27/07/2025
870
Suy niệm hằng ngày_ Tuần XVII Thường Niên







 

 

 


 

CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN

Lc 11,1-13
 


Tôma Lê Duy Khang

Bài đọc 1 trích sách sáng thế kể câu chuyện Apraham cầu nguyện với Chúa cho thành Xơ đơm: “Chẳng lẽ Ngài tiêu diệt người lành một trật với kẻ dữ sao? Giả như trong thành có năm mươi người lành, chẳng lẽ Ngài tiêu diệt họ thật sao? Chẳng lẽ Ngài không dung thứ cho thành đó, vì năm mươi người lành trong đó sao? Ngài làm như vậy, chắc không được đâu! Giết chết người lành một trật với kẻ dữ, coi người lành cũng như kẻ dữ, chắc không được đâu! Đấng xét xử cả trần gian lại không xét xử công minh sao? " ĐỨC CHÚA đáp: "Nếu Ta tìm được trong thành Xơ-đôm năm mươi người lành, thì vì họ, Ta sẽ dung thứ cho tất cả thành đó."

Ông Áp-ra-ham lại nói: "Mặc dầu con chỉ là thân tro bụi, con cũng xin mạn phép thưa với Chúa: Giả như trong số năm mươi người lành lại thiếu mất năm, vì năm người đó, Ngài sẽ phá huỷ cả thành sao? " Chúa đáp: "Không! Ta sẽ không phá huỷ, nếu Ta tìm được bốn mươi lăm người." Ông lại thưa một lần nữa: "Giả như trong thành tìm được bốn mươi người thì sao? " Chúa đáp: "Vì bốn mươi người đó, Ta sẽ không làm."

Ông nói: "Xin Chúa đừng giận, cho con nói tiếp: Giả như ở đó có ba mươi người thì sao? " Chúa đáp: "Nếu Ta tìm được ba mươi người, Ta sẽ không làm." Ông nói: Con xin mạn phép thưa với Chúa: "Giả như tìm được hai mươi người thì sao? " Chúa đáp: "Vì hai mươi người đó, Ta sẽ không phá huỷ." Ông nói: "Xin Chúa đừng giận, cho con nói một lần này nữa thôi: Giả như tìm được mười người thì sao? " Chúa đáp: "Vì mười người đó, Ta sẽ không phá huỷ Xơ-đôm." (St 18, 23- 32).

Hình ảnh đó cho chúng ta thấy được rằng nếu chúng ta sống tốt lành thánh thiện, thì cũng có thể giúp ích cho anh chị em của mình, chúng ta cầu nguyện với Chúa cho anh chị em của mình.

Nếu nói như vậy tại sao Apraham lại không nói với Chúa lại Chúa có con đây là người công chính tốt lành đây, xin vì con mà tha cho thành, tại sao ông không nói như vậy? thưa thứ nhất là ông không thuộc thành Xơ dơm, vì khi chia tài sản gia súc ông đi về phía tây, cháu ông là Lot đi về phía đông là Xơdom, nên Apraham không thuộc vùng đất này.

Thứ 2 Apraham đã cầu nguyện với Chúa cho dân thành Xơdom, ông là người tốt lành Chúa đã nhận lời ông, và điều này cho thấy rằng, quyền quyết định là của Chúa, con người không thể nào bao thầu hết tất cả mọi sự, mình chỉ làm được một điều nào đó mà thôi, con người không thể toàn năng trong mọi lãnh vực.

Điều thứ 3 đó là sở dĩ câu chuyện không kể ông Apraham, vì Apraham mà tha cho những người khác, vì lời kinh thánh muốn nói đó chính là con người cũng phải tự mình cứu lấy mình, người ta có thể cầu nguyện xin Chúa ban ơn giúp sức cho mình, chứ không thể cứu mình được, mà tự mình phải nỗ lực, cùng với ơn của Chúa, hay nói cách khác đó là mỗi người phải tự mình đối mặt với Chúa, để trả lời cho những chất vấn của Chúa..

Nghĩa là để cho những con người sau này nhìn thấy mẫu gương của Apraham mà bắt chước, mà cầu nguyện trước mặt Chúa, mà sống tốt lành thánh thiện, để có thể giúp ích cho anh chị em của mình, chứ không phải mình cứ ngồi đó mà chờ đợi người khác.

Xin cho mỗi người chúng ta hiểu được như vậy, để cầu nguyện cho nhau, rồi chính mình cũng phải biết tự mình thay đổi chính mình, vì chính mình phải đối diện với Chúa, chứ không phải là người khác đối diện với Chúa thay cho mình để trả lời những chất vấn của Chúa. Amen.


 

Lm. Giuse Nguyễn Hồng Quân

St 18,20-32: Xin Chúa đừng giận, cho con nói tiếp.

Tv 138,3a: Lạy Chúa, ngày con kêu cứu, Chúa đã thương đáp lại.

Cl 2,12-14: Thiên Chúa đã cho anh em được cùng sống với Đức Ki-tô : Thiên Chúa đã ban ơn tha thứ mọi sa ngã lỗi lầm của chúng ta.

Lc 11,1-13: Anh em cứ xin thì sẽ được.

Các bài đọc hôm nay mời gọi ta suy niệm về sức mạnh và sự can đảm trong lời cầu nguyện.

