ĐỨC KITÔ - ÁNH SÁNG CỦA CHÚNG TA,
VÀ NHỮNG TÔN GIÁO THẾ GIỚI
Hans Kung
Trong thế giới hỗn loạn hôm nay, các kitô hữu tìm được
sự nâng đỡ tinh thần nơi Đức
Kitô, "ánh sáng chiếu soi trong tối tăm"
(Ga 1,5). Tôi phải thú nhận rằng trong suốt cuộc đời của tôi, là một chuyên gia
thần học, tôi sẽ không thể nào chịu đựng được nỗi tăm tối của thế giới này nếu
không có ánh sáng, và trong những điều kiện con người yếu đuối của tôi, ánh
sáng đó đã luôn luôn trở thành con đường, chân lý và sự sống đối với tôi. Nhiều
người khác cũng nghĩ như vậy.
Bản chất của Kitô giáo không phải là một cái gì trừu
tượng, nhưng là một con người, một hình ảnh cụ thể của lịch sử, tức là Đức
Kitô. Ngài luôn luôn là ánh sáng và đã đem lại hy vọng cho không biết bao nhiêu
người mà tên tuổi của họ lịch sử giáo hội cũng không biết tới, nhưng là những
người qua các thế hệ đã coi Ngài như một gương mẫu. Từ Đức Kitô họ đã biết được
những người được chúc phúc chính là những người nghèo, những người không dùng
bạo lực, những người đói khát công chính, những người hay thương xót, những
người kiến tạo hòa bình, những người bị bách hại vì công chính. Họ đã học biết
tôn trọng những người khác và chia sẻ với họ. Họ đã nhận được sức mạnh để tha
thứ, để sám hối, để từ bỏ chính mình và giúp đỡ người khác.
Trong đời sống hàng ngày các kitô hữu luôn luôn chứng
minh rằng việc sống theo những lý tưởng cao cả này là điều có thể, và họ có thể
vượt qua đau khổ, tội lỗi, thờt vọng cũng như sợ hãi, nhờ niềm tin nơi Đức
Kitô. Niềm tin vào Đức Kitô, ánh sáng tự ánh sáng, không phải chỉ là sự an ủi
cho đời sống mai sau, nhưng là căn bản chống lại những bất công ở trần gian này
và ngay bây giờ.
Nhiều người sẽ nói rằng nếu Đức Kitô là Đường, là Sự
thật và là Sự sống, thì chúng ta còn cần gì nữa? Chẳng hạn, K. Barth đã nói
rằng Đức Kitô là một ánh sáng đến nỗi không còn ánh sáng nào khác. Nhưng ông
lại nhận rằng sự giới hạn này không hợp với chương trình của Thiên Chúa dành
cho con người. Sự loại trừ như thế dẫn tới sự không khoan nhượng, là điều đi
ngược với kitô giáo, bởi nó đi ngược lại tinh thần của Đức Kitô. Vì vậy, ngay cả
K. Barth cũng phải công nhận rằng có những ánh sáng khác, những lời khác song
song với lời của Thiên Chúa, những chân lý khác song song với chân lý của Thiên
Chúa. Đức Kitô không bị giới hạn bởi những trang Kinh thánh hay những bức tường
của Giáo hội, bởi vì Thiên Chúa là Thiên Chúa của mọi con người cũng hoạt động
ở ngoài Giáo hội. Thực tế, cả Tân ước lẫn Cựu ước đều chứng minh rằng những
người không phải do thái và không phải kitô hữu vẫn có thể nhận ra Thiên Chúa
và họ biết rằng Thiên Chúa ở với họ.
Dù Đức Kitô ánh sáng là tiêu chuẩn cho tất cả mọi cuộc
tranh cải về Thiên Chúa đối với người kitô hữu, chúng ta không thể bỏ qua sự
kiện là đối với hàng triệu người - trong quá khứ cũng như hiện tại -, "Đức
Phật", "Con Người Được Soi Sáng" vẫn là "ánh sáng" vĩ
đại của họ. Và đối với hàng triệu người hồi giáo trong quá khứ cũng như trong
hiện tại, Kinh Koran là ánh sáng soi đường cho họ, và chính Mahomet đã là hiện
thân của sứ điệp này. Chúng ta cũng có thể nói như vậy về tất cả các tôn giáo
lớn khác. Vậy thì Đức Kitô ánh sáng của chúng ta có tương hợp với những ánh
sáng khác mà người khác công nhận hay không? đương nhiên, bởi vì sự tương hợp
này tương xứng với tinh thần của Đức Kitô và bằng những thí dụ cụ thể Ngài đã
cư xử thế nào với những người của các tín ngưỡng khác. Ngài công nhận phẩm giá
của họ và đối xử với họ một cách trân trọng. Tuy sinh ra từ một người mẹ do
thái, nhưng Ngài vui mừng trước niềm tin của người phụ nữ Syria và viên sĩ quan
La mã. Ngài đón nhận những người hy lạp và đề cao một người ngoại giáo Samari
như gương mẫu của tình yêu tha nhân.
