23/07/2023
664
Suy niệm hằng ngày_Tuần XVI Thường Niên







 

 

 


 


 

Chúa Nhật XVI Thường Niên - A

Kn 12,13.16-19; Rm 8,26-27; Mt 13,24-43


Lm. Giuse Nguyễn Hồng Quân

Kn 12,13.16-19: Người ban cho kẻ tội lỗi ơn ăn năn trở lại.

Tv 86,5a: Lạy Chúa, Chúa nhân hậu và khoan dung.

Rm 8,26-27: Thánh Thần cầu xin cho chúng ta bằng những tiếng than khôn tả.

Mt 13,24-43: Hãy cứ để cả hai mọc lên cho đến mùa gặt.

Chúa Giêsu giảng dạy bằng ba dụ ngôn: lúa và cỏ lùng, hạt cải bé nhỏ, và men trong bột để nói về Nước Trời, vương quốc Tình yêu. Nước Trời là nơi chứa đựng những thành quả tốt đẹp nhất từ những gì diễn ra ở trần gian. Trần gian có thể có tốt và xấu lẫn lộn, khó phân biệt hay làm tổn hại nhau. Nhưng sau khi sàng lọc, tuyển chọn thì những gì không xứng đáng sẽ bị loại ra và không được cho vào nơi Thiên Chúa ngự trị.

Một điều an ủi và đầy hy vọng là Chúa không chỉ chọn những gì thực sự tốt từ ban đầu, nhưng Người còn chấp nhận sự biến đổi, thanh lọc từ xấu trở thành tốt. Vì Người “nhân hậu và khoan dung,” nhẫn nại. “Người ban cho kẻ tội lỗi ơn ăn năn trở lại.” Đặc biệt hơn, trong dòng đời nổi trôi và hỗn loạn, ảo và thực đổi chỗ cho nhau, lắm khi ta không biết làm thế nào cho phải thì “Thánh Thần cầu xin cho chúng ta bằng những tiếng than khôn tả.”

Chúa đang hiện diện với ta. Ngài dạy ta những bài học giá trị để sống và sống tốt nơi dòng đời đầy biến động. Ước chi Lời Chúa giúp ta giải thoát những mối bận tâm không đáng, để tập trung sống yêu thương mỗi ngày với Chúa và anh chị em mình.




Lm. FX. Nguyễn Văn Thượng

Lòng thương xót của Đức Chúa là một trong những thực tế quý giá nhất trên thế giới, một trong những chủ đề được tiết lộ nhiều nhất trong toàn bộ Kinh thánh, và là một trong những Chân Lý bị hiểu lầm một cách thảm hại nhất về Đức Chúa. Nếu chúng ta muốn biết Chúa thực sự là ai, nếu chúng ta muốn nhìn vào trái tim của Người, thì không nên nhìn vào sự thể hiện cơn thịnh nộ chính đáng và sức mạnh vũ trụ của Người. Thay vì thế, hãy chú ý đến lòng thương xót của Người mà không giảm thiểu sức mạnh toàn vẹn của Người, và nhìn vào bức tranh toàn cảnh có thể thay đổi cuộc đời chính mình.

Đức Chúa bày tỏ lòng thương xót, Người làm như vậy với chủ ý và sức mạnh hoàn toàn, và chúng ta, những tạo vật của Người, có cái nhìn sâu sắc nhất về con người của Đấng Toàn Năng không chỉ ở quyền tối thượng mà còn ở sự tốt lành của Người. Không chỉ đơn giản là ở sự vĩ đại của Đấng Tối Cao mà là sự dịu dàng của Người. Không chỉ ở sức mạnh cao chót vót mà còn ở sự dịu dàng đáng ngạc nhiên của Người.

1. “Chúa xử khoan hồng vì Người làm chủ được sức mạnh. Ngài lấy lượng từ bi cao cả mà cai quản chúng con, nhưng có thể sử dụng quyền năng bất cứ khi nào Ngài muốn. Làm như thế Chúa đã dạy dân rằng: người công chính phải có lòng nhân ái. Người đã cho con cái niềm hy vọng tràn trề là người có tội được Người ban ơn sám hối.” (Kn 12,18-19)

Khi nói về sự tốt lành của Đức Chúa, Đa-vít chỉ ra những phẩm chất cụ thể của sự tốt lành đó. Điều tối quan trọng trong số đó: lòng nhân từ cao cả nhấn mạnh cả ân huệ mà Đức Chúa ban cho lẫn tấm lòng nhân từ, dịu dàng của Người mà cai quản mọi loài thụ tạo. Cần lưu ý rằng các thuật ngữ ‘lượng từ bi’ trong đoạn trích này nên được hiểu là con tim Thiên Chúa tràn đầy sự “nhân từ/thương xót”, vì chúng có thể mang cả hai nghĩa bổ túc. Chỉ riêng bối cảnh sẽ quyết định liệu Chúa đang hành động vì lòng thương xót chung hay liệu Người có động cơ sâu xa nào đó chẳng hạn như lòng trắc ẩn chân thành hoặc nỗi buồn xót xa cho hoàn cảnh của người khác.

Cũng như trong Thánh Vịnh 145 câu 8, thuật ngữ “lòng trắc ẩn/lòng trắc ẩn” hiện diện những bối cảnh mà chúng xuất hiện như một khuôn mẫu có tính công thức để vẽ nên một bức tranh vững chắc hơn về lòng nhân từ cao cả của Chúa, trước tiên là từ quan điểm của Cựu Ước và sau đó là từ việc áp dụng chúng cho Đấng Ki-tô trong Tân Ước. Ân sủng và lòng thương xót của Đức Chúa đã được biết rõ và thường được các tác giả Cựu Ước nhắc đến. Chúng thường xuất hiện riêng lẻ nhưng đặc biệt hiệu quả khi chúng xuất hiện cùng nhau.

Cựu Ước ghi lại nhiều trường hợp về ân sủng và lòng trắc ẩn kiên định của Đức Chúa đối với sự ương ngạnh quá thường xuyên của Israel và không tuân giữ—thậm chí cố ý không tuân theo-- các tiêu chuẩn của Người. Vì vậy, Nê-hê-mi-a có thể chỉ ra sự tha thứ của Chúa cho dân Người trong quá khứ: “Nhưng tổ tiên chúng con đã tỏ ra ngoan cố, đã cứng đầu cứng cổ không vâng lệnh Chúa truyền. Họ giả điếc làm ngơ, cũng chẳng thèm ghi nhớ những kỳ công Chúa làm. Họ cứng đầu cứng cổ muốn phản loạn cùng Người, nuôi trong lòng ý định trở lại kiếp làm tôi” (Nê-hê-mi-a 9,16-17a), đồng thời nhắc nhở Đức Chúa rằng về phần mình, Chúa được biết đến với tinh thần nhân từ và kiên nhẫn: “Chúa là Thiên Chúa luôn sẵn sàng thứ tha, Người từ bi nhân hậu, chậm giận, giàu tình thương, đã không bỏ rơi họ.” (Nê-hê-mi 9:17b). Bất chấp tội lỗi của chúng ta, Đức Chúa vẫn nhân từ; bất chấp ân sủng của Đức Chúa chúng ta vẫn tiếp tục phạm tội; bất chấp việc chúng ta tiếp tục phạm tội, Đức Chúa vẫn tiếp tục nhân từ: “ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội” (Rm 5,20). Lòng thương xót của Thiên Chúa là điều mà con người không thể nghĩ ra nhưng có thể trải nghiệm.

Việc các Ki-tô hữu nên thể hiện lòng trắc ẩn chân thành đối với nhau là điều dễ hiểu. Nhưng lòng trắc ẩn của chúng ta có nên chỉ giới hạn cho anh em đồng đạo không? Câu trả lời là không. Nhu cầu của thế giới là có thức ăn, quần áo và việc làm, và những người có những thứ này phải biết chia sẻ với những người không có. Hơn nữa, chúng ta đã thấy ở trên rằng Thiên Chúa quan tâm đến cả những nhu cầu của con người. Ni-ni-ve, kẻ thù của người Do Thái Chúa cũng quan tâm và thể hiện lòng thương xót. Đồng thời, khi Chúa Giê-su bị “một chuyên gia về luật tôn giáo” (x.Lc 10,25) thách thức giải thích ý nghĩa của luật pháp Đức Chúa là “yêu người lân cận như chính mình” (x.c. 28), Người đã đưa ra câu chuyện ngụ ngôn về người Sa-ma-ri nhân lành và mở rộng ra cho mọi người hình ảnh đó cần thiết nơi chính cuộc sống từng người. Khi chuyên gia pháp lý nhận ra những gì đã được dạy, Chúa Giê-su thách thức ông ta: “Hãy đi và làm y như vậy’ (Lc 10,37).

Mong ước những tín hữu ngày nay bước theo Chúa là Thiên Chúa cao cả, đầy ân sủng và từ bi. Mong sao chúng ta lưu ý đến lời thách thức của Chúa Giê-su để trở thành “người Sa-ma-ri nhân lành”. Mong sao chúng ta làm theo lời khuyên của Phao-lô bằng cách mặc lấy “lòng thương xót chân thành” và cố gắng hết sức để yêu thương “người lân cận” của mình.

 

2. “Thần Khí giúp đỡ chúng ta là những kẻ yếu hèn, vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải; nhưng chính Thần Khí cầu thay nguyện giúp chúng ta, bằng những tiếng rên siết khôn tả”. (Rm 8, 26)

Do đó, đây là một nguồn trợ giúp và an ủi nữa cho mỗi Ki-tô hữu đang gặp thử thách hiện nay. Bản thân họ không biết khao khát sự giải thoát nào. Bản thân Thánh Phao-lô không biết phải cầu nguyện điều gì khi ngài xin lấy cái giằm xóc vào thịt mình; nếu để mặc họ, sự chờ đợi mòn mỏi và muôn chiều tơ lòng của họ có thể làm tiêu tan hy vọng của họ; nhưng một Người trợ giúp vượt ra ngoài chính họ đến để giúp đỡ họ, chính Chúa Thánh Thần, Đấng Bầu Cử cho họ.

