18/08/2024
675
Suy niệm hằng ngày_ Tuần XX Thường Niên







 

 

 


 


 

Chúa Nhật XX Thường Niên

Cn 9,1-6; Ep 5,15-20; Ga 6,51-58


Lm. Giuse Nguyễn Hồng Quân

Cn 9,1-6: Hãy đến mà ăn bánh của ta, và uống rượu do ta pha chế!

Tv 34,9a: Hãy nghiệm xem Chúa tốt lành biết mấy.

Ep 5,15-20: Hãy tìm hiểu đâu là ý Chúa.

Ga 6,51-58: Thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống.

Sách Châm ngôn cho thấy Khôn ngoan ban tặng cho mọi người: “Hãy đến mà ăn bánh của ta, và uống rượu do ta pha chế” để tiến tới trong con đường hiểu biết. Trong Phúc âm, Chúa Giêsu tuyên bố: “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì được sống đời đời.” Phaolô cảnh báo người Êphêsô: “Đừng say rượu.” Trong khi đó, Thánh vịnh mời gọi: “Hãy nghiệm xem Chúa tốt lành biết mấy.”

Ăn uống cũng là một dạng chữa lành cho cơ thể và tâm hồn. Có người đã từng nói, “Hãy cho tôi biết bạn ăn gì, và tôi sẽ cho bạn biết bạn là ai.” Là những người Kitô hữu, chúng ta đã được ban tặng một số loại thức ăn và đồ uống tuyệt vời dưới dạng Khôn ngoan đến từ Thiên Chúa và đưa chúng ta đến gần hơn với Chúa; và dưới hình dạng của Chúa Kitô, Chúa nhập thể mang đến tình yêu, lòng thương xót, sự tha thứ và chữa lành.

Giống như Chúa Giêsu, người đã ăn uống với những người tội lỗi và người thu thuế cũng như những người Pharisêu, chúng ta nên chia sẻ những gì Chúa đã ban cho mà không phân biệt đối xử. Trong một số trường hợp, chính qua những hành động yêu thương, quan tâm, được Thánh Thần dẫn dắt mà những người khác có thể nếm trải và thấy rằng Chúa là tốt lành.




Thứ Hai - Tuần XX Thường Niên
(Ed 24,15-24; Mt 19,16-22)

Lm. Giuse Nguyễn Hồng Quân

Ed 24,15-24: Ezekiel sẽ là điềm báo trước cho các ngươi, các ngươi cũng sẽ làm đúng như người đã làm.

Đc: Ngươi đã bỏ Chúa, Đấng đã sinh ra ngươi (Đnl 32,8a).

Mt 19,16-22: Nếu ngươi muốn nên trọn lành, hãy về bán hết của cải ngươi có, thì ngươi sẽ được kho tàng trên trời.

“Sống trong đời sống cần có một tấm lòng…,” có thể là lòng tốt, lòng trắc ẩn, lòng muốn, lòng tin…Matthêu cho biết chàng thanh niên có lòng muốn trở nên tốt lành hơn. Anh tìm đến Thầy Giêsu và hỏi về điều đang quan tâm. Chúa Giêsu trả lời câu hỏi bằng một câu hỏi: “Tại sao anh hỏi tôi về điều tốt?” Chúa Giêsu trả lời với tất cả những điều cơ bản mà chàng trai nên biết. Kịch tính tăng lên khi anh được kêu gọi từ bỏ của cải thế gian. Điều này quá khó để người thanh niên chấp nhận và anh ta buồn bã bỏ đi. Thánh Thomas Aquinas có kinh nghiệm: “Đối với người có lòng tin, không cần giải thích. Đối với người không có lòng tin, không thể giải thích.”

Lòng mến tin là điều cần thiết để đáp lại lời kêu gọi của Chúa Kitô “hãy đến theo tôi.” Tôi sẵn sàng từ bỏ điều gì để theo Chúa? Khi nhiều tháng năm trôi qua, câu trả lời ngày càng rõ ràng hơn – ‘làm điều Chúa muốn’. Những lời cầu nguyện hàng ngày của tôi là “cúi xin Chúa sáng soi cho được biết việc phải làm…” trong mọi sự. “Đấng tốt lành” đã dẫn dắt tôi và cho tôi vượt quá mong đợi. Tôi chỉ giữ lại nơi mình lòng mến tin, còn lại là của Chúa.

 


Lm. Tôma Lê Duy Khang

Tin mừng hôm nay trình bày người thanh niên giữ những điều răn Chúa dạy rất vững chắc, giữ ngay từ thuở nhỏ, thế nhưng khi Chúa Giêsu kêu gọi anh ta: “Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi” thì người thanh niên buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải.

