hỏi suy tư luân lý sâu xa về một phạm vi kỹ thuật vốn có thể tạo ảnh hưởng trên việc bảo toàn sinh học của con người. Ở đây, ta chỉ có thể cống hiến một vài chỉ dấu về các thách đố luân lý biệt loại mà nền kỹ thuật mới đặt ra, cũng như một vài nguyên tắc cần áp dụng khi thực hiện quyền quản lý có trách nhiệm về việc bảo toàn sinh học của con người, vốn được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa.
82. Quyền bố trí trọn vẹn thân xác sẽ hàm ý rằng con người có thể sử dụng thân xác như là một phương tiện đạt đến một cùng đích do mình lựa chọn: nghĩa là, con người có thể thay thế các bộ phận, cải biến hay chấm dứt nó. Nói cách khác, con người có thể xác định cứu cánh tính hay giá trị cứu cánh của thân xác mình. Quyền bố trí một cái gì đó thì áp dụng cho những đồ vật có giá trị dụng cụ thuần túy, chứ không áp dụng cho các đồ vật thiện hảo tự thân, nghĩa là có cứu cánh tự nơi mình. Vì được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, con người chính là sự thiện hảo đó. Vấn đề đặt ra, nhất là trong địa hạt đạo đức sinh học, là liệu điều này có thể hay không thể áp dụng cho các cấp độ nơi con người, các cấp độ vốn được phân định rõ, như cấp độ tâm thể lý, cảm xúc và tinh thần.
83. Việc thực hành hằng ngày nơi bệnh xá thường thừa nhận một hình thức bố trí thân xác giới hạn cũng như một vài chức năng tâm thần nhằm để duy trì sự sống, tỉ như trong trường hợp phải cắt bỏ tay chân hay lấy đi một cơ phận nào đó. Các việc này được phép làm do bởi nguyên tắc toàn thể và bảo toàn (còn được goị là nguyên tắc trị liệu). Ý nghĩa của nguyên tắc này là: con người phát triển, chăm lo và bảo trì tất cả mọi chức năng thể lý và tâm thần ngõ hầu (1) các chức năng hạ đẳng không bao giờ bị hy sinh ngoại trừ trường hợp để cho toàn thể con người có thể hoạt động tốt đẹp hơn, và làm như thế với một nỗ lực bù trừ cho cái đã bị hy sinh; và (2) các năng lực căn bản thuộc về con người một cách trọng yếu thì không bao giờ bị hy sinh cả, ngoại trừ khi cần để cứu lấy mạng sống.
84. Các cơ phận và tứ chi vốn cùng nhau tạo thành một thể nhất trí mang tính thể lý, thì hoàn toàn gắn chặt vào, cũng như lệ thuộc thân xác như những thành phần trọng yếu. Tuy vậy, các giá trị hạ đẳng không thể bị hy sinh chỉ vì lợi ích của các giá trị cao đẳng: bởi lẽ các giá trị này cùng nhau cấu thành một nhất thể hữu cơ và lệ thuộc nhau. Do bởi thân xác, xét như một thành phần nội tại của con người, thì tự thân thiện hảo, thế nên các khả năng căn bản của con người chỉ có thể bị hy sinh nhằm để duy trì sự sống mà thôi. Thực vậy, sự sống là một thiện hảo căn bản bao hàm trọn vẹn hữu thể con người. Không có thiện hảo sự sống căn bản này thì các giá trị, tỉ như tự do chẳng hạn, vốn tự chúng có tính cách cao đẳng hơn sự sống, cũng chẳng còn giá trị. Giả như con người, trong thể xác tính của nó, cũng được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, thì nó không có toàn quyền bố trí bản chất sinh vật của mình. Chính Thiên Chúa, cũng như hữu thể được tạo dựng giống hình ảnh Ngài, không thể trở thành đối tượng cho hành đợng độc đóan của con người.
85. Khi ứng dụng nguyên lý toàn thể và bảo toàn, thì cần hội đủ các điều kiện sau đây: 1) phải có vấn đề liên quan đến thân xác vốn bị ảnh hưởng hay là nguyên nhân trực tiếp của một tình huống đe dọa mạng sống; 2) không còn một chọn lựa nào khác nhằm duy trì mạng sống; 3) có một cơ may thành công tương ứng so với các hậu quả có thể xẩy đến; 4) nạn nhân phải đồng ý với sự can thiệp. Các hậu quả và hiệu ứng tiêu cực của việc can thiệp có thể biện minh được bằng nguyên tắc song hiệu.
86. Một số người đã cố gắng giải thích giai tầng giá trị này nhằm cho phép việc hy sinh các khả năng hạ đẳng, tỉ như sinh sản, nhằm mưu ích cho các giá trị cao đẳng, như duy trì sức khỏe tâm thần và thăng tiến mối giao hảo với người khác. Tuy nhiên, ở đây, khả năng sinh sản được hy sinh nhằm duy trì các yếu tố trọng yếu đối với con người như là một toàn thể điều hành, chứ không phải như một toàn thể sống động. Thực ra, con người xét như một toàn thể điều hành thì đã bị vi phạm vì đã mất đi khả năng sinh sản, và đúng vào lúc nỗi đe dọa về sức khỏe tâm thần chưa hề cận kề mà còn có thể xoay chuyển sang chiều hướng khác. Hơn nữa, lối giải thích này về nguyên lý toàn diện thì hỗ trợ cho khả năng hy sinh một phần thân xác nhằm mưu cầu lợi ích xã hội. Cũng trên cùng nền tảng suy tư này, việc triệt sản vì lý do ưu sinh có thể biện minh được trên căn bản lợi ích chung.