Trong bài đọc thứ nhất, ông Ápraham dám “mặc cả” với Thiên Chúa. Từng bước một, ông nài xin Chúa tha thứ cho thành Xơđôm. Điều đáng chú ý không chỉ là sự can đảm của Ápraham, mà còn là sự kiên nhẫn và lắng nghe của Thiên Chúa. “Xin Chúa đừng giận nếu con còn nói nữa!” - nhưng Thiên Chúa vẫn lắng nghe.

Thánh vịnh hôm nay khẳng định điều đó: “Lạy Chúa, khi con kêu cầu, Ngài đã đáp lời con.” Thiên Chúa không xa cách, Ngài gần gũi và thấu hiểu lòng người.

Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu dạy các môn đệ và cũng dạy ta cách cầu nguyện. Người ban cho ta Kinh Lạy Cha. Đây là một lời cầu nguyện đầy tín thác của người con. Rồi Người khuyến khích: “Hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ thấy.” Không phải vì Thiên Chúa chần chừ, mà vì Ngài là Cha tốt lành, luôn muốn ban điều thiện hảo cho con cái mình.

Thánh Phaolô nhắc ta lý do để tín thác: vì trong Đức Kitô, chúng ta đã được tha thứ. Tội lỗi ta bị đóng đinh vào thập giá, và ta được sống lại cùng Người.

Vậy, hãy cầu nguyện cách mạnh dạn, không vì ta xứng đáng, mà vì Thiên Chúa quá nhân lành. Cầu xin như Ápraham, tín thác như trẻ thơ, và biết ơn như Phaolô. Thiên Chúa luôn lắng nghe, và Ngài sẽ đáp lời trong tình yêu của Ngài.




Thứ Hai - Tuần XVII Thường Niên

Mt 13, 31-35

Tôma Lê Duy Khang

Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu nói với đám đông dân chúng rằng: "Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được. Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được.” tại sao Chúa Giêsu lại dạy điều này?

Thưa đó là điều kiện để theo Chúa, vì Chúa là Thầy mà còn phải chịu vác thập giá, thì trò là người bước theo Thầy thì không thể nào đi ra ngoài con đường thập giá được.

Bên cạnh việc chúng ta hiểu đó là điều kiện để theo Chúa, chúng ta cần phải hiểu điều mà Chúa nói, là Chúa muốn các môn đệ của Ngài khi đi theo Ngài cần phải có sự chuẩn bị tinh thần, cần tính toán trước để đi theo Ngài.

Tại sao chúng ta lại dám nói như thế, vì sao đó Chúa nói với các môn đệ: "Quả thế, ai trong anh em muốn xây một cây tháp, mà trước tiên lại không ngồi xuống tính toán phí tổn, xem mình có đủ để hoàn thành không? Kẻo lỡ ra, đặt móng rồi mà không có khả năng làm xong, thì mọi người thấy vậy sẽ lên tiếng chê cười mà bảo: "Anh ta đã khởi công xây, mà chẳng có sức làm cho xong việc. Hoặc có vua nào đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên lại không ngồi xuống bàn tính xem mình có thể đem một vạn quân ra, đương đầu với đối phương dẫn hai vạn quân tiến đánh mình chăng? Nếu không đủ sức, thì khi đối phương còn ở xa, ắt nhà vua đã phải sai sứ đi cầu hoà. Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được.”

Chúng ta thấy rất rõ điều này trong lệnh truyền truyền giáo của Chúa Giêsu: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28, 19), nghĩa là phải chuẩn bị cho người ta trở thành môn đệ trước đã, biết về Chúa trước đã rồi mới làm phép rửa.

Ngày nay trong giáo luật cũng nhắc đến điều này, nhất là trong việc rửa tội cho tân tòng và rửa tội trẻ em.

Về người tân tòng: “để có thể được Rửa Tội, người thành niên phải bài tỏ ý muốn lãnh nhận bí tích Rửa Tội, phải được dạy dỗ đủ về những chân lý đức tin và nhũng nghĩa vụ Kitô giáo và phải được thử luyện sống đời Kitô hữu qua thời gian dự tòng; họ cũng được khuyên nhủ ăn năn tội lỗi của mình.” (Gl 865, triệt 1).

Đối với trẻ em: “có sự chấp thuận của cha mẹ, hay ít của một trong hai người, hoặc của người thay quyền họ cách hợp pháp. Có một niềm hy vọng chắc chắn là em sẽ đựoc giáo dục trong đạo Công giáo nếu hoàn toàn thiếu niềm hy vọng này, thì phải hoãn ban bí tích Rửa Tội, chiếu theo những quy định cuảa luật địa phương sau khi đã thông báo cho cha mẹ biết lý do. (Gl 868, triệt 1 và 2).

Một thương gia thành đạt đến một trường đại học nổi tiếng để ghi tên cho con mình theo học. Khi xem qua danh mục các môn học, ông lắc đầu, lưỡng lự: “Con tôi phải học tất cả những môn này sao?”, rồi ông hỏi thầy chủ nhiệm: “Thầy không thể rút ngắn hơn sao? Nó muốn mau ra trường”.

“Dĩ nhiên cậu ấy có thể theo một khoá ngắn hơn”, thầy chủ nhiệm trả lời, “nhưng tất cả là tùy ở chỗ cậu ấy muốn thành người như thế nào. Thiên Chúa tạo ra cây sồi trong 20 năm, nhưng Ngài chỉ cần 2 tháng để tạo ra một cây bí!”.