Hình ảnh đó làm tôi nhớ đến hai hình ảnh trong đời sống đức tin của chúng ta đó là hy lễ bàn thờ và hy lễ đời sống. Trong đời sống đạo, chúng ta thường chỉ chú ý đến hy lễ bàn thờ, là việc giữ đạo, đọc 10 điều răn, mà không thực hành trong đời sống của mình. Chúng ta hãy nhớ có lần Chúa Giêsu đã nói: “Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5,23-24). Nghĩa là hy lễ bàn thờ cần thiết thế nào, thì hy lễ đời sống cũng cần thiết như vậy. Còn ngược lại chúng ta bị một cơn cám dỗ đó là chỉ chú trọng đến hy lễ bàn thờ mà quên đi hy lễ cuộc sống, tức là áp dụng Lời của Chúa dạy vào trong cuộc sống của mình, nhưng chỉ sống theo ý muốn cá nhân, bắt Chúa phải theo ý muốn của mình.

Một bà cụ năng đến nhà thờ cầu nguyện. Một cậu bé lấy làm ngạc nhiên liền theo dõi. Cậu nấp sau bàn thờ nghe bà cầu nguyện lớn tiếng: “Lạy Chúa, con đã già và sống đủ. Bất cứ lúc nào Ngài gọi, con sẵn sàng.” Bà cầu nguyện suốt ba ngày vẫn những lời ấy.

Ngày thứ tư, sau khi bà cầu nguyện, cậu bé giả giọng nói vọng ra từ  sau bàn thờ “Ta đã nghe lời cầu xin của con, Ta sẽ đến đón con lúc chín giờ sáng mai.”

Bà về nhà, không sao ngủ được vì lo lắng về điều đã nghe. Bà không chấp nhận nổi những gì bà đã cầu nguyện.

Nếu đào sâu thêm một chút nữa đó là ngày nay con người của chúng ta không còn sống hy lễ bàn thờ nữa, không còn giữ 10 điều răn nữa, chính vì thế mà hy lễ đời sống cũng mất luôn. Chúng ta biết có nhiều người đi lễ hay ngồi ở ngoài nhà thờ, khi được nhắc nhở thì nói lại: thưa cha, con còn đến nhà thờ là còn may lắm rồi đó, nếu cha nhắc nữa con không đến nhà thờ luôn. Có một cha cũng lý luận tương tự như vậy, đó là thấy giáo dân đến nhà thờ là mừng rồi, sợ họ không đến nhà thờ.

Nên đôi lúc chúng ta còn sống hy tế bàn thờ cũng còn là điều may mắn, biết đâu khi đến nhà thờ, chúng ta nghe được lời Chúa, nghe được lời giảng dạy, nhìn thấy những mẫu gương tốt lành có thể họ thay đổi đời sống của họ, còn nếu họ ở nhà không đi lễ thì hy lễ bàn thờ cũng mất và hy lễ đời sống cũng mất luôn.

Nói như vậy, để chúng ta cố gắng đi lễ, cố gắng đọc kinh hằng ngày, hy vọng với sự cố gắng, cùng với ơn Chúa giúp, chúng ta sẽ biến đổi để đem những gì từ hy tế bàn thờ áp dụng vào đời sống thực tế của mỗi người chúng ta. Amen.



Thứ Ba Tuần XX Thường Niên
Thánh Bênađô, viện phụ, Ts.HT. Lễ nhớ.

(Ed 28,1-10; Mt 19,23-30)

Lm. Giuse Nguyễn Hồng Quân

Ed 28,1-10: Ngươi chỉ là người phàm, chớ không phải Thiên Chúa, mà lòng ngươi dám tự cho mình là Chúa.

Đc: Ta sẽ giết chết và sẽ làm cho sống lại (Đnl 32,39).

Mt 19,23-30: Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Trời.

Để vào Nước Trời thì khó nhưng với Chúa thì không gì là không thể làm được. Chúa Giêsu cảnh báo người giàu có vì họ lệ thuộc quá mức vào gia sản của họ mà lãng quên Thiên Chúa. Giàu có không phải là một cái tội, nhưng gia tài người ta ở đâu thì lòng trí họ sẽ ở đó. Như vậy, nếu lòng trí hướng về niềm hạnh phúc Thiên đàng thì những của cải trần gian không chiếm vị trí ưu tiên số một nữa. Sách tiên tri Êdêkien đã cho thấy một thực tế trong suy nghĩ của con người: “Ngươi chỉ là người phàm, chớ không phải Thiên Chúa, mà lòng ngươi dám tự cho mình là Chúa.” Bao nhiêu kẻ đã tự cho mình khôn ngoan, tài giỏi, giàu có, quyền lực nhưng kết cục đời họ thế nào?

