
GỢI Ý SUY NIỆM LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT 14 THƯỜNG NIÊN năm B
Lời Chúa:
Mc 6,1-6
Chúa Giêsu rảo khắp nơi để rao giảng Tin Mừng. Và khi có dịp, Ngài ghé lại Nadaret, quê hương của Ngài để rao giảng cho đồng hương của Ngài.
Đến ngày sabat, Ngài vào Hội đường và giảng dạy. Theo tục lệ Do Thái, người ta thường mời những người có uy tín hay giỏi về Kinh Thánh giảng dạy. Nhiều người nghe đều thán phục và ngạc nhiên vì lời giảng của Ngài, vì “Ngài giảng như Đấng có uy quyền”. Họ ngạc nhiên vì chưa từng có ai giảng súc tích và lưu loát như thế. Nhưng sau đó họ lại đặt vấn đề: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta khôn ngoan như thế nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì? Ông ta là ai? Ông ta không phải là bác thợ mộc, con bà Maria và anh em của ông là các ông Giacôbê…, và thánh Maccô kết luận:“họ vấp ngã vì Ngài”
Các thánh sử khác không đề cập đến bà Maria, nhưng thánh Maccô lại nhấn mạnh đến điều này, ngụ ý cho thấy dân Nadaret muốn khinh dễ và nhục mạ Ngài khi nói rằng Ngài là con bà Maria. Họ bươi móc nguồn gốc của Ngài. Nếu chúng ta không hiểu tập tục Do Thái, chúng ta không thể hiểu tại sao họ không nói là con ông Giuse mà lại nói là con bà Maria.
Theo tục lệ Do Thái, khi hai người đã được đính hôn với nhau hợp pháp thì có quyền thân mật với nhau như vợ chồng, nếu có con trước thì đến ngày cưới người ta vẫn tổ chức đám cưới rình rang như mọi người. Nhưng điều này rất khó được chấp nhận. Những gia đình đạo đức không ai cho phép như thế.
Maria, khi về với Giuse đã mang thai hơn ba tháng. Họ nhắc đến con bà Maria là để nói rằng Ngài không danh giá gì.
Tại sao từ thán phục họ biến sang khinh miệt?
Điều này dễ hiểu thôi. Trong xã hội nào cũng có những hạng người ganh ghét, không chấp nhận người ta hơn mình. Bệnh ganh ghét này là một bệnh khó chữa. Trong cộng đoàn giáo xứ hay dòng tu, ngay cả trong một gia đình cũng thường xảy ra những trường hợp ganh tị như thế.
Cơn bệnh này không bao giờ lành khi người bị ganh tị không bị hạ bệ. Cơn bệnh này có thể kéo dài hàng chục năm…
Nguồn gốc là kiêu căng. Và người ganh tị lại là những người kém tài mà lại muốn vượt trội và muốn được ngợi khen ca tụng.
Chúa Giêsu là nạn nhân của căn bênh trầm kha này và hiệu quả là Ngài bị như tê liệt, không thể làm phép lạ tại quê hương mình, trừ một vài người được chữa lành. Thượng Tế và kinh sư Do Thái đã mang căn bệnh này và họ đã giết Ngài.
Ngài đòi điều kiện tiên quyết để làm phép lạ, cứu giúp những người đang gặp cảnh khốn cùng là lòng tin. Nhiều lần, các thánh sử đã ghi lại câu nói: “Lòng tin của con đã cứu lấy con”. “Con tin thế nào thì được thế ấy”.
Vì kiêu căng và tự ái, không dám nhìn sự thật của chính mình, dân làng Nadaret đã đánh mất cơ hội hưởng nhờ những hồng ân Chúa ban. Thái độ từ chối này làm cho Chúa Giêsu đau lòng: Ngài ngạc nhiên vì họ không tin.
Đứng trước Lời Chúa, dù dưới hình thức nào, dù qua một người nào, Chúa đòi hỏi chúng ta một thái độ chấp nhận thành tâm. Nếu Chúa Giêsu hiện diện giữa chúng ta hôm nay như giữa dân Nadaret, chắc Ngài cũng phải ngạc nhiên vì thái độ của nhiều người trong chúng ta, vì tuy không hẳn là từ chối, chúng ta cũng nghe lơ là, cho xong việc. Ra khỏi nhà thờ là quên hết những gì đã nghe. Vì thế mà Lời Chúa không đâm rễ sâu vào tâm trí chúng ta.
Chúng ta thích nghe những gì khác hơn là Lời Chúa. Cũng nên nhớ rằng, Lời Chúa là chính Chúa được trao ban cho chúng ta qua Giáo Hội. Chúng ta không đón nhận, chúng ta sẽ không bao giờ tìm được bình an, vì chỉ có Chúa mới là sự bình an cho chúng ta.
Thế giới hôm nay đã từ chối Chúa, xem Ngài như không cần thiết. Hậu quả là chiến tranh, tội ác, khủng bố, bạo lực bao trùm cuộc sống con người hôm nay. Nền văn minh sự chết tràn ngập thế giới, và nhiều người đang oi ngợp không lối thoát.