Nhưng bằng cách nào? Không phải như Chúa Ki-tô cầu thay cho họ, ở bên ngoài chính họ, tại Tòa ân phúc; nhưng bên trong chính họ, bằng cách truyền cảm hứng cho họ bằng những tiếng rên rỉ không thể tả xiết (hoặc, không diễn tả được thành lời) này; và họ ý thức rằng những khao khát sâu sắc và mãnh liệt như vậy là do Thần Khí tác động đến họ và dạy họ cầu nguyện. Họ có thể vẫn không thể diễn đạt những lời cầu xin của họ đối với Đức Chúa thành một hình thức rõ ràng, hoặc thậm chí diễn đạt chúng bằng lời; nhưng họ biết rằng Đức Chúa biết ý nghĩa của những gì mà Thần Khí của chính Người đã soi dẫn. Ngay cả ngoài đức tin và sự soi dẫn đặc biệt của Tin Mừng, ý thức bên trong của linh hồn con người, với những khao khát về một điều gì đó chưa được thực hiện, cung cấp một trong những bằng chứng thuyết phục nhất về một cuộc sống sẽ đến với những người cảm thấy khao khát như vậy.

Niềm tin Ki-tô giáo làm sống động lý tưởng, và tăng cường khát vọng; và do đó, lời tiên tri về ý thức nội tại có được một sức mạnh mới đối với tín hữu; và điều này càng khiến chúng ta tin chắc rằng sự thăng tiến của đời sống thiêng liêng ý thức được là nhừo Chúa Thánh Thần. Tác giả Thánh Vịnh hát: “Ôi lạy Chúa, như nai rừng mong mỏi tìm suối nước trong, linh hồn tôi cũng trông mong được gần Người,” đã cảm thấy trong những hơi thở hổn hển nồng nhiệt mặc dù không rõ ràng này là điềm báo trước về sự thành tựu “niềm hy vọng nơi Đức Chúa” nhờ hơi thở phả ra từ Chúa Thánh Thần nói thay cho mình trước mặt Chúa. Sự giúp đỡ trong việc chuyển cầu của Thần Khí là hoàn hảo vì Người dò xét tấm lòng của những người mà Người giúp đỡ, và Người có thể hướng những lời cầu nguyện của chúng ta theo ý muốn của Đức Chúa.

 

3. “Khi mọi người đang ngủ, thì kẻ thù của ông đến gieo thêm cỏ lùng vào giữa lúa, rồi đi mất. Khi lúa mọc lên và trổ bông, thì cỏ lùng cũng xuất hiện.” (Mt 13,26)

Ngụ Ngôn về Lúa Mì và Cỏ Dại, hay Cỏ lùng, chứa đầy ý nghĩa thiêng liêng và chân lý. Nhưng, bất chấp lời giải thích rõ ràng về dụ ngôn mà Chúa Giê-su đưa ra (Mt 13,36-43), dụ ngôn này thường bị hiểu sai. Nhiều ý kiến đã cố gắng sử dụng câu chuyện này như một minh họa về tình trạng của Hội Thánh, lưu ý rằng có cả tín hữu chân chính (lúa mì) và kẻ giả mạo (cỏ lùng) nhiều cộng đoàn. Mặc dù điều này có thể đúng, nhưng Chúa Giê-su giải thích rõ ràng rằng cánh đồng không phải là Hội Thánh; đó là thế giới (câu 38).

Ngay cả khi Chúa không nói cụ thể với chúng ta rằng thế giới là bối cảnh của câu chuyện, thì điều đó vẫn hiển nhiên. Chủ đất bảo đầy tớ không được nhổ cỏ ngoài đồng, nhưng phải để đó cho đến mùa gặt sau này. Nếu cánh đồng là Hội Thánh, mệnh lệnh này sẽ mâu thuẫn trực tiếp với lời dạy của Chúa Giê-su trong Mt 18, cho chúng ta biết cách đối phó với những tội nhân không ăn năn trong cộng đoàn.

Trong xã hội nông nghiệp vào thời Chúa Giê-su, nhiều nông dân phụ thuộc vào chất lượng mùa màng của họ. Một kẻ thù gieo cỏ dại sẽ phá hoại một vụ mùa. Cỏ lùng trong dụ ngôn cho đến khi trưởng thành, có hình dạng giống như lúa mì. Nếu không có những loại thuốc diệt cỏ hiện đại, người nông dân thông thái sẽ làm gì trong tình thế tiến thoái lưỡng nan như vậy? Thay vì nhổ cỏ lùng làm bật luôn cả lúa tốt, người chủ đất trong dụ ngôn này đã khôn ngoan đợi đến mùa gặt. Sau khi thu hoạch cả cánh đồng, cỏ có thể được tách ra và đốt. Lúa mì sẽ được để dành trong nhà kho.

Trong phần giải thích dụ ngôn, Chúa Giê-su tuyên bố rằng chính Người là người gieo giống. Người gieo rắc hạt giống Cứu Độ, tức là gieo đức công chính, trong cánh đồng thế giới. Nhờ ân sủng của Người, những Ki-tô hữu công chính sinh hoa kết trái nhờ Chúa Thánh Thần (x.Gl 5,22-24). Sự hiện diện của họ trên trái đất là lý do khiến “Nước Trời” giống như cánh đồng thế gian. Khi Chúa Giê-su nói: “Nước Thiên Chúa đã đến gần” (Mt 3,2; 4,17), Người muốn nói đến cảnh vực thiêng liêng tồn tại trên đất song song với vùng cương toả của ma quỷ (1 Ga 5,19) . Khi vương quốc thiên đàng đơm hoa kết trái, thiên đường sẽ trở thành hiện thực và sẽ không có “cỏ lùng” giữa “lúa mì”. Nhưng hiện tại, cả hạt giống tốt và xấu đều chín muồi trên thế giới.

Chúa Giê-su Ki-tô một ngày nào đó sẽ thiết lập nền công chính thực sự. Sau khi Người cất Hội Thánh Thánh Thiện ra khỏi thế giới này, Đức Chúa sẽ trút cơn thịnh nộ công bình của Người trên thế giới. Vào cuối đại nạn, tất cả những người không tin sẽ bị phán xét vì tội lỗi và sự vô tín của họ; sau đó, họ sẽ bị loại khỏi sự hiện diện của Đức Chúa. Những người sống theo đức công chính của Đức Ki-tô sẽ trị vì với Người. Thật là một hy vọng huy hoàng cho “lúa mì”!

 



Thứ Hai Tuần XVI Thường Niên

(Xh 14,5-18; Mt 12,38-42)


Lm. Giuse Nguyễn Hồng Quân
Xh 14,5-18: Các ngươi biết rằng Ta là Chúa, khi Ta tỏ vinh quang cho Pharaon.

Đc: Chúng ta hãy ca tụng Chúa, vì Người uy linh cao cả (Xh 15,1).

Mt 12,38-42: Nữ hoàng phương nam sẽ chỗi dậy lên án thế hệ này.

Người Do Thái không tin cậy Chúa. Họ muốn những dấu hiệu về quyền năng của Chúa. Trong Phúc âm, các kinh sư và người Pharisêu đòi các dấu hiệu. Người Do Thái đã không nhìn thấy dấu hiệu của Chúa trong thực tế là Ngài đã lặng lẽ dẫn họ đến tự do và biến họ thành một dân tộc tuyển chọn. Các luật sĩ không nhận ra Chúa trong sứ điệp và con người của Chúa Giêsu, trong sự phục vụ, lòng trung thành và tình yêu của Ngài. Chúa không phải là Đấng của sự công khai. Sự hiện diện của Ngài kín đáo.

Ngày nay, Lời Chúa mời gọi ta khiêm tốn hiểu rằng chỉ có một trái tim hoán cải hướng về Chúa mới có thể tiếp nhận, giải thích và nhìn thấy dấu hiệu nơi Chúa Giêsu. Chúa Giêsu là dấu chỉ vĩ đại nhất. Các ‘dấu chỉ’ là mối tương quan và tình yêu giữa Thiên Chúa và loài người. Để có thể đến với Chúa và anh chị em, ta cần có lòng khiêm nhường. Qua sự khiêm nhường, ta thừa nhận những hạn chế và đức tính của mình, nhưng chủ yếu ta xem những người lân cận như anh em và Chúa là Cha của ta. Chúa Giêsu nói, dấu hiệu để nhận biết các môn đệ của Chúa là tình yêu. Ta hãy tin tưởng vào tình yêu của Thiên Chúa. Tình yêu dẫn ta đến sự cậy trông nơi Ngài.

 



Lm. FX. Nguyễn Văn Thượng

1. ĐỨC CHÚA sẽ chiến đấu cho anh em. Anh em chỉ có việc ngồi yên. (Xh 14, 14)

Theo truyền thống, tác giả của sách Xuất Hành được quy cho Mô-sê. Mô-sê sinh ra là một nô lệ người Israel, thoát khỏi cuộc thanh trừng trẻ sơ sinh Do Thái của Pha-ra-ôn. Lớn lên với tư cách là hoàng tử của công nương Ai-cập, ở tuổi 40, Mô-sê đã cố gắng giải thoát người đồng bào của mình và giết một người Ai-cập.

Để hiểu ý nghĩa của bài đọc sách Xuất Hành hôm nay, điều quan trọng là phải đặt nó vào ngữ cảnh. Trong sách Xuất Hành, chúng ta thấy Chúa đem tuyển dân của Người ra khỏi Ai-cập theo cách chỉ có thể mô tả là kỳ diệu. Người giáng tai họa xuống người Ai-cập, đập tan ảo tưởng của họ rằng các thần giả của họ có thể bảo vệ họ, và làm bẽ mặt vị thần được cho là Pha-ra-ôn bằng xương bằng thịt. Đó vừa là sự phán xét vừa là lời tuyên bố của Đấng Tối Cao: trước mặt ta, các ngươi sẽ không có thần nào khác. Tuy nhiên, đó là một bài học mà Vua Ai-cập cũng như dân Israel học mãi không thuộc.