Hiểu được như vậy chúng ta thấy trong đời sống đức tin, cũng như trong đời sống thường ngày để có thể thành công cần phải có sự chuẩn bị thật kỹ lưỡng. Xin Chúa cho mỗi người chúng ta hiểu được điều đó và xin Chúa chúc lành cho mỗi người chúng ta. Amen.
 



Lm. Giuse Nguyễn Hồng Quân

Xh 32,15-24.30-34: Dân này đã phạm tội nặng nề, và họ đúc bò vàng.

Tv 106,1a: Hãy ca tụng Chúa, bởi Người nhân hậu.

Mt 13,31-35: Hạt cải trở thành cây đến nỗi chim trời đến nương náu nơi ngành nó.

Tin mừng cho chúng ta biết cách thức Chúa Giêsu giảng giải cho các môn đệ. Ngài dùng dụ ngôn như là một phong cách đặc trưng. Ngài dùng những hình ảnh quen thuộc hằng ngày để giải thích những mầu nhiệm vĩ đại về Nước Trời. Bằng cách dạy trực quan sinh động, mọi người có thể hiểu, từ người học cao hiểu rộng cho đến người học hành hiểu biết đơn sơ.

“Nước trời giống như hạt cải” (Mt 13,31). Hạt cải tuy là bé xíu kia nhưng khi thành cây lại có thể trở thành nơi nương náu của chim trời. “Nước trời giống như nắm men người đàn bà kia lấy đem trộn vào ba đấu bột” (Mt 13,33). Nắm men nọ làm cho số bột ít ỏi khô khan trở nên mềm mại và nảy nở hơn muôn phần. Hạt cải bé nhỏ có thể lớn lên hay chất men vô hình cũng có thể làm dậy lên thúng bột.

Theo Kinh Thánh, mỗi hình ảnh trên đây nói lên niềm tin của ta và cách Chúa ban ân sủng của Người. Ân sủng của Thiên Chúa nuôi dưỡng hạt giống đức tin và biến đổi con người từ tội lỗi thành thánh nhân. Chúng ta nhận ơn ban của Chúa qua niềm tin, lời cầu nguyện, các bí tích và tình yêu. Tuy nhiên, đời sống trong sự quan phòng của Thiên Chúa là một quà tặng nên mỗi người hãy trông đợi và ước mong với lòng khiêm nhường.



 

Thứ Ba - Tuần XVII Thường Niên
Thánh nữ Martha, Maria và Lazarô. Lễ nhớ.

Ga 11, 19-27

Tôma Lê Duy Khang

Tin mừng hôm nay trình bày cho chúng ta thấy khi Chúa Giêsu đên Bêtania để thăm Ladaro, lúc này Ladaro đã chết rồi, cô Mattta nói với Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết. Nhưng bây giờ con biết: Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy." Chúa Giêsu nói: "Em chị sẽ sống lại! " Cô Matta thưa: "Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết."Chúa Giêsu liền phán: "Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Chị có tin thế không? " Cô Matta đáp: "Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian." (Ga 11, 21-27)

Sau đó, Chúa đi ra thăm mộ, Chúa kêu lăn tảng đá ra khỏi mộ, cô Mátta là chị người chết liền nói: "Thưa Thầy, nặng mùi rồi, vì em con ở trong mồ đã được bốn ngày." (Ga 11,39).

Chúng ta thấy cô Matta chỉ có cái nhìn vật chất, cái nhìn của người đời, chứ không có cái nhìn đức tin, mặc dù miệng thì nói tin, nhưng thực tế thì lại không tin.

Chúng ta hãy nhớ lại câu chuyện Chúa Giêsu làm dấu lạ hóa bánh ra nhiều trong tin mừng Gioan mà chúng ta đã nghe trong Chúa nhật hôm qua cũng vậy, Chúa Giêsu thấy dân chúng đến với Chúa, nên đã hỏi Philipphe: "Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây? " Người nói thế là để thử ông, chứ Người đã biết mình sắp làm gì rồi. Ông Phi-líp-phê đáp: "Thưa, có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút."

Câu trả lời của philipphe cho chúng ta thấy ông chỉ có cái nhìn về vật chất, chứ không có cái nhìn đức tin, để tin vào quyền năng của Chúa.

Chính vì thế, mà sau đó Chúa Giêsu đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều, cũng như Chúa đã làm phép lạ phục sinh Ladaro, giúp họ thay đổi cái nhìn về Chúa, có được cái nhìn đức tin vào Chúa.

Nếu để ý, chúng ta thấy, tuy rằng Chúa làm dấu lạ phục sinh Ladaro, nhưng không phải chỉ muốn con người dừng lại ở cái nhìn vật chất, mà muốn con người tin vào Chúa để hướng về đời sống thiêng liêng. Nghĩa là ý muốn nói đến sự kiện Chúa Giêsu sẽ phục sinh sau này.

Chúng ta thấy Ladaro sống lại có chết không thưa cũng chết, Chúa Giêsu sống lại có chết không, thưa không chết, phục sinh vĩnh cửu.

Cũng vậy, trong sự kiện Chúa Giêsu làm dấu lạ hóa bánh ra nhiều, thì sau đó khi dân chúng đi theo thì Chúa Giêsu nói: “Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận.".

