
CHÚA NHẬT V MÙA CHAY - C
Is 43,16-21; Pl 3,8-14; Ga 8,1-11
Tôma Lê Duy Khang
Tin mừng hôm nay trình bày cho chúng ta thấy sự khôn khéo của Chúa, để giúp giải thoát cho người phụ nữ bị bắt phạm tội ngoại tình, cũng như giúp cho những người khinh sư và Pharisieu ăn năn sám hối, nhìn nhận ra lầm lỗi thiếu sót của mình.
Và chúng ta thấy cách thức khôn ngoan của Chúa đó là sự kiệm lời, từ từ dẫn người ta đến lòng sám hối, để cho họ tự thấy con người của họ, nên người khôn ngoan, thường người ta ít nói, mà nói câu nào là chính đáng câu đó.
Chúng ta hãy nhớ câu chuyện của vua Đavit cướp vợ Urigia, tiên tri Nathan được sai đến, ngay từ ban đầu ngày không có nói trực tiếp, mà ngài kể một câu chuyện: “Có hai người ở trong cùng một thành, một người giàu, một người nghèo. Người giàu thì có chiên dê và bò, nhiều lắm. Còn người nghèo chẳng có gì cả, ngoài con chiên cái nhỏ độc nhất ông đã mua. Ông nuôi nó, nó lớn lên ở bên ông, cùng với con cái ông, nó ăn chung bánh với ông, uống chung chén với ông, ngủ trong lòng ông: ông coi nó như một đứa con gái. Có khách đến thăm người giàu, ông này tiếc của, không bắt chiên dê hay bò của mình mà làm thịt đãi người lữ khách đến thăm ông. Ông bắt con chiên cái của người nghèo mà làm thịt đãi người đến thăm ông." Vua Đa-vít bừng bừng nổi giận với người ấy và nói với ông Na-than: "Có ĐỨC CHÚA hằng sống! Kẻ nào làm điều ấy, thật đáng chết! Nó phải đền gấp bốn con chiên cái, bởi vì nó đã làm chuyện ấy và đã không có lòng thương xót." Ông Na-than nói với vua Đa-vít: "Kẻ đó chính là ngài! ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của Ít-ra-en, phán thế này: Chính Ta đã xức dầu phong ngươi làm vua cai trị Ít-ra-en, chính Ta đã giải thoát ngươi khỏi tay vua Sa-un.
Bấy giờ vua Đa-vít nói với ông Na-than: "Tôi đắc tội với ĐỨC CHÚA. (x2Sm, 12, 1-13).
Áp dụng vào đời sống của chúng ta, để có thể khôn ngoan giúp người khác ăn năn sám hối, chúng ta không phải chỉ dựa vào mình, dựa vào sự khôn ngoan của mình, mà điều quan trọng đó là phải dựa vào lời dạy của Chúa, phải được Chúa soi sáng hướng dẫn nữa, như câu chuyện của Nathan, chỉ cho Đavit thấy cái sai của mình.
Mà một cách cụ thể trong tin mừng Chúa dạy trong việc sửa lỗi anh em: “Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi. Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã chinh phục được người anh em. Còn nếu nó không chịu nghe, thì hãy đem theo một hay hai người nữa, để mọi công việc được giải quyết, căn cứ vào lời hai hoặc ba chứng nhân. Nếu nó không nghe họ, thì hãy đi thưa Hội Thánh. Nếu Hội Thánh mà nó cũng chẳng nghe, thì hãy kể nó như một người ngoại hay một người thu thuế.” (Mt 18, 15-17).
Chúng ta thấy nếu con người không có sự hướng dẫn của Chúa, không làm theo sự hướng dẫn của Chúa, thì sẽ làm theo ý riêng mình, mà ý riêng mình, thì làm sao có hiệu quả được, mặc dầu có hiệu quả đó, nhưng có hiệu quả nhất thời, thậm chí là không hiệu quả.
Chúng ta hãy nhớ lại câu chuyện của thánh Giuse và Đức Mẹ, chúng ta khen thánh Giuse là người công chính, không phải ông công chính mà ông còn là người cong chính hơn, công chính là người sống theo luật dạy, đáng lẽ khi biết Mẹ Maria mang thai ông phải báo, ông phải viết giấy ly dị, trao tận tay và đuổi ra khỏi nhà theo luật, nhưng ông đã định tâm bỏ mẹ Maria ra đi cách kín đáo.
Định tâm là làm theo ý mình, nhưng chúng ta nói hành vi đó là công chính hơn, thì đúng là công chính hơn, vì nhận phần lỗi về mình, phần thiệt về mình, nhưng công chính hơn này là làm theo ý của mình, nếu ông làm theo ý mình, thì kế hoạch của Thiên Chúa sẽ như thế nào, chỉ có hiệu quả nhất thời mà thôi.
Chính vì thế, mà Thiên chúa sai thiên thần báo mộng cho Giuse để ông thực thi thánh ý của Thiên Chúa, và ông đã thực thị thánh ý của Thiên Chúa, nên ông mới đúng là người công chính hơn thật sự, công chính hơn theo nghĩa không phải sống theo người đời, mà công chính hơn trước mặt Chúa, đó mới là điều đáng quý.
