Các Bài Suy niệm Lễ Th. Phêrô & Th. Phaolô Tông Đồ
Lời Chúa: Cv. 12, 1-11; 2Tm. 4, 6-8.17-18; Mt. 16, 13-19
MỤC LỤC
- Anh Là Tảng Đá. 5
- Thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ. 8
- Chúa Giêsu là ai đối với tôi?. 11
- Thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ. 18
- Thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ. 22
- Câu hỏi: “Đức Giêsu là ai?”. 27
- Thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ. 31
- Thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ. 35
- Hai con người 42
- Một đức tin. 44
- Đức tin. 49
- Hai cuộc đổi đời 52
- Thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ. 55
- Thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ. 59
- Thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ. 63
- Đứng dậy nhờ ơn Chúa. 67
- “ST” nghĩa là sự thánh thiện. 70
- Phêrô Tông đồ. 74
- “Chìa Khóa Nước Trời”. 83
- Tranh cãi thế nào?. 86
- Thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ. 89
- Thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ. 94
- Phêrô và Phaolô. 99
- Thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ. 103
- Thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ. 106
- Thánh Phêrô và Phaolô tông đồ. 109
- Thầy biết con yêu mến Thầy. 115
- Hai đá tảng và trụ cột của Giáo hội 121
- “Anh là Phêrô…… 125
- Xây dựng Giáo Hội 130
- Thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô. 133
- Thánh Phêrô. 138
- Khúc rẽ quyết định. 141
- Hai con người, một con đường. 144
- Thánh Phaolô Tông Đồ. 148
- Thánh Phaolô. 152
- Thánh Phêrô Tông Đồ. 155
- Thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ. 161
- Gà gáy và ngã ngựa. 164
- Thánh Phêrô và Thánh Phaolô Tông Đồ. 170
- Đức Giêsu và Phêrô. 176
- Thánh Phêrô và Thánh Phaolô Tông Đồ. 185
- Thánh Phêrô và Thánh Phaolô Tông Đồ. 190
- Mến Chúa. 193
- Hai viên đá tảng diệu kỳ. 196
- Lễ Thánh Phêrô và Phaolô. 201
- Khuôn mặt lãnh đạo. 206
- Trung thành tuân giữ. 210
- Cảm nhận một tình yêu. 213
- Lễ Thánh Phêrô và Phaolô. 215
- Lễ Thánh Phêrô và Phaolô. 219
- Lễ Thánh Phêrô và Phaolô. 222
- Lễ Thánh Phêrô và Phaolô. 227
- “Giáo hội bền vững”. 231
- Ngài Là Cha Tôi 238
- Giáo Hội 240
- Thánh Phêrô Và Thánh Phaolô. 244
- Hai tên gọi một lý tưởng. 247
- Thánh Phêrô. 250
- Mầu nhiệm tình yêu. 253
- Thánh Phêrô và Thánh Phaolô Tông Đồ. 255
- Thánh Phêrô và Thánh Phaolô Tông đồ. 258
- Thí mạng vì Thầy. 262
- Hai con người, hai ơn gọi 266
- Trụ cột của Giáo Hội 268
- Lòng yêu mến. 272
- Suy niệm của JKN.. 275
- Mẫu gương. 281
- Tuyên xưng. 284
- Nhận biết và biến đổi 287
- Thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ. 290
- Giáo Hội và Cộng Đồng. 297
- Khuôn mặt Đức Kitô. 300
- Thánh Phêrô. 303
- Thánh Phêrô. 308
- Đào tạo. 311
- Câu trả lời 314
- Đích thực. 316
- Viên đá. 318
- Thầy là ai?. 320
- Con Người là ai?. 323
- Biết và Yêu Chúa. 325
- Thầy là ai?. 327
- Đức Kitô. 330
- Thánh Phêrô. 333
- Hội Thánh của Chúa. 335
- Trên tảng đá này. 337
- Phần quan trọng của cơ thể. 339
- Ý Chúa. 343
- Phêrô con người trong sáng. 345
- Giáo Hội phục vụ. 347
- Hai cột trụ của Giáo Hội 349
- Hồng Ân Đức Tin. 352
- Hai phản ánh đẹp về Chúa Giêsu. 356
- Phêrô và Phaolô, tượng đài hiệp nhất 359
- Những tương đồng lạ lùng. 367
- Thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ. 374
1.Anh Là Tảng Đá
(Trích trong ‘Manna’ – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)
Suy Niệm
Trong ngày lễ kính thánh Phêrô và thánh Phaolô,
chúng ta được mời gọi chiêm ngắm hai khuôn mặt, rất khác nhau mà cũng rất giống nhau.
Phêrô, một người đánh cá ít học, đã lập gia đình.
Ông theo Thầy Giêsu ngay từ buổi đầu sứ vụ.
Còn Phaolô là người có nhiều điều để tự hào, về gia thế, về học thức, về đời sống đạo hạnh.
Ông chưa hề gặp mặt Đức Giêsu khi Ngài còn sống.
Nhưng hai ông có nhiều nét tương đồng.
Cả hai đều được Đức Giêsu gọi.
Phêrô được gọi khi ông đang thả lưới bắt cá nuôi vợ con.
Phaolô được gọi khi ông hung hăng tiến vào Đamát.
Cả hai đã từ bỏ tất cả để theo Ngài.
Tất cả của Phêrô là gia đình và nghề nghiệp.
Tất cả của Phaolô là những gì ông cậy dựa vênh vang.
Bỏ tất cả là chấp nhận bấp bênh, tay trắng.
Cả hai đều đã từng có lần vấp ngã.
Vấp ngã bất ngờ sau khi theo Thầy như Phêrô,
trong một phút giây quá tự tin vào sức mình.
Ngã ngựa bất ngờ và trở nên mù lòa như Phaolô,
trong lúc tưởng mình sáng mắt và đi đúng hướng.
Vấp ngã nào cũng đau và in một dấu không phai.
Vấp ngã bẻ lái đưa con người đi vào hướng mới.
Phêrô và Phaolô đều yêu Đức Giêsu cách nồng nhiệt,
vì họ cảm nhận sâu xa mình được Ngài yêu.
“Này anh Simon, anh có mến Thầy không?
Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy.” (Ga 21,16)
Cả Phaolô cũng yêu Đấng ông chưa hề chung sống,
vì Ngài là “Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi.” (Gl 2, 20).
Phaolô đã không ngần ngại khẳng định:
Không gì có thể tách được chúng ta ra khỏi Tình Yêu của Đức Kitô (x. Rm 8, 35.39)
Tình yêu Đức Kitô là linh hồn của đời truyền giáo,
vì nói cho cùng truyền giáo chính là giúp người khác nhận ra và yêu mến
Đấng đã yêu tôi và yêu cả nhân loại.
Cả hai vị tông đồ đều hăng say rao giảng,
bất chấp muôn vàn nguy hiểm khổ đau.
Phêrô đã từng chịu đòn vọt ngục tù (x. Cv 5,40).
Còn nỗi đau của Phaolô thì không sao kể xiết (x. 2C 11, 23-28).
“Tôi mang trên mình tôi những thương tích của Đức Giêsu” (Gl 6, 1-7)
Cả hai vị đã chết như Thầy. Phêrô bị dẫn đến nơi ông chẳng muốn (x. Ga 21, 18).
Phaolô đã chiến đấu anh dũng cho đến cùng, và đã đổ máu ra làm lễ tế (x. 2Tm 4, 6).
Hội Thánh hôm nay vẫn cần những Phêrô và Phaolô mới,
dám bỏ, dám theo và dám yêu dám sống và dám chết cho Đức Kitô và Tin Mừng.
Hội Thánh vẫn cần những chiếc cột và những tảng đá.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn biết gì về thánh Phêrô và thánh Phaolô? Có nét nào nơi hai vị thánh làm bạn ưa thích?
Bạn nghĩ gì về Đức Thánh Cha? Bạn biết gì về những hoạt động của Ngài cho giới trẻ?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, chúng con không hiểu tại sao Chúa chọn Simon,
một người đánh cá ít học và đã lập gia đình, để làm vị Giáo Hoàng đầu tiên của Giáo Hội.
Chúa xây dựng Giáo Hội trên một tảng đá mong manh,
để ai nấy ngất ngây trước quyền năng của Chúa.
Hôm nay Chúa cũng gọi chúng con theo Chúa, sống cho Chúa,
đặt Chúa lên trên mọi sự: gia đình, sự nghiệp, người yêu.
Chúng con chẳng thể nào từ chối viện cớ mình kém đức kém tài.
Chúa đưa chúng con đi xa hơn, đến những nơi bất ngờ, vì Chúa cần chúng con ở đó.
Xin cho chúng con một chút liều lĩnh của Simon,
bỏ mái nhà êm ấm để lên đường, hạnh phúc vì biết mình đang đi sau Chúa. Amen.
2. Thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)
Suy niệm:
Câu chuyện của bài Tin Mừng hôm nay diễn ra bên bờ hồ, một cái hồ mang nhiều tên gọi: hồ Galilê, hồ Hennêxarét, hồ Tibêriát.
Cái hồ quen thuộc đầy ắp kỷ niệm giữa Thầy và trò. Nơi đây tiếng gọi đầu tiên của Thầy Giêsu đã vang lên:
Hãy theo Thầy. Tiếng ấy đã khiến họ từ bỏ nghề sông nước để lên bờ, đi theo ông thợ mộc làng Nazareth.
Bao lần Thầy trò đi qua cái hồ rộng như biển này. Sóng gió họ cũng đã gặp, vui buồn họ cũng đã từng.
Sáng sớm hôm nay, trên hồ này họ đánh được mẻ cá lớn, nhờ một người lạ đứng trên bờ mà họ từ từ nhận ra là Thầy của mình.
Bữa ăn sáng do Thầy chuẩn bị thật chu đáo. Có bánh và cá, có cả đống than hồng hong ấm tình Thầy trò.
Ngọn lửa này gợi nhớ đến đống than hồng ở dinh Thượng tế, nơi Phêrô đã đứng sưởi và đã chối Thầy. (Ga 18, 18. 25)
Bây giờ, cũng bên đống than hồng, Thầy Giêsu cho Phêrô có cơ hội công khai bày tỏ tình yêu của mình.
“Anh có yêu mến Thầy không?” Ba lần Thầy Giêsu hỏi Phêrô như thế. “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy.”
Ba lần Phêrô trả lời như thế. Ba lần chối Thầy như được xóa đi bởi ba lần tuyên xưng tình yêu.
Nhưng bây giờ Phêrô khiêm tốn, biết tình yêu của mình mong manh, dễ vỡ. “Hãy chăn dắt chiên của Thầy”
Ba lần Thầy Giêsu đã nói như thế. Tình yêu dẫn đến sứ mạng chăn dắt đoàn chiên mà Thầy quý chuộng.
Phải yêu Thầy thì mới yêu chiên của Thầy. Yêu Thầy là điều kiện để được Thầy trao sứ mạng mục tử.
Làm mục tử là tiếp nối công việc của Thầy Giêsu, Mục tử nhân hậu,
nên cũng phải sẵn sàng chấp nhận cái chết như Thầy, (cc. 18-19) chết cho đoàn chiên, chết để tôn vinh Thiên Chúa. (c. 19)
“Hãy theo Thầy!” lời mời năm xưa cũng là lời mời được lặp lại bây giờ.
“Hãy theo Thầy!” sau những vấp ngã, yếu đuối và chối Thầy.
“Hãy theo Thầy!” sau khi những giấc mơ trần tục bị tan vỡ bởi biến cố Núi Sọ.
“Hãy theo Thầy!” sau những hăng hái nồng nhiệt thuở ban đầu.
“Hãy theo Thầy!” để giang tay ra và đến nơi mình không muốn đến.
“Hãy theo Thầy!” để củng cố anh em và chăn dắt chiên của Thầy. (Lc 22, 31-32)
Hôm nay Chúa Giêsu Phục sinh cũng hỏi từng Kitô hữu: “Con có mến Thầy không?”
Và Ngài chờ một câu trả lời trước khi trao sứ mạng, vì ai trong chúng ta cũng có sứ mạng chăm sóc một nhóm người nào đó.
Xin ơn yêu Giêsu bằng tình yêu thiết thân riêng tư. Xin ơn theo Ngài vì nghe thấy lời mời gọi vang lên mỗi ngày: “Hãy theo Thầy.”
Và xin ơn dám sống hết mình cho những người được Chúa trao phó.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xưa Chúa đã sai các môn đệ ra khơi thả lưới, nay Chúa cũng sai chúng con đi vào cuộc đời.
Chúng con phải đối diện với bao thách đố của cuộc sống, của công ăn việc làm, của gánh nặng gia đình, của nghề nghiệp chuyên môn.
Xin đừng để chúng con sa vào cạm bẫy của vật chất và quyền lực, nhưng cho chúng con giữ nguyên lý tưởng thuở ban đầu, lý tưởng phục vụ quê hương và Hội Thánh.
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con sống thực tế, nhưng không thực dụng; biết xoay xở nhưng không mưu mô; lo cho tương lai cá nhân, nhưng không quên bao người bất hạnh cần nâng đỡ.
Giữa cơn lốc của trách nhiệm và công việc, giữa những xâu xé trước bao lựa chọn,
xin cho chúng con biết tìm những phút giây trầm lắng, để múc lấy ánh sáng và sức mạnh, để mình được thật là mình trước mặt Chúa.
Nhờ lời Đức Trinh Nữ Maria chuyển cầu, xin cho chúng con thật sự trở nên chứng nhân, làm tất cả để Thiên Chúa được tôn vinh, và phẩm giá con người được tôn trọng. Amen.
3. Chúa Giêsu là ai đối với tôi?
Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi các Kitô hữu noi gương hai thánh Tông đồ trong việc đi theo Chúa Kitô và loan báo Tin Mừng khắp mọi nơi. Đó là cách trả lời tốt nhất cho câu hỏi “Chúa Giêsu là ai đối với tôi?”
Bài giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô:
Thánh Phêrô và Phaolô, hai vị Tông đồ đầy lòng yêu mến Chúa, hai trụ cột đức tin của Giáo hội. Khi chúng ta chiêm ngắm cuộc đời của các ngài, hôm nay Tin Mừng chất vấn chúng ta với câu hỏi mà Chúa Giêsu đặt ra cho các môn đệ của mình: “Phần các con, các con nói gì? Đối với các con, Thầy là ai?” (Mt 16, 15). Đó là câu hỏi căn bản, quan trọng nhất: Chúa Giêsu là ai đối với tôi? Chúa Giêsu là ai trong cuộc đời tôi? Chúng ta hãy xem hai Tông đồ đã trả lời thế nào.
Câu trả lời của thánh Phêrô có thể được tóm tắt trong một từ: theo. Phêrô đã sống theo Chúa. Hôm đó, tại Xêdarê Philipphê, Chúa Giêsu đã hỏi các môn đệ. Phêrô đã trả lời bằng một lời tuyên xưng đức tin thật đẹp: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16, 16); một câu trả lời không chê vào đâu được, rõ ràng, chính xác, có thể nói là một câu trả lời “giáo lý” hoàn hảo. Nhưng câu trả lời này là kết quả của một cuộc hành trình: chỉ sau khi đã sống cuộc mạo hiểm thú vị bước theo Chúa, sau khi đã bước đi với Người và theo sau Người trong một thời gian dài, mà Phêrô mới đạt tới sự trưởng thành thiêng liêng này, vốn dẫn ngài, nhờ ân sủng, nhờ ân sủng thuần túy, đến một lời tuyên xưng đức tin rõ ràng như thế.
Quả thế, thánh sử Mátthêu cho chúng ta biết rằng mọi sự bắt đầu trên bờ biển Galilê, khi Chúa Giêsu đi ngang qua và đã gọi ngài, cùng với Anrê, anh của ngài; và “lập tức bỏ lưới, các ông đi theo Người” (Mt 4, 20). Phêrô đã bỏ tất cả để theo Chúa. Và Tin Mừng nhấn mạnh “lập tức”. Phêrô không nói với Chúa Giêsu rằng mình phải suy nghĩ về điều đó, ngài không tính toán xem điều đó có phù hợp với mình không, ngài không tìm cớ để trì hoãn quyết định; ngài đã bỏ lưới mà đi theo Người, không đòi hỏi bất kỳ an toàn nào trước. Ngài phải khám phá mọi sự từng ngày sau đó, bằng cách đi theo Chúa Giêsu và bước theo sau Người. Và không phải ngẫu nhiên mà những lời cuối cùng, được thuật lại trong các Tin Mừng, mà Chúa Giêsu nói với ngài là “Con hãy theo Thầy” (Ga 21, 22), nghĩa là đi theo Người.
Thánh Phêrô nói với chúng ta rằng đối với câu hỏi “Chúa Giêsu là ai đối với tôi?”, trả lời bằng một công thức giáo thuyết không thể chê vào đâu được thì chưa đủ, thậm chí không phải bằng một ý tưởng mà chúng ta đưa ra cho mình một lần cho tất cả. Không. Chính bằng cách đi theo Chúa mà chúng ta học biết Người mỗi ngày. Chính bằng cách trở thành môn đệ của Người và đón nhận Lời Người mà chúng ta trở nên bạn hữu của Người và cảm nghiệm được tình yêu của Người biến đổi chúng ta. Đối với chúng ta cũng vậy, điều “lập tức” này vang vọng lại. Nếu chúng ta có thể trì hoãn nhiều điều trong cuộc sống, thì việc đi theo Chúa Giêsu không thể được trì hoãn; đối với điều này, chúng ta không thể do dự, chúng ta không thể tìm lý do thoái thác. Chúng ta hãy lưu ý vì một số lý do thoái thác được khoác lên mình tấm áo thiêng liêng, như khi chúng ta nói “Tôi không xứng đáng”, “Tôi không có khả năng”, “tôi, tôi có thể làm gì được?” Đó là mánh khóe của ma quỷ vốn cướp đi niềm tin của chúng ta vào ân sủng của Thiên Chúa, bằng cách làm cho chúng ta tin rằng mọi sự sẽ tùy thuộc vào khả năng của chúng ta.
Tách mình ra khỏi những thứ an toàn của chúng ta – những thứ an toàn trần thế -, ngay lập tức, và đi theo Chúa Giêsu mỗi ngày: đó là chỉ dẫn mà Phêrô đưa ra cho chúng ta hôm nay bằng cách mời gọi chúng ta trở thành một Giáo-hội-đi-theo. Một Giáo-hội-đi-theo. Một Giáo hội muốn trở thành môn đệ của Chúa và thành người tôi tớ khiêm nhường của Tin Mừng. Chỉ bằng cách này, Giáo hội mới có thể đối thoại với mọi người, và trở thành một nơi đồng hành, gần gũi và hy vọng cho những người nữ người nam của thời đại chúng ta. Chỉ bằng cách này, ngay cả người ở xa nhất, thường đang nhìn chúng ta cách nghi ngờ hay dửng dưng, cuối cùng sẽ có thể nhận ra cùng với Đức Giáo hoàng Bênêđíctô: “Giáo hội là nơi gặp gỡ với Con Thiên Chúa hằng sống và, như thế, Giáo hội là nơi gặp gỡ giữa chúng ta” (Bài giảng Chúa Nhật II Mùa Vọng, ngày 10/12/2006).
Và bây giờ, chúng ta hãy đến với vị Tông đồ của các dân tộc. Nếu câu trả lời của Phêrô hệ tại ở việc đi theo, thì câu trả lời của Phaolô hệ tại ở việc loan báo, loan báo Tin Mừng. Đối với ngài cũng thế, mọi sự bắt đầu bằng ân sủng, theo sáng kiến của Chúa. Trên đường đi Damas, khi ngài đang kiêu hãnh bách hại các Kitô hữu, bị rào cản bởi xác tín tôn giáo của mình, thì Chúa Giêsu phục sinh đến gặp ngài và làm ngài mù lòa bằng ánh sáng của Người. Đúng hơn, nhờ ánh sáng này, Saolô nhận ra mình bị mù như thế nào. Bị nhốt kín trong sự kiêu ngạo về việc giữ luật cứng nhắc của mình, ngài khám phá ra nơi Chúa Giêsu sự hoàn thành mầu nhiệm cứu độ.
Giờ đây, ngài coi tất cả những an toàn của về mặt con người và tôn giáo của mình là “rác rưởi” so với sự cao cả là biết được Chúa Kitô (x. Pl 3, 7-8). Như thế, Phaolô đã cống hiến đời mình để khi khắp đất liền và biển khơi, các thành phố và làng mạc, không quản ngại khó khăn và bách hại, để loan báo Chúa Giêsu-Kitô. Nhìn vào câu chuyện của ngài, dường như càng loan báo Tin Mừng, ngài càng hiểu biết Chúa Giêsu. Việc loan báo Lời Chúa cho người khác cho phép ngài thấm nhập vào chiều sâu của mầu nhiệm Thiên Chúa, Đấng mà ngài đã viết “Khốn cho tôi nếu tôi không loan báo Tin Mừng!” (1Cr 9, 16); Đấng mà ngài tuyên xưng: “Đối với tôi, sống là Chúa Kitô”.
Do đó, thánh Phaolô nói với chúng ta rằng đối với câu hỏi “Chúa Giêsu là ai đối với tôi?”, chúng ta không trả lời bằng lòng sùng đạo sâu kín riêng tư để mặc chúng ta yên thân, mà không rung động bởi mối quan tâm mang Tin Mừng đến cho người khác. Thánh Tông đồ dạy cho chúng ta rằng chúng ta càng lớn lên trong đức tin và trong sự hiểu biết mầu nhiệm Chúa Kitô hơn nữa khi chúng ta loan báo và làm chứng cho Người. Và điều đó luôn xảy ra: khi chúng ta loan báo Tin Mừng, chúng ta được loan báo Tin Mừng. Đó là một kinh nghiệm hằng ngày: khi chúng ta loan báo Tin Mừng, chúng ta được loan báo Tin Mừng. Lời Chúa mà chúng ta mang đến cho người khác sẽ trở lại với chúng ta bởi vì, chúng ta cho đi bao nhiêu, chúng ta sẽ nhận được nhiều hơn bấy nhiêu (x. Lc 6, 38). Và điều đó cũng cần thiết cho Giáo hội ngày nay: đặt việc loan báo ở trung tâm. Trở thành một Giáo hội không bao giờ mệt mỏi lặp đi lặp lại với chính mình: “Đối với tôi, sống là Chúa Kitô” và “Khốn cho tôi nếu tôi không loan báo Tin Mừng”. Một Giáo hội cần loan báo Tin Mừng như cần dưỡng khí để thở; một Giáo hội không thể sống mà không thông truyền vòng tay yêu thương của Thiên Chúa và niềm vui của Tin Mừng.
Thưa anh chị em, chúng ta hãy mừng thánh Phêrô và Phaolô. Các ngài đã trả lời câu hỏi căn bản của cuộc sống – Chúa Giêsu là ai đối với tôi? – bằng cách đi theo Chúa Kitô và loan báo Tin Mừng. Thật đẹp khi lớn lên như một Giáo hội đi theo, như một Giáo hội khiêm tốn không bao giờ coi là đã thủ đắc được việc tìm kiếm Chúa. Thật đẹp khi trở thành một Giáo hội hướng ra bên ngoài, không tìm thấy niềm vui của mình nơi những thứ của thế gian nhưng trong việc loan báo Tin Mừng cho thế giới, để gieo vào lòng mọi người câu hỏi về Thiên Chúa. Mang Chúa Giêsu đến khắp mọi nơi, với lòng khiêm tốn và niềm vui: trong thành Rôma của chúng ta, trong các gia đình của chúng ta, trong các mối tương quan và các khu phố, trong xã hội dân, trong Giáo hội, trong chính trị, trên toàn thế giới, đặc biệt là ở những nơi có nghèo đói, suy thoái, sự gạt ra bên lề xã hội.
Và, hôm nay, khi một số anh em Tổng Giám mục của chúng ta lãnh nhận dây Pallium, một dấu hiệu của sự hiệp thông với Giáo hội Rôma, tôi muốn nói với họ: anh em hãy trở thành những tông đồ như thánh Phêrô và Phaolô. Anh em hãy trở thành những người môn đệ đi theo và những tông đồ loan báo, hãy mang lại vẻ đẹp của Tin Mừng đến mọi nơi, cho toàn thể Dân Thiên Chúa. Và cuối cùng, tôi muốn gởi lời chào thân ái đến Phái đoàn của Tòa Thượng phụ Đại kết, được gởi đến bởi người Anh rất yêu quý là Đức Bartôlômêô. Xin cảm ơn sự hiện diện của quý vị, xin cảm ơn: chúng ta hãy cùng nhau tiến bước trong việc đi theo và loan báo Lời Chúa, bằng cách lớn lên trong tình huynh đệ. Xin thánh Phêrô và Phaolô đồng hành và cầu bầu cho tất cả chúng ta.
*****************
BÀI GIẢNG NĂM 2024
Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Hôm nay, lễ trọng kính hai Thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô, trong Tin Mừng Chúa Giêsu nói với ông Simon, mà Người đặt tên là Phêrô: “Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời” (Mt 16,19). Đây là lý do tại sao chúng ta thường thấy Thánh Phêrô được trình bày với hai chiếc chìa khóa lớn trong tay, như bức tượng ở Quảng trường này. Những chiếc chìa khóa đó tượng trưng cho thừa tác vụ thẩm quyền mà Chúa Giêsu đã giao phó cho ngài để phục vụ toàn thể Giáo hội. Bởi vì thẩm quyền là một việc phục vụ, thẩm quyền không phải là để được phục vụ, không phải độc tài.
Tuy nhiên, chúng ta hãy cẩn thận để hiểu rõ ý nghĩa của tất cả những điều này. Thật vậy, chìa khóa của Phêrô là chìa khóa Nước Trời, mà Chúa Giêsu không ví như một két sắt hay một căn phòng bọc thép, nhưng bằng những hình ảnh khác: một hạt giống nhỏ, một viên ngọc quý, một kho báu giấu kín, một nắm men (xem Mt 13,1-33), nghĩa là, như một điều gì đó quý giá và giàu sang, nhưng đồng thời lại nhỏ bé và kín đáo. Vì thế, để đạt được điều đó, điều cần thiết không phải là kích hoạt các cơ chế và ổ khóa bảo mật nhưng là trau dồi những đức tính như kiên nhẫn, để tâm, kiên trì, khiêm tốn và phục vụ.
Vì vậy, sứ mạng mà Chúa Giêsu giao phó cho Phêrô không phải là chặn cửa nhà, chỉ cho phép một số ít khách được chọn vào nhà, nhưng là giúp mọi người tìm được lối vào, trung thành với Tin Mừng của Chúa Giêsu. Tất cả, tất cả đều có thể vào.
Và Phêrô sẽ làm như vậy trong suốt cuộc đời của mình, một cách trung thành, cho đến khi tử đạo, sau khi chính mình kinh nghiệm được, dù với những khó khăn và nhiều lần sa ngã, niềm vui và sự tự do nảy sinh từ cuộc gặp gỡ với Chúa. Trước tiên, để mở cửa cho Chúa Giêsu, ông phải hoán cải, và hiểu rằng thẩm quyền là một sự phục vụ, và điều đó không hề dễ dàng đối với ông. Chúng ta hãy nghĩ đến câu chuyện: ngay sau khi ông nói với Chúa Giêsu: “Thầy là Đấng Kitô”, thì Thầy đã phải quở trách ông vì ông không chịu chấp nhận lời tiên báo về cuộc khổ nạn và cái chết của Người trên thập giá (xem Mt 16,21-23).
Phêrô nhận được chìa khóa Nước Trời không phải vì ông là người hoàn hảo, không, là một tội nhân; nhưng vì ông khiêm nhường và trung thực, và Chúa Cha đã ban cho ông một đức tin chân thực (x. Mt 16:17). Vì vậy, khi phó thác bản thân cho lòng thương xót của Thiên Chúa, Phêrô đã có thể nâng đỡ và củng cố anh em mình, như ông đã được yêu cầu (xem Lc 22,32).
Hôm nay chúng ta hãy tự hỏi: tôi có nuôi dưỡng, với ân sủng của Thiên Chúa, ước muốn bước vào Nước của Người, trở thành người bảo vệ chào đón người khác không? Và để làm được điều này, tôi có để mình được “mài dũa”, làm mềm mại, được uốn nắn bởi Chúa Giêsu và Thánh Thần của Người, Đấng sống trong chúng ta, mỗi người chúng ta không?
Xin Mẹ Maria, Nữ vương các Tông đồ, và các Thánh Phêrô và Phaolô, qua lời cầu bầu của các ngài, giúp chúng ta trở thành người hướng dẫn và nâng đỡ lẫn nhau đến gặp gỡ Chúa Giêsu.
4. Thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ
(Bài giảng của ĐHY. Phêrô Nguyễn Văn Nhơn)
… “Phần các con, các con nghĩ Thầy là ai?” Simon Phêrô thưa rằng: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.
Anh chị em thân mến,
Có thể nói Chúa Giêsu không quan tâm đến dư luận nghĩ như thế nào về Ngài: Là Gioan Tẩy Giả mà Hêrôđê giết chết nay sống lại, là Elia, Giêrêmia, một tiên tri nào đó … điều đó không quan trọng. Người đời tự do nhận hay khước từ Chúa Giêsu, việc đó từ khi Ngài xuống thế gian cho đến bây giờ vẫn luôn xảy ra, chẳng những thế người ta còn gán cho Ngài những danh xưng, những đức tính hay những tật xấu … việc đó cũng không quan trọng.
Quan trọng là chúng ta, những người Ngài đã kêu gọi và được thanh tẩy trong Bí Tích Rửa Tội, Ngài đã ban cho Thần Khí của Ngài, Ngài đã dùng Lời và Mình Máu Thánh Ngài để nuôi dưỡng, Ngài đã không ngớt yêu thương và chăm sóc … Chúa sẽ hỏi chúng ta: “Còn con, con nghĩ Thầy là ai?”
Qua bài Tin Mừng Mt 16, 13 – 19: Hỏi về dư luận chỉ là cớ để Chúa Giêsu bắt vào câu chuyện, còn vấn đề chính là dành cho các tông đồ: “Chúng con nghĩ Thầy là ai?” sau khi Phêrô trả lời, Chúa Giêsu nói ngay: “Chẳng phải (điều con tuyên xưng) do xác thịt hay máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời”. Chính Chúa Cha đã mạc khải, đã chọn, đã tỏ cho thấy con có đức tin đó, cho nên Thầy chọn con, con trở nên tảng đá vững chắc, Thầy sẽ xây dựng Giáo Hội của Thầy trên con và Giáo Hội sẽ không bao giờ lay chuyển…
Thưa anh chị em,
Kể từ giây phút đó, dường như Chúa Giêsu bắt đầu đổi hướng trong việc rao giảng và giáo huấn. Ngài dành nhiều thì giờ cho nhóm Mười Hai, Ngài dạy dỗ, chỉ bảo cho các ông, vì Ngài biết rằng đây là nhóm người mà Chúa Cha đã chọn, đã trao cho Ngài và từ những con người này (những con người còn đầy dẫy những khuyết điểm, yếu đuối…) Ngài xây dựng làm nền tảng cho Hội Thánh. Trải qua bao nhiêu thử thách, không quyền lực nào có thể lay chuyển được Hội Thánh mà Ngài đã xây dựng. Chúng ta chính là Hội Thánh đó, là những con người Ngài xây dựng và luôn gìn giữ.
Trở lại với bài sách Công Vụ (Cv 12, 1 – 11), tôi nghĩ rằng dù trình bày như thế nào, chúng ta cũng không quên trọng tâm của câu chuyện: Thiên Chúa giữ lời Ngài nói qua miệng Chúa Giêsu “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. Lời Ngài được thực hiện khi thiên thần giải thoát Phêrô khỏi ngục tù cách lạ lùng (Phêrô được Chúa tuyển chọn và Phêrô được Chúa trao cho quyền tha – buộc tội lỗi, và trong chức năng đó, Chúa gìn giữ Phêrô…). Giáo Hội trải qua 2000 năm với bao nhiêu thử thách nhưng vẫn là Giáo Hội của Đức Kitô, ngày hôm nay có thể mang nhiều sắc thái khác nhau, những vị Giáo Hoàng khác nhau, nhưng vẫn là một Giáo Hội duy nhất, Giáo Hội mà Chúa Giêsu đã thiết lập trên nền tảng Phêrô. Chúng ta thấy Lời Chúa vẫn luôn được thực hiện,
Chương trình của Thiên Chúa rất mầu nhiệm, phong phú và đa dạng. Chúng ta nghĩ rằng với thánh Phêrô, với đoàn tông đồ như thế là đã đủ và từ đó cứ tiếp nối để Giáo Hội trường tồn, nhưng không, bên cạnh đó Chúa đã tuyển chọn Phaolô cách rất đặc biệt: Từ con người hăng hái bắt đạo, Chúa đã biến đổi lòng dạ và làm cho Phaolô trở nên tông đồ nhiệt thành.
Vậy vai trò của Phaolô trong Hội Thánh lúc bấy giờ là gì? (Đọc trong những đoạn kinh Phụng Vụ để thấy Thiên Chúa nhiệm mầu trong chương trình của Ngài) Phêrô là người tuyên xưng đức tin, trên Phêrô đức tin được xây dựng; Phaolô là người làm sáng tỏ đức tin, là người đem đức tin đó gieo trồng khắp mọi nơi. Hai khía cạnh đó luôn có Trong Hội Thánh, sứ mạng củng cố đức tin, xây dựng nội bộ và sứ mạng truyền giáo, sứ vụ đến với muôn dân … Ngày hôm nay chẳng những trong lòng Giáo Hội, chẳng những ở Giáo Hội địa phương mà ngay mỗi Giáo Xứ, mỗi cộng đoàn và mỗi người luôn phải sống hai khía cạnh đó: một đàng phải luôn đào sâu đức tin, sống gắn bó với Chúa nhiều hơn, đàng khác chúng ta không chỉ được sống cho mình mà phải biết chia sẻ đức tin cho anh em, càng biết đến với anh em, càng biết chia sẻ đức tin, biết loan báo Tin Mừng thì đức tin chúng ta càng vững chắc. Đó là chương trình của Thiên Chúa trao ban cho mỗi người chúng ta. Có thể chúng ta nói mình yếu đuối, tọi lỗi, nhưng thành thật mà nói, chắc chúng ta không tội lỗi hơn thánh Phaolô, cũng không tội lỗi hơn thánh Phêrô; còn nếu nói chúng ta yếu đuối thì tôi nghĩ rằng thánh Phaolô và thánh Phêrô còn có lúc yếu đuối hơn chúng ta. Thiên Chúa đã tuyển chọn và làm những việc lạ lùng với những con người tội lỗi, yếu đuối đó. Chúng ta cũng được Chúa tuyển chọn và ban Thánh Thần của Ngài, thế thì tại sao chúng ta lại không đi trên con đường đó và không can đảm nhận lấy trách nhiệm và sứ vụ đó?
Cử hành trọng thể lễ hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô, chúng ta cám ơn Chúa đã yêu thương và xây dựng Hội Thánh để Ngài luôn hiện diện giữa thế gian. Nhờ có Hội Thánh, chúng ta được tiếp xúc với Thiên Chúa và được dạy dỗ để đi trên con đường của Ngài. Tin vào điều đó nhưng đồng thời cũng tin Chúa trao cho chúng ta (ở trong Hội Thánh) sứ vụ làm chứng cho Ngài, vì Ngài không chỉ muốn cứu độ một nhóm người, nhưng Ngài muốn tình yêu cứu độ của Ngài phải được loan báo cho muôn dân. Chúng ta là những người mà Ngài đang cần đến, là những người mà Ngài tuyển chọn để thi hành sứ mạng đó.
Mừng lễ hai thánh tông đồ, chắc chắn chúng ta thêm niềm tin trong Hội Thánh, thêm niềm tin trong sứ vụ mà Chúa đã trao cho Hội Thánh. Noi theo gương hai Ngài, chúng ta luôn tuyên xưng cách vững chắc “ Ngài là Đức Kitô, là Con Thiên Chúa hằng sống”, Ngài là Đấng đã đến trong thế gian để cứu chuộc nhân loại, Ngài đã xây dựng và đã sai Hội Thánh tiếp nối công việc của Ngài. Hiểu và tin được điều đó, chúng ta đã góp phần xây dựng Hội Thánh trường tồn và lan rộng cho đến tận cùng thế giới.
5. Thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ
(Trích từ: Làm nụ hoa trắng – ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống)
PHÊRÔ VÀ PHAOLÔ
HAI VỊ THÁNH CỦA TINH THẦN HIỆP NHẤT
Phêrô và Phaolô khác nhau nhiều lắm, nhưng một khi đã được biến đổi bởi niềm tin Phục sinh và nguồn ơn Thánh Thần, hai vị đã trở nên những con người mới, những phần tử hàng đầu xây dựng hiệp thông Giáo hội. Mừng lễ chung hai vị cũng là lúc thể hiện lòng yêu mến và phó thác. Xin hai vị luôn nâng đỡ Giáo hội hiệp thông.
***
Có lần đến mừng bổn mạng một vị Linh mục trọng tuổi. Ngài nói đùa rằng: “Tội nghiệp hai Thánh Phêrô và Phaolô quá! Những ông thánh bà thánh khác nhỏ hơn, thế mà lại được đứng tên một mình độc lập tự do hạnh phúc trong một ngày lễ. Đàng này Phêrô và Phaolô tiếng là hai thánh lớn của cả Giáo hội, thế mà lại phải chen vai đứng chung với nhau chặt chội trong một ngày lễ, dẫu đó là ngày lễ lớn. Ngài cười và phát biểu tiếp: Thà làm lớn trong một ngày lễ nhỏ còn hơn là Phêrô và Phaolô lại chịu làm nhỏ trong một ngày lễ lớn”.
Dĩ nhiên linh mục ấy chỉ nói đùa thôi. Nhưng trong cái tưởng như đùa cợt mua vui giữa các linh mục với nhau biết đâu lại chẳng ẩn chứa một chút nghiêm túc, một thoáng lắng sâu gợi mở cho suy tư về ngày lễ, để rồi khi nhìn vào chân dung của Phêrô và Phaolô bỗng chợt nhận ra dụng ý của Giáo hội; mừng hai Thánh Phêrô và Phaolô chung trong cùng một lễ là muốn nói lên tinh thần hiệp nhất, một tinh thần đã làm nên sự sống và mãi còn là sức sống của Giáo hội.
- Phêrô và Phaolô: hai vị thánh có nhiều khác biệt.
Nói đến hiệp nhất là nói đến một tinh thần gặp gỡ khởi đi từ những cái khác biệt. Phêrô và Phaolô khác nhau nhiều lắm.
Về thành phần bản thân: Phêrô là dân chài lưới chuyên nghiệp, cuộc sống chỉ diễn ra quanh quẩn nơi biển hồ Tibêria. Tác phong ngài bình dân, tính tình ngài bộc trực, có sao nói vậy, thậm chí đến độ thô thiển mộc mạc. Mặc dù có bề dày kinh nghiệm tuổi tác và ngành nghề, nhưng kiến thức về đời sống của ngài có chăng cũng không lớn hơn diện tích biển hồ. Còn Phaolô, ngược lại, là con nhà trí thức được ăn học đàng hoàng, đã từng có dịp đi lại đó đây. Kiến thức rộng, gốc gác Biệt phái nhiệt thành với truyền thống cha ông, đầy năng lực, tuổi trẻ tài cao và cũng không thiếu tham vọng cho tương lai, nên Phaolô mới nổi máu anh hùng “vấy máu ăn phần” trong việc bách hại các Kitô hữu thuở ban đầu.
Về ơn gọi theo Chúa Giêsu: Phêrô thuộc hệ chính quy, là một trong những tên tuổi mau mắn đáp lời theo Chúa Giêsu từ những ngày đầu sứ vụ công khai của Người. Nhanh nhẩu, mau mắn, hăng hái, ông thường thay mặt cho anh em để lên tiếng phát biểu. Được đặt làm đầu Nhóm Mười Hai đặc tuyển tức là Thủ quân đội tuyển Tông đồ với một bề dầy thành tích đáng gờm. Trong khi đó, Phaolô chỉ là đàn em, đã chẳng được theo trực tiếp Chúa Giêsu lại còn khét tiếng phản động đến nỗi trên đường đi Đamas để bố ráp tín hữu, tiếng từ trời đã phải can ngăn “Ta là Giêsu ngươi đang bắt bớ “. Nhưng đó cũng là khởi đầu của ơn gọi để Phaolô nghĩ lại sám hối mà đầu quân phục vụ Giáo hội. Chính Phaolô đã có lần thú nhận chẳng giấu giếm chi “Tôi là dân sinh sau đẻ muộn”. Không mặc cảm.
Về truyền giáo: Nếu Tông đồ là kẻ được sai đi truyền giáo, thì tuỳ theo khả năng cá nhân, mỗi người lại phục vụ theo cung cách của mình. Phêrô chủ trương “đánh bắt tại chỗ’, phục vụ Kitô hữu đa phần gốc Do Thái trở lại, nên thiết lập toà Antiôkia để dễ dàng điều hành quy tụ là chuyện bình thường. Chính tại Antiôkia, lần đầu tiên trong lịch sử Công giáo, các tín hữu nhận lấy danh xưng: ‘Kitô hữu’. Còn Phaolô lại theo chủ trương “ đánh bắt ngoài khơi”, ra khơi để truyền giáo với những chuyến hải trình không mệt mỏi. Trẻ trung, khỏe mạnh, học rộng, biết nhiều đã trở thành lợi thế cho ngài hành trình về phía trước Dân ngoại.
Chủ trương khác nhau nên có lúc không tránh hết được những va chạm. Đã có to tiếng về vấn đề cắt bì hay không cắt bì cho những người ngoại giáo gia nhập Kitô giáo. Đã có hiểu lầm ấm ức khi đối mặt giữa một bên là cầm cương nẩy mực đạo giáo và một bên là quan tâm đến những nhu cầu mục vụ chính đáng của tín hữu gốc lương tâm. Tuy nhiên khi hiểu ra, hai đấng đã tay bắt mặt mừng trong một tinh thần hiệp nhất lạ lùng!
- Phêrô và Phaolô: tượng đài hiệp nhất.
Khởi đầu sự nghiệp Tông đồ tiếp bước Chúa Kitô, nếu hai vị đã hiệp nhất trong cùng một lòng chân thành tuyên xưng thì cũng hiệp nhất trong cùng một tâm huyết nhiệt thành rao giảng để mãi mãi hiệp nhất trong cùng một đức tin trung thành minh chứng.
Cùng chết tại Rôma. Cùng chịu tử đạo dù hình thức khác nhau trong những thời điểm khác nhau. Cùng trở thành nền đắp xây tòa nhà Hội thánh. Cùng trở nên biểu tượng hiên ngang của niềm tin Công giáo, để rồi hằng năm cứ vào ngày 29 tháng 6 lại cùng được mừng chung trong một ngày lễ. Chừng đó chữ “cùng” cũng đủ đề Phêrô gần gũi Phaolô và để Phaolô đứng chung với Phêrô như hình với bóng. Mình mới ta tuy hai mà một, ta với mình tuy một mà hai. Mãi mãi Phêrô và Phaolô là tượng đài bất khuất và là bài ca không quên của tinh thần hiệp nhất trong Giáo hội. Tinh thần ấy hôm nay chỉ ra rằng.
Hiệp nhất không phải là đồng nhất theo kiểu đồng bộ nhất loạt ai cũng phải như ai, giống đồng phục của một hội đoàn hay như trong sản xuất hàng hoá đồng loạt. Nếu máy cùng một đời thì cũng cùng kiều dáng và chất lương như nhau. Hiệp nhất là khởi đi từ những cái khác nhau, những cái dị biệt, để hiểu biết tôn trọng và gắn bó hợp tác chung xây. Như thế mới phong phú đa chiều đa diện đa dạng, như những thành phần khác nhau làm nên một tổng hợp duy nhất hài hoà, như những chi thể khác nhau kết nên một thân mình, như những nốt nhạc cung bậc khác nhau làm thành một hoà âm tròn đầy.
Hiệp nhất cũng không phải là cầu toàn mười phân vẹn mười gọt giũa kỹ càng theo một hình mẫu, làm như tuỳ thuộc hoàn toàn vào ý chí con người mà không cần biết đến những biến số mang tính quyết định khác. Xây dựng một công trình vật thể như nhà cửa phòng ốc không ưng ý, người ta có thể đập bỏ để làm lại một cái mới vừa ý hơn, nhưng xây dựng một công trình phi vật thể nhất là lại liên quan đến yếu tố nhân sự thì không thể một sớm một chiều mà phá huỷ hoặc làm lại được. Nếu “duy ý chí “ đã là một lực cản đáng buồn cho sự tiến bộ, thì ở đây xem ra lại còn đáng buồn và đáng ngại hơn.
Hiệp nhất là một công trình được xây dựng với nhiều nỗ lực của con người dưới sự dẫn dắt linh động của ơn thánh và chí bền khát khao của mọi thế hệ. “Khác nhau trong điều phụ, hiệp nhất trong điều chính, yêu thương trong tất cả”, đó là khuôn vàng thước ngọc cho tinh thần hiệp nhất trong Giáo hội.
Nhưng đa dạng cũng đi liền với đa đoan. Không thể có hiệp nhất mà không vất vả. Hiệp mà không nhất chỉ là khiên cưỡng ép duyên bất hạnh ngục tù. Nhất mà không hiệp sẽ cứng cỏi lạnh lùng tự đủ thờ ơ. Hiệp để trở nên nhất và nhất mà vẫn luôn cần chất keo tinh thần của hiệp, đó mới là giá trị làm nên nét đẹp Kitô giáo. Nếu trong tình yêu hôn phối, những điều giống nhau là để hiểu nhau, còn những điểm khác nhau mới để yêu nhau, thì trong hiệp nhất Giáo hội cũng vậy, những điều giống nhau là nền tảng gặp gỡ, còn những điểm khác biệt lại là điều kiện tự nhiên để trở thành đa dạng, cho dẫu nhiều khi vì quá chú tâm đến những khác biệt người ta đã phải gạt lệ nhìn nhau xa cách. Hai cực nam châm giống nhau sẽ đẩy nhau, nhưng hai cực khác nhau mới thu hút gắn bó với nhau.
Tóm lại, Phêrô và Phaolô khác nhau nhiều lắm, nhưng một khi đã được biến đổi bởi niềm tin Phục sinh và nguồn ơn Thánh Thần, hai vị đã trở nên những con người mới, những phần tử hàng đầu xây dựng hiệp thông Giáo hội. Mừng lễ chung hai vị cũng là lúc thể hiện lòng yêu mến và phó thác. Xin hai vị luôn nâng đỡ Giáo hội hiệp thông.
6. Câu hỏi: “Đức Giêsu là ai?”
(Trích từ: HẠT NẮNG VÔ TƯ – ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống)
Không phải vô tình mà trang Tin Mừng hôm nay được chọn đọc trong dịp lễ hai thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô dẫu chỉ đề cập đến một mình Phêrô. Cũng không phải vô tình mà câu trả lời của Phêrô lại được đánh giá cao với điểm tối ưu kèm theo huy chương vàng là chiếc chìa khoá đóng mở Cửa Trời.
Vâng, không phải vô tình, mà là hữu ý muốn tập chú vào một câu hỏi lớn cũng là cốt lõi của mạc khải Kitô giáo. Câu hỏi ấy là cửa ngõ dẫn tới đời sống đức tin. Câu hỏi ấy luôn chờ lời đáp trả dứt khoát cho một vận mệnh đời đời. Thế nên, mãi mãi còn là một bận tâm của toàn Giáo Hội và của từng tín hữu. Câu hỏi ấy là “Đức Giêsu là ai?”
Trong ngày lễ hai thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô hôm nay, ta thử nhận diện đôi nét về câu hỏi quan trọng này.
- Đó là câu hỏi cần đến lời tuyên xưng đột phá.
Trích đoạn Tin Mừng chính là câu trả lời mang tính tuyên xưng của Phêrô. Trong khi các Tông đồ khác còn mải mê tìm kiếm tư liệu trong những khuôn mặt nổi tiếng và tên tuổi quen thuộc của dư luận, thì một mình Phêrô bằng kỹ thuật cá nhân đã đột phá bứt lên để tuyên xưng “Đức Giêsu là Đấng Kitô Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16).
Quả là một ý kiến chẳng giống ai, nhưng lại là lời tuyên xưng đắt giá có một không hai. Phêrô nhận ra trong Giêsu “con người” có một Giêsu “Thiên Chúa”, ông nhận ra trong nhân tính bình thường như mọi người của Đức Giêsu có một thần tính cao vượt rất riêng của vị Thiên Chúa làm người. Chả thế mà ông đã được Đức Giêsu khen tặng hạnh phúc và tín nhiệm gửi trao chìa khoá Nước Trời.
Còn Phaolô trên đường đi Đamas, khi gặp ánh sáng lạ từ trời đã hốt hoảng kêu lên “Ngài là ai?” để nhận lấy lời đáp bất ngờ “Ta là Giêsu ngươi đang bắt bớ” (Cv 9,5).