Xin cho mỗi người chúng ta có được cái nhìn đức tin, để không chỉ tin rằng Chúa ban cho chúng ta đời sống vật chất ở đời này, mà Chúa còn ban cho chúng ta đời sống thiêng liêng, để chúng ta không chỉ có tìm kiếm của cải vật chất, mà còn biết tìm kiếm đời sống thiêng liêng, là thứ mà mối mọt không thể đục khoét được, là thứ mà Chúa muốn chúng ta hướng đến. Amen.




Lm. Giuse Nguyễn Hồng Quân

1 Ga 4,7-16: Nếu chúng ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta.

Tv 34,9a: Hãy nghiệm xem Chúa tốt lành biết mấy.

Ga 11,19-27: Con đã tin Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.

Câu chuyện của Luca về Martha và Maria là một câu chuyện dụ ngôn vượt thời gian ta đã nghe vào Chúa nhật XVI thường niên năm C (Lc 10,38-42). Martha là một người yêu thích công việc. Bà đã càm ràm Chúa Giêsu vì đã để em gái bà ngồi dưới chân Ngài hơn là dọn bàn ăn. Nhưng Phúc âm của Gioan hôm nay giúp ta hiểu hơn về lý do tại sao Giáo hội đã tôn vinh Martha từ những ngày đầu tiên. Từ hai đoạn Tin mừng trên, ta biết Martha không chỉ là một người bận rộn, mà còn đầy niềm tin!

Có hai cá tính trong gia đình thánh thiện này. Trong khi Maria ở nhà để chiêm ngắm mầu nhiệm cuộc đời, thì Martha tích cực đi tìm Chúa Giêsu. Martha đối diện với Chúa Giêsu với vẻ buồn sầu than thở. Bà thổ lộ hy vọng sống lại và sau đó nói lên một trong những tuyên tín Kitô học cao nhất trong tất cả các Phúc âm: “vâng, con đã tin Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian.” Giáo hội và mỗi người chúng ta cảm ơn đức tin của họ. Niềm tin của chúng ta được củng cố qua đời sống mật thiết với Chúa của các thánh nhân. Qua đức tin của Martha, sự im lặng chiêm niệm của Maria, và cuộc sống mới của Ladarô, ta khao khát được chứng kiến tình yêu của Chúa trong tình bạn với Chúa Giêsu.




Thứ Tư - Tuần XVII Thường Niên

Mt 13, 44-46

Tôma Lê Duy Khang

Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu kể hai câu chuyện đi tìm kho báu và đi tìm ngọc đẹp, để cho chúng ta thấy đó là hình ảnh của Nước Trời, và muốn có Nước Trời thì phải bỏ công ra tìm kiếm.

Chúng ta hãy nhớ lại trong sách sáng thế, khi con người sa ngã phạm tội, Thiên Chúa đuổi con người ra khỏi vườn địa đàng, và Thiên Chúa phán: “Vì ngươi đã nghe lời vợ và ăn trái cây mà Ta đã truyền cho ngươi rằng: "Ngươi đừng ăn nó", nên đất đai bị nguyền rủa vì ngươi; ngươi sẽ phải cực nhọc mọi ngày trong đời ngươi, mới kiếm được miếng ăn từ đất mà ra. Đất đai sẽ trổ sinh gai góc cho ngươi, ngươi sẽ ăn cỏ ngoài đồng. Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi trở về với đất, vì từ đất, ngươi đã được lấy ra. Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất." (St 3,17-19). Nghĩa là muốn có của ăn phải ra công làm việc mới có được.

Nhưng việc tìm kiếm Nước Trời không phải như kiểu chúng ta bỏ công sức để tìm kiếm như tìm kiếm của cải vật chất, bất chấp để có được của cải.

Mà việc tìm kiếm Nước Trời, là một việc đòi hỏi mỗi người chúng ta phải biết từ bỏ, từ bỏ mọi sự, từ bỏ những cái cũ, từ bỏ những của cải, từ bỏ những thói hư tật xấu, mới có được Nước Trời.

Tại sao ta lại dám nói như vậy, thưa nếu đọc kỹ tin mừng hôm nay Chúa Giêsu nói, khi tìm thấy kho báu trong ruộng, thì tìm thấy ngọc đẹp, thì trở về bán tất cả tài sản để mua cho bằng được thửa ruộng có kho báu, cũng như mua bằng được viên ngọc quý, nghĩa là muốn có cái mới, phải từ bỏ những cái cũ.

Hay câu chuyện anh thanh niên đến hỏi Chúa Giêsu làm gì để có được sự sống đời đời, thì Chúa Giêsu nói: “Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi." (x. Mt 19,16-22).

Nhưng có một vấn đề đặt ra với mỗi người chúng ta là làm sao biết được đâu là Nước trời thật, đâu là Nước Trời giả để mà theo đuổi, bởi vì ngay nay có nhiều người đưa ra những thông tin không biết đâu là thật đâu là giả, chẳng hạn như nhóm trừ quỷ Bảo Lộc, để có thể biết được đâu là thật đâu là giả chúng ta chỉ có thể dựa vào nền tảng kinh thánh mà thôi.