Xin cho mỗi người chúng ta hiểu được như vậy, để chúng ta biết ăn năn sám hối, biết kêu gọi người khác ăn năn sám hối, biết khôn ngoan sống theo thánh ý của Chúa, có như thế, việc làm của chúng ta mới có hiệu quả cáo như ý Chúa muốn. Amen.
Lm. Giuse Nguyễn Hồng Quân
Is 43,16-21: Đây Ta sẽ làm lại những cái mới và sẽ cho dân Ta nước uống.
Tv 126,3: Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan.
Pl 3,8-14: Vì Đức Ki tô, tôi đành chịu thua thiệt trong mọi sự, và tôi trở nên giống Người trong sự chết.
Ga 8,1-11: Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi.
Phản ứng của Chúa Giêsu trong bài Phúc âm hôm nay là một bài học tốt để sống ta trong xã hội. “Chúa Giêsu cúi xuống và lấy ngón tay viết trên đất” như thể Ngài có việc quan trọng hơn là phải nghe những người tố cáo “một người phụ nữ bị bắt quả tang ngoại tình”. Trước sự lên án của người khác đối với người phụ nữ tội lỗi, Chúa Giêsu vẫn bình an.
Hành động của Chúa Giêsu nhắc nhở rằng Chúa là Đấng duy nhất có thể phán xét và tất cả mọi người đều là tội nhân. Khi chiêm ngắm Chúa Giêsu giữa “mớ hỗn độn bẩn thỉu” của những kẻ tố cáo, ta có thể hiểu điều mà Thánh Thomas Aquinas đã chỉ ra: “Trong mọi công việc của Chúa, cả công lý và lòng thương xót đều kết hợp với nhau, và chúng hỗ trợ nhau. Công lý không thương xót là sự tàn ác, và lòng thương xót không có công lý là hủy hoại, hủy diệt.”
Ta hãy vui mừng khi biết chắc rằng Chúa đã tha thứ mọi tội lỗi qua sự ăn năn trong bí tích giải tội. Xin cho mọi người biết dùng lời của Chúa Giêsu trong những ngày Mùa Chay này: “Tôi không kết tội chị/anh”.
Thứ Hai - Tuần V Mùa Chay
Ga 8,1-11
Tôma Lê Duy Khang
Tin mừng Gioan Chúa Giêsu: “Nếu hạt lúa mì gieo xuống đất mà không chết đi thì nó vẫn trơ trọi một mình”. (Ga 12,24).
Trơ trọi này chúng ta hiểu theo ý nghĩa nào? Thưa chúng ta có thể hiểu theo nghĩa là mình ở một mình chẳng chơi với ai, hiểu theo nghĩa chẳng biết hy sinh cho ai, hiểu theo nghĩa chỉ nghĩ đến mình, sống vụ lợi ích kỷ….. thì những điều đó giống như hạt lúa mì gieo xuống đất không chết đi, chỉ trơ trọi một mình, mà khi đã trơ trọi một mình thì không còn ý nghĩa.
Và chúng ta đào sâu thêm 1 ý tưởng nữa đó là khi chúng ta làm điều sai lỗi với anh chị em của chúng ta, chúng ta đi xin lỗi người anh chị em mình, chúng ta xin lỗi vì điều gì? Có thể vì chúng ta sống điều Chúa dạy: khi dâng của lễ mà nhớ có gì bất hòa với anh chị em mình thì hãy bỏ của lễ đó đi làm hòa trước đã.
Rồi chúng ta xin lỗi vì chúng ta biết mình làm điều đó là điều sai.
Rồi chúng ta xin lỗi vì chúng ta sợ chúng ta chỉ trơ trọi có một mình.
Nên chúng ta thấy không phải khi con người của chúng ta không hy sinh, không làm việc tốt lành mới bị trơ trọi, mà khi con người của chúng ta phạm lỗi cũng đứng trơ trọi, các bài đọc lời chúa hôm nay cũng là một minh họa cho chúng ta.
Trong bài đọc 1 bà Susanna bị vu oan là phạm tội ngoại tình, nghĩa là bà bị bắt đứng trơ trọi 1 mình, mà cũng chẳng ai tin bà, nhưng nhờ Đaniel đã giúp bà giải oan, giúp bà không trơ trọi một mình.
Trong bài tin mừng là hình ảnh của người phụ nữ ngoại tình bị bắt quả tang, người phụ nữ này cũng bị đứng trơ trọi 1 mình, chờ người ta lên án xử tử, mà cụ thể là chờ Chúa Giêsu, nhưng chúa Giêsu đã cứu giúp bà, giúp cho bà gia nhập vào cộng đoàn, không chỉ Chúa Giêsu giúp cho người phụ nữ mà Chúa Giêsu giúp cho những người do thái thời bấy giờ thấy được tình trạng trơ trọi, tình trạng tội lỗi của mình, để thay đổi, để hòa nhập với cộng đoàn, không còn trơ trọi nữa.
Nên chúng ta thấy khi phạm tội, khi làm điều sai lỗi là chúng ta đang trơ trọi một mình, và chúng ta khó vượt qua được, nên chúng ta cần chạy đến với Chúa qua bí tích giải tội để Chúa giúp chúng ta không còn trơ trọi nữa, và mỗi người chúng ta cũng phải giúp cho anh chị em của mình, như Đaniel để giúp cho anh chị em của mình không còn cảm thấy trơ trọi, mà hòa nhập vào cộng đoàn anh em. Amen.