Dẫu được đặt ra bằng một cách khác với phêrô nhưng vẫn là câu hỏi muôn thuở “Đức Giêsu là ai?” để Phaolô bằng cõi lòng tin nhận đột phá bỗng hiểu ra rằng: À thì ra, Giêsu ánh sáng rạng ngời làm ông ngã ngựa cũng chính là Giêsu đồng hoá với các tín hữu ông đang truy lùng bắt bớ. Có nghĩa là trong Giêsu thần tính có một Giêsu đã mang lấy bộ mặt nhân tính của cả Giáo Hội lữ hành. Thảo nào, ông đã bỏ lại sau lưng tất cả dĩ vãng sự nghiệp công danh, để dấn bước phiêu lưu đi theo Đấng mang tên Giêsu lạ đời ấy.
Khám phá ra thần tính trong nhân tính như Phêrô, hay ngược lại, khám phá ra nhân tính trong thần tính như Phaolô đều là những cách tuyên xưng đột phá cho câu hỏi “Đức Giêsu là ai?”
- Đó cũng là câu hỏi mở sang đời gắn bó nhiệt thành.
Đức Giêsu thật lạ lùng. Không biết Người thì thôi, chứ đã biết Người thì không thể dửng dưng thờ ơ lạnh nhạt được nữa, nhất là khi biết Người bằng lời tuyên xưng đột phá mang tính bản thân như Phêrô và Phaolô thì còn quyết liệt hơn. Không chỉ đáp lại bằng mặt bằng lòng, mà còn bằng cả đời sống lòng thòng về sau. Đấy chính là ngã rẽ niềm tin.
Phêrô sau lời tuyên xưng không còn sống như Simon lúc trước được nữa. Ông đã được biến đổi. Ông đã vượt lên chính mình kinh qua những thử thách, cho dẫu đã có lúc dường như quên Chúa xa Chúa thậm chí chối Chúa, nhưng vẫn là một Phêrô khiêm nhường và kiên cường trong ơn sám hối, để gắn bó đầy trách nhiệm vào Đức Giêsu mà ông không ngừng rao giảng.
Phaolô sau lần ngã ngựa cũng không còn sống như Saolô lúc trước được nữa. Đổi mới tất cả và trọn vẹn bằng suy tư giáo lý, bằng gặp gỡ mục vụ, bằng hành trình truyền giáo, và bằng xây dựng Hội Thánh không mỏi mệt. Đã có những khó khăn như bị hiểu lầm nghi kị, chịu nghịch cảnh cầm tù… nhưng chính lúc ấy lại hiên ngang một phaolô trong dáng đứng kiên cường gắn bó đầy nhiệt thành với Đức Giêsu mà ông cảm thấy luôn bị thôi thúc phải loan truyền.
Như thế đó, Phêrô và Phaolô đã trả lời cho câu hỏi “Đức Giêsu là ai?” bằng cả đời sống của mình.
- Đó còn là câu hỏi dẫn tới đỉnh cao dâng hiến.
Đó là câu hỏi trí mạng, để trả lời đến cùng người ta phải đánh cá cuộc đời, phải dám liều mạng sống để mà minh chứng. Hình như đây là một quy luật: chính Đức Giêsu đã lấy mạng mình để minh chứng tình yêu lớn nhất Người dành cho con người, thì con người cũng cần hiến thân một cách nào đó mà tuyên xưng Người là Thiên Chúa hằng sống.
Và đây cũng chính là điều gặp gỡ rõ rệt nhất, hào hùng nhất, bất khuất nhất giữa Phêrô và Phaolô. Chẳng ai bảo ai, mỗi người một ngả, nhưng cuối đời cả hai đã tới Rôma, và giữa những cơn bách hại khốc liệt dưới triều Nêron, Phêrô vào năm 64 và Phaolô năm 67, cả hai đã đánh đổi mạng sống như để tuyên tín cho muôn đời rằng: Đức Giêsu là Thiên Chúa thật và là người thật, đó là đức tin của chúng tôi, đó là đức tin của Hội Thánh, và chúng tôi hãnh diện tuyên xưng đức tin ấy.
Truyện kể rằng: Phêrô bị đóng đinh ngược đầu xụống đất, cho mắt ngài thuận chiều hướng đến trời cao mãi mãi chiêm ngưỡng thần tính của Đức Giêsu, Đấng mà ngài đã từng hân hạnh đụng chạm đến. Và truyện cũng kể rằng: Phaolô bị xử trảm giữa lúc nghe thì thầm bên tai lời quen thuộc của Đấng năm nào ngài đã gặp trên đường Đamas: “Ta là Giêsu mà vì Ta, ngươi chịu bắt bớ. Nhưng can đảm lên, ơn Ta đủ cho ngươi”.
Tóm lại, “Đức Giêsu là ai?” Câu hỏi ấy Phêrô và Phaolô đã trả lời bằng lời chân thành tuyên xưng, bằng đời nhiệt thành rao giảng và bằng cái chết trung thành minh chứng, để ở thượng nguồn đức tin Kitô giáo, các ngài trở nên “người mẫu” cho các tín hữu mọi thời, và trên Thiên quốc, các ngài là những “nhà bảo trợ” cho toàn thể Hội Thánh.
“Đức Giêsu là ai?” Đó cũng là câu hỏi đặt ra cho ta hôm nay để ta lặp lại niềm tin yêu hy vọng nơi thần tính và nhân tính của Đức Giêsu Kitô. Người là Thiên Chúa để ta tôn thờ kính yêu thao thức kiếm tìm gặp gỡ gắn bó. Người ở trong Bí Tích, Phụng Vụ, Thánh Kinh, THánh Thể cho ta tìm hiểu lãnh nhận. Người hiện diện nơi người đồng loại đồng bào đồng đạo đồng hương đồng thời đồng giáo xứ, đồng khu phố…để gọi ta tôn trọng thương mến quan tâm chia sẻ cảm thông liên đới trách nhiệm. Người có mặt trong Giáo Hội, nơi lòng xã hội. Người có đó, trong đạo và giữa đời. Người có đó, trong anh chị em, trong tôi và chúng ta. Người hôm qua hôm nay và mãi mãi “là Thiên Chúa thật và là người thật”.
Trả lời cho câu hỏi “Đức Giêsu là ai?” như lời “Kinh Tin Kính” đẹp thôi, nhưng trả lời bằng cuộc đời dám sống và dám chết tưởng không dễ nói dễ làm dễ ưa dễ chịu. Nhưng như thế mới là hạnh phúc, thứ hạnh phúc chỉ được trao ở cuối đường trung thành sống đạo, như chiếc chìa khoá vàng và thanh gươm vàng mà hai tiền đạo anh dũng Phêrô và Phaolô đã nhận được ở cuối đường sự sống giữa sân cỏ cuộc đời.
Xin Phêrô và Phaolô giúp ta sống câu hỏi “Đức Giêsu là ai?” một cách cụ thể, để vượt lên chính mình, ta sẽ có ngày gặp được hạnh phúc của những kẻ tin, và dẫu tương lai vẫn còn đó nhiều bất ngờ bất ổn bất trắc, nhưng đã ánh lên niềm hy vọng, vì ta vẫn có đó hai nhà bảo trợ sẵn sàng dẫn đường đi tới bến bờ bình an. Lạy hai thánh Tông đồ phêrô và Phaolô, xin cầu cho chúng con.
7. Thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ
PHÊRÔ & PHAOLÔ: HAI VỊ THÁNH CỦA LÒNG SÁM HỐI
(Trích từ: HẠT NẮNG VÔ TƯ – ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống)
Hôm nay Giáo Hội mừng kính hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô. Đó là hai khuôn mặt vĩ đại ở thượng nguồn niềm tin Kitô giáo, những chứng nhân tiên khởi và sáng giá của Đức Kitô Phục Sinh. Đó cũng là hai cột trụ vững chắc nâng đỡ Giáo Hội trải qua biết bao thăng trầm dọc dài lịch sử hai mươi thế kỉ nay. Đó còn là hai vị thánh “cả” (thánh lớn, thánh vĩ đại) đối với mắt nhìn và lòng sùng kính của mọi tín hữu.
Chỉ nhìn những nét cao cả, người ta có thể nghĩ rằng các ngài ở quá xa trong thời gian, ở quá cao trong cương vị, và có nguy cơ ở bên lề nhịp sống Giáo Hội; trong khi đời sống và ơn gọi của hai Đấng xem ra lại rất gần với đời kẻ tin. Trong Thánh lễ vọng mừng kính hôm nay, xin được nhìn Phêrô và Phaolô như hai vị thánh của lòng sám hối.
- Vì Phêrô và Phaolô đã trải qua những năm tháng tội luỵ.
Phêrô qua trang Tin Mừng hôm nay xuất hiện ở đỉnh cao yêu mến đến nỗi đã được Chúa Giêsu tín nhiệm gửi trao đoàn chiên Giáo Hội. Nhưng đời sống của ngài đã có những bóng tối tội lỗi phủ trùm. Chỉ sau phút tuyên xưng đức tin để đời, ngài đã bị Chúa Giêsu quở trách là “Satan hãy xéo đi” khi có ý ngăn cản Người lên Giêrusalem để chịu nạn. Rồi khi đang ung dung bước trên ngọn sóng đến với Chúa Giêsu, thì vì hụt hẫng lòng tin, ngài đã bị nhấn chìm trong làn nước.
Nhất là trong thảm kịch của Đấng Cứu Thế, Phêrô xuất hiện trong một dáng dấp khó thương hơn bất cứ Tông đồ nào. Ngủ vùi trong vườn Cây Dầu lúc Chúa hấp hối, đó là tội quên Chúa. Rút gươm chém đứt tai tên đầy tớ vị thượng tế, đó là tội không vâng theo ý Cha. Sợ quá bỏ ra khi thấy Chúa bị bắt, đó là tội lìa xa Chúa. Và chối Chúa ba lần trước mặt người tớ gái, đó là tội phản bội. Rõ ràng Phêrô là người đã biết đến tội.
Phaolô cũng thế, trước khi là vị Tông đồ nổi tiếng, ông đã là một người khét tiếng trong dư luận tín hữu thời sơ khai đến nỗi nghe đến tên ông người ta phải trốn chạy như chạy tà. Ông là kẻ bách hại đạo Công Giáo trước bất cứ ai. Tuổi trẻ ông săn lùng các tín hữu. Thế giá ông đe doạ họ. Bàn tay ông đã từng vấy máu các Thánh Tử Đạo tiên khởi. Ông ghét đạo đã đành, lại còn tự nguyện xin lệnh đi ruồng đi bố ráp những người theo đạo nữa. Quả thật, Phaolô là kẻ đã có kinh nghiệm về tội.
- Vì Phêrô và Phaolô đã quyết chí tìm về và hết mình sống cho sứ mạng được trao phó.
Nhưng điều quan trọng không phải là kể tội các ngài cho nhiều, mà là khởi đi từ tình trạng tội luỵ ấy để nhận ra, một khi đã được Chúa đánh động, Phêrô và Phaolô đã quyết chí tìm về và hết mình sống cho sứ mạng được trao phó.
Phêrô sau biến cố Phục Sinh đã là một Phêrô khác hẳn. Được hoàn toàn biến đổi: nên mới nên mạnh, nên lành nên trong, nên thông nên sáng, làm tiền đề để nên rạng ngời thánh đức hơn. Ngài đã thể hiện vai trò Tông đồ trưởng với tầm cao tương xứng của tinh thần trách nhiệm, và đã chu toàn sứ mạng thủ lãnh Giáo Hội Công Giáo với nét đẹp của dạ can trường. Để rồi cuối cùng chịu án đóng đinh tại Rôma làm sáng lên hình ảnh bất khuất của một niềm tin vào Đấng Cứu Thế, Con Thiên Chúa hằng sống. Nhờ sám hối, Phêrô đã nên thánh.
Còn Phaolô thì sau biến cố trên đường Đamas, nơi ông không còn giữ lại điều gì cũ nữa, mà tất cả đã được biến đổi. Nếu trước đây nhiệt tình cộng với ngu dốt về đạo đã trở thành phá hoại và gây khó khăn không ít cho Giáo Hội, thì sau này chính lòng nhiệt thành ấy cộng với ơn thánh và óc cầu tiến, Phaolô đã trở nên mẫu người không ai theo kịp về việc xây dựng Giáo Hội.
Nhiệt thành yêu Chúa Kitô, nhiệt thành yêu mến Tin Mừng và nhiệt thành đến ngổ ngáo trong việc truyền giáo. Tung hoành ngang dọc trên những cánh đồng Dân ngoại, để mỗi ngày đem về cho Chúa nhiều tâm hồn hoán cải. Cuối cùng, cũng chính tại Rôma, Phaolô đã bị xử trảm để mãi còn âm vang tiếng nói cao rao lòng nhiệt thành đến độ sẵn sàng hiến dâng mạng sống vì Tin Mừng cứu độ. Nhờ sám hối, Phaolô cũng trở nên đại thánh.
- Cho niềm tin hôm nay.
Nghiêng mình trước hai vị thánh đáng kính trong Phụng Vụ Thánh lễ hôm nay, tín hữu bỗng hiểu ra rằng: nét cao cả hai Đấng có được không phải là điều đương nhiên hay do tính tự nhiên, nhưng đã được đánh đổi bằng cả cuộc đời sám hối và không ngừng kêu gọi người ta sám hối.
Nếu trong thư của Phêrô, có lần chép: “Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu căng, nhưng ban ơn cho người khiêm nhu” (1 Pr 5,5), thì đó là vì ngài đã từng kinh nghiệm trong vai trò của nhà lãnh đạo sám hối tự nhìn vào mình, và chắc chắn đó là rút ruột tâm sự của một đời tay hòm chìa khoá Nước Trời, luôn tỉnh táo vật lộn với chính mình để vươn lên trong ơn thánh Chúa.
Và nếu trong thư của Phaolô đã nhiều lần kêu gọi: “Hãy giũ bỏ con người cũ để mặc lấy con người mới” (Ep 4,24), thì đó chẳng phải là lời khuyến thiện bờ môi chót lưỡi, mà chính là khởi đi từ một chuyện lòng rất riêng của một con người đã kinh qua chặng đường gạn đục khơi trong từ bỏ cái cũ kỹ tội lỗi để bước sang cái mới mẻ trẻ trung tuyệt vời.
Thì ra cái cao cả là cái phải trả giá bằng dò tìm trong hoán cải, là cái phải khổ công thắng vượt mà vươn lên, là cái phải kiểm tra xây dựng cân chỉnh không ngừng. Không biết có nên phát biể rằng: hôm nay Phêrô và Phaolô cao cả bao nhiêu là vì hôm qua đã sám hối bấy nhiêu. Giống như những ngôi nhà cao tầng đứng vững là vì có móng nền được chôn sâu trong lòng đất.
Tạ ơn Chúa đã không gọi một vị thánh lý lịch trong sạch hoàn toàn để đứng đầu Giáo Hội và một vị thánh chưa kinh nghiệm hoán cải để rao giảng Tin Mừng, mà đã thương chọn gọi hai vị sám hối để hôm nay nên Thánh cả rạng ngời. Ý nghĩ và tâm tình ấy đã nên nguồn cổ vũ cho đời sống tín hữu.
Để thêm tin tưởng: tại sao tôi phạm tội hoài? Tại sao trong Giáo Hội thánh thiện vẫn còn đó nhưng tội nhân? Bởi vì bản chất Giáo Hội là thánh, nhưng trong cuộc lữ hành vẫn cưu mang những kẻ có tội cần ơn sám hối. Điều quan trọng là biết trỗi dậy vươn lên kìa. Không phải vì mạnh mẽ mà người ta trỗi dậy được, nhưng vì trỗi dậy được người ta trở nên mạnh mẽ.
Để thêm hy vọng: tội lỗi quá làm sao nên thánh? Đừng lo. Bằng dạn dày kinh nghiệm, Phêrô và Phaolô đã là “đầu xuôi” để ta hôm nay nếu biết sám hối cũng trở nên “đuôi lọt” như các ngài, và nhờ lời chuyển cầu của hai vị cột trụ Hội Thánh, ta được thêm chí bền mà thắng lướt. Không thánh nhân nào không có quá khứ, chẳng tội nhân nào không có tương lai.
Để thêm yêu mến: Phêrô và Phaolô, hai gương mặt cao cả, nhưng không ở cao ở xa ở ngoài để lạnh lùng nhìn đời bằng nửa con mắt. Trái lại, mãi mãi các ngài vẫn ở trong Giáo Hội để ân cần gần gũi với mọi tâm hồn và sẵn sàng đỡ nâng dìu về đường ngay nẻo chính. Thanh gươm Phaolô chiến đấu giúp ta lìa xa tội lỗi, và chìa khoá Phêrô nhẹ nhàng mở ra cho ta cánh cửa Nước Trời.
8. Thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ
(Suy niệm của ĐGM. Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm – Trích trong Giải Nghĩa Lời Chúa)
HỦY BỎ CON NGƯỜI CŨ ĐỂ MẶC LẤY CON NGƯỜI MỚI
Suy Niệm:
Kinh Thánh có nhiều đoạn về hai thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô; nhưng phụng vụ đọc cho chúng ta nghe 3 bài này trong thánh lễ hôm nay. Chắc chắn phải có một hay nhiều ý tứ nào đó. Chúng ta được tự do tìm hiểu. Và nếu chúng ta đồng ý, chúng ta thử xếp đặt lại thứ tự 3 bài đọc như sau để có một phương hướng suy nghĩ. Trước hết bài Phúc âm gợi lên vinh dự của hai thánh Tông đồ được đặt làm rường cột cho Hội Thánh Chúa, rồi bài sách Công vụ cho chúng ta thấy các ngài được bảo hộ mạnh mẽ như thế nào khi thi hành sứ vụ; và cuối cùng bài Thánh thư kêu gọi chúng ta hết thảy hãy tin tưởng phấn đấu như các ngài đã hy sinh không mỏi mệt.
- Là Những Tông Ðồ Ðược Ðặc Cách
Bài Tin Mừng chỉ nói đến vinh dự đặc biệt đã được dành cho Phêrô. Nhưng vinh dự ấy một ngày kia cũng sẽ được trao tặng Phaolô qua lời Chúa phán với Hananya: Hãy đi tìm Saulô, vì nó là lợi khí Ta chọn để mang Danh Ta ra trước mặt các dân ngoại. Và Hananya đã ra đi làm theo lệnh Chúa, vì ông hiểu Phaolô đã được đặc cách, như Phêrô và các Tông đồ trước đây.
Phêrô hôm ấy cùng đi theo Chúa với đồng bạn… Cuộc truyền giáo của Chúa ở Galilê đã sửa soạn hoàn tất. Ngài sắp phải qua Yuđê để chịu thương khó. Ngài ý thức mọi sự và mọi việc. Ðể đánh dấu khúc quanh lịch sử quan trọng này, Chúa Yêsu đột xuất qua hỏi môn đệ: Người ta nói Con Người là ai? Ngài muốn đo kết quả của 3 năm truyền giáo. Ngài muốn biết môn đệ đã hiểu Ngài đến mức nào?
Người thì bảo Ngài là Yoan Tẩy giả; kẻ lại nói Ngài là Êlya; nhiều người khác nữa thì tưởng Ngài là Yêrêmya hay một tiên tri nào đó. Như vậy chung chung thiên hạ đã lờ mờ nghĩ rằng Ngài là Thiên sai cứu thế vì dư luận Dothái thời đó cho rằng các vị tiên tri như thế sẽ trở lại trong thời Ðấng Thiên sai và có thể một trong những vị đó sẽ chính là Ðấng muôn dân trông đợi. Ở đây chúng ta chỉ chú ý điều này: một mình sách Tin Mừng Matthêô nhắc đến tên tiên tri Yêrêmya, có lẽ muốn ngầm nói rằng: Ðấng Thiên sai sẽ đau khổ và bị bắt bớ như nhà Tiên tri đã có cuộc đời gian nan khổ sở, mà Chúa nhật XII Thường niên chúng ta đã nghe nói. Dù sao phần đông người ta vẫn chưa dám khẳng định dứt khoát Ðức Yêsu Kitô là ai.
Còn chính các môn đệ?
Chúa đã hỏi thẳng các ông. Chưa ai dám lên tiếng thưa, thì Phêrô đã nói: “Thầy là Ðức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Chắc chắn mọi người đã phải giật mình. Chính Chúa Yêsu cũng thấy rõ không phải xác thịt đã nói lên được điều đó. Con người tự nhiên không thể biết được như vậy. Quả là Cha trên trời đã mạc khải cho Phêrô, đã nói qua miệng lưỡi người Tông đồ này. Vì lời tuyên xưng kia thật là chính xác, là chính sự thật, vượt quá mọi hiểu biết và suy tư của con người. Chỉ có Cha trên trời biết Con, thế mà cho đến nay Người chưa mạc khải ra. Ðúng hơn, Người đã có lần công bố Yêsu Kitô là Con Chí Ái, nhưng Thánh Thần chưa được ban xuống cho loài người thì làm sao ai hiểu được điều đó. Thế mà miệng lưỡi của Phêrô vừa nói lên niềm tin chính xác mà chỉ sau này, khi đã được tràn đầy Thánh Thần, Hội Thánh mới có thể tuyên xưng.
Như vậy Phêrô đã được ơn mạc khải đặc biệt. Chúa Cha đã tỏ ra đặc cách Phêrô. Thế thì luôn luôn thi hành Thánh ý Người, Ðức Yêsu liền tuyên bố sẽ chọn Phêrô làm nền tảng để xây Hội Thánh của Người. Và quả thật tên của Phêrô như đã được tiền định vì Phêrô trong tiếng Dothái có nghĩa là Ðá. Vậy Phêrô sẽ là đá tảng xây nên Hội Thánh. Và Ðá này sẽ được củng cố để ngay sức mạnh hỏa ngục dấy lên cũng không lung lay nổi. Nhưng không phải để Phêrô đè đầu thiên hạ; Hội Thánh của Ðức Kitô là để cứu thế. Và cứu thế, trước hết là tha tội. Thế nên Ðức Kitô lại tiếp: Ta sẽ ban cho con chìa khóa Nước Trời để con đóng mở cho người ta ra vào.
Chúng ta mừng cho Phêrô đã được những vinh dự như vậy. Ðó là những ơn hoàn toàn nhưng không mà Thiên Chúa đã ban cho người, vì hạnh phúc của tất cả chúng ta. Sự lựa chọn hoàn toàn chỉ vì tình thương. Cũng như sau này, đang khi Phaolô hung hăng phi ngựa trên con đường Ðama để bắt đạo, Ðức Kitô đã từ trời cao phán gọi người, khiến người tức khắc ngã quỵ để rồi khi ngẩng lên, đã trở thành vị Tông đồ dân ngoại.
Nhiều người đã muốn thử giải thích vì những lý do tâm lý, xã hội và tôn giáo nào đã khiến hai thánh Tông đồ được lựa chọn một cách đột xuất, và được trao phó những sứ mạng cao cả như vậy? Nhưng chẳng có câu trả lời nào thỏa đáng, ngoại trừ công nhận chính mạc khải của lòng nhân nghĩa Chúa.
Do đó, ngày lễ hai thánh Tông đồ, trước hết chúng ta phải tuyên xưng điều ấy: chính Thiên Chúa đã đặc cách hai ngài. Và việc này khiến chúng ta phải hân hoan tạ ơn, bởi vì Hội Thánh chúng ta được xây trên nền tảng của hai ngài, mà hai ngài được Chúa đặc cách như vậy, thì tòa nhà Hội Thánh của chúng ta tốt đẹp, vinh dự và bảo đảm biết bao? Ngôi nhà của chúng ta không những vững bền mà còn đầy phúc, vì nền tảng của nó là hai vị Tông đồ đã được tuyển chọn một cách tuyệt diệu. Chúa Cha và Chúa Yêsu Kitô đã tỏ ra vô vàn ưu ái và rộng rãi, quyền năng đối với nền tảng của tòa nhà Hội Thánh chúng ta. Chúng ta phải hân hoan cảm mến. Và phải tiếp tục xem hai vị Tông đồ ưu tú đó đã thi hành sứ mệnh thế nào.
- Các Ngài Tiếp Tục Ðược Chúa Bảo Hộ
Bài sách Công vụ cho thấy Lời Chúa nói với Phêrô khi đặt người làm nền tảng Hội Thánh, luôn luôn thực hiện. Phêrô quả thật là Ðá vững vàng trong mọi sóng gió. Hêrôđê bấy giờ bắt đạo. Hành động và thái độ của nhà vua rất đẹp lòng người Dothái. Hêrôđê liền mạnh tay, truyền bắt giam chính Phêrô, thủ lãnh của Hội Thánh mới. Sức mạnh của hỏa ngục rõ ràng mạnh mẽ. Nhưng bài sách nghe đọc hôm nay cho thấy Phêrô bình tĩnh lạ thường. Dường như ông không nhúc nhích. Mặc cho người ta cùm tay trói chân, và đặt lính gác trong ngoài cửa ngục, ông như chìm đắm trong suy nghĩ nhớ đến giáo đoàn và hiệp ý cầu nguyện với tất cả nhiệm thể. Bỗng dưng xiềng xích ở tay chân mở ra. Có người bảo Phêrô mặc áo, thắt lưng và xỏ giầy vào. Rồi bảo ông đi theo. Ông không ngần ngại khoan thai cất bước, chẳng cần tìm hiểu. Hai người tiến bước dễ dàng; đi đến đâu, người vật dường như đều nhường bước. Kể cả cửa sắt có lính canh gác, cũng tự động mở ra mời hai người ra phố. Ðến lúc thần Chúa biến đi, Phêrô mới nhận ra: quả thật Chúa đã giải cứu mình.
Và về sau, khi suy nghĩ lại sự việc, ông mới thấy câu chuyện thật là mầu nhiệm. Ông đã bị bắt vào dịp lễ Bánh không men và cũng đã được giải thoát trong dịp ấy. Chúa Yêsu cũng đã bị nộp, bị giết và được Thiên Chúa cho sống lại vào dịp lễ Bánh không men. Phải chăng sự việc đã chẳng có ngụ ý rằng: đầy tớ không trọng hơn Thầy và đường Thầy đi thì tớ cũng sẽ phải theo. Phêrô phải đi theo đường của Chúa và sẽ đưa Hội Thánh Chúa đi vào. Ðó là con đường bị bắt, bị nộp, bị giết… nhưng sẽ dẫn tới phục sinh vinh quang. Và những người đi trên con đường ấy đều như thể chiên cừu bị đưa đi xén lông mà không hề kêu la. Phêrô trong câu truyện bị bắt hôm nay đã bắt chước Chúa Yêsu, hoàn toàn vâng theo Thánh ý Thiên Chúa. Và nếu chúng ta có đọc lại cuộc đời của Phaolô, chúng ta cũng thấy như vậy.
Những lời đầu tiên trong bài thư hôm nay xác định điều đó. Phaolô thấy mình là “tửu tế đã tiến”, tức là cuộc đời mình đã trở thành lễ tế. Ðó là thứ rượu người ta dâng khi thuyền rời bến… Và chính Chúa Yêsu cũng đã nói với Hananya khi sai ông đi gặp Saulô. Ta sẽ tỏ cho nó biết tất cả những gì nó sẽ phải chịu vì Danh Ta. Nên tất cả cuộc đời của Phaolô là chiến đấu trong cuộc chiến chính nghĩa. Người đã chạy đến cùng đường… Và nhìn lại người có thể đếm trên con đường ấy: bao nhiêu lần đắm tàu, nhịn đói, chịu khát, bị đánh, bị tù. Sức mạnh của hỏa ngục cũng tung ra mạnh mẽ, nhưng Ơn Chúa vẫn đủ cho Phaolô cũng như cho Phêrô. Ðến nỗi ngày hôm nay, nhắc lại việc tử đạo của hai ngài Hội Thánh hân hoan cử hành một ngày vinh quang.
Quả thật hôm nay chúng ta kính nhớ cuộc chiến vẻ vang của hai thánh Tông đồ. Gian khổ các ngài đã chịu thật là sức mạnh của hỏa ngục. Nhưng Chúa đã bảo hộ các ngài. Các ngài đã đưa con thuyền Giáo hội vượt xa qua bao sóng gió… Con thuyền ấy cứ mỗi ngày một lớn. Và nhìn khắp mặt biển trần gian, không chỗ nào mà ta không thấy nó. Có chỗ nó đang ung dung rẽ sóng. Chỗ khác, nó lại như thuyền của các Tông đồ gặp bão trên mặt hồ Tibêria. Chính trong những trường hợp khó khăn này, khuôn mặt của Phêrô và Phaolô như lại nổi lên, nhắc lại Lời Chúa hứa sẽ ở cùng Hội Thánh mãi mãi và sức mạnh của hỏa ngục sẽ chẳng làm gì được.
Chúng ta hãy lưu ý tỉ mỉ hơn đến điều nhắn nhủ của các ngài.
- Các Ngài Kêu Gọi Chúng Ta Tin Tưởng
Ðối với chúng ta, các ngài có một tình yêu thương đặc biệt. Bài thư Phaolô gửi cho Timôthê làm chứng điều ấy. Phêrô chắc chắn cũng đồng ý khuyên nhủ chúng ta như vậy. Vì hôm nay là lễ của hai ngài, Giáo hội nhắc nhớ lại cuộc đời phấn đấu kiên trung và thành quả của các ngài. Sự kiện này nào muốn nói lên gì khác hơn việc kêu gọi chúng ta hãy bắt chước các ngài.
Phaolô nói với Timôthê, tức là với tất cả chúng ta. Chúa đã phù hộ và ban sức mạnh cho người. Chúa sẽ cứu và độ người vào Nước trên trời. Và hoàn lại cho người triều thiên công chính, không phải cho người mà thôi, nhưng còn cho hết mọi người đầy lòng mến yêu trông đợi cuộc hiển linh của Chúa. Nói tắt, hai thánh Tông đồ đã muốn cho chúng ta cũng mến Chúa và tin tưởng phấn đấu cho Chúa.
Vì thế chúng ta phải nhìn lại đời sống các ngài để thấy từ đầu các ngài đã đón nhận ơn Chúa thế nào và đã tiếp tục làm sao để đi đến vinh quang ngày nay. Các ngài đã được Chúa chiếu cố một cách đặc biệt và đã được Người tiếp tục bảo hộ. Có thể nói các ngài chẳng có công trạng nào hết: Phêrô rõ ràng là người không có gì cả; còn Phaolô đã có lần khẳng định mọi điều người có theo xác thịt, thì người đã bỏ đi hết và coi như phân bón để được tình yêu nhưng không của Ðức Yêsu Kitô.
Ðó là thái độ căn bản của Kitô giáo. Người ta phải hủy bỏ con người cũ và mọi sự thuộc về nó để mặc lấy con người mới là Thần trí của Ðức Yêsu Kitô hầu chỉ còn sống cho Thiên Chúa. Khi đó người ta mới là người của Chúa và là lợi khí để Người dùng vào việc xây dựng Nước Trời. Và triều thiên công chính mới để dành cho người ấy.
Chúng ta có nên sợ trở thành những con người như vậy không? Có lẽ nhiều người ngại ngùng khi nghe nói đến thái độ từ bỏ. Nhưng ai có gì lắm mà sợ phải bỏ? Ðàng khác điều quan trọng là từ bỏ con người cũ; chứ từ bỏ những sự vật chất đâu đã là điều khó lắm. Và con người cũ là tinh thần không muốn đón nhận mạc khải của Chúa, không để cho Lời Chúa đi vào tâm hồn và sinh động ở trong đó để dần dần đổi mới chúng ta từ bên trong. Cả Phêrô và Phaolô đều đã bắt đầu đi vào đường lối của Chúa khi đón nhận lời mạc khải. Phêrô đã để Chúa Cha nói lên ở trong mình. Phaolô đã để lời Chúa Yêsu lọt vào tai khiến mình quỵ xuống và trở nên con người mới. Chúng ta phải bắt đầu nên thánh từ thái độ đầu tiên ấy: tức là đón nhận lời mạc khải, đón nhận ơn Chúa vào mình và để cho chính ơn Chúa từ đó làm việc nơi chúng ta.
Giờ đây Chúa cũng đến với chúng ta trong thánh lễ. Mình Máu Thánh Chúa đến tăng cường cho Lời Chúa chúng ta vừa nghe. Ai đón nhận Lời Chúa và Mình Thánh Chúa thật sự, sẽ để Người tiếp tục sống trong mình. Chính Người sẽ hoàn thành công việc của Người nơi chúng ta như nơi hai thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô. Chúng ta hãy cầu xin hai thánh cho chúng ta biết bắt chước các ngài.
9. Hai con người
Từ xưa tới nay, Giáo Hội vẫn có thói quen liên kết hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô trong một triều thiên vinh quang. Kinh Tiền Tụng hôm nay đã diễn tả như sau: Thánh Phêrô là vị thủ lãnh trong việc tuyên xưng Đức Kitô. Thánh Phaolô là người bảo vệ lừng danh trong việc tìm hiểu Đức Kitô. Thánh Phêrô thiết lập Hội Thánh tiên khởi cho những người Israel còn lại. Thánh Phaolô là thầy và là đấng dạy dỗ muôn dân được kêu gọi. Và kinh Tiền Tụng đã kết luận: Các ngài đã dùng những đường lối khác nhau mà quy tụ một gia đình cho Chúa. Với lời ca tụng trên đây, Giáo Hội không những đề cao sự hợp nhất giữa hai đường lối khác nhau mà còn ngợi khen sự hợp nhất giữa hai con người có nhiều khác biệt.
Thực vậy, thánh Phêrô vốn bản chất dân chài lưới, trực tính và nghiêng về thực tiễn. Còn thánh Phaolô là người trí thức, hay lý luận và thích đào sâu giáo lý. Thánh Phêrô quan tâm đến việc loan báo Tin Mừng cho người đạo cũ, nên không muốn sửa đổi nhiều những gì vốn có kẻo phật lòng họ. Còn thánh Phaolô nhằm truyền bá đức tin cho các dân ngoại, nên muốn bỏ đi những lề luật của đạo cũ không còn thích hợp, kẻo nặng gánh cho những người dân ngoại xin tòng giáo. Thánh Phêrô là Giáo hoàng, nhưng không vì thế mà áp đặt ý kiến của mình. Thánh Phaolô là Giám mục, nhưng không vì thế mà không thẳng thắn trình bày quan điểm riêng của mình, để trao đổi và bàn luận. Thánh Phêrô là người đã có lần chối Chúa vì yếu đuối và đã ăn năn sám hối do cái nhìn xót thương của Chúa. Còn thánh Phaolô đã có lần bắt bớ đạo Chúa vì lầm lạc và đã trở lại nhờ sự giúp đỡ của một môn đệ Chúa.
Với nhiều khác biệt, hai thánh Phêrô và Phaolô tông đồ đã được liên kết lại để bổ túc cho nhau, làm cho nền móng của Giáo Hội được bền vững. Động lực liên kết các ngài lại với nhau chính là việc mở rộng Nước Chúa. Cái nhìn trên đây giúp chúng ta thêm tin tưởng hơn vào Chúa trong việc bảo vệ, xây dựng và phát triển Giáo Hội. Đúng thế, Giáo Hội là hình ảnh của sự quy tụ hiệp thông và liên kết. Giáo Hội là khí cụ kết hợp với Chúa và với nhân loại. Trong Giáo Hội có yếu tố Thiên Chúa và cũng có yếu tố nhân loại. Có người nhân đức và cũng có kẻ tội lỗi. Có phẩm trật và cũng có thành phần dân Thiên Chúa. Giáo Hội vừa trung thành với truyền thống vừa phải đổi mới cho thích hợp với lịch sử từng thời và từng nơi. Giáo Hội vừa củng cố đức tin cho người có đạo lại vừa truyền bá đức tin cho người ngoại đạo.
Biết liên kết những cái khác nhau trong Giáo Hội và trong nhân loại là một đặc điểm quan trọng của Kitô giáo. Bởi vậy trong giây phút này chúng ta hãy cầu nguyện cho sự hiệp nhất, mặc dù có những khác biệt trong lòng Giáo Hội, nhưng chúng ta vẫn có thể và phải liên kết phải trở nên một hầu ước vọng của Chúa Giêsu sẽ là một sự thật: Xin cho mọi người được hợp nhất trong chúng ta để cho thế gian nhận biết rằng Cha đã sai con.
10. Một đức tin
Hôm nay cùng với Giáo hội, chúng ta long trọng cử hành lễ trọng kính thánh Phêrô và Phaolô, lễ này cũng là dịp giúp chúng ta chiêm ngắm gương sống đức tin của các Ngài. Các Ngài là hai con người khác nhau, nhưng đón nhận cùng một đức tin từ Thiên Chúa, nhưng các Ngài đã vượt qua và ra đi rao giảng đức tin của mình.
Đức tin được đón nhận
Chúng ta thấy Phêrô và phaolô hai người có hai hoàn cảnh, hai địavị, hai trình độ… hoàn toàn khác nhau nhưng các Ngài cùng đón nhận một đức tin duy nhất đến từ Thiên Chúa. Phêrô là người chài lưới, ông rất hăng say, nhiệt tình và có một tâm hồn nhạy cảm. Ông không ngần ngại, không suy nghĩ đắn đo gì, đã bỏ tất cả mọi sự theo Chúa khi Chúa gọi, điều này cho chúng ta thấy rất rõ Phêrô cảm nghiệm bằng tình yêu nhanh hơn lý trí. Phêrô tin và theo Chúa với tất cả lòng nhiệt thành của mình và niềm tin đó được tuyên xưng cách mạng mẽ rõ ràng: “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống”. Lời tuyên xưng này thật chính xác, vượt quá mọi hiểu biết và suy tư con người, đây là lời tuyên xưng về bản tính Thiên Chúa của Đức Giêsu này chính là chỉnh cao trong đời sống niềm tin của Phêrô. Có thể là đại diện cho nhóm mười hai, nhưng đây cũng là lời tuyên xưng cho chính Phêrô. Chúa Giêsu xác định lời tuyên xưng này do Chúa Cha mạc khải nên Phêrô mới biết được: “Anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mạc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha Thầy Đấng ngự trên trời”.
Với Phaolô, ông là người biệt phái đã từng bách hại môn đệ Chúa, thái độ đó được biểu lộ khi ông đồng tình trong vụ ném đá Stêphanô. Đang khi ông hăng say phi ngựa trên đường Damas để bắt đạo, Phaolô được Chúa Kitô Phục sinh gọi và thanh luyện, một quầng sáng đã bao ttrùm ông, khiến ông bị mù lòa đôi mắt thân xác sau khi ngã ngựa, nhưng đồng thời quầng sáng ấy đã mở cho ông cặp mắt đức tin, ông đã thực sự tin tưởng vào một Đức Giêsu chịu đóng đinh và sống lại, là chính Đấng mà Phaolô đang bắt bớ trở thành Đấng mà “không ai và không gì có thể tách ông ra khỏi lòng mến của Ngài”.
Rõ ràng Phêrô và Phaolô đã đón nhận đức tin trực tiếp từ Đức Giêsu Kitô, còn chúng ta đã đón nhận đức tin gián tiếp qua cha mẹ, Giáo hội …dù khởi đi từ nguồn nào điều đó không quan trọng cho bằng chính thái độ đón nhận của ta, đức tin đo có gắn liền với chích con người mình hay không? Một khi đón nhận cách chân thành, thì chắc chắn chúng ta cũng bị thử thách như Phêrô và Phaolô đã từng bị thử tháh.
Đức tin bị thử thách
Mặc dù Phêrô và phaolô tin Chúa rất mãnh liệt, nhưng đức tin các Ngài cũng không ngừng bị thử thách. Đức tin Phêrô còn phải là nên tảng nâng đỡ đức tin Giáo hội, nên đức tin đó bị thử thách rất nhiều. Phêrô đã từng tin vào Chúa, nhưng mới trước được Chúa khen tặng là đá tảng thì liền sau đó bị Chúa quở trách là Satan hãy lui ra, đã có lần thề hứa “dù phải chết với Thầy con không chối Thầy” mới hứa đó thì liền sau đó ba lần chối Chúa, mới phút trước ung dung bước đi trên ngọn sóng thì phút sau bị chìm vì nghi ngờ. Rỡ rằng là nhiều khi Phêrô nói mà chẳng hiểu mình nói gì, và chính cuộc tử nạn và cái chết của Đức Giêsu là một thử thách có tính quyết định đối với niềm tin của Phêrô. Cuộc đời theo Chúa của Phêrô đã sa ngã biết bao nhiêu lần trước khi trở thành đá tảng vững chắc, trên đó Đức Giêsu Kit xây dựng Hội thánh Người. Phêrô chỉ có thể nâng đỡ Đức tin cho anh em sau khi trở lại từ kinh nghiệm yếu đuối sa ngã của mình.
Và Phaolô cũng bị thử thách “năm lần bị người Do thái đánh 40 roi bớt một, ba lần bị đắm tàu, ba lần bị đánh đòn, một lần bị ném đá, một đêm một ngày lênh đênh trên biển khơi”, ngoài ra ông còn gặp nhiều khó khăn nguy hiểm trong các cuộc hành trình phải chịu đói khát, rét lạnh… cho dù những nguy hiểm ấy ngày đêm cứ bám chặt vây bủa lấy ông thay vì chùng bước, nhưng niềm tin vào Đấng Kitô Phục sinh qua mạnh nên ông coi những việc xảy ra cho ông không quan trọng. Ong chỉ có một mối bận tâm ray rứt là lo cho tất cả Hội Thánh vì lòng yêu mến và nhiệt thành nhà Chúa “tình yêu Chúa Kitô thức bách tôi”. Ông coi sự sống của ông không phải là củ ông mà của đấng đã gọi chọn ông, đến độ ông thốt ra: “Tôi sống nhưng không phải là Tôi sống mà là Đức Kitô sống trong Tôi”.
Khi nhìn lại cuộc sống, chắc chắn ai cũng đã hoặc đang ít nhất một lần trải qua những đau khổ như: nghèo đói, bệnh tật, thất vọng… Trước những nghịch cảnh đó chúng ta có đứng vững hay bị chao đảo nghi ngờ đức tin? Nếu vẫn còn một niềm tin sắc con thì hãy làm chứng đức tin của mình cho người khác như mẫu gương của Phêrô và Phaolô.
Đức tin được rao giảng
Phêrô và phaolô là hai khuôn mặt lớn trong việc rao giảng Tin Mừng. Cuộc đời Phêrô sau khi gặp những thử thách thay vì nhút nhát là một dạ can trường, thay vì chao đảo là một lòng xác tín. Sau khi Thánh Thần hiện xuống ông là người đầu tiên công khai rao giảng Tin Mừng Chúa Cứu Thế cho mọi người, đặc biệt là người Do tháij. Khi Chúa Giêsu đặt ông làm đá tảng Hội Thánh ông đã sống đúng với chức vị của mình, ông làm chứng và rao giảng hết sức hùng hồn về Đức Giêsu Kitô bị giết và đã sống lại từ cõi chết “Anh em đã giết Đấng khơi nguồn sự sống, nhưng Thiên Chúa đã cho Người trỗi dậy từ cõi chết, chúng tôi xin làm chứng”.. Phêrô cũng cho thấy chính Đức Kitô là Đấng Cứu Độ duy nhất cho nhân loại, chỉ có nơi Ngài mới có được ơn cứu độ: “dưới gầm trời này có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta nhờ đó mà được cứu độ”. Quả thật ông là đá tảng vững vào trong mọi sóng gió, những điều ông rao giảng đã chứng minh bằng cái chết của ông tại Rôma.
Còn Phaolô, sau khi gắn bó với Chúa Kitô một cách mật thiết, ông đã lao mình về phía trước như một vận động viên, và dùng chính sự nhiệt thành của mình đi bất cứ nơi đâu vào bất cứ ngóc ngách nào, bất chấp mọi gian khổ tù đày do quyền bính trần thế gây ra, miễn là từ cánh đồng dân ngoại đem về cho Chúa các linh hồn. Phaolô cũng dùng chính khả năng tri thức của mình để trở nên lợi khí phổ biến Tin Mừng cho những vùng đất mới, coi việc rao giảng Tin Mừng là bổn phận và niềm hạnh phúc của mình: “Vô Phúc cho tôi nêu tôi không rao giảng về Đức Kitô”, ông không hổ thẹn về Tin Mừng bở vì Tin Mừng đem lại ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại, đến với những người tin.
Ta thấy rõ Phêrô và Phaolô liên kết trong niềm tin, lòng mến Chúa Kitô và Giáo hội, Phaolô luôn hướng về Phêrô như nền tảng cho niềm tin và thế giá Tin Mừng mà ông rao giảng. Nền tảng Pherô cũng là định hước cuộc tiến bước trong đức tin và đảm bảo sự thống nhất dân Chúa trong lòng mến. Điều mà minh chứng hùng hồn nhất đức tin của Phêrô và Phaolô rao giảng đó là việc hai Ngài cùng hội tụ tại Rôma để làm chứng cho Chúa Kitô bằng chính máu đào của mình. Phêrô và Phaolô đã làm thành khuôn mẫu cho việc rao giảng niềm tin cho mọi người.
Còn chúng ta, khi đứng trước một thế giới dường như mất cảm thức về tội, quá nhiều người chưa biết và không tin Chúa, chúng ta có dám sống và giới thiệu một Đức Giêsu Kitô đã chết và sống lại như Phêrô và phaolô không? chúng ta hãy cố lên, can đảm minh chứng đức tin của mình vì chỉ có nơi Đức Giêsu Kitô con người mới được cứu độ.
Sự khác biệt giữa hai cuộc đời, hai quá khứ của Phêrô và phaolô, đã nối thành một, bởi một sởi chỉ vào “Đức tin vào Thiên Chúa”.
Chúng ta mỗi người tuy khác nhau, nhưng có cùng một niềm tin vào Đức Giêsu Kitô. Chúng ta hãy sống liên đới hiệp nhất với nhau, kiên vững trong đức tin, xẵng sàng minh chứng đức tin của mình qua đời sống cụ thể hằng ngày, điều đó chỉ thực hiện được khi mỗi người biết siêng năng cầu nguyện, múc lấy nguồn sức mạnh nơi bí tích Thánh Thể, luôn kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu Kitô, để lời tuyên xưng của Phêrô trở thanh kinh nghiệm riêng cho mỗi người: “Lạy Thầy, bỏ Thầy con biết theo ai?”.
11. Đức tin
Hôm nay, chúng ta mừng kính trọng thể lễ thánh tông đồ Phêrô và Phaolô tông đồ, là hai cột trụ chống đỡ cho tòa nhà Giáo hội. Chúng ta cùng nhau dừng lại suy gẫm về một mẫu gương của hai đấng, để noi theo và bắt chước, như lời thánh Phaolô đã xác quyết:
– Anh em hãy bắt chước chúng tôi, như chúng tôi đã bắt chước Đức Kitô.
Nhờ đó, đời sống chúng ta không tầm thường, không tăm tối, nhưng sẽ xứng đáng hơn với tước hiệu người Kitô hữu, người có Đức Kitô trong tâm hồn, người mang Đức Kitô trong cuộc sống.
Mẫu gương chúng ta chia sẻ giờ đây, đó là đức tin của các ngài.
Ngay từ đầu thánh Phêrô đã có một đức tin kiên vững. Thực vậy, trước những dư luận trái ngược nhau, Chúa Giêsu đã hỏi các môn đệ xem họ nghĩ gì về Ngài. Thánh Phêrô đã không ngần ngại trả lời:
– Thầy là Đức Kitô, con Thiên Chúa hằng sống.
Lần khác Chúa Giêsu hứa ban thịt máu mình làm của ăn và của uống nuôi sống linh hồn. Người Do thái lấy làm chướng tai, nên đã nói:
– Những lời ấy thật là khó nghe làm sao mà chấp nhận được.
Và rồi họ đã bỏ Chúa mà đi. Chúa Giêsu quay sang hỏi các môn đệ:
– Cả các con nữa, các con cũng muốn bỏ đi hay sao?
Thánh Phêrô vẫn với sự hăng say thường lệ đã thưa lên:
– Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con biết theo ai vì chỉ mình Thầy mới có những lời ban sự sống. Chúng con tin và chúng con biết rằng Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa.
Đức tin của Phêrô được đặt cơ sở trên đá tảng vững chắc. Sau này, trong một bức thư ngài đã viết cho các tín hữu như sau:
– Chúng ta không tin vào những chuyện bịa đặt, nhưng tin vào những bằng chứng cụ thể tai nghe mắt thấy, để nhận biết quyền năng của Đức Kitô.
Thực vậy Phêrô đã nhìn thấy Đức Kitô biến hình trên đỉnh Tabor, đã nghe những lời xuất phát từ môi miệng Chúa Cha:
– Này là con ta yêu dấu, đẹp lòng ta mọi đàng.
Tự bản chất, Phêrô không phải là một kẻ cứng lòng nhưng Phêrô đòi hỏi phải có những chứng cớ.