Mô-sê đang cố gắng trấn an dân chúng. Ông đã học được những bài học của các bệnh dịch. Chúa đã nói với ông rằng Người sẽ tôn vinh chính Người trên quân đội Ai-cập (c. 4), vì vậy Mô-sê đảm bảo với dân rằng Chúa sẽ kiểm soát được điều đó. Chúa sẽ chiến đấu trận chiến này cho họ; họ không cần phải sợ hãi, hoặc thậm chí chiến đấu.

Trong khi phân đoạn này được viết đặc biệt trong bối cảnh của Israel, Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng những điều xảy ra trước khi Chúa Giê-su  đến được viết ra để dạy chúng ta (x.Rm 15,4). Điều quan trọng là phải hiểu rằng chúng ta thường không có đủ sức mạnh để chiến đấu với những trận chiến của chính mình. Pharoah có một đội quân hàng vạn, có thể nhiều hơn. Ai -cập là cường quốc thống trị thời bấy giờ, với một đội quân được huấn luyện tốt. Dân Israel là những nô lệ mới được trả tự do, có ít vũ khí và không được huấn luyện. Lẽ ra họ phải là con mồi dễ dàng cho quân đội Ai-cập. Vậy mà, quân đội Ai-cập đã bị xóa sổ trước mắt họ.

Đối với chúng ta, Chúa thường đòi hỏi chúng ta phải đứng yên để Người hành động. Điều này thường khó đối với chúng ta, đặc biệt là những người luôn thích kiểm soát. Để Chúa hành động, chăm sóc một tình huống, thường rất khó vì Người không hành động theo thời gian của chúng ta. Nhưng nó thường được chúng ta cho là cần thiết. Cần phải tĩnh lặng, vừa lắng nghe Đức Chúa vừa để Người hành động.

2. Bấy giờ có mấy kinh sư và mấy người Pha-ri-sêu nói với Đức Giê-su rằng: “Thưa Thầy, chúng tôi muốn thấy Thầy làm một dấu lạ. (Mt 12, 38)

Mong muốn của những người này để nhìn thấy một dấu lạ diễn tả theo một cách khác mà họ hy vọng từ đó có thể đả kích Người. Nếu Chúa Giê-su làm một dấu lạ theo ý họ, họ sẽ tìm cách nào đó để chống lại điều đó, và rồi chứng tỏ với mọi người chung quanh rằng Chúa Giê-su chính là người mà họ thành kiến sâu sắc: một sứ giả của Sa-tan (x.Mt 12, 24). Chúa Giê-su lên án việc họ tìm kiếm một dấu lạ, nhất là khi vô số dấu lạ đã xảy ra trước mắt họ. Thay đổi trái tim của những người nghi ngờ và hoài nghi có lẽ là dấu lạ cần thiết nhất.

Tuy nhiên, chúng ta không nên bỏ lỡ điểm trung tâm ở đây. “các người đang yêu cầu một dấu hiệu – Tôi là dấu hiệu của Chúa. Các người đã không nhận ra tôi”. Người Ni-ni-ve nhận ra lời cảnh báo của Đức Chúa nơi Giô-na; Nữ hoàng Sheba đã nhận ra sự khôn ngoan của Chúa nơi Sa-lô-môn. Chúng ta hôm nay nhận thấy  dấu chỉ của Chúa trong mọi biến cố thế giới và trong đời mình, nơi đó chúng ta đi vào hoàn cải, đổi mới để đạt tới mối hiệp thông với Thiên Chúa và để chiến thắng thế giới mù tối trong chính tâm hồn mình.





Lm. Tôma Lê Duy Khang

Tin mừng hôm nay trình bày những người luật sĩ và biệt phái đến thưa với Chúa Giêsu: “Lạy Thầy, chúng tôi muốn Thầy làm một dấu lạ” nhưng Chúa Giêsu trả lời: “Thế hệ gian ác và ngoại tình này đòi dấu lạ. Nhưng chúng sẽ không được dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ngôn sứ Giôna.”

Khi nghe câu chuyện Tin mừng hôm nay, chúng ta có nhớ lại câu chuyện nào khác cũng tương tự không?

Trong tin mừng theo thánh Luca có kể câu chuyện dụ ngôn ông nhà giàu và anh Ladarô nghèo khó, ông nhà giàu, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình, còn anh Ladarô nghèo khổ thì ngồi ở trước cửa ông nhà giàu thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta. Thế rồi người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Ápraham. Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn.

Ông nhà giàu phải chịụ cực hình nơi hỏa ngục, ông ngước lên thấy Ladarô trong lòng tổ phụ, thì xin tổ phụ sai anh Ladarô nhúng ngón tay vào nước để nhỏ vào lưỡi ông cho mát, nhưng không được.

Sau sự kiện đó, ông nhà giàu nói: “Lạy tổ phụ, vậy thì con xin tổ phụ sai anh Ladarô đến nhà cha con, vì con hiện còn năm người anh em nữa. Xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình này! Ông Ápraham đáp: “Chúng đã có Môsê và các Ngôn Sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó. Ông nhà giàu nói: “Thưa tổ phụ Ápraham, họ không chịu nghe đâu, nhưng nếu có người từ cõi chết đến với họ, thì họ sẽ ăn năn sám hối. Ông Ápraham đáp: “Môsê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin.”

Ta thấy, hai câu chuyện Tin mừng tương tự nhau, một câu chuyện Chúa Giêsu không làm dấu lạ, vì đã có dấu lạ của ngôn sứ Giôna, một câu chuyện nói về việc không cho người chết về báo tin vì đã có Môsê và các ngôn sứ, như là một dấu lạ để người khác ăn năn sám hối, để khỏi bị hình phạt hỏa ngục.

Điều này cho chúng ta thấy được gì? Chúng ta thấy được Chúa đã cho con người biết bao nhiêu cơ hội để sửa sai, nếu con người không biết tận dụng cơ hội Chúa ban để sửa sai, để thay đổi con người của mình, để sống tốt lành thánh thiện trước mặt Chúa, để rồi khi giờ của Chúa đến, thì chẳng còn cơ hội nào khác để mà sửa sai.

Bên cạnh đó, con người chúng ta thường bị cơn cám dỗ lợi dụng lòng thương xót của Chúa, nhưng chúng ta cũng nhớ rằng Chúa không phải chỉ là Đấng hay thương xót, mà Ngài còn là Đấng thưởng phạt công minh.

Xin Chúa cho mỗi người chúng ta hiểu được điều đó, để biết tận dụng cơ hội Chúa ban, để thay đổi chính mình, cũng như khi chúng ta thay đổi chính mình, thì đó cũng là dấu lạ để giúp cho người khác thay đổi. Amen.


 


Thứ Ba Tuần XVI Thường Niên
Thánh Giacôbê, tông đồ. Lễ kính.

(2Cr 4, 7-15; Mt 20,20-28)


Lm. Giuse Nguyễn Hồng Quân

2 Cr 4,7-15: Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại, cũng sẽ làm cho chúng tôi được sống lại với Đức Giêsu và sẽ đặt chúng tôi bên Người làm một với anh em.

Tv 126,5: Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan.

Mt 20,20-28: Các con sẽ uống chén của Ta.

Mừng lễ thánh Giacôbê Tông đồ, ta được sống những tâm tình rất bình thường của nhân loại, và từ những gì rất quen thuộc đó ta có thể sửa đổi mà trở nên thánh trong mỗi ngày sống. Tâm tình của những người theo Chúa vẫn mang nặng tư tưởng quyền lực và đầy tham vọng. Họ mong muốn được ‘cai trị’ người khác. Chẳng những người trong cuộc như là các môn đệ, nhưng mẹ của Giacôbê và Gioan cũng nài xin ân huệ từ Chúa Giêsu – để các con được ‘làm quan’ trong nước trời. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã cho biết, quyền năng lớn nhất chính là phục vụ - phục vụ trong yêu thương. Yêu thương để phục vụ và phục vụ để loan tỏa tình thương.

Chúa Giêsu yêu thương đến độ hy sinh cả tính mạng mình để phục vụ cho những ai cần: người tội lỗi, bệnh tật, nghèo khó, bị áp bức…Vì thế Ngài được tôn vinh. Ngày nay, ta cũng học nơi Chúa Giêsu qua cuộc đời của thánh Giacôbê để nhằm giúp người khác bớt khổ đau chứ không nhằm lãnh lương cao, bổng lộc, vinh hoa. Chúa Giêsu đã dạy môn đệ những bài học quý giá để tránh những hẹp hòi, nhỏ nhen, bất nhất; đồng thời can đảm làm chứng cho Chúa. Ta cũng nên nhiệt thành theo Chúa như vậy.

 



Lm. FX. Nguyễn Văn Thượng

1. “Nhưng kho tàng ấy, chúng tôi lại chứa đựng trong những bình sành, để chứng tỏ quyền năng phi thường phát xuất từ Thiên Chúa, chứ không phải từ chúng tôi.” (2Cr 4,7)

Hình ảnh ở đây bắt đầu thay đổi. Kho báu là “sự hiểu biết về vinh quang của Thiên Chúa” mà vị Tông Đồ sở hữu. Đó là thông lệ của các vị vua phương Đông, những người tích trữ kho báu bằng vàng và bạc của họ, để đổ đầy đồng xu hoặc thỏi vào lọ bằng đất nung (x. Gr 32,14). Vì vậy, Thánh Phao-lô nói, bằng một giọng khiêm tốn sâu sắc, "trong thân xác yếu đuối này của chúng tôi - 'những chiếc bình bằng đất' - chúng tôi chứa kho báu vô giá đó." Đoạn văn mang tính hướng dẫn, khi cho thấy rằng  điều mà mọi người có thể thấy rằng khả  năng xuất chúng và quyền lực trên các thần ô uế mà người môn đệ sử dụng đến từ Chúa chứ không phải từ chính họ. Những từ tiếp theo, đối chiếu những đau khổ và bệnh tật trong nhiều loại khác nhau được khắc phục nhờ ân sủng củng cố của Chúa, cho thấy đây là chuỗi suy nghĩ cơ bản thực sự.