Nói thì ai chẳng nói được, nhưng có dựa trên nền tảng nào, nếu không dựa trên nền tảng nào cả thì lý luận đó không có giá trị, và chúng ta phải nắm rõ một nguyên tắc mà thư Do thái nói rất rõ: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử.” (Dt 1,1-2), nghĩa là mạc khải của Chúa Giêsu là mạc khải cuối cùng không còn mạc khải nào khác nữa, có chăng là mạc khải tư, chẳng hạn như mạc khải về lòng Chúa Thương Xót được mạc khải cho thánh nữ Fautina, nhưng mạc khải tư này có nền tảng thánh kinh, Chúa chỉ dùng thánh nữ để nhắc lại để cho con người nhớ, chứ không có điều gì mới mẻ.

Xin Chúa cho mỗi người chúng ta hiểu được điều đó, để ra sức tìm kiếm Nước Trời thật, để trong ngày sau hết chúng ta được vào hưởng hạnh phúc Nước Trời thật mà Chúa hứa ban cho chúng ta. Amen.




Lm. Giuse Nguyễn Hồng Quân

Xh 34,29-35: Thấy mặt ông Môsê, họ sợ không dám đến gần.

Tv 99,9: Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Đấng Thánh.

Mt 13,44-46: Anh bán tất cả những gì anh có mà mua thửa ruộng đó.

Vẻ rạng rỡ trên khuôn mặt của Môsê cho thấy mối quan hệ mật thiết của ông với Chúa. Ông là nhà tiên tri, vị lãnh đạo, trung gian giữa con người với Thiên Chúa, là người hòa giải nhưng nhiều người sợ ông. Họ không dám đến gần ông. Có một nghịch lý là người ta muốn gặp Chúa, nhưng khi thấy người đại diện của Chúa thì lại sợ. Matthêu có hai dụ ngôn về Nước Chúa để ta suy ngẫm. Như Môsê nói về sự quan phòng của Chúa cho dân. Việc loan báo Nước Trời là điều cốt yếu trong lời rao giảng của Chúa Giêsu và niềm hy vọng của dân được tuyển chọn. Nhưng bản chất của Vương quốc này không được đa số hiểu rõ. Hai câu chuyện ngụ ngôn có sắc thái riêng, nhưng điểm chung là người ta nên biết cái gì là quý giá để mà đầu tư.

Để được sống với Chúa, ta cần biết hy sinh bản thân để phục vụ trong yêu thương với sự công bằng, lòng trắc ẩn và tha thứ. Qua đó ta cùng sống mầu nhiệm sự chết và phục sinh của Đức Kitô mỗi ngày trong hoàn cảnh của mình. Đó là một nhiệm vụ liên tục, không bao giờ đạt được hoàn toàn. Nhưng ta hy vọng sẽ có sự phát triển và tiến bộ. Điều cần là ta phải có lòng tin, bởi vì điều gì tưởng chừng không thể đối với con người lại có thể đối với Chúa.




Thứ Năm - Tuần XVII Thường Niên
Thánh Ignatiô Loyôla, linh mục. Lễ nhớ.

Ga 13, 47-53


Tôma Lê Duy Khang

Câu chuyện chiếc lưới quăng xuống biển, kéo lên đầy những cá xấu và cá tốt, đó là hình ảnh ngày cánh chung, Chúa sẽ phân loại cá tốt và cá xấu, cá xấu thì bị ném ra ngoài, còn cá tốt thì được đem vào giỏ.

Nên điều đó cho chúng ta thấy chỉ có Chúa mới có quyền phân loại cá xấu và cá tốt, chỉ có Chúa mới có quyền kéo lưới lên mà thôi, còn chúng ta, chúng ta không có quyền để kéo lưới lên trước thời hạn để phân biệt người lành kẻ dữ.

Nhưng đó chỉ là lý thuyết, còn trong thực tế, ai trong chúng ta đều muốn kéo lưới lên trước thời hạn để phân loại người lành kẻ dữ.

Vậy để có thể sống được điều chúng ta vừa nói là đừng vội phán xét người khác thì chúng ta phải làm gì?

Một ngày nọ, trong lần lên lớp giảng bài, giáo sư đã kể với sinh viên câu chuyện về một con lợn, một con cừu và một con bò cùng bị nhốt trong chuồng. Một buổi tối nọ, bác nông dân bước vào chuồng và tiến về phía ba con vật để bắt lấy chúng thì một con trong số đó la hét cực kỳ dữ dội, chống trả mãnh liệt, nhất quyết không thuận theo.

Kể tới đây, vị giáo sư dừng lại và hỏi các sinh viên của mình rằng: "Theo các trò, con vật kháng cự nhiều nhất là loài nào?"

Các sinh viên hết sức ngỡ ngàng vì câu hỏi bất ngờ được đặt ra. Thế nhưng, do tò mò về câu trả lời nên sau một hồi ngẫm nghĩ, vẫn có người đứng ra trả lời: "Thưa thầy, em nghĩ đó là con cừu. Loài cừu bản tính hiền lành, nhát gan, chắc nó sẽ sợ người nên khi thấy bác nông dân, nó mới sợ hãi nhất."

Nghe câu trả lời ấy, vị giáo sư chỉ mỉm cười hiền lành và lắc đầu: "Câu trả lời của trò khá có lý đấy, nhưng chưa đúng đâu."

Một học sinh khác nhanh nhảu đứng dậy trả lời tiếp: "Thưa thầy, theo em nghĩ là con bò sẽ chống trả mạnh nhất vì nó có hình thể tốt nhất, sức khỏe nhiều nhất và bốn chân mạnh mẽ nhất. Khi nó tức giận hoặc hoảng sợ vì bác nông dân lại gần, nó sẽ là loài phản kháng mãnh liệt."