Chỉ có những ai cậy trông vào Chúa và thực hành lời Người chỉ dạy thì mới có hạnh phúc thật sự. Trong lịch sử nhân loại và dòng chảy cuộc đời hiện tại, ta vẫn thấy người ta chủ yếu dựa vào tiền bạc để mà sống ở đời này. Sống trên đời, những người công chính hay nghèo khó vì nước trời thì nhìn có vẻ thua thiệt, hèn kém nhưng họ có một hạnh phúc mà tiền không thể nào mua được. Họ có Chúa và Chúa bảo đảm cho họ cuộc sống muôn đời.



Lm. Tôma Lê Duy Khang

Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Thầy bảo thật anh em, người giàu có khó vào Nước Trời. Thầy còn nói cho anh em biết: con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa.” Lời này được nói sau sự kiện anh thanh niên giàu có bỏ đi khi được Chúa Giêsu đề nghị bán tất cả tài sản phân phát cho người nghèo rồi hãy đến theo Chúa. Sau đó các môn đệ hỏi Chúa: “Thế thì ai có thể được cứu?” Đức Giê-su nhìn thẳng vào các ông và nói: “Đối với loài người thì điều đó không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa, thì mọi sự đều có thể được.” Câu này có nghĩa là thế nào? Thưa có nghĩa là con người không thể biến đổi người giàu có, không thể giúp được cho người giàu có điều gì, thậm chí nơi chính những con người giàu có, nhưng đối với Chúa thì Chúa sẽ làm được, Chúa sẽ biến đổi được con người, chúng ta hãy nhớ khi Thiên Chúa tạo dựng thì Thiên Chúa tạo dựng từ hư vô, nghĩa là từ không mà có Chúa còn làm được huống chi là việc giúp cho con người vào Nước Thiên Chúa, nếu con người tin, thậm chí là không tin, Chúa cũng làm cho tin.

Có một câu chuyện mang tên: Tất cả là nhờ ơn Chúa.

Một vị linh mục nọ qua đời, và được đưa đến trước mặt thánh Phêrô để làm một thẩm tra. Thánh Phêrô hỏi: Ở dưới thế cha làm được điều gì?

Vị linh mục nhanh nhẹn và tự hào trả lời: Thưa thánh Phêrô, con xây được một ngôi thánh đường lớn.

Thánh nhân lấy bút ghi trên giấy: Một điểm.

- Cha còn làm được gì nữa? - Dạ, con còn xây một trường học cho một ngàn học sinh.

Thánh Phêrô ghi tiếp: một điểm.

- Và gì nữa? Vị linh mục bắt đầu suy nghĩ, rồi trả lời: Dạ, con công tác nhiều vào các công việc xã hội, từ thiện.

Thánh Phêrô ghi thêm: một điểm. Còn gì nữa? Thánh Phêrô hỏi tiếp.

Lần này vị linh mục lo lắng hỏi thánh Phêrô: Dạ thưa thánh cả Phêrô, được bao nhiêu điểm thì vào thiên đàng?

Thánh Phêrô vui vẻ trả lời: một ngàn điểm.

Nghe nói thế, vị linh mục bỗng chột dạ, nghĩ thầm: “Chết mình rồi, làm sao có được chừng ấy điểm đây?” Nếu có moi óc kể tất cả các sự việc mình làm ở dưới thế e cũng không đủ…”

Và vị linh mục bắt đầu lo sợ, rồi thất vọng, không còn tự tin.

Trong lúc đó, thánh Phêrô nhắc lại: Cha còn làm được điều gì nữa, cứ kể hết đi!

Với giọng nói nhuốm màu sắc khiêm tốn và lo sợ, vị linh mục nói: Thưa thánh cả, NHỜ ƠN CHÚA con cũng làm được đôi ba việc nhỏ.

Nghe vậy, thánh Phêrô lấy bút ghi ngay: một ngàn điểm.

Ngài nói: Thế là cha được một ngàn lẻ ba điểm rồi đấy. Cha đã dư được ba điểm. Mời cha vào! Phải! Tất cả là nhờ ơn Chúa.

Xin cho chúng ta biết cậy dựa vào ơn Chúa, thì chắc chắn Chúa sẽ không bỏ rơi chúng ta bao giờ. Amen.




Thứ Tư - Tuần XX Thường Niên
Thánh Piô X, giáo hoàng. Lễ nhớ.

(Ed 34,1-11; Mt 20,1-16a)



Lm. Giuse Nguyễn Hồng Quân

Ed 34,1-11: Ta sẽ giải thoát đoàn chiên Ta khỏi tay chúng, và đoàn chiên sẽ không làm mồi ngon cho chúng nữa.

Tv 23,1: Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi.