Lm. Giuse Nguyễn Hồng Quân
Đn 13,41c-62: Đây tôi phải chết, dù tôi không làm điều họ vu khống cho tôi.
Tv 23,4: Dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con.
Ga 8,12-20: Ta là sự sáng thế gian.
Câu chuyện về Susanna và các Trưởng lão là một phản chứng tuyệt vời đối với Phúc âm ngày nay. Susanna, một người vô tội, bị hai trưởng lão Do Thái buộc tội ngoại tình. Hai trưởng lão là thẩm phán cho tòa án Do Thái, diễn ra hàng ngày trong nhà của chồng Susanna. Trong chính nơi tăm tối nhất của cuộc đời mình, bà kêu cầu Chúa, cầu xin sự giúp đỡ, vì biết rằng Chúa của bà biết sự thật. Thiên Chúa đáp lại lời cầu nguyện của bà dưới hình thức của Đanien, một chàng trai trẻ nhân đức và kính sợ Chúa. Đanien vạch trần sự dối trá của các trưởng lão.
Đức Giêsu cũng vậy, dường như luôn bị những người Pharisêu “xét xử”. Với Susanna, cần có lời khai của hai người để kết tội bà. Để bảo vệ bản thân, Đức Giêsu táo bạo khi nói về mình với tư cách là Con của Thiên Chúa. Ngài tiếp tục gây ra căng thẳng giữa Ngài và các nhà lãnh đạo tôn giáo, nhưng Ngài luôn có Chúa ở cùng nên Ngài không lo sợ. Thánh vịnh 23 an ủi những người tin Chúa trong bóng tối cuộc đời: “Dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con”. Những lời an ủi khi bước đi trong bóng tối nhấn mạnh lời chứng của Đức Giêsu rằng Ngài là ánh sáng thế gian. Ngài là ánh sáng ban sự sống.
Thứ Ba - Tuần V Mùa Chay
Ga 8,21-30
Tôma Lê Duy Khang
Tin mừng hôm nay chúng ta chú ý đến một điểm mà Chúa Giêsu đã nói, đó là: “Đấng đã sai Ta đang ở với ta; Ngài không để Ta ở một mình, bởi vì Ta luôn luôn làm đẹp lòng Người”.
Khi nghe câu lời Chúa này chúng ta có cảm tưởng gì? chúng ta nghĩ vì Chúa Giêsu làm đẹp lòng Thiên Chúa Cha nên được Thiên Chúa Cha ở cùng, hiểu như vậy có đúng hay không? nếu hiểu như vậy, thì khi sống không đẹp lòng Chúa thì không có Chúa ở cùng.
Như vậy, phải hiểu như thế nào cho đúng?
Chúng ta biết, Thiên Chúa luôn ở cùng con người, bằng chứng trong tin mừng Gioan đã nói: “Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta” (Ga 1,14), hay có lần chính Chúa Giêsu đã nói: “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20), hay trong thánh vịnh: “Chúa ẩn mặt đi, chúng rụng rời kinh hãi; lấy sinh khí lại, là chúng tắt thở ngay, mà trở về cát bụi.” (Tv 104,29), hay trong sách ngôn sứ Isaia: “Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ.” (Is 49,15)
Khi phân tích ra như vậy, chúng ta thấy không phải khi con người làm đẹp lòng Chúa, nghĩa là con người đi bước trước, thì Chúa mới đến để ở cùng con người, mà Chúa luôn luôn ở cùng con người.
Nghĩa là Chúa vẫn hiện diện với con người, Ngài luôn luôn đi bước trước để đến với con người. Nhưng điều quan trọng là phần của con người, con người có chịu đón nhận Chúa hay không mà thôi, nói theo thánh Gioan: “Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận. Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa.” (Ga 1,10-12).
Hiểu được như vậy, chúng ta mới có thể hiểu được câu nói của Chúa Giêsu: “Đấng đã sai Ta đang ở với ta; Ngài không để ta ở một mình, bởi vì ta luôn luôn làm đẹp lòng Người”. đó là không phải khi Chúa Giêsu làm điều đẹp lòng Chúa Cha, Chúa Cha mới ở cùng Chúa Giêsu, nhưng Chúa Cha đã ở cùng Chúa Giêsu và cuộc đời Chúa Giêsu cũng có Chúa Cha, chính vì thế, mà Chúa Giêsu luôn luôn làm đẹp lòng Chúa Cha, luôn luôn thi hành thánh ý Chúa Cha trong cuộc đời của mình.
Cuộc đời của mỗi người chúng ta cũng thế, nếu cuộc đời của chúng ta là cuộc đời có Chúa hiện diện chắc chắn chúng ta cũng sẽ làm đẹp lòng Chúa như Chúa Giêsu, khi đã có Chúa trong cuộc đời của mình và làm đẹp lòng Chúa Cha.
Xin cho mỗi người chúng ta biết mở lòng ra để đón nhận Chúa, để sống đẹp lòng Chúa luôn luôn, để qua đời sống tốt lành của chúng ta mà người khác nhận ra sự hiện diện của Chúa trên cuộc đời này, mà tin vào Chúa. Amen.