Khi những người đàn bà đạo đức trở về và nói Chúa đã sống lại phản ứng đầu tiên và tự nhiên của Phêrô là nghi ngờ. Phêrô muốn xem xét sự việc theo quan niệm riêng của mình và muốn tận mắt được nhìn thấy Chúa…
Thánh Phaolô cũng đã nói theo thánh Phêrô để có một đức tin kiên vững và nhiệt thành.
Sau khi bị quật ngã trên đường Đamas và được Chúa soi sáng. Phaolô đã rao khắp các hội đường Do thái để rao giảng và minh chứng Đức Kitô là con Thiên Chúa, khiến những người Do thái phải ngạc nhiên và nói với nhau:
– Ông ấy chẳng phải là kẻ đã bách hại những người kêu cầu tên Giêsu và đã tới đây để dẫn độ các tín hữu về cho Thầy cả thượng phẩm đó sao?
Ngày càng thêm hăng say, Phaolô đã gặp gỡ những người Do thái tại Đamas và minh chứng cho họ biết Chúa Giêsu chính là đấng thiên sai. Được tiếp nhận ánh sáng tự trời cao, Phaolô đã chiếu tỏa ánh sáng ấy ra chung quanh.
Đức tin chính là vấn đề Phaolô không ngừng nói tới, coi đó là điều kiện để được cứu độ và đòi buộc các tín hữu phải thực hiện liên tục. Phaolô bảo: Người công chính sống bởi đức tin. Phaolô đòi hỏi nơi chúng ta một đức tin sống động và trưởng thành, và chính thánh nhân cũng đã nêu gương trước cho chúng ta: Đức tin đã thấm nhiễm vào suốt cả cuộc đời Phaolô và là động cơ thúc đẩy Phaolô hành động.
Cuối cùng cả hai đã hy sinh mạng sống để làm chứng cho niềm tin kiên vững, niềm tin sắt đá của mình. Phêrô đã bị đóng đinh trên ngọn đồi Vatican, còn Phaolô thì bị chém đầu trên đường Ostie.
Giữa những đảo điên của cuộc sống, giữa những quyễn rũ của trần thế, nhờ lời bầu cử của hai thánh Phêrô và Phaolô, chúng ta hãy xin Chúa hãy cũng cố niềm tin nhỏ bé của chúng ta.
12. Hai cuộc đổi đời
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Hôm nay chúng ta mừng kính thánh Phêrô và Phaolô tông đồ. Các ngài là cột trụ của Hội Thánh. Các ngài là những viên đá tảng, đá quý để xây dựng toà nhà Hội thánh vững chắc và toả rạng cho khắp năm châu.
Các ngài là cột trụ của niềm tin cho toàn thể Hội thánh. Một niềm tin không gì có thể lay chuyển đến nỗi “ma quỷ cũng không thắng nổi”. Một đức tin can trường đến nỗi dầu có chịu nhiều thiệt thòi, dầu có phải trải qua những gian truân cùng khốn: tù đầy, đói rét hay phải bôn ba rầy đây mau đó, phải vượt qua biết bao phong ba bão tố, các ngài vẫn vui lòng chấp nhận vì được thông phần đau khổ với Thầy Giêsu.
Hai con người này tuy được sự giáo dục khác nhau, và hấp thụ những văn hoá khác nhau, nhưng họ lại đi chung một đường, và cùng chung một lý tưởng. Cuộc đời các ngài đều phải lội ngược dòng để làm lại cuộc đời, để thay đổi cách sống sao cho phù hợp với niềm tin của mình.
Thực vậy, nhìn vào đời sống của hai trụ cột của Hội thánh, chúng ta thấy: một Phêrô đã từng sa ngã. Ông đã từng can ngăn không muốn cho Chúa nộp mình chịu chết. Ông đã đi đến tận tùng của sa ngã là hành vi chối Chúa đến ba lần trong cùng một đêm. Một Phaolô đã hăng say lùng bắt các môn đệ của Chúa. Chính ông đã đồng loã với bọn quá khích ném đá vị tử đạo đầu tiên là Stephano. Thế nhưng, ý Chúa nhiệm mầu. Tình yêu của Chúa đã thắng vượt những yếu đuối của Phêrô và Phaolô. Chúa đã dùng muôn nghìn cách để đổi đời các ngài. Chúa đã tạo cho các ngài cơ hội để chuộc lại lỗi lầm. Chúa đã nói cùng Phêrô: “một khi con trở lại hãy củng cố đức tin của anh em con”.
Theo Thánh Kinh kể lại: Sau khi chối Thầy lần thứ ba, từ trên pháp đình Chúa nhìn xuống Phêrô, Ngài biết hết! Phêrô chột dạ. Phêrô nhớ lại lời Thầy: “Nội trong đêm nay, trước khi gà gáy con đã chối Thầy ba lần”. Tức thì, Phêrô lầm lũi ra khỏi pháp đình, nước mắt tuôn trào, tâm hồn trũi nặng, một cái gì đó đã chết trong ông. Vâng, đã chết rồi, niềm tự hào, tự tin quá mức. Còn lời nào biện mình cho hành động hèn nhát của ông. Còn đâu lời khẳng khái: “mọi người có bỏ Thầy, riêng con thì không bao giờ”. Ông chỉ là cát bụi, ông biết mình chỉ là cát bụi, yếu hèn và rất dễ sa ngã. Nhưng đêm hôm đó, một biến cố trọng đại đã “đổi mới” tâm hồn Phêrô. Lòng ăn năn bộc phát và lòng khiêm nhường chân thành đã biến Phêrô thành người thuyền trưởng trên con tàu Giáo hội.
Còn Phaolô thì sao? sau khi ngã ngựa đớn đau bởi một luồng sáng chói loà. Mắt ông không còn thấy gì nữa, ông như kẻ bị mù trong ba ngày. Nhưng thật ra, tâm hồn ông lại sáng. Ông đang thấy và thấy rất rõ. Đó là Đức Giêsu, Người đã Sống lại thật, lên trời ngự bên hữu Chúa Cha. Đó là sự thật mà ông phải chấp nhận. Một sự thật mà từ nay ông phải làm chứng về những điều đã nghe, đã thấy và đã biết.
Vâng, có thể nói, nhờ sự đổi mới cuộc đời của Phêrô và Phaolô mà cả thế giới được đổi mới. Văn hoá ky-tô giáo đã làm mới lại bộ mặt địa cầu. Có thể nói ở đâu đó còn có những người chưa tin vào Chúa nhưng họ đã được thấm nhuần văn hoá Kitô giáo. Ở đâu đó vẫn còn đó những người được đổi mới cuộc đời nhờ vào lời Chúa và sức mạnh của tin mừng. Ở đâu đó vẫn còn đó những tâm hồn thất vọng, lầm than họ đã bừng lên niềm hy vọng nhờ những giá trị tin mừng mà Kitô giáo mang lại cho họ.
Mừng kính hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô, mỗi người chúng ta được mời gọi tiếp nối truyền thống của các tông đồ mang tin mừng đến khắp cùng trái đất. Mỗi người chúng ta cũng là những viên đá sống động, góp phần xây dựng toà nhà Hội thánh. Dù nhỏ bé, yếu hèn và bất lực, nhưng Chúa sẽ dùng tuỳ theo nhu cầu của Ngài. Chính Ngài sẽ đổi mới cuộc đời chúng ta bằng ân sủng và tình thương của Ngài, để nhờ đó chúng ta cũng có khả năng đổi mới môi trường chúng ta đang sống. Đồng thời chúng ta hãy cầu nguyện nhiều hơn cho Đức Thánh Cha, cho các giám mục là những Đấng kế vị thánh Phêrô và các tông đồ. Xin Chúa ban thêm sức mạnh, nghị lực và ơn khôn ngoan, để các ngài luôn là điểm tựa cho niềm tin của chúng ta. Amen.
13. Thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
“Phần các con, các con bảo Thầy là ai?” (Mt 16,15)
Đó là câu hỏi Chúa Giêsu hỏi các môn đệ của mình để trắc nghiệm họ về sự hiểu biết của họ về danh tính của chính Chúa Giêsu, khi Ngài đang đồng hành với các ông từ thượng lưu Galilê đi xuống. Hẳn đã nhiều lần người ta đặt cho các môn đệ câu hỏi về Chúa Giêsu, lần này chính Thầy Giêsu hỏi họ về Ngài. Một câu hỏi rất cụ thể được Chúa đặt ra, và chờ họ trả lời. Và đây, Simon Phêrô đã thay mặt cả nhóm thưa: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Câu trả lời thật rõ ràng. Ở đây, Đức tin của Giáo Hội phản chiếu một cách trọn vẹn. Chúng ta cũng thế, chúng ta được soi sáng cách đặc biệt do lời tuyên xưng của Phêrô.
Phêrô tuyên xưng “Thầy là Đức Kitô!”
Với lời tuyên xưng của Phêrô, Chúa Giêsu trả lời: “Hỡi Simon con ông Giona, con có phúc, vì chẳng phải xác thịt hay máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 16, 17). – Phêrô, con thật có phúc! Hạnh phúc thật, bởi vì sự thật này, là trung tâm đức tin của Giáo Hội, có thể nảy sinh trong tâm thức của con người như công việc của Thiên Chúa. “Không ai biết Con, trừ ra Cha, và không ai biết Cha trừ ra Con và kẻ Con muốn mặc khải cho” (Mt 11, 27). Câu Tin Mừng giầu ý nghĩa và phong phú này khiến chúng ta suy nghĩ: Ngôi Lời Nhập Thể đã mạc khải Chúa Cha cho các môn đệ của mình, và giờ đây đến lượt Chúa Cha mạc khải cho họ chính Con Một của Ngài. Phêrô chấp nhận sự soi sáng nội tâm và ông can đảm tuyên xưng: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”! Những lời này ở trên môi của Phêrô, nhưng phát xuất từ mầu nhiệm thâm sâu của Thiên Chúa. Đó là những lời mạc khải chân lý nội tại, và đời sống của chính Thiên Chúa. Và Phêrô, dưới tác động của Chúa Thánh Thần, đã trở thành một nhân chứng, và là người tuyên xưng chân lý siêu phàm ấy. Lời tuyên xưng của ông là nền tảng đức tin của Giáo Hội “Trên đá này, Ta sẽ xây Hội Thánh của Ta” (x. Mt 16, 18). Dựa vào đức tin và lòng trung thành của Phêrô, Giáo Hội của Chúa Kitô được thiết lập. Cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi ý thức rõ điều ấy, như sách Công Vụ Tông Đồ đã viết, khi Phêrô bị giam trong ngục. Và Hội Thánh khẩn thiết dâng lời khẩn nguyện lên cùng Thiên Chúa cho ông (x. Cv 12: 5). Giáo hội đã được nghe, vì sự hiện diện của Phêrô vẫn cần thiết cho cộng đoàn trong những giai đoạn đầu của Hội Thánh: Chúa đã sai thiên thần của Người đến mà giải thoát họ khỏi tay những người bách hại (x.12, 7-11.). Điều này đã được viết trong ý định của Thiên Chúa mà Phêrô, sau khi thừa nhận với anh em mình trong đức tin, đau khổ tử vì đạo ở Rôma, cùng với Thánh Phaolô, vị Tông Đồ dân ngoại, cũng thoát chết nhiều lần.
“Nhưng Chúa đã phù hộ tôi và ban sức mạnh cho tôi, để dùng tôi hoàn thành công việc rao giảng, và cho mọi dân tộc được nghe biết. Và tôi đã thoát khỏi miệng sư tử” (2 Tim 4, 17). Đó là những lời của Phaolô người môn đệ trung thành. Những lời này làm chứng cho việc được thành toàn nơi ông nhờ ơn Chúa, Đấng đã chọn ông cho sứ vụ loang báo Tin Mừng. Đấng đã, “chọn ông” trên đường đi Damas (x. Pl 3, 12). Được bao phủ trong ánh sáng chói lòa con mắt, Chúa đã hiện ra với ông và nói rằng: “Saul, Saul, tại sao ngươi bắt bớ Ta? “(Cv 9,4), một sức mạnh diệu kỳ quật ngã ông xuống đất (x. Cv 9,5). Saul hỏi: “Thưa Ngài, Ngài là ai? Chúa Giêsu trả lời “Ta là Giêsu, ngươi đang bắt bớ”! (Cv 9, 5). Có phải câu trả lời của Chúa Kitô hàm ý Saul đang bách hại những người theo Chúa Giêsu và Chúa Giêsu báo cho ông biết rằng, chính bản thân ông cũng đang bị họ bách hại lại. Chúa Giêsu thành Nazareth, Đấng chịu đóng đinh, Đấng mà các Kitô hữu loan truyền. Ngài đã phục sinh. Nếu bây giờ, Saul cảm thấy sự hiện diện mạnh mẽ, rõ ràng rằng Thiên Chúa đã thực sự sống lại từ cõi chết. Ngài chính là Đấng Mê-sia, Đấng dân Israel trông đợi, đó là Chúa Kitô hằng sống, đang hiện diện trong Giáo Hội và thế giới!
Với lý lẽ trên, liệu Saul có thể hiểu tất cả những gì hàm chứa trong một biến cố như vậy không? Chắc là không! Đúng thế, vì đó chỉ là một phần trong những ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa. Thiên Chúa Cha sẽ trao ban cho Phaolô ơn hiểu biết mầu nhiệm cứu chuộc, do Đức Kitô thực hiện. Chính Ngài sẽ làm cho Phaolô hiểu được thực tại tuyệt vời của Giáo Hội, để Phaolô sống cho Chúa Kitô, với Chúa Kitô và trong Chúa Kitô. Còn Phaolô, khi tham dự vào thực tại này, ông sẽ không ngừng loan truyền cách không mệt mỏi cho đến tận cùng của trái đất. Từ Damas, Phaolô bắt đầu cuộc hành trình tông đồ của mình, hành trình ấy sẽ dẫn Phaolô mang Tin Mừng cho mọi quốc gia trên thế giới, đến những nơi mà ông được kêu gọi. Lòng nhiệt thành truyền giáo của Phaolô sẽ giúp ngài thực hiện được nhiệm vụ mà Chúa Kitô ủy thác cho các Tông Đồ: “Vậy anh em hãy đi, và làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Thầy” (Mt 28, 19).
Sự hiệp nhất tròn đầy của Giáo Hội!
Giáo hội mang trong mình sứ mạng do Chúa Kitô ủy thác. Đây là sứ mạng cần thiết ở thời đại này. Chúng ta hãy cầu nguyện cho hiệp nhất và những tiến trình cho hiệp nhất, đừng bao giờ chán nản, hay thất vọng.
Nguyện xin Chúa ban cho chúng ta sớm đạt được sự hiệp thông trọn vẹn nơi tất cả những người tin vào Chúa Kitô. Hai thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô đã cho chúng ta ơn đó, Giáo Hội nhắc lại cho chúng ta trong ngày này, nhờ sự kính nhớ cái chết tử đạo, ngày sinh ra vào đời sống mới trong Chúa của các ngài. Vì Tin Mừng, các ngài đã chấp nhận chịu đau khổ, chịu chết và các ngài đã được tham dự vào sự phục sinh của Chúa. Đức tin mà các ngài minh chứng bằng cái chết tử đạo của chính mình, là đức tin giống như Đức Maria, Mẹ của những người tin, Mẹ của các thánh Tông Đồ, và các thánh nam nữ trong mọi thời đại. Ngày nay, Giáo Hội tuyên xưng đức tin ấy. Đức tin của chúng ta, đức tin vững vàng của Giáo Hội tin vào Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất, Người là Con Thiên Chúa hằng sống, Đấng đã chết và sống lại để cứu độ chúng ta và toàn thế giới.
14. Thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Nhờ hồng ân Thiên Chúa, ngày 29 tháng 6 hằng năm, cả Giáo hội vũ hoàn kính nhớ đặc biệt và mừng trọng thể cùng lúc lễ hai thánh tử đạo Phêrô và Phaolô, những cột trụ của Giáo hội phổ quát Chúa Kitô. Theo truyền thống, Giáo hội không bao giờ mừng vị này mà bỏ vị kia, nhưng luôn mừng kính với lòng biết ơn hai chứng nhân vĩ đại của Chúa Kitô, và đồng thời tuyên xưng long trọng về một Giáo hội duy nhất, thánh thiện, công giáo, và tông truyền.
Phêrô có tên gốc là Simon, người Galilê làm nghề chài lưới, sống ở Capharnaum bên hồ Tibêria. Phaolô có tên là Saolê, người Do thái lưu vong, sinh tại Tarsô miền Tiểu Á bởi cha mẹ là người thế giá, có quyền công dân Rôma. Cuộc đời của hai ông bị đảo lộn từ khi gặp Đức Kitô.
Thánh Phêrô, thủ lãnh các Tông Đồ, con người say mê Chúa Kitô, đã xứng đáng nghe lời này: “Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy” (Mt 16, 18). Trên tảng đá này, Chúa sẽ xây dựng đức tin mà Phêrô tuyên xưng. Phêrô lấy từ “tảng đá, chứ không phải tảng đá lấy từ Phêrô. Phêrô, ngư phủ miền Galilêa, ít học, đã lập gia đình, theo Thầy Giêsu ngay từ buổi đầu sứ vụ, là người sau khi đã vượt qua những ngày đen tối của cuộc Thương Khó của Chúa Kitô, sẽ có trách nhiệm củng cố anh em trong đức tin và chăn dắt đoàn chiên của Chúa (x. Mt 16, 13-19). Còn thánh Phaolô, người Pharisêu sốt sắng, có nhiều điều để tự hào, về gia thế, học thức, về đời sống đạo hạnh. Ông chưa hề gặp mặt Ðức Giêsu tại thế, ông bách hại những người tin Chúa Kitô. Nhưng khi gặp Đức Kitô Phục Sinh với biến cố ngã ngựa trên đường Damas, ông trở nên tông đồ của ơn cứu rỗi đến từ đức tin, là “dụng cụ ưu tuyển” để mang Tin Mừng đến cho các dân tộc (x. Cv 9, 1-22).
Cả hai đều được Ðức Giêsu gọi, Phêrô được gọi lúc ông đang thả lưới bắt cá nuôi vợ con. Phaolô được chính Đức Giêsu Phục sinh gọi khi ông hung hăng tiến vào Ðamas, đang làm tông đồ không biết mỏi mệt của dân ngoại (x. Cv 9, 1-22). Cả hai đã từ bỏ tất cả để theo Chúa. Tất cả của Phêrô là gia đình và nghề nghiệp. Tất cả của Phaolô là những gì ông cậy dựa vênh vang. Bỏ tất cả là chấp nhận bấp bênh, tay trắng.
Cả hai đều đã từng có lần vấp ngã. Vấp ngã bất ngờ sau khi theo Thầy như Phêrô, trong phút giây quá tin vào sức mình. Ngã ngựa bất ngờ và trở nên mù lòa như Phaolô, trong lúc tưởng mình sáng mắt và đi đúng hướng. Vấp ngã nào cũng đau và in một dấu không phai mờ. Vấp ngã bẻ lái đưa con người đi vào hướng mới. Phaolô là chiếc bình được tuyển chọn, Phêrô giữ chìa khóa Nước Trời; cho dù người này là ngư phủ, người kia là kẻ bách hại. Phaolô đã bị đánh cho mù, cuối cùng thấy rõ hơn; Phêrô đã chối Chúa, sau tin vững vàng. Phaolô đã chọn tin vào Chúa Kitô sau khi phục sinh. Phêrô vị dân chài thay vì thả lưới bắt cá, nay trở thành kẻ lưới người ta.
Chương trình mầu nhiệm của Chúa Quan Phòng dẫn đưa Phêrô tới Roma, nơi đây ngài đổ máu như chứng tá sau cùng và cao cả nhất của đức tin và của lòng mến đối với Thầy chí Thánh “Lạy Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy» (Mt 16, 17). Như vậy ngài đã chu toàn sứ mệnh trở nên dấu hiệu của lòng trung thành với Chúa Kitô và của sự hiệp nhất tất cả Dân Chúa.
Phần Phaolô, trong hành trình truyền giáo, không ngừng rao giảng Chúa Kitô bị đóng đanh và lôi kéo nhiều nhóm người Á Châu và Âu Châu trở về với Chúa. Sau khi qua Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp, ngài đến Roma. Và chính ở đây, ngài được phúc tử đạo để làm chứng cho Chúa Kitô. Chính ngài đã nói lên trong bài đọc thứ hai Thánh lễ hôm nay rằng: “Chúa đã gần gũi tôi và ban sức mạnh cho tôi, để qua tôi, việc rao giảng sứ điệp Tin Mừng được thực hiện và để các dân ngoại được nghe biết đến”. (2Tm 4, 17-18)
Phêrô và Phaolô đều yêu Ðức Giêsu cách mãnh liệt, vì họ cảm nhận sâu xa mình được Người yêu mến. “Này anh Simon, anh có mến Thầy không? Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy” (Ga 21,16). Cả Phaolô cũng yêu Ðấng ông chưa hề chung sống, vì Người là “Con Thiên Chúa, Ðấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gl 2, 20). Phaolô đã không ngần ngại khẳng định: “Không gì có thể tách được chúng ta ra khỏi Tình Yêu của Ðức Kitô” ( Rm 8, 35.39)
Cả hai vị Tông Đồ đều hăng say rao giảng, bất chấp muôn vàn nguy hiểm khổ đau. Phêrô đã từng chịu đòn vọt ngục tù (x. Cv 5,40), còn nỗi đau của Phaolô thì không sao kể xiết (x. 2C 11, 23-28); “Tôi mang trên mình tôi những thương tích của Ðức Giêsu” (Gl 6, 1-7).
Cả hai hạnh phúc trong việc giữ gìn giáo lý tinh tuyền, nhưng cái phúc tử đạo còn hạnh phúc hơn. Nơi dương gian, vinh quang chỉ là ước muốn; chốn thiên đàng mọi sự thật nhãn tiền. Tiếng các ngài đã vang đến tận cùng trái đất, và thông điệp loan đi tới chân trời góc bể. Khắp nơi vang tiếng ngợi khen các ngài; các tín hữu nhẩm đi nhắc lại chiến thắng khải hoàn của các đấng.
Thật là hữu ích khi nhắc lại cho chúng ta vinh quang tử đạo của các hai đấng. Phaolô bị chặt đầu, Phêrô bị đóng đinh cắm đầu xuống đất. Hình thức tử đạo thật mầu nhiệm. Phêrô không dám chịu đóng đinh giống Thầy mình. Đó không phải là ông từ chối tử đạo, nhưng ông sợ nhận lấy cái chết giống Đấng Cứu Thế. Cả hai vị đã chết như Thầy, đã lấy máu mình mà làm chứng: thánh Phêrô bị dẫn đến nơi ông chẳng muốn (x. Ga 21, 18), chịu đóng đinh chết; thánh Phaolô đã chiến đấu anh dũng cho đến cùng, bị chém đầu; đã đổ máu ra làm lễ tế (x. 2Tm 4, 6). Thánh Phêrô được chôn cất ở chân đồi Vaticano; thánh Phaolô được an táng bên đường Ostiense.
Hội Thánh hôm nay vẫn cần những Phêrô và Phaolô mới, dám bỏ, dám theo, dám yêu, dám sống và dám chết cho Ðức Kitô và Tin Mừng. Hội Thánh vẫn cần những chiếc cột và những tảng đá. Với lòng ngưỡng mộ biết ơn các ngài, chúng ta quyết một lòng trung thành với đức tin đã lãnh nhận.
Lạy Nữ Vương Các Thánh Tông Đồ, cầu cho chúng con.
Thánh Phêrô và thánh Phaolô, cầu cho chúng con. Amen.
15. Thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ
HAI CHỨNG NHÂN LỊCH SỬ TỬ ĐẠO: PHÊRÔ VÀ PHAOLÔ
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Ngày 29 tháng 6, Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta cùng lúc tôn kính hai thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô. Các ngài là hai cột trụ của Giáo hội phổ quát Chúa Kitô, và theo Truyền Thống, Giáo hội không bao giờ mừng vị này mà bỏ vị kia, nhưng luôn mừng kính và biết ơn đối với hai chứng nhân vĩ đại của Chúa Kitô, vừa đồng thời là một lời tuyên xưng long trọng về một Giáo hội duy nhất, thánh thiện, công giáo, và tông truyền. Thánh Phêrô có tên gốc là Simon, làm ngư phủ người Galilê, sống ở Capharnaum bên hồ Tibêria. Thánh Phaolô có tên là Saolê, người Do thái lưu vong, sinh tại Tarsô miền Tiểu Á bởi cha mẹ là người thế giá, có quyền công dân Rôma. Cuộc đời của hai ông bị đảo lộn từ khi gặp Đức Kitô, họ đã bỏ mọi sự đi theo Chúa. Phêrô bị bắt và được cứu cách lạ lùng: “Bây giờ tôi biết thực sự là Chúa đã sai thiên sứ của Người đến, và Người đã cứu tôi thoát khỏi tay vua Hêrôđê, và khỏi mọi điều dân Do thái mong muốn tôi phải chịu”. (Cv 12,11).
Thánh Phêrô, thủ lãnh các Tông Đồ, con người say mê Chúa Ki-tô, đã xứng đáng nghe lời này: “Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy” (Mt 16,18). Trên tảng đá này, Chúa sẽ xây dựng đức tin mà Phêrô tuyên xưng. Phêrô lấy từ “tảng đá”, chứ không phải tảng đá lấy từ Phêrô. Thánh Phaolô là “dụng cụ ưu tuyển” để mang Tin Mừng đến cho các dân tộc. Thánh Phêrô, người đánh cá miền Galilêa, ít học, đã lập gia đình, theo Thầy Giêsu ngay từ buổi đầu sứ vụ, là người sau khi đã vượt qua những ngày đen tối của cuộc Thương Khó của Chúa, sẽ có trách nhiệm củng cố anh em trong đức tin và chăn dắt đoàn chiên của Chúa Kitô (x. Mt 16, 13-19). Còn thánh Phaolô là người Pharisêu sốt sắng, có nhiều điều để tự hào, về gia thế, học thức, về đời sống đạo hạnh. Ông chưa hề gặp mặt Đức Giêsu khi Người còn sống. Nhưng ông gặp Đức Kitô Phục Sinh với biến cố ngã ngựa trên đường Damas, Phaolô trở nên tông đồ của ơn cứu rỗi đến từ đức tin. (x. Cv 9, 1-22)
Cả hai đều được Đức Giêsu gọi, Phêrô được gọi khi ông đang thả lưới bắt cá nuôi vợ con. Phaolô được chính Đức Giêsu Phục sinh gọi khi ông hung hăng tiến vào Đamas, đang làm tông đồ không biết mỏi mệt của dân ngoại (x. Cv 9, 1-22). Cả hai đã từ bỏ tất cả để theo Người. Tất cả của Phêrô là gia đình và nghề nghiệp. Tất cả của Phaolô là những gì ông cậy dựa vênh vang. Bỏ tất cả là chấp nhận bấp bênh, tay trắng.
Cả hai đều đã từng có lần vấp ngã. Vấp ngã bất ngờ sau khi theo Thầy như Phêrô, trong phút giây quá tin vào sức mình. Ngã ngựa bất ngờ và trở nên mù lòa như Phaolô, trong lúc tưởng mình sáng mắt và đi đúng hướng. Vấp ngã nào cũng đau và in một dấu không phai. Vấp ngã bẻ lái đưa con người đi vào hướng mới.
Chúa Giêsu đã chọn một số môn đệ mà Người gọi là Tông Đồ. Trong số các ngài, hầu như bất cứ nơi đâu, chỉ một mình ông Phêrô là xứng đáng đại diện cho toàn thể Hội Thánh. Chính vì là đại diện duy nhất của toàn thể Hội Thánh, nên ông xứng đáng được nghe Chúa nói: “Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời” (Mt 16,19). Không phải một cá nhân, nhưng cả Hội Thánh duy nhất đã lãnh nhận chìa khoá này.
Chương trình mầu nhiệm của Chúa Quan Phòng dẫn đưa Phêrô tới Roma, nơi đây ngài đổ máu như chứng tá sau cùng và cao cả nhất của đức tin và của lòng mến đối với Thầy chí Thánh “Lạy Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy” (Mt 16,17). Như vậy ngài đã chu toàn sứ mệnh trở nên dấu hiệu của lòng trung thành với Chúa Kitô và của sự hiệp nhất tất cả Dân Chúa.
Phần Phaolô, trong hành trình truyền giáo, ngài không ngừng rao giảng Chúa Kitô bị đóng đanh và lôi kéo nhiều nhóm người Á Châu và Âu Châu trở về với Chúa. Sau khi qua Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp, ngài đến Roma. Và chính ở đây, ngài được phúc tử đạo để làm chứng cho Chúa Kitô. Chính ngài đã nói lên trong bài đọc thứ hai Thánh lễ hôm nay rằng: “Chúa đã gần gũi tôi và ban sức mạnh cho tôi, để qua tôi, việc rao giảng sứ điệp Tin Mừng được thực hiện và để các dân ngoại được nghe biết đến”. (2Tm 4, 17-18)
Phêrô và Phaolô đều yêu Đức Giêsu cách mãnh liệt, vì họ cảm nhận sâu xa mình được Người yêu mến. “Này anh Simon, anh có mến Thầy không? Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy” (Ga 21,16). Cả Phaolô cũng yêu Đấng ông chưa hề chung sống, vì Người là “Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gl 2,20). Phaolô đã không ngần ngại khẳng định: “Không gì có thể tách được chúng ta ra khỏi Tình Yêu của Đức Kitô” (Rm 8, 35.39)
Tình yêu Đức Kitô là linh hồn của đời truyền giáo, vì nói cho cùng truyền giáo chính là giúp người khác nhận ra và yêu mến Đấng đã yêu tôi và yêu cả nhân loại. Cả hai vị Tông Đồ đều hăng say rao giảng, bất chấp muôn vàn nguy hiểm khổ đau. Phêrô đã từng chịu đòn vọt ngục tù (x. Cv 5,40), còn nỗi đau của Phaolô thì không sao kể xiết (x. 2C 11, 23-28); “Tôi mang trên mình tôi những thương tích của Đức Giêsu” (Gl 6, 1-7).
Cả hai vị thánh đã chết như Thầy, đã lấy máu mình mà làm chứng: thánh Phêrô bị dẫn đến nơi ông chẳng muốn (x. Ga 21, 18), chịu đóng đinh chết; thánh Phaolô đã chiến đấu anh dũng cho đến cùng, bị chém đầu; đã đổ máu ra làm lễ tế (x. 2Tm 4, 6). Thánh Phêrô được chôn cất ở chân đồi Vaticano; thánh Phaolô được an táng bên đường Ostiense.
Hội Thánh hôm nay vẫn cần những Phêrô và Phaolô mới, dám bỏ, dám theo và dám yêu dám sống và dám chết cho Đức Kitô và Tin Mừng. Hội Thánh vẫn cần những chiếc cột và những tảng đá. Với lòng ngưỡng mộ biết ơn các ngài, chúng ta quyết một lòng trung thành với đức tin đã lãnh nhận.
Lạy Mẹ Maria, Nữ Vương Các Thánh Tông Đồ, xin cầu cho chúng con. Amen.
16. Đứng dậy nhờ ơn Chúa
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Trong buổi trò chuyện, diễn thuyết tối 22/05 tại White Palace (Tp. HCM), Nick Vujicic đã cho mọi người thấy rằng, người bị khuyết tật nghĩa là họ khiếm khuyết điều gì đó, nhưng người mang nỗi tự ti mới là người bị khuyết tật thực sự.
Nick đã nói: “Dù ai đó không phải ngồi trên xe lăn nhưng bạn vẫn phải trải qua những thời điểm khó khăn trong cuộc sống. Nếu lúc đó bạn thiếu tự tin, bạn sợ thất bại, sợ nhìn về tương lai thì chính điều đó sẽ níu kéo bạn, khiến bạn không thể tiến lên”.
Nick còn nói thêm: “Khi tôi 10 tuổi, tôi gần như muốn buông xuôi, tôi muốn đầu hàng và nghĩ không bao giờ có công việc, có thể cưới vợ, lập gia đình. Nhưng bây giờ tôi không chỉ lấy vợ, lập gia đình mà còn có đứa con trai.
Chúng ta sẽ không biết được sự khó khăn diễn ra như thế nào nếu không tạo cho bản thân cơ hội để vượt qua nó. Đừng bao giờ từ bỏ khi bạn gặp thất bại hay khó khăn”.
Quả thực, con người luôn có những khuyết tật. Có người bị khuyết tật điều này, người điều kia. Không ai hoàn hảo về thể xác hay về tâm hồn. Tuy nhiên, có người biết bổ túc cho khuyết tật của mình bằng nghị lực, bằng phấn đấu, bằng niềm tin vươn lên. Nhưng cũng có người buông xuôi, than trách cho số phận và để mặc cho dòng đời đưa đẩy.
Nick không phải là một thiên tài. Nick là một nhân vật điển hình cho bao người biết phấn đấu vươn lên để bổ túc cho khuyết tật của mình. Anh không có chân tay nhưng anh vẫn lạc quan phấn đấu vươn lên, nhất là biết dùng môi miệng mình để diễn thuyết, để rao giảng về Thiên Chúa. Anh không buông xuôi theo số phận nhưng biết tận dụng khả năng giới hạn của mình để có thể phụng sự Thiên Chúa và tha nhân. Anh đã rao giảng về Chúa ở quê hương anh. Anh đã rao giảng vượt qua biên giới để đến nhiều vùng đất xa xôi. Anh đã đến Việt Nam và đã tuyên xưng mình tin vào Thiên Chúa, tin vào thiên đàng và đó là lẽ sống cuộc đời anh, là lý do anh sống và vươn lên.
Thánh Phêrô và thánh Phaolô cũng từng có những khuyết tật trong cuộc đời của các ngài. Phêrô yếu đuối, nhút nhát. Phaolô kiêu căng, thẳng thắn. Vì tấm lòng khuyết tật nên Phêrô từng chối Chúa ba lần. Còn Phaolô thì lao vào việc truy sát người tin vào Chúa Giêsu phục sinh để bách hại và giết chết. Thế nhưng, cả hai đã nhận ra sự khuyết tật của mình để phấn đấu, để vươn lên. Nhất là biết cậy vào ơn Chúa mà kiện toàn con người mình và phụng sự Thiên Chúa. Phêrô đã từng cảm nghiệm “Ơn Ta đủ cho ngươi và quyền năng Ta hiển trị trên sự yếu hèn của ngươi”. Phaolô thì trông cậy vào sức mạnh của Chúa mà ông đã đi đến cùng sự bách hại, gian truân, đói rét, tù đầy nhưng vẫn giữ vững đức tin. Cả hai đã nhờ ơn Chúa mà bù đắp những khuyết tật của mình để hoàn thiện con người mình theo như lòng Chúa mong ước.
Hôm nay mừng kính hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô, trước hết chúng ta cảm tạ Chúa đã cho chúng ta hai tấm gương biết sám hối và canh tân. Các Ngài không chết trong tội như Giuđa nhưng đã đứng lên để làm lại cuộc đời. Các Ngài đã ý thức sự yếu đuối bất toàn của mình để cần đến ân sủng của Chúa. Các ngài đã biết nương tựa vào ơn Chúa để thắng vượt những giới hạn của bản thân. Và trên hết chính là tấm gương rao giảng tin mừng không mệt mỏi, không chùn bước trước nghi nan. Cho dẫu dòng đời có những sóng gió nguy nan. Cho dẫu đường trần có lắm gian truân, các ngài vẫn kiên trung cho đến cùng lòng trung thành với Chúa. Các ngài luôn ý thức rằng: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta”, thế nên: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Nước trời”.
Xin cho chúng ta luôn ý thức thân phận yếu đuối của mình để nhận ra tình thương tha thứ của Chúa vẫn dành cho chúng ta. Xin cho chúng ta biết nương tựa vào ân sủng của Chúa để kiện toàn mình mỗi ngày một tốt hơn. Và xin cho chúng ta biết chuyên tâm lắng nghe lời Chúa và nói về Chúa cho tha nhân. Amen.
17. “ST” nghĩa là sự thánh thiện
(Suy niệm của Lm Giuse Tạ Duy Tuyền)
Người ta kể rằng: tại một vùng miền quê nước Mỹ, có hai anh em nhà kia vì quá đói khổ, nghèo nàn đã trở thành kẻ “bần cùng sinh đạo tặc”. Họ rủ nhau đi ăn cắp cừu của nông dân trong vùng. Không may hai anh em bị bắt. Dân trong làng đưa ra một hình phạt là khắc lên trán tội nhân hai mẫu tự “ST”, có nghĩa là quân trộm cắp (viết tắt từ chữ stealer).
Không chịu nổi sự nhục nhã này, người anh đã trốn sang một vùng khác sinh sống để mong chôn chặt dĩ vãng. Thế nhưng, anh chẳng bao giờ quên được nỗi nhục nhã mỗi khi ai đó hỏi anh về ý nghĩa hai chữ “ST” đáng nguyền rủa này.
Còn người em, anh tự nói với bản thân mình: “Tôi cần phải lấy lại lòng tin của những người xung quanh và của chính tôi”. Thế là anh tiếp tục ở lại xứ sở của mình. Chẳng mấy chốc anh đã xây dựng cho mình một sự nghiệp cũng như tiếng thơm là một người nhân hậu. Anh sẵn sàng giúp đỡ người khác với tất cả những gì mình có thể. Anh lao động bằng đôi tay của mình. Anh dành một phần hoa lợi để giúp đỡ người nghèo. Anh sống chan hoà tình yêu thương với mọi cư dân trong vùng. Tuy nhiên, cho dẫu thời gian có qua đi, hai mẫu tự “ST” vẫn còn in dấu trên vầng trán anh. Nhưng chẳng mấy ai để ý đến ý nghĩa hai chữ ST trên vầng trán của anh.
Ngày kia, có một người lạ mặt hỏi một cụ già trong làng về ý nghĩa hai mẫu tự này. Cụ già suy nghĩ một hồi rồi trả lời: “Tôi không biết rõ lai lịch của hai chữ viết tắt ấy, nhưng cứ nhìn vào cuộc sống của anh ta, tôi đoán hai chữ đó có nghĩa là người thánh thiện (saint)”.
Hôm nay lễ kính thánh Phêrô và Phaolô, các ngài trở thành thánh nhân cao cả là nhờ biết khép lại quá khứ để chỉ lo tìm kiếm ý Chúa và thực thi trong hiện tại và suốt cuộc đời. Các ngài cũng có một quá khứ lầm lỗi, một quá khứ tưởng chừng như đã làm cho hai ngài suốt đời sống trong ân hận và tủi nhục. Phêrô đã có lần bị Chúa quở là satan. Lầm lỗi lớn nhất trong cuộc đời ông là ba lần chối mình không phải là môn đệ của Thầy Giêsu. Phaolô đã năm lần bảy lượt đi lùng bắt và giết chết những ai mang danh kytô hữu. Chính Phaolô đã can dự vào việc ném đá Stêphanô, vị tử đạo đầu tiên của Giáo hội. Nhưng mẫu số chung của hai ông chính là biết đứng lên sau những lần vấp ngã và chuộc lại lỗi lầm bằng cuộc sống đổi mới con người theo như lòng Chúa mong ước.
Thực vậy, sau khi chối Thầy lần thứ ba, từ trên pháp đình Chúa nhìn xuống Phêrô. Ánh mắt Thầy vẫn trìu mến thân thương như gởi đến ông sứ điệp: “Phêrô, sao con lại chối Ta. Ơn nghĩa Thầy trò ba năm gắn bó chẳng lẽ không còn một chút vương vẫn hay sao?”. Lại thêm tiếng gà gáy đêm khuya đã giúp lương tâm ông tỉnh ngộ và nhớ lại lời Thầy đã tiên báo: “trước khi gà gáy con đã chối Ta ba lần”. Phêrô lầm lũi ra khỏi pháp đình, nước mắt tuôn trào, tâm hồn trĩu nặng, một cái gì đó đã chết trong ông. Vâng, đã chết rồi, niềm tự hào, tự tin quá mức. Ông chỉ là cát bụi, ông biết mình chỉ là cát bụi, yếu hèn và rất dễ sa ngã. Mới hôm qua ông còn tuyên bố rằng: “dù mọi người bỏ Thầy, riêng con thì không bao giờ”. Thế mà, miệng gan hùm đã không còn khi đối diện trước nguy nan. Ông đã hèn nhát chối Thầy đến ba lần. Nhưng đêm hôm đó, một biến cố trọng đại đã “đổi mới” tâm hồn Phêrô. Lòng ăn năn bộc phát và lòng khiêm nhường chân thành đã biến Phêrô thành người thuyền trưởng trên con tàu Giáo hội.
Phaolô, sau lần ngã ngựa đớn đau bởi một luồng sáng chói loà hôm ấy. Mắt ông không còn thấy gì nữa, ông như kẻ bị mù trong ba ngày. Con mắt thể xác ông bị đóng lại, nhưng con mắt tâm hồn ông lại được sáng tỏ. Ông đã thấy Giêsu, người mà ông tưởng đã chết, thế mà, Người đã Sống lại thật, lên trời ngự bên hữu Chúa Cha. Người đang nói với ông: “Ta là Giêsu mà ngươi đang tìm giết”. Bao lâu nay ông không tin có sự sống lại. Ông đang hăm hở tiêu diệt những ai loan báo về sự sống lại của một tử tội Giêsu. Giờ đây, ông đã tin. Sự sống của Chúa Phục sinh đã làm thay đổi cuộc đời của ông. Và kể từ nay, ông đã trở thành một tông đồ ra đi đổi mới cả thế giới.
Cuộc đời của mỗi người chúng ta đôi khi cũng có những yếu đuối, có những bước đi bị vấp té bởi cạm bẫy của tham sân si. Vì thế, có ai đó đã từng nói rằng: “lầm lỗi là của con người”, nhưng đứng lên làm lại cuộc đời đó là của “thánh nhân”. Thánh Phêrô và thánh Phaolô đã nhìn quá khứ như một hồng ân của Thiên Chúa dành cho các ngài. Chúa không trách phạt các ngài mà còn tin tưởng trao phó sứ mạng mở mang nước Chúa đến tận cùng trái đất. Với ơn trời cao cả đó, thánh Phaolô đã từng thốt lên: “Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng tin mừng”. Còn thánh Phêrô thì không còn sợ cường quyền ức hiệp, ngài đã mạnh dạn nói rằng: “phải nghe lời Thiên Chúa hơn là lời của con người”. Và hôm nay, Chúa vẫn không trách phạt chúng ta theo như chúng ta đáng tội, Ngài vẫn khoan dung tha thứ và hằng mời gọi chúng ta hãy làm lại cuộc đời, hãy dùng ơn Chúa để hoàn thiện mình và nhất là hãy nói về tình yêu Chúa cho anh em, cho bạn bè, cho mọi người mà chúng ta gặp gỡ thân quen.
Ước gì cuộc đời các ngài soi sáng cho cuộc đời chúng ta để chúng ta không bao giờ thất vọng về lỗi lầm của mình, nhưng qua những yếu đuối bản thân, chúng ta càng nhận ra tình thương bao la của Chúa và cũng biết noi gương các ngài trở thành chứng nhân cho tình yêu Chúa giữa thế gian. Amen.
18. Phêrô Tông đồ
Ông là người được nhắc đến nhiều nhất ở trong Tin Mừng. Trong bảng danh sách các Tông Đồ ông là người đứng đầu.
Người ta thường nghĩ rằng Phêrô là một con người nhiều khuyết điểm nhất. Điều đó không hoàn toàn sai bởi vì ông đã có nhiều hàng động hăng hái nhất và cũng có nhiều hành động sai lầm nhất. Nhiều người nhìn ông như một con người bốc đồng. Nhưng nếu xét cho kỹ chúng ta thấy ông là một con người nổi bật nhất, sáng chói nhất và có nhiều khả năng nhất.
A- Ngay từ trước khi gặp Chúa ông đã là nhà lãnh đạo trong công cuộc chài lưới. Ông ra lệnh cho mọi người. Và khi thành tông đồ ông là người nổi bật nhất trong Tân Ước.
Một cách tổng quát người ta thấy ông là người luôn mở miệng đầu tiên và hành động trước nhất. Ông nóng bỏng, hăng say, cực đoan, hướng ngoại. Đó là những điều mà người ta có thể thấy rất rõ nơi ông. Nhưng có một điều mà người ta khó thấy đó là sự khiêm nhường của ông. Chính lòng khiêm nhường này đã làm cho ông trở thành một vị thánh lớn. Ông không xử dụng khả năng để tìm lợi lộc cho mình. Chính ông ông cũng biết rằng ông còn nhiều thiếu xót. Điều này đã hiện rõ ngay trong lần đầu tiên chúng ta gặp ông.
Chúng ta gặp ông lần đầu tiên trong Tin Mừng của Luca 5,4-6. Hôm đó ông cùng bạn bè vừa đi chài lưới về. Suốt một đêm họ không được gì cả. Họ mệt mỏi, rã rời, chán nản. Hôm đó Chúa đến giảng ở bên bờ hồ Giênêgiareth. Giảng xong Ngài bảo Simon: ” Ra khơi mà thả lưới bắt cá” Dĩ nhiên là Simon Phêrô phản kháng: “Thưa Thầy, suốt một đêm chúng tôi vất vả mà không được gì (Rồi ông đổi ý) nhưng nếu Thầy bảo thì tôi thả” (Lc 5,4-6).
Sau một đêm thất bại, họ lại đi thả lưới và bắt được một mẻ cá thật lớn, lớn đến độ suýt nữa thì rách cả lưới.
Tất cả mọi người đều xúc động. Thế nhưng chỉ có một mình Phêrô chạy đến quí mọp ở dưới chân của Chúa và thưa với Ngài:”Lạy Ngài, xin hãy tránh xa con vì con là một người tội lỗi” (Lc 5,8).
Ông không chịu nổi sự hiện diện của Chúa. Ông cản thấy mình nhỏ bé, thấp hèn, bất xứng.
Chúa nhìn thấy thật rõ lòng khiêm nhường thật chân thành của ông và Ngài đã biến ông thành thuyền trưởng trên con thuyền chài lưới mới: “Đừng sợ. Từ nay con sẽ là kẻ chài lưới bắt người”
B- Rồi một đêm kia, Phêrô cùng với các môn đệ đang lênh đênh trên biển. Hôm đó lại sóng to gió lớn. Bỗng dưng họ thấy một bóng người đang từ từ tiến đến. Tất cả mọi người đều hoảng sợ. Họ có cảm tưởng là họ thấy “ma”. Phêrô cũng hoảng sợ nhưng khi thấy “bóng ma” lên tiếng: “Thầy đây đừng sợ” (Mt 14,27-30) thì ông bốc đồng dám nghĩ rằng ông cũng có thể làm được điều Thầy làm cho nên ông thưa với người vừa lên tiếng: “Thưa thầy, nếu quả thực là Thầy thì xin truyền cho con được đi trên mặt nước mà đến cùng Thầy”
Chúa nói: “Hãy đến đây”
Và Phêrô bước xuống khỏi thuyền, không cần suy nghĩ và ông bước đi, đi trên mặt nước mà cứ như đi trên dất liền. Nhưng rồi bất chợt ông nghĩ đến truyện ông đang làm. Thật là lạ đời, chưa bao giờ thấy, chưa bao giờ nghe. Thật là không hợp lý tí nào và bỗng ông đâm sợ. Ông bắt đầu bị lún xuống: “Thưa Thầy, xin thầy cứu con với”
Chúa Giêsu đến đỡ ông và đưa ông về thuyền. Rõ ràng là ông đã tin tưởng trước hết và rồi ông cũng lại sa ngã trước hết.
C- Lần khác Chúa muốn hỏi các môn đệ của Ngài xem sau gần 3 năm trời sống với Chúa, được thấy những việc Chúa làm các ông nghĩ gì về Ngài: “Còn các con, các con nghĩ Thầy là ai?” (Mt 16,15-23). Phêrô mở miệng trả lời ngay, không một chút do dự: “Thầy là Đấng Kitô Con Thiên Chúa hằng sống”
Chúa Giêsu cho mọi người biết rằng câu nói đó không phải là từ con người của Phêrô nhưng là từ Thiên Chúa mà ra: ” Không phải máu thịt đã mạc khải cho con nhưng là Cha Thầy, đấng ngự trên trời” Rồi Ngài thêm:” Con là Phêrô, là Đá trên đá này Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy và quyền lực của âm phủ sẽ không tắng nổi”(Mt 16,18).
Ngài vừa tuyên bố cho ông biết ông là Đá thì ngay sau đó tảng đá lại nát ra thành cát liền.
Chúa Giêsu nói cho các môn đệ biết về sự thương khó của Ngài. Ngài sẽ phải đau khổ và phải chết. Phêrô không muốn tin điều đó. Ông đã lên tiếng cả ngăn:”Thưa Thầy chuyện ấy đâu lại xẩy ra với Thầy được”
Và Chúa đã phải nặng lời với ông:” Xéo ra đàng sau ta! Đồ satan. Ngươi là cớ cho ta vấp phạm. Vì ý tưởng của ngươi không phải là của Thiên Chúa mà là của loài người” (Mt 16,21-23).