Mt 20,1-16a: Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng.

Ai làm lớn thì phải là người phục vụ. Người phục vụ có tâm và có tầm thì sẽ luôn dõi mắt để ý và nhanh chóng nhận ra nhu cầu của người mình phục vụ. Nhưng lạ thay, nghề phục vụ trong mắt người đời dường như bị coi là nghề hèn kém. Phục vụ được xem như là bưng bê, dọn dẹp, chăm sóc cho người và cảnh quan…Theo tinh thần của Thánh Kinh và kể cả ngôn ngữ của người đời, người phục vụ nhắm đến những ai được trao cho một quyền hành nhất định để giúp ích cho người khác, để nhân dân được an sinh trong an ninh.

Thực tế thì những “người phục vụ” đó lại tự chuyển hoá mình, và cho bản thân là chủ. Nhiệm vụ của họ là giúp đỡ cho con người và xã hội, nhưng thái độ của họ lại biểu hiện như người áp chế và đòi người ta phải phục vụ mình. Chúa rủa họ: “Khốn cho các chủ chăn Israel, họ chỉ lo nuôi chính bản thân: chớ thì các chủ chăn không phải lo chăn nuôi đoàn chiên sao?” Mẫu gương tuyệt hảo để ta noi theo đó chính là Chúa. Thánh vịnh đã thốt lên: “Chúa chăn nuôi tôi”. Thêm vào đó, ta được an ủi bởi những lời mạnh mẽ từ Thiên Chúa: “Đây chính Ta sẽ đến… Ta sẽ cứu các chiên Ta”. Chúa chính là Đấng phục vụ trong yêu thương.



Lm. Tôma Lê Duy Khang

Tin mừng hôm nay trình bày cho chúng ta dụ ngôn những người thợ được mướn vào làm vườn nho, với thỏa thuận là một ngày làm công là một đồng. Nhưng sau đó chúng ta thấy có sự so sánh ghen tỵ của những người thợ được mướn vào làm những giờ đầu tiên, trong khi đó chúng ta thấy những người làm việc giờ sau cùng thì không có sự so đo tính toán này. Tại sao vậy? Thưa vì những người thợ được mướn vào làm những giờ thứ nhất mắc một chứng bệnh đó là chứng bệnh hay so sánh, so sánh không phải thấy mình thua người khác, so sánh không phải thấy mình được may mắn là được ông chủ kêu gọi vào làm vườn nho sớm, mà so sánh này là so sánh hơn, làm nhiều giờ hơn, tiền phải nhiều hơn, mình giỏi hơn nên mới được gọi vào làm vườn nho. Chính vì sự so sánh hơn như thế, nên khi thấy mình thua kém người khác, thấy mình được đánh giá ngang bằng với người khác nên đã tỏ ra ghen tỵ, khó chịu.

Trong đời sống thường ngày, chúng ta được mời gọi phải so sánh, nhưng đừng so sánh hơn, mà hãy so sánh để thấy mình còn nhiều yếu đuối, còn nhiều tội lỗi, để biết cậy dựa vào ơn của Chúa, để biết cố gắng nỗ lực vươn lên như lời của Chúa Giêsu đã mời gọi: “Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện”, còn nếu chúng ta so sánh hơn, chúng ta thấy cái gì mình cũng hơn người khác, thì lúc đó chúng ta rất dễ rơi vào cám dỗ của ma quỷ.

Có một ông thầy tu nọ rất là đạo đức. Sáng nào ông cũng thức dậy vào lúc 5 giờ để đọc kinh thờ phượng Chúa. Một hôm, do mệt trong người ông ngủ quên, nên quỷ Sa-tan hiện ra đánh thức ông dậy. Khi giựt mình thức giấc, ông thầy tu nhìn thấy kẻ gọi mình là con quỷ Sa-tan, nên thắc mắc hỏi: “Ông là ai?” Quỷ trả lời: “Tôi là ai không quan trọng, việc đánh thức ông dậy là một việc tốt và ai làm việc tốt cũng là người tốt, đúng không.” 

Ông thầy lý luận: “Tôi nghĩ ma quỷ các ngươi, không đời nào làm điều gì tốt cả. Nhân Danh Chúa Giêsu, ngươi phải nói rõ cái lý do, tại sao ngươi nhắc ta dậy đọc kinh?” Nghe đến Tên Chúa Giêsu, Sa-tan sợ hãi đành phải thú thật rằng: “Nếu để ông ngủ quên không đọc kinh, khi thức dậy ông sẽ hối hận và ăn năn, rồi sống đạo tốt hơn (tôi không muốn như thế). Còn ngày nào, ông cũng đọc kinh, ông sẽ tự mãn nghĩ rằng mình đạo đức rồi, không cần cố gắng gì thêm nữa” (tôi thích điều đó). Nói xong, Sa-tan biến mất.