Trong phân đoạn 2 Cô-rin-tô 4, nói về những chiếc bình bằng đất chứa đầy kho tàng trên trời. Đức Chúa đã thiết lập một khuôn mẫu trong đời sống Ki-tô hữu. Người đã chế tác con người như những chiếc bình bằng đất. Con người yếu đuối và bình thường, như thể được làm bằng đất sét. Những tín hữu cũng trần tục, yếu ớt, dễ bị tổn thương và không đủ khả năng, được tạo ra cho một mục đích nhưng hoàn toàn không đủ để đáp ứng nhu cầu của nó. Kinh thánh nói rằng Đức Chúa biết chúng ta chỉ là cát bụi—không phải bụi vàng, mà là loại tầm thường, tầm thường thôi.

Sự viên mãn của người tín hữu trong cuộc sống nằm trong kho báu mà người ấy dự định chứa đựng. Tuy nhiên, người Ki-tô hữu vẫn chỉ là một cái bình bằng đất. Một chiếc bình bằng đất sét không phải là vật gì to tát, nhưng chứa đúng đồ giá trị của nó sẽ được phóng đại. Đây là một bức tranh đẹp về đời sống Ki-tô hữu. Người Ki-tô hữu có một kho báu lớn được cất giữ trong những chiếc bình bằng đất của thể xác và tâm hồn mình, trên thực tế, trong chính cuộc đời mình để làm phong phú cho cuộc sống và ơn cứu độ của chính mình trong mối tương quan với Chúa và với tha nhân.

2. “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người.” (Mt 20,28)

Con người đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ, và hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho nhiều người—sự vĩ đại duy nhất được biết đến trong Nước Thiên Chúa sẽ là sự vĩ đại của sự khiêm tốn và sự tận tụy phục vụ người khác. Người nào đi sâu nhất trong các hành vi khiêm nhường từ bỏ bản thân sẽ vươn lên cao nhất và giữ vị trí cao nhất trong vương quốc đó; ngay cả Chúa Giê-su, với sự hạ mình và hy sinh bản thân vì người khác, vượt trên tất cả, đã mang đến cho Người một vị trí vượt lên trên tất cả! Người chính là mẫu gương phục vụ vĩ đại nhất từng được thực hiện trong công trình sáng tạo của Thiên Chúa. Giờ đây, Người đã ban mạng sống của mình làm giá chuộc cho nhiều người!". “Nhiều” ở đây được hiểu không phải đối lập với ít hoặc với tất cả, nhưng đối lập với một—Con người duy nhất vì nhiều tội nhân. Trong vương quốc của Thiên Chúa, sự vĩ đại được đo lường bằng mức độ chúng ta sẵn sàng khiêm nhường phục vụ lẫn nhau.




Lm. Tôma Lê Duy Khang

Tin mừng hôm nay kể câu chuyện mẹ của các con ông Dêbêđê đến gặp Chúa Giêsu, để xin cho các con của bà là Giacôbê và Gioan một người ngồi bên hữu, một người bên tả Chúa trong nước Chúa.

Họ lại xin Chúa điều đó vì họ hiểu lầm căn tính của Chúa, nên khi Chúa nói với họ “Các người không biết các người xin gì! Các người có uống nổi chén Thầy sắp uống không?” Họ đáp: “Thưa uống nổi.”

Câu trả lời đó cho thấy họ không hiểu về căn tính của Chúa, chúng ta biết chén trong văn chương Do thái có khi có nghĩa là vinh quang, nhưng cũng có khi mang ý nghĩa là đau khổ. Hiểu như thế, chúng ta thấy hai môn đệ chỉ hiểu chén theo nghĩa là vinh quang chứ không hiểu theo nghĩa là đau khổ, nên các ông mới trả lời là uống được.

Không chỉ có hai môn đệ này, mà cả các môn đệ khác cũng vậy, họ cũng hiểu sai về căn tính đích thực của Chúa Giêsu, nên khi nghe biết câu chuyện của hai anh em, thì họ đâm ra tức tối.

Chúng ta đào sâu thêm một chút nữa, đó là không chỉ các môn đệ hiểu sai về căn tính của Chúa Giêsu, để rồi xin Chúa được ngồi bên hữu hay bên tả, nhưng sở dĩ hai môn đệ Gioan và Giacôbê, nhờ mẹ của mình mở miệng ra xin Chúa, cũng như các môn đệ khác tức tối với hai anh em Giacôbê và Gioan là vì họ cho rằng thời gian họ đi theo Chúa, làm môn đệ của Chúa, học hỏi được nơi Chúa nhiều điều, thì đương nhiên họ sẽ được ngồi bên hữu, hay bên tả Chúa trong nước của Chúa, nghĩa là họ đang muốn lấy công sức mình bỏ ra để trao đổi với Chúa, tự phụ về chính mình.

Thế nhưng, Chúa Giêsu đã nói gì? Chúa nói: “Chén của Thầy, các người sẽ uống; còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Cha Thầy đã chuẩn bị cho ai, thì kẻ ấy mới được.”

Nghĩa là để lãnh nhận được ơn Chúa không phải do công sức của con người để rồi con người quyết định chọn lựa, nhưng là do Thiên Chúa ban ơn.

Chúng ta thấy ngày nay, chúng ta cũng dễ rơi vào lý luận đó, đó là nghĩ rằng công sức tôi bỏ ra, tôi làm điều này, tôi làm điều kia cho giáo xứ, cho Giáo hội thì đương nhiên tôi phải được hưởng quyền lợi.

Hay vấn đề học giáo lý cũng vậy, không phải tôi học giáo lý một vài tháng, thì đương nhiên tôi được lãnh bí tích.

Hay các linh mục cũng vậy, không phải tôi bỏ công sức ra học 7,8 năm ở Đại chủng viện là đương nhiên tôi được chịu chức linh mục, không có chuyện đường nhiên, nhưng chúng ta phải hiểu tất cả đều là do ơn Chúa ban cho chúng ta mà thôi.

Nếu chúng ta nghĩ là do công sức của chúng ta thì chúng ta cân đong đo đếm ơn của Chúa, theo kiểu sòng phẳng, bánh ít đi thì bánh quy lại, và điều này rất nguy hiểm cho cuộc đời cũng như cho đức tin của chúng ta, và nếu chúng ta có suy nghĩ như vậy, thì những việc chúng ta làm chẳng có công nghiệp gì trước mặt Chúa.

Nói đến đây tôi nhớ lại câu nói của Lục Vân Tiên khi Kiều Nguyệt Nga muốn báo đáp: “Nhớ câu kiến nghĩa bất vi, làm người thế ấy cũng phi anh hùng.”

Xin cho mỗi người chúng ta ý thức được điều đó, để dù làm bất cứ việc gì thì phải tận tâm làm vì lòng yêu mến Chúa, làm để đáp lại tình thương của Chúa, chứ không phải làm để được điều này điều kia, để được Chúa trả ơn, chắc chắn là Chúa sẽ ban ơn cho ta, nhưng ta đừng có ý nghĩ là đòi hỏi Chúa, lúc đó việc làm của ta mới có giá trị. Amen.




Thứ Tư Tuần XVI Thường Niên
Thánh Gioachim và Anna, song thân Đức Maria. Lễ nhớ.

(Xh 16,1-5.9-15; Mt 13,1-9)



Lm. Giuse Nguyễn Hồng Quân
Xh 16,1-5.9-15: Ta sẽ cho mưa bánh trời rơi xuống.

Tv 78,24: Chúa đã ban cho họ được bánh bởi trời.

Mt 13,1-9: Nó sinh hoa kết quả gấp trăm.

Sách Xuất hành nhắc nhở dân rằng “Hãy biết Chúa là Thiên Chúa” của họ. Chúa lắng nghe và thấu hiểu mọi nỗi ưu phiền cùng những tiếng phàn nàn than trách nhưng “Chúa đã ban cho họ được bánh bởi trời.” Khi lương thực khan hiếm và lúc nào cũng vậy, khi người Do Thái kêu cầu Người vì sự bắt bớ, đe dọa của người Ai Cập, thì mỗi ngày có đủ manna từ trời đổ xuống cho nhu cầu trong ngày. Do đó, người Do Thái kinh nghiệm rằng Thiên Chúa quan tâm và dưỡng nuôi họ. Thiên Chúa nâng đỡ họ trên con đường gian khổ để đến với tự do. Chúa ban cho dân Chúa còn dồi dào hơn lòng họ ước mong.

Với niềm tin vào Chúa, ta tin rằng Chúa ban cho những gì ta cần mỗi ngày. Phần chúng ta, ta cần chuẩn bị tinh thần để đón nhận quà tặng Thiên Chúa ban. Như hình ảnh hạt lúa được vãi gieo và trổ sinh bông hạt trong Tin mừng, Chúa là Đấng gieo hạt, mảnh đất là thế gian và trong đó có chúng ta. Nếu ta là mảnh đất tốt thì hạt giống mà Chúa gieo sẽ có cơ hội phát triển cách tốt tươi. Từ một hạt giống bé nhỏ ban đầu, với điều kiện thích hợp và sự chăm sóc cần mẫn thì kết quả có thể được gấp trăm. Vì thế, ta cùng gieo mầm tin yêu để cuộc sống và tình yêu thương của Thiên Chúa nơi mỗi người ngày càng phong phú.