Con người Phêrô là như thế. Vài phút trước ông được Chúa đưa ông lên đến trời. Còn vài phút sau ông biến thành dụng cụ của Satan. Ông đã sa ngã biết bao nhiêu lần trước khi trở nên đá tảng rắn chắc.
D- Sau ba năm trời theo Chúa ông tự nghĩ rằng giờ đây mình đã có thể tự hào về sự vững chắc
Ông có thể mang tên Đá mà không mắc cở.
Ông cảm thấy mạnh mẽ vững vàng trong đức tin.
Bây giở không có gì có thể lay chuyển được ông. Ông xứng đáng là thủ lãnh trong nhóm tông đồ.
Chính vì thế mà ông cảm thấy tự ái khi Chúa dùng lời Kinh Thánh mà cảnh cáo các ông:”Hết thảy các ngươi sẽ vấp ngã vì ta như đã có lời viết: Ta sẽ đánh kẻ chăn chiên và đàn chiên sẽ tán loạn” (Mt 14, 27-31).
Phêrô đáp lại như một lời thách thức:”Dù cho mọi người có vấp ngã đi nữa nhưng con thì không bao giờ”.
Ông quả quyết với Chúa như vậy, Ông sẽ không chối Chúa. Và dù cho có chuyện gì xẩy ra, Ông cũng sẽ không đào ngũ.
Ông vừa nói dứt lời thì Chúa quay về phía ông và nói:”Thầy bảo con, chính con hôm nay, nội đêm nay, trước khi gà gáy hai lần con đã chối Thầy 3 lần”.
Câu nói dịu dàng nhưng chắc như bắp của Chúa làm cho Phêrô bực tức. Ông quả quyết lại một lần nữa:”Dù có phải cùng chết với Thầy con cũng sẽ không chối Thầy”.
Viên đá này quyết sẽ không bao giờ sụp đổ.
Thế nhưng chuyện gì xẩy ra trong đêm hôm ấy mọi người chúng ta vẫn còn nhớ. Đêm hôm ấy không ai bắt ông phải chết với Chúa. Đêm hôm ấy không một quyền bính nào trao hỏi. Chỉ có mấy người đầy tớ của vị thượng tế, hai nữ một nam. hỏi chuyện một cách bâng quơ.
Họ nói:”Người này cũng ở trong nhóm”
Thế là ba lần ông chối. Ông thề bán mạng:”Tôi không biết người đó”
Ôi đá tảng! Ôi Phêrô! Ông đã thề sống thề chết. Ông đã quả quyết sẽ không bao giờ chối bỏ Ngài…
Thế mà bây giờ…???
Rồi gà gáy, rồi ông nhớ lại lời của Thầy.”Trước khi gà gáy hai lần…”
Đúng lúc ấy (Luca nói thật rõ):”Ngay lúc ấy khi ông còn đang nói, thì gà liền gáy và Chúa quay lại nhìn Phêrô” (Lc 22,60).
Chúa Giêsu xuất hiện với tiếng gà gáy. Những lời nhắn nhủ của Chúa tràn về ký ức của ông.
Rồi ngay lúc ấy trên cầu thang Chúa bị xỉ vả, bị đánh đòn nhưng Ngài biết Phêrô đang ở phía dưới. Ngài nhìn xuống. Ánh mắt của Chúa dừng lại trên Phêrô. Phêrô nhìn lên. Thế là hai cặp mắt gặp nhau. Phêrô hiểu ngay, không cần phải suy nghĩ. Ngài đã biết tất cả. Phêrô không chịu đựng nổi nữa. Ông cắn chặt đôi môi. Nước mắt ông rào ra. Ông chạy ra khỏi pháp đình, ra khỏi cổng, đi cho khuất mắt hết mọi người.
Tâm hồn ông nặng chĩu. Cảm xúc ông dâng trào. Ông cảm thấy mình bị bể vụn ra như thanh gỗ mục. Đá bây giờ đã thành cát.
Đêm hôm ấy một biến cố thật lớn đã xảy ra với Phêrô. Một biến cố thật trọng đại. Một biến cố khiến ông thay đổi. Một biến cố khiến ông trở lại nếu chúng ta có thể nói như thế.
Đúng là một cái gì đó đã chết đi trong ông.
Vâng đã chết rồi niềm tự cao, tự mãn.
niềm tự tin quá mức
sự lên mặt vênh váo
một sức mạnh tưởng chừng như to lớn mà ông tự gán cho mình.
Ông ngỡ mình là đá không gì lay chuyển được. Ai ngờ ông chỉ là cát bụi.Thật là mỉa mai, thật là khôi hài. Bây giờ ông mới nhận ra điều đó. Ông tự cảm thấy xấu hổ với chính mình. Ông ăn không ngon, ngủ không yên. Lương tâm ông gậm nhấm lỗi lầm của ông. Ông tự hỏi không biết Chúa có tha thứ cho ông không? Ông nhớ lại đã có lần Chúa dạy phải tha thứ không đến bảy lần mà phải đến bảy mươi lần bảy.
Thế rồi đùng một cái ông nghe tin xác của Chúa không còn trong mộ. Ông vội chạy ra ngôi mộ trống cùng với Gioan.
Rồi người ta nói với ông.
Rồi Chúa hiện ra với các tông đồ. Ông chỉ biết đứng đó. Trước kia ông nông nổi, ông ăn to nói lớn – Bây giờ ông cúi đầu lặng thinh. Ông không dám mở miệng vui mừng.
Rồi ông trở về Galilê, trở về với chài lưới, trở về với quê quán xưa, trở về với con đường xưa, lối sống xưa để cố quên đi những dày vò, cố quên đi những lần vấp ngã.
Đêm hôm ấy họ không bắt được con cá nào…rất phải giống như lần đầu tiên lúc họ mới gặp Chúa. Rồi có một người đứng đó. Người ấy bảo đem lưới mà thả bên phải mạn thuyền. Họ làm như thế và bắt được rất nhiều cá. Gioan thốt lên:”Thầy đó” (Ga 21,1-7)
Phêrô choáng váng. Ông vội khoác áo vào, nhảy xuống khỏi thuyền bơi thật nhanh lên bờ.
Thầy đã gầy lửa và bảo họ lấy cá.
Phêrô vội vàng thi hành. Ông không dám hỏi một lời.
Sau bữa ăn Chúa phá vỡ im lặng. Ngài quay về phía Phêrô. Ông vẫn im lặng. Chúa hỏi:”Simon con Gioan, con có yêu mến Thầy hơn những người này không?.(Chúa gọi ông bằng tên riêng của ông chứ không gọi bằng tên Chúa đặt: Phêrô: Đá)
Ông cảm thấy như đau nhói ở trong lòng. Trả lời với Thầy làm sao bây giờ. Ông còn có quyền nói là ông yêu Chúa nữa hay không. Dù sao thì ông cũng không thể nói trái với sự thật. Ông để cho Chúa phán xét:”Thưa Thầy, thầy biết con yêu mến thầy”
Vâng có những điều người đời không thể biết nhưng Chúa biết. Ông không nói láo. Một con người đã có lần phản bội, đã có lần chối Chúa, đã có lần rất tầm thường như ông làm sao mà có thể dám quả quyết. Nhưng tự trong thâm tâm, tự trong đáy lòng ông vẫn thấy còn tồn tại lòng ông yêu mến. Ông nói rất thật.
Chúa lại nhìn ông một lần nữa rồi Ngài lại lập lại cũng một câu hỏi trên: “Simon con Gioan, con có yêu mến Thầy hơn những người này không?.
Ông cũng lại lập lại câu trả lời như ông đã trả lời ở trên.”Thưa thầy có. Thầy biết rằng con yêu mến Thầy”
Rồi lần thứ ba Chúa hỏi lại để được nghe lại một lần nữa lời tuyên xưng tình yêu của một kẻ được Chúa yêu thương nhất nhưng cũng đã vấp phạm nhiều nhất.
“Simon con Gioan, con có yêu mến Thầy không?.
“Thưa Thầy, thầy biết mọi sự. Thày biết rằng con yêu mến thầy”
Ba lần ông chối Ngài,
Ba lần Ngài cho ông cơ hội để nhắc lại tiếng nói tình yêu. để tuyên xưng lòng tin tưởng của mình.
Không một lời rầy la
Không một lời trách móc
Không một lời buộc tội
Chỉ là cơ hội để xác định lại mối dây liên hệ yêu thương.
Đó là cách Chúa cư xử với những kẻ khiêm nhường và rồi sau đó ông bắt đầu một đoạn đời mới.
“Hãy chăn giữ các chiên của ta”
Phêrô được sai đi đến Giêrusalem, trở về chính nơi ông đã vấp ngã và lúc này ông đủ can đảm để không phản đối.
Ông vâng lời trở về Giêrusalem và ở đó lần đầu tiên ông rao giảng là rao giảng cho những người đã hò la muốn giết chết Thầy của mình.
Ông dùng khả năng của ông để đem về cho Chúa 3000 tín hữu sau bài giảng đầu tiên.
Ông phải đối diện với gian nguy, bắt bớ.
Trước kia ông run sợ trước câu hỏi của một nữ tì.
Giờ đây ông đối diện với cả một đám đông mà không run rẩy.
Tảng đá đã bắt đều kết tinh.
Và sau này mỗi lần ông ở bên bờ sa ngã thì sự hiện diện của Thầy lại kéo ông về thực tế.
Câu truyện truyền kỳ về những ngày chót của cuộc dời ông chắc chắn cũng chứa đựng ít nhiều sự thật. Ông đến Roma trong thời kỳ bắt đạo. Lúc cơn bách đạo dâng cao, ông đã sợ hãi và muốn lẩn trốn nhưng vừa ra khỏi thành thì ông gặp một người vai mang thập giá đang đi hướng về phía thành.
Ông hỏi:”Quo vadis: Người đi đâu đó?”
Người ấy trả lời:” Ta đi vào Roma để cho người ta đóng đinh một lần nữa”
Phêrô quay đầu trở lại. Ông vào Roma và chịu tử đạo tại đó. Truyền thống kể rằng ông cảm thấy không xứng đáng được đóng đinh như thầy nên ông xin được chết trên thập giá trong tư thế đầu lộn ngược xuống đất.
Ông thực hiện đúng lời của Chúa:”Khi về già ngươi sẽ dang tay ra, người khác sẽ thắt lưng cho và lôi ngươi đi đến nơi ngươi không muốn” (Ga 21,18-19)
Và cuối cùng tảng đá của Giáo Hội đã được kết tinh.
Vì cuối cùng ông đã hiểu được rằng:
Hiến thân vì Chúa là lãnh nhận
Nô lệ cho Chúa là tự do
Và chết với Chúa là sống mãi.
19. “Chìa Khóa Nước Trời”
SUY NIỆM
(Nguồn: https://mycatholic.life/books/catholic-daily-reflections-series/ordinary-time-weeks-18-34/week-eighteen/ Biên dịch: Nhóm Bạn Đường Linh Thao)
Chúa Giêsu nói, “Dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy.” Đây là món quà không hề nhỏ bé chút nào. Chúng ta nên hiểu điều này như một cam kết theo đúng nghĩa đen của Chúa Giêsu với thánh Phê-rô. Thế nên, khi Chúa Giêsu thiết lập Hội Thánh, khi Ngài “thổi hơi” vào các Tông Đồ, Ngài cũng ban tặng món quà là quyền tối cao trong Giáo Hội của Ngài cho thánh Phê-rô, đó là quyền cầm buộc và thảo cởi.
Chắc chắn rằng lúc ấy Phê-rô không hoàn toàn hiểu hết được món quà độc nhất này. Tuy nhiên, trong những năm đầu tiên khi Giáo Hội mới bắt đầu, có lẽ những tông đồ khác đã được Chúa Thánh Thần nhắc nhở, hoặc cũng có lẽ chính Phê-rô trong sự khiêm tốn của mình đã được Chúa Thánh Thần nhắc nhở rằng Chúa Giê su đã trao cho ông món quà này. Sách Công Vụ Tông Đồ (Cv 15, 1- 41) cho biết tại Công Đồng Giêrusalem, có nhiều tranh luận và sự bất đồng về vấn đề cắt bì. Sau một thời gian tranh luận, không đi đến kết quả chung, thánh Phê-rô đã sử dụng thẩm quyền của mình lần đầu tiên một cách rõ ràng, Ngài đứng lên và công bố với uy quyền của mình. “Thưa anh em, anh em biết: ngay từ những ngày đầu, Thiên Chúa đã chọn tôi giữa anh em, để các dân ngoại được nghe lời Tin Mừng từ miệng tôi và tin theo.” (Cv 15, 7)… Sau đó, những vấn đề tranh luận được giải quyết và các tông đồ đã ra một bức thư chung cho vấn đề cắt bì.
Sau đó, các tông tiếp tục thi hành quyền giảng dạy, chăn dắt và thánh hóa dân Chúa. Thánh Phê-rô đã đến Ro-ma, giảng dạy và trở thành giám mục đầu tiên ở thành này. Ngài đã chết ở đây và sau đó, đấng kế vị ngày, tiếp tục thi hành món quà là quyền tối cao này trong Giáo Hội. Chắc chắn Chúa Giêsu không có ý định món quà này chỉ kéo dài trong thời đại của thánh Phê-rô, nhưng thẩm quyền này được truyền lại cho những người kế vị thánh Phê-rô là các giám mục Rô-ma.
Vượt qua hàng thế kỷ, chúng ta đã hiểu hơn về món quà độc nhất của thẩm quyền tối cao này và cũng đã định nghĩa nó một cách rõ ràng. Vì Chúa thiết lập nên thánh Phê-rô, và tất cả các vị kế nhiệm của ngài, có quyền trọn vẹn, trực tiếp, tối cao và phổ quát trên Hội Thánh để dạy các vấn đề liên quan đến đức tin hoặc luân lý và để cai quản, dẫn dắt cộng đoàn dân Chúa theo ý muốn của Chúa Kitô. Vì vậy, trong lĩnh vực đức tin và luân lý, nếu Đức Giáo Hoàng nói điều gì là đúng thì đó là đúng, và mọi tín hữu đều phải gắn bó với giáo huấn này trong sự vâng phục của đức tin. Và, vì là đại diện Đức Ki-tô, nếu ngài đưa ra quyết định nào về việc cai quản Giáo Hội thì đó là điều mà Chúa muốn. Chỉ đơn giản như vậy!
Hôm nay, Giáo Hội mừng kính thánh Phê-rô và Phao-lô, hai vị Tông Đồ Cả, đồng thời cũng là sát ngày cuối cùng của tháng Sáu, tháng mà Giáo Hội mời gọi cùng cầu nguyện cho các vị chủ chăn của chúng ta. Ước gì chúng ta biết yêu mến và không ngừng cầu nguyện cho các ngài, để các ngài được kiên vững và trung thành trong sứ vụ cùng đời dâng hiến, trở nên một Giêsu khác cho mọi người với tấm lòng quảng đại, bao dung và xót thương của Chúa.
Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa vì món quà của Giáo Hội Công Giáo đầy vinh quang Chúa! Xin cho con được luôn trung thành với tất cả những gì Ngài tỏ bày qua Giáo Hội. Và xin cho tất cả những vị lãnh đạo Giáo Hội, đặc biệt là Đức Giáo Hoàng, luôn tìm kiếm Chúa để lớn lên mỗi ngày trong đời sống thánh thiện. Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa.
20. Tranh cãi thế nào?
Có một cặp vợ chồng sống trong một căn hộ, họ thường tranh cãi nhau to tiếng và lâu dài hầu như mỗi đêm. Qua những bức tường không cách âm, một cặp vợ chồng khác ở căn hộ kế cận có thể nghe tiếng họ la hét. Vậy phải làm gì để ngừng sự quấy rầy này, để giúp cho cặp vợ chồng kia nói nhỏ nhẹ hơn?
Cặp vợ chồng bên cạnh quyết định một cuộc tranh cãi để cặp vợ chồng kia có một vài ý tưởng về sự ồn ào đáng sợ thế nào. Họ đứng sát tường rồi bắt đầu la hét nhau. Và hầu như tức thời cặp vợ chồng kia ngừng cãi nhau. Và không bao giờ họ la rầy nhau nữa.
Tất cả chúng ta có tranh cãi nhau, vì không có hai người trong chúng ta hoàn toàn giống nhau, không có hai người trong chúng ta nhìn cùng sự vật theo cùng một cách thức. Chúng ta có những khác biệt, và chúng ta bày tỏ những khác biệt này.
Có nhiều cách tranh cãi lành mạnh, nếu chúng ta thực sự trao dổi tư tưởng, quan điểm và lý luận, chúng ta có thể học được nhiều nhờ trao đổi tư tưởng với người khác.
Hôm nay chúng ta tôn vinh hai vị thủ lãnh của Giáo hội, thánh Phêrô và thánh Phaolô. Các Ngài là những vị thánh, tuy nhiên các Ngài cũng đã có một cuộc tranh cãi. Thánh Phêrô nghĩ rằng: người nào muốn nhập cộng đoàn những người tin theo Chúa Kitô, thì trứơc hết phải trở nên người Do thái, họ phải chịu cắt bì và tuân theo nhiều qui tắc của lề luật Do thái. Thánh Phaolô thì nghĩ khác. Các Ngài đã tranh cãi công khai. Tại cộng đồng Giêrualem, các Ngài quyết định sự tranh cãi bằng cách nhắc đi nhắc lại những điều Chúa Kitô đã dạy các Ngài, nghĩa là Chúa Kitô đã thiết lập Giáo hội của Ngài không chỉ cho người Do thái mà cho cả người ngoài Do thái, dân ngoại.
Nếu bạn phải tranh cãi, th2 hãy theo khuôn vàng thứơc ngọc là: hãy làm cho người khác điều mà bạn muốn họ làm cho bạn. Hãy tranh cãi với người khác như bạn muốn họ tranh cãi với bạn. Hãy lắng nghe, thực sự lắng nghe. Hãy mở rộng cho những ý tưởng khác với ý tưởng của bạn. Hãy chấp nhận là người khác có thông tin và kinh nghiệm vượt hơn bạn.
Bạn đừng chửi bới, hay nguyền rủa, thiên vị, bất công hay lăng mạ. Bạn hãy giữ lời nói ôn hòa, đừng hăm dọa chút nào. Bạn hãy lắng nghe chính mình và người khác. Hãy nghe cuộc tranh cãi dữ dội như cặp vợ chồng thứ nhất trong câu chuyện đã làm.
Trước hết, bạn hãy cầu xin cho được hiểu biết và bình an. Hãy xin Chúa thực sự. Hãy cầu nguyện với ý nghĩa đăc biệt của lời kinh nguyện Thánh Thể II: “Xin cho chúng con khi thông Mình và Máu Chúa Kitô được hợp nhất cùng nhau nhờ Chúa Thánh Thần”.
Trong công đồng Vat. II, đã có những sự tranh cãi giữa 2500 giám mục. Một số trong những trao đổi này rất là nặng nề. Nhưng các Ngài đã giải quyết những khác biệt của mình theo đường lối giống Chúa Kitô.
Ngày nay, cũng có những tranh cãi trong gia đình của Thiên Chúa, nếu thánh Phêrô và Phaolô có những khác biệt, thì chúng ta cũng có thể thâý được những tranh cãi trong tổ chức phức tạp và mở rộng toàn cầu, đó là Giáo hội, chúng ta cũng có thể thấy những khác biệt trong chính giáo xứ chúng ta. Bạn hãy giải quyết chung trong tinh thần của Chúa Kitô, trong tinh thần khuôn vàng thước ngọc của Ngài.
Lạy Chúa, xin gìn giữ con khỏi tranh cãi, nhưng nếu con phải tranh cãi, thỉ xin giúp con hành động theo tinh thần của Chúa.
Xin Chúa chúc lành cho các bạn.
21. Thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ
HỘI CỦA NHỮNG NGƯỜI NGHÈO HÈN TỘI LỖI
“Lạy Thầy, Thầy biết rõ, con yêu mến Thầy”
Cũng như hai môn đệ Phêrô và Phaolô, toàn thể Hội Thánh và từng người môn đệ của Thầy Giêsu đều chỉ có chung một trái tim. Trái tim này không phải bằng đá, cũng không phải bằng thịt, nhưng là trái tim bằng Lửa, Lửa Thánh Linh, Lửa Mạc Khải từ Cha. Đó là Ngọn Lửa khiến Hội Thánh và người môn đệ luôn dám yêu, dám tin, dám tuyên xưng, dám loan báo rằng Thầy mình là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa Hằng Sống. Sở dĩ người môn đệ thực sự trở nên môn đệ của Thầy Giêsu, Hội Thánh thực sự là Hội Thánh của Thầy Giêsu, ấy là do niềm xác tín thần linh, do tình yêu thiết tha và huyền nhiệm, do lời loan báo bền bỉ chân thành trong Thánh Linh, rằng Đức Giêsu là Cứu Chúa của Hội Thánh, là lẽ sống của Hội Thánh, là tình yêu của Hội Thánh, là tất cả Niềm Vui Ơn Cứu Độ của Hội Thánh. Niềm tin đó, Tình yêu đó, lời Tuyên xưng và Loan báo đó, làm nên bản chất của Hội Thánh, là “lý do hiện hữu” cho Hội Thánh, là Đá Tảng để đặt nền toàn bộ “cuộc đời” của Hội Thánh.
Hội Thánh và người môn đệ không chỉ tin vào Thiên Chúa cao cả cách “chung chung”. Anh em Phật Giáo, Nho Giáo, Lão Giáo, Hồi Giáo… và biết bao nhiêu con người cao qúi khác vẫn tin vào một Thiên Chúa, và tin một cách rất sâu xa, rất tha thiết, rất quyết liệt. Hội Thánh của Thầy Giêsu thì khác. Hội Thánh đến với Thiên Chúa qua một “anh” con người. Hội Thánh giao tiếp với Thiên Chúa qua sự giao tiếp đầy thân tình bằng hữu với một “anh” con người. Hội Thánh tin và yêu một “anh” con người, bằng một tình yêu và một niềm tin, trước hết, cũng rất theo thể cách con người, qua tất cả dáng vẻ tầm thường “phàm phu” của anh ta và của Hội Thánh. Hội Thánh mở lòng ra, chìm lặn vào trong nội tâm “anh” con người ấy, nên một với “anh” con người ấy, và qua đó, Hội Thánh dám gọi “anh” con người ấy, bác thợ mộc làng Na-da-rét ấy, tên tử tội khốn khổ ấy, là Đường Đi, là Sự Thật, là Sự Sống của mình. Và cũng từ “anh” con người ấy, Hội Thánh gặp được Thiên Chúa và dám gọi Thiên Chúa bằng “Cha”.
HỘI CỦA NHỮNG NGƯỜI CÓ TỘI
Phải, “anh” con người ấy đã mang tất cả sự tầm thường gần gụi như mọi con người nghèo hèn trần trụi. Anh ta không mang dáng vẻ tiên phong đạo cốt của nhà đạo sĩ. Anh cũng chẳng có vẻ bát ngát thênh thang và uy dũng ngất trời của bậc thiền sư. Anh càng không ung dung thư thái và nết na nề nếp của nhà hiền triết chính nhân quân tử. Anh cô đơn, anh đau đớn, anh lúi húi lom thom đi trong cuộc đời. Hội Thánh cảm thấy anh ấy gần mình lắm, vì Hội Thánh cũng tầm thường và nhỏ bé nghèo hèn như vậy. Môn đệ Phêrô chỉ là bác “hai lúa”, “bác hai vạn chài”, chân chất và nông nổi. Môn đệ Phaolô tuy là ông trí thức, là nhà đạo đức, nhưng lại có tất cả tính hiếu thắng đến gần như điên cuồng. Vâng, Hội Thánh là hội của những người có tội, nghèo hèn, khốn khổ, lơ láo, xơ xác. Đó là Hội của đám dân đen, Hội của những tên buôn thúng bán mẹt, Hội của những phường trộm cướp đĩ điếm, Hội của những con người trôi sông dạt chợ. Nhưng, Hội của những người có tội ấy, vẫn mãi mãi là Hội Thánh, phổ quát, thánh thiện, duy nhất, tông truyền, vì Hội Thánh luôn dám tuyên xưng, không phải chỉ ba lần, nhưng xin được thưa mãi mãi cùng Thầy rằng: “Bỏ Thầy, con biết theo ai, vì Thầy có Lời Ban Sự Sống”, và “Lạy Thầy, Thầy biết rõ, con yêu mến Thầy”.
Ngay lời tuyên xưng ấy cũng chẳng phải là lời “tự nhiên” phát ra từ trái tim “tự nhiên” của người môn đệ. Người môn đệ, đã từng bắt bớ Thầy, đã từng ngơ ngác nghi ngờ Thầy, đã từng sợ hãi chối bỏ Thầy, đã từng nuôi những tham vọng và ảo tưởng khi đi theo Thầy. Họ cũng tranh cãi và bất hòa với nhau nữa. Nhưng có sao đâu! Người môn đệ vẫn lê lết thân phận nghèo hèn khốn khổ của mình như vậy, cho đến khi, Thầy chịu Khổ Nạn và Phục Sinh. Và trong lòng huyệt mộ hoá ra không của đời Thầy, trong Anh Tịnh Quang bất diệt của Quyền Năng Tình Yêu Phục Sinh của Thầy, họ mới biết thực sự Thầy là ai. Và cũng chỉ khi ấy, hơi thở Thần Linh Bình An của Thầy mới khiến họ thấm thía thấu hiểu và xác tín hơn gấp triệu lần nữa về lời tuyên xưng rằng: “Thầy là Đức Ki-tô, Con Chúa Trời hằng sống”. Đó là lời tuyên xưng không do máu huyết xác thịt phàm nhân, nhưng do Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời.
ĐỨC KI-TÔ NGHÈO, HỘI THÁNH NGHÈO, CHO ĐÁM DÂN NGHÈO.
Như Thầy Giêsu, Hội Thánh vẫn bước đi trong cuộc đời, lom thom, nghèo hèn, yếu đuối. Hội Thánh, mang trong trái tim mình Sự Sống Thần Linh của Đấng mình yêu thương, vẫn tiếp tục đi vào lịch sử, vì Thiên Chúa và Người yêu của Hội Thánh luôn là Thiên Chúa đồng hành trong lịch sử. Và trong giòng lịch sử ấy, có hằng triệu, hàng tỉ những con người nghèo hèn, kém cỏi, tầm thường, yếu đưối, lom thom. Vì thế mà Hội Thánh càng xác tín vào Tình Yêu, vào Niềm Tin, vào Niềm Hy Vọng của mình. Hội Thánh biết, mình đã được trao cho “chìa khóa Nước Trời”. Hội Thánh cầm chìa khóa Nước Trời bởi vì Hội Thánh sẽ không bao giờ có quyền hành, không bao giờ có vinh vang, không bao giờ trở nên bề thế giàu sang chức tước, kể cả những quyền hành vinh vang về sự đạo đức và thánh thiện theo nghĩa tự sức gò lưng nỗ lực vươn lên. Hội Thánh, cũng như xiết bao kẻ trôi sông dạt chợ kia, biết rõ “thân phận” của mình, dù xiết bao nỗ lực, nhưng tự sức của mình, thì vẫn thất bại, vẫn chẳng bao giờ trở nên công chính, chẳng bao giờ trở nên vẹn toàn, chẳng bao giờ “tu thân tích đức” cho đàng hoàng được. Hội Thánh chỉ biết trông cậy hết mình vào Đấng do Thiên Chúa sai đến, Đức Giêsu, Người Thầy, Người Yêu, Người Bạn và Đấng Cứu Độ của Hội Thánh.
Và như vậy, niềm tin ấy, tình yêu ấy, lời loan báo ấy, chính là chìa khóa Nước Trời cho những kẻ nghèo hèn bé mọn. Cầm chìa khóa Nước Trời, không phải là Hội Thánh muốn làm gì thì làm, muốn cho ai điều gì thì cho, muốn cầm buộc ai theo “ý riêng” mình thì cầm buộc. Đó là chìa khóa Yêu Thương, chìa khóa Tôn Trọng và Nâng Niu con người cho đến tối đa, đồng hành và đồng phận với con người cho đến tối đa, hiến mạng sống mình cho nhân loại đến tối đa. Như Thầy Giêsu và từ Thầy Giêsu, Hội Thánh “cầm chìa khóa Nước Trời” bằng cách Hội Thánh đặt vào trong Trái Tim Thập Giá của mình tất cả những đau thương của kiếp người, tất cả những buồn khổ, tội lỗi, nỗi cô đơn, sự chia phôi, nỗi sinh ly tử biệt của kiếp người. Trung tín với Thầy Giêsu, Hội Thánh mãi loan báo Tình Yêu Tràn Đầy Trời Đất đó, thể hiện Tình Yêu vô điều kiện đó, vì Hội Thánh quá biết, và quá kinh nghiệm rằng: Thân phận con người, tự nó, là nghèo hèn, là thất bại. Con người nghèo hèn và thất bại ngay cả trong sự nỗ lực vươn lên tới Thiên Chúa Đích Bình an và Hạnh phúc của cuộc đời.
“Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà Đức Ki-tô đang sống trong tôi”. Lời tuyên xưhg ấy của môn đệ Phaolô cũng luôn là ý thức và lời tuyên xưng của toàn thể Hội Thánh, để Hội Thánh cũng chỉ có một hành trang duy nhất ấy, một Trái Tim duy nhất ấy, như người nữ tỳ Ma-ri-a, để đem lại niềm Vui Mừng và Hy Vọng cho cuộc đời tang thương này.
22. Thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ
Thánh Phêrô và Phaolô là hai khuôn mặt quan trọng đối với Giáo Hội, là rường cột của Giáo Hội. Đối với chúng ta, các ngài mãi mãi là những tấm gương sáng ngời mà chúng ta không thôi nhìn ngắm và bước theo.
Các ngài là tôi trung của Chúa Giêsu, trung thành qua những yếu đuối nhưng cũng qua gian khổ. Chúng ta hãy nhìn những khuôn mặt anh hùng đó để can đảm bước theo Chúa Giêsu, Chúa chúng ta.
Hai khuôn mặt quen thuộc thường được nhắc đến. Càng quen thuộc, chúng ta càng cảm thấy gần gũi, dễ thương.
Thánh Phêrô đã được nhắc đến nhiều lần trong Tin Mừng. Ngài được xem như môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu, được Ngài đổi tên là Phêrô, nghĩa là tảng đá và chính Chúa Giêsu đã nói: “Anh là Đá, trên Tảng Đá nầy Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy và quyền lực hỏa ngục không thể chuyển lay”.
Nhưng Phêrô là ai?
Là một người chài lưới, một người sống với một nghề nặng nhọc vất vả. Trình độ văn hóa có lẽ không qua cấp hai.
Nhưng sao Chúa lại chọn ông ngay từ buổi gặp gỡ đầu tiên, đổi tên ông và như thế xem ông như đệ tử “ruột” của mình?
Các thánh sử trình bày hình ảnh Phêrô không mấy gì tốt đẹp. Lúc thì hăng hái, nhưng tự phụ: “Con sẵn sàng chết cho Thầy!” Lúc lại yếu đuối: “Tôi không biết ông ấy!”
Nhưng lại anh hùng: một mình dám tuốt gươm chống lại cả một toán lính để bênh vực Thầy.
Tại sao Chúa lại chọn một người như thế để làm nền tảng cho Giáo Hội Ngài?
Đây chính là mầu nhiệm. Chúa không chê bỏ một ai. Ngài sử dụng tất cả mọi người miễn là họ thành thật và biết sửa sai.
Ngài uốn nắn nhưng con người cứng cỏi và sử dụng họ đúng theo khả năng của họ. Quyền phép Chúa được tỏ hiện nơi nhưng con người bé nhỏ, yếu hèn và bất toàn.
Phêrô là con người đạo đức và khiêm tốn. Đứng trước mẻ cá lạ lùng, ông ý thức được nhân cách của người đã bảo ông ra khơi đánh cá. Ông đã quì gối xuống: “Lạy Thầy, xin Thầy xa con vì con là người tội lỗi”.
Khi được hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Phêrô, đại diện cho anh em tuyên xưng: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.
Niềm tin của Phêrô đã biến ông thành một con người vững chắc và Chúa Giêsu đã tin tưởng nơi ông: “Anh là Đá…”
Trong Hội đường Caphacnaum, sau diễn từ về Bánh Hằng sống, mọi người đều bỏ Thầy, Chúa Giêsu hỏi: “Còn anh em, anh em cũng bỏ Thầy nữa sao?” Phêrô, đại diện cho anh em, đáp lại: “Bỏ Thầy chúng con đi với ai? Chỉ có Thầy có nhưng lời ban sự sống đời đời”.
Đây cũng là một lời tuyên xưng đức tin tuyệt đối: chỉ có Thầy mà thôi. Không ai khác.
Phêrô gắn bó với Thầy với tất cả niềm tin của mình. Ông cũng kinh nghiệm sự yếu đuối của mình khi chối Thầy, nhưng Chúa Giêsu vẫn tin vào ông: “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?”
“Thưa Thầy, Thầy biết rõ, con yêu mến Thầy”.
Và Chúa Giêsu đã trao cho ông đoàn chiên của Chúa và cả chìa khóa Nước Trời.
Còn Phaolô, người Pharisêu cuồng tín, Chúa Giêsu cũng sử dụng như dụng cụ của tình yêu Ngài, một dụng cụ sắc bén và hữu hiệu.
Phaolô không biết Chúa lúc sinh thời mà chỉ nghe nói. Và Phaolô đã xem Ngài như một tên lộng thánh, đã bị đóng đinh vào thập giá… một mối nguy cho Đạo Thánh. Là giòng giống Pharisêu, ông không thể quan niệm về ông Giêsu khác với nhóm của ông được. Đối với ông, Thiên Chúa của cha ông là Thiên Chúa duy nhất, không có ai khác.
Đức tin của Phaolô là một đức tin vẹn toàn, vững chắc. Vì thế, ông không thể chấp nhận được một người nào có thể thay thế Thiên Chúa hay xưng mình là Con Thiên Chúa, và cũng vì thế ông hăng say tiêu diệt bọn người lạc đạo theo ông Giêsu, con người đã dám tự xưng là Con Thiên Chúa, là Đấng Thiên Sai.
Chúa Giêsu chờ đợi ông trên con đường Đamát, nơi đó ông đã gặp được Đấng ông đang truy lùng bắt bớ. Saolô đã đầu hàng khuất phục. Giờ đây ông biết mình đã lầm đường và trở về với Đấng đã kêu gọi ông.
“Chúa muốn con làm gì?”
Từ đó. Phaolô thuộc trọn về Chúa Giêsu, Đấng ông ra tay bách hại, giờ đây là Chúa của ông, là lẽ sống của ông.
Chúa đã sử dụng con người cuồng tìn và biến ông thành khí cụ của tình yêu cứu độ.
Phaolô đã được ”dành riêng” cho Chúa để mang Danh Chúa cho các dân ngoại, “những người ở xa”.
Phaolô vẫn ý thức mình là con người bé nhỏ: “Một đứa bé sinh non”. Ngài tự coi mình như một tông đồ hạng chót”: “Tôi đã bách hại Giáo Hội Chúa”.
Sự hăng say bách hại đã trở thành sự hăng say rao giảng: “Đối với tôi, việc rao giảng Tin Mừng không phải là một lý do để tự hào mà là một sự cần thiết, bắt vuộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!”
Hận thù đã trở thành tình yêu thắm thiết: “Tôi sống, nhưng không còn là tôi mà là Chúa Giêsu trong tôi”.
Chúa Giêsu đã tìm được người Ngài muốn. Phaolô đã sống chết cho một mình Chúa thôi: “Tôi coi mọi sự như rơm rác, trừ việc hiểu biêt Chúa Giêsu Kitô”.
Chúa không cần ai, nhưng Chúa muốn mọi người tham dự vào sứ mệnh cứu độ của Ngài.
Phêrô Phaolô là hai thái cực nhưng lại bổ túc cho nhau để cùng xây dựng Giáo Hội.
Phêrô, một người chài lưới dốt nát; Phaolô, một người trí thức uyên thâm.
Phêrô bộc trực, chân thành. Phaolô đắn đo suy nghĩ. Hai người chỉ có một mục tiêu duy nhất: Chúa Giêsu Nadaret.
Phêrô: “Bỏ Thầy con đi với ai? Chỉ có Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời”.
Phaolô: “Ai có thể tách tôi ra khỏi tình yêu của Chúa Kitô?…”
Hai người cùng chết cho Chúa Giêsu.
Nhìn khuôn mặt hai vị thánh, chúng ta nghĩ sao? Tại sao tôi không như các ngài? Sống hoàn toàn cho Chúa? Chúa không chê ai, dù người đó có hèn nhát thế nào, nếu tin vào Ngài, Ngài sẽ có thể sử dụng người đó cho sáng danh Cha trên trời. Chỉ cần cởi bỏ con người cũ với tất cả những gì là đam mê trần gian, tự ái, kiêu căng, mặc lấy con người mới được tái tạo trong Chúa Giêsu Kitô.
Chúng ta không ai trọn lành cả. Hai thánh cả cũng không trọn lành, nhưng các ngài dám từ bỏ tất cả để sống cho Chúa. Chúng ta cũng có thể, không phải với sức riêng của chúng ta, nhưng với ơn Chúa, chúng ta có thể làm được nhiều và rất nhiều việc cho sáng danh Chúa. Chỉ cần trao trọn cuộc sống cho Chúa.
Chúa Giêsu đang mời gọi chúng ta. Ngài không những mời gọi mà chính Ngài đến với chúng ta trong tấm bánh nhỏ mà chúng ta vẫn thường ăn lấy. Có Ngài chúng ta ra khơi. Có Ngài chúng ta dám can đảm “hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa”, như thánh Phaolô đã dạy.
23. Phêrô và Phaolô
Hôm nay tôi xin có ít lời về Thánh Phêrô một vị thánh mà tôi hết lòng kính trọng.
Chẳng cần phải nói dài anh chị em cũng có thể thấy được rằng Phêrô là một trong ba môn đệ, nói đúng hơn trong ba tông đồ được Chúa ưu ái một cách đặc biệt hơn những tông đồ khác. Ông được Chúa cho tham dự vào hầu hết những biến cố quan trọng trong cuộc đời công khai của Chúa.
Tính tình ông nóng bỏng, bộc trực và đôi lúc hơi liều lĩnh
Nói về ông người ta không thể không nhắc đến cái vết thật đen trong cuộc đời của Ông. Đó là việc ông đã chối Chúa. Alain một nhà tư tưởng lớn của Pháp đã viết những lời như thế thật chua cay về cái biến cố này: “Tôi hình dung ra ông ta đang ở trên Thiên đàng, đầu đội triều thiên hào quang sáng chói nhưng mỗi khi nhớ đến ‘dzụ’ ấy, chắc ông còn phải đỏ mặt” Lý do, ông viết tiếp: “Tông đồ Phêrô trong hoàn cảnh lúc đó đã lẩn trốn như thỏ hay như chuột” Lời nhận định hơi chua chát một chút nhưng nó cho chúng ta thấy tính cách nghiêm trọng của vấn đề. Vì Phêrô là Thủ lãnh các tông đồ, thủ lãnh nhóm 12 và nhất là trước đó Chúa đã cảnh cáo ông.
Tuy nhiên bên cạnh những cái không tố đó chúng ta lại thấy nơi Phêrô có nhiều đức tính đáng nể phục. Chính những đức tính sáng chói này sẽ làm lu mờ đi những cái tấm thường nơi con người của ông để rồi qua đó ông đã xứng đáng với sự tín nhiệm của Chúa khi Chúa đã đặt ông làm nền tảng Giáo Hội.
Đầu tiên chúng ta phải nói về lòng quảng đại. Phúc Âm ghi thật rõ, vừa khi được Chúa gọi ông nhanh nhẹn bỏ điều mà sau này ông ‘kể công’ với Chúa là tất cả mọi sự.
Bên cạnh lòng quảng đại chúng ta còn thấy ở nơi Ông một đức tin chân thành
Đàng khác trên con đường theo Chúa ông còn có một đức tính hiếm hoi này mà những người khác ít ai có được đó là lòng gắn bó keo sơn với Chúa. Sau Phép lạ bánh hóa nhiều, Chúa có giảng một bài giảng về bánh hằng sống. Bài giảng đó đã đánh dấu một khúc quặt mới trong cuộc đời công khai của Chúa.
“Lạy Thầy, bỏ thầy chúng con biết theo ai vì Thầy có lời ban sự sống đời đời”.
Nhưng đức tính mà tôi cảm phục nhất trong cuộc đời của Ông đó là lòng khiêm nhường. Sách Tu đức gọi đức Khiêm nhường là nền tảng mọi nhân đức. Đôi khi người ta cũng còn gọi đức khiêm nhường là mẹ các nhân đức. Đọc trong Kinh Thánh tôi thấy ít nhất có ba lần ông đã biểu lộ sự khiêm nhường rất cụ thể như thế này.
Lần thứ nhất đá là khi Chúa cho các ông bắt được một mẻ cá lạ. Trong khi các môn đệ khác chỉ có thái độ cầm chừng thì Phêrô đã đến quì trước mặt Chúa và thưa vó Người: “Lạy Thầy, xin tránh xa con ra vì con là một người tội lỗi” Ông ý thức được cái thân phận yếu đuối của mình trước sự hiện diên của Chúa.
Lần thứ hai là khi Chúa quở mắng ông một cách thật nặng lời…….
Lần thứ ba được ghi ở trong sách Tông đồ công vụ. (xem Ngài đã gọi họ)
Còn Phaolô
Tin Mừng không nói một câu nào về Ông.
Chúng ta chỉ được biết về ông sau khi Chúa Giêsu đã về trời.
Xét về con người của ông thì chúng ta thấy ông có nhiều điểm hơn hẳn Phêrô.
Ông là một con người có học thức – Là học trò của Giáo sư Kinh Thánh nổi tiếng Gamaliel.
Gia đình ông thuọc loại khác giả
Đặc biệt ông là người có tước Công dân La mã
Ông không thuộc nhóm 12. Ông là một tông đồ sinh sau đẻ muộn nhưng là một tông đồ đặc biệt.
Ông xuất hiện không như một người về phe với Chúa, nhưng như một kẻ đối đầu. Tệ hơn, như một kẻ thù: Chúng ta còn nhớ thật rõ câu truyện ông tình nguyện đi Đamas để lùng bắt và tiêu diệt những người mang danh Kitô hữu
Thế nhưng cũng chính từ cuộc lùng bắt những người Kitô hữu này Chúa đã chinh phục ông. Cuộc chinh phục rất đột xuất làm cho nhiều người cảm thấy như không thể tin được. Thế nhưng đó lại là công việc của Chúa.
Chúa chọn ông để sai ông đi rao giảng TM cho dân ngoại.
Muốn hiểu cuộc đời theo Chúa của Ông như thế nào chúng ta hãy đọc lại Sách Tông đồ công vụ và nhất là những bức thư nổi tiếng ông còn để lại.
- Bài học
- Uy quyền của Chúa.
– Chúa muốn làm gì làm.
+ Xét về nhiều phương diện thì Phêrô thiếu hẳn những đức tính của một người lãnh đạo thế nhưng Chúa đã chọn ông, đặt ông làm thủ lãnh của Giáo Hội. Đó là công việc của Chúa.
+ Phaolô cũng thế: Từ một kẻ thù Chúa đã biến ông thành một người bạn, một người tình. Từ một người đi lùng bắt những người theo Chúa mà giết đi. Chúa đã biến ông trở thành người rao giảng về người và s8ãn sàng chết vì người. Về phương diện trần thế chẳng khi nào chúng ta thấy được như thế.
- Bài học về lòng yêu mến Chúa
+ Câu truyện tại bờ biển Galilêa sau khi Chúa sống lại. Phêrô đạ tuyên xưng không phải đức tin, nhưng là lòng yêu mến của Ông.
+ Phaolô đã viết những lời thật cảm động sau đây: “Không có gì có thể tách tôi ra khỏi lòng yêu mến của Đức Kitô. Dù là gian truân, bĩ cực, đói khát trần truồng, hiểm nguy, gươm giáo….Tôi thâm tín rằng sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay thiên phủ, dù hiện tại hay tương lai, dù quyền năng, dù chiều cao hay ciều sâu hay bất cứ tạo vật nào khác, không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi lòng yêu mến Thiên Chúa được thể hiện cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta” (Xem 2 Tm 4,6-8 Rm 8,18-19.32.33.38.39)
- Bài học vềsự gắm bó và lòng trung thành đối với Chúa.
+ Phêrô trên con đường ra khỏi thành Roma. Quo vadis?
+ Phaolô: “Còn tôi, tôi sắp phải đỗ máu ra làm lễ tế. Đã đến giờ tôi phải ra đi. Tôi đã chiến đấu trong một trận chiến cao đẹp, đã chạy đến cùng đường và đã giữ vững được đức tin. Giờ đây tôi chỉ còn đợi trông vòng hoa dành cho người công chính. Chúa là vị Thẩm phán chí công sẽ trao phần thưởng đó cho tôi trong ngày ấy và không phải chỉ cho tôi mà còn cho ta61t cả những ai hết tình mong đợi Người xuất hiện.”
24. Thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ
(Bài viết của Enzo Lodi)
- Ghi nhận lịch sử – Phụng Vụ
Theo Lịch giỗ các thánh tử đạo (Depositio martirum) năm 354 người ta đã cử hành trọng thể lễ hai thánh Tông Đồ Rôma vào ngày 29 tháng 6 này: Mừng thánh Phaolô tại chính ngôi mộ của người trên đường Ostia và mừng thánh Phêrô tại hang toại đạo đường Appia. Tại Rôma vào thế kỷ VII, lễ này được mừng hai ngày: phần kính nhớ thánh Phaolô quả thật được dời vào hôm sau, ngày 30 tháng 6, tuy vẫn được đính kèm trong các Thánh lễ ngày 29 tháng 6. Do đó, ngày lễ hai thánh này đã được phổ biến ở Đông Phương lẫn Tây Phương. Ngày nay, Thánh lễ vọng vào ban chiều chuẩn bị cho việc cử hành lễ mừng duy nhất, kết hợp hai vị thánh Tông Đồ.
Phêrô, quê ở Bếtsaiđa, trên bờ hồ Ghênêsarét. Tên Do Thái của người là Siméon hay Simon, với biệt danh là Képhas, có nghĩa là “đá”. Tên gọi này nói lên sứ vụ Đức Giêsu giao phó cho Simon: đó là trở thành nền tảng cho Hội thánh. Theo Tertullien (thế kỷ II), thánh nhân chết vì bị đóng đinh vào thập giá và theo Origène, đầu ngài bị quay ngược trở xuống theo tập tục người Rôma khi đóng đinh các nô lệ. Các khai quật mới đây dưới vương cung thánh đường Vaticano xác nhậc các chứng cứ được lưu truyền về cuộc tử đạo của Phêrô tại Rôma (xem Clément de Rome, thư gửi các tín hữu thành Côrintô V,1-4), trên đồi Vatican khoảng năm 67; về sau, nơi đây người ta xây dựng vương cung thánh đường Constantin.
Thánh Phaolô, quê tại Tarsus, ở Cilicie, ngoài tên Do Thái là Saul, ngài còn mang tên La Tinh là Phaolô. Tuy là biệt phái, xét theo lề luật, nhưng ngài đã trở lại đạo khoảng 33/35. Sau khi bị cầm tù lần thứ hai tại Rôma, có lẽ ngài đã bị chém đầu khoảng năm 67 (cũng chính Tertullien cho chúng ta biết điều này, theo lưu truyền từ xưa) tại Aquas Salvias, độ 5km về hướng nam Rôma và được mai táng trên đường Ostia, nơi đây, người ta xây vương cung thánh đường thánh Phaolô-ngoại thành.
- Thông điệp và tính thời sự
Sách lễ đưa ra hình ảnh hai vị thánh Tông Đồ “được qui tụ để cùng chia sẻ một niềm vinh quang” và “cùng được tôn kính như nhau” (kinh Tiền Tụng).
Lời nguyện Thánh lễ vọng trích lại một câu trong sách bí tích của Vêron (số 1219): “Chính nhờ các ngài mà Hội thánh Chúa đã đón nhận các lợi ích do ân sủng Chúa đem lại, nghĩa là nhờ lời giảng dạy của các ngài. Cũng thế, lời nguyện hiệp lễ lại nhắc lại điều này: “Lạy Chúa, Chúa đã dùng các lời giảng dạy của các thánh Tông Đồ mà soi sáng lòng tin của các tín hữu.” Chủ đề này được lặp lại trong lời nguyện chính lễ, ghi nhận rằng “Chính nhờ các ngài mà Hội thánh đã bắt đầu đón nhận đức tin”. Đức tin do các Tông Đồ giảng dạy được bày tỏ qua các nét độc đáo nơi cộng đoàn tiên khởi của Giáo Hội Giêrusalem, ở đó các tín hữu chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng (Cv 2,42). Kinh Tiền tụng thực hiện một tổng hợp thần học về tính tông truyền này, khi nêu bật các khía cạnh bổ túc lẫn nhau nơi hai vị thánh Tông Đồ. Các ngài đã xây dựng Hội thánh duy nhất bằng các đoàn sủng khác nhau. “Bởi lẽ Cha cho chúng con vui mừng trong ngày lễ trọng kính hai thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô. Cha đã sắp đặt để thánh Phêrô là người đầu tiên tuyên xưng đức tin, thánh Phaolô là người làm sáng tỏ đức tin; Thánh Phêrô thiết lập Hội thánh tiên khởi cho người Ítraen, thánh Phaolô là thầy giảng dạy cho muôn dân biết Tin Mừng cứu độ.”