Lm. Giuse Nguyễn Hồng Quân
Ds 21,4-9: Kẻ nào bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống.
Tv 102,2: Lạy Chúa, xin nhậm lời con cầu nguyện, và cho tiếng con kêu lên tới Chúa.
Ga 8,21-30: Khi nào các ông đưa Con Người lên cao, các ông sẽ nhận biết Ta là ai.
Trong sa mạc, Chúa vẫn trung thành. Người đã dẫn dắt dân thoát khỏi kiếp nô lệ ở Ai Cập và có lòng trắc ẩn đối với họ trong cuộc hành trình trên sa mạc. Rắn đã cắn họ. Chúa hướng dẫn Môsê bảo vệ họ khỏi sự cắn xé mà họ đang trải qua. Con rắn bằng đồng đại diện cho quyền năng của Chúa trên tất cả các loài rắn.
Ngày nay, những người trong Phúc âm than vãn với Chúa Giêsu - về cơ bản vì họ không nhìn thấy Ngài. Chúa Giêsu mặc khải Ngài là ai. Chúa Giêsu là Thiên Chúa ở với, ở giữa, và là sự cứu rỗi của Chúa dành cho nhân loại. Đấng Kitô chịu đóng đinh là dấu hiệu tuyệt vời và rõ ràng về tình yêu của Chúa Cha đối với nhân loại sa ngã. Cánh tay rộng mở của Ngài giang ra giữa Trời và Đất vạch rõ dấu hiệu không thể xóa nhòa về tình bạn của Ngài với ta. Khi nhìn thấy Ngài như thế này, được nâng lên trước cái nhìn xấu xa của ta, ta sẽ nhận ra rằng Ngài hiện hữu (x. Ga 8,28), và rồi ta cũng sẽ tin vào Ngài. Mong ước của Mùa Chay là nhận biết rằng Chúa Giêsu được nâng lên để ta có thể được nâng lên vì người khác và vì sự cứu rỗi viên mãn của ta.
Thứ Tư - Tuần V Mùa Chay
Ga 8,31-42
Tôma Lê Duy Khang
Tin mừng hôm nay trình bày cho chúng ta thấy việc Chúa Giêsu nói với những người do thái tin người rằng: “Nếu các ông ở lại trong lời của tôi, thì các ông thật là môn đệ tôi; các ông sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải phóng các ông." Họ đáp: "Chúng tôi là dòng dõi ông Áp-ra-ham. Chúng tôi không hề làm nô lệ cho ai bao giờ. Làm sao ông lại nói: các ông sẽ được tự do? "
Nghĩa là Chúa Giêsu muốn cho biết sứ vụ của Chúa là giải thoát con người khỏi tội lỗi, nhưng người do thái không hiểu, họ chỉ hiểu là họ đã có tự do về mặt thể lý, không cần ai phải giải thoát cả.
Với lý luận của người do thái, thì chúng ta thấy, khi họ hiểu như vậy là họ cũng đang bị cầm tù trong tư tưởng của họ, họ không thoát ra khỏi tư tưởng tự tôn dân tộc của mình: "Chúng tôi là dòng dõi ông Áp-ra-ham. Chúng tôi không hề làm nô lệ cho ai bao giờ. Làm sao ông lại nói: các ông sẽ được tự do?", và nếu không thoát ra được thì sẽ dẫn đến bờ vực thẳm mà thôi.
Trong kinh thánh có kể cho chúng ta câu chuyện như thế này: Chúa Giêsu và các môn đệ sang tới bờ bên kia Biển Hồ, vùng đất của dân Ghê-ra-sa. Người vừa ra khỏi thuyền, thì từ đám mồ mả, có một kẻ bị thần ô uế ám liền ra đón Người.
Anh này thường sống trong đám mồ mả và không ai có thể trói anh ta lại được, dầu phải dùng đến cả xiềng xích. Thật vậy, nhiều lần anh bị gông cùm và bị xiềng xích, nhưng anh đã bẻ gãy xiềng xích, và đập tan gông cùm. Và không ai có thể kiềm chế anh được. Suốt đêm ngày, anh ta cứ ở trong đám mồ mả và trên núi đồi, tru tréo và lấy đá đập vào mình.
Thấy Chúa Giêsu tự đàng xa, anh ta chạy đến bái lạy Người và kêu lớn tiếng rằng: "Lạy ông Giêsu, Con Thiên Chúa Tối Cao, chuyện tôi can gì đến ông? Nhân danh Thiên Chúa, tôi van ông đừng hành hạ tôi! " Thật vậy, Chúa Giêsu đã bảo nó: "Thần ô uế kia, xuất khỏi người này! " Người hỏi nó: "Tên ngươi là gì? " Nó thưa: "Tên tôi là đạo binh, vì chúng tôi đông lắm." Nó khẩn khoản nài xin Người đừng đuổi chúng ra khỏi vùng ấy. Ở đó có một bầy heo rất đông đang ăn bên sườn núi. Đám thần ô uế nài xin Người rằng: "Xin sai chúng tôi đến nhập vào những con heo kia." Người cho phép. Chúng xuất khỏi người đó và nhập vào bầy heo. Cả bầy heo -chừng hai ngàn con- từ trên sườn núi lao xuống biển và chết ngộp dưới đó.