Xin cho mỗi người chúng ta đừng so sánh mình hơn người khác, mà phải nhìn thấy được sự yếu đuối của bản thân để cố gắng vươn lên mỗi ngày, cùng với ơn Chúa giúp. Amen.




Thứ Năm - Tuần XX Thường Niên
Đức Maria Nữ Vương. Lễ nhớ.

(Is 9,1-6; Lc 1,26- 38)

Lm. Giuse Nguyễn Hồng Quân

Is 9,1-6: Chúa ban Con của Người cho chúng ta.

Tv 113,2: Nguyện danh Chúa được chúc tụng, từ bây giờ và cho đến muôn đời.

Lc 1,26-38: Này Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một Con trai.

Giáo hội suy tôn Đức Maria Nữ Vương cách đặc biệt vì trong tất cả mầu nhiệm cuộc đời của Đức Maria, ngài rất gần gũi với Đức Giêsu. Do đó, ngài được chia sẻ vương quyền của Chúa Giêsu. Vào thế kỷ thứ tư, thánh Ephrem gọi Đức Maria là Hoàng Hậu, sau đó các Giáo phụ cũng như các Tiến sĩ Hội Thánh tiếp tục dùng danh xưng này. Biết bao lời cầu khẩn mừng tư cách Nữ Vương của ngài. Vào năm 1954, Đức Giáo hoàng Piô XII đã thiết lập lễ này. Ngôi vị Nữ Vương là phần tưởng thưởng xứng đáng sau khi Mẹ lên trời.

Kinh Thánh nói về Đức Maria từ trước khi Chúa Giêsu nhập thể trong lòng Mẹ, khi Con Chúa được sinh ra, lớn lên, hoạt động công khai, đau khổ, chịu chết…Mẹ đã cùng chịu đau khổ với Chúa Giêsu hơn mọi người nữ nào khác, cũng như được tôn vinh trong Nước Chúa như một Nữ hoàng. Tin Mừng cho biết, Mẹ không là Nữ Vương khi ở trần gian. Đời Mẹ có lắm gian nan nhưng được ngợi ca là đầy ơn phước. Mẹ luôn ‘xin vâng’ và đón nhận mọi ý định của Thiên Chúa. Mẹ sẵn sàng lên đường thăm viếng, giúp đỡ bà Isave, gợi ý cho chủ tiệc cưới ở Cana làm theo lời Chúa, bước theo Chúa Giêsu lên núi Sọ, và nay ở bên Chúa trên thiên đàng. Lạy Nữ Vương...



Lm. Tôma Lê Duy Khang

Hôm nay lễ Đức Mẹ Trinh Nữ Vương, vậy tước hiệu này muốn cho chúng ta thấy được điều gì? Thưa cho chúng ta thấy được quyền năng của Thiên Chúa đã ban cho mẹ, chúng ta thấy trong bài Tin mừng, khi truyền tin, Thiên Thần nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà.” Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì. Sứ thần liền nói: “Thưa bà Ma-ri-a, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giê-su. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận.”

Hay trong bài đọc 1 trích sách ngôn sứ Isaia: “Một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta”. Chúng ta thấy, bản văn này không có đề cập nào về người mẹ sinh hạ trẻ thơ ấy.

Hai mệnh đề trên đều ở ‘thụ động cách’ với chủ từ là ‘một trẻ thơ’ hay ‘một người con’. Chính ‘trẻ thơ’ hay ‘người con’ này mới đáng kể trước hết. Người mẹ tuy không được nhắc đến, tuy chỉ là chiếc bóng, song hiện diện một cách khẩn thiết ở đằng sau. Vì có ai được sinh ra mà không phải được sinh ra bởi một người mẹ? Tất cả vinh quang và danh dự mà Đức Maria nhận được, vì thế, gắn liền với mầu nhiệm Chúa Giêsu Kitô, Con của Mẹ. Nếu nhìn với cái nhìn bình thường của con người mặc dầu người mẹ chỉ âm thầm lặng lẽ, nhưng những âm thầm lặng lẽ đó lại đem đến thành công sau này. Cuộc đời của mỗi người chúng ta cũng thế, chúng ta đừng bao giờ suy nghĩ rằng mình chỉ cần bước một bước là đi đến thành công, nhưng để thành công thì phải đi nhiều bước, bởi nếu không có nhiều bước đi thì làm sao mà đưa đến thành công được, hoặc nếu một bước mà người ta đưa chúng ta lên thành công, thì có chắc là chúng ta giữ được thành công đó hay không?