Vị giáo sư lại lắc đầu mà không nói gì.

Các học sinh còn lại mới bảo nhau: "Vậy chắc chắn là con lợn rồi."

Giáo sư mới hỏi họ: "Vậy các em có biết lý do vì sao con lợn lại chống trả mạnh mẽ nhất hay không?"

Đến đây, cả lớp lại im ắng mà không ai có thể trả lời được. Thấy vậy, vị giáo sư mới từ tốn đưa ra lời giải đáp: "Các em hãy thử nghĩ mà xem, bác nông dân bắt cừu có thể để lấy lông, bắt bò có thể để lấy sữa, nhưng nếu ông ấy bắt lợn thì chắc chắn là để lấy thịt mà thôi. Nếu con lợn để bác nông dân bắt được, nó chỉ có một con đường chết duy nhất. Chính vì thế, đó là lý do nó chống trả mãnh liệt nhất, hơn cả loài cừu nhát gan hay loài bò khỏe mạnh."

Qua câu chuyện này cho chúng ta thấy được rằng chỉ đứng trong hoàn cảnh của người khác mới có thể hiểu được họ như thế nào.

Cũng vậy, để có thể sống điều Chúa dạy là đừng kết án trước thời hạn chúng ta hãy đặt mình vào vị trí của người khác, nếu người đó là tôi thì tôi có muốn bị kết án trước thời hạn hay không?

Xin Chúa cho mỗi người chúng ta ý thức được điều đó, để không kết án anh chị em mình, mà hãy để cho Chúa hành động. Amen.
 



Lm. Giuse Nguyễn Hồng Quân

Xh 40,16-21.34-38: Một đám mây che phủ Lều Hội Ngộ, và vinh quang của Chúa tràn đầy nhà Tạm.

Tv 84,2: Ôi Chúa thiên binh, khả ái thay cung điện của Ngài.

Mt 13,47-53: Người ta lựa cá tốt bỏ vào giỏ, còn cá xấu thì ném ra ngoài.

Môsê làm đúng như lời Đức Chúa đã truyền cho ông. “Ngày mùng một tháng Giêng năm thứ hai, đã dựng nhà xếp xong” (Xh 40,16-17). Ngôi nhà chứa Hòm Bia Giao ước, và vinh quang của Chúa sẽ lấp đầy nhà dưới dạng một đám mây. Chúa biết dân Israel cần gì ở giai đoạn này của cuộc hành trình của họ. Có lẽ Chúa hy vọng mọi người sẽ hiểu được hành trình nơi hoang dã của họ không chỉ là quá trình chuyển đổi thể chất đến một ngôi nhà mới. Đó là một hành trình hoán cải tâm linh, tương tự như hành trình tâm linh của ta, và Nhà tạm là lời nhắc nhở hữu hình rằng Chúa sẽ không bỏ rơi họ.

Trong những năm xuất hành và định cư ở Đất Hứa, Lều là dấu hiệu cho thấy sự hiện diện của Chúa trong dân của Người. Khi họ lên đường, Chúa cũng hành quân theo họ. Khi họ di chuyển Lều, Chúa sẽ di chuyển theo họ. Vì Chúa sẽ ở với dân của Người. Đó là sự hiện diện cứu độ, sự hiện diện của giao ước, và như là sự hiện diện của tình yêu. Kể từ khi có Đức Kitô, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Ngài là Đền thờ mới. Thiên Chúa hiện diện nơi nào mà người ta đặt niềm tin vào Người.  “Ôi Chúa thiên binh, khả ái thay cung điện của Ngài.”




Thứ Sáu đầu tháng - Tuần XVII Thường Niên
Thánh Alphongsô Maria Liguori, giám mục, tiến sĩ Hội thánh. Lễ nhớ.

Mt 13, 54-58

Tôma Lê Duy Khang

Tin mừng hôm nay trình bày cho chúng ta thấy việc Chúa Giêsu trở về quê hương của mình để giảng dạy, nhưng không ai tin vào lời của Chúa, vì họ biết gốc tích của Chúa, họ nói: “Bởi đâu ông ta được khôn ngoan và làm được những phép lạ như thế? Ông không phải là con bác thợ sao? Mẹ của ông không phải là bà Ma-ri-a; anh em của ông không phải là các ông Gia-cô-bê, Giô-xếp, Si-môn và Giu-đa sao? Và chị em của ông không phải đều là bà con lối xóm với chúng ta sao? Vậy bởi đâu ông ta được như thế? " Và họ vấp ngã vì Người.”

Như vậy, vấn đề đặt ra với mỗi người chúng ta là người ta kính trọng chúng ta vì điều gì?

Chúng ta biết có người cho rằng người ta kính trọng chúng ta không phải vì chúng ta nói hay, không phải vì chúng ta giảng giỏi, không phải chúng ta quyền cao chức trọng mà người ta kính trọng chúng ta còn vì chính cuộc sống của chúng ta.

Thế nhưng tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy thêm một điểm nữa đó là người ta kính trọng chúng ta là vì xuất thân của chúng ta, chính vì thế mà người ta xem thường Chúa.