Các kẻ chăn heo bỏ chạy, loan tin trong thành và thôn xóm. Thiên hạ đến xem việc gì đã xảy ra. Họ đến cùng Chúa Giêsu và thấy kẻ bị quỷ ám ngồi đó, ăn mặc hẳn hoi và trí khôn tỉnh táo -chính người này đã bị đạo binh quỷ nhập vào. Họ phát sợ. Những người chứng kiến đã kể lại cho họ nghe việc đã xảy ra thế nào cho người bị quỷ ám và chuyện bầy heo. Bấy giờ họ lên tiếng nài xin Người rời khỏi vùng đất của họ.” (Mc 5, 1-17).
Chúng ta thấy ma quỷ vẫn là ma quỷ không biết ăn năn sám hối, không biết xin Chúa tha tội, mà chỉ biết xin Chúa nhập vào bầy heo, rồi cả đàn heo lao đầu xuống biển và chết ngộp. và người dân ở đây cũng thế, cũng không thoát ra khỏi tư tưởng ham mê vật chất, nên khi thấy sự việc xảy ra như vậy, đáng lẽ phải sám hối trở về với Chúa, đằng này xin Chúa đi khỏi nơi họ ở, vì Chúa làm thiệt hại kinh tế của họ.
Xin cho mỗi người chúng ta biết đến với Chúa không phải để xin ơn của Chúa, mà chúng ta hãy đến với Chúa để xin Chúa giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi, có như thế ơn của Chúa mới tuôn đổ tràn đầy trên chúng ta. Amen.
Lm. Giuse Nguyễn Hồng Quân
Đn 3,14-20.91-92.95: Người đã sai thiên thần của Người đến giải thoát các tôi tớ Người.
Đn 3,52: Chúa đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời.
Ga 8,31-42: Nếu Chúa Con giải thoát các ngươi, thì các ngươi thực sự được tự do.
Vào giữa tuần thứ Năm Mùa Chay, ta được xác nhận rằng Chúa Giêsu đã được Đức Chúa Cha, Đức Chúa của Abraham, Môsê, Êlia và tất cả các tiên tri sai đến. Chúa Giêsu đã được sai đến như một Giao ước mới. Chúa Giêsu không chỉ được Thiên Chúa sai đến, mà Ngài thực sự là Con của Thiên Chúa. Ân sủng này được ứng nghiệm khi cảm nghiệm Chúa Giêsu Phục Sinh.
Mùa Chay cho ta cơ hội để nhìn vào cuộc sống và thế giới cần được lấp đầy bởi lòng thương xót, lòng trắc ẩn, sự tha thứ và tình yêu của Thiên Chúa. Mọi người vẫn bị giết vì niềm tin tôn giáo và sự khác biệt về văn hóa và chủng tộc. Con người còn khổ đau vì chính tội lỗi của bản thân nữa.
Ta được nhắc là Chúa Giêsu luôn yêu thương và ban sự sống sung mãn và giải thoát ta! Ta tự do sống thông điệp của Ngài với lòng trung thành. Tự do để được lấp đầy với ngọn lửa đam mê từ Tình yêu của Ngài. Tự do tham gia với nhiệt huyết không ngừng bùng cháy ngọn lửa công lý và xây dựng hòa bình. Sự tự do như vậy có thể được tưởng tượng trong việc khiêu vũ với một thiên thần giữa những ngọn lửa không gây hại người công chính như sách Đanien tường thuật. Chúa đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời.
Thứ Năm - Tuần V Mùa Chay
Ga 8,51-59
Tôma Lê Duy Khang
Nghe tin mừng hôm nay chúng ta thường có thái độ phê phán người do thái thời bấy giờ, bởi không tin nhận Chúa Giêsu. Và có thể chúng ta sẽ biện luận nếu là tôi lúc đó thì tôi sẽ tin Chúa liền.
Nhưng bên cạnh thái độ đó, chúng ta cần phải có thái độ cảm thông, nếu chúng ta đọc kỹ tin mừng chúng ta thấy cuộc đối thoại của họ và Chúa Giêsu không cùng tần số, hai tần số hoàn toàn khác nhau, nếu đặt trường hợp là mỗi người chúng ta thì chúng ta cũng sẽ như vậy thôi, bởi trong cuộc đời của chúng ta, thú thật chúng ta cũng có nhiều bức màn che phủ để chúng ta không nhận ra Chúa.
Còn việc chúng ta kết luận nếu là tôi thì tôi sẽ tin Chúa, là vì chúng ta đứng ở góc nhìn của mình để lên án người khác mà thôi.
Và chúng ta thấy, thái độ đứng ở góc độ của mình để lên án người khác là thái độ rất nguy hiểm. Mẫu gương của những người do thái là một ví dụ điển hình, đó là khi họ đứng ở góc độ của họ, thì họ nói Chúa Giêsu là bị quỷ ám, rồi sau đó họ đi đến thái độ để ném đá Chúa Giêsu.
Nên trong cuộc đời này chúng ta được mời gọi thoát ra khỏi thái độ đứng ở góc độ của mình để mà kết án người khác.