Có một CÂU CHUYỆN mang tên THIÊN LÝ MÃ CHỜ THỜI… được chia sẻ như thế này, như một minh họa cho chúng ta.

Có một con thiên lý mã trẻ tuổi, đang đợi Bá Nhạc (là người sành về ngựa, nhìn là biết được đâu là thiên lý mã) đến phát hiện ra nó.

- Thương gia đến, nói: “Bạn sẵn lòng đi theo tôi không?”

Ngựa lắc đầu nói: “Tôi là thiên lý mã, sao có thể đi theo thương gia vận chuyển hàng hóa được?”

- Binh lính đến, nói: “Bạn có muốn đi theo tôi không?”

Ngựa lắc đầu nói: “Tôi là thiên lý mã, một binh sĩ bình thường sao có thể phát huy hết khả năng của tôi?”

- Thợ săn đến, nói: “Bạn sẵn sàng đi theo tôi không?”

Ngựa lắc đầu nói: “Tôi là thiên lý mã, sao có thể đi theo hầu thợ săn?”

Ngày qua ngày, năm qua năm, con ngựa vẫn chưa tìm được cơ hội lý tưởng cho mình.

Rồi một ngày, khâm sai đại thần phụng mệnh đến nhân gian tìm kiếm thiên lỹ mã. Thiên lý mã gặp được khâm sai đại thần, nói: “Tôi chính là thiên lý mã mà ông muốn tìm.”

Khâm sai hỏi: “Bạn có thông thuộc đường đi trên đất nước chúng ta không?” Ngựa lắc đầu.

“Bạn đã từng ra trận, có kinh nghiệm tác chiến chưa?”, Ngựa lắc đầu

Khâm sai lại hỏi: “Tôi có thể dùng bạn vào việc gì?”

Ngựa trả lời: “Tôi có thể một ngày đi được một nghìn dặm, một đêm đi được 800 dặm.”

Khâm sai đại thần cho ngựa chạy thử một đoạn đường. Ngựa cố gắng hết sức chạy tiến lên phía trước, nhưng chỉ được vài bước nó đã thở hồng hộc, mồ hôi chảy đầm đìa.

“Bạn già rồi, không dùng được!” nói xong khâm sai liền bỏ đi.

Xin cho chúng ta hiểu được như vậy, để biết đầu tư cho cuộc đời của mình những gì là cần thiết nhất, vì chính những điều đó sẽ là những bước tiến giúp ta thành công, giúp ta thành thiên lý mã. Amen.




Thứ Sáu Tuần XX Thường Niên

(Ed 37,1-14; Mt 22,34-40)

Lm. Giuse Nguyễn Hồng Quân

Ed 37,1-14: Hỡi các bộ xương khô, hãy nghe lời Chúa. Ta sẽ dẫn các ngươi ra khỏi mồ, và dẫn dắt các ngươi vào nhà Israel.

Tv 107,1: Hãy chúc tụng Chúa, vì đức từ bi Người còn muôn thuở.

Mt 22,34-40: Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi, và yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi.

Trong Tin Mừng, những người Pharisêu hỏi Chúa Giêsu điều răn lớn nhất là gì. Chúa Giêsu nói điều răn đầu tiên là yêu Chúa trên hết mọi sự. Đó là điều răn lớn nhất và nó sẽ bao gồm việc tuân theo các điều răn của Chúa. Nếu bạn yêu mến Chúa, bạn sẽ không có bụt thần nào hoặc thần tượng ai cả, giữ ngày thánh của Chúa, và sẽ không phạm danh Thiên Chúa.

Ngài nói thêm rằng điều răn thứ hai là yêu người lân cận như chính mình. Nếu bạn yêu người thân cận, bạn sẽ không làm hại họ. Nếu bạn yêu thương hàng xóm của mình, bạn sẽ không giết họ, hay trộm cắp, cố gắng lừa đảo, hoặc nói dối họ. Bạn sẽ tôn trọng và đối xử tốt với cha mẹ mình nếu bạn yêu thương họ. Nếu bạn đối xử với người khác một cách công bằng và đàng hoàng, theo cách bạn muốn được người khác đối xử, bạn sẽ sống hòa thuận, như ý định của Chúa.

Chúa Giêsu nói rằng toàn bộ luật lệ phụ thuộc vào hai điều răn này. Hãy đặt Chúa lên hàng đầu và đối xử công bằng và tử tế với tất cả những người khác. Vì vậy, nếu ta đặt Chúa trên hết mọi sự, tất cả các điều răn khác sẽ theo sau.



Lm. Tôma Lê Duy Khang

Tin mừng hôm nay trình bày cho chúng ta thấy việc những người biệt phái họp nhau lại sau sự kiện Chúa Giêsu làm cho phái sadoc phải câm miệng, họ hỏi Chúa Giêsu: “trong lề luật, giới răn nào trọng nhất?” Chúa Giêsu trả lời họ: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy.”