Đức Kitô sẽ xử sự như thế nào trong thế giới hôm nay?
Ngài sẽ đem đến cho chúng ta nguồn cảm hứng nào? Tôi xác tín rằng Ngài sẽ bảo
chúng ta đi đến với những người theo tôn giáo khác để trong cuộc gặp gỡ với họ
chúng ta sẽ khám phá trách nhiệm kitô hữu của chúng ta đối với thế giới.
Ngày hôm nay chúng ta phải đối đầu với những thách
thức mới để có những bước đi có tính quyết định trong phong trào Đại kết giữa
các kitô hữu. "Chúng tôi hy vọng trong đời Đức Giáo hoàng khác, sự chia xẻ
Bí tích Thánh Thể sẽ được phép?". Chúng ta cũng phải đối mặt với những
thách đố của Đại kết giữa các tôn giáo. Trong xã hội quốc tế này, các kitô hữu
được mời gọi lãnh trách nhiệm, cộng tác với những người thuộc tôn giáo khác để
tìm kiếm hòa bình, công lý, và sự toàn vẹn của tạo thành. Vận mệnh của thế giới
ảnh hưởng đến tất cả chúng ta, dù chúng ta thuộc tôn giáo hay ý thức hệ nào đi
nữa. Theo ý nghĩa này, chúng ta chú ý tới 3 mục tiêu lớn: Hòa bình thế giới,
Tôn giáo thế giới và Lương tri thế giới.
HÒA BÌNH THẾ GIỚI
Các viên chức Liên hiệp quốc ước lượng rằng nếu Châu
phi được phân chia theo sắc dân thì sẽ có tới 450 lãnh thổ quốc gia. Nhưng nếu
các đơn vị sắc dân này hay tôn giáo của những nhóm nhỏ hơn mà cũng muốn trở
thành các quốc gia, thì không những chỉ có Châu Phi mà cả Châu Âu cũng sẽ tan
nát và sẽ đi đến chỗ hỗn loạn. Các đơn vị càng trở nên nhỏ thì cái nhìn càng
ngày càng trở nên nhỏ hẹp và khuynh hướng phân chia ranh giới càng ngày càng
trở nên điên loạn. Nam Tư phải trở thành lời cảnh báo cho chúng ta để chúng ta
thay đổi cách suy nghĩ của mình, để tìm ra những nguyên tắc tốt đẹp hơn cho sự
cùng tồn tại trong thế giới này và trong nhân loại này. Nhưng làm thế nào?
Có thể là hơi vội vàng khi nói về hòa bình thế giới, về
tôn giáo thế giới và về một lương tri thế giới khi hiện nay có tới 30 cuộc
chiến tranh đang xảy ra. Nhưng nếu hôm nay, chúng ta không đề cập tới, thì bao
giờ chúng ta mới nói đến vấn đề đó được. Các tôn giáo thế giới đòi hỏi phải có
hòa bình, và đòi hỏi này không phải là chuyện nói cho có, nhưng nó xuất phát từ
kinh nghiệm đắng cay mà trong đó các tôn giáo đã giữ một vai trò (và vẫn còn
giữ một vai trò) tai hại. Mục đích không phải chỉ là một tôn giáo đơn thuần,
hay là một tập hợp những Giáo hội Kitô giáo, nhưng là một nền hòa bình giữa tất
cả các tôn giáo.
Thật là một điều hạnh phúc nếu các vị lãnh đạo của các
tôn giáo lớn nói và hành động cho hòa bình ở giữa những giáo phái, những tôn
giáo và những quốc gia. Thật là một điều tốt lành cho nước Nam Tư cũ, nếu họ đã
biết tận dụng những năm sau thế chiến thứ II, đặc biệt là đối với những Giám
mục công giáo người Croatia và những Giám mục Chính thống Serbia để liệt kê tất
cả những xúc phạm và tội ác mà cả hai bên đã gây ra - người Croatia trong thế
chiến thứ II và người Serbia hôm nay. Thật là một điều may mắn, nếu sau khi đã
than khóc và xác minh các tội ác, họ đã biết tha thứ cho nhau và hòa giải với
nhau như nước Pháp và nước Đức đã làm. Chúng ta cũng có thể nói như vậy về tất
cả những điểm xung đột khác trên thế giới. Tất cả chúng ta phải thay đổi cách
suy nghĩ của mình. Chúng ta không chỉ cần một chính sách mới, một lối ngoại
giao mới, nhưng một sự hoán cải tâm hồn, một sự chấp nhận lẫn nhau và một lương
tri mới.