87. Sự sống con người là kết quả của tình yêu vợ chồng—một món quà hỗ tương, trọn vẹn, dứt khóat, và độc chiếm mà người nam và người nữ cùng hiến tặng cho nhau—điều này phản ảnh món quà tình yêu giữa Ba Ngôi Thiên Chúa trao tặng cho nhau, từ đó đơm hoa kết trái trong cuộc tạo dựng, và món quà mà Chúa Kitô hiến tặng cho Hội Thánh Ngài trở thành hoa trái trong việc tái sinh con người. Sự kiện món quà trọn vẹn của con người liên quan đến cả tinh thần lẫn thể xác chính là nền móng của tính bất khả tách rời giữa hai ý nghĩa trong hành vi vợ chồng, đó là (1) sự diễn đạt chân chính của tình yêu vợ chồng trên phương diện sinh lý, và (2) sự thành toàn qua việc sinh sản trong thời kỳ thai nghén của người nữ (Humanae vitae, 12; Familiaris consortio, 32).
88. Món quà người nam và nữ trao tặng nhau trên phương diện thân mật tính dục trở thành bất toàn khi có việc ngừa thai hoặc triệt sản. Hơn nữa, nếu sử dụng một thứ kỹ thuật không nhằm giúp cho hành vi vợ chồng đạt đến mục tiêu, trái lại còn thay thế nó, để rồi đi đến kết quả là đậu thai nhờ sự can thiệp của một đệ tam nhân, thì đứa con sinh ra không xuất phát từ hành vi vợ chồng vốn diễn đạt món quà cha mẹ trao tặng cho nhau.
89. Trong trường hợp ‘nhân bản’—việc sinh ra những cá thể giống hệt nhau về mặt di truyền qua phương pháp cấy phôi hoặc hạch tử--thì đứa con sinh ra sẽ thành phi giới tính và không thể coi là kết quả của món quà tình yêu được. Do đó, ‘nhân bản’—trong trường hợp sinh ra nhiều người từ cùng một người—sẽ gây ra việc vi phạm căn tính con người. Cộng đồng nhân loại—như ta thấy, cũng được coi như hình ảnh Chúa Ba Ngôi—trong tính khác biệt của nó, đã biểu lộ một điều gì đó trong mối tương giao Ba Ngôi với một duy nhất tính đã đánh dấu cho những khác biệt, qua cùng một bản thể.
90. Có thể chấp nhận được việc kiến tạo dòng di truyền thai chủng vì mục đích trị bệnh nơi con người, miễn là không vì sự kiện khó mà tưởng tượng làm sao nó có thể hoàn thành được (a) nếu không có những nguy cơ bất tương xứng, nhất là trong bước thí nghiệm đầu tiên, tỉ như sự tổn thất hàng loạt các phôi thai cũng như việc xẩy ra các rủi ro, và (b) nếu không dùng đến các kỹ thuật sinh sản. Một chọn lựa khác có thể là: sử dụng việc trị liệu di truyền trong các tế bào gốc sản xuất ra tinh trùng người nam, nhờ đó có thể sinh ra dòng dõi khỏe mạnh bằng chính hạt giống của mình qua hành vi vợ chồng.
91. Việc kiến tạo tăng tiến di truyền là nhắm mục đích phát huy một số nét đặc trưng biệt loại. Có thể dùng ý tưởng về con người như là “đồng tạo hóa” với Thiên Chúa nhằm biện minh cho việc điều hành tiến hóa con người qua phương thức kiến tạo di truyền này. Tuy nhiên, như thế là hàm ý con người đã có toàn quyền bố trí bản chất sinh học của mình. Làm thay đổi căn tính di truyền của con người xét như là nhân vị qua việc sản xuất ra một hữu thể con người hạ đẳng là một hành vi triệt để vô luân. Việc thay hình đổi dạng di truyền hầu sản xuất ra một siêu nhân hay một hữu thể có những khả năng tinh thần hoàn toàn mới là một điều không thể quan niệm được, lý do là nguyên lý sự sống tinh thần của con người—tức chất thể được mô thức hóa vào trong thân xác con người—không phải là sản phẩm từ bàn tay con người làm ra, và không hề lệ thuộc vào khoa kiến tạo di truyền. Tính duy nhất của mỗi một nhân vị, một phần được cấu tạo bằng những đặc trưng tính thuộc di truyền sinh học và được phát triển qua nuôi dưỡng và tăng triển, thì thuộc về con người một cách tự nội, chứ không thể được coi như dụng cụ nhằm thăng hoa một vài tính đặc trưng ấy. Một người chỉ có thể thực sự thăng hóa khi thể hiện trọn vẹn hơn hình ảnh Thiên Chúa nơi mình bằng cách kết hợp với Chúa Kitô và noi gương Ngài. Những việc thay đổi vừa nói đều vi phạm tự do của những con người trong tương lai vốn không hề có phần quyết định nào trong việc định đoạt cơ cấu và đặc trưng của thân xác mình một cách có ý nghĩa và một cách không thể đảo ngược được. Việc trị liệu di truyền, trực tiếp nhắm vào việc làm vơi nhẹ những điều kiện bẩm sinh như hội chứng Down, chắc hẳn sẽ ảnh hưởng đến căn tính của người trong cuộc, xét về hình dáng bên ngoài cũng như các khả năng tâm thần, nhưng việc thay đổi này cũng sẽ giúp người ấy hoàn toàn bộc lộ được thực chất của mình, điều đã bị di truyền khiếm khuyết ngăn chận lại.