Trong Ratio 2016 về đào tạo các linh mục, có phần trích dẫn lời của Đức Thánh Cha Phanxico nói về vị trí của người mục tử như thế này: “Có khi mục tử phải đi trước để dẫn đường; khi khác, phải đi giữa, để biết điều gì đang xảy ra; rất nhiều khi phải đi sau, để giúp những con chiên cuối, nhưng cũng để đi theo sự đánh hơi của những con chiên biết đồng cỏ tươi tốt ở đâu”.
Thiết nghĩ, không chỉ có người mục tử mới được mời gọi đứng ở những vị trí đi đầu, đi giữa, đi sau, mà mỗi người trong chúng ta ai cũng được mời gọi đứng ở những vị trí như thế, để có cái nhìn toàn diện hơn về người anh em mình, để hiểu người anh em mình, cũng như khi mình đứng ở những vị trí như thế để mình hiểu mình nhiều hơn, có như thế chúng ta mới có thể đồng tâm nhất trí trong mọi công việc, nhất là trong việc canh tân đời sống giáo hội.
Xin Chúa ban Chúa Thánh Thần cho chúng ta, để Ngài đến soi lòng mở trí, biến đổi tâm hồn của mỗi người chúng ta, để chúng ta đừng vội kết án, cũng như đừng kết án, nhưng biết khiêm tốn và mềm mỏng để đón nhận những mạc khải từ Chúa, cũng như từ những dụng cụ mà Chúa gởi đến cho chúng ta, để chúng ta tin vào Chúa mà có được sự sống đời đời. Amen.
Lm. Giuse Nguyễn Hồng Quân
St 17,3-9: Ngươi sẽ làm tổ phụ nhiều dân tộc.
Tv 105,8a: Tới muôn đời Chúa vẫn nhớ lời minh ước.
Ga 8,51-59: Cha các ngươi là Abraham đã hân hoan vì nghĩ sẽ được thấy ngày của Ta.
Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đang nói chuyện với một nhóm người Do Thái bắt đầu khiêu khích và chất vấn Ngài. Đức Giêsu tiết lộ một điều mà họ chưa biết: Abraham trông đợi và vui mừng khi thấy ngày của Đức Giêsu. Họ đều biết Thiên Chúa đã hứa với Abraham bằng cách bảo đảm với ông những lời hứa quan trọng về sự cứu rỗi cho dòng dõi của ông. Tuy nhiên, họ không biết ánh sáng của Thiên Chúa có thể đến được bao xa. Đức Kitô tiết lộ cho họ rằng Abraham đã nhìn thấy Đấng Mêsia trong ngày của Giavê, mà Đức Giêsu gọi là ngày của Ta.
Đức Giêsu Kitô nói với cả nhóm rằng họ sẽ không bao giờ thấy cái chết nếu giữ lời Ngài. Nhưng tất cả những gì họ biết, về tất cả các nhà tiên tri và các nhà lãnh đạo tâm linh đã đến trước đó, là cái chết trần thế. Họ không thể hình dung được cuộc sống vĩnh cửu kéo dài bên ngoài cuộc sống trần thế. Họ không thể nghĩ rằng người thanh niên này đã ‘thấy’ Abraham đã chết từ lâu hay ‘biết’ Thiên Chúa của họ. Trong sự mặc khải này, Đức Giêsu xuất hiện như là có sự hiện diện vĩnh cửu của Thiên Chúa. Nhưng, trên hết, Ngài xuất hiện như một người đã tồn tại và hiện diện trong thời của Abraham. Qua Đức Giêsu, Thiên Chúa giữ giao ước của Người mãi mãi.
Thứ Sáu - Tuần V Mùa Chay
Ga 10,31-42
Tôma Lê Duy Khang
Tin mừng hôm nay trình bày cho chúng ta thấy có những người không tin vào Chúa Giêsu và lượm đá ném Chúa Giêsu, vì họ cho rằng Chúa Giêsu nói lộng ngôn: “Chúng tôi ném đá ông, không phải vì một việc tốt đẹp, nhưng vì một lời nói phạm thượng: ông là người phàm mà lại tự cho mình là Thiên Chúa."
Nhưng bên cạnh đó, tin mừng cũng trình bày cho chúng ta thấy lại có những người tin vào Chúa Giêsu, vì họ cho rằng: “Ông Gio-an đã không làm một dấu lạ nào cả, nhưng mọi điều ông ấy nói về người này đều đúng." Ở đó, nhiều người đã tin vào Đức Giê-su.”.
Hai hình ảnh đó cho chúng ta thấy lòng người là khó dò khó đoán nhất, nên ông bà ta thường nói: “Dò sông dò biển dễ dò, đố ai lấy thước mà đo lòng người”.
Lý thuyết thông thường là như vậy, nhưng có bao giờ chúng ta nghĩ là lòng người có thể đo được hay không? Thưa được, tuy lòng mỗi người có khác nhau, nhưng có một điểm chung là con người luôn nghĩ điều lợi về mình, đó là điểm chung của con người mà chúng ta có thể đo được.
Chuyện xưa kể rằng tại một ngôi làng, một nhóm mười người tổ chức cuộc gặp mặt đón xuân mừng năm mới.