Vấn đề đặt ra là tại sao giới luật sĩ Do thái chỉ hỏi Chúa Giêsu điều răn nào trọng nhất, mà Chúa Giêsu trả lời cho họ thêm điều răn thứ hai là phải yêu mến người thân cận như chính mình? Vì chúng ta biết giới luật sĩ Do thái không có lòng yêu mến người thân cận như chính mình, chính Chúa Giêsu đã nói điều này: “Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người khoá cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào! Các người đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các người cũng không để họ vào. Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người nuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ, cho nên các người sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn. “Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người rảo khắp biển cả đất liền để rủ cho được một người theo đạo; nhưng khi họ theo rồi, các người lại làm cho họ đáng xuống hoả ngục gấp đôi các người” (Mt 23,13-15). Hay câu chuyện anh thanh niên có nhiều tài sản đến hỏi Chúa Giêsu làm gì để có được sự sống đời đời, Chúa Giêsu đã chỉ cho anh ta thấy ngoài việc là phải giữ luật, thì còn phải bán tất cả tài sản mình có mà chia cho người nghèo, rồi hãy đến theo Chúa, thì mới có được sự sống đời đời làm cơ nghiệp. Nghĩa là con người chỉ giữ luật theo nghĩa luân lý, giữ luật vì đó là luật, chứ không sống những gì luật dạy, chính vì thế, mà Chúa Giêsu đòi hỏi họ phải sống điều luật dạy.

Nếu đào sâu thêm thì chúng ta thấy việc Chúa Giêsu dạy thêm cho những người  lãnh đạo Do thái điều răn thứ hai là vì Chúa yêu thương họ, muốn họ ngày càng trở nên tốt hơn, muốn họ ngày càng trở nên hoàn thiện hơn trong đời sống đức tin của mình. Nghĩa là Chúa Giêsu đang sống giới răn thứ hai là yêu người thân cận như chính mình, dù người đó có như thế nào đi chăng nữa.

Xin cho mỗi người chúng ta biết giữ các mệnh lệnh của Chúa truyền dạy cho mỗi người chúng ta, cũng như biết áp dụng những lời Chúa truyền dạy vào đời sống cụ thể của mình, để đời sống của chúng ta sinh nhiều hoa trái tốt đẹp như ý Chúa muốn. Amen.




Thứ Bảy Tuần XX Thường Niên
Thánh Barthôlômêô, tông đồ. Lk

(Kh 21,9b-14; Ga 1,45-51)

Lm. Giuse Nguyễn Hồng Quân

Kh 21,9b-14: Trên mười hai móng có khắc tên mười hai tông đồ của Con Chiên.

Tv 144,12: Lạy Chúa, các bạn hữu Chúa nhận biết vinh quang nước Chúa.

Ga 1,45-51: Đây thật là người Israel, nơi ông không có gì gian dối.

Lời Chúa trong thánh lễ kính thánh Batôlômêô tràn đầy ánh sáng của vinh quang Thiên Chúa. Ánh sáng tự thân của Con Chiên chiếu soi cả thành thánh Giêrusalem như sách Khải Huyền mô tả. Nơi Tin mừng, ánh sáng của đức tin giúp cho Batôlômêô được khai mở tầm mắt khi ngài gặp Chúa Giêsu qua sự giới thiệu của Philip. Nhờ ơn Chúa, ngài có thể chiêm ngưỡng được các thiên thần lên lên xuống xuống trên Con Người. Ánh sáng chân thật nơi thánh nhân được chính Chúa Giêsu xác nhận. “Đây thật là người Israel, nơi ông không có gì gian dối.” Tấm lòng trong sạch giúp ngài được nhìn thấy Thiên Chúa. Chính điều này làm ta nhớ đến mối phúc mà Chúa Giêsu đã dạy: “Phúc cho ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa.”

Ánh sáng rạng ngời của chân lý là ánh sáng từ Thiên Chúa, không lệ thuộc vào bất cứ “nguồn” nào khác. Nguồn năng lượng hạnh phúc ấy có thể duy trì một cuộc sống tràn đầy ánh sáng niềm tin của thánh nhân. Niềm tin chân thật cũng là nền móng để xây nên ngôi đền dành cho Thiên Chúa. Thêm vào đó, tình yêu mến dẫn bước ta đi theo tiếng gọi yêu thương của Chúa như Thánh Batôlômêô đã từng. Ước gì ta cũng biết cách làm giàu năng lượng để góp phần làm rạng ngời vinh quang của nước Chúa.