Cuộc tử đạo của thánh Phêrô và thánh Phaolô vẫn luôn là dấu chỉ hợp nhất của Hội thánh ở mọi thời, như thánh Augustinô ghi nhận qua Bài đọc – Kinh sách: “Một ngày kính chung cuộc tử đạo của hai vị Tông Đồ. Nhưng hai vị xưa kia chỉ là một. Thánh Phêrô đi trước, rồi thánh Phaolô theo sau. Đối với chúng ta, ngày lễ chúng ta cử hành hôm nay là một ngày thánh, vì đã được ghi bằng máu của các Tông Đồ. Chúng ta hãy quí chuộng đức tin, đời sống, công lao khó nhọc và những khổ hình của ngài, quí chuộng những lời các ngài tuyên xưng, những điều các ngài rao giảng.”.
25. Thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ
TIỂU SỬ:
Thánh Phêrô
Thánh sử Mác-cô chấm dứt phần thứ nhất của Phúc Âm với một tuyệt đỉnh thắng lợi. Sau khi ghi lại nhiều sự hồ nghi, hiểu lầm và chống đối Đức Giêsu, giờ đây Phêrô tuyên xưng đức tin: “Thầy là Đấng Thiên Sai” (Mc 8, 29b). Đó là một trong những giây phút huy hoàng của cuộc đời Thánh Phêrô, kể từ ngày ngài được kêu gọi ở Biển Ga-li-lê để trở thành kẻ lưới người.
Tân Ước rõ ràng cho thấy Phêrô là vị lãnh đạo các Tông Đồ, được Đức Giêsu chọn với một tương giao đặc biệt. Cùng với Gia-cô-bê và Gioan, Phêrô được đặc ân chứng kiến sự Biến Hình, sự sống lại của một đứa trẻ đã chết và sự thống khổ trong vườn Cây Dầu. Bà mẹ vợ của Phêrô bị Đức Giêsu quở trách. Ngài được sai đi với Gioan để chuẩn bị cho lễ Vượt Qua trước khi Đức Giêsu từ trần. Tên của ngài luôn luôn đứng đầu các vị Tông Đồ.
Và Phêrô là người duy nhất được Đức Giêsu nói, “Này Simon con ông Giôna, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời. Bởi thế, Thầy bảo với anh: anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời. Anh cầm buộc gì dưới đất, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; anh tháo cởi điều gì dưới đất, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (Mt 16,17b – 19).
Nhưng các chi tiết xác thực của Phúc Âm cho thấy các thánh sử không xu nịnh Phêrô. Hiển nhiên ngài là một người không biết giao tế. Và đó là sự an ủi lớn lao cho chúng ta khi thấy Phêrô cũng có những yếu đuối con người, ngay cả trước mặt Đức Giêsu.
Phêrô đã độ lượng hy sinh mọi sự, tuy nhiên ngài vẫn có thể hỏi một câu thật nông cạn như trẻ con, “Chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy, vậy chúng con sẽ được gì?” (x. Mt 19, 27). Ngài phải chịu sự tức giận vô cùng của Đức Ki-tô khi chống đối ý tưởng của một Đấng Thiên Sai đau khổ: “Satan, hãy lui ra sau Ta! Anh cản lối Ta. Tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16, 23b).
Phêrô sẵn sàng chấp nhận lý thuyết về sự tha thứ của Đức Giêsu, nhưng dường như chỉ trong giới hạn bảy lần. Ngài đi trên mặt nước khi vững tin, nhưng bị chìm khi hồ nghi. Ngài không để Đức Giêsu rửa chân cho mình, nhưng lại muốn toàn thân được sạch. Ngài thề không khi nào chối Chúa trong bữa Tiệc Ly, và sau đó lại thề với người tớ gái là ngài không biết người ấy. Ngài trung thành chống lại sự bắt giữ Đức Giêsu bằng cách chém đứt tai tên Man-khô, nhưng sau cùng ngài lẩn trốn với các Tông Đồ khác. Trong sự phiền muộn vô cùng, Đức Giêsu đã nhìn đến ngài và tha thứ cho ngài, và Phêrô đi ra ngoài khóc lóc thảm thiết.
Thánh Phaolô
Nếu giả như có nhà truyền giáo Hoa Kỳ kêu gọi phải chấp nhận chủ nghĩa Mác-xít chứ đừng tôn trọng Hiến Pháp, thì phản ứng tức giận sẽ giúp chúng ta hiểu cuộc đời Thánh Phaolô hơn khi ngài bắt đầu rao giảng là chỉ có Đức Ki-tô mới cứu chuộc được chúng ta. Ngài từng là người Pharixiêu hơn ai hết, trung thành với luật Môisen hơn ai hết. Nhưng bây giờ bỗng dưng ngài xuất hiện trước các người Do Thái như một người lạc giáo của Dân Ngoại, một kẻ phản bội và chối đạo.
Tâm điểm đức tin của Phaolô thật đơn giản và tuyệt đối: chỉ Thiên Chúa mới có thể cứu chuộc nhân loại. Không một nỗ lực nào của con người – ngay cả việc tuân giữ lề luật cặn kẽ nhất – có thể tạo nên công trạng để chúng ta có thể dâng lên Thiên Chúa như của lễ đền tội và đền đáp các ơn sủng. Để được cứu chuộc khỏi tội lỗi, khỏi sự dữ và cái chết, nhân loại phải triệt để mở lòng cho quyền năng cứu độ của Đức Giêsu Ki-tô.
Phaolô không bao giờ mất sự yêu quý dòng dõi Do Thái của ngài, mặc dù ngài tranh luận nhiều với họ về sự vô dụng của Luật mà không có Đức Ki-tô. Ngài nhắc nhở cho Dân Ngoại biết rằng họ được tháp nhập vào tổ tiên của người Do Thái, là những người được Chúa chọn, là con cái của lời đã hứa.
Vào ngày 29.6, chúng ta tưởng nhớ sự tử đạo của hai vị Tông Đồ. Ngày tháng này có từ năm 258, dưới thời bách hại của Valerian, khi các tín hữu tìm cách lấy xác của hai ngài để khỏi rơi vào tay các kẻ bách hại.
Kinh Thánh không ghi lại cái chết của Thánh Phêrô và Phaolô, hoặc bất cứ vị Tông Đồ nào, ngoại trừ Thánh Gia-cô-bê con ông Giê-bê-đê (Cv 12, 2), nhưng qua các bài đọc và truyền thuyết có từ thời Giáo Hội tiên khởi, các ngài đã tử đạo ở Rôma dưới thời Hoàng Đế Nê-rô, và được chôn cất ở đây. Là một công dân Rô-ma, có lẽ Thánh Phaolô bị chặt đầu. Còn Thánh Phêrô, được biết ngài bị treo ngược đầu trên thập giá.
26. Thánh Phêrô và Phaolô tông đồ
* LỊCH SỬ
Lễ hôm nay không phải là ngày tử đạo của hai vị thánh Tông Đồ, nhưng có lẽ là ngày di chuyển hài cốt của hai vị vào hang toại đạo trên đường Vua Appia, gần nhà thờ San Sebastianô ngày hôm nay. Người ta gặp thánh lễ này lần đầu tiên trong lịch của thành phố Rô-ma vào năm 354.
Simon, anh (hay em?) của Anrê, xuất thân từ Betsaida miền Ga-li-lê, làm nghề đánh cá, có gia đình. Tất cả đều bình thường cho đến ngày Đức Giêsu thành Nadarét gọi để theo và phục vụ Người. Đức Giêsu đã ban cho ông tên mới là Kê-phát, theo nghĩa Do Thái là Đá (từ đó dịch sang Ngữ là Petrus: Phêrô). Tên mới này nói lên sứ vụ trong tương lai của ông (so Mt 16.13-20). Phêrô luôn đứng đầu trong danh sách Mười Hai Tông Đồ.
Sau khi Chúa Giêsu về trời, Phêrô lãnh đạo cộng đoàn tại Giêrusalem. Ông đón nhận những người ngoại giáo đầu tiên gia nhập vào Hội Thánh (Cv 10,11). Lịch sử minh chứng ngài đã dừng chân tại Rô-ma và tử đạo dưới thời hoàng đế Nê-rô (khoảng năm 64-67).
Thánh Phaolô tử đạo vào năm 67. Xưa hội thánh lấy ngày 30.6, sau ngày kính trọng thể Phêrô-Phaolô, để kính nhớ đặc biệt thánh Phaolô, nhưng lịch mới 1970 không còn nữa, ngược lại Hội Thánh nâng lễ “Thánh Phaolô trở lại” tháng Giêng lên bực cao hơn. (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)
- Hạt giống…
Đoạn Tin mừng chúng ta vừa nghe cho thấy 3 mức độ hiểu biết về Chúa Giêsu:
- Mức độ của dân chúng: nếu chỉ thấy những việc Chúa Giêsu làm và nghe những lời Ngài dạy mà không suy nghĩ thêm thì người ta chỉ biết Ngài là một ngôn sứ thôi.
- Mức độ của Phêrô: được ơn Chúa soi sáng, Phêrô hiểu Chúa Giêsu là Đức Kitô Con Thiên Chúa. Nhưng nếu ơn soi sáng của Thiên Chúa không có sự hợp tác tức là sự “đi theo” của con người thì dù có hiểu biết Chúa Giêsu, con người vẫn có thể phản đối và cản bước Thiên Chúa (x. Các câu phía sau: cc 21-23)
- Mức độ Chúa Giêsu đòi hỏi nơi người môn đệ: hiểu biết Chúa Giêsu cộng thêm với sự từ bỏ và vác thập giá đi theo Ngài.
B…. nẩy mầm.
- Chúng ta thử xem xem chúng ta hiểu biết Chúa Giêsu tới mức độ nào:
– Nếu chỉ coi Ngài là một ngôn sứ thì mối liên hệ giữa chúng ta với Ngài sẽ rất thấp. Có chăng là chỉ để xin ơn?
– Còn nếu đã coi Ngài là Đức Kitô Con Thiên Chúa, là lẽ sống đời mình, thì mối giây liên hệ đã cao hơn nhưng chưa hẳn là đã hoàn hảo nhất là khi ta còn sợ khó, ngại khổ vì Ngài?
Có rất nhiều cách để khước từ thập giá: khi không tiếp nhận cuộc sống như một ơn ban, khi nhìn các biến cố chỉ với cặp mắt của con người, khi bán đứng lương tâm vì chút lợi lộc vật chất, khi đóng kín niềm tin trong các buổi phụng vụ mà quên rằng sống đạo là sống niềm tin kitô trong từng phút giây cuộc sống. (“Mỗi ngày một tin vui”)
– Còn nếu ta sẵn sàng bỏ tất cả và vác thập giá đi theo Ngài thì chắc chắn chúng ta sẽ thành thánh! Thánh Phêrô và Phaolô cũng không làm gì khác hơn như thế.
2.. Ngày kia, hoàng đế của một vương quốc lớn đã mời gọi các nghệ sĩ từ nhiều nước đến dự cuộc thi “mô tả chân dung hoàng đế”. Các nghệ sĩ Ấn Độ đến với đầy đủ dụng cụ và các thứ đá hoa kim cương quí nhất. Các nghệ sĩ Ai cập thì mang đến đủ thứ đồ nghề và một khối cẩm thạch hảo hạng. Sau cùng người ta rất nhạc nhiên khi thấy phái đoàn Hy Lạp chỉ mang vỏn vẹn một gói thuốc đánh bóng.
Mỗi phái đoàn dự thi trong một căn phòng đặc biệt của cung điện. Khi thời gian đã hết, Đức vua cho trưng bày các tác phẩm tranh giải. Ông hết sức khen các bức chân dung của chính mình do các nghệ sĩ Ấn Độ và Ai cập tạc nên. Sau cùng đến phòng trưng bày của người Hy Lạp, hoàng đế chỉ thấy duy nhất một bức tường đã được đánh bóng đến độ khi hoàng đế nhìn vào ông thấy khuôn mặt của mình hiện ra từng nét. Và phái đoàn Hy Lạp đã đoạt giải nhất trong cuộc thi đó.
Sứ mệnh căn bản của mỗi kitô hữu là hoạ lại dung nhan của Đức Kitô nơi cuộc sống và tâm hồn của mình. Để đạt được điều đó, chúng ta phải đục đẽo, phải loại bỏ tất cả những gì là gồ ghề, thô nháp, những thói hư tật xấu và phải cầu xin để có một đức tin vững mạnh.
Lạy Chúa, xin cho con biết kiên nhẫn đục đẽo tâm hồn và cuộc sống con để dung nhan Ngài giãi sáng qua mọi hành vi của đời sống con. (Hosanna)
- Nhìn lại cuộc đời theo Chúa của Phêrô chúng ta thấy ông đã sẵn sàng để cho Chúa uốn nắn, mài dũa ông như thế nào. Rất nhiều lần Chúa đã trách mắng ông, thậm chí có lần Chúa đã gọi ông là “Đồ Satan”, thế nhưng Phêrô vẫn luôn một lòng một dạ trung thành để rồi sau này ông có thể viết cho đoàn chiên Chúa trao cho Ông như thế này: “Anh em hãy sống thánh thiện trong cách ăn nết ở, để nên giống Đấng Thánh đã kêu gọi anh em” (1Pr 1,15) – Còn anh em, anh em là giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa, để loan truyền những kỳ công của Người, Đấng đã gọi anh em ra khỏi miền u tối, vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền. (1Pr 2,9)
Đối với Phaolô thì chúng ta khỏi cần phải nói: Sau khi được Chúa kêu gọi trên con đường ông đi Damas, ông đã vào ẩn mình trong hoang địa. Ở đó Chúa đã tôi luyện ông để ông trở nên giống Chúa đến nỗi Ngài có thể tự hào: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi. Hiện nay tôi sống kiếp phàm nhân trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi. Và Ngài khuyên những ai tin Chúa: “Anh em đã nhận Đức Ki-tô Giêsu làm Chúa, thì hãy tiếp tục sống kết hợp với Người”
Chúng ta hãy để cho Chúa uấn nắn, gọt dũa cuộc đời của chúng ta…sao cho được trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài!
- Ông Simon Phêrô thưa: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16, 16)
Hằng ngày tôi phải đối mặt với biết bao vấn đề, biết bao chuyện mà Thiên Chúa đòi tôi phải làm chứng cho Ngài. Trước bao vấn đề cần sự can thiệp của tôi: kỷ luật trong lớp học, dàn hoà một cuộc cãi nhau hay một xích mích, giúp đỡ kẻ nghèo… Tôi chỉ biết suy nghĩ cách giải quyết này đến cách giải quyết khác. Tất cả chỉ là những lý tưởng. Vì chúng chỉ lẩn quẩn trong đầu tôi mà không thể đi tới hành động.
Ông Phêrô đã tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống, nhưng khi chối Chúa 3 lần, ông đã không dám dấn thân đến cùng cho niềm tin. Và đức tin không có việc làm là đức tin chết!
Lạy Chúa, xin ban Thần Khí của Người, để con mạnh dạn tuyên xưng Chúa bằng chính hành động của con. (Hosanna)
- “Thầy bảo cho anh biết: anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá. Trên tảng đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi”(Mt 16, 18). cầu nguyện cho Đức Thánh Cha và cho Giáo Hội.
Khi xưa Chúa nói với Phêrô “Anh là Tảng Đá”. Hôm nay nghe lại đoạn Phúc Âm này tôi cảm thấy như Chúa nói với tôi.
Mỗi viên đá đều góp phần tạo nên nền móng cho ngôi nhà. Bé nhỏ, yếu hèn và bất lực, tôi lo sợ viên đá của mình có lúc sẽ vỡ tan. Đó là lúc tôi đánh mất chính mình trong bổn phận hằng ngày.
Lạy Chúa, xin cho con được vững vàng và can đảm hơn, để con thực sự là viên đá hữu dụng trong tay Chúa (Hosanna)
- Mừng lễ hai thánh tông đồ Phêrô Và Phaolô hôm nay, chúng ta cũng còn phải nhớ lại lời Chúa đã nói với Phêrô “Anh là Tảng Đá”.
Vào quãng đầu thế kỷ 19, Na-pô-lê-ông đệ nhất của nước Pháp đã chinh phục hầu hết các nước Châu âu. Năm 1804 ông lên ngôi hoàng đế.
Để được các nước Âu châu thần phục mình, ông đã mời Đức Giáo Hoàng Piô VII đến tấn phong hoàng đế cho ông. Ông cũng cố gắng thuyết phục vị Giáo Hoàng dời tòa thánh về Pa-ris. Nghe những lời vừa đe dọa vừa vuốt ve của Na-pô-lê-ông, Đức Piô VII chỉ mỉm cười và nói:
– Hài kịch của ông thật là xuất sắc.
Bị chạm tự ái, Na-pô-lê-ông cầm lấy sơ đồ vương cung thánh đường thánh Phêrô vừa xé vừa nói:
– Đây là điều mà ta sẽ làm cho Giáo Hội. Ta sẽ dẫm nát Giáo Hội ra từng mảnh.
Nghe thế vị Giáo Hoàng vẫn bình tĩnh nói:
– Bây giờ lại đến lượt bi kịch.
Đúng vậy, Na-pô-lê-ông đã bắt đầu bi kịch bằng cách tống giam vị Giáo Hoàng rồi chiếm lấy những lãnh thổ thuộc về Giáo Hội. Nhưng thảm kịch lại xảy ra cho chính ông. Đúng bốn ngày sau Na-pô-lê-ông thất trận lần đầu tiên, từ trong tù, vị Giáo Hoàng cũng thể hiện quyền lãnh đạo của ngài. Ngài đã dứt phép thông công Na-pô-lê-ông, nghĩa không cho ông tham dự vào đời sống của Giáo Hội nữa.
Na-pô-lê-ông gầm thét lên cách giận dữ, ông nói với Đức Giáo Hoàng:
– Đức Giáo Hoàng nghĩ rằng với việc rút phép thông công ấy, binh sĩ của ta sẽ buông súng ư?
Chỉ vài năm sau, từ những cánh đồng băng giá bên nước Nga, một bản báo cáo được đánh đi:”Các binh sĩ của chúng ta đang buông súng”.
Năm 1812, Na-pô-lê-ông dẫn quân ra khỏi nước Nga, và năm sau đó ông hoàn toàn bị quân đồng minh đánh bại. Tại chính biệt thự Phông-ten-bơ- rô nơi ông đang giam giữ Đức Giáo Hoàng Piô VII, hoàng đế của nước Pháp đã ký tên từ chức. Và Đức Piô VII trở lại Rô-ma giữa tiếng reo hò mừng vui của thế giới công giáo.
Hãy tin vào Chúa Giêsu và quyền năng của Ngài để luôn được sống trong bình an mặc cho những sóng gió phũ phàng nhiều lúc làm cho chúng ta có cảm tưởng rằng con thuyền Giáo Hội như có vẻ sắp chìm. Hãy nhớ Chúa Giêsu luôn ở với Giáo Hội của Người. Amen.
27. Thầy biết con yêu mến Thầy
(Suy niệm của Lm. Giuse Trương Đình Hiền)
Hôm nay, Hội Thánh hân hoan và long trọng mừng kính Hai Thánh Tông Đồ Phêrô – Phaolô, hai cột trụ đã được chính Đức Kitô cắt đặt để xây dựng tòa nhà Giáo Hội bằng chính máu của mình như lời Ca Nhập Lễ mà Giáo hội hát lên trong phụng vụ thánh lễ hôm nay:
“Đây là hai vị Tông Đồ đều anh dũng
Dâng máu đào xây Giáo Hội ngàn thu
Chén đắng Thầy trao, uống cạn chẳng từ
Chúa ưu đãi, nâng lên hàng tâm phúc”
Trong ý nghĩa đó, tất cả mọi kitô hữu chúng ta hôm nay đều được thừa hưởng và dự phần vào công trình và công nghiệp của hai vị Đại Tông Đồ này. Xin dâng lên các Ngài tâm tình yêu mến và tri ân cảm tạ. Tâm tình này chắc chắn sẽ đặc biệt hơn, nồng thắm hơn nơi tất cả những ai, những cộng đoàn, những tổ chức… đã chọn hai Thánh Phêrô – Phaolô làm Vị Bổn Mạng của mình.
Chắc chắn không phải tình cờ, khi phụng vụ chọn đọc các trích đoạn Lời Chúa trong ngày Đại lễ kính hai Thánh Tông Đồ hôm nay: Bài Đọc 1: Sách Công Vụ kể lại: từ ngục tù, Thánh Phêrô đã được giải cứu để lên đường làm chứng đức tin giữa những lời cầu nguyện thiết tha của cộng đoàn Hội Thánh. Trong khi đó Bài đọc 2, cũng từ tù ngục, Thánh Phaolô sắp sửa hoàn tất cuộc hành trình chứng tá, cuộc chiến đấu của niềm tin mà lời nhắn gởi cho người môn đệ yêu dấu Timôthê mang âm hưởng của một lời trăng trối. Và rồi, Lời Chúa đã liên kết hai cuộc đời, hai cá tính, hai sứ vụ xem ra khác biệt của Phêrô và Phaolô thành một đáp án duy nhất qua 2 câu trả lời: một của Phêrô dành cho Chúa Giêsu: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” và một của Chúa Giêsu dành cho Phêrô: “…Trên Đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy…”. Quả thật, sứ vụ Tông Đồ, cuộc hành trình chứng tá và tình yêu trọn vẹn dành cho Chúa Giêsu và Hội Thánh, phải chăng là những điểm chung cốt yếu đã đem hai Vị Tông Đồ tương đối dị biệt này tiến lại gần nhau, gần nhau cho đến độ cả hai đã cùng hội tụ tại kinh thành Rôma để cùng làm chứng đức tin cách trọn vẹn và anh hùng trong cùng một thời điểm: Phêrô bị đóng đinh ngược đầu và Phaolô bị xử trảm.
Mừng lễ hai Thánh Tông Đồ Phêrô – Phaolô có lẽ là dịp tốt nhất để chúng ta cùng khám phá những chứng từ sống động nơi hai cuộc đời vĩ đại đã cùng nhau thiết kế Ngôi Nhà Giáo Hội và chuyển tải cho muôn thế hệ những sứ điệp tuyệt vời của Lời Mặc khải của Thiên Chúa.
- Hai cuộc đời khác biệt:
- Trên bình diện cội nguồn và cá tính:
– Thánh Phêrô là người thành Bétsaiđa, miền Galilê, xuất thân từ môi trường bình dân, ít học, làm nghề đánh cá (Mt 4, 18). Trong khi đó, mặc dù là gốc dân do Thái, Phaolô lại sinh tại Tarsô (Cv 9, 11), mang quốc tịch Rôma (CV 16, 37), được học hành đến nơi đến chốn với danh sư biệt phái Gamaliel (CV5, 34; 22, 3).
– Nếu Phêrô luôn trung thành với lề luật và gắn bó với môi trường xã hội Do Thái như những người mộ đạo đương thời: giữ luật cắt bì, coi trọng việc qui định sạch dơ về đồ ăn thức uống… (Cv 10, 14), thì Phaolô, cho dù có nhiệt thành với luật Môsê, nhưng vì được hấp thụ nền văn hóa Hi Lạp, lại sinh trưởng nơi môi trường hải ngoại, nên có cái nhìn thông thoáng và cởi mở hơn đối với thế giới lương dân.
- Trên bình diện ơn gọi và sứ vụ:
– Phêrô là một trong những môn đệ đầu tiên đi theo Chúa và đã dấn thân trong ơn gọi này với tất cả lòng nhiệt thành và bộc trực của mình. Trích đoạn Tin mừng chúng ta vừa nghe đã minh họa rõ nét: chính lòng nhiệt thành và tính bộc trực đã thúc đẩy Phêrô vượt trên anh em để tuyên xưng niềm tin: “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống”. Một lời tuyên tín sâu sắc tuyệt vời, là kết quả của ơn mặc khải của Thiên Chúa cùng với cảm nhận của riêng mình đã khiến Chúa Giêsu khen ngợi và đặt Ngài làm đá tảng xây nền Giáo Hội. Nhưng “Đá Tảng” ấy vì đã vội “bốc đồng”, muốn chơi trội định ngăn cản Đức Giêsu thực thi chương trình cứu độ, nên đã bị Chúa quở trách là Satan. Mà nào chỉ có lần này! Chuyện trên trên Biển Hồ đêm nào vẫn còn đó: Đầu tiên, khi con hướng về Chúa, Phêrô đã bước những bước an toàn trên sóng nước. Nhưng sau đó, suýt nữa đã chìm nghỉm yếu đuối của mình. Nhưng thê thảm nhất phải là chuyện xảy ra trong biến cố khổ nạn: Chính tại bàn tiệc ly, Phêrô đã thách thức: “Dù cho mọi người vấp ngã, nhưng con thì không!…Dù phải chết với Thầy, con sẽ không chối Thầy”. Thế nhưng, trong chính đêm định mệnh ấy, Phêrô đã run sợ chối Thầy ba lần chỉ vì lời nói của một người đầy tớ. Nhưng thật may mắn cho Phêrô khi ông vẫn còn lẽo đẽo theo Thầy để cuối cùng nhận được ánh mắt nhân từ tha thứ để rồi, cũng tại nơi Biển Hồ Tibêriat, sau ngày Chúa sống lại, Phêrô hết còn tự tin nơi chính mình mà chỉ biết phó thác nơi sự khôn ngoan của chính Chúa: “Thầy biết hết mọi sự. Thầy biết con yêu mến Thầy”. “Tảng Đá” Phêrô đã vỡ vụn hôm nào tưởng đâu sẽ bị loại bỏ; ai ngờ Đức Kitô đã hàn gắn lại để ân cần trao cho Ông sứ mệnh chăn dắt đoàn chiên.
– Ơn gọi của Thánh Phaolô lại không đơn giản như thế. Trước khi trở thành một Tông Đồ nhiệt thành sâu sắc của Đức Kitô, thì Phaolô đã là một Pharisiêu cương quyết loại trừ Kitô giáo với tất cả nhiệt tình và suy nghĩ chín chắn. Với niềm tin được cắm rễ vững chắc trong truyền thống lề luật Môsê, làm sao Phaolô lại chấp nhận một tên Giêsu Nadarét nào đó vi phạm luật ngày Sabát? và còn hơn thế nữa, làm sao chịu được những luận điệu tuyên truyền của đám dân chài Galilê, đồ đệ của Giêsu cho rằng Ngài đã sống lại và đang sống! Đồng tình trong vụ ném đá chết Stêphanô chưa đủ đâu! Phaolô còn hung hăng đi truy bắt các kitô hữu để tiêu diệt mọi mầm mống có nguy cơ phát sinh một tôn giáo mới, ngược lại tôn giáo cựu truyền của cha ông. Nhưng rồi, một ánh sáng diệu kỳ đã đánh mù đôi mắt xác thịt trần tục của ông để mở ra cho ông một nguồn sáng mới. Tên Pharisiêu cực đoan bài xích kitô giáo hết cỡ, thì với biến cố Damas, giờ đây đã trở thành “người loan báo Chúa Kitô hăng nồng như một “vận động viên lao về phía trước” (Pl 3, 13), như một chiến sĩ “chiến đấu ngoan cường trong trận chiến chính nghĩa” (Thư gởi Timôthê trong BĐ 2) mà không một trở lực nào, dù bắt bớ tù đày, dù đòn vọt khổ đau, dù sống hay chết… có thể “tách Phaolô khỏi lòng mến của Thiên Chúa trong Đức Kitô”. Và cuộc sống của Phaolô từ đó đã xoay quanh chân lý nền tảng này: “Tôi sống đây, nhưng không phải là tôi, mà chính Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2, 20).
- Hai cuộc đời hiệp nhất trong Đức Kitô:
Qua vài phân tích sơ lược trên, quả thật “Hai Cột trụ” của Giáo Hội có nhiều điểm khác biệt mà chính Kinh Tiền Tụng trong phụng vụ hôm nay đã nhắc tới: “Cha đã sắp đặt để thánh Phêrô là người đầu tiên tuyên xưng đức tin, thánh Phaolô là người làm sáng tỏ đức tin, thánh Phêrô thiết lập Hội Thánh tiên khởi cho người Ítraen, thánh Phaolô là thầy giảng dạy muôn dân. Như vậy các Ngài đã dùng đường lối khác biệt, để qui tụ một gia đình duy nhất cho Đức Kitô…”. Quả thật, chính niềm tin, lòng yêu mến Chúa Kitô và Hội Thánh Ngài, đã đem Phêrô và Phaolô lại gần nhau. Chính Phêrô đã không bao giờ nhân danh quyền thủ lãnh để áp đặt Phaolô, nhưng đã biết khiêm hạ nhìn nhận khuyết điểm (Gl 2, 2tt). Cũng thế, Phaolô không bao giờ nại vào trình độ văn hóa, khả năng suy tư để xem thường Phêrô. Phaolô luôn ý thức vai trò củng cố đức tin và sứ mệnh chăn dắt Giáo Hội của Phêrô được chính Chúa Kitô trao phó. Và nhất là, cho dù ở hai lãnh vực hoạt động khác nhau, nhưng niềm tin và lòng yêu mến đã thúc đẩy Phêrô – Phaolô cùng hội tụ tại thủ đô Rôma để làm chứng cho Chúa Kitô bằng chính máu của mình. Phêrô bị đóng đinh ngược đầu còn Phaolô bị xử trảm.
- Bài học hôm nay:
Gần 2000 năm qua rồi nhưng cuộc đời của Phêrô -Phaolô vẫn còn là một gợi hứng đầy sinh động và cuốn hút cho Dân Chúa nói chung và cho mỗi một người chúng ta nói riêng. Bài học lớn đầu tiên mà Hội Thánh rút ra từ hai cuộc đời vĩ đại này phải chăng là “Sự hiệp nhất trong đa dạng”. Đa dạng trong tính tình, khuynh hướng, trình độ tri thức lẫn phương cách hoạt động nhưng Hai Vị Tông Đồ lại hiệp nhất trong cùng một đức tin và một lòng yêu mến. Sự hiệp nhất như thế thật sự là quá cần thiết cho Giáo Hội muôn nơi và muôn thuở. Cho dù hôm nay, Giáo hội có toả lan cỡ nào, có vươn dài đến mọi biên giới của muôn dân tộc, quốc gia, thì sự khác biệt mãi mãi sẽ không làm cho Giáo Hội chia rẽ, phân tán, nhưng càng thêm phong phú tốt tươi vì mọi phần tử được liên kết với nhau trong một mối dây thâm sâu nhất đó là tình yêu và lòng trung tín đối với Chúa Kitô, đối với Hội Thánh của Ngài.
Cách riêng đối với mỗi người chúng ta, chỉ cần nhớ lại một đôi câu nói của Hai Ngài, chúng ta cũng có thể tìm thấy cả một linh đạo cần thiết cho hành trình đức tin của mình:
– Để sống khiêm hạ: “Lạy Thầy xin hãy xa con, vì con là người tội lỗi…” (Phêrô); “Cho đến bây giờ chúng tôi đã nên như rác rưởi thế gian…” (Phaolô)
– Để vững lòng trông cậy: “Lạy Thầy cứu con” (Phêrô), “Tôi biết tôi đã tin vào ai” (Phaolô)
– Để thuộc trọn về Đức Kitô như chọn lựa cuối cùng: “Bỏ Thầy con biết đến cùng ai…” (Phêrô), “Đối với tôi, sống là Đức Kitô…”, “Tôi sống đây không phải tôi nhưng chính Đức kitô sống trong tôi” (Phaolô)
– Để yêu mến Đức Kitô hết mình: “Thầy biết con yêu mến Thầy” (Phêrô), “Không có gì tách tôi khỏi lòng mến của Thiên Chúa trong Đức Kitô” (Phaolô).
– Để trung thành với Chúa Kitô trong mọi hoàn cảnh: “Dù có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy” (Phêrô), “Tôi đã chạy đến cùng đường và giữ vững niềm tin” (Phaolô)
– Để vâng lệnh Chúa Kitô ra đi loan báo Tin Mừng: “Vâng lời Thầy con xin thả lưới” (Phêrô), “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (Phaolô)
– Để củng cố và xây dựng Hội Thánh; “Anh em là Dân tộc thánh…là những viên đá sống xây dựng đền thờ Thiên Chúa” (Phêrô), “Anh em là thân thể Đức Kitô và mỗi người là một bộ phận” (Phaolô).
28. Hai đá tảng và trụ cột của Giáo hội
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Vinh Sơn, SCJ.)
Thánh Phêrô lúc đầu có tên là Simon, làm nghề đánh cá và đã có gia đình. Ngài được Chúa Giêsu gọi đi theo Người trong một lần đánh cá ở trên biển. Ngài đã đại diện các môn đệ tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa (x. Mt 16, 16) được Chúa đặt đứng đầu nhóm Mười Hai. Ngài là một trong bốn môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu (x. Mt 4, 18-22) được tham dự hầu hết những biến cố quan trọng trong cuộc đời công khai của Chúa… Trong những lúc khó khăn nguy khốn, vì yếu lòng tin ngài đã chối Chúa ba lần nhưng đã quay trở lại và làm cho đức tin của Giáo hội phát triển mạnh tại Giêrusalem, sau khi Chúa về trời. Ngài tử đạo khoảng năm 64-67.
Thánh Phaolô, trước đây là một biệt phái, sau khi bị Chúa làm cho ngã ngựa và làm mù lòa trên đường Đamas khi đang bách hại đạo Chúa. Ngài đã được Chúa chọn làm tông đồ rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại. Ngài thành lập nhiều cộng đoàn cũng như viết thư thăm hỏi, giải quyết những vấn đề của cộng đoàn mà ngài không thể tới được. Ngài tử đạo năm 67 tại Rôma.
Noi gương hai thánh tông đồ, chúng ta gắn kết cuộc đời mình với Đức Kitô để kín múc nơi Người nguồn sức mạnh tình yêu, hầu chia sẻ cho mọi người và sống chứng nhân Tin Mừng.
Câu chuyện
Trong mọi công trình xây dựng, các chuyên gia đều chú trọng đến nền móng và trụ cột nâng đỡ toàn bộ kiến trúc của công trình.
Trong ngôi nhà Giáo hội cũng vậy, chúng ta là những viên gạch để xây dựng lên và đã được Thiên Chúa kiến thiết với nền móng vững chắc từ “đá tảng niềm tin Phêrô và cột trụ bền vững nhiệt thành Phaolô”. Hai vị được nhìn nhận như là nền móng và trụ cột của công trình Giáo hội Chúa giữa trần gian. Trong kinh tiền tụng lễ hai thánh Phêrô và Phaolô, Giáo hội đã long trọng tuyên bố: ”Thánh Phêrô là người đầu tiên tuyên xưng đức tin, thánh Phaolô là người làm sáng tỏ đức tin, thánh Phêrô thiết lập Hội Thánh tiên khởi cho người Israel, thánh Phaolô là thầy giảng dạy muôn dân”.
Suy niệm
Phêrô và Phaolô hai tính khí, hai nhân cách khác nhau: Một người xuất thân từ dân chài, thật thà chất phác nhưng đôi phần nóng nảy. Một người xuất thân là một trí thức trẻ học rộng tài cao thuộc đẳng cấp biệt phái và là công dân của Rôma. Cả hai có kinh nghiệm sống và gặp gỡ Thiên Chúa theo lịch sử riêng của mỗi người và được Thiên Chúa chiếm hữu biến đổi để trở nên đá tảng và trụ cột của Giáo hội.
Phêrô: Quá khứ là dân chài lưới với chiếc thuyền nhỏ rong ruổi khắp hồ Tibériat đã trở nên kẻ chài lưới người theo ý muốn của Thiên Chúa, hôm nay là hoa tiêu trên chiếc tàu Giáo hội xuôi ngược đại dương trần gian. Phêrô đã được Chúa Giêsu biến đổi từ một con người tầm thường có lịch sử với những đặc điểm bình thường như bao người khác. Đó là Phêrô của sự tính toán: “Chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy, vậy chúng con sẽ được gì?” (Mt 19, 27). Sự tính toán của con người ấy đã khiến ông ngăn cản bước đi cứu chuộc nhân loại của Đức Kitô và bị Ngài quở mắng: “Satan, hãy lui ra sau Ta! Anh cản lối Ta. Tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16, 23b); Phêrô của nóng nảy, của yếu đuối, của phản bội: Chối Thầy ba lần (x. Lc 22, 54-62). Kinh nghiệm được tha thứ khiến ông trở nên biết chia sẻ lòng thương xót của Chúa với anh em như Chúa Giêsu đã nói: “Phần con, hỡi Phêrô, sau khi đã trở lại, con hãy củng cố các anh em của con” (Lc 22, 32). Nhưng cũng Phêrô đầy ơn Chúa xác tín tuyên xưng: “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16, 16). Trước niềm tin sắt son này, Phêrô được Chúa đặt làm nền tảng Giáo hội: “Con là đá, trên đá này, Thầy sẽ xây Giáo hội của Thầy, và cửa hỏa ngục sẽ không thắng nổi” (Mt 16, 18); Phêrô tín thác hoàn toàn vào Đức Giêsu: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6, 68). Phêrô gắn bó với tình yêu của Thầy trên hết: “Thầy biết con yêu mến Thầy” (Ga 21, 15.16.17); Phêrô của sự cương quyết thuộc về Thiên Chúa và chỉ vâng lời và làm chứng về Ngài: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người ta… về những sự kiện đó (Đức Kitô đã sống lại), chúng tôi xin làm chứng…”. (Cv 5, 29.32). Ngài đã làm chứng cho đến chết bằng cái chết bị đóng đinh ngược trên đồi Vaticăn.
Phaolô hôm qua còn ghét và truy bắt “tà đạo Kitô”, Phaolô, một tay bách hại đạo khét tiếng như chính ông đã nhìn nhận (Gl 1, 13), và là người tuân giữ nghiêm ngặt luật Do Thái (Gl 1, 14). Phaolô còn liên quan trực tiếp đến vụ án ném đá đến chết của Stêphanô, phó tế tử đạo tiên khởi (Cv 7, 59). Phaolô của ngày hôm nay lại càng nổi tiếng hơn bao giờ hết vì là người nhiệt thành yêu mến và truyền bá Đức Kitô và sẵn sàng chết cho niềm tin đó. Thánh Phaolô xác tín niềm tin của mình vào Đức Kitô: “Tôi biết tôi đã tin vào ai” (2Tm 1, 12), tin và loan báo Đức Kitô là lẽ sống của Phaolô: “Khốn cho tôi nếu tôi không loan báo Tin mừng” (1Cr 9, 16) và chính ông để tình yêu Đức Kitô chiếm hữu “Tình yêu Đức Kitô thúc bách tôi” (2Cr 5, 14), Phaolô chỉ sống vì Đức Kitô và trở nên một với Đức Kitô: “Không còn là tôi sống nữa, nhưng là Chúa Kitô sống trong tôi” (Gl 2, 20). Trong Ngài, Phaolô gắn bó với tình yêu Thiên Chúa không gì có thể chia ly: “Không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Ðức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8, 39). Những bước chân của Phaolô là bước chân gieo hạt giống Tin Mừng cho anh em dân ngoại như là ơn gọi đặc biệt của ông (Gl 1, 16). Phaolô chứng nhân Tin Mừng Chúa Kitô cho đến khi đầu ông rơi, máu ông đổ vì Tin Mừng ở ngoài thành Rôma.
Phêrô và Phaolô, hai người hai tính khí, hai trực giác khác nhau, hai đường hướng hoạt động tông đồ khác nhau, nhưng đã gặp gỡ nhau trong tình yêu Chúa và bổ túc cho nhau để xây dựng Giáo hội theo thánh ý quan phòng của Thiên Chúa. Thanh gươm ngày nào của Phaolô giơ cao bách hại đạo Chúa nay thế bằng Tin Mừng cứu độ giương cao để không ngừng khai quang truyền giáo cho Đức Kitô. Giọt nước mắt thống hối chân thành vì đã phản bội Thầy của Phêrô xưa và chìa khóa nước Trời được Chúa trao cho ông luôn hiện diện và mở toang nước Trời cho những ai chân thành sám hối.
Noi gương như Phêrô, người đã nhận ra tình yêu của Ngài qua những giọt nước mắt của sự sám hối sau khi phản bội Thầy; như Phaolô nhận biết Ngài sau những lần truy lùng gắt gao các môn đệ của Ngài…, và chỉ một lần ngã ngựa đớn đau, ông đã gặp gỡ Ngài và đời ông biến đổi theo thánh ý Thiên Chúa và trở nên mạnh mẽ trong đức tin.
Ý lực sống:
“… Khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh” (2Cr 12, 10).
29. “Anh là Phêrô…
TRÊN TẢNG ĐÁ NÀY THẦY SẼ XÂY HỘI THÁNH CỦA THẦY”.
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI.
- Từ việc phêrô tuyên xưng đức tin…
Đức Giêsu thường tìm dịp xa tránh những đối phương hay sách nhiễu Người. Lợi dụng dịp xa cách này, Đức Giêsu muốn đưa các môn đệ mình vào một nhịp sống lần lượt có những giai đoạn rút vào thanh vắng cả về mặt thiêng liêng lẫn mặt địa lý; những giai đoạn ấy là những cột mốc đánh dấu chặng đường các môn đệ khám phá ra chân tính đích thực của Đức Giêsu.
Sau buổi tranh luận mới với các người Pharisêu muốn đòi hỏi Chúa “cho họ xem một dấu lạ”, lúc này Thầy trò Đức Giêsu đang ở giữa miền đất dân ngoại, vùng đầu nguồn sông Giocđan. Các Ngài đang lưu trú tại Xêdarê-Philipphê là một Thành phố mới, do quận vương Philipphê, con của Hêrôđê cả, xây để kính nhớ hoàng đế Rôma, bởi đó Thành phố mới có tên là Xêdarê-Philipphê. C.Tassin ghi nhận: “Cư dân của Thành phố là người Xiri gốc Hylạp, và việc lo tôn thờ thần Pan cùng nữ thần sông biển tạo nên bức tranh khác giống với môi trường Giáo hội của thánh Mátthêu” (“L’Evangile de Matthieu”, Centurion, trang 173).
Chính ở đó, trước khi lên đường đi Giêrusalem lần cuối, Đức Giêsu đã đặt ra cho những ai đến nay vẫn đi theo Người, một câu hỏi quyết định mà Tin Mừng Chúa Nhật nàyđề cập tới.
Trước tiên Chúa hỏi các môn đệ: “Người ta nói: Con người là ai?”.
+ “Con người là một hình ảnh bí nhiệm (cf. Danien 7,13) được Tin Mừng sử dụng tới 30 lần. Chính Đức Giêsu dùng thành ngữ đó để mặc khải về chính mình và sứ mệnh của mình. Người là một con người thật. Tương quan của Người với Thiên Chúa Cứu độ, Đấng Người gọi là Cha là tình phụ tử có một không hai.
+ Trả lời câu hỏi của Đức Giêsu, các môn đệ đưa ra ý kiến nói rộng rãi về Người.
Nói chung ai ấy đều dành cho Người một địa vị và vai trò quan trọng: kẻ thì nói Người là Gioan Tẩy Giả sống lại từ cõi chết (x. 14,1-2; Hêrôđê cũng có y kiến như vậy); người khác thì cho là Êlia mà người ta đang trông đợi quay trở lại loan báo Đấng thiên sai đến; còn những người khác lại bảo là Giêrêmia, vị ngôn sứ nổi tiếng là hay chống đối và bị người ta chống đối; sau cùng có người cho Người là một tiên tri nào đó.
Lần này Chúa Giêsu hỏi thẳng như tra vấn các môn đệ: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”- “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Ông Phêrô đáp lời theo kiểu tuyên xưng lòng tin, và tỏ ra không những là người phát ngôn cho các môn đệ, mà còn làm gương cho các ông về một lòng tin Kitô giáo chính truyền.
C.Tassin gợi ý thêm: “Câu trả lời của Phêrô chắc hẳn là được lấy lại từ một bản “kinh Tin” dùng trong phục vụ của cộng đoàn Matthêu”. Lời đó nói lên đầy đủ niềm tin Kitô giáo.
+ “Thầy là Đấng Messia” (tiếng Hylạp là Christos) nghĩa là Đấng được Thiên Chúa xức dầu và được các ngôn sứ loan báo; Người đến hoàn tất mọi lời Thiên Chúa hứa với dân Người, làm thỏa lòng mong đợi trường kỳ của Israel.
+ “…Con” nghĩa là quan hệ của Người với Thiên Chúa là tình phụ tử, mối tương quan có một không hai.
+ “…Thiên Chúa hằng sống” nghĩa là về mặt mặc khải: Thiên Chúa là Đấng ban sự sống, còn đối với các Kitô hữu thì Thiên Chúa là Đấng đã cho Đức Giêsu chỗi dậy từ cõi chết.
“Anh thật là có phước”. Đức Giêsu tiếp ngay lời tuyên xưng của Phêrô, và chọn kiểu nói của Kinh Thánh về “mối phúc” để chào “con ông Giona”, kẻ vừa mới xưng tụng mình là Đấng Kitô, COn Thiên Chúa hằng sống”. Bởi lẽ, lời tuyên xưng này Phêrô đã không tự mình nói ra được, theo tư cách người phàm, nghĩa là theo nguồn gốc của loài người hoàn toàn yếu đuối mỏng giòn, nhưng chỉ do Thiên Chúa mặc khải cho ông. C.Tassin chú giải thêm: “bản văn không cho là Phêrô có công trạng gì; ông không được tôn danh hiệu là anh hùng đức tin, điều mà thánh sử đã mianh chứng ở đây và sau này còn chứng tỏ nữa. Trình thuật còn muốn chứng tỏ một điều là: niềm tin của Phêrô là chính xác, vì niềm tin ấy do Thiên Chúa mặc khải”. (O.C trang 175).
- Đến vai trò làm đá nền…
Những lời long trọng của Đức Giêsu nói với Simon-Phêrô là phần riêng của Tin Mừng Mátthêu.
“Anh là Phêrô, nghĩa là tảng đá, trên tảng đá này…”
Trong Kinh Thánh, việc đổi tên tỏ ra rằng sứ mệnh Chúa trao cho ai, thì biến đổi người ấy thành một người khác. Vì thế khi Ápram được đổi tên thành Ápraham có nghĩa là ông coi như được trao sứ mệnh làm “tảng đá duy nhất” làm cội nguồn cho cả dân tộc (Is 51,1-2).
Trong tiếng Do thái bình dân, từ “Kêpha” -“Tảng đá” không phải là một biệt danh, mà chỉ là một danh từ chỉ đồ vật. Khi đặt cho Phêrô tên mới này mà từ đây sẽ thay cho tên Simon trước đây, Đức Giêsu muốn cho thấy sứ mệnh Ngài sắp trao cho Phêrô: ông sẽ là tảng đá làm nền, tảng đá đảm bảo cho sự vững chắc cho tòa nhà người sắp xây dựng.
“…Thầy sẽ xây Hội thánh của Thầy…”
+ Trong Kinh Thánh, Từ “Hội thánh” có ý chỉ buổi họp tôn giáo, hội họp của những kẻ Thiên Chúa đã kêu gọi, để giữa lòng nhân loại, họ trở thành dân tộc của giao ước, dân có dấu chỉ tình yêu và lòng thương xót của Người.
+ Lần đấu tiên trong Tin Mừng Mátthêu từ “Hội thánh” được sử dụng ngay trên phần đất dân ngoại, nên ám chỉ sự tụ họp của tất cả những ai Đức Giêsu sẽ quy tụ lại từ bên kia mọi biên giới, để giữa nhân loại họ làm thành dân của giao ước mới, dân của dấu chỉ ơn cứu độ được ban cho con người.
Nếu Hội thánh được xây dựng trên nền tảng là Phêrô thì các quyền lực tử thần sẽ không có thể làm gì chống lại được Hội thánh ấy.
“…Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời”.
+ Ta không nên nghĩ là những chìa khóa như thời nay, mà là chìa khóc của các thành cổ và đền đài vua Chúa thời xưa. Những chìa khóa này như những then cửa lớn phải váv trên vai. Trao chìa khóa cho một người nào mang ý nghĩa là trao chức vụ cai quản điều hành cho người ấy.