Một vị lên tiếng, “Tôi đề nghị chúng ta mỗi người góp tay nhau để vui xuân bằng cách mỗi người mang theo rượu của mình và đổ chung vào một chum lớn để cùng chia vui trong dịp xuân.”
Mọi người đồng ý và vui vẻ ra về.
Khi về đến nhà, một người trong nhóm cảm thấy hối tiếc vì mình đã nhận lời mang theo bầu rượu quí lâu năm của mình để nạp chung vào nhóm.
Vốn không muốn chia sẻ bầu rượu của mình và cũng tiếc tiền để mua rượu khác cho bữa tiệc, anh tỏ vẻ buồn rầu.
Nhưng sau một hồi suy nghĩ, anh ta quyết định. “Ta sẽ đổ nước lạnh vào bầu rượu. Khi đến dự tiệc, ta sẽ đi thẳng vào chum lớn và đổ “rượu” của ta vào đó. Chín ông kia sẽ mang rượu của họ đến, như thế “rượu” của ta sẽ hoà vào rượu của họ, thì chắc chắn sẽ không ai biết được, vì một bầu nước của ta sẽ bị lấn át bởi chín bầu rượu kia. Và như thế ta vẫn có rượu uống như mọi người mà không mất bầu rượu quí này.”
Đến ngày dự tiệc, anh ta mang “rượu” của mình và làm đúng như kế hoạch.
Trời tối, chum lớn, từng người một đem rượu của mình đổ vào chum và quay về chỗ ngồi để chờ khai mạc tiệc vui.
Sau khi mọi người đã vào bàn tiệc, ông chủ nhà liền sai anh hầu bàn rót rượu mời từng vị khách.
Ai ai cũng háo hức để thưởng thức rượu ngon.
Bắt đầu từ chủ nhà đến các vị khách, mỗi người đều nhắm rượu.
Đôi mắt mỗi người nhìn chằm chằm vào nhau với sự nghi kỵ, xoi mói, hổ thẹn, nhưng miệng vẫn hết lời khen rượu ngon hảo hạng.
Nhưng thực ra, thức uống mà họ cầm trên tay chỉ toàn là nước lạnh, vì ai ai cũng có suy nghĩ toan tính như anh kia.
Hiểu được như thế, nên chúng ta mới thấy, mới hiểu được lời Chúa dạy: “ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy.” (Lc 9,24).
Và khi hiểu được như thế, chúng ta mới hiểu được tại sao theo cái nhìn lịch sử thì Chúa Giêsu phải chết, bởi vì lợi ích của người do thái thời bấy giờ.
Xin cho mỗi người chúng ta biết hy sinh ý riêng của mình để sống theo ý muốn của Chúa, để cuộc đời của mỗi người chúng ta được hưởng nếm được những hạnh phúc mà Chúa sẽ ban cho chúng ta ở đời này cũng như ở đời sau. Amen.
Lm. Giuse Nguyễn Hồng Quân
Gr 20,10-13: Chúa ở cùng tôi như người lính chiến hùng dũng.
Tv 18,7: Trong cơn đại hoạ, tôi đã cầu khẩn Chúa, tôi đã kêu xin Thiên Chúa của tôi.
Ga 10,31-42: Họ tìm bắt Người, nhưng Người thoát khỏi tay họ.
Thánh vịnh cho thấy chiều sâu của một tiếng kêu cứu cổ xưa, được củng cố bởi sự bảo đảm rằng Thiên Chúa đang lắng nghe và đang làm việc. Thiên Chúa luôn tốt lành, vì đó là bản chất của Người. Bài giảng của tiên tri Giêrêmia cho thấy tác động xuyên tạc của sự dữ đối với lòng người. Tội lỗi làm đen tâm trí và làm rối loạn các giác quan, thậm chí khiến ta cảm thấy hài lòng khi tìm thấy những khuyết điểm và sai sót ở những người tốt khác. Phúc âm cho biết Chúa Giêsu đang xảy ra xung đột với dân của ngài. Họ có thể cảm nghiệm được điều tốt đẹp từ sự hiện diện của Chúa và những kỳ công của Ngài được thực hiện, nhưng họ không thể chấp nhận sự thật mà Ngài đưa ra.
Chúa Giêsu cố gắng bày tỏ sự thật cho người Do Thái, nhưng họ coi Ngài là kẻ phạm thượng và muốn ném đá Ngài. Chúa Giêsu đưa ra những lý lẽ có thể chấp nhận được nhưng vô ích. Ngài sẽ chết vì Ngài đang nói sự thật về chính Ngài bởi vì Ngài trung thành với chính Ngài, danh tính và sứ mệnh của mình. Là một nhà tiên tri, Ngài yêu cầu về sự hoán cải và sẽ bị từ chối, một khuôn mặt mới của Thiên Chúa và sẽ bị phỉ nhổ, một tình huynh đệ mới, và Ngài sẽ bị từ bỏ.
Thứ Bảy - Tuần V Mùa Chay
Ga 11,45-56
Tôma Lê Duy Khang
Tin mừng hôm nay trình bày cho chúng ta thấy việc các thượng tế và các người biệt phái tìm cách loại trừ Chúa Giêsu, và Caipha là thượng tế năm đó đã nói tiên tri: “Các ông không hiểu gì cả, các ông cũng chẳng nghĩ đến điều lợi cho các ông là: thà một người chết thay cho dân còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt."