Trong tin mừng Gioan cũng kể câu chuyện khi Philipphe cho Nathanaen biết về Đấng Cứu Thế xuất thân từ Nadaret, thì ông đã nói: “Ở Nadaret nào có cái gì hay?”.

Nhưng chúng ta biết người ta tôn trọng chúng ta vì hoàn cảnh xuất thân của chúng ta thì đó chỉ là cái nhìn của phàm nhân, chứ không phải là cái nhìn của thánh nhân.

Mà cái nhìn của thánh nhân là cái nhìn phải thấy được đằng sau đó là cái gì, chứ không phải chỉ dừng lại ở cái xuất thân.

Chúng ta thấy câu chuyện Hàn Tín lòn trôn, Lưu Bang chê xuất thân của Hàn Tín, nhưng Trương Lương thì không chê, vì ông biết đằng sau cái lòn trôn đó là cái gì, đó mới là cái nhìn của bậc thượng trí.

Mà cụ thể cái nhìn đó là cái nhìn của Chúa Giêsu, nếu Chúa Giêsu chỉ có cái nhìn bình thường, như những con người bình thường, thì chúng ta đời đời kiếp kiếp chẳng cùng Amen chỉ là những con người tội lỗi, nhưng Chúa nhìn thấy chúng ta không phải chỉ là những con người tội lỗi, chỉ nhìn thấy chúng ta là cỏ lùng, mà còn nhìn thấy nơi chúng ta là lúa, Chúa không chỉ nhìn thấy nơi tâm hồn của chúng ta là vùng đất sỏi đá, vùng đất bụi gai, đất vệ đường, mà còn thấy nơi chúng ta là những mảnh đất tốt chưa được khai thác nữa, nên Chúa đã xuống thế làm người để cứu độ chúng ta.

Xin cho mỗi người chúng ta biết noi gương Chúa Giêsu đừng chỉ nhìn xuất thân của người khác theo cái nhìn tự nhiên, mà hãy nhìn xuất thân của người khác theo cái nhìn siêu nhiên, là chúng ta được tạo dựng giống hình ảnh của Thiên Chúa, để chúng ta yêu thương và tôn trọng anh chị em của mình. Amen.
 



Lm. Giuse Nguyễn Hồng Quân

Lv 23,1.4-11.15-16.27.34-37: Các ngươi phải kể những ngày của Chúa là những ngày rất trọng thể và là ngày thánh.

Tv 81,2: Hãy reo mừng Thiên Chúa là Đấng phù trợ chúng ta.

Mt 13,54-58: Nào ông chẳng phải là con bác thợ mộc ư? Vậy bởi đâu ông được những sự ấy?

Môsê đã nhận được những chỉ dẫn cụ thể về các lễ hội dành riêng cho Chúa. Lễ hội liên quan đến sự hy sinh, tế lễ, thường là hoa quả đầu mùa. “Các ngươi phải kể những ngày của Chúa là những ngày rất trọng thể và là ngày thánh.” Chúa cho người Do Thái và chúng ta những lễ hội không chỉ để tán dương những việc làm tuyệt vời của Chúa mà còn đem đến niềm vui và gia tăng sức mạnh cho tâm hồn.

Phúc âm hôm nay thuật lại một ngày Chúa Giêsu trở về “quê hương” Nazareth. Ngài đã dành thời gian giảng dạy; mọi người ngạc nhiên trước sự khôn ngoan của Ngài. Tuy nhiên, Chúa Giêsu cũng không được người ta chào đón, vì họ ganh tị với Ngài. Kiểu như ông ta xuất thân bình thường sao mà có thể làm được những chuyện lớn lao. Thay vì lắng nghe, thì người ta lại chống đối Ngài. Vì vậy, giảng hay nói về Chúa với người thân hoặc gia đình của ta có thể khó khăn nhưng cần thiết. Dẫu rằng khi trở về quê, Chúa Giêsu đã đi trước bằng những phép lạ và lời nói của Ngài. Có thể, trong trường hợp của chúng ta, chúng ta cần có một uy tín nào đó về sự thánh thiện, dù ở nhà hay ở xa, trước khi “rao giảng” cho những người thân cận.




Thứ Bảy đầu tháng - Tuần XVII Thường Niên

Mt 14, 1-12

Tôma Lê Duy Khang

Tin mừng hôm nay kể cho chúng ta câu chuyện của Hêrôđê, khi ông nghe danh tiếng Chúa Giêsu, thì ông cho rằng Chúa Giêsu chính là Gioan Tẩy Giả sống lại, vì chỉ có Gioan Tẩy Giả mới có thể làm được các phép lạ như vậy.

Điều này cho chúng ta thấy được điều gì? thưa cho chúng ta thấy được Hêrôđê xác tín rằng Gioan Tẩy Giả là một ngôn sứ, nghĩa là Gioan Tẩy Giả cũng có ảnh hưởng trên cuộc đời ông, nên ông mới nhớ mà nhắc đến Gioan Tẩy Giả.

Hình ảnh Hêrôđê nhắc đến Gioan Tẩy Giả, rằng chỉ có Gioan Tẩy Giả sống lại mới có thể làm phép lạ, có làm cho chúng ta nhớ đến một hình ảnh nào khác trong kinh thánh hay không, cũng tương tự như vậy?

Thưa đó là hình ảnh của anh mù từ thuở mới sinh, anh được Chúa Giêsu chữa lành, và câu chuyện này được thánh Gioan thuật lại trong chương 9, từ câu 1 đến câu 41.