Đức Kitô sẽ đòi hỏi các kitô hữu điều gì nếu Ngài trở
lại hôm nay? Tôi nghĩ rằng Ngài sẽ đòi hỏi chúng ta một lòng nhân ái trong sự
liên đới,
- Một sự liên đới không chỉ tố giác những cuộc chiến
tôn giáo và những cuộc thanh tra đức tin, nhưng sẽ kêu gọi mọi người thực hiện
sự khoan dung và trong quan hệ với các tôn giáo khác, sẽ thay thế tính ích kờ
tập thể bằng sự liên đới phát xuất từ lòng yêu thương.
- rồi, thay vì đưa ra những xúc phạm của các tôn giáo
khác, sự liên đới đó đòi hỏi chúng ta tha thứ và làm lại từ đầu.
CÁC TÔN GIÁO THẾ GIỚI
Trong nhiều năm qua, các khác biệt tôn giáo, các thành
kiến và sự nghi ngờ quá lớn làm cho các tôn giáo không thể đối thoại với nhau.
Các tôn giáo sống trong sự cô lập có tính toán. Nhưng tình hình thế giới đã
thay đổi một cách đáng kể. Ngay cả Thụy Sĩ cũng đang dần dần nhận ra rằng chẳng
có những hoang đảo quốc gia hay miền ổn định. Và mặc dù các quyền lợi quốc gia
và địa phương được biểu lộ rất rõ, sự lệ thuộc lẫn nhau về chính trị, kinh tế
và tài chánh rất lớn đến nỗi các nhà kinh tế đã nói đến một xã hội toàn cầu và
các nhà xã hội học nói đến nền văn minh toàn cầu (theo nghĩa kỹ thuật kinh tế
và xã hội). Tất cả chúng ta trực tiếp hay gián tiếp đều liên lụy trong hệ thống
tương tác này.
Nhưng xã hội toàn cầu đang hình thành này và nền văn
minh kỹ thuật toàn cầu - điều này quan trọng đối với tôi - không có nghĩa là
một nền văn hóa thế giới duy nhất theo nghĩa tinh thần, nghệ thuật, sáng tạo
hay một tôn giáo toàn cầu duy nhất. Ngược lại, một xã hội toàn cầu và một nền
văn minh toàn cầu bao gồm nhiều nền văn hóa và các tôn giáo khác nhau, đôi khi
còn phải nhấn mạnh đến các đặc thù của các nền văn hóa và các tôn giáo đó nữa.
Hy vọng có một tôn giáo toàn cầu là một điều không tưởng, và sợ hãi trước tôn
giáo toàn cầu đó lại là điều phi lý. Sự đa dạng tôn giáo, tín ngưỡng, giáo
phái, nhóm và các phong trào tôn giáo không thể và cũng không nên đi tới chỗ
trở thành một tôn giáo chung duy nhất.
Dù khác nhau, tất cả các tôn giáo đều là những sứ điệp
cứu độ giải đáp những vấn đề cơ bản của con người về tình yêu và sự đau khổ, về
tội ác và lòng sám hối, về sự sống và cái chết. Thế giới này từ đâu mà tới? Tại
sao chúng ta sinh ra và tại sao chúng ta phải chết? cái gì quyết định vận mệnh
của mỗi người và của nhân loại? đâu là căn bản của ý thức luân lý và những
nguyên tắc về đạo đức? ngoài việc giải thích về cuộc đời và thế giới, tất cả
các tôn giáo đều đưa ra những lối sống và hành động ở trần gian để được ơn cứu
độ vĩnh viễn - nói tóm lại, được giải thoát khỏi đau khổ, tội lỗi và sự chết.