+ Khi trao cho Phêrô những chìa khóc Nước Trời, Đức Giêsu có ý đặt vị tông đồ này là người đứng đầu, trao phó cho ông quyền hành trong tay Người, như sách Khải huyền 3,7 đã viết: “Đây là lời của Đấng Thánh, Đấng Chân Thật, nắm giữ chìa khóa nhà Đavít. Người mở ra thì không ai đóng lại được, Người đóng lại thì không ai mở ra được”. (Bài đọc 1, tham chiếu Isaia 22).
Địa vị dành cho Phêrô ở đây hẳn là thuộc trần thế; Phêrô không phải là “Người giữ cửa thiêng đàng” (C.Tassin): Ông sẽ là người diễn giải và giữ cho sứ điệp của Đức Giêsu, Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống, được quyền trọn vẹn.
“Dưới đất anh cầm buộc điều gì trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy”.
+ “Cầm buộc/tháo cởi” đều là những kiểu nói chuyên biện mượn của Do thái giáo, để nói lên quyền hành trọn vẹn của Phêrô, đó là quyền ấn định những quy luật, quyền nhận vào hay loại khỏi cộng đoàn.
+ Nơi Mátthêu 18,18 cũng quyền cầm buộc và tháo cởi này không chỉ hứa riêng cho Phêrô, mà cho cả các môn đệ. Vì thế Phêrô phải chia sẽ quyền hành đó với những người khác có trách nhiệm.
30. Xây dựng Giáo Hội
Cứ năm năm một lần, mỗi Giám Mục Công Giáo trên thế giới đều phải về Rôma trong một chuyến đi chính thức được gọi là Ad limina.
Đó có thể là chuyến đi công vụ để gặp gỡ và trình bày công việc giáo phận với những cơ quan liên hệ. Đó cũng có thể là chuyến đi để tĩnh tâm và bồi dưỡng sau những năm làm việc bận rộn tại địa phương. Nhưng bao giờ cũng là chuyến đi để kính viếng mộ hai thánh Phêrô và Phaolô, để tìm lại sức sống mới cho những ngày tháng sắp tới.
Đối với các tín hữu, thì mỗi năm một lần, lễ thánh Phêrô và Phaolô cũng là dịp thực hiện một chuyến đi thiêng liêng, ôn lại niềm tin hôm qua của hai cột trụ Giáo Hội để củng cố niếm tin cho mình ngày nay.
Phêrô và Phaolô là hai vị tông đồ rất khác nhau về nhiều phương diện. Khi đến với Chúa, Phêrô là một ngư dân, còn Phaolô là một người trí thức. Bước vào ơn gọi, Phêrô được đào tạo chính qui, còn Phaolô chỉ là đứa con đẻ non. Và trong đường lối phục vụ Giáo hội, nếu Phêrô là người bám trụ gắn bó với những tín hữu gốc Do thái, thì Phaolô là người đi tiên phong đem Tin Mừng đến với các dân tộc.
Thế nhưng giữa hai vị luôn có những điểm gặp gỡ. Giờ đây chúng ta hãy nhìn vào những điểm gặp gỡ ấy qua góc độ của niềm tin.
Trước hết, đó là một niền tin tuyên xưng.
Thực vậy, qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, chúng ta thấy Phêrô tuyên xưng cho mình cũng như cho nhóm mười hai:
– Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa Hằng Sống.
Còn Phaolô, sau biến cố ngã ngựa trên đường đi Đamas, thì một bước ngoặt mới đã mở ra. Đấng mà trước kia Phaolô bắt bớ thì nay lại trở thành Đấng cứu độ, và không ai có thể tách Phaolô ra khỏi lòng mến của ngài.
Tiếp đến, đó là một niềm tin rao giảng.
Thực vậy, cuộc đời Phêrô là một tổng hợp kỳ lạ giữa đỉnh cao và vực thẳm trong niềm tin. Vừa được khen tặng là đá tảng xây dựng Hội Thánh, thì liền bị quở trách là Satan hãy xéo đi. Phút trước ung dung đi trên sóng nước, phút sau đã bị sa chìm vì nghi hoặc. Vừa mới thề sống thề chết với Thầy, nhưng một giờ sau đã chối bỏ Thầy.
Thế nhưng, sau biến cố Phục Sinh, nơi Phêrô chỉ còn đỉnh cao của một niềm tin chân thành. Thay vì những nhút nhát là một dạ can trường. Thay vì những chao đảo là một lòng xác tín rao giảng Tin Mừng. Thay vì những co cụm là những bước chân lên đường xây dựng Hội Thánh. Ngài đã trở nên là cột trụ củng cố niềm tin cho anh em mình.
Cuộc đời của Phaolô cũng vậy, nếu trước kia là một người biệt phái nhiệt thành với truyền thống của cha ông đến nổi tự nguyện đi lùng bắt các tín hữu, thì sau biến cố Đamas, cuộc đời ấy đã thay đổi hẳn. Với lòng nhiệt thành ngài đã từng nói:
– Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng phúc âm.
Sau cùng đó là một niềm tin chứng tá.
Thực vậy, nếu dám sống và dám chết cho niềm tin là một chứng tá mạnh nhất thì đây cũng là điểm gặp gỡ giữa hai vị tông đồ cột trụ. Không hẹn mà gặp nhau tại Rôma, không phải để phô trương thanh thế, nhưng là để chứng tỏ lòng trung thành bất khuất của niềm tin giữa lòng một Giáo Hội đang bị bách hại dồn dập. Qua tù ngục và cực hình, các ngài càng thêm kiên quyết hơn trong niềm tin.
Và cuối cùng bằng cái chết: Phêrô bị đóng đinh ngược đầu xuống đất, còn Phaolô bị xử trảm, các ngài đã gặp nhau trong tình yêu cao cả là đã hy sinh mạng sống vì nguời mình yêu, để rồi mãi mãi liên kết với nhau trong cùng một triều thiên tử đạo.
Ôn lại niềm tin của Phêrô và Phaolô, như chúng ta đã nói, đó là một chuyến đi thiêng liêng vừa củng cố niềm tin, vừa xây dựng tinh thần hiệp nhất cho mọi tín hữu.
Trước hết là để củng cố niềm tin.
Thực vậy, nơi hai vị chúng ta thấy cũng có những điểm yếu, có những sa ngã, có những phản bội, thế nhưng Chúa đã không kêu gọi những người trong trắng tốt lành, nhưng đã gọi Phêrô, một kẻ đã chối bỏi Ngài làm đầu Giáo Hội. Và Phaolô, một kẻ đã từng bắt bớ cấm cách Giáo Hội làm sứ giả tin mừng cho muôn dân.
Từ đó chúng ta hãy yên tâm vững dạ bước theo Chúa. Bởi vì sa ngã vấp phạm chỉ là chuyện thường tình của số kiếp con người, miễn là chúng ta biết sám hối ăn năn. Mỗi lần xám hối là một lần tìm lại niềm tin của mình một cách chân thành với ước vọng sẽ được vững mạnh hơn và trung thành hơn.
Tiếp đến là xây dựng tinh thần hiệp nhất.
Hai vị tông đồ, mặc dù có những khác biệt, nhưng đã gặp gỡ nhau trong một niềm tin. Chính sự gặp gỡ nhau trong một niềm tin đã dẫn các ngài tới tinh thần hiệp nhất mà mọi người chúng ta phải noi theo.
Thế nhưng, chúng ta đã thực sự hoà giải với Chúa, và với anh em hay chưa? Phêrô và Phaolô, mặc dù mãi mãi vẫn là hai, nhưng chỉ có một nỗi lo là loan truyền Phúc Âm và xây dựng Giáo Hội.
Nhân ngày lễ kính thánh Phêrô và Phaolô, chúng ta hãy cầu xin Chúa cho chúng ta biết gặp nhau trong niềm tin, để rồi từ đó, nỗ lực xây dựng tinh thần hợp nhất trong lòng Giáo Hội.
31. Thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô
(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
Hôm nay Giáo Hội cho chúng ta mừng lễ trọng thể kính hai thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô.
- Trước hết là Thánh Phêrô
Chẳng cần phải nói dài anh chị em cũng có thể thấy được rằng Phêrô là một trong ba môn đệ, nói đúng hơn trong ba Tông đồ được Chúa ưu ái một cách đặc biệt hơn những tông đồ khác. Ông được Chúa cho tham dự vào hầu hết những biến cố quan trọng trong cuộc đời công khai của Chúa.
Tính tình ông nóng bỏng, bộc trực và đôi lúc hơi liều lĩnh.
Nói về ông, người ta không thể không nhắc đến cái vết thật đen trong cuộc đời của Ông. Đó là việc ông đã chối Chúa. Alain một nhà tư tưởng lớn của Pháp đã viết những lời như thế thật chua cay về cái biến cố này: “Tôi hình dung ra ông ta đang ở trên Thiên đàng, đầu đội triều thiên hào quang sáng chói nhưng mỗi khi nhớ đến ‘dzụ’ ấy, chắc ông còn phải đỏ mặt”. Lý do, ông viết tiếp: “Tông đồ Phêrô trong hoàn cảnh lúc đó đã lẩn trốn như thỏ hay như chuột”Lời nhận định hơi chua chát một chút nhưng nó cho chúng ta thấy tính cách nghiêm trọng của vấn đề. Vì Phêrô là Thủ lãnh các tông đồ, thủ lãnh nhóm 12 và nhất là trước đó Chúa đã cảnh cáo ông.
Tuy nhiên bên cạnh những cái không tố đó chúng ta lại thấy nơi Phêrô có nhiều đức tính đáng nể phục. Chính những đức tính sáng chói này sẽ làm lu mờ đi những cái tầm thường nơi con người của ông để rồi qua đó ông đã xứng đáng với sự tín nhiệm của Chúa khi Chúa đã đặt ông làm nền tảng Giáo Hội.
Đầu tiên chúng ta phải nói về lòng quảng đại. Tin Mừng ghi thật rõ, vừa khi được Chúa gọi ông nhanh nhẹn bỏ điều mà sau này ông ‘kể công’ với Chúa là tất cả mọi sự.
Bên cạnh lòng quảng đại chúng ta còn thấy ở nơi Ông một đức tin chân thành.
Đàng khác trên con đường theo Chúa ông còn có một đức tính hiếm hoi này mà những người khác ít ai có được đó là lòng gắn bó keo sơn với Chúa. Sau Phép lạ bánh hóa nhiều, Chúa có giảng một bài giảng về bánh hằng sống. Bài giảng đó đã đánh dấu một khúc quặt mới trong cuộc đời công khai của Chúa.
“Lạy thầy, bỏ thầy chúng con biết theo ai vì Thầy có lời ban sự sống đời đời.”
Nhưng đức tính mà tôi cảm phục nhất trong cuộc đời của Ông đó là lòng khiêm nhường. Sách Tu đức gọi đức Khiêm nhường là nền tảng mọi nhân đức. Đôi khi người ta cũng còn gọi đức khiêm nhường là mẹ các nhân đức. Đọc trong Kinh Thánh tôi thấy ít nhất có ba lần ông đã biểu lộ sự khiêm nhường rất cụ thể như thế này.
Lần thứ nhất đá là khi Chúa cho các ông bắt được một mẻ cá lạ. Trong khi các môn đệ khác chỉ có thái độ cầm chừng thì Phêrô đã đến quì trước mặt Chúa và thưa vó Người: “Lạy Thầy, xin tránh xa con ra vì con là một người tội lỗi”Ông ý thức được cái thân phận yếu đuối của mình trước sự hiện diên của Chúa.
Lần thứ hai là khi Chúa quở mắng ông một cách thật nặng lời nhưng ông không một chút sĩ diện. Ông đón nhận tất cả như một bài học để ông sửa mình.
Lần thứ ba được ghi ở trong sách Tông đồ công vụ. Giữa Phêrô và Phaolô có sự bất đồng về việc những người Dothái trở lại. Phêrô đã cố gắng nhịn nhục để giữ được bầu khí hoà dịu giữa hai người.
- Còn Phaolô
Tin Mừng không nói một câu nào về Ông.
Chúng ta chỉ được biết về ông sau khi Chúa Giêsu đã về trời.
Xét về con người của ông thì chúng ta thấy ông có nhiều điểm hơn hẳn Phêrô.
Ông là một con người có học thức – Là học trò của Giáo sư Kinh Thánh nổi tiếng Gamaliel.
Gia đình ông thuộc loại khác giả.
Đặc biệt ông là người có tước Công dân La mã
Ông không thuộc nhóm 12. Ông là một tông đồ sinh sau đẻ muộn nhưng là một tông đồ đặc biệt.
Ông xuất hiện không như một người về phe với Chúa, nhưng như một kẻ đối đầu. Tệ hơn, như một kẻ thù: Chúng ta còn nhớ thật rõ câu truyện ông tình nguyện đi Đamas để lùng bắt và tiêu diệt những người mang danh Kitô hữu.
Thế nhưng cũng chính từ cuộc lùng bắt những người Kitô hữu này Chúa đã chinh phục ông. Cuộc chinh phục rất đột xuất làm cho nhiều người cảm thấy như không thể tin được. Thế nhưng đó lại là công việc của Chúa.
Chúa chọn ông để sai ông đi rao giảng TM cho dân ngoại.
Muốn hiểu cuộc đời theo Chúa của Ông như thế nào chúng ta hãy đọc lại Sách Tông đồ công vụ và nhất là những bức thư nổi tiếng ông còn để lại.
- Bài học
- Uy quyền của Chúa.
– Chúa muốn làm gì làm.
+ Xét về nhiều phương diện thì Phêrô thiếu hẳn những đức tính của một người lãnh đạo thế nhưng Chúa đã chọn ông, đặt ông làm thủ lãnh của Giáo Hội. Đó là công việc của Chúa.
+ Phaolô cũng thế: Từ một kẻ thù Chúa đã biến ông thành một người bạn, một người tình. Từ một người đi lùng bắt những người theo Chúa mà giết đi. Chúa đã biến ông trở thành người rao giảng về Người và sẵn sàng chết vì người. Về phương diện trần thế chẳng khi nào chúng ta thấy được như thế.
- Bài học về lòng yêu mến Chúa
+ Câu truyện tại bờ biển Galilêa sau khi Chúa sống lại. Phêrô đã tuyên xưng không phải đức tin, nhưng là lòng yêu mến của Ông.
+ Phaolô đã viết những lời thật cảm động sau đây: “Không có gì có thể tách tôi ra khỏi lòng yêu mến của Đức Kitô. Dù là gian truân, bĩ cực, đói khát trần truồng, hiểm nguy, gươm giáo….Tôi thâm tín rằng sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay thiên phủ, dù hiện tại hay tương lai, dù quyền năng, dù chiều cao hay ciều sâu hay bất cứ tạo vật nào khác, không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi lòng yêu mến Thiên Chúa được thể hiện cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta”(Xem 2 Tm 4, 6-8 Rm 8, 18-19.32.33.38.39)
- Bài học về sự gắn bó và lòng trung thành đối với Chúa.
+ Nhìn lại cuộc đời theo Chúa của Phêrô chúng ta thấy ông đã sẵn sàng để cho Chúa uốn nắn, mài dũa ông như thế nào. Rất nhiều lần Chúa đã trách mắng ông, thậm chí có lần Chúa đã gọi ông là “Đồ Satan”, thế nhưng Phêrô vẫn luôn một lòng một dạ trung thành để rồi sau này ông có thể viết cho đoàn chiên Chúa trao cho Ông như thế này: “Anh em hãy sống thánh thiện trong cách ăn nết ở, để nên giống Đấng Thánh đã kêu gọi anh em”(1Pr 1, 15) – Còn anh em, anh em là giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa, để loan truyền những kỳ công của Người, Đấng đã gọi anh em ra khỏi miền u tối, vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền. (1Pr 2, 9)
+ Còn đối với Phaolô thì chúng ta khỏi cần phải nói: Sau khi được Chúa kêu gọi trên con đường ông đi Damas, ông đã vào ẩn mình trong hoang địa. Ở đó Chúa đã tôi luyện ông để ông trở nên giống Chúa đến nỗi Ngài có thể tự hào: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi. Hiện nay tôi sống kiếp phàm nhân trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi. Và Ngài khuyên những ai tin Chúa: “Anh em đã nhận Đức Ki-tô Giê-su làm Chúa, thì hãy tiếp tục sống kết hợp với Người”. Vào cuối đời ông đã để lại những lời này cho người môn đệ yêu quí của ông: “Còn cha, cah sắp phải đỗ máu ra làm lễ tế. Đã đến giờ cha phải ra đi. Cha đã chiến đấu trong một trận chiến cao đẹp, đã chạy đến cùng đường và đã giữ vững được đức tin. Giờ đây cha chỉ còn đợi trông vòng hoa dành cho người công chính. Chúa là vị Thẩm phán chí công sẽ trao phần thưởng đó cho cha trong ngày ấy và không phải chỉ cho tôi mà còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người xuất hiện.”
32. Thánh Phêrô
CÁC BẠN NÓI CHÚA GIÊSU LÀ AI?
Khi vị tổng thống Hoa kỳ làm một cuộc họp báo, các phóng viên sẽ đưa ra một số lớn câu hỏi. Hầu như mọi điều do Tổng thống nói đều là những tin tức đáng giá không phải vì lời của Tổng thống sâu xa hay sẽ thay đổi các biến cố trên thế giới nhưng đơn giản chỉ vì ông ta là tổng thống. Ngay sau khi ông xuống khỏi chức vụ, ông sẽ chẳng còn hấp dẫn mấy với những phương tiện truyền thông đại chúng nữa.
Một con người là ai sẽ làm cho mọi chuyện ra khác lắm. Đó là lý do vì sao Chúa Giêsu đặt câu hỏi về chính mình khi Người hỏi các môn đệ, phần các con bảo Thầy là ai? Phêrô hành động như một vị phát ngôn cho tất cả các tông đồ, ông không mắc phải sai lầm như những người khác nghĩ Chúa Giêsu là Gioan Tẩy Giả hay một tiên tri nào khác đã trở lại trái đất này. Phêrô đã tuyên bố cách trang trọng: “Thầy là Đấng Mêsia, con Thiên Chúa hằng sống”.
Tuyên bố của thánh Phêrô có hai phần: trước hết, ông nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Mêsia. Câu trả lời này là sự xác tín của các môn đệ. Niềm hy vọng một Đấng Mêsia đã trở nên nồng cháy và rõ ràng trong suốt thời cai trị của vua Đavít, đặc biệt là qua tiên tri Nathan vào thế kỷ thứ X trước công nguyên. Niềm hy vọng này đã lớn lên cách mạnh mẽ vào thời Chúa Giêsu, một số người đã trông đợi Đấng Mêsia xuất hiện vào bất cứ lúc nào. Bây giờ các tông đồ đặt trọng tâm niềm hy vọng của mình vào Chúa Giêsu.
Nhưng phần hai lời tuyên bố của thánh Phêrô đã làm kinh ngạc mọi người có mặt ở đấy. Thánh Phêrô tuyên bố rằng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, không phải bằng cảm giác mà người ta có thể xác định được đức tin của một người nào, nhưng chỉ có một cách duy nhất người ta có thể áp dụng vào một mình Chúa Giêsu. Chúa Giêsu nhấn mạnh không phải do con người đã tỏ lộ cho Phêrô biết điều này, nhưng Người không bằng lòng với cách nói đơn giản: “Thiên Chúa đã mạc khải điều đó”. Người tuyên bố cách rõ ràng: “Chính Cha Thầy ở trên trời đã mạc khải điều này”.
Kiểu ngôn ngữ này làm cho các tông đồ kinh ngạc, Chúa Giêsu đặt nền tảng cho sự thật đáng sợ Thiên Chúa là Cha của Người, rằng Người thật sự là Con Thiên Chúa, không thể mơ hồ hay phân tích cách nào khác nhưng chỉ có một ý nghĩa được chuyển trao cho trí hiểu của cả nhân loại.
Trong việc đáp lại sự diễn tả đức tin của Phêrô, Chúa Giêsu đã nói những lời nổi tiếng này: “Con là Đá trên Đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy”. Sự nối kết giữa chân lý Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa và Giáo hội được đặt nền tảng trên đá thì không có gì làm thay đổi được. Đúng hơn nó trở thành một sứ vụ chắc chắn của Giáo hội để làm rõ ràng, để dạy dỗ và sống theo chân lý Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa.
Ý nghĩa này đã được các công đồng sơ khai của Giáo hội (mà Công đồng Vaticano II là Công đồng thứ 21) đã xác định cách rõ ràng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Qua những thế kỷ, Giáo hội vẫn tiếp tục giảng dạy cho mỗi thế hệ người công giáo mới, để làm cho lời tuyên xưng đức tin của thánh Phêrô trở nên chính họ, như chúng ta cũng phải làm cho lời tuyên xưng ấy trở nên chính chúng ta vậy. Chúng ta tin Chúa Giêsu là Đấng Mêsia đại diện của Thiên Chúa. Chúa Giêsu thật sự là Người Con duy nhất của Thiên Chúa, ngang với Đức Chúa Cha trong mọi sự. Sự đồng nhất thật sự này của Chúa Giêsu là những gì làm cho những lời của Người trở nên quý giá cho chúng ta và những hành động của Người thì vô giá. Sự đồng nhất thật sự này của Chúa Giêsu cũng là những gì làm cho mọi sự Người đã làm, làm đẹp lòng Cha người và mang lại ơn cứu độ cho chúng ta. Mọi sự nơi Chúa Giêsu tuôn trào từ sự đồng nhất thật sự này. Ôi, sự khôn ngoan và hiểu biết của Thiên Chúa sâu xa biết bao, đã mạc khải cho chúng ta sự đồng nhất của Chúa Giêsu. Đây là chân lý được củng cố trên thế gian và còn tiếp tục trên thiên đàng cho đến đời đời.
33. Khúc rẽ quyết định
Xa khỏi mọi người, dưới chân núi Hermon, một mình trong thanh vắng bên sông Gio-đan-nô, Đức Kitô nêu lên cho các Môn đệ một vấn nạn quan trọng: “Các con nói thầy là ai? Nói chung những người khác không nhận biết Ngài, và bây giờ, các Môn đệ phải phát biểu ý kiến về Ngài.
1.- Vấn nạn.
Đức Kitô không hỏi: Các con tin gì? Các con coi điều gì là phải? Nhưng Ngài hỏi cách trực tiếp: “Các con nói Thầy là ai? Đức tin Công giáo trước hết không phải là một vấn đề lý thuyết, một tổng số chân lý siêu hình, hay chỉ là một tín điều. Đối tượng của đức tin Công giáo, là chính Đức Giêsu Kitô. Trong Ngài, Thiên Chúa đã nhập thể, Ngài là hành động quyết định, là biến cố chủ yếu. Con người chỉ có thể có một thái độ duy nhất là nhận biết hay không nhận biết Ngài. Lập trường đối với Chúa Giêsu là yếu tố quyết định để phân biệt ai là Công giáo, ai là lương dân. Vậy luân lý không phải là yếu tố cốt yếu nhưng chính là đức tin. Nếu có người nhờ đức tin hiểu được Chúa Giêsu là ai, tự nhiên họ sẽ lãnh nhận lời Ngài, và nhất thiết đáp ứng những đòi hỏi của Ngài. Đức tin vào Đức Giêsu Kitô là tất cả! Kitô giáo là thái độ chấp nhận Đức Kitô.
- Lời đáp trả.
“Thầy là Đức Kitô con Thiên Chúa hằng sống”. Lời tuyên xưng ấy của Thánh Phêrô cho chúng ta thấy Chúa Giêsu cao trọng biết bao trong chức vụ của Ngài. Ngài là tiên tri được Chúa thánh hiến. Ngài là vua, là chánh tế. Ngài còn hơn tất cả những tước hiệu ấy, vì Ngài là chính con Thiên Chúa hằng sống. Vậy phải biết vượt qua các tước hiệu bên ngoài để tìm tới chính Ngôi vị thâm sâu của Đức Kitô. Đó là tất cả ý nghĩ cao xa của đức tin: Đức tin là cuộc gặp gỡ trực tiếp với Con Thiên Chúa. Câu trả lời của Thánh Phêrô dựa trên hai lý do vững chắc. Trước hết, nhờ suy tư và tác động đức tin của Phêrô: Người là kẻ từng chứng kiến lời nói và phép lạ của Chúa Giêsu. Tất cả những gì xẩy ra trước kia nay đều đem lại hậu quả mong muốn nơi Ngài: Nào những lần được thấy Chúa chữa bệnh, hai lần hoá bánh ra nhiều, nào những lần chứng kiến Chúa đi trên mặt biển và trở giúp Phêrô bị lao đao trên sóng nước. Phêrô đã hiểu các dấu hiệu, rồi từ đó đạt tới tác nhân của các dấu hiệu. Ngoài ra để tuyên xưng Đức Kitô là con Thiên Chúa hằng sống, người còn được thêm ánh sáng Chúa Thánh Thần soi dẫn bên trong “Không phải huyết nhục cho con biết điều ấy, nhưng chính Cha ta ở trên trời đã tỏ lộ cho con!” Đức tin quả thật đã hợp nhất hai yếu tố tự nhiên và siêu nhiên.
3.- Kết quả:
Câu trả lời này đã hình thành một thái độ chọn lựa quyết liệt, đưa tới một khúc rẽ lớn lao trong toàn thể lịch sử: đó là bước tiến từ Cựu Ước sang Tân Ước, từ Do Thái xác thịt sang Do Thái thiêng liêng, từ giảng đường đến Giáo hội, từ việc tuyển chọn một dân tộc đến tiếng gọi gửi đến muôn dân. Vì thế, sau lời tuyên xưng của Phêrô, Đức Kitô hứa xây dựng Giáo hội. Đây là sự chọn lựa vĩnh viễn. Không gì có thể chiến thắng Giáo hội kể cả quyền lực ma quỷ. Còn một lối chú giải khác về câu “Cửa Hoả Ngục không thể nổi lên chống lại”, theo lối chú giải đó, thì câu này có nghĩa là Giáo hội có quyền mở cả cửa Thiên đàng và hoả ngục, cả hai lối chú giải trên đều làm sáng tỏ một ý nghĩa sâu xa, nhằm mô tả tính chất vĩ đại siêu nhiên và thần linh của Giáo hội.
Tính chất vĩ đại ấy dựa trên hai cột trụ: tinh thần và định chế. Tinh thần chính là đức tin vì nhờ đức tin Phêrô được khen ngợi là diễm phúc. Do đó, chỉ có ai tin mới thuộc về Giáo hội này. Đức tin là nền tảng và là cội rễ. Cột trụ thứ hai là định chế. Vị tông đồ đầu tiên khi tuyên xưng đức tin, đã được Đức Kitô trao cho chức vụ thủ lãnh: “Ta trao cho con chìa khoá nước trời, và tất cả những gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng sẽ cầm buộc, những gì con tha dưới đất, trên trời cũng sẽ tha”. Simon con Giona được nâng lên cao khỏi chính bản thân hèn yếu của mình, được con Thiên Chúa trao phó sứ mệnh, lãnh nhận quyền cai trị tối cao, tượng trưng bằng chìa khoá rồi nhờ danh Chúa, Người thực hiện quyền cầm buộc và tha thứ.
Một Giáo hội hoàn toàn thiêng liêng không phải là Giáo hội Đức Kitô, Giáo hội Chúa cũng không phải là hoàn toàn chế định. Giáo hội Đức Kitô chỉ hiện diện trong sự hoà hợp thâm sâu giữa tinh thần và chế định, giữa đức tin và uy quyền.
Tất cả đoạn văn thánh này đã thoát ra niềm hân hoan của Chúa Giêsu. Từ nay, những lời giảng và phép lạ của Ngài đã làm chứng. Như thế, đoạn văn này vừa cho thấy một tính chất khởi thuỷ, lại vừa biểu lộ một trạng thái đạt đích: đoạn văn có phác hoạ một khúc rẽ trung thực, một thái độ đoạn tuyệt và chấp nhận: được lời Chúa khai mào, các phép lạ hỗ trợ, con người đi tới chỗ lãnh nhận đức tin. Vậy chính ngôn ngữ và hành động thần linh đã đặt nền móng Giáo hội.
34. Hai con người, một con đường
(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
- Nhìn vào đời sống tự nhiên, ta thấy hai Thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô có nhiều dị biệt.
+ Thánh Phêrô có thân thể to lớn vạm vỡ trong khi Thánh Phaolô là một nguời bé nhỏ, gân guốc. Thánh Phêrô là một ngư phủ quen làm việc trên biển.
+ Thánh Phaolô là một nhà trí thức quen làm việc với sách vở. Thánh Phêrô thuộc tầng lớp bình dân. Thánh Phaolô thuộc tầng lớp biệt phái. Thánh Phêrô là một trong những Tông đồ đầu tiên trong khi Thánh Phaolô là Tông đồ cuối cùng được Chúa kêu gọi.
- Nhưng hành trình tâm linh của các ngài có nhiều điểm tương đồng.
Ðiểm tương đồng thứ nhất là: Chúa đã huấn luyện các ngài bằng cách để cho các ngài trải qua một kinh nghiệm hư vô.
Thánh Phêrô là con người tự tin. Trong nhóm 12, ngài là người mạnh dạn phát biểu truớc mỗi câu hỏi mà Ðức Giêsu đặt ra. Ngài tin tưởng vào khả năng, vào đức tin, vào sự trung tín của mình. Ngài mạnh dạn nói với Ðức Giêsu: “Dù mọi người có bỏ Thầy, con quyết liều mạng vì Thầy”(mt 26, 33). Ðể huấn luyện ngài, Chúa đã để ngài trải qua nhiều thất bại: suốt đêm đánh cá mà không được gì; đang đi trên mặt nuớc thì bị chìm xuống; nhưng thất bai ê chề đau đớn nhất là ngài đã hèn nhát chối Thầy trước mặt một người thị nữ tầm thuờng. Qua thất bại đó, ngài mới biết rõ con người thực của mình là yếu hèn, khả năng của mình là bé nhỏ, sự trung tín của mình là mong manh, và đức tin của mình là bọt bèo. Thất bại đã khiến ngài thấy mình chẳng là gì, chẳng có gì ngoài một vực thẳm hư vô. Thất bại đã giúp ngài biết hạ mình khiêm nhường thẳm sâu cho đúng với sự thực của mình.
Thánh Phaolô cũng trải qua một kinh nghiệm tương tự. Ngài rất tự hào, tự tin vào dòng dõi, khả năng, và đạo đức của mình. Ngài đã nói: “Nếu ai khác có lý do để cậy vào xác thịt, thì tôi càng có lý do hơn: tôi chịu cắt bì ngày thứ tám, thuộc dòng dõi Israel, họ Bengiamin, là người Hípri, con của người Hípri; giữ luật thì đúng như một người Pharisêu; nhiệt thành đến mức ngược đãi Hội Thánh; còn sống công chính theo Lề Luật, thì chẳng ai trách được tôi”(Phil 3, 4b). Nhưng trên đường đi Ðamas, khi Phaolô bị ngã từ trên lưng ngựa xuống đất thì niềm tự tin tự hào kia cũng biến mất. Bị ngựa hất xuống đất Phaolô chợt nhận ra rằng niềm tự hào của mình chỉ là què quặt. Bị ánh sáng từ trời chiếu loá mắt, Phaolô chợt nhận ra rằng ánh sáng trí thức nơi mình chỉ là bóng tối. Bị ngựa hất xuống đất, Phaolô mới hiểu rằng sức riêng của mình cùng với những phương tiện trần gian chẳng đưa mình đi tới nơi. Bị mù mắt Phaolô mới hiểu rằng không có ánh sáng của Chúa, chẳng có ai nhìn ra chân lý. Và ngài đã nhận ra: chỉ còn một con đuờng duy nhất là phải hạ mình xuống thật sâu thì mới có thể nhận ra sự yếu hèn và hư vô của mình.
Ðiểm tương đồng thứ hai là cả hai ngài đều có cảm nghiệm sâu xa về tình yêu Thiên Chúa.
Phêrô được sống bên Ðức Giêsu trong 3 năm trời. Trong 3 năm đó, ngài đã được Chúa yêu thương, chăm sóc, dậy dỗ. Nhưng cảm nghiệm sâu xa về tình yêu của Ðức Giêsu chỉ đến với ngài khi ngài phạm tội. Sau khi ngài chối Chúa 3 lần, gà liền gáy, và từ trong dinh Caipha, Ðức Giêsu đưa mắt nhìn Phêrô (Lc 22, 61). Suốt đời Phêrô sẽ không quên được ánh mắt ấy. Ánh mắt đau đớn của một tình yêu bị phản bội. Ánh mắt trách móc sự vô tình. Nhưng ánh mắt cũng mở ra một trời bao dung tha thứ. Ánh mắt ấy cho Phêrô nhận thức được tội lỗi vô cùng nặng nề của mình, nhưng đồng thời cũng bộc lộ cho ngài tình yêu vô cùng lớn lao của Ðức Giêsu. Cảm nghiệm về tình yêu Thiên Chúa đã giúp ngài tin tưởng ăn năn trở về. Cảm nghiệm về tình yêu Thiên Chúa đã đưa ngài tiến một bước rất dài trên hành trình tâm linh. Từ nay ngài mới thực sự gắn bó với Ðức Giêsu, sẵn sàng làm mọi sự, kể cả chịu chết vì Danh Thầy chí thánh.
Còn Thánh Phaolô, tuy ngài không nói ra, nhưng ta biết chắc ngài đã được tiếp xúc thân mật với Ðức Kitô phục sinh, được Ðức Kitô trực tiếp dạy dỗ, và được đưa lên tầng trời thứ 3. Chắc chắn ngài đã cảm nghiệm được tình yêu vô biên của Thiên Chúa nên ngài luôn kết hợp mật thiết với Ðức Kitô đến độ ngài không còn sống nữa mà “chính Ðức Kitô sống trong ngài”. Sự kết hợp ấy mật thiết và sâu xa đến độ “dù sự sống hay sự chết, dù hiện tại, tương lai, dù thiên thần, thiên phủ, dù hiểm nguy, khốn khó, dù trần truồng đói khát, dù khổ cực cay đắng, “không có gì có thể tách ngài ra khỏi lòng mến của Thiên Chúa, trong Ðức Kitô.(Rm 8, 38)
Ðiểm tương đồng thứ ba là các ngài cùng bị nung đốt bởi một ngọn lửa: lửa nhiệt tâm truyền giáo.
Ðời các ngài là một hành trình truyền giáo không mệt mỏi. Các ngài ra đi, ra đi không ngừng để đem Tin Mừng đến tận cùng thế giới. Các ngài dùng mọi dịp, mọi hoàn cảnh để loan báo Ðức Kitô. Bị đe doạ, bị đánh đòn, bị bắt bớ, bị hiểm nguy, các ngài vẫn kiên trì, hiên ngang, vui tươi rao giảng Lời Chúa. Ta hãy nghe Thánh Phaolô kể: “Năm lần bị đánh đòn, mỗi lần thiếu một roi đầy bốn chục, ba lần bị tra tấn, một lần bị ném đá, ba lần bị đắm tầu…”. Các ngài chịu đủ mọi thứ nguy hiểm: “Nguy hiểm vì sông ngòi, nguy hiểm vì trộm cuớp, nguy hiểm vì người đồng chủng, nguy hiểm vì dân ngoại, nguy hiểm nơi thành thị, nguy hiểm chốn hoang vu, nguy hiểm trên biển cả, bởi thao thức thuờng ngày, bởi đói khát, bởi nhịn ăn, bởi lạnh giá, bởi mình trần”(2Cr 11, 23-27). Ngọn lửa ấy thiêu đốt các ngài mãnh liệt đến độ Thánh Phaolô phải thốt lên: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”(1Cr 9, 16). Lửa nhiệt tâm truyền giáo đã đưa các ngài tới điểm tương đồng cuối cùng là dâng hiến chính mạng sống làm chứng cho Ðức Kitô.
Hành trình tâm linh của các ngài cũng là hành trình mà mọi nguời phải theo nếu muốn tiến bước trên đường thánh đức. Khởi điểm của hành trình là nhận thức mình tội lỗi yếu hèn, cần ăn năn trở về, cần được ơn cứu độ. Nhận thức sự hư vô của mình để bám chặt vào Thiên Chúa, phó thác cho Thiên Chúa tất cả cuộc đời mình. Nhận thức ấy đưa ta đến khiêm nhường sâu xa. Một toà nhà càng muốn xây cao, nền móng càng phải chìm sâu. Một sự khiêm nhường càng sâu xa càng giúp ta tiến xa trên con đuờng tìm Chúa và gặp Chúa. Một khi đã cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa trong đời mình, ta sẽ bị tình yêu Chúa thiêu đốt. Ngọn lửa yêu mến ấy sẽ thúc bách ta hăng say làm việc tông đồ.
Tạ ơn hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô đã mở cho ta con đường tìm đến tình yêu Chúa và đến với anh em. Xin hai Thánh Tông đồ giúp chúng con biết tiến bước theo các ngài trên con đường theo Chúa. Amen.
35. Thánh Phaolô Tông Đồ
Phaolô thành Tarsê không phải là vị thánh của hết mọi người. Nhiều Kitô hữu tốt cảm thấy đối nghịch với Ngài vì thấy Ngài cứng cỏi, khô khan, thiếu hòa giải. Những người đương thời với Ngài cũng cảm nghĩ về Ngài như vậy. Không kể chi đến các bạn đồng liêu của Ngài. Ngay đến các thánh trong Giáo hội như Phêrô, Marcô và Barnaba đếu có lần xích mích với Ngài. Dịu dàng như Giacôbê mà cũng phải khuyên thánh nhân phải biết khéo léo hơn. Nhưng rồi cuối cùng, tất cả đều phải nhìn nhận Ngài với niềm kính phục và tình thương mến. Đó là kinh nghiệm chung đối với những ai lúc đầu cảm thấy đối nghịch với Phaolô, rồi sau đó ngỡ ngàng khi biết rõ Ngài trong các thư tín và sách công vụ sứ đồ. Ngài thật là một con người bất khuất, trung tín và rất thân tình với anh em. Sớm hay muộn, sau khi cởi bỏ lớp vỏ sần sùi bên ngoài đi người ta thấy rõ tính chất nhân bản và sự thánh thiện hàm ẩn của Ngài.
Thánh Phaolô sinh tại thành Tarse một thành phố trù phú miền nam Tiểu Á. Cha mẹ Ngài là những người thế giá, có quyền công dân Rôma. Ngài được giáo dục để trở thành một người biệt phái đúng nghĩa. Ngài được thày Gamaliel dạy dỗ thần học. Người người đều kỳ vọng ở người than niên thông minh này khi anh về Giêrusalem khoảng một năm sau khi Chúa Giêsu bị đonh đinh. Kỳ vọng ấy đã thành sự, nhưng theo một đường lối không lường trước được. Mọi người đều biết là anh Phaolô đã có mặt trong cuôc tử đạo thánh Stephanô và đã nghe Ngài cầu nguyện cho những kẻ sát hại mình. Chẳng bao lâu sau trên đường về Damas, Saolê (tên cũ của Phoalô) đã được thấy Chúa Giêsu phục sinh. Người biến đổi Phaolô từ một kẻ bách hại thành một lãnh tụ Kitô giáo.
Ngay sau khi lãnh nhận bí tích thanh tẩy, Phaolô, lui vào sa mạc để suy nghĩ cầu nguyện trong hai năm. Sau đó Ngài trở lại Damas. Như vậy phải đợi ba năm sau, Phaolô mớilên Giêrusalem bàn luận với các tông dồ. Và thánh nhân lại trở về Tarsê. Trong khoảng 10 năm (34 – 44). Chúng ta không thấy Phaolô xuất hiện. Đây phải là khoảng thời gian mà với sự trợ lực của Thiên Chúa, trí khôn của thánh nhân xây dựng cây cầu nối giữa Do thái giáo với Kitô giáo, giữa dân Do thái với dân ngoại. Việc nối kết này là món quà lớn lao nhất thánh nhân đã trao tặng cho thế giới.
Dĩ nhiên thánh Phaolô không phải là người đầu tiên rửa tội cho một lương dân. Thánh Phêrô đã rửa tội cho Cornêliô. Thánh Philipphê đã rao giảng Tin Mừng ở Samaria và rửa tội cho hoạn quan người Ethiôpia. Nhưng việc rao giảng có hệ thống cho những người không phải là Do thái chỉ bắt đầu ở Antyiôkia vào đầu thập niên 40. Thánh Barnaba được các tông đồ sai đi xem xét tình hình. Nhưng thánh nhân đã đi xa hơn. Ngài nghĩ tới Phaolô còn đang sống âm thầm ở Rarse và đến tìm ông. Thánh Phaolô trở về Antiôkia với thánh Barbnaba. Từ đó thánh nhân hiến trọn đời cho công cuộc truyền giáo. Ngài bỏ vai trò của Maria và lãnh lấy vai trò của Mattha. Nhà học giả và chiêm niệm trở thành thầy dạy và nhà giảng thuyết.
Hết cuộc hành trình này tiếp đến cuộc hành trình khác, thánh Phaolô không ngừng bước chân đi rao giảng Tin Mừng. Ngài đã đi truyền giáo ở Chypre, Tiểu Á và Maceđonia, Hy Lạp. Mỗi khi Ngài đi đến đâu là ở đó nổi lên cơn giông tố nhiệt tình một bên và ghen ghét bên kia, nhốt tù, bị ném đá, đánh đập, bị đắm tàu và yếu đau và cả đến thất vọng nữa, nhưng Ngài vẫn tiếp tục công việc. Mỗi khi đến nói chuyện ở hội đường, Ngài trích thánh kinh, ở công trường, Ngài trích thơ văn cổ và từ nơi đó phát sinh một trung tâm Kitô giáo. Trong 12 năm trời, Ngài đã biến đổi cộng đoàn Do thái nhỏ bằng thành bào thai của một tôn giáo hoàn cầu.
Năm 57, thánh Phaolô trở về Giêrusalem. Bạn bè xin Ngài đừng đi. Họ biết rằng: hội đồng công tọa ghét Ngài, ghét cây ghét đắng mà Giáo hội nhỏ bé không đủ sức bảo vệ cho Ngài, Ngài vẫn bất khuất ra đi và trong vòng một tuần lễ, mọi sự xem ra đều ổn thỏa, nhưng rồi lộn xộn xảy ra, Phaolô lại được cứu thoát khỏi bọn đấu tố, nhờ sự can thiệp của đội lính canh người Rôma. Tiếp sau đó là hai năm tù tội (bất công vì nhà cầm quyền Rôma muốn được qùa hối lộ). Trong thời gian này, Phaolô vẫn dùng cơ hội thuận tiện để rao giảng Tin Mừng.
Bị áp bức bởi Festô, Phaolô nại đến sự che chở của hoàng đế (đối với công dân Rôma) và được gởi về Rôma. Con tàu bị bão đánh và bể nát ở bờ biển Malta. Dip này cho thấy tài điều khiển bẩm sinh của Phaolô trong trường hợp khẩn trương. Tới mùa Xuân năm 60 (hay 61) đoàn người tới thủ đô. Thánh Phêrô đã có mặt ở đây và Phaolô lui vào bóng tối. Về những chuyến du hành của Phaolô đi Tây Ban Nha và về cận Đông, chúng ta không có đủ tài liệu. Truyền thống nói tới việc Ngài bị tù tội lần thứ hai dưới thời Nêrô và cho biết Ngài bị chém đầu khoảng năm 66 ở Tre Fontane.
Khi Phaolô tới Roma, Phêrô đã có mặt, Tin Mừng đã được rao giảng, bí tích đã được cử hành, cólẽ Phúc âm đã được Marcô khởi soạn. Vậy đâu là phần đóng góp của Phaolô như là cột trụ Chúa Giáo hội?
Trước hết phải kể đến nhiệt tâm và gương mẫu cuộc sống của thánh nhân. Nhưng phần chính yếu thánh nhân mang lạị là nền tảng vững chắc về tri thức của Giáo hội giúp con thuyền của ngư phủ đương đầu với bão tố. Ngài không thích mơ hồ, nhưng quan tâm tới từng hệ luận tàng ẩn bên trong giáo thuyết. Thực ra nói “giáo thuyết của Phaolô” thì không chính xác lắm, Ngài không sáng nghĩ ra giáo thuyết. Nhưng Ngài khai sáng ra những gì đã lãnh nhận được. Chẳng hạn khi nói “ Chúa Giêsu là đức Kitô” Ngài dựa ra một giải thích hoàn toàn mới mẻ về Cựu ước, với những ý niệm: Giáo hội là Israel mới, ơn thánh thay thế luật Môisê. Đức Kitô là Adam mới, là “hình ảnh” hoàn hảo của Thiên Chúa. Từ lời gọi “Saolê, Saolê, sao ngươi tìm bắt TA?” Ngài đã khai triển giáo thuyết về nhiệm thể: “đức Kitô là tất cả mọi sự trong mọi người” (Cl 3,11). Từ dụ ngôn những người làm vườn nho, Ngài diễn nghĩa cho thấy Israel cũ và Giêrusalem cũ bị thay thế bởi Giêrusalem mới “nơi không còn lương dân hay Do thái, man rợ hay Scythia, nô lệ hay tự do”
Có lẽ giáo thuyết về công giáo tính của Giáo hội là phần đóng góp tiêu biểu nhất của Phaolô, khiến Ngài được mệnh danh là tông đồ dân ngoại. Thánh Phêrô còn ngập ngừng chứ như thánh Phaolô thì không chịu thỏa hiệp. Chính Ngài cho thấy rõ thế nào và tại sao Giáo hội phải là công giáo phổ quát và công giáo tính bao hàm những gì.
36. Thánh Phaolô
Hôm nay tôi chỉ xin được nói ít lời về Phaolô một con người đối với tôi thật là vĩ đại và kỳ diêu.
Thú thực tôi rất sợ phải nói về những con người như thế này vì tôi cảm thấy mình quá thấp kém. Nhưng thái độ tránh né hoàn toàn thì tôi tưởng sẽ không phải là tốt nhất…nhất là đối với một người ở trong một cương vị như tôi. Tôi sẽ cố gắng để nói một chút về con ngưởi đặc biệt này.
Phaolô! Ông là ai vậy?
+ Thật khó mà có được một bài trình bày đầy đủ và vắn tắt về con người đặc biệt này. Vì ở nơi con ngưởi này có quá nhiều vấn đề và quá nhiều điều phải nói. Ở đây tôi chỉ xin được nói về một ít đểm nổi bật trong cuộc đời của Ông: trước – sau khi được Chúa gọi và cuộc đời truyền giáo của Ông.
- Trước khi được Chúa kêu gọi.
Chúng ta chỉ được biết về ông sau khi Chúa Giêsu đã về trời.
+ Ông là người say mê với niềm tin vào Giavê Thiên Chúa và Đạo của Người
+ Ông là một con người có học thức. Ông đã từng học Kinh Thánh với Gíáo sư Gamaliel, một vị giáo sư về Kinh Thánh nổi tiếng thời đó.
+ Ông hiểu biết nhiều về thần thoại và hệ thống triết học rất thịnh hành thời đó.
+ Chắc chắn ông đã từng nghe nói về Chúa Giêsu, một con người theo Ông là một người có kiến thức và hiểu sâu biết rộng nhưng ông không thể nào có thế khoan nhượng đối với một số sự việc Chúa Giêsu đã làm như là dám vi phạm đến những luật lệ của Thiên Chúa và những tập tục của tiền nhân như: phạm đấn ngày hưu lễ, tự cho mình có quyền tha tội, làm loạn trong đền thờ và nhất là dám tự xưng mình là Con Thiên Chúa.
Xét về con người của ông thì chúng ta thấy ông có nhiều ưu điểm hơn hẳn Phêrô
Gia đình ông thuọc loại khá giả
Đặc biệt ông là người có tước hiệu Công dân La mã
Ông không thuộc nhóm 12. Ông là một tông đồ sinh sau đẻ muộn nhưng là một tông đồ đặc biệt.
Ông xuất hiện không như một người về phe với Chúa, nhưng như một kẻ đối đầu. Tệ hơn, như một kẻ thù: Chúng ta còn nhớ thật rõ câu truyện ông tình nguyện đi Đamas để lùng bắt và tiêu diệt những người mang danh Kitô hữu
Thế nhưng cũng chính từ cuộc lùng bắt những người Kitô hữu này Chúa đã chinh phục ông. Cuộc chinh phục rất bất ngờ và đột ngột làm cho nhiều người cảm thấy như không thể tin được. Thế nhưng đó lại là công việc của Chúa.
Chúa chọn ông để sai ông đi rao giảng TM cho dân ngoại.
Muốn hiểu cuộc đời theo Chúa của Ông như thế nào chúng ta hãy đọc lại Sách Tông đồ công vụ và nhất là những bức thư nổi tiếng ông còn để lại.
- Bài học
- Uy quyền của Chúa.
– Chúa muốn làm gì làm.
+ Xét về nhiều phương diện thì Phêrô thiếu hẳn những đức tính của một người lãnh đạo thế nhưng Chúa đã chọn ông, đặt ông làm thủ lãnh của Giáo Hội. Đó là công việc của Chúa.