Lm. FX. Nguyễn Văn Thượng

1. “Ta đã nghe tiếng con cái Ít-ra-en kêu trách.” (Xh 16, 12)

Nhiều lần trong đời, chúng ta phàn nàn về chất lượng cuộc sống của mình, hay là hoàn cảnh không được như ý muốn. Tuy nhiên, không có gì phải phàn nàn miễn là chúng ta tin rằng Chúa ở cùng và yêu thương chúng ta. Tất cả chúng ta đều biết rõ về đoạn văn trên; đó là sự dạy dỗ rất quý báu của Đức Chúa. Chúng ta phải làm theo ý muốn của Đức Chúa để bước vào vương quốc thiên đàng vĩnh cửu. Nếu chúng ta không luôn vui mừng, không ngừng cầu nguyện và tạ ơn trong mọi hoàn cảnh, thì những lời phàn nàn sẽ hình thành trong lòng chúng ta. Nó bắt kịp nhanh hơn niềm vui và lời cảm ơn, dẫn nhiều người đến sự hủy diệt.

Dân Israel đã được giải cứu khỏi Ai-cập bởi quyền năng vĩ đại của Đức Chúa thể hiện qua cuộc Vượt Qua, nhưng hầu hết họ đã không đến được đích đến của mình, Ca-na-an; Điều đã xảy ra cho dân Israel trong sa mạc là một ví dụ và hình bóng của những gì sẽ xảy ra cho chúng ta trong hành trình đức tin của chúng ta trong sa mạc. Nhìn thấy những gì đã xảy ra với họ, chúng ta đừng cằn nhằn như họ, nhưng hãy cảm tạ và tôn vinh Thiên Chúa với niềm vui trong mọi hoàn cảnh.

2. “Có những hạt lại rơi nhằm đất tốt, nên sinh hoa kết quả: hạt được gấp trăm, hạt được sáu chục, hạt được ba chục.” (Mt 13, 8)

Dụ ngôn có thể được định nghĩa theo nhiều cách, nhưng định nghĩa phù hợp ở đây là nó là một câu chuyện có thật được thiết kế để dạy một số chân lý thiêng liêng cụ thể thường liên quan đến vương quốc của Đức Chúa . Thông thường, những hạt giống sẽ được gieo trên mặt đất từ những chiếc túi da khi một người nông dân đi trên cánh đồng. Có khi ruộng cày xong, gieo vãi rồi lại cày ruộng. Trong dụ ngôn, một số hạt giống rơi xuống bên đường nơi lối đi bộ thường giáp với cánh đồng. Có những nơi có đá ngay dưới bề mặt đất ở nhiều khu vực. Cây có thể phát triển, nhưng cuối cùng sẽ khô héo dưới ánh mặt trời vì không nhận được độ ẩm hoặc chất dinh dưỡng cần thiết. Gai thường mọc khi không có cây nào khác mọc. Ở địa hình hiểm trở của Israel, chúng có thể chiếm một diện tích nên mùa màng bị bóp nghẹt.

Chúa Giê-su minh họa: “Hạt được gieo trên đất tốt sinh hoa trái, và biết tiếp tục cho đi, vì nó sinh hoa kết trái liên tục. Một số gấp trăm lần. Đây là loại duy nhất có giá trị. Gấp trăm lần không phải là một cường điệu. Bài học của dụ ngôn được Chúa Giê-su giải thích chính là điều này, sự đa dạng trong kết quả của hạt giống được gieo tùy theo loại đất mà nó rơi xuống. Tấm lòng của chúng ta phải trải tấm thảm chào đón những lời của Đức Chúa gieo vào lòng chúng ta. Với niềm hân hoan và hân hoan dồi dào, chúng ta yêu mến đón nhận Lời Chúa và mang nó vào lòng. Hãy đón nhận với lòng kính tôn, yêu mến và khiêm nhượng. Chúng ta cho phép hạt giống của Lời Chúa trở nên gắn bó với chính con người chúng ta khi chúng ta  đồng hóa nó vào trái tim mình.



Lm. Tôma Lê Duy Khang

Tin mừng hôm nay rất ngắn gọn, Chúa nói với các môn đệ: “Còn anh em, mắt anh em thật có phúc vì được thấy, tai anh em thật có phúc, vì được nghe. Quả thế, Thầy bảo thật anh em, nhiều ngôn sứ và nhiều người công chính đã mong mỏi thấy điều anh em đang thấy, mà không được thấy, nghe điều anh em đang nghe, mà không được nghe.”

Chúng ta nhớ có lần Chúa Giêsu cũng nói điều tương tự như vậy liên quan đến Gioan tẩy Giả: “Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả. Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông” (Mt 11,11).

Chúng ta biết Gioan cao trọng là vì sứ mạng của Gioan, ông là người đi trước để dọn đường cho Chúa cứu thế.

Còn người nhỏ nhất trong Nước Trời lại cao trọng hơn Gioan tẩy Giả, là vì Gioan tẩy Giả chỉ là người dọn đường, còn người nhỏ nhất trong Nước Trời là người đã đi con đường của Chúa đã đi, đã bước theo Chúa, và đã được hưởng hạnh phúc thiên đàng.

Đối với người có phúc mà Chúa Giêsu nói cũng vậy, vì được nghe lời Chúa nói, được thấy việc Chúa làm.

Hôm nay, mừng lễ song thân Đức Maria, thánh Gioakim và Anna, chúng ta được nhắc nhở là mình có phúc hơn các ngài, mặc dầu các ngài sinh ra Mẹ Chúa Cứu Thế, nhưng các ngài không thấy, không nghe được Chúa Cứu Thế, còn chúng ta thì được nghe, được biết và ta là người có Chúa Kitô nữa, vì sau khi chịu phép rửa, chúng ta được gọi là kitô hữu là những người có Chúa Kitô.

Lời Chúa nói chúng ta có phúc vì đã thấy, vì đã nghe, chúng ta phải hiểu là không chỉ dừng lại ở việc thấy và nghe, nếu chỉ dừng lại ở việc thấy và nghe, thì việc thấy và nghe của chúng ta cũng không có giá trị gì cả.

Bởi chúng ta hãy nhớ lại lời của Chúa đã từng nói: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7, 21).

Hay “Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá. Dù mưa sa, nước cuốn, hay bão táp ập vào, nhà ấy cũng không sụp đổ, vì đã xây trên nền đá. Còn ai nghe những lời Thầy nói đây, mà chẳng đem ra thực hành, thì ví được như người ngu dại xây nhà trên cát. Gặp mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ, sụp đổ tan tành” (Mt 7,24-27)

Tôi nhớ có một cha giáo nói như thế này: “Điểm số không quan trọng, nhưng qua môn học đó có làm biến đổi các thầy hay không, nếu không môn học đó cũng vô dụng” nghĩa là không phải chỉ biết trên lý thuyết, mà phải sống cái biết trên cuộc đời của mình, đó mới là điều quan trọng.

Xin cho mỗi người chúng ta hiểu được điều đó, để cố gắng sống điều Chúa dạy trong cuộc đời của mình, để mình là người có phúc thật sự, nếu không thì coi chừng bởi điều mà mình xem là có phúc lại mang đến sự vô phúc cho chúng ta. Amen.


 

Thứ Năm Tuần XVI Thường Niên

(Xh 19,1-2.9-11.16-20b; Mt 13,10-17)


Lm. Giuse Nguyễn Hồng Quân

Xh 19,1-2.9-11.16-20b: Chúa ngự xuống trên núi Sinai trước mặt toàn dân.

Đc: Chúa đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời (Đn 3,52b).

Mt 13,10-17: Về phần các con, đã cho biết những mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không cho biết.

Trong Cựu Ước, chúng ta thấy dân của Thiên Chúa luôn được Người phù trợ. Trong biến cố Xuất hành ra khỏi Ai Cập, lòng dân nhiều phen xôn xao, náo động, và thậm chí là đối nghịch với Chúa. Thiên Chúa đã chọn Môsê làm người đại diện cho dân, và Chúa đến ngự xuống trên núi Sinai trước mặt toàn dân trong tiếng sấm sét, ngọn lửa bốc cao. Thiên Chúa quyền năng luôn ở cùng dân của Người.

Trong Tân Ước, Chúa Giêsu cũng ngự giữa dân của Ngài bằng những bài giảng dạy ngắn gọn, súc tích, các dụ ngôn, các bí tích...Vì vậy, ta hãy biết ơn niềm tin Kitô giáo của chúng ta, hãy vui mừng. Chúng ta hãy cố gắng làm cho mối liên hệ của chúng ta với Chúa Giêsu không xa cách, mà càng gần gũi càng tốt, như mối liên hệ với các môn đệ, những người đã ở bên cạnh Ngài, đã nhìn thấy và nghe thấy Ngài, đã học hỏi, ăn uống với Ngài. Bắt chước các môn đệ, chúng ta thực sự chia sẻ thời gian của Ngài, một thời gian không bao giờ kết thúc. Ngày nay, Lời Chúa vẫn mời gọi ta khám phá và thực hành, bởi mầu nhiệm Nước Trời dành cho những ai yêu mến, tin tưởng vào Thiên Chúa. Với tất cả những gì Chúa làm, ta cùng dâng lời tạ ơn. Vì quả thật, “Chúa đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời.”




Lm. FX. Nguyễn Văn Thượng

1. “Ông Mô-sê đưa dân ra khỏi trại để nghênh đón Thiên Chúa; họ đứng dưới chân núi.” (Xh 19, 17)

Được ra mắt Thiên Chúa, vị Chúa Tể Trời Đất, không phải là điều tầm thường; vì thế, con người cần phải chuẩn bị cả tâm hồn lẫn thể xác. Các thánh thường lấy ví dụ: nếu con người phải chuẩn bị kỹ càng thế nào khi gặp vua chúa trần gian, họ cần phải chuẩn bị kỹ càng hơn nữa khi ra mắt vị Chúa Tể Trời Đất.