Kinh thánh ghi lại: “Điều đó, ông không tự mình nói ra, nhưng vì ông là thượng tế năm ấy, nên đã nói tiên tri là Chúa Giêsu sắp phải chết thay cho dân, và không chỉ thay cho dân mà thôi, nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối.”
Chúng ta để ý đến lời kinh thánh nói: “Chúa Giêsu sắp phải chết thay cho dân, và không chỉ thay cho dân mà thôi, nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối.”
Tại sao cái chết của Chúa Giêsu là để quy tụ Con Cái Thiên Chúa đang tản mắc khắp nơi về một mối.
Thông thường chúng ta nghĩ là tiền bạc, danh vọng, địa vị, những thú vui mới quy tụ con người ta lại, nhưng thật ra những điều đó có quy tụ con người được hay không? Thưa cũng được, nhưng trong thời gian ngắn mà thôi, bởi vì không có gì là trường tồn vĩnh cửu cả.
Chúng ta hãy nhớ lại khi dân chúng trầm trồ về đền thờ Giêrusalem vì đền thờ được trang hoàng bằng những viên đá đẹp và những đồ dâng cúng, Chúa Giêsu bảo: "Những gì anh em đang chiêm ngưỡng đó sẽ có ngày bị tàn phá hết, không còn tảng đá nào trên tảng đá nào." (Lc 21,5-6).
Bên cạnh lối suy tư của sự vô thường đó, chúng ta được mời gọi suy tư sâu hơn một chút nữa.
Chúng ta biết, ông Dacaria là một trong số các tiên tri thời hậu lưu đày Babilon, và ông cùng với tiên tri Khácgai cổ võ dân Do Thái hoàn thành việc xây lại Đền Thờ Giêrusalem thứ hai. (Dcr 2,5-9.14-15a).
Sau đó, tiên tri Dacaria loan báo về ngày mà muôn dân sẽ tụ về Giêrusalem vì nhận biết Thiên Chúa của Israel là Thiên Chúa chân thật. Nghĩa là đối với họ chỉ có Đức Chúa của Israel là Thiên Chúa của toàn thể nhân loại. Nên một ngày nào đó muôn dân sẽ quy tụ về bên Đức Chúa để thờ phượng Ngài, và nơi họ phải quy tụ về là Giêrusalem, thủ đô của dân Israel. (Dcr 8,20-23)
Còn đối với Chúa Giêsu thì đi con đường khác. Ngài quy tụ bằng thập giá. Ngài cương quyết đi về Giêrusalem, không phải theo cách nghĩ về vinh quang như dân Israel, nhưng để đi vào con đường thập giá, con đường của sự tự hạ và là lòng yêu thương.
Khi Chúa Giêsu cương quyết lên Giêrusalem, Ngài đi ngang qua Samari, dân thành Samaria không tiếp đón Chúa, thấy vậy ông Giacôbê và Gioan phản ứng lại cũng với tinh thần thù hận và loại trừ: xin Thầy cho lửa trời giết chết dân Samaria! Nhưng Chúa Giêsu quay lại quở mắng các ông. Rồi Thầy trò đi sang làng khác. (x. Lc 9, 51-54).
Lm. Giuse Nguyễn Hồng Quân
Ed 37,21-28: Ta sẽ làm cho chúng trở nên dân tộc duy nhất.
Gr 31,10: Chúa sẽ gìn giữ chúng ta như mục tử chăn dắt đoàn chiên mình.
Ga 11,45-56: Để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mát về một mối.
Trên đường lên Giêrusalem, Chúa Giêsu biết Ngài đang bị bắt bớ, sách nhiễu và bị kết án vì điều khó tin nhất và mới nhất mà Ngài mặc khải giữa những người đang theo dõi Ngài. Ngài tiết lộ sứ mệnh của mình là tập hợp những con cái Chúa bị phân tán về một mối bằng cách làm cho mọi người trở thành dân của Chúa. Sứ mệnh của Chúa Giêsu cho chúng ta thấy sứ mệnh được đề cập trong sách tiên tri Êdêkiel.
Những lời tiêu cực của Caipha, “thà một người chết thay cho dân, còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt”, sẽ được Chúa Giêsu đảm nhận một cách tích cực trong công cuộc cứu chuộc chúng ta. Chúa Giêsu chết trên Thập giá vì tình yêu dành cho nhân loại! Ngài chết để làm cho kế hoạch của Chúa Cha được chứng thực, “nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa” bằng chính tình yêu được biểu lộ nơi Đức Giêsu. Thiên Chúa Cha đã làm một điều đáng chú ý: biến câu nói tiêu cực của Caipha thành một công việc của tình yêu cứu chuộc bởi vì đối với Chúa, mỗi người đều đáng giá đổ máu bởi Chúa Giêsu Kitô!
Tiếp tục sứ mệnh của Chúa Kitô, ta được Chúa yêu cầu tập hợp các con cái Chúa đang tản mác khắp nơi. Để rồi, Chúa sẽ gìn giữ chúng ta như mục tử chăn dắt đoàn chiên mình.