Lm. Tôma Lê Duy Khang

Chuyện kể rằng, có hai người bạn chia tay nhau đi tìm điều qúy giá nhất trên đời. Họ hẹn sẽ gặp lại sau khi đã tìm thấy. Người thứ nhất đi tìm viên ngọc quý. Bất cứ nơi nào bán đá quý, anh đều tìm đến. Cuối cùng, anh cũng mãn nguyện vì đã tìm được viên ngọc quý, anh trở lại quê hương chờ bạn. Người thứ hai đi tìm Chúa. Anh đi khắp nơi thọ giáo các bậc thánh hiền, cặm cụi đọc sách, nghiền ngẫm, nhưng vẫn không tìm được Chúa.

Nhiều năm trôi qua, đang lúc tuyệt vọng, anh nhìn dòng sông lững lờ: một đàn vịt con đang bơi lội tung tăng. Trong khi vịt mẹ tìm con, thì bày con lại cứ muốn rời mẹ đi tìm ăn riêng. Vịt mẹ chẳng hề tỏ vẻ giận dữ, cứ lẽo đẽo theo bầy con và gom chúng lại. Thấy cảnh vịt mẹ mải mê tìm con như thế, anh mỉm cười trở về quê hương.

Khi người bạn hỏi điều quý mà anh đã tìm được là gì mà khiến gương mặt anh rạng rỡ như thế. Lúc đó, con người trở về với hai bàn tay trắng, nhưng tâm hồn tràn ngập niềm vui mới thốt lên:

– Điều quý giá mà tôi đã tìm thấy, đó là trong khi tôi đi tìm Chúa, thì chính Người đã đi tìm tôi trước.

Hình ảnh đó chúng ta cũng thấy được nơi thánh Batolomeo mà chúng ta mừng lễ hôm nay, chính Chúa đi tìm kiếm ông trước. Khi đọc Tin mừng chúng ta thường lầm tưởng rằng chính Philipphe là người đã gọi đã giới thiệu Chúa cho ông biết. Đọc lại Tin mừng nhất là đoạn đối thoại của Chúa Giêsu với Bartolomeo chúng ta sẽ thấy được điều đó, đó là khi Bartolomeo nghe theo lời của Philipphe đến với Chúa Giêsu, thấy Bartolomeo thì Chúa Giêsu nói về Bartolomeo: “Đây đích thật là một người Ít-ra-en, lòng dạ không có gì gian dối.” Nghĩa là, một người rất chân thành, trung thực, không hai mặt, không quanh co! Một người rất tốt! … Và chúng ta nhận ra, người ta có thể sai lầm trong nhận thức, trong kinh nghiệm, người ta có thể bị ảnh hưởng bởi những định kiến chủ quan nào đó, nhưng người ta vẫn có thể đồng thời là người tốt, người chân thành và trung thực chứ không phải người ta bị định kiến mà người ta không thể là người tốt được.

Tiếp theo đó, ông Na-tha-na-en hỏi Chúa Giêsu: “Làm sao Ngài lại biết tôi?” Đức Giê-su trả lời: “Trước khi Phi-líp-phê gọi anh, lúc anh đang ở dưới cây vả, tôi đã thấy anh rồi.” Câu nói của Chúa Giêsu cho thấy, duyên gặp gỡ của Chúa Giêsu và Nathanaen không phải là nhờ Philipphe, cũng không phải là Nathanael đã chủ động đi bước trước để tìm gặp Giêsu, mà thật lạ lùng, chính Chúa Giêsu đã chủ động ‘gặp’ Nathanael trước rồi! Mọi cuộc gặp gỡ Chúa đều như vậy. Nhiều khi chúng ta tưởng mình sáng kiến, mình chủ động, mình tìm và mình gặp được Chúa… Nhưng sự thật luôn là: Chính Chúa nhìn và thấy ta trước; chính Chúa chủ động gặp ta hoặc cho phép ta gặp Người! Từ kinh nghiệm này, thánh Augustino đã ‘nghe’ Chúa nói với mình: “Ngươi tìm Ta vì Ngươi đã gặp Ta”. Chính vì thế, Nathanel đã bị chinh phục bởi Chúa, nên ông đã tuyên xưng Chúa Giêsu: “Lạy Thầy, Thầy là Con Thiên Chúa, là Vua Israel”.

Xin cho chúng ta ý thức được rằng chính Chúa đã dựng nên chúng ta, đã gọi chúng ta cách này hay cách khác, đã cho chúng ta gặp được người này người kia trong cuộc đời của mình, để chúng ta cũng tuyên xưng Chúa như Nathanaen ngày xưa đã tuyên xưng, cũng như chúng ta sẽ thấy được những điều lớn lao khác nữa sau này qua Chúa. Amen.