Cũng như các hiện tượng nhân loại khác, mỗi tôn giáo
cũng có thể bị lạm dụng. Xét về quan điểm xã hội học, các tôn giáo là những hệ
thống quyền lực có khuynh hướng ổn định và gia tăng quyền lực của mình. Chúng
có khả năng để đấu tranh, nhưng cũng có khả năng tìm kiếm hòa bình. Tôn giáo có
thể vận động ủng hộ và kéo dài chiến tranh, nhưng nó cũng có thể tránh và rút
ngắn chiến tranh. Song song với các khía cạnh chiến thuật, kinh tế và chính trị
của các cuộc khủng hoảng chính trị thế giới, chúng ta không được quên khía cạnh
xã hội, luân lý và tôn giáo.
Dĩ nhiên trong các tôn giáo của thế giới có những hệ
thống tư tưởng và tín ngưỡng không tương hợp với nhau. Nhưng có nhất thiết các
tôn giáo của thế giới phải đối đầu với nhau hay không? Hòa bình thường là một
phần trong các chương trình của tôn giáo. Nhiệm vụ chính yếu của tôn giáo hôm
nay là trở thành những người kiến tạo hòa bình, bằng cách sử dụng tất cả mọi
phương tiện có thể, đặc biệt là các phương tiện truyền thông. Chúng có thể làm
sáng tỏ những sự hiểu lầm, dẹp bỏ những ký ức đau khổ, xua đuổi những hình ảnh
thù địch có sẵn, hóa giải những xung đột, giảm bớt hận thù và tàn phá, và nhấn
mạnh những điểm chung của các tôn giáo.
Nhưng các thành viên của các tôn giáo lại không biết
họ có những điểm nào là điểm chung, đặc biệt trong những nguyên tắc đạo đức của
họ. Vì thế cần có "một lương tri mới".
NHU CẦU VỀ MỘT LƯƠNG TRI THẾ GIỚI MỚI
Sự hiểu biết thân thiện giữa các tôn giáo không có
nghĩa là một liên minh của những người có tín ngưỡng chống lại những người vô
tín. Phong trào tái-phúc âm hóa Đông Âu sẽ chỉ dẫn tới việc thiết lập những
chiến hào của chiến tranh. Chúng ta không cần phân chia các thành phần xã hội
và chính trị thành những thành phần tư giáo chống lại những thành phần không
phải tư giáo (như ở Ba Lan). Một lương tri thế giới mới đi tìm một sự liên minh
giữa những người có tín ngưỡng và những người vô tín, để có một lương tri mới
trên một nền tảng chung.
Chúng ta phải phân tích tỉ mỉ cái gì liên kết tất cả
những tôn giáo lớn. Công việc này mới bắt đầu nhưng đã thu hút sự quan tâm của
nhiều người. Nhưng tôi muốn đưa ra một vấn đề cơ bản hơn. Ngoài những khác biệt
về tín lý, biểu tượng, thì các tôn giáo có thể đóng góp những gì để cổ võ một
lương tri, giúp họ phân biệt với triết học, chính trị thực tiễn và các nhóm
nhân đạo?
Trong quá khứ, các tôn giáo vẫn thường coi các truyền
thống của mình là tuyệt đối. Các tôn giáo đã kiên quyết xác định các tín điều
và các nghi thức và đã tự cô lập lẫn nhau. Nhưng khi muốn, chúng vẫn có thể
được tôn trọng trong những nguyên tắc cơ bản về con người, với một quyền bính
và một sự xác tín mà các nhà chính trị, các nhà luật pháp và các triết gia
không có.
Dĩ nhiên, tất cả các tôn giáo lớn đều có một số những
tiêu chuẩn mà họ không thể nhân nhượng, những nguyên tắc đạo đức và những
nguyên lý hướng dẫn hành động. Những tiêu chuẩn này dựa trên một cái tuyệt đối
và vô điều kiện, có giá trị tới hàng trăm triệu người, mặc dù trên thực tế
những điều này đã không được tuân giữ một cách triệt để. (Trên thực tế người ta
thường hành động trái với đạo đức. Có thể có những cái có giá trị trên nguyên
tắc mặc dù trên thực tế không còn được tôn trọng).
Năm giới điều quan trọng có giá trị đối với tất cả các
tôn giáo lớn của thế giới có thể được áp dụng trong kinh tế, chính trị, xã hội:
1. không được được giết người (gây hại cho người
khác);
2. không được nói dối (lừa lọc phá vỡ hợp đồng);
3. không được ăn cắp (vi phạm quyền của người khác);
4. không được làm điều dâm ô (phạm tội ngoại tình);
5. tôn trọng cha mẹ (giúp đỡ những người thiếu thốn và
yếu đuối).