Câu chuyện tin mừng này kể về việc Chúa Giêsu chữa lành anh mù từ thuở mới sinh, khi chữa cho anh xong thì anh ta bị người ta chất vấn, lúc đó anh ta cho biết có một ông tân là Giêsu đã chữa lành anh và người là một vị ngôn sứ.

Rồi sau đó người do thái tiếp tục chất vấn anh, và họ cho biết người mà chữa lành cho anh mù là người tội lỗi vì dám chữa bệnh ngày Sabat, thì anh mù lên tiếng phản kháng: “Ông ấy có phải là người tội lỗi hay không, tôi không biết. Tôi chỉ biết một điều: trước đây tôi bị mù mà nay tôi nhìn thấy được”.

Và anh ta tiếp tục lý luận để bênh vực cho Chúa Giêsu, mặc dù lúc đó anh không biết Chúa Giêsu là người đã chữa lành cho anh, anh nói: “Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi; còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy. Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì."

Nên chúng ta thấy hai hình ảnh Hêrôđê bị ấn tượng bởi Gioan Tẩy Giả, còn anh mù thì bị ấn tượng bởi Chúa Giêsu. Tại sao họ lại bị ấn tượng như thế?

Chúng ta biết, Hêrôđê ấn tượng Gioan Tẩy Giả vì ông là người dám nói lên tiếng nói của sự thật, còn đối với anh mù anh ấn tượng Chúa Giêsu là vì Chúa Giêsu đã chữa lành anh, nghĩa là việc Gioan Tẩy Giả làm, việc Chúa Giêsu làm, những việc làm đó nó đụng chạm đến chính con người của người ta, nên người ta mới ấn tượng và hiệu quả là không có gì thay thế được, nói điều gì là nghĩ ngay đến điều đó liền.

Đó cũng là bài học cho mỗi người chúng ta, mà chúng ta cần phải học, đó là chúng ta có ấn tượng gì về Chúa bởi điều gì chưa, khi làm bất cứ điều gì, khi gặp những sự kiện này sự kiện kia trong cuộc sống chúng ta có nghĩ ngay đến Chúa hay không? nếu chúng ta chưa có ấn tượng về Chúa, chúng ta chưa nghĩ ngay đến Chúa, thì chứng tỏ chúng ta chưa cảm nhận được Chúa đã đụng chạm đến chính con người của chúng ta, nghĩa là chúng ta chưa có kinh nghiệm về Chúa.

Chúng ta biết trong cuộc đời của chúng ta, Chúa đã đụng chạm đến chúng ta rất nhiều qua sự quan phòng của Chúa, qua các bí tích mà chúng ta lãnh nhận, qua các biến cố này, biến cố kia trong cuộc sống, nhưng tại vì chúng ta không nhận ra được mà thôi.

Chính vì thế, chúng ta xin Chúa cho mỗi người chúng ta có được lòng nhạy cảm, để cảm nhận được rằng Chúa hằng đụng chạm đến chúng ta, Chúa vẫn đụng chạm đến chúng ta mỗi ngày qua những gì mà Ngài ban cho chúng ta, để chúng ta có kinh nghiệm về Chúa, để dù trong bất cứ hoàn cảnh nào vẫn nhớ về Chúa và tuyên xưng Ngài. Amen.
 



Lm. Giuse Nguyễn Hồng Quân

Lv 25,1.8-17: Trong năm toàn xá, người ta làm chủ lại cơ nghiệp mình.

Tv 67,4: Chư dân hãy ca tụng Ngài, thân lạy Chúa, hết thảy chư dân hãy ca tụng Ngài.

Mt 14,1-12: Hêrôđê sai người đi chặt đầu Gioan, và các môn đệ của Gioan đi báo tin cho Chúa Giêsu.

Mỗi khi người Do thái tổ chức lễ kỷ niệm năm thánh, những người nô lệ sẽ được thả tự do, đất đai được nghỉ ngơi, người ta sẽ làm chủ lại cơ nghiệp mình. Ý tưởng là cho phép một khởi đầu hoàn toàn mới, tôn trọng nhân quyền và phẩm giá. Đó là một nỗ lực nhằm mang lại sự công bằng hơn trong dân Chúa. Vậy, Năm thánh tạo ra sự công bằng hơn trong Giáo hội, với một khởi đầu mới, những cơ hội mới để bắt đầu lại. Đây phải là hình ảnh của đời sống Kitô giáo, là cách để bắt đầu sự hòa giải.

Trong Tin mừng, ta thấy một sự bất công: Thánh Gioan Tẩy Giả bị chặt đầu; đồng thời, khám phá ra nơi Lời Chúa nhu cầu về chứng từ rõ ràng và cụ thể về đức tin của chúng ta để làm cho thế giới tràn đầy niềm hy vọng. Thiên Chúa dùng tình thương để xóa bỏ muôn vàn tội lỗi. Còn con người dùng quyền lực và sự mưu mô, hiểm độc để trừ khử nhau. Tiếc thay, sự ra tay tàn độc của vua Hêrôđê không phải để làm cho ông thêm hùng mạnh hay giàu có, mà chỉ là để làm vừa lòng một người có lòng dạ hẹp hòi, ích kỷ. Ước chi ta biết làm hài lòng Thiên Chúa hơn là làm vừa lòng người đời.