+ Phaolô cũng thế:
Từ một kẻ thù Chúa đã biến ông thành một người bạn, một người tình.
Từ một người đi lùng bắt những người theo Chúa mà giết đi. Chúa đã biến ông trở thành người rao giảng về Người và sãn sàng chết vì Người. Về phương diện trần thế chẳng khi nào chúng ta thấy được như thế.
- Bài học về lòng yêu mến Chúa
+ Phaolô đã viết những lời thật cảm động sau đây: “Không có gì có thể tách tôi ra khỏi lòng yêu mến của Đức Kitô. Dù là gian truân, bĩ cực, đói khát trần truồng, hiểm nguy, gươm giáo….Tôi thâm tín rằng sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay thiên phủ, dù hiện tại hay tương lai, dù quyền năng, dù chiều cao hay ciều sâu hay bất cứ tạo vật nào khác, không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi lòng yêu mến Thiên Chúa được thể hiện cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta” (Xem 2 Tm 4,6-8 Rm 8,18-19.32.33.38.39)
- Bài học về sự gắn bó và lòng trung thành đối với Chúa.
+ Phaolô: “Còn tôi, tôi sắp phải đỗ máu ra làm lễ tế. Đã đến giờ tôi phải ra đi. Tôi đã chiến đấu trong một trận chiến cao đẹp, đã chạy đến cùng đường và đã giữ vững được đức tin. Giờ đây tôi chỉ còn đợi trông vòng hoa dành cho người công chính. Chúa là vị Thẩm phán chí công sẽ trao phần thưởng đó cho tôi trong ngày ấy và không phải chỉ cho tôi mà còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người xuất hiện.”
37. Thánh Phêrô Tông Đồ
Phêrô là tên mà Chúa đặt cho Simon, có nghĩa là “Đá” Simon và Anrê em ông là những dân chài chất phác ở biển Galilêa. Anrê theo làm môn đệ của thánh Gioan tẩy giả. Lần kia, khi Chúa Giêsu đi qua, thánh Gioan đã giới thiệu với hai môn đệ của mình là Anrê và Gioan: “Đây là Con Thiên Chúa”.
Anrê và Gioan liền theo Chúa Giêsu. Về nhà, Anrê nói lại với Phêrô rằng: mình đã gặp Đấng thiên sai. Hai anh em dẫn nhau đến gặp Chúa Giêsu. Nhìn họ với cặp mắt thần linh, Chúa Giêsu bảo:
– Anh là Simon, nhưng từ nay tên là Phêrô (Ga 1,35-42)
Simon Phêrô gắn bó với Chúa Giêsu mặc dầu vẫn tiếp tục nghề chài lưới. Ông đến được tiệc cưới tại Cana và được chứng kiến phép lạ đầu tiên của Chúa Giêsu cho thấy thiên tính của Người.
Vài tháng sau, Phêrô và Anrê giặt lưới bên bờ hồ, Chúa Giêsu lên một chiếc thuyền để giảng dạy dân chúng. Sau đó Người nói với Phêrô:
– Ra khơi mà thả lưới đánh cá.
Sau một đêm làm việc mà không bắt được gì. Nhưng bây giờ Phêrô vẫn mau mắn vâng lời. Kết quả thật lạ lùng, mẻ cá nhiều quá đến như muốn làm rách lưới. Bối rối trước sự lạ và cảm thấy mình bất xứng không đáng ở gần Chúa Giêsu, Phêrô quỳ sụp dưới chân Người mà nói:
– “Xin hãy xa tôi vì tôi là kẻ tội lỗi”.
Chúa Giêsu trả lời:
– “Đừng sợ, từ nay anh sẽ là kẻ chài lưới bắt người”.
Rồi đây ông sẽ lôi kéo nhiều tâm hồn về với Chúa như số cá nhiều vô kể ông đã lưới được. Ông đã từ bỏ tất cả: gia đình, thuyền lưới mà theo Chúa Giêsu. Khi chọn 12 tông đồ, Chúa Giêsu đặt ông đứng đầu cả nhóm, vào đầu tháng 4, sau khi hoá bánh ra nhiều, Chúa Giêsu truyền cho các tông đồ qua bên kia bờ hồ. Gió nổi lên dữ dội: Chúa Giêsu đến với các ông. Mệt nhọc chèo chống ngược gió trong đêm tối, các ông tưởng là bóng ma và lên tiếng kêu la. Chúa Giêsu trấn an:
– “Hãy vững lòng, chính là Ta, đừng sợ”.
Phêrô liền kêu ngay:
– “Lạy Thày, xin truyền cho tôi được đi trên mặt nước mà đến với thày”.
Người bảo:
– “Hãy đến đây”.
Và Phêrô gieo mình đến với Chúa Giêsu. Nhưng sau phút giây tin tưởng ban đầu, thấy gió thổi mạnh, ông sợ và bắt đầu chìm xuống hốt hoảng ông kêu cứu:
– “Lạy Chúa xin cứu tôi “.
Chúa Giêsu giơ tay nắm lấy ông và trách ông đã yếu tin (Mt 6,22-33)
Hôm sau, Chúa Giêsu đề cập đến mầu nhiệm Thánh Thể lần đầu tiên. Một số môn đệ bỏ đi, lúc đó Người quay lại hỏi các tông đồ xem có muốn bỏ đi không? Phêrô trung tín đáp lời:
– “Lạy Ngài, chúng tôi sẽ bỏ đi theo ai, Ngài có những lời mang đến sự sống đời đời” (Ga 6,67-68)
Một năm sau Chúa Giêsu đặt vấn đề với các tông đồ:
– “Còn các anh, các anh nói tôi là ai?”
Mau mắn, Phêrô đã chứng tỏ đức tin của mình:
– “Ngài là đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.
Đáp lại, Chúa Giêsu đã khen thưởng Phêrô và hứa hẹn:
– “ Và Ta, Ta bảo ngươi. Ngươi là đá và trên đá này. Ta sẽ xây Hội Thánh của ta, và quyền môn Âm phủ sẽ không thắng nổi. Ta sẽ trao cho ngươi chìa khoá nước trời, và điều gì dưới đất ngươi cầm buộc, thì cũng sẽ bị cầm buộc trên Trời, và điều gì dưới đất ngươi tháo cởi thì cũng sẽ được tháo cởi trên trời” (Mt 16,13-19)
Phêrô đã nhận được lời khen thưởng và lời hứa hẹn rất cao trọng. Nhưng khi nghe Chúa Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn sắp tới, ông đã vội vàng can ngăn, khiến Chúa Giêsu phải quở trách ông. Đức tin của ông chưa thực sự kiên vững như đá. Phải còn qua nhiều thăng trầm nữa, Phêrô mới thực sự trở thành mẫu người thủ lãnh của Giáo hội. Nhằm đào tạo ông, Chúa Giêsu đã cho ông trực tiếp tham gia vào cuộc phục sinh cho con gái ông Giairô (Mc 5,37). Bấy giờ, Người dẫn các ông lên núi để cho chứng kiến cuộc biến hình đầy uy nghi sáng láng như mặt trời, áo Người với Môsê và Elia; đã nghe tiếng nói từ trời cao nhắn nhủ:
– “Ngài là con chí ái của ta, kẻ Ta đã sủng mộ, các ngươi hãy nghe lời Người” (Mt 17,1-8).
Những săn sóc đặc biệt kia phải gây ảnh hưởng mạnh nơi tâm hồn Phêrô. Một lần kia khi có người thanh niên giàu có đến gặp Chúa Giêsu mà không theo Chúa được chỉ vì của cải. Phêrô đã mạnh dạn thưa:
– “Này chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thày” (Mt 19,27)
Đối với ông chỉ có điều này là quan trọng. Còn nhiều điều ông chưa hiểu được, chẳng hạn như việc Thày khiêm tốn quỳ xuống rửa chân cho các tông đồ ngày thứ năm tuần thánh (Ga 13,7)
Tuy nhiên Phêrô vẫn xác tín vào điều kiện cấp thiết phải trung kiên theo Chúa. Ông đã thưa với Chúa trọn cả tâm tình quả cảm của mình:
– “Tôi sẽ thí mạng sống tôi vì thày”.
Dĩ nhiện nhiệt tình còn phải được chứng nghiệm bởi việc làm. Phêrô chưa biết, chưa lượng định nổi khả năng của mình. Đầy cảm thông Chúa Giêsu báo trước cho ông biết rằng:
– “Quả thật, ta bảo ngươi: gà sẽ không gáy cho tới lúc ngươi sẽ chối Ta ba lần” (Ga 13,36-38)
Cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu bắt đầu, Phêrô rút gươm chém đứt tai một binh lính để mong bảo vệ Thày. Sau hành vi bộc phát ấy, Phêrô như nhụt hết nhuệ khí cùng với lưỡi gươm, ông trút trở lại bao theo lời thày, đúng như lời tiên tri báo trước, ba ần ông đã chối thày. Gà lên tiếng gáy, Chúa Giêsu nhìn lại và Phêrô bừng tỉnh và hối hận nước mắt chảy dài (Ga 18,1-27)
Sau cuộc khổ nạn và tử nạn, Chúa Giêsu sống lại, hiện ra nhiều lần. Tại bờ hồ Tibêria, Người đã hiện ra với Phêrô và các bạn khi họ đang thả lưới đánh cá. Gioan nhận ra Người và nhắn nhủ cho Phêrô biết:
– “Chúa đó”.
Với một nhiệt tình xưa, Phêrô vội cuốn áo gieo mình xuống biển đến gặp thầy. Ba lần Chúa Giêsu đã hỏi ông:
– Con có mến Thày không?
Phêrô trả lời:
– Lạy Chúa, Chúa thông biết mọi sự, Chúa biết tôi yêu mến Chúa.
Ba lần xác quyết tình yêu xóa bỏ ba lần chối Chúa. Lúc ấy Chúa Giêsu trao phó sứ mệnh cho ông:
– “Hãy chăn dắt đoàn chiên Ta”.
Và Người thêm:
– “Khi ngươi còn trẻ, ngươi tự thắt lưng mình và đi đâu tuỳ ý, nhưng khi đã về già, ngươi sẽ giang tay ra và người khác sẽ thắt lưng cho và lôi đi nơi ngươi không muốn” (Ga 21,15-18)
Từ đây Phêrô lãnh nhiệm vụ điều khiển cộng đoàn. Ngài đã đề nghị chọn một tông đồ thế chân cho Giuda. Ngày lễ Hiện xuống, Ngài là tông đồ đầu tiên công khai rao giảng Tin Mừng, Chúa Kitô phục sinh 3000 người trở lại sau bài giảng ấy. Thật là một mẻ lưới lạ lùng.
Tại cửa đền thờ, Phêrô thấy một người què từ lúc mới sinh, Ngài nói với hắn:
– “Vàng bạc tôi không có, song có gì tôi cho anh: nhân danh đức Giêsu Kitô người Nazareth, anh hãy bước đi.
Người què liền khỏi bệnh và nhảy lên vì vui sướng. Sau phép lạ này, thánh Phêrô giảng lần thứ hai cho dân. Lần này số người trở lại lên tới 5000 người. Thành công lớn lao này một cho các đầu mục trong dân bực tức. Họ cấm các tông đồ không được rao giảng về Chúa Kitô nữa. Nhưng đầy can đảm thánh Phêrô trả lời:
– Vâng lời các ông hơn là vâng lời Thiên Chúa có phải lẽ không?
Các tín hữu quây quần bên các thánh tông đồ, họ mang của cải đặt dưới chân các Ngài để mưu ích chung cho mọi người. Annaya và Saphira tiếc của còn muốn nên danh giá. Vợ chồng hắn nói dối là đã dâng hết, khiến lần lượt họ ngã chết ngay dưới chân Phêrô (Cv 5,1-11). Các phép lạ Ngài thực hiện ngày càng nhiều: tại Lyda, Ênêa liệt giường được lành mạnh, tại Giophê, chị Tabihta đã chết hai ngày được sống lại. Bóng của Ngài cũng chữa lành các bệnh nhân.
Thánh Phêrô rảo khắp xứ Giudea rao giảng nước Chúa. Ngài bị Hêrôđê ra lệnh tống giam, nhưng đã được cứu thoát cách lạ lùng. Ngài chủ tọa công đồng Gierusalem, quyết định rằng: các lương dân gia nhập Kitô giáo không phải giữ luật cắt bì.
Thánh Phêrô còn đi rao giảng bên ngoài đất Palestina, Ngài tới Antiôkia, xây dựng Giáo hội tại đây. Sau đó Ngài đi Rôma và biến nơi này thành trung tâm của Kitô giáo. Thời Nêrô cầm quyền, Giáo hội bắt đầu bị bách hại. Thánh Phêrô bị tù và được giải cứu bởi các lính gác trở lại đạo. Ngài trốn đi khỏi thành.
Nhưng vừa tới cửa, Ngài gặp thấy Chúa Giêsu vác thập giá tiến vào, thánh tông đồ hỏi Chúa:
– Thày đi đâu dây?
– Ta vào Roma để chịu đóng đinh một lần nưã.
Thánh tông đồ đã hiểu, Ngài trở vào thành để lãnh nhận án đóng đinh thập giá. Theo chứng của Ôrigênê, thánh Phêrô đã xin được đóng đinh lộn đầu xuống đất vì thấy mình không đáng được chết cùng một cách như Thày.
+ Mộ Ngài được tìm thấy tại chính đền thờ thánh Phêrô ở Rôma ngày nay.
38. Thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ
(Suy niệm của Lm. Vinhsơn Trần Minh Hòa)
SỐNG ĐỨC TIN THEO GƯƠNG HAI THÁNH PHÊRÔ VÀ PHAOLÔ
- Hai chứng nhân sống động về đời sống đức tin.
Trong kinh tiền tụng lễ thánh Phêrô và Phaolô tông đồ, Hội thánh dạy rằng: Thánh Phêrô là người đầu tiên tuyên xưng đức tin, thánh Phaolô là người làm sáng tỏ đức tin. Thánh Phêrô thiết lập Hội thánh tiên khởi cho người Israel, thánh Phaolô là thầy giảng dạy muôn dân.
Thực vậy, các bài đọc phụng vụ hôm nay đã làm sáng tỏ đức tin của hai chứng nhân tông đồ này. Trước hết, Sách Công vụ ghi lại thời kỳ Hội thánh sơ khai bị bách hại. Thánh Giacôbê là anh của Gioan bị chém đầu và thánh Phêrô bị bắt bỏ tù (x. Cv 12.1-2). Dầu bị thử thách như thế, thánh Phêrô vẫn không lung lạc đức tin. Thánh nhân một mực tin tưởng vào Chúa. Niềm cậy trông và tin tưởng ấy của thánh Phêrô đã đạt được kết quả bất ngờ. Thánh nhân đã được Chúa giải thoát khoải lao tù một cách hết sức nhiệm mầu. Chính biến cố được giải thoát ấy làm cho thánh Phêrô thêm niềm tin vào Chúa và ngài đã thốt lên rằng: “Bây giờ tôi biết thực sự là Chúa đã sai thiên sứ của Người đến, và Người đã cứu tôi thoát khỏi tay vua Hê-rô-đê, và khỏi mọi điều dân Do-thái mong muốn tôi phải chịu”(Cv 12, 11).
Kế đến, tại vùng kế cận thành Xêdarê Philípphê, thánh Phêrô còn biểu lộ một đức tin mạnh mẽ và cá vị. Trong khi các tông đồ khác lúng túng chưa trả lời Chúa Giêsu là ngôn sứ hay là Êlia, thánh Phêrô đã mạnh mẽ tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống (x. Mt 16, 16). Danh xưng Con Thiên Chúa là chân lý được thiên thần Gápriel tuyên báo trong ngày truyền tin cho Đức Maria (x. Lc 1, 35) và Chúa Giêsu đã mạc khải trong những lần rao giảng. Trong thời gian Chúa Giêsu rao giảng và làm phép lạ, có một số người tin nhận Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa (x. Mt 14, 33, Lc 8, 28, Ga 11, 27, Mt 27, 54) nhưng chưa minh nhiên xác quyết. Ngược lại, rất nhiều người không chấp nhận và xem danh xưng đó là lời phạm thượng (x. Ga 10, 36, Ga 19, 7). Vì thế, lời tuyên xưng của thánh Phêrô về căn tính của Chúa Giêsu là tuyên xưng đức tin đầu tiên và lời tuyên xưng đó góp phần củng cố đức tin cho các tông đồ khác. Thánh Phêrô thật có phúc khi tuyên xưng chân lý ấy cách chính xác, bởi ngài đã được Chúa Cha mạc khải (x. Mt 16, 17).
Với thánh Phaolô, lời tuyên xưng đức tin của ngài là những lời loan báo Tin Mừng Chúa Giêsu phục sinh và một đời sống trung tín với Chúa Giêsu đến cùng. Thánh nhân đã tin vào Chúa Giêsu đến độ chọn Chúa Giêsu là lẽ sống cho cho đời của ngài: “Tôi coi tất cả mọi sư là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Kitô (Pl 3, 8). Thánh nhân đã sống chết cho Chúa Giêsu (x. Pl 1, 21) và không ai, không thử thách nào có thể tách ngài ra khỏi tình yêu của Đức Kitô, dù cho đó là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo (x.Rm 8, 35). Tình yêu Đức Kitô đã thúc bách thánh Phaolô loan báo Tin Mừng và thánh nhân đã sống một đời chứng nhân để tuyên xưng đức tin. Những lời tâm sự cuối cùng với Thimôthê đã cho thấy thánh Phaolô đã sống hết mình cho đức tin của mình: “Còn tôi, tôi sắp phải đổ máu ra làm lễ tế, đã đến giờ tôi phải ra đi. Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin”(2Tm 4, 6).
- Sống đức tin theo gương hai thánh Phêrô và Phaolô
Hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô đã trở nên những cột trụ đức tin trong Hội thánh. Gương sáng của hai ngài mời gọi các tín hữu sống đức tin trong cuộc sống hôm nay. Với những lo toan cơm áo gạo tiền, các tín hữu được mời gọi dành cho Chúa một chỗ trong đời sống của mình. Không vì những của cải chóng qua mà họ quên đi hạnh phúc vĩnh cửu trên trời, không vì lợi ích quá nhỏ ở trần thế này mà họ quên đi mối lợi tuyệt vời là Đức Kitô.
Bằng những giờ kinh tối đều đặn và sốt sắng, bằng hành vi thờ phượng khi lãnh nhận các các bí tích, và tham dự các thánh lễ chúa nhật cách sinh động và trang nghiêm, các gia đình Công giáo đang loan báo cho người khác rằng họ tin vào Thiên Chúa và Đấng Ngài sai đến là Đức Kitô. Chính sức mạnh của Chúa tác động, các tín hữu sống chứng nhân giữa đời.
Trong khi nhiều gia đình khác bất hòa, ly dị, các gia đình người Công giáo vẫn luôn trung thành trung thủy với nhau đến cùng và không có một thử thách nào có thể tách mối dây hôn phối của các gia đình Công giáo. Tình yêu vợ chồng trong các gia đình rập theo khuôn mẫu của Đức Kitô và Hội thánh. Vợ chồng luôn biết hy sinh những sở thích riêng để giúp nhau được hạnh phúc. Chính khi vợ chồng vợ chồng Công giáo sống yêu thương nhau theo mẫu gương của Đức Kitô yêu thương Hội thánh, họ đang họa lại cách sinh động tình yêu của Đức Kitô và Hội thánh. Trong khi sự gian dối xảy ra nhiều nơi, trong nhiều môi trường, các cha mẹ Công giáo luôn dạy cho con cái sống trung thực và thực hành sự trung thực ấy trong gia đình, trường học, công sở…
Có thế, từng người trong các gia đình Công giáo đang trở nên những chứng nhân sống động cho Chúa Kitô và minh chứng đức tin của mình. Nhờ lời chuyển cầu của hai thánh Phêrô và Phaolô tông đồ hôm nay, ước mong mỗi tín hữu trở nên những chứng nhân đức tin trong gia đình, trong trường học và mọi môi trường của cuộc sống.
39. Gà gáy và ngã ngựa
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Gà gáy và ngã ngựa là hai sự kiện nổi bật trong cuộc đời hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô. Tiếng gà gáy để phản tỉnh. Cú ngã ngựa để hết tự mãn. Phêrô và Phaolô, trước khi là thánh, hai vị cũng là người tội lỗi, yếu đuối, chập choạng trên con đường đức tin. Các ngài có một quá khứ lầm lỗi. Phêrô có lần bị Chúa quở là satan; ông đã ba lần chối Thầy. Phaolô đã năm lần bảy lượt đi lùng bắt và giết chết những ai mang danh Kitô hữu; ông đã can dự vào việc ném đá Stêphanô, vị tử đạo đầu tiên của Giáo hội. Cả hai đều hăng say năng nổ, muốn dùng sức lực của mình và phương tiện thế gian để bảo vệ Chúa mình tôn thờ, và muốn tiêu diệt những kẻ không theo đạo giống mình. Chúa Giêsu đã cứu cả hai, mỗi người được cứu một cách. Tiếng gà gáy và cú ngã ngựa là hai dấu ấn không phai trên hành trình nên thánh.
- Tiếng gà gáy phản tỉnh
Sau khi chối Thầy lần thứ ba, từ trên pháp đình Chúa nhìn xuống Phêrô. Ánh mắt Thầy vẫn trìu mến thân thương như gởi đến ông sứ điệp: Phêrô, sao con lại chối Ta. Ơn nghĩa Thầy trò ba năm gắn bó chẳng lẽ không còn một chút vương vấn hay sao? Lại thêm tiếng gà gáy đêm khuya, nhắc nhở lương tâm ông tỉnh ngộ và nhớ lại lời Thầy đã tiên báo: “Trước khi gà gáy, con đã chối Ta ba lần.” Phêrô lầm lũi ra khỏi pháp đình, nước mắt tuôn trào, tâm hồn trĩu nặng, cõi lòng xốn xang, mình chỉ là cát bụi, phận yếu hèn và quá dễ sa ngã! Phêrô thổn thức. Mới hôm nào ông còn tuyên bố: “Dù mọi người bỏ Thầy, riêng con thì không bao giờ.” Thế mà, giờ đây ông lại nhát gan khi đối diện nguy nan nên đã chối Thầy đến ba lần. Và đêm hôm ấy, tiếng gà gáy đã thức tỉnh tâm hồn Phêrô. Xuất thân là ngư phủ với bản tính chất phác, chân thật, có sao nói vậy, nên khi lầm lỗi ngài chân thành sám hối và òa khóc như một đứa trẻ. Đó là hành trình của phàm nhân, những con người luôn mỏng dòn và yếu đuối, nhưng luôn được Thiên Chúa hải hà thương xót, thứ tha và thánh hóa. Đời ông là giằng co giữa yếu đuối và dũng mãnh, giữa trọn vẹn và dang dở. Trái tim ông có u tối đi tìm ánh sáng, có nuối tiếc đi tìm lý tưởng. Đời ông có tự tin gặp vấp ngã, có phấn đấu gặp thất bại. Tuy nhiên, thánh Phêrô có nhiều đức tính đáng nể phục. Chính những đức tính sáng chói này sẽ làm lu mờ đi những cái tầm thường nơi con người của ngài. Nhờ đó, ngài đã xứng đáng với sự tín nhiệm của Chúa. Thánh Phêrô có lòng quảng đại. Khi được Chúa gọi, ông nhanh nhẹn bỏ tất cả mọi sự rồi theo Chúa. Thánh Phêrô có một đức tin chân thành và lòng gắn bó keo sơn với Chúa: “Lạy thầy, bỏ Thầy chúng con biết theo ai vì Thầy có lời ban sự sống đời đời.” Đức tính đáng cảm phục nhất chính là lòng khiêm nhường. Đó là nhân đức nền tảng của mọi nhân đức. Khiêm nhường là mẹ các nhân đức. Rõ ràng, trong trái tim Phêrô lúc nào cũng yêu Chúa. Ngay cả khi Chúa bảo Phêrô là Satan thì ngài cũng không giận Chúa. Chỉ vì sự sợ hãi yếu đuối mà chối Thầy, chứ trong tâm hồn lúc nào Phêrô cũng yêu mến Chúa. Không phải Phêrô yếu đuối vấp ngã mà Chúa bỏ rơi, chính tình yêu chân thành trong tâm hồn Phêrô mà Chúa đã yêu thương chọn làm Tảng Đá.
- Cú ngã ngựa để hết tự mãn
Saolô ở Tacxô, là người Do thái, trí thức, thông thạo nhiều thứ tiếng miền Do thái-Hy lạp, rất sùng đạo theo môn phái Gamaliên ở Giêrusalem. Là biệt phái nhiệt thành nên Saolô đi lùng sục bắt bớ Đạo Chúa, tham gia vào vụ giết Stêphanô và trên đường Đamat truy lùng các Kitô hữu. Oai phong trên yên ngựa đang phi nước đại, thình lình, một luồng ánh sáng từ trời loé rạng bao lấy ông, Saolô té nhào từ yên ngựa. Nằm sóng soài dưới chân ngựa, Saolô nghe được tiếng gọi trong luồng ánh sáng phát ra từ trời: “Saolô, Saolô, sao ngươi bắt bớ Ta?” Saolô hỏi lại: “Thưa Ngài, Ngài là ai?” Tiếng từ trời đáp: “Ta là Giêsu Nadarét mà ngươi đang bắt bớ.” Không thể tin vào chính mình nữa, không ngờ ông Giêsu Nadarét, người đã bị đóng đinh vào thập giá như một tên tội phạm, lại chính là Thiên Chúa quyền năng đã quật ngã mình và đã tự đồng hóa với những Kitô hữu mà mình đang lùng bắt. Dưới ánh sáng của Đấng Phục Sinh, đôi mắt của Saolô bị mù loà, nhờ đó ngài biết rằng trước đây mình thật là mù quáng. Nhưng sau đó, qua trung gian của Khanania, đại diện của Giáo Hội, ngài đã được sáng mắt về phần xác và cả phần hồn để nhìn thấy con đường mình được mời gọi bước vào.
Hoàn toàn phó thác, ngài đã thưa với tất cả tâm tình phục thiện: “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?” Con đường đức tin của Saolô đã hoàn toàn thay đổi kể từ lần gặp gỡ hi hữu ngoài sức tưởng tượng ấy. Sự sống của Chúa Phục Sinh đã làm thay đổi cuộc đời của ông. Được ơn trở lại từ cú ngã ngựa nhớ đời, Saolô được biến đổi để trở nên chứng nhân vĩ đại là Phaolô,Tông Đồ dân ngoại. Khi đã biết Chúa Kitô thì “những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay, vì Đức Kitô, tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa tôi còn coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Giêsu Kitô, Chúa của tôi. Vì Ngài, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như đồ bỏ, để được Đức Kitô và được kết hợp với Người. Được như vậy, không phải nhờ sự công chính của tôi, sự công chính do luật Môsê đem lại, nhưng nhờ sự công chính do lòng tin vào Đức Giêsu”(Pl 3,7-9). Phaolô hiên ngang được sống và được chết cho Chúa Kitô. Ngài trở thành một Tông đồ dân ngoại kiệt xuất, thành lập nhiều Giáo đoàn, mở mang phát triển Hội Thánh cách quang minh chính đại, khiến bản thân phải ra toà, tù tội, vất vả trăm đường. Các mối phúc thật được kết tinh nơi cuộc đời thánh nhân. Phaolô đã sung sướng tự hào cả khi ý thức những yếu đuối của mình “Ơn Ta đủ cho con vì chưng quyền năng trong yếu đuối mới viên thành” (2Cor 12,9). Không gì có thể làm nao núng lòng tin mãnh liệt ấy “Chúng tôi bị dồn ép tư bề nhưng không bị đè bẹp; hoang mang nhưng không tuyêt vọng; bị ngược đãi nhưng không bị bỏ rơi; bị quật ngã nhưng không bị tiêu diệt”(2Cor 4,8-9). Vị Tông đồ dân ngoại đã nhiệt thành loan truyền Chúa Kitô với tất cả thao thức “Khốn thân tôi,nếu tôi không rao giảng Tin mừng”(1Cor 5,14). Ngài luôn sống trong niềm tin tưởng yêu mến vào Đấng đã kêu gọi Ngài “Tôi sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, là Đấng yêu mến tôi và thí mạng vì tôi”(Gal 2,20). Vì Đức Kitô và vì Tin mừng, thánh nhân đã sống và chết cho sứ vụ. Cuộc sống bôn ba vì Nước trời được điểm tô muôn ngàn vạn nét đẹp của Phaolô mãi mãi được hát lên như một bài ca khải hoàn “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, bắt bớ, đói khát, trần truồng, nguy hiểm, gươm giáo?… Vì tôi thâm tín rằng sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay thiên phủ, dù hiện tại hay tương lai, hay bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ tạo vật nào khác, không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa thể hiện cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”(Rm 8,35-39).
- Là người tội lỗi được Chúa nhìn đến
Giáo hội mừng kính hai thánh Tông đồ cùng chung một ngày. Hai con người khác nhau từ cá tính đến thân thế nhưng cùng chung một ơn gọi từ Chúa Kitô, cùng chung một niềm tin vào Chúa Kitô, chung một sứ mạng Chúa Kitô trao phó và cuối đời cùng chịu tử đạo vì Chúa Kitô tại Roma. Cùng chia sẻ một niềm tin, cùng thi hành một sứ mạng, Chúa Kitô đã đưa hai ngài đến một cùng đích, một vinh quang đội triều thiên khải hoàn. Hai con người khác biệt ấy lại có những điểm tương đồng lạ lùng. Chúa Kitô đã nối những điểm tương đồng ấy để tất cả được nên một ở trong Người. Thánh Phêrô, trước đây hèn nhát, sợ hãi, chối Chúa, về sau yêu Chúa nồng nàn thiết tha. Thánh Phaolô, trước kia ghét Chúa thậm tệ, sau này yêu Chúa trên hết mọi sự. Chúa đã dùng hai sự kiện gà gáy và ngã ngựa để thanh tẩy các ngài. Trước kia hai vị rất khác biệt, bây giờ cả hai nên một trong tình yêu Chúa.
Sự nghiệp Tông đồ tiếp bước Chúa Kitô, hai vị hiệp nhất trong cùng một lòng chân thành tuyên xưng, hiệp nhất trong một tâm huyết nhiệt thành rao giảng để rồi mãi mãi hiệp nhất trong cùng một đức tin minh chứng. Mặc dù có nhiều khác biệt về thành phần bản thân, về ơn gọi theo Chúa về hướng truyền giáo, nhưng cả hai vị đã tạo nên sự hiệp nhất trong đa dạng. Cùng chịu tử đạo. Cùng trở thành nền móng xây toà nhà Giáo hội. Cùng trở nên biểu tượng hiên ngang của niềm tin Công Giáo. Hai Vì Sao Sáng được Giáo hội mừng chung vào một ngày lễ 29 tháng 6. Hai Tông Đồ cột trụ đã trở nên tượng đài của sự hiệp nhất trong Giáo hội. Hiệp nhất là một công trình được xây dựng với nhiều nỗ lực của con người dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Linh. “Khác nhau trong điều phụ, hiệp nhất trong điều chính, yêu thương trong tất cả,” đó là khuôn vàng thước ngọc cho tinh thần hiệp nhất trong Giáo hội.
Đón nhận ánh sáng từ nơi Chúa Kitô, hoạt động truyền giáo theo sự dẫn dắt của Chúa Thánh Linh, hai Thánh Tông đồ trở nên nền tảng hiệp nhất. Hai ngài trở thành chói sáng như hai vì sao trong vòm trời Giáo Hội, đáng được các tín hữu chiêm ngắm noi theo. Hai ngài đã biết khiêm tốn, nhận mình là thấp hèn tội lỗi rồi mở tâm hồn ra đón nhận tình thương của Thiên Chúa. Khi trả lời câu phỏng vấn: “Jorge Bergoglio là ai?”, Đức Thánh cha Phanxicô đáp: “Tôi là người tội lỗi được Chúa nhìn đến.” Và ngài tuyên bố: “Chính tôi là người tội lỗi đây, có gì lạ đâu! Cái lạ là ở chỗ được Chúa nhìn đến, được Chúa xót thương. Và từ đó người ta tìm xem Chúa xót thương ở chỗ nào.”
Xin hai Thánh Tông Đồ giúp chúng con luôn biết tín thác vào tình thương của Chúa, luôn biết tiến bước theo các ngài trên con đường theo Chúa. Amen!
40. Thánh Phêrô và Thánh Phaolô Tông Đồ
(Chú giải của Noel Quesson)
Khi Đức Giêsu đến vùng kế cận thành Xê-da-rê Phi-líp-phê…
Các miền phụ cận thành Tia và Xi-đôn, trên bờ biển Li-băng… Mát-thêu được Đức Giêsu và các môn đệ Người đi bộ từ núi Héc-man với những đỉnh núi có tuyết bao quát vùng hồ Ga-li-lê. Gần vùng thượng lưu sông Gio-đan, trong một vùng phong cảnh lôi cuốn, khí hậu mát mẻ, chim hót líu lo giữa những tiếng rì rào của cây cỏ. Gần hang động của thần Pan (ngày nay là Banian). Hê-rô-đê Phi-líp II đã cho xây dựng thành phố nghỉ mát của nhà vua vào năm 2 trước Công nguyên. Để tôn kính ông chủ Đế quốc La Mã, ông ta đã cho thành phố này một cái tên hoàn toàn mới Xê-da-rê!
Ngày nay thành phố này không còn lại gì… ngoại trừ dòng suối tiếp tục phun nước từ “tảng đá” dưới chân núi.
Người hỏi các môn đệ rằng: “Người ta nói Con Người là ai?”
Xa khỏi các đám đông, để tránh khỏi mọi nguy cơ khuấy động vi Đấng Mê-si-a, một cách rất rõ ràng Đức Giêsu đặt câu hỏi về “căn tính” của Người.
Đối với mỗi người, dù đàn ông hay đàn bà mà chúng ta sống gần, than ôi chúng ta chỉ có thể biết được mặt ngoài của nhân cách người ấy. Trong mỗi con người, có một thứ bí mật, giấu kín đằng sau những thứ mặt nạ mà người chỉ khám phá được với thời gian.
Nhân cách sâu thẳm của Đức Giêsu cũng cắm sâu trong điều không thể nói được: Người là ai?
Các ông thưa: “Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, có người lại cho là ông Giê-rê-mi-a hay một trong các vị ngôn sứ”.
Dư luận quần chúng được thuật lại trong từng chi tiết nhưng về cơ bản đều đồng thanh cho rằng Đức Giêsu không phải là một con người bình thường…
Ngôn hành của Người làm cho Người thành một nhân cách tôn giáo đặc biệt. Người ta kể ra những vị ngôn sứ nổi danh của quá khứ khi nói về Người…
NGÀY NAY cũng thế, phần lớn nhân loại đều thừa nhận trong Đức Giêsu một nhân cách siêu phàm: Người đã đánh dấu lịch sử hoàn vũ như rất ít người tiếng tăm đã có thể làm.
Đức Giêsu lại hỏi: “Còn anh em, anh em bảo thầy là ai?
Đức Giêsu yêu cầu các môn đệ của Người nhiều hơn dư luận chung. Phản ánh những ý tưởng thông thường chưa đủ. Phải có lập trường của bản thân mình.
Anh chị nói gì về Đức Giêsu? Đối với anh chị Đức Giêsu là ai?
Ông Simon Phêrô thưa: ‘Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.
Tất cả các nhà chú giải đều lưu ý sức mạnh của cách diễn tả mà Mát-thêu nhấn mạnh bằng thác nước của bốn danh từ: “Đấng Kitô, Con, Thiên Chúa, Đấng Hằng Sống”.
Dĩ nhiên là vào ngày hôm đó trong đầu của Phêrô không chắc đã có mọi xác quyết về thần học mà những từ ấy chuyên chở sau khi Đức Giêsu sống lại và sau một thời kỳ suy gẫm lâu dài bằng trí tuệ của các Công đồng ba thế kỷ đầu tiên. Tuy nhiên, người ta không có quyền “thu hẹp” lời “tuyên xưng đức tin” của Phêrô theo nghĩa thông thường có trong cách diễn tả “con của Thiên Chúa” “ben Elohim”. Thật vậy, trong Cựu ước, danh hiệu này được áp dụng cho Đấng Mê-si-a, nhưng cũng áp dụng cho mọi “con trai của ít-ra-en” (Xuất hành 4;22; Đệ nhị luật 14,1; Khôn Ngoan 2,16-18,13; Giê-rê-mi-a 31,20; Sa-mu-en 7,14; Thánh Vịnh 2,7- 89,27). Đối với Phê-rô, rõ ràng là Đức Giêsu không chỉ là một “con trai của Thiên Chúa”, như mọi người khác: Mà nói như thế thì không nói được điều gì. Phê-rô đã nhìn thấy Đức Giêsu không chỉ là một ngôn sứ như bao ngôn sứ khác, một người được sai đến như bao người khác được Thiên Chúa sai đến… nhưng là Đấng Thiên Sai, Đấng Mê-si-a, Chúa Con… trong một ý nghĩa chỉ thuộc về Người.
Đức Giêsu nói với ông: “Này anh Simon, con ông Giô-na anh thật là người có Phúc, vì không phải phàm nhân mạc khải cho anh điều ấy nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời..”
“Phàm nhân” hay “huyết nhục”… cách diễn tả rất lâu đời trong Kinh Thánh để chỉ tính chất xác thực của lời nói… một công thức rất đẹp gợi hình để nhắc đến sự yếu đuối tự nhiên của con người nếu chỉ được soi sáng bằng những ánh sáng của trí tuệ. Trong ngôn ngữ thông thường của ngày nay, chúng ta sẽ nói rằng: “không phải óc phán đoán nhỏ bé của anh, cho anh nói được điều đó!” Vâng, để đạt đến những thực tại thánh thiêng, cần phải có một “mạc khải”. Trí thông minh của con người tuyệt đối không thể định nghĩa được Thiên Chúa, bên trên mọi sự như lời ca ngợi của Thánh Grê-gô-ri Na-di trong một bài thánh ca rất hay: “ôi, lạy Chúa, Đấng trên hết mọi sự, đó chẳng phải là tất cả những gì Người ta có thể ca ngợi Chúa đó sao? Ngôn ngữ nào sẽ nói với Chúa? Không một từ nào có thể diễn tả được Chúa. Trí tuệ sẽ bám víu vào đâu? Chúa vượt qua mọi trí tuệ. Duy chỉ Chúa không thể diễn tả được; bởi vì mọi sự vật được diễn tả đều xuất phát từ Chúa. Duy chỉ Chúa không thể nhận biết được, bởi vì mọi sự được suy nghĩ đều xuất phát từ Chúa… Chúa là cùng đích của mọi sự vật. Chúa là tất cả mọi sự vật, và không phải là sự vật nào cả. Chúa có tất cả mọi tên và con sẽ gọi tên Chúa như thế nào đây? Duy chỉ Chúa là người ta không thể gọi tên. Ôi lạy Chúa, Đấng trên hết mọi sự, đó chẳng phải là tất cả những gì người ta có thể ca ngợi Chúa đó sao?”
Phải, với sự đơn giản táo bạo, khó mà chống chế, Đức Giêsu khẳng định rằng không một ai có thể biết căn tính của Người nếu không có sự mạc khải của Thiên Chúa. “Không ai biết rõ người Con trừ Chúa Cha, cũng như không ai biết rõ Chúa Cha trừ người Con và kẻ mà Người Con muốn mạc khải cho” (Mt 11,27). Thánh Phaolô cũng nhấn mạnh sự bất lực của con người khi nói về Thiên Chúa “Đấng đã dành riêng tôi ngay từ khi tôi còn trong lòng mẹ, và đã gọi tôi nhờ ân sủng của Người… Người đã đoái thương mạc khải Con của Người cho tôi, để tôi loan báo Tin Mừng về Con của Người cho các dân ngoại. Tôi đã chẳng thuận theo các lý do tự nhiên” (Ga-lát 1,15-16) “Nhưng Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời… ” Hai từ nhỏ bé “Cha Thầy” cho chúng ta thoáng thấy vực thẳm vô tận mà Đức Giêsu đã ý thức, trong bản thân Người. Và Đức Giêsu tuyên bố là “có phúc” tất cả những ai thấy được điều bí mật của bản thân Người (thêm một mối phúc thật mới).
Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết; anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy…”
Máccô (8,27.30) và Luca (9,18-21) đã thuật lại lời tuyên xưng đức tin của Phêrô. Chỉ có Mát-thêu kéo dài thêm với lời tuyên bố của Đức Giêsu về những trách nhiệm của Phêrô đối với Giáo Hội. Kiểu chơi chữ với từ Phêrô của Đức Giêsu rất xác thực bởi vì Người sử dụng ngôn ngữ Sê mít, và tất nhiên gần ngôn ngữ Ara-men hơn ngôn ngữ Hy-lạp, thật vậy từ “Đá” ngôn ngữ Ara-men là Kê-pha thuộc về giống đực)… Quả thực, câu nói sẽ không chỉnh lắm trong tiếng Hy-lạp và trong tiếng Pháp: “Anh là Phêrô (Pétros: giống đực) và trên tảng đá này (“pétra”: giống cái Thầy sẽ xây. Vậy chúng ta thử suy nghĩ về lời “tuyên bố” của Đức Giêsu với Phêrô. Có năm hình ảnh, theo rất sát ngôn ngữ Sê-mít, cấu tạo thành lời hứa đó.
Tảng đá: biểu tượng cho sự vững chắc, biểu tượng cho Thiên Chúa.
Giáo Hội: có nghĩa là cuộc “hội họp” do Thiên Chúa triệu tập.
Cửa: biểu tượng cho quyền lực của một thành trì kiên cố thời cổ đại.
Chìa khóa: biểu tượng cho “quyền bính”.
Cầm buộc và tháo cởi: biểu tượng cho toàn thể thống nhất các mối mâu thuẫn…
Có nhiều đoạn trích dẫn Kinh Thánh để khẳng định Thiên Chúa là Tảng đá. Chúng ta chỉ cần trích dẫn một trường hợp “Chúa là tảng đá của tôi, thành trì của tôi ( Tv 71,3) Chúng ta thấy trước mắt mình những hình ảnh của các pháo đài hay các ngôi làng có tường thành vững chắc trên mọi núi đá. Như thế, Đức Giêsu có ý định xây dựng một công trình, thật vững chắc!
Từ “Giáo Hội” dịch một từ tiếng A-ra-men “Qahal” có nghĩa là “Cuộc hội họp, hội chúng”. Vậy điều Đức Giêsu muốn xây dựng là một “cộng đoàn” gồm đàn ông và đàn bà có những điểm chung, quy tụ lại để cùng nhau làm một số việc. Công đồng Vatican II đã định nghĩa Giáo Hội là dân Thiên Chúa. Không thể là một Kitô hữu “đơn độc”. Bi kịch của người Kitô hữu không hành đạo, tức là không tham dự thánh lễ ngày chủ nhật để thờ phụng Thiên Chúa chính là đức tin của người ấy teo lại dần và chết.
“Và quyền lực của tử thần sẽ không thắng nổi…”
Bản văn dịch sát cho thấy một hình ảnh: “Những cánh cửa hỏa ngục (Hadès) không đủ sức để chống lại”. Nếu chúng ta hiểu công thức này trong mọi sức mạnh của nó, vấn đề không phải chỉ là sự vững chắc của Giáo Hội để phòng thủ hiệu quả trước những cuộc tấn công của sự chết… nhưng là khả năng tấn công “ngục tù của sự chết” để giải thoát những người bị giam cầm ở đó.Tranh thánh của phương Đông về sự sống lại cho chúng ta thấy Đức Giêsu chiến thắng đứng trên hai cánh cửa của âm phủ bị phá vỡ thành hình thập giá và cho Ađam và Eva tham dự vào chiến thắng sự chết của Người. Đó là mục tiêu của Giáo Hội: Cứu độ! Đức Giêsu đã thật sự nhắm đến điều đó: một “đoàn thể” của những người được sống lại với Người?
“Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời…”
Đây cũng là một hình ảnh rất lâu đời, dấu chỉ sự chính thống (I-sai-a 22,22). Ai giữ chìa khóa căn nhà có mọi quyền bính trên căn nhà ấy.
“Dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy”.
Ngày nay, người ta thấy nhiều người sẵn sàng nói: “Đức Giêsu, được… Giáo Hội, không…”. Sau một thời kỳ tập quyền thái quá các Giáo Hội cũng như các quốc gia khắp nơi cảm thấy muốn vỡ tung: người ta xem ra chỉ bằng lòng với “những cộng đoàn nhỏ sống động và nhiệt thành mà không cần đến những cơ chế to lớn… Người ta tương đối hóa những quy phạm của học thuyết không cần đến những điểm quy chiếu khách quan… Tác vụ của Thánh Phêrô mà Đức Giêsu mong muốn nhắc chúng ta rằng đức tin là một ơn mà Thiên Chúa ban cho chúng ta và chúng ta không thể nghĩ ra một cách tùy tiện: Đức Kitô thật sự đã ban cho Phêrô các “quyền bính”. Phải lắng nghe Phêrô.
41. Đức Giêsu và Phêrô
(Chú giải, Suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long, OFM.)
1.- Ngữ cảnh
Với đoạn Tin Mừng này, chúng ta đi tới trung tâm của TM I. Lần đầu tiên Đức Giêsu hỏi các môn đệ về bản thân Người và Phêrô đã minh nhiên tuyên xưng tư cách Mêsia của Đức Giêsu. Câu trả lời vang lên như một điểm tới và như hoa quả của hoạt động trước đây của Đức Giêsu. Đồng thời câu trả lời cũng là tiền đề cho nhiệm vụ mà Người sẽ ký thác cho Phêrô. Toàn bản văn là chứng từ duy nhất về lập trường lạ lùng và về uy quyền của Đức Giêsu.
Đây cũng là lần đầu tiên Đức Giêsu loan báo các đau khổ và sự sống lại của Người. Cuối cùng, ngay sau đoạn văn này, bài tường thuật tập trung vào đề tài cuộc Khổ Nạn (x. 17, 22-23; 20, 17-19).
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Câu hỏi về chân tính Đức Giêsu (16, 13-16):
- a) Ý kiến của dân chúng (cc. 13c-14),
- b) Ý của của các môn đệ (đại diện là Simôn Phêrô) (cc. 15-16);
2) Tuyên bố về tư cách của Phêrô (16, 17-19);
3) Kết: Lệnh cấm (16, 20).
Bản văn này có một chức năng quan trọng trong toàn tác phẩm. Không những nó nhắc lại các ký ức ở 14, 2.5 (c. 14), 14, 33 (c. 16) và 13, 16-17 (c. 17), mà còn đặc biệt gợi tới bản văn căn bản nói về mạc khải của Con Người, 11, 25-27. Bản văn này mở đầu không những cho 18, 18 (c. 19b.c) và cho 23, 13 (c. 19a), nhưng đặc biệt cảnh mạc khải trước Thượng Hội Đồng ở 26, 61-64).
Bản văn này cũng liên kết chặt chẽ với đoạn 16, 21-28, để tạo thành một cấu trúc chuyển hoán:
- a) cc. 13-15;
- b) cc. 16-19
- c) c. 20
c’) cc. 21-22
b’) cc. 22-23
a’) cc. 24-28
3.- Vài điểm chú giải
– Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống (16): Khi so với câu tuyên xưng ngắn ngủi trong Mc (8, 29), các nhà chú giải có nhiều ý kiến về bản văn Mt: (a) Mt đã tuyên xưng thần tính của Đức Giêsu (Benoît); (b) Mt chỉ tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Mêsia mà thôi; (c) Mt đã nối dài lời tuyên xưng là để tránh những âm vang quân sự chính trị của danh hiệu Mêsia (Viviano). Cũng khó mà chọn hẳn ý kiến nào, bởi vì cũng rất có thể lời tuyên xưng lúc đầu chỉ nói về Đấng Mêsia (như Mc 9, 29 và Lc 9, 20), đã được “đọc lại”dưới ánh sáng cuộc Phục Sinh và diễn giải theo chiều hướng một lời công bố về thần tính của Đức Giêsu. Ngày hôm nay, chúng ta hoàn toàn có thể và phải hiểu theo nghĩa này.
– không phải phàm nhân (17): dịch sát là “thịt và máu”. Đây là một kiểu nói Híp-ri để chỉ các tài nguyên của con người tự nhiên, các sức lực riêng của con người
– Phêrô, nghĩa là Tảng Đá (18): Ta hiểu được kiểu chơi chữ này do biết từ A-ram gốc là kepha ở nam tính.
– Hội Thánh (18): Từ ngữ Hy Lạp ekklêsia chưa có tất cả ý nghĩa định chế như từ ngữ “Hội Thánh”sau này. Do đó, từ Hội Thánh dù được dùng để dịch từ ekklêsia, không cung cấp ý nghĩa nguyên thủy cho từ ekklêsia. Hầu chắc ekklêsia dịch từ cụm từ Híp-ri qahal YHWH, mà Bản LXX diễn ra là ekklêsia tou theou (x. Cv 7, 38). Cộng đoàn Kitô hữu là Israel chân chính đã nên hiện thực (x. 10, 1.5), là cuộc quy tụ dân tuyển chọn của thời cuối cùng.