Đức Chúa bảo Mô-sê thánh hiến dân, biệt riêng họ, thanh tẩy họ, để họ có đủ tư cách gặp gỡ Đức Chúa. Thiên Chúa là Thánh, nên mọi người được yêu cầu giữ trong sạch hoặc tinh khiết theo nghi lễ, được tách biệt khỏi những gì trần tục để thánh hiến cho những gì thánh thiện. Khi Đức Chúa chuẩn bị gặp dân của Người, khi Người chuẩn bị nói chuyện với họ và ban cho họ Lề Luật, Người nói với Mô-sê rằng họ phải chuẩn bị sẵn sàng và Mô-sê được giao nhiệm vụ thánh hóa họ. Chúng ta không biết chính xác những gì Mô-sê đã làm để thánh hiến họ, điều quan trọng là lưu ý rằng họ phải được biệt riêng ra (khỏi mọi trần tục) trước khi sẵn sàng gặp Đức Chúa.

Có hai điều Chúa bảo họ làm.

-  Họ phải giặt quần áo của họ. Bằng cách giặt quần áo của mình, dân Israel cho thấy họ hiểu rằng Đức Chúa  là Thánh và để gặp được Người cần phải thánh khiết.

- Họ phải kiềm chế hoạt động tình ái. Dù sao đi nữa, không phải hoạt động tình ái trong khuôn khổ hôn nhân là ô uế, nhưng khi họ chuẩn bị gặp Đức Chúa, khi họ chuẩn bị tinh thần, họ phải tránh bất kỳ sự buông thả cá nhân nào có thể khiến họ mất lòng và trí đối với Đức Chúa.

Bài học ở đây cho chúng ta là việc gặp gỡ Đức Chúa đòi hỏi sự chuẩn bị cá nhân, có nghĩa là tìm kiếm Người với một trái tim và khối óc không phân chia. Nó có nghĩa là không cho phép bất cứ điều gì khác, bất kể điều đó có thể được ban phước hay tuyệt vời như thế nào, làm chúng ta sao nhãng khỏi việc chuẩn bị để nghe từ Thiên Chúa. Nếu chúng ta muốn kinh nghiệm Đức Chúa như những người tin Chúa ngày xưa, chúng ta phải chuẩn bị để gặp Người. Chúng ta phải được thánh hiến.

2. “Người đáp: “Bởi vì anh em thì được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không.” (Mt 13,11)

Trong I-sai-a 6, 9-10,  nhà tiên tri nói về những người có tấm lòng chai đá và nhắm mắt trước chân lý của Thiên Chúa—và Chúa Giê-su muốn nói rõ ràng rằng điều này cũng đúng đối với những ai đang từ chối Người. Họ thấy mà không thấy, nghe mà không hiểu, nguyên nhân là vì họ không có hứng thú với việc nhận biết hay hiểu biết. Trái tim của họ đóng lại với Chúa Giê-su. Do đó, Chúa Giê-su sẽ nói với các tín hữu bằng ngôn ngữ ẩn dụ—giữ ánh sáng khỏi những người thích bóng tối.

Chúa thường sử dụng các sự kiện và chủ đề lặp đi lặp lại trong cuộc sống hàng ngày để thu hút sự chú ý của chúng ta và kéo chúng ta đến gần Người hơn. Bây giờ thay vì chỉ lắng nghe lời thì thầm của Chúa, hãy cố gắng nhận ra những tiếng vang thiêng liêng - những khoảnh khắc mà Chúa lặp đi lặp lại cùng một thông điệp với trái tim mình. Những tiếng vang thiêng liêng trong suốt các mối quan hệ, cuộc sống hàng ngày và việc học tập của mình, cùng một ý tưởng hoặc cụm từ hoặc từ phù hợp với Kinh Thánh sẽ tiếp tục âm vang. Đây chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên hay nó là một cái gì đó nhiều hơn nữa? Lời Chúa giống như một cái loa đối với dân Người. Xuyên suốt Kinh thánh, Đức Chúa phán qua các vị vua và hoàng hậu, các hoàng tử và các nhà tiên tri, các nhà thơ và những người hành hương. Người thông tri qua các kiểu thời tiết, chim muông và thậm chí cả những vì sao trên bầu trời. Chúa không chỉ sáng tạo mà còn kiên trì thu hút sự chú ý của chúng ta và giao tiếp với chúng ta.




Lm. Tôma Lê Duy Khang

Tin Mừng hôm nay, các môn đệ hỏi Chúa Giêsu tại sao lại dùng dụ ngôn mà nói, nghĩa là tại sao không nói rõ cho hiểu, mà nói dụ ngôn úp úp mở mở để làm gì? Chúa Giêsu trả lời: “Bởi vì anh em được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không.”

Và Chúa nói thêm: “Bởi thế, nếu Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ, là vì họ nhìn mà không nhìn, nghe mà không nghe không hiểu. Thế là đối với họ đã ứng nghiệm lời sấm của ngôn sứ I-sai-a, rằng: Các ngươi có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu, có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy; vì lòng dân này đã ra chai đá: chúng đã bịt tai nhắm mắt, kẻo mắt chúng thấy, tai chúng nghe, và lòng hiểu được mà hoán cải, và rồi Ta sẽ chữa chúng cho lành.”

Chúng ta hiểu được câu trả lời phía trên của Chúa Giêsu, sở dĩ các môn đệ được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời là vì các ông thành tâm thiện chí, như lời của Chúa Giêsu đã từng nói: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn” (Mt 11, 25).

Thế nhưng, phần mà Chúa nói thêm làm chúng ta khó hiểu, bởi vì sợ khi người ta hiểu,  người ta hoán cải, làm sao có có một sự ngược đời như thế, chúng ta thấy rất là khó hiểu, vậy phải giải thích làm sao?

Chúng ta phải tìm những phần gai góc để chúng ta đặt câu hỏi, để chúng ta hiểu hơn về lời Chúa, không hiểu sai về lời Chúa, nói như thánh Phêrô trong thư thứ nhất đó là: “Hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của anh em” (1Pr 3,15).

Cha Anphongsô Nguyễn Công Minh dòng Phanxicô lý luận như thế này: “Có nhiều lối giải thích, từ uyên bác đến đơn sơ, từ lịch sử đến đạo đức, kể cả lối giải thích gọi là lịch sử hình thành các bản văn. Nhưng ở đây lối hiểu theo văn phạm giúp ta dễ vượt qua hơn cả.” Cha giải thích: “khi ta nói: ăn để mà sống. Chữ “để” có nghĩa là mục đích. Ăn có mục đích làm cho sống. Nhưng ta cũng có thể nói: Ăn để chết. Chữ “để” không có ý nghĩa mục đích nữa mà là thể liên tiếp, thể hậu quả. Cứ ăn đi rồi tới lúc phải chết.

Câu nói của Chúa Giêsu trong trường hợp này cũng vậy, không phải chỉ mục đích, nhưng vì là Thiên Chúa thấu suốt cả tương lai, nên Ngài biết hậu quả là như thế. Giảng bằng dụ ngôn “để” họ không hiểu, họ không tin, họ không trở lại.

Câu Chúa Giêsu nói đây trích từ sách Isaia. Thời Isaia, khi được sai đi, Đức Chúa đã cho biết Dân mà Isaia giảng cho, sẽ nghe mà không chịu hiểu đâu, không tin đâu, để ngôn sứ đừng ngã lòng.

Thời Đức Giêsu, cũng vậy, thời các tông đồ cũng thế, dân Do Thái cũng chẳng tin là bao đến nỗi cuối sách Công Vụ khi Phaolô được giải tới Roma, ngài gặp cộng đoàn Do Thái tại đó trước, nhưng họ chẳng tin, nên Phaolô cũng trích lại câu Isaia trên kia: “nghe mà không hiểu, trố mắt mà chẳng thấy” (Cv 28, 26-27).

Hiểu được như vậy, chúng ta thấy lời Chúa nói không phải là Chúa không muốn người ta ăn năn sám hối trở lại, nhưng Ngài đã nhìn thấy trước được điều đó vì dân chúng lòng chai dạ đá, có nói thế nào cũng chẳng hiểu, và qua đó, cách nói của Chúa Giêsu để cho các môn đệ đừng ngã lòng khi đi rao giảng, khi gặp những trường hợp như thế, phải hiểu là có những trường hợp như vậy là không tránh khỏi.

Tôi có quen một cha đi du học Pháp, ngài nói các vị thừa sai rất hay, các ngài nói, giả sử 100 phần trăm theo đạo Công giáo thì sẽ như thế nào? Hay 100 phần trăm theo Phật giáo thì sẽ như thế nào? Thưa sẽ không có sự phong phú, không có sự vươn lên, không có sự so sánh, không có vấn đề làm gương sáng gì cả. Và cha nói các ngài rất là hay như vậy, để các thừa sai được sai đi thấy trước được điều đó để không thất vọng, khi thấy mình giảng đạo mà chẳng ai theo, nên để ý các thừa sai cứ giảng, còn chuyện theo hay không là để cho Chúa, họ không thất vọng gì cả.

Xin Chúa cho mỗi người chúng ta siêng năng đào sâu Lời Chúa, thường siêng đặt câu hỏi, để hiểu về Lời Chúa nhiều hơn, có như vậy mới không hiểu sai về lời Chúa, cũng như trả lời cho những chất vấn của người khác. Amen.




Thứ Sáu Tuần XVI Thường Niên

(Xh 20,1-17; Mt 13,18-23)


Lm. Giuse Nguyễn Hồng Quân
Xh 20,1-17: Luật do Môsê đã ban ra.

Đc: Lạy Chúa, Chúa có lời ban sự sống đời đời (Ga 6,68).

Mt 13,18-23: Kẻ nghe lời giảng mà hiểu được, nên sinh hoa kết quả.