92. Việc can thiệp mang tính trị liệu giúp phục hồi các chức năng thể lý, tâm lý và tinh thần, đặt con người vào trung tâm và hoàn toàn tôn trọng cứu cánh tính của các cấp độ khác nhau nơi con người. Vì sở hữu tính chất trị liệu, nền y học nào phục vụ con người và thân xác con người như là những mục tiêu tự chính nó, thì tôn trọng hình ảnh Thiên Chúa trong cả hai. Theo nguyên tắc tương ứng, các phương pháp trị liệu nhằm kéo dài đời sống một cách ngoại thường đều phải được sử dụng khi có một sự tương ứng giữa các kết quả tích cực nhắm tới và sự thiệt hại có thể xẩy ra cho chính bệnh nhân. Thiếu sự tương ứng này, có thể phải loại bỏ việc trị liệu, cho dù như thế sẽ làm cho mau chết hơn. Việc làm cho mau chết trong phương pháp trị liệu giảm đau bằng cách gây mê chính là một hậu quả gián tiếp, giống như các phản ứng phụ trong y học, có thể được đặt trong nguyên tắc song hiệu, miễn là liều lượng được sử dụng là nhằm vào việc làm thuyên giảm các triệu chứng đau đớn, chứ không nhằm dứt khoát kết thúc sự sống.
93. Việc bố trí cái chết thực sự là cách bố trí đời sống triệt để nhất. Trong việc trợ tử, an tử trực tiếp, và trực tiếp phá thai—cho dù tình huống cá nhân có bi đát và phức tạp thế nào chăng nữa—sự sống thể lý được hy sinh vì một cứu cánh tự chọn. Nằm trong cùng trường hợp này là việc biến phôi thai trở thành dụng cụ bằng thí nghiệm phi-trị-liệu trên các phôi thai, cũng như bằng các cách chẩn bệnh trước khi cấy ghép.
94. Thực trạng hữu thể học của con người chúng ta trong tư cách là thụ tạo được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa đặt ra một số giới hạn cho khả năng bố trí bản thân. Quyền thống trị ta đang thụ hưởng thì không phải là vô hạn: ta thực hiện quyền thống trị này trên thế giới tạo vật theo nghĩa thông phần, để rồi rốt cuộc, ta phải tính sổ quản lý với Đấng làm Chúa Tể Vũ Trụ. Con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, nhưng con người không phải là Thiên Chúa.
KẾT LUẬN
95. Qua các suy tư này, chủ đề ‘imago Dei’ đã cho thấy một sức mạnh có tính hệ thống trong việc soi sáng nhiều chân lý của niềm tin Kitô giáo. Nó giúp ta trình bầy một quan niệm về con người, một quan niệm mang tính tương giao và ngã vị. Chính mối tương giao với Thiên Chúa đã xác định căn tính con người và đặt nền cho mối tương giao với các tạo vật khác. Tuy vậy, như đã thấy, mầu nhiệm con người chỉ hoàn toàn được mạc khải trong ánh sáng của Chúa Kitô, Ngài là hình ảnh tuyệt hảo của Chúa Cha, và qua Chúa Thánh Thần, Ngài đưa ta vào thông phần mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Chính trong sự hiệp thông tình yêu này mà mầu nhiệm của mọi hữu thể--được Thiên Chúa cưu mang—mới tìm được ý nghĩa trọn vẹn nhất. Vừa cao sang, lại vừa khiêm hạ, quan niệm về con người như là hình ảnh Thiên Chúa đã tạo thành một bản hiến chương của các mối tương giao giữa con người với thế giới tạo vật, và một nền tảng để căn cứ vào đó mà thẩm định tính cách chính đáng của các tiến bộ khoa học kỹ thuật, vốn có ảnh hưởng trực tiếp trên đời sống con người và môi sinh. Trong các lãnh vực này, vì là các nhân vị được mời gọi làm chứng cho việc thông phần vào quyền sáng tạo của Thiên Chúa, con người cũng cần phải thừa nhận vị trí của mình như là các tạo vật đã được Thiên Chúa trao phó cho trách nhiệm quý báu là quản lý vũ trụ vật chất này.
(hết)
Nguyễn Kim Ngân