– chìa khóa Nước Trời (19): Ta nhớ đến Is 22, 22 trong đó nhắc lại lời Thiên Chúa nói là Ngài sẽ đặt chìa khóa trên vai Engiakim để ban cho ông quyền mở và đóng cửa vào hoàng cung, tức quyền cho phép hoặc ngăn cản nhà vua ra vào. Trong sách Kh (3, 7), chính Đức Giêsu tự giới thiệu như là Đấng nắm chìa khóa nhà Đavít. “Nước Trời”là một công thứcMt song song với ekklêsia của câu trước. Đây vẫn là một thực tại duy nhất nhưng nhìn theo những trương độ khác. Nước Trời vượt quá các biên cương (lịch sử) của ekklêsia; đây không phải là một định chế mà là sự thể hiện ơn cứu độ.
– ràng buộc và tháo cởi (19): Đây là ngôn ngữ của các trường phái kinh sư. “Ràng buộc hoặc tháo cởi”có nghĩa là đảm nhận một nhiệm vụ ngăn cấm hoặc cho phép về những điểm còn gây tranh cãi trong giáo huấn chính thức. Hai động từ này cũng có nghĩa là tuyên bố một giáo thuyết là đúng hay sai lạc, một kiểu thực hành luân lý là hợp pháp hay không hợp pháp. Họa hoằn lắm công thức này mới có nghĩa là loại trừ khỏi cộng đoàn hoặc nhận vào lại.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Câu hỏi về chân tính Đức Giêsu (13-16)
Khi đến miền Xêdarê Philípphê, Đức Giêsu không xin các môn đệ cho ý kiến về Bài Giảng trên núi hoặc về phần nào đó của công trình Người; Người hỏi họ là họ nghĩ gì về bản thân Người. Câu hỏi đã cho thấy rằng đối với Đức Giêsu, điểm này có tầm quan trọng quyết liệt. Người muốn đưa các ông đến chỗ hiểu biết rõ ràng về Người và một lời tuyên xưng đức tin không mập mờ vào Người. Tất cả ý nghĩa của sự hiểu biết này tuỳ thuộc Người là ai. Ở tại trung tâm, ta không thấy lời loan báo về Người, nhưng có bản thân Người.
Ngay dân chúng cũng có một ý kiến cao trọng về Người, nhưng không nhận ra vị trí đặc biệt của Người. Nếu Người chỉ là một ngôn sứ, thì Người là một ngôn sứ giữa biết bao vị khác: trước Người, đã có nhiều vị đến rồi, và sau Người sẽ có thể có nhiều vị khác đến nữa. Ngược lại, Phêrô nhận biết tư cách của Đấng hoàn toàn đặc biệt đối với loài người và tương quan của Đấng hoàn toàn đặc biệt với Thiên Chúa. Trong tư cách Mêsia, Đức Giêsu là Vị Vua và Mục Tử duy nhất, cuối cùng và vĩnh viễn của dân Israel, đã được Thiên Chúa cử đến để ban cho dân này và toàn thể nhân loại sự sống dồi dào. Trong tư cách là Con, Người sống với Thiên Chúa một tương quan duy nhất, với đặc điểm là sự hiểu biết hỗ tương và sự bình đẳng với nhau (x. 11, 27). Vị Thiên Chúa ấy là vị Thiên Chúa hằng sống, vị Thiên Chúa duy nhất chân thật và thực hữu, là sự sống nơi chính mình, đã tạo thành mọi sự sống và đã chiến thắng sự chết bằng quyền lực của Ngài. Là Đức Vua và Mục Tử, Thiên Chúa phải dấn thân phục vụ sự sống của dân Ngài. Phêrô nhận biết Đức Giêsu là Đấng Mêsia có liên hệ mật thiết với chính quyền lực sự sống, với Thiên Chúa hằng sống.
* Tuyên bố về tư cách của Phêrô (17-19)
Do lời tuyên xưng ấy, Simôn được tuyên bố là có phúc. Đức Giêsu ngỏ lời với ông bằng cách gọi tên và tên họ ông, tức là thể theo đúng thực tại nhân loại và nguồn gốc của ông, và tỏ cho ông biết ân ban phi thường đã làm cho ông có thể tuyên xưng như thế: chính Cha trên trời đã ban cho ông sự hiểu biết ấy (“mạc khải”, apekalypsen. Xem 11, 27; 17, 5); sự hiểu biết này, người ta không thể đạt tới bằng sức loài người (“thịt và máu”). Simôn không chỉ được Đức Giêsu kêu gọi (4, 18t), mà còn được Chúa Cha tuyển chọn từ trước. Do đó, ông có phúc; ông có mọi lý do để vui lên.
Đức Giêsu ngỏ lời với Simôn bằng một tên mới và loan báo một nhiệm vụ mới. Người gọi ông là “Phêrô”, nghĩa là tảng đá. Ở Ga 1, 42 và trong các thư Phaolô, tên này có dạng gốc A-ram là “Kêpha”. Tên này là một sáng tạo mới của Đức Giêsu. Như người cha xác thịt đặt tên cho con, Thiên Chúa hoặc một người có quyền thế có thể ban một tên mới cho một người đã đi vào một cuộc sống mới do một nhiệm vụ mới (x. St 17, 5.15; Ds 13, 16; 2 V 24, 17). Với lời tuyên xưng do Chúa Cha ban và với một nhiệm vụ mới do Đức Giêsu trao, có thể nói một cuộc sống mới đã bắt đầu với Simôn. Đức Giêsu trong tư cách Đức Chúa ban cho ông một tên liên hệ đến bản chất của nhiệm vụ của ông.
Nhiệm vụ này được mô tả với ba hình ảnh. (1) Phêrô là tảng đá, trên đó Đức Giêsu sẽ xây dựng Hội Thánh Người (c. 18). Hội Thánh, cộng đoàn những người tin vào Đức Giêsu, diễn tả cùng một lời tuyên xưng như Phêrô, ở đây được ví với một tòa nhà. Đức Giêsu sẽ dựng lên tòa nhà, nhằm quy tụ các tín hữu Người. Nền móng của tòa nhà này là đích thân Phêrô, như một con người sống, đã được Thiên Chúa ban cho lời tuyên xưng chân thật. Ông phải cung cấp sự chắc chắn và bền bỉ cho cộng đoàn các tín hữu. Với cộng đoàn này, Đức Giêsu hứa ban cho sự bền bỉ trường tồn: quyền lực sự chết và sự tàn tạ sẽ không chạm tới cộng đoàn này được.
Với hình ảnh (2) các chìa khóa (c. 19), Đức Giêsu không muốn nói rằng Phêrô được giao cho nhiệm vụ giữ cửa trời, nhưng được đặt như là người quản lý thay mặt chủ nhà và hành động theo sự ủy quyền của ông chủ (x. Is 22, 22). Trong cộng đoàn các tín hữu, ông phải hành động thay cho Đức Chúa; (3) ông phải ràng buộc và tháo cởi (c. 19b); thậm chí ông có quyền và có nhiệm vụ tuyên bố điều gì bị cấm và điều gì được phép đón vào trong cộng đoàn Hội Thánh. Trong Bài Giảng trên núi và trong các giáo huấn khác, Đức Giêsu chỉ bận tâm tỏ bày ý muốn của Thiên Chúa và trình bày cho thấy những cách sống cần thiết để được vào Nước Trời (x. 5, 20; 7, 21). Phêrô phải tiếp tục nhiệm vụ này.Giáo huấn của ông đòi hỏi đến mức có thể loại trừ khỏi cộng đoàn những ai không theo và có thể đưa trở lại cộng đoàn những ai hối lỗi. Đức Giêsu không bỏ mặc cộng đoàn các tín hữu, nhưng ban cho cộng đoàn này một người lãnh đạo có uy quyền lớn lao.
* Kết: Lệnh cấm (20)
Niềm tin của đám đông rõ ràng còn phiến diện, nhưng niềm tin của các tông đồ cũng chưa hoàn chỉnh. Nhất là trong Mc (“Thầy là Đức Kitô”) và trong Lc (“Thầy là Đức Kitô của Thiên Chúa”), niềm tin ấy dường như còn bám rễ vào một quan niệm Thiên Sai ái quốc và duy quốc gia. Do đó đến cuối Đức Giêsu đã buộc các ông phải im lặng, không được nhắc đến các khẳng định ấy (Mc 8, 30; Lc 9, 21). TM Mt cũng có lệnh cấm tương tự, bởi vì một lời tuyên xưng đúng đắn vẫn không đảm bảo cho một đức tin trung thực. Và điều này được chứng minh ngay sau đó, qua phản ứng của Phêrô khi nghe Đức Giêsu loan báo Thương Khó (x. 16, 22).
+ Kết luận
Do sự kiện là qua trung gian Phêrô, các tông đồ khám phá ra ý nghĩa của danh xưng huyền bí “Con Người”và nhìn nhận Đức Giêsu là Đấng Mêsia siêu việt, các ông đã tách ra khỏi những người Do Thái không tin, các ông đã trở thành phần “Dư tồn”từng được các ngôn sứ loan báo và hứa sẽ được nhận ơn cứu độ. Từ đó, Đức Giêsu có thể giao phó cho Phêrô quyền “ràng buộc”và “tháo cởi”. Do một sự hạ cố đầy ưu ái của Thiên Chúa, quyền chìa khóa này dựa trên đức tin của Phêrô, vừa là người có tội vừa là người có đức tin.
5.- Gợi ý suy niệm
- Hội Thánh, cộng đoàn các tín hữu, vẫn thuộc về Đức Kitô; chính Người quy tụ, xây dựng, điều khiển, còn Phêrô là tảng đá trên đó các yếu tố khác nhau của Hội Thánh được thu gom lại và kết cấu hài hòa. Nhưng chính vì thế, vai trò của Phêrô rất quan trọng. Trong Hội Thánh trần thế, là con đường đưa tới Nước Trời, không phải mọi sự đều tinh trong hoặc đã hoàn tất. Phêrô có vai trò phục vụ sự biện phân. Chính ông phê phán là các thành viên Hội Thánh đang sống phù hợp với dự định của Đức Kitô hay không.
- Bảo rằng mình có thể đi tới với Đức Kitô không cần qua Hội Thánh, bảo rằng mình có thể trực tiếp tự mình gặp Đức Giêsu không cần nhờ đến Giáo Hội, là liều lĩnh. Làm như thế là xây dựng cho mình một Đức Kitô theo tầm mức của mình, là tưởng tượng ra một Đức Chúa cho vừa vặn với lòng dạ mình, là từ khước Đức Giêsu như Người đã tự mạc khải ra cho chúng ta.
- Quyền chìa khóa được ban cho các mục tử là để phục vụ việc đi theo Đức Kitô, trở thành môn đệ của Người, chứ không phải là quyền sinh sát trên đoàn chiên. Quyền này được trao ban để phục vụ sự sống, chứ không phải để ép buộc đoàn chiên phải đi theo sở thích hoặc ngẫu hứng của riêng mình. Quyền bính là phương tiện phục vụ sự tăng trưởng (auctoritas, do động từ augere có nghĩa là “làm lớn lên”).
- Hội Thánh là thực tại nhỏ bé nhất, nghèo hèn nhất, yếu đuối nhất, vì quy tụ quanh một máng cỏ và một cây thập giá. Nhưng Hội Thánh cũng là thực tại cao cả nhất, giàu có nhất, vinh hiển nhất, mạnh mẽ nhất, bởi vì con trẻ sinh ra trong máng cỏ, con người chịu đóng đinh trên đồi Sọ, đã sống lại, và đang hiển trị trên muôn loài muôn vật.
- Trong buổi tiếp kiến ngày 7-6-2006, Đức giáo hoàng Bênêđitô XVI đã dạy: “Anh là Phêrô, và trên tảng đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy… Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì; trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy”. Ba ẩn dụ Đức Giêsu vận dụng rất rõ ràng: Phêrô sẽ là nền móng, đá tảng, trên đó tòa nhà Hội Thánh dựa vào; ngài sẽ có chìa khóa Nước Trời để mở ra hay đóng lại cho người nào mà ngài thấy dường như là đúng; cuối cùng, ngài có thể cầm buộc hoặc tháo cởi, theo nghĩa là ngài có thể quy định hoặc cấm đoán điều gì ngài nghĩa là cần thiết đối với đời sống Hội Thánh, hiện là và vẫn là Hội Thánh của Chúa Kitô.
Sau cuộc Phục Sinh, ta cũng thấy sự cao trọng ấy mà Đức Giêsu đã muốn gán cho Phêrô (Mc 16, 7; Ga 20, 2.4-6)… Trong số các tông đồ, Phêrô sẽ là chứng nhân đầu tiên về cuộc hiện ra của Đấng Phục Sinh (Lc 24, 34; 1 Cr 15, 5). Vài trò của ngài, được cương quyết nêu bật (Ga 20, 3-10), ghi dấu sự nối tiếp giữa tư cách cao trọng ngài đã có trong nhóm các tông đồ và sự cao trọng ngài sẽ tiếp tục có trong cộng đoàn sinh ra với các biến cố Phục Sinh… Nhiều bản văn chìa khóa liên hệ đến Phêrô có thể đưa trở lại khung cảnh là Bữa Tối cuối cùng, trong đó Đức Kitô ban cho Phêrô tác vụ là củng cố anh em (Lc 22, 31t)…
Việc đặt vị trí tối thượng của Phêrô vào khung cảnh là Bữa Tối cuối cùng, vào lúc thiết lập Bí tích Thánh Thể, Cuộc Vượt Qua của Chúa, cho thấy thêm nữa ý nghĩa tối hậu của vị trí trí tối thượng ấy: cho mọi thời, Phêrô phải là người gìn giữ sự hiệp thông với Đức Kitô. Ngài phải đưa đến sự hiệp thông với Đức Kitô. Ngài phải quan tâm để tấm lưới đừng bị rách (Ga 21, 11) và nhờ thế, sự hiệp thông phổ quát có thể trường tồn. Chỉ nhờ ở cùng với nhau, chúng ta mới ở với Đức Kitô, là Chúa của mọi người. Như thế trách nhiệm của Phêrô là bảo đảm sữ hiệp thông với Đức Kitô bằng tình bác ái của Đức Kitô, bằng cách đưa đến chỗ thực hiện tình bác ái này trong đời sống mỗi ngày. Chúng ta hãy cầu nguyện để cho vị trí tối thượng của Phêrô, được ký thác cho những con người nghèo hèn, có thể được thực thi theo nghĩa nguyên thủy như Chúa muốn, và như thế để cỏ thể ngày càng được nhận biết theo nghĩa đúng dắn bởi các anh em chưa hoàn toàn hiệp thông với chúng ta”.
42. Thánh Phêrô và Thánh Phaolô Tông Đồ
Lịch sử của ngày lễ:
Thánh Phêrô và Thánh Phaolô đều tử đạo tại Rôma: Phêrô tử đạo dưới thời hoàng đế Nêrô khoảng năm 64-67; Phaolô tử đạo vào năm 67.
Lễ hôm nay không phải là người ngày tử đạo của thánh Phêrô và thánh Phaolô, nhưng có thể là ngày di chuyển hài cốt của hai vị vào hang toại đạo trên đường vua Appia, gần nhà thờ San Sê-bát-ti-a-nô ngày hôm nay.
Hội Thánh tôn kính mộ các ngài và mừng lễ kính hai vị cùng ngày. Vì thế Hội Thánh đã dành ngày 29/6 hằng năm để mừng trọng thể lễ kính hai vị. Xưa Hội Thánh lấy ngày 30/6, sau ngày kính trọng thể Thánh Phêrô và Thánh Phaolô, để kính nhớ đặc biệt thánh Phaolô, nhưng lịch mới năm 1970 không còn nữa, ngược lại Hội Thánh nâng lễ kính thánh Phaolô trở lại ngày 25/01 lên bậc lễ kính.
Suy niệm các bài đọc trong Thánh Lễ:
- a) Thánh lễ vọng:
Cv 3,1-10:
Hai vị Tông Đồ không có tiền, nhưng các ngài lãnh nhận được sức lực của thánh thần để làm chứng bằng lời nói và bằng hành động rằng: Đức Giêsu vẫn đang sống (cv 1,8;2,43;5,12). Nhờ danh của Chúa Giêsu thành Nadarét, thánh phêrô đã chữa lành người bại liệt. Đây không phải ảo thuật hay phù thuỷ nhưng là sự tin tưởng vào Chúa Giêsu: niềm tin vào sự hiện diện đầy quyền năng của Thiên Chúa mà đã nâng lên “Làm Chúa và làm Đấng Kitô” (Cv 2,36).
Chúng ta hãy tập làm mọi việc vì danh Chúa để biến mọi việc thành lời cầu nguyện đẹp lòng Thiên Chúa.
Gl 1,11-20:
Phaolô xác tín về sứ vụ và giáo lý của mình: tất cả bắt nguồn từ Chúa Giêsu và cuối cùng thì tất cả nằm trong ý định muôn thuở của Thiên Chúa, vì chính Thiên Chúa đã gọi ngài từ muôn thuở và xác định ngài làm Tông Đồ dân ngoại.
Tin tưởng vào ơn gọi và ý định của Thiên Chúa, chúng ta nỗ lực hết mình chu toàn bổn phận trong giây phút hiện tại để làm vinh danh Thiên Chúa.
Ga 21,15-19:
Chúa Giêsu xác nhận địa vị ưu tiên của phêrô, nhưng lại hướng dẫn ông về những điều kiện căn bản mà người giữ chức vụ mục tử phải có: đó là lòng trung tín và tình yêu mến.
Khi nhận lãnh sứ mệnh Chúa ban, chúng ta ta cần trung thành trong công việc và trung tín với Chúa, đồng thời tỏ ra nhiệt tình sốt sắng với mọi công việc và keo sơn gắn bó với Chúa bằng tình yêu mến để hiệp thông và vâng phục.
- b) Lễ chính kính thánh Phêrô và Phaolô
Cv 12,1-11:
Đoạn sách công vụ Tông Đồ này ghi lại việc bắt giam và giải thoát phêrô để trình bày về ơn cứu độ của Thiên Chúa, vì giải thoát phêrô là công việc hoàn toàn của Thiên Chúa.
Những công việc con người không làm được thì Thiên Chúa làm được. Vì thế chúng ta tin tưởng và hết lòng trông cậy vào Chúa trong khi cầu nguyện.
2 Tm 2,6-8.17-18:
Bài này ghi lại lời thánh Phaolô giải thích cho Timôthê về ý nghĩa các đau khổ của người Tông Đồ. Ví như “người nông dân làm việc vất vả, thì phải là người đầu tiên được hưởng phần hoa lợi”, cũng vậy mỗi người Tông Đồ “cùng chết với Đức Kitô thì cũng cùng sống lại với người”. ý nghĩa này dựa trên chân lý: “Đức Giêsu đã sống lại từ cõi chết”.
Điều này gợi lên cho chúng ta: có làm mới có ăn; có khó mới có công; có chiến đấu mới có chiến thắng và vinh quang. Vì vậy chúng ta cần chịu khó trong mọi việc, nỗ lực trong mọi công tác, kiên trì và bền đỗ trong mọi gian lao, thử thách và vất vả vì lòng mến Chúa và tuân phục ý Chúa.
Mt 16,13-19:
Bài Tin Mừng hôm nay ghi lại câu chuyện Phêrô tuyên xưng Chúa Giêsu: “Thầy là Đấng Kitô Con Thiên Chúa hằng sống” để trình bày cho chúng ta rằng người Tông Đồ không những cần phải hiểu giáo lý của Chúa, mà còn phải có những cái nhìn chính xác về con người của Chúa nữa. Chính những câu hỏi của Chúa Giêsu buộc các Tông Đồ phải xác định rõ ràng về con người của Người.
Muốn làm Tông Đồ cho Chúa, thì không chỉ biết thông thạo về giáo lý của Chúa mà còn phải học hỏi, tìm hiểu và suy niệm về Chúa để xác tín về Chúa cách rõ ràng, hầu có thể truyền đạt về Chúa cách vững chắc. Thánh Phê-rô và Thánh Phaolô là mẫu gương cho chúng ta về điều đó.
Nhận thức và áp dụng:
Mừng kính Thánh Phê-rô và Phaolô Tông Đồ hôm nay, chúng ta có thể nhận thức rằng:
– Thánh Phê-rô và Thánh Phaolô: tuy khác nhau về tính tình, về trình độ, về khuynh hướng nhưng hai ông đã gặp nhau:
Trong một ơn gọi: Tông Đồ.
Do một Đấng kêu gọi: Đức Giêsu.
Để cùng chia sẻ một bận tâm: đó là xây dựng Hội Thánh trần thế.
Điều này nêu gương cho chúng ta khi thi hành sứ mệnh Tông Đồ, cần phải biết: thống nhất giữa những cái đa dạng và hiệp nhất giữa những cái khác biệt để xây dựng Hội Thánh.
– Nhìn vào những yếu đuối của Phêrô cũng như Phaolô mà được Chúa trao sứ mệnh cao cả trong Giáo Hội, chúng ta nhận ra rằng:
Các Tông Đồ ngày xưa, cũng như các Đấng Bậc trong Hội Thánh ngày nay: các ngài đâu có tự mình đảm trách công cuộc cứu rỗi trần gian, mà chỉ làm công việc thừa nghĩa là Chúa sai họ, với lời hứa yểm trợ họ trong công tác và đảm bảo giá trị sau cùng, chứ không hứa siêu đẳng họ, để mọi người biết rằng chỉ có một vị Thầy đích thực là Đức Kitô. Họ chỉ là quản lý các mầu nhiệm (1Cr 4,1) chứ không phải phát sinh các mầu nhiệm ấy. Họ thi hành nhân danh Đấng chọn họ và sai họ, chỉ có Đấng đó mới hoàn hảo, mới thông suốt mọi bí ẩn, mới là bảo đảm cuối cùng giá trị của các việc họ làm.
Đó chưa kể khía cạnh yếu đuối của họ giúp họ dễ cảm thông với những yếu đuối loài người, của anh em, như chính Đức Kitô đã nêu gương (Do Thái 4,15).
Trong quá trình làm việc thừa sai, thay vì phục vụ, các Tông Đồ có thể thiên về hưởng thụ, họ để cho tư lợi, những ý riêng cho phối hướng dẫn họ … những thứ khiếm khuyết ấy lẽ ra theo thói thường là đưa Giáo Hội đến chỗ suy vong, sụp đổ … nhưng Hội Thánh vẫn tồn tại: như vậy càng chứng tỏ cách hiển nhiên cho thấy Thiên Chúa mới là người trách nhiệm cuối cùng của Hội Thánh Người.
Nếu trong số những người hướng dẫn chúng ta trong Hội Thánh có những gương xấu trì trệ như Simon hoặc có gốc bách hại như Sao-lô hay bất cứ một khiếm khuyết bất toàn nào đi nữa, chúng ta cũng vẫn yên tâm và tin chắc rằng Hội Thánh là của Chúa và Chúa có thể làm mọi sự vì “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”.
Mừng lễ thánh Phêrô và thánh Phaolô hôm nay, chúng ta thiết tha nguyện xin Chúa qua lời bầu cử và gương mẫu của hai vị thánh Cả vĩ đại, ban cho mọi thành phần trong Hội Thánh, cách riêng mỗi người chúng ta:
– Biết tích cực góp phần mình vào công cuộc xây dựng Hội Thánh trần gian và xây dựng nước Chúa.
– Đồng thời xin ơn thêm lòng yêu mến Chúa Phục Sinh, yêu mến gắn bó với Hội Thánh của Chúa phục sinh và ơn trung thành để hoàn tất ơn gọi của Chúa đến cùng.
43. Thánh Phêrô và Thánh Phaolô Tông Đồ
SUY NIỆM
Phêrô và Phaolô hai tính khí, hai nhân cách khác nhau: một người xuất thân từ dân chài, thật thà chất phác nhưng đôi phần nóng nảy. Một người xuất thân là một trí trức trẻ học rộng tài cao thuộc đẳng cấp biệt phái và là công dân của Rôma. Cả hai có kinh nghiệm sống và gặp gỡ Thiên Chúa theo lịch sử riêng của mỗn người và được Thiên Chúa chiếm hữu biến đổi để trở nên đá tảng và cột trụ của Giáo hội.
Phêrô: Quá khứ là dân chài lưới với chiếc thuyền nhỏ rong ruổi khắp hồ Tibêriat đã trở nên kẻ chài lưới người theo ý muốn của Thiên Chúa, hôm nay là hoa tiêu trên chiếc tàu Giáo hội xuôi ngược đại dương trần gian. Phêrô đã được Chúa Giêsu biến đổi từ một con người tầm thường có lịch sử với những đặc điểm bình thường như bao người khác. Đó là Phêrô của sự tính toán: “Chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy, vậy chúng con sẽ được gì?” (Mt 19,27). Sự tính toán của con người ấy đã khiến ông ngăn cản bước đi cứu chuộc nhân loại của Đức Kitô và bị Ngài quở mắng: “Satan, hãy lui ra sau Thầy! Anh cản lối Thầy. Tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16,23b); Phêrô của nóng nảy, của yếu đuối, của phản bội: chối Thầy ba lần (x. Lc 22,54-62). Kinh nghiệm được tha thứ khiến ông trở nên biết chia sẻ lòng thương xót của Chúa với anh em như Chúa Giêsu đã nói: “Phần con, hỡi Phêrô, sau khi đã trở lại, con hãy củng cố các anh em của con” (Lc 22,32). Nhưng cũng Phêrô đầy ơn Chúa xác tín tuyên xưng: “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Trước niềm tin sắt son này, Phêrô được Chúa đặt làm nền tảng Giáo hội: “Con là đá, trên đá này, Thầy sẽ xây Giáo hội của Thầy, và cử địa ngục sẽ không thắng nổi” (Mt 16,18); Phêrô tín thác hoàn toàn vào Đức Giêsu: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6,68). Phêrô gắn bó với tình yêu của Thầy trên hết: “Thầy biết con yêu mến Thầy” (Ga 21,15.16.17); Phêrô của sự cương quyết thuộc về Thiên Chúa và chỉ vâng lời và làm chứng về Ngài: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người ta … về những sự kiện đó (Đức Kitô đã sống lại), chúng tôi xin làm chứng …”(Cv 5,29.32). Ngài đã làm chứng cho đến chết bằng cái chết bị đóng đinh ngược trên đỉnh đồi Vaticăn.
Phaolô: hôm qua còn ghét và truy bắt “tà đạo Kitô”, một tay bách hại đạo khét tiếng như chính ông đã nhìn nhận (Gl 1,13), và là người tuân giữ nghiêm ngặt luật Do thái (Gl 1,14). Phaolô còn liên quan trực tiếp đến vụ ném đá đến chết Stêphanô – Phó tế tử đạo tiên khởi (Cv 7,59). Phaolô của ngày hôm nay lại càng nổi tiếng hơn bao giờ hết vì là người nhiệt thành yêu mến và truyền bá Đức Kitô và sẵn sàng chết cho niềm tin đó. Phaolô xác tín niềm tin của mình vào Đức Kitô: “Tôi biết tôi đã tin vào ai” (2Tm 1,12), tin và loan báo Đức Kitô là lẽ sống của Phaolô: “Khốn thân tôi nếu tôi không loan báo Tin mừng” (1Cr 9,16) và chính ông để tình yêu Đức Kitô chiếm hữu “Tình yêu Đức Kitô thúc bách tôi” (2Cr 5,14), Phaolô chỉ sống vì Đức Kitô và trở nên một với Đức Kitô: “Không còn là tôi sống nữa, nhưng là Chúa Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20). Trong Ngài, Phaolô gắn bó với tình yêu Thiên Chúa không gì có thể chia ly: không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8,39). Những bước chân của Phaolô là bước chân gieo hạt giống Tin mừng cho anh em dân ngoại như là ơn gọi đặc biệt của ông (Gl 1,16). Phaolô chứng nhân Tin mừng Chúa Kitô cho đến khi đầu ông rơi, máu ông đổ vì Tin mừng ở ngoài thành Rôma.
Phêrô và Phaolô, hai người hai tính khí, hai trực giác khác nhau, hai đường hướng hoạt động tông đồ khác nhau, nhưng đã gặp nhau trong tình yêu Chúa và bổ túc cho nhau để xây dựng Giáo hội theo thánh ý quan phòng của Thiên Chúa. Thanh gươm ngày nào của Phaolô giơ cao bách hại đạo Chúa nay thế bằng Tin mừng cứu độ giương cao để không ngừng khai quang truyền giáo cho Đức Kitô. Giọt nước mắt thống hối chân thành vì đã phản bội Thầy của Phêrô xưa và chìa khóa Nước Trời được Chúa trao cho ông luôn hiện diện và mở toang Nước Trời cho những ai chân thành sám hối.
Noi gương như Phêrô – người đã nhận ra tình yêu của Ngài qua những giọt nước mắt của sự sám hối sau khi phản bội Thầy; như Phaolô nhận biết Ngài sau những lần truy lùng gắt gao các môn đệ của Ngài …, và chỉ một lần ngã ngựa đớn đau, ông đã gặp gỡ Ngài và đời ông biến đổi theo thánh ý Thiên Chúa và trở nên mạnh mẽ trong đức tin. Amen.
44. Mến Chúa
Mẫu gương chúng ta tìm hiểu hôm nay về hai thánh Phêrô và Phaolô tông đồ, đó là lòng mến Chúa.
Hẳn chúng ta còn nhớ lời thánh Giacôbê tông đồ:
– Đức tin không có việc làm, thì chỉ là một đức tin đã chết.
Và theo theo mẹ Têrêsa thành Calcutta:
– Hoa trái của đức tin là tình yêu. Hoa trái của tình yêu là phục vụ. Hoa trái của phục vụ là bình an.
Như vậy, đức ái vừa là dấu chỉ, vừa là kết quả của đức tin. Giữa đức tin và đức ái luôn có một sợi dây liên kết chặt chẽ. Càng có một đức tin bền vững, thì càng phải có những hành động yêu mến để chứng tỏ đức tin của mình.
Hai thánh Phêrô và Phaolô tông đồ, chắc chắn đã có một niềm tin kiên vững, thì cũng phải có một tình mến sâu xa.
Trước hết là đối với thánh Phêrô. Sau lời kêu gọi đầu tiên của Chúa Giêsu bên bờ hồ Tibêriat, Phêrô đã từ bỏ tất cả mà đi theo Chúa. Khi Chúa loan báo mình phải lên Giêrusalem để chịu đau khổ và chịu chết treo trên thập giá, Phêrô đã không chấp nhận được sự thật phũ phàng ấy, nên đã kéo Chúa ra một góc mà can ngăn:
– Ước gì điều đó đừng xảy ra cho Thày.
Và rồi Phêrô đã bị Chúa quở trách nặng lời về một tình yêu chưa được soi sáng ấy.
Với một trái tim nóng bỏng, đôi lúc Phêrô đã đi tới chỗ quá khích. Tại phòng tiệc ly, Phêrô đã thề thốt cùng Chúa:
– Dù phải chết cùng thày, con cũng sẵn sàng…Dù mọi người có bỏ Thày, thì phần con sẽ không bao giờ.
Và rồi, Phêrô, vị giáo hoàng tiên khởi, đã chối Chúa ba lần. Nhưng đồng thời chúng ta cũng phải ghi nhận: sau đó là tâm tình sám hối của Phêrô. Phúc âm đã ghi lại:
– Phêrô đã ăn n ăn khóc lóc về tội lỗi của mình.
Sau ngày phục sinh, Chúa Giêsu đã đòi hỏi ở Phêrô, vị tông đồ đã phản bội, điều gì nếu không phải là một tình mến chân thành:
– Phêrô, con có yêu mến Thày hơn những người này không?
Và Phêrô đã ba lần xác quyết về tình yêu của mình bằng một câu trả lời đầy khiêm tốn:
– Lạy Thày, Thày biết con yêu mến Thày.
Thánh Augustinô đã diễn tả như sau:
– Gioan có thể đã yêu mến Chúa một cách tha thiết hơn, nhưng tình yêu của Phêrô lại là một tình yêu mãnh liệt. Lòng mến của Gioan nghiêng về tình cảm, còn lòng mến của Phêrô thì quảng đại và chân thành. Và như vậy, Gioan không có một tình mến đối với Chúa vừa dứt khoát, lại vừa sâu xa cho bằng tình mến của Phêrô.
Tiếp đến là đối với thánh Phaolô. Ngoài mười hai thánh tông đồ, chúng ta không thể tìm thấy một trái tim nào nhiệt thành cùng Chúa cho bằng trái tim của Phaolô, vị tông đồ dân ngoại.
Thực vậy, chính Phaolô đã kêu lên:
– Ai có thể chia lìa chúng ta ra khỏi tình mến của Đức Kitô. Bách hại ư? Đói khát ư? Đau khổ ư? Gươm giáo ư?
Rồi Phaolô còn viết thêm:
– Vì đức tin, chúng ta bị bắt bớ và bị dẫn tới lò sát sinh như một con chiên. Tuy nhiên, chúng ta chiến thắng tất cả nhờ Đấng đã yêu thương chúng ta.
Nơi khác thánh nhân cũng bảo:
– Dù tôi nói được mọi ngôn ngữ của loài người và các thiên thần, nhưng nếu không có đức ái, thì tôi cũng chỉ là như não bạt ầm vang. Dù tôi có ơn nói tiên tri và thấu hiểu mọi mầu nhiệm của khoa học, nhưng nếu không có đức ái, thì tôi cũng chẳng là gì cả. Dù tôi có được một đức tin chuyển núi dời sông, dù tôi phân phát hết mọi của cải, nhưng nếu không có tình mến, thì tôi cũng chẳng là gì cả.
Cũng chính vì tình mến dành cho Chúa mà thánh nhân hăng say rao giảng Tin mừng và phục vụ các linh hồn, dù có phải chịu đựng đòn vọt, tù ngục và muôn vàn khó khăn và thử thách khác nữa.
Sau cùng, đối với thánh Phaolô, cái chết sẽ là một triều thiên vinh quang xứng đáng dành cho một cuộc đời bừng cháy lửa yêu mến.
Thánh Phêrô đã trung thành với Chúa cho đến khi bị đóng đanh vào thập giá trên đỉnh đồi Vatican dưới thời bạo vương Nêron. Còn thánh Phaolô cũng không thua kém thánh Phêtô về phương diện đức tin cũng như tình mến. Thực vậy, sau nhiều năm bị bị tù đày, thánh nhân vẫn không ngừng rao giảng Đức Kitô và sau cùng đã bị chém đầu trên đường Ostie, gần Rôma.
Thánh Phêrô và thánh Phaolô đều là cha đẻ của chúng ta trong đức tin đồng thời đều là thày dạy của chúng ta trong tình mến.
Bởi đó, hãy bước theo hai đấng và xin hai đấng giúp đỡ chúng ta trên bước đường tiến về quê trời.
45. Hai viên đá tảng diệu kỳ
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)
Sau một thời gian rao giảng Tin Mừng cứu độ, Chúa Giêsu muốn biết xem người ta nhận định thế nào về thân thế và sứ mạng của Người, nên Người mới hỏi các môn đệ: “Người ta bảo con người là ai?” (Mt 16, 13). Câu hỏi này như một hình thức trắc nghiệm về niềm tin. Dân chúng trả lời mỗi người mỗi cách, nhưng tất cả đều không chính xác. Chỉ có lời tuyên tín của Phêrô, “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16, 16) là câu trả lời làm Chúa Giêsu hài lòng nhất. Nếu cho điểm, có lẽ Phêrô đã đạt điểm tuyệt đối, điểm 10. Ngay sau đó Chúa Giêsu đã cúi xuống để nâng Phêrô lên một địa vị đặc biệt. Chúng ta biết lúc ấy Phêrô đang mang cái tên cúng cơm, tên thường gọi là Simon. Đây là cái tên rất phổ biến đối với dân Dothái. Ngay trong Tân ước, cũng có tới 3 nhân vật cùng có tên Simon được nhắc đến, đó là Simon nhiệt thành – một trong nhóm Mười Hai, Simon thành Kyrênê và Simon Phêrô.
Chúa Giêsu đã long trọng đặt tên mới cho ngài là Phêrô, tiếng Dothái là Kêpha, nghĩa là đá. Simon, cái tên đang đẹp như vậy, giờ được đổi thành đá (Nguyễn văn Đá!). Chắc hẳn Phêrô đã rất ngạc nhiên vì cha mẹ mình đặt tên như vậy, sao giờ Thầy mình lại đặt cho cái tên lạ lùng như thế. Tại sao lại là Đá? Là đá có ý nghĩa gì? Là đá, bởi vì chúng ta biết rằng trong Cựu Ước, hình ảnh đá là hình ảnh hết sức kiêu hùng, hết sức cao vượt. Đá ở đây không phải là đá lăn đá lộn ngoài đường; đá ở đây chính là hình ảnh, là biểu tượng của Thiên Chúa. Bởi thế mà người Dothái mỗi lần cầu nguyện, họ thường nói với Chúa rằng: Lạy Chúa, Ngài là Đá Tảng con nương nhờ; Ngài là Thạch Động, là Núi Đá cho con ẩn mình; Ngài là Đá Cứu Độ…. Được Chúa lấy tên đó mà đặt cho mình, hẳn là Simon Phêrô rất hãnh diện. Và cũng chính qua tên đó mà Phêrô được gởi cho một căn tính mới, một lý lịch mới. Vì chưng đối với người Dothái, cái tên luôn gắn liền một sứ mạng. Cái tên mới đồng nghĩa với sứ mạng mới (x. Lm. Nguyễn Thế Toàn, CD Bài Giảng). Sứ mạng mới ở đây là làm nền tảng cho Giáo hội Chúa Kitô: “Con là Đá, trên đá này, Thầy sẽ xây Hội thánh của Thầy” (Mt 16, 18). Nói theo ngôn ngữ ngày hôm nay thì ngài là Đức Giáo Hoàng cơ đấy!
Thế còn thánh Phaolô thì sao? Một số bạn trẻ lý luận vui rằng tại sao Chúa Giêsu không đặt cho ngài cái tên là Phao-rin, phao xịn, mà lại đặt tên là Phao-lô, vì Phao-lô nghĩa là phao dỏm. Mà phao dỏm thì ai mà xài! Thực sự thì Chúa Giêsu không đặt tên cho Phaolô. Phaolô là cái tên Hylạp của ngài; còn Saolê là tên gọi theo tiếng Dothái. Tuy nhiên, một điều cần ghi nhận là ngài được chính Chúa Giêsu trực tiếp chọn gọi trên đường đi Đamas, và đích thân Chúa Giêsu trao sứ mạng cho ngài, một sứ mạng cao cả là làm tông đồ cho dân ngoại. Như vậy thánh Phaolô đã cùng với thánh Phêrô giữ vai trò là hai trụ cột, hai viên đá sống động làm nền cho Giáo hội Chúa Kitô.
Thế nhưng một điều ngỡ ngàng là khi đọc lại các sách Tin mừng và sách Công vụ Tông đồ, chúng ta thấy cả hai Tảng Đá này đều bị nứt (một bị nứt trước khi xây và một bị nứt sau khi xây). Trước khi đặt xây thì tảng đá Phaolô đã bị nứt (x. Giọt Nước Mắt Hồng, Lm. Đỗ Văn Thiêm, NXB Tôn Giáo 2005). Những lần bắt bớ Giáo hội, và giết hại các Kitô hữu là những vết nứt. Là một người nhiệt thành với Giavê Thiên Chúa và trung thành với luật Môisê, Phaolô đã không ngần ngại tiêu diệt những ai xưng mình là môn đệ Đức Kitô. Đối với Chúa Giêsu, Phaolô là một viên đá tảng kiên vững của đạo Dothái, song là tảng đá đầy góc cạnh, ngang ngược, kiêu căng, tự mãn và cũng quá nhiều đường nứt. Tuy thế, Chúa Giêsu sẽ sử dụng viên đá này trong công trình mở mang ngôi nhà Giáo hội của Người. Chúa Giêsu sẽ sửa lại, gọt đẽo lại bằng lòng thương xót của Người, cùng với cả những thập giá khổ đau mà thánh nhân phải chịu, như bị mù lòa, bị bắt bớ, bị tù đày, bị đánh đòn, bị ném đá, bị trộm cướp, bị đắm tàu, bị đói khát…(x. 2Cr 11, 23-27). Chính tình yêu của Đức Kitô và những đau khổ mà thánh nhân chịu đã biến luyện ngài trở thành một viên đá trơn tru lành lặn, và nhất là luôn gắn kết với Đá Tảng Góc Tường là Đức Kitô, như lời ngài xác nhận: “Không có gì tách tôi ra khỏi lòng yêu mến của Đức Kitô” (Rm 8, 35.39).
Thưa quý Ông bà anh chị em.
Nếu tảng đá Phaolô bị nứt trước khi xây thì tảng đá Phêrô, đá chính hiệu, không bị nứt bể ngay từ đầu, mà lúc đặt xây rồi mới bị nứt. Không phải nứt một đường mà là ba đường. Mỗi lần chối Chúa là một đường nứt; đường nứt sau lớn hơn đường nứt trước, và có nguy cơ tách lìa khỏi Đức Kitô là Viên Đá Góc.
Nhiều người vẫn thắc mắc: liệu Chúa Giêsu có biết trước những điều này không, mà sao Ngài vẫn chọn tảng đá này. Ngài vẫn chọn vì chính ngài sẽ giúp Phêrô hàn gắn lại tảng đá đời mình. Hàn gắn bằng gì? Thưa đối với Phêrô là bằng ánh mắt bao dung khoan thứ của Chúa Giêsu. Chính ánh mắt dung thứ ấy đã làm cho vết nứt nơi tâm hồn ông liền lại. Hơn nữa ngài còn sửa chữa bằng nước mắt. Kỳ lạ ở chổ, đá mà biết khóc, tảng đá mà biết rơi lệ. Tương truyền rằng thánh nhân đã khóc lóc ăn năn (khóc như mưa mấy ngày qua vậy), khóc đến độ nước mắt chảy làm mòn cả hai gò má. Nước mắt ấy được các nhà tu đức gọi là nước mắt hồng. Gọi là nước mắt hồng vì là nước mắt chảy ra từ trái tim sám hối. Như thế, tảng đá Phêrô chẳng những đã trở nên lành lặn mà còn cứng rắn hơn, vững chắc hơn. Chính Chúa Giêsu đã xác nhận điều này: “Dầu sức mạnh hỏa ngục có nổi lên cũng không làm gì được” (Mt 16, 18). Nhưng đồng thời tảng đá ấy cũng “khiêm tốn” hơn, vuông đẹp hơn trước rất nhiều.
Giờ đây, Chúa Giêsu có thể hoàn toàn yên tâm trước sứ mạng mà Người đã giao phó cho hai vị. Nhờ đá tảng Phêrô mà tòa nhà Giáo hội được nên kiên vững; nhờ đá tảng Phaolô mà Hội thánh Chúa Kitô được mở rộng cho muôn dân nước.
Kính thưa quý Ông bà anh chị em
Qua Bí tích Rửa tội, mỗi người chúng ta cũng được mang một danh xưng mới, danh xưng Kitô hữu. Danh xưng này nói lên một sứ mạng đặc biệt, sứ mạng xây dựng Hội thánh Chúa ở trần gian. Nếu chúng ta không là đá tảng như Phêrô hay Phaolô, thì chúng ta cũng được mời gọi làm một viên gạch góp phần xây nên tòa nhà Giáo hội. Thế thì chúng ta phải khiêm tốn đặt câu hỏi cho mình: Viên gạch đời tôi đang trong tình trạng nào? Có thể là nó quá méo mó, cong queo và nhiều góc cạnh khi con người của mình còn đầy những tính hư nết xấu, đầy những đam mê tội lỗi chăng? Có thể là bị nứt bể và mất hiệp thông với Viên Đá Góc là Đức Kitô, khi đời sống của chúng ta thiếu cầu nguyện, thiếu lòng yêu mến Chúa chăng? Và cũng có thể là không còn gắn kết với các viên gạch khác là anh chị em mình, khi sống thiếu tình liên đới và lòng bác ái yêu thương chăng?… Nếu viên gạch đời tôi còn cong queo méo mó, xin Chúa giúp uốn nắn lại cho ngay thẳng; nếu còn quá nhiều góc cạnh, xin Chúa gọt đẽo cho vuông vức; nếu bị nứt bể, xin Chúa hàn gắn; và nếu tách lìa với Đức Kitô và Giáo hội, thì xin Thánh Thần Nguồn Tình Yêu nối kết lại, để cuộc đời chúng ta luôn là những viên gạch thật đẹp trong bàn tay Người Thợ Xây là chính Chúa.
Vậy hôm nay, trong ngày lễ mừng hai thánh Quan Thầy Phêrô và Phaolô, chúng ta cùng nguyện xin Chúa, qua lời cầu bầu của các ngài, giúp mỗi người chúng ta luôn biết ý thức về sứ mạng của mình và nổ lực chu toàn sứ mạng ấy trong việc cộng tác xây dựng ngôi nhà chung của Giáo Hội ngày một tươi đẹp và lớn mạnh hơn. Amen.
46. Lễ Thánh Phêrô và Phaolô
(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)
Hôm nay, chúng ta long trọng mừng lễ hai thánh Tông đồ Phê-rô và Phao-lô. Xin được nêu lên mấy điểm sau đây để chúng ta cùng nhau suy niệm:
- Phê-rô được chọn làm Tông đồ trưởng
Phê-rô tên thật là Si-mon, là một ngư phủ miền Galilêa, là một trong những môn đệ đầu tiên được Đức Giêsu mời gọi bước theo Ngài. Trong thời gian đi theo Đức Giêsu, Phê-rô luôn tỏ ra là người nhiệt thành, lanh lợi, phản ứng đầu tiên và trả lời nhanh nhất. Vì bản tính bộc trực, cộng với sự yếu đuối của con người nên Ông đã không tránh khỏi những lầm lỗi: như khi can ngăn Thầy mình bước vào cuộc khổ nạn, khi chối Thầy một cách hèn nhát. Nhưng đồng thời Phê-rô cũng luôn tỏ ra là người trung thành và yêu mến Thầy mình, sẵn sàng lắng nghe và chấp nhận sửa lỗi. Chính Đức Giêsu đã thấy được sự chân thành của ông. Vì thế, khi quyết định thiết lập Giáo Hội, Ngài đã trao chức vụ làm tông đồ trưởng cho Phê-rô. Trước khi trao nhiệm vụ đó, Đức Giêsu đòi Phê-rô phải xác tín về tình yêu đối với Ngài. Ngài hỏi Phê-rô ba lần rằng: “Con có yêu mến Thầy không”. Phê-rô đã không ngần ngại trả lời ba lần rằng “có, Thầy biết con yêu mến Thầy.” Ba lần hỏi, ba lần thưa là thể hiện sự chắc chắn về một vấn đề. Ngay sau khi nghe lời xác tín về lòng mến của Phê-rô, Đức Giêsu trao cho Ông nhiệm vụ chăn dắt đoàn chiên của Ngài (x. Ga 21,15-19). Cũng trong tinh thần đó, sau khi Phê-rô tuyên tín: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”, Đức Giêsu đã trao cho ông chìa khóa nước trời với quyền cầm buộc và tháo cởi. Đồng thời, Ngài cũng khẳng định với Phê-rô rằng: “Con là Đá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được” (x. Mt 16,13-19).
Từ khi nhận nhiệm vụ “chăn dắt đoàn chiên”, từ khi lãnh nhận “chìa khóa nước trời”, Phê-rô đã làm hết khả năng để chu toàn bổn phận mà Thầy trao phó. Cụ thể, sau ngày lễ Ngũ Tuần, Phê-rô đã công khai rao giảng Tin mừng, làm chứng về sự chết và sự phục sinh của Đức Giêsu. Bài giảng đầu tiên của Ngài đã thu hút trên 3000 người trở lại. Khi bị cấm không được rao giảng về Danh Đức Giêsu, Ngài đã thẳng thắn nói rằng: “Thà vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người đời”(Cv 5,29). Chính vì trung thành với việc rao giảng và làm chứng cho Đức Giêsu mà Phê-rô đã nhiều lần bị bắt, bị bỏ tù và cuối cùng bị giết chết. Bài đọc I hôm nay cho chúng ta biết: “Phêrô cũng bị bắt và bị tống ngục” (x. Cv 12,1-11). Nhưng Phê-rô đã được cứu thoát một cách lạ kỳ. Sau khi giam Phê-rô trong ngục, họ cho người canh gác Ngài một cách cẩn thận. Nhưng rồi, nhờ lời cầu nguyện của cộng đoàn dân Chúa, Phê-rô đã được cứu thoát một cách ngoạn mục. Chính Thiên thần đã mở hết xiềng xích và dẫn Phê-rô ra ngoài. Phê-rô khẳng định việc đó là do Chúa làm. Ngài nói: “Bây giờ tôi biết thật Chúa đã