Những giới răn được tiết lộ cho Môsê trên núi là các điều răn đầu tiên trong số 613 luật. Những điều luật tiếp tục cập nhật sâu sát hơn. Luật mới và cũ mang lại những hiểu biết sâu sắc và bổ sung cho nhau. Từ sự hướng dẫn của luật, nếp sống hàng ngày đã thành hình và đi vào khuôn khổ. Các điều răn của Chúa là hiến chương về lòng trung thành đối với ta. Không ai có thể thuộc về dân tự do của Chúa nếu không trung thành với những nguyên tắc cơ bản này. Các điều răn là con đường dẫn đến tự do. Luật lệ phụ thuộc vào tự do nhưng cơ sở của luật là tình yêu. Chính tình thương khiến ta trung thành với Thiên Chúa và với nhau.

Lời Chúa sống giữa chúng ta. “Kẻ nghe lời giảng mà hiểu được, nên sinh hoa kết quả.” Matthêu giải thích dụ ngôn về người gieo giống cho cộng đoàn của mình và áp dụng vào hoàn cảnh của họ. Một số người đón nhận luật Chúa như là những gánh nặng và làm họ mất tự do. Số khác thì nhờ Lời/Luật của Chúa mà nhận thức được sự yếu đuối của bản thân và thay đổi. Có kẻ vẫn trơ lì và sa cơ sống đời bất hảo vì không chịu lắng nghe. Tạ ơn Chúa vì Người ban những lời của sự sống đời đời. Nguyện Chúa ban ơn để ta có thể hiểu và sống tốt Lời của Người.




Lm. FX. Nguyễn Văn Thượng

Mười Điều Răn đã được ban cho dân tộc Israel qua Mô-sê. Quốc gia Israel giờ đây đã thoát khỏi ách nô lệ ở Ai-cập và đóng trại quanh Núi Si-nai khi sấm sét, mây mù dày đặc và tiếng kèn báo hiệu sự hiện diện của Đức Chúa. Mô-sê gặp gỡ Đức Chúa, và 10 Điều Răn được viết ra để mọi người tuân theo. Mười Điều Răn là một tập hợp các hướng dẫn đạo đức từ Kinh thánh nhằm cung cấp một quy tắc ứng xử cơ bản cho các tín hữu sống theo.

Ba tháng sau khi Đức Chúa giải cứu dân Israel khỏi Ai-cập, Người đã ban cho Mô-sê Mười Điều Răn. Được viết bằng đá bởi ngón tay của Đức Chúa, mỗi đạo luật này đều có ý nghĩa chung là thể hiện tiêu chuẩn thánh khiết của Đức Chúa dành cho dân Israel. Tiêu chuẩn này sẽ mang đến cho dân Người một cái nhìn thoáng qua về bản tính của Đức Chúa, chứng minh cho họ thấy rằng họ không bao giờ có thể tự mình đạt được sự công chính, và gieo vào lòng họ niềm khao khát được cứu rỗi sẽ được thực hiện qua sự hy sinh của Con Người—Chúa Giê-su. “Như thế Lề Luật đã thành người quản giáo dẫn chúng ta tới Đức Ki-tô, để chúng ta được nên công chính nhờ đức tin..” (Gl 3,24)

Mười Điều Răn vẫn còn phù hợp cho đến ngày nay, vì chúng cung cấp một hướng dẫn để sống một cuộc sống có đạo đức và luân lý. Chúng có thể được sử dụng như một công cụ để tự suy ngẫm và hiểu cách hành động của chúng ta liên quan đến việc tôn vinh Chúa và yêu thương người lân cận.

Câu chuyện ngụ ngôn nói về bốn loại đất—bốn loại đất tượng trưng cho khả năng tiếp nhận của bốn loại người đối với hạt giống—hạt giống là “lời của vương quốc.” Sự hiểu biết về dụ ngôn đòi hỏi phải tiếp thu từ ngữ ở mức độ sâu hơn— ghi nhớ từ đó trong lòng— sống bằng đức tin. Có nhiều lý do tại sao một người có thể chọn không muốn hiểu. Những người giàu có có thể chọn không hiểu vì những tuyên bố mà Chúa Giê-su có thể đưa ra đụng chạm tới sự giàu có của họ. Những người có quyền lực có thể chọn không hiểu vì họ miễn cưỡng cho phép Chúa Giê-su uốn nắn việc sử dụng quyền lực của họ. Những người theo chủ nghĩa khoái lạc có thể chọn không hiểu vì họ không muốn từ bỏ thú vui tội lỗi của mình. Vào thời Chúa Giê-su, các thầy thông luật và người Pha-ri-sêu không chịu hiểu vì  định kiến: Chúa Giê-su là Đấng Mê-si-a sẽ làm đảo lộn thế giới tôn giáo của họ.

Hạt giống trên đất tốt là những người luôn đặt Thiên Chúa trên hết mọi sự, ham muốn học hỏi, và thi hành Lời Chúa. Họ biết chuẩn bị tâm hồn,  suy gẫm Lời Chúa, biết áp dụng Lời Chúa trong mọi trường hợp của cuộc đời. Khi chúng ta quyết định hết lòng phụng sự Chúa và đặt Người lên hàng đầu trong cuộc đời mình, tâm hồn chúng ta sẽ thịnh vượng, niềm vui và sự bình an của sẽ gia tăng.




Lm. Tôma Lê Duy Khang

Trang Tin mừng chúng ta vừa nghe là phần mà Chúa Giêsu giải thích về dụ ngôn người gieo giống, người gieo giống đi ra gieo giống thì có hạt rơi trên vệ đường ám chỉ người nghe mà không hiểu, bị quỷ dữ đến cướp đi mất, có hạt rơi trên sỏi đá ám chỉ với người vừa nghe đã vui vẻ chấp nhận, nhưng không bén rễ sâu, đó là người nông nổi nhất thời, có hạt rơi vào bụi gai là người nghe lời nhưng do lòng lo lắng việc đời, ham mê của cải, khiến lời giảng bị chết nghẹt không sinh hoa kết quả được, có hạt rơi vào đất tốt ám chỉ người nghe lời giảng mà hiểu được, nên sinh hoa kết quả, đến nổi có hạt sinh được một trăm, hạt được sáu chục, hạt được ba chục.

Khi nghe trang Tin mừng hôm nay, thiết nghĩ ai trong chúng ta cũng muốn mình trở thành một mảnh đất tốt, muốn làm sao để có thể duy trì được mảnh đất tốt đó, là cái thiện căn mà Chúa đã gieo vào lòng mỗi người chúng ta, khi mà bên ngoài lẫn bên trong tâm hồn chúng ta luôn có chút đất vệ đường, chút đất sỏi đá, và chút đất bụi gai.

Có người nói: “thông minh là do trời ban (thông minh vốn sẵn tính trời), nhưng để sống lương thiện là do sự chọn lựa của con người.” Có một câu chuyện để minh họa cho câu nói trên. Từ xưa Sa mạc Sahara được mệnh danh là vùng đất chết, hễ người nào tiến vào sa mạc này cũng không thoát được vận mệnh: Có đi không có về. Vào năm 1814, một đoàn khảo cổ đã phá vỡ “lời nguyền” nói trên. Khi đó, ở bất cứ nơi nào trong sa mạc cũng có thể nhìn thấy xương người. Trưởng đoàn đã yêu cầu mọi người dừng lại, chọn nơi đất cao để đào hố chôn những bộ hài cốt này và dùng thân cây hoặc đá để làm bia mộ đơn giản. Tuy nhiên, xương người trong sa mạc thật sự quá nhiều, việc chôn cất đã chiếm một khoảng thời gian quá dài.

Các thành viên trong đoàn phàn nàn: “Chúng ta đến đây để nghiên cứu khảo cổ chứ đâu phải để thu dọn xương người.”

Vị đội trưởng kiên trì nói: “Mỗi bộ hài cốt đều từng là đồng nghiệp của chúng ta, mọi người làm sao có thể nhẫn tâm để họ phơi xương nơi hoang dã như thế này?”

Một tuần sau, đoàn khảo cổ phát hiện được rất nhiều di tích của người cổ đại đủ gây chấn động trên toàn thế giới. Nhưng lúc họ rời đi, bão cát đột nhiên nổi lên, mấy ngày liền không thể nhìn thấy Mặt trời. Tiếp đó, la bàn cũng mất tác dụng. Đoàn khảo cổ hoàn toàn bị mất phương hướng, lương thực và nước uống cạn dần. Lúc này họ mới hiểu tại sao những đồng nghiệp kia không thể trở về.

Trong lúc nguy nan, vị trưởng đoàn đột nhiên nói: “Đừng vội tuyệt vọng, mọi người có nhớ không. Khi đến đây chúng ta đã để lại dấu hiệu dọc đường!”

Và thế là họ men theo những bia mộ đã lập khi chôn hài cốt, cuối cùng tìm được đường ra khỏi vùng đất chết. Về sau, khi trả lời phỏng vấn của báo chí, các thành viên của đoàn khảo cổ đều bùi ngùi nói: “Lương thiện chính là thứ đã giúp chúng tôi thoát khỏi sa mạc!” Thật vậy, trong sa mạc mênh mông, nếu đoàn khảo cổ không chọn lựa sự lương thiện là mầm mà thượng đế đã gieo vào, thì cả đoàn sẽ không tìm được đường về.

Vì vậy, để có thể trở thành mảnh đất tốt, duy trì cái cái thiện căn mà Chúa đã gieo trong mỗi con người, để cuộc đời ta không bao giờ lầm đường lạc lối, thì mỗi người chúng ta cũng phải biết chọn lựa, chọn lựa giữa Chúa và dụng cụ của Ngài.

Xin Chúa cho mỗi người chúng ta ý thức được điều đó và xin Chúa ban ơn giúp sức cho chúng ta để chúng ta biết chọn lựa đúng để duy trì mảnh đất tốt trong tâm hồn mình. Amen.