Có phải những giới luật này quá mơ hồ không? Bản tuyên
ngôn về lương tri thế giới đã được Đại hội nghị của các tôn giáo thế giới họp
tại Chicago năm 1993 công nhận, một biến cố chưa từng có trong lịch sử các tôn
giáo, đã đưa ra một số những chi tiết cụ thể. Đại hội này của các tín hữu từ
tất cả các tôn giáo thế giới đã đưa ra một văn bản cơ bản để hình thành những
nguyên tắc đạo đức chung và những khuyến cáo rõ ràng, tất cả những điều đó trực
tiếp liên quan đến phong trào hòa giải Kitô giáo và liên quan đến trách nhiệm
của chúng ta đối với công lý hòa bình và sự toàn vẹn của tạo thành của Thiên
Chúa. Tất cả mọi tôn giáo có thể và phải tích cực dấn thân: (1) cho sự khoan
nhượng và cho một đời sống trung thực (không được nói dối); (2) không bạo động
và tôn trọng sự sống và thiên nhiên (không được giết người); (3) liên đới và
một trật tự kinh tế công bằng (không được ăn cắp); và (4) bình đẳng về quyền
lợi và cộng tác giữa nam và nữ (không được làm điều tà dâm).
Tuyên bố này của Đại hội nghị các tôn giáo thế giới là
một dấu hiệu của hy vọng về một tương lai, trong đó các tôn giáo của thế giới
có thể cộng tác để đem lại một lương tri chung của nhân loại. Tuyên ngôn này
cần phải được tất cả các nhóm, các giáo xứ học tập trong các khóa học về tôn
giáo và đạo đức. Nó đã được cấu thành trong ngôn ngữ thường ngày của chúng ta.
Tuy có vẻ chung chung nhưng không phải trừu tượng, cụ thể nhưng không phải ngẫu
hứng, quyết liệt nhưng vẫn đem lại hy vọng.
Đồng thời, là những kitô hữu, chúng ta phải xem xét
cái gì làm nên lương tri đặc thù của chúng ta: Đức Giêsu Kitô, ánh sáng của
chúng ta. Đối với chúng ta, điều này có nghĩa là một sự đào sâu đặc biệt, một
sự thực hành và sự bén rễ sâu sắc của lương tri thế giới. Chúng ta phải suy tư
về những điều mà chúng ta phải nói ra, một khi chúng ta được Đức Kitô ánh sáng
soi sáng, chẳng hạn như về ý nghĩa của cuộc sống và cái chết, về sự đau khổ và
tha thứ, về sự dâng hiến chính mình vô điều kiện và về sự cần thiết phải từ bỏ,
và về niềm vui. Một lương tri Kitô giáo như vậy sẽ không những tương hợp với
lương tri thế giới; nó còn có thể đào sâu, làm sáng tỏ và cụ thể hóa lương tri
thế giới cho các kitô hữu.
THAY ĐỔI VỀ Ý THỨC
Lịch sử chứng minh rằng sự thay đổi trên thế giới đòi
hỏi sự thay đổi về ý thức và một sự hoán cải trong tư tưởng và hành động, cả
trong bình diện cá nhân cũng như xã hội. Chúng ta đã thấy rõ điều này khi nói
đến chiến tranh và hòa bình, kinh tế và môi sinh, nam và nữ. Các Giáo hội có
trách nhiệm đặc biệt đối với sự thay đổi như vậy trong các điều kiện nội tâm,
trong não trạng và trong trái tim. Sẽ rất khó có thể tìm được một sự nhất trí
toàn bộ trước những vấn đề như vậy (đạo đức sinh học, đạo đức về tính dục,
đạo đức về kinh tế và quốc gia, hay đạo đức của các phương tiện truyền thông và
khoa học). Nhưng trong tinh thần của các nguyên tắc mà chúng ta đã nêu trên,
chúng ta sẽ có thể tìm ra được những cách giải quyết cho những vấn đề đang
tranh luận như vậy.
Tôi xác tín rằng trật tự thế giới mới sẽ tốt hơn nếu
thế giới trở nên một thế giới xã hội và đa dạng; với điều kiện nó phải dựa trên
sự cộng tác và làm việc cho hòa bình, và với điều kiện nó sẽ trở thành một thế
giới môi sinh và đại kết. Vì thế, nhiều người được hướng dẫn bởi các xác tín
nhân bản hay tôn giáo đã sẵn sàng nhập cuộc để đem lại một lương tri thế giới
chung và đang kêu gọi tất cả những người có thiện chí cùng làm việc cho một sự
thay đổi ý thức đối với đạo đức.
An Hòa
chuyển dịch
(Nguyên tác: Chist, our light, and
World religions)
TSTH, 9.1997