Nhiều tâm hồn thiện chí đã kêu gào: “hãy chữa lành thế giới”. Nhưng phương thuốc nào sẽ hữu hiệu? Chỉ có một danh duy nhất dưới gầm trời này có thể cứu vớt được thế giới: Giêsu Nadaret. Chỉ có Ngài mà thôi! Tất cả những nỗ lực của con người chỉ là bọt bèo, mong manh.
Chúng ta vững tin vào Ngài. Dù không cứu được thế giới, chúng ta cũng có thể đem lại bình an cho những người quanh ta đang tìm ánh sáng. Tin Chúa, chúng ta không tin vào một lý thuyết mà tin vào một con người, một Thiên Chúa làm người. Ngài là Thiên Chúa mặc lấy xác phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Dân Nadaret đã chối từ vì họ mù quáng, còn chúng ta? Chúng ta có sáng suốt hơn họ không?
Đức tin là một hồng ân, chúng ta có quyền lãnh nhận nhưng cũng có quyền từ chối. Thiên Chúa không áp đặt chúng ta, Ngài tôn trọng tự do của chúng ta. Chúng ta có quyền chọn Ngài hay từ chối Ngài.
Hãy mở cửa cho Chúa. Ngài luôn mời gọi. Ngài mong ước chúng ta nghe tiếng Ngài để được sống. Abraham đã nghe tiếng Chúa gọi ông ra đi. Ông không biết ra đi sẽ đem lại cho ông điều gì, nhưng ông tin rằng Đấng kêu gọi ông vẫn lớn hơn ông. Ông vững tin và ra đi, ra đi trong vô định của Thiên Chúa. Ông trao trọn cuộc sống của ông cho Đấng đã gọi ông. Tin là như thế, là nghe theo tiếng gọi của Đấng mà chúng ta nhìn nhận là Đấng nắm quyền sinh tử trên chúng ta, trao trọn cuộc sống chúng ta trong tay Ngài. Dân Nadaret đã biết Abraham là tổ phụ của họ, và đã biết rõ cuộc sống của ông như thế nào, nhưng họ không có can đảm để chấp nhận tiếng gọi của Thiên Chúa qua con người của Giêsu Nadaret.
Tin cũng là tìm Chúa không thôi cho đến khi tìm được, và xác tín rằng chúng ta sẽ tìm được. Chúng ta không nắm Chúa trong bàn tay. Ngài luôn vượt xa, thật xa, những gì chúng ta biết hay hiểu về Ngài. Chúa vẫn vượt xa tầm nhìn của chúng ta. Hãy tìm thì sẽ gặp.
Tin cũng là trở nên như trẻ nhỏ, nhìn mọi sự với cặp mắt ngây thơ như trẻ nhỏ, hoàn toàn tín thác. Chúa Giêsu đòi buộc chúng ta tin như thế, tức là vô điều kiện, vì Ngài vẫn ở trên chúng ta, và nhờ Ngài mà chúng ta được sống.
Tin là xác tín rằng Chúa vẫn ở với tôi trong mọi nơi, mọi lúc, trong mọi tình huống của cuộc sống.
Dân Nadaret không thể nghĩ rằng Thiên Chúa có thể sử dụng một con người như ông Giêsu, một anh thợ mộc nghèo, để mang đến cho họ những hồng ân cao quí. Họ tưởng rằng Thiên Chúa quá cao cả không thể chú ý đến một con người có lý lịch không mấy tốt đẹp như ông Giêsu, con bà Maria. Họ quên rằng, trong lịch sử của họ, những người Chúa chọn để làm những công việc lớn lao chỉ là những người vô danh, rất đơn thường như Đavít, một tên chăn chiên, tiên tri Amốt là một người tỉa cây vả…
Họ mù quáng vì ganh tị. Họ đã đánh mất cơ hội đón nhận nhiều hồng ân. Họ không thể ngờ rằng, ông Giêsu đó chính là hồng ân tuyệt hảo Chúa dành cho họ. Thay vì hãnh diện vì người đồng hương của mình, họ lại từ chối Ngài.
Chúng ta có nghĩ rằng, mỗi người chúng ta có thể được sử dụng để đem niềm vui và ơn cứu độ cho người khác không? Hãy để cho Chúa có quyền trên chúng ta. Hãy khiêm tốn lãnh nhận những gì Chúa trao ban qua những người hay hình thức Chúa muốn, đừng đòi buộc Thiên Chúa theo ý chúng ta.
Nơi bàn thờ này, chúng ta sẽ gặp Chúa Giêsu Nadaret, cũng là Chúa Giêsu mà ngày xưa dân Nadaret đã từ chối không đón nhận. Chúng ta hãy nhìn Ngài với tất cả niềm tin và lòng biết ơn vì Ngài đã thân hành đến với chúng ta và tự ban mình cho chúng ta. Còn gì êm đềm hơn là thấy Thiên Chúa của chúng ta trở thành bánh nuôi sống chúng ta? Ngài chính là kho tàng tình yêu từ trời ban xuống cho chúng ta. Mặc cho ai từ chối, chúng ta vẫn tin.
Linh mục Trầm Phúc