Thứ Bảy Tuần XVI Thường Niên
Thánh nữ Martha, Maria, Lazarô. Lễ nhớ.


(1Ga 4,7-16; Ga 11,19-27 (hay Lc 10,38-42)



Lm. Giuse Nguyễn Hồng Quân

Xh 24,3-8: Đây là máu giao ước Thiên Chúa đã cam kết với các ngươi.

Tv 50,14: Hãy hiến dâng Thiên Chúa lời khen ngợi.

Mt 13,24-30: Hãy cứ để cả hai mọc lên cho đến mùa gặt.

Khi Môsê đến thuật lại cho dân chúng nghe tất cả những lời và lề luật của Chúa và toàn dân đồng thanh thưa rằng: “chúng tôi xin thi hành mọi lời Chúa đã phán.” Theo giao ước, Israel trở thành dân được Chúa chọn. Chúa đã ký kết giao ước bằng máu nên họ trở thành liên hệ huyết thống của Người. Môsê nói với dân Thiên Chúa: “Đây là máu giao ước Thiên Chúa đã cam kết với các ngươi.” Khi chấp nhận rủi ro để ở với chúng ta, Người buộc chúng ta phải mạo hiểm với đức tin để tìm kiếm Người và ở gần Người.

Trong Tân Ước, Chúa Giêsu Kitô sẽ nâng giao ước này lên một mức độ sâu sắc hơn và làm cho giao ước này vĩnh cửu. Khi cử hành Bí tích Thánh Thể, trong lời truyền phép, Ngài nói với chúng ta: “Tất cả các con hãy nhận lấy mà uống: Vì này là chén Máu Thầy, Máu giao ước mới và vĩnh cửu.” Chúng ta đang sống dưới sự quan phòng của Thiên Chúa. Vì vậy, ta được kêu gọi “Hãy hiến dâng Thiên Chúa lời khen ngợi.” Nhưng hết lần này đến lần khác, chúng ta phớt lờ giao ước bằng máu của Chúa. Cuộc sống là như vậy, và nó không dễ dàng để thực hiện. Khiêm tốn đón nhận lời giao ước đã được gieo trồng trong tâm hồn, Lời Chúa và giới răn yêu thương của Người có thể cứu rỗi linh hồn ta.




Lm. FX. Nguyễn Văn Thượng

1. “Đây là máu giao ước ĐỨC CHÚA đã lập với anh em, dựa trên những lời này.” (Xh 24,8)

Nghi thức phê chuẩn giao ước được tìm thấy trong Xh 24,1-8. Khi dân chuẩn bị lập giao ước với Đức Chúa, Israel đến trước mặt Đức Chúa ở chân núi. Sự long trọng được đánh dấu bằng một cảm giác sợ hãi vì dân chúng đang ở trước sự hiện diện của một Đức Chúa thánh khiết. Đó là thời gian của sự ngạc nhiên và thờ phượng tuyệt vời.

Ở đó trước sự hiện diện của Đức Chúa, Israel hứa sẽ tuân theo những đòi hỏi của giao ước. Hy sinh đã được thực hiện để ràng buộc mọi người với Thiên Chúa. Máu của giao ước được đổ trên bàn thờ và rảy trên dân chúng để tượng trưng cho sự cam kết của Đức Chúa với Israel và sự cam kết của Israel với Đức Chúa. Bản chất của các yêu cầu của giao ước đặt cho Israel được tìm thấy trong Mười Điều Răn. Đây là những nghĩa vụ đạo đức cơ bản mà Israel phải tuân theo với tư cách là một dân thánh phụng sự Đức Chúa thánh khiết.

2. “Liệu có thể nào đi qua cuộc đời này mà không gặp phải một số thử thách và vấn đề vào lúc này hay lúc khác không?” Socrates, nhà triết học Hy Lạp cổ đại nổi tiếng nhất thường được ghi nhận với câu nói mang tính thời đại: “một cuộc sống không được kiểm chứng thì không đáng sống”. Ngoài ra, chúng ta cũng có thể nói thêm rằng: “không một cuộc sống nào không có thử thách và khó khăn”. Điều này nghe có vẻ hư vô hoặc bi quan. Điều này là do nhiều người mong đợi một cuộc sống không có thách thức, không có vấn đề và không có căng thẳng. Một số vấn đề đến với chúng ta một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Nói chung, có những rắc rối xung quanh chúng ta với nhiều màu sắc, hình dạng và kích cỡ khác nhau cũng như chúng ta cũng trải nghiệm những điều tốt đẹp ở những thời điểm khác nhau trong cuộc sống.

Từ lâu đời, bối cảnh trần gian là hậu kỳ cho cái tốt và cái xấu, ánh sáng và bóng tối, v.v. Bất cứ nơi nào những điều tốt đẹp phấn đấu, thường có một thách thức hoặc phản ứng tiêu cực từ cái xấu hoặc cái ác. Chúng ta thấy điều này xảy ra trong nhiều lĩnh vực khác nhau của cuộc sống con người, đặc biệt là khi chúng ta bắt tay vào một số dự án có ý nghĩa và thành công. Nói chung, đã có chính nhân thì nhất định phải có ác nhân mưu hại chính nhân không làm được việc tốt; mặc dù cố gắng nhưng cuối cùng vẫn bị thua kém.

Những ngọn lúa tốt tượng trưng cho những người không chỉ nhìn nhận Đức Chúa là Đấng tạo dựng mình mà còn vâng lời Người và tin cậy nơi Người. Họ là những người yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và cũng yêu mến người thân cận (x.Mc 12,30-31). Họ là những người xứng đáng trèo lên Núi Thánh của Chúa và đứng trước mặt Người; những người có tay trong sạch, lòng trong sạch và không gian dối (x.Tv 24,3-4). Những người này đã lựa chọn đứng về phía Chúa, họ chính là lúa tốt trong cánh đồng của Thiên Chúa.




Lm. Tôma Lê Duy Khang
 

Chúng ta thấy việc phục vụ của cô Matta tốt không? Thưa tốt, nhờ việc phục vụ này mà cô được vào hưởng hạnh phúc Nước Trời, chính Chúa đã nói: “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà không ai chịu tiếp nhận, còn những ai tiếp nhận, người cho họ quyền trở nên Con Thiên Chúa.”

Nhưng chúng ta biết việc phục vụ của Matta chưa tốt, chưa hoàn hảo, mặc dù việc phục vụ này đưa đến hạnh phúc Thiên đàng, và những ai phục vụ người khác cũng vậy, tại sao vậy?

Thường thì chúng ta nói đó là thái độ phục vụ, phục vụ mà còn so đo tính toán với em mình, hay chúng ta nói điều tốt hay không tốt là do ý muốn của Chúa, chứ không phải là do con người quyết định, đối với chúng ta việc đó là tốt, nhưng đối với Chúa thì việc đó là không cần thiết.

Nhưng hôm nay, chúng ta sẽ chia sẻ với nhau một suy tư khác, dựa vào nền tảng Thánh kinh, và dựa vào bài giảng của thánh Augustino trong bài giảng về thánh Matta.

Chúng ta biết thánh Augustino nói việc phục vụ của Matta đã đưa chị đến hạnh phúc thiên đàng, nhưng thánh nhân đặt ra câu hỏi đó là khi vào quê trời rồi, liệu chị có còn gặp người lữ khách nào để đón tiếp, người đói nào để cho ăn, người khát nào để cho uống, người bệnh nào để thăm nom, người tranh chấp nào để hòa giải, người chết nào để chôn cất không?

Trên quê trời sẽ chẳng còn bất cứ sự nào như thế, nhưng sẽ có gì? Dựa vào đâu để nói được điều này? Thưa đó là dựa vào nền tảng Thánh kinh, câu chuyện bà vợ có 7 người chồng mà phái xa đốc đặt ra để phản bác về vấn đề kẻ chết sống lại, nên trên trời khác hoàn toàn với đời sống con người như vậy, nên quan niệm trần sao âm vậy là không có thật.

Dựa vào đó mà thánh nhân cho biết Maria đã chọn phần tốt nhất, đó là dưới đất cô chọn được để cho Chúa nuôi dưỡng cô bằng Lời của Ngài, thì trên trời việc được nuôi dưỡng này sẽ không mất đi, mà còn tiếp tục được Chúa nuôi dưỡng, còn việc phục vụ của cô Matta thì không còn nữa, những sẽ được nuôi dưỡng và phục vụ lại, nền tảng Thánh kinh cho chúng ta biết điều đó, đó là: “Thầy bảo thật anh em, chủ sẽ đưa họ vào bàn ăn, và đến bên từng người mà phục vụ.”

Nên chúng ta thấy, việc Maria đã chọn phần tốt nhất là như vậy, nhìn lại cuộc đời của mỗi người chúng ta, chúng ta thường nói mình phục vụ Chúa hay Chúa phục vụ chúng ta, thưa Chúa phục vụ chúng ta đó, nhưng mà điều quan trọng là chúng ta có để cho Chúa phục vụ mình hay không, nếu chúng ta để ý khi các cha đến giáo xứ để làm gì, thưa là để phục vụ, dâng lễ, giảng lễ, trao ban các bí tích, thế thì chúng ta có đón nhận việc phục vụ này hay không?

Cha mẹ phục vụ con cái, chúng ta có để cho cha mẹ chúng ta phục vụ chúng ta hay không, hay chống đối lại, đó là điều mà chúng ta cần xem lại, nên chúng ta cần xem lại thái độ của chúng ta đối với Chúa, để chúng ta chọn phần tốt nhất giống như Maria, đó là đáp lại tình thương của Chúa, để cho Chúa nuôi dưỡng cuộc đời chúng ta, từ trên cõi đời này, cho đến khi về với Chúa trên thiên đàng.

Chúng ta hãy cảm ơn Chúa vì điều đó, vì những ơn lành mà Chúa đã ban cho chúng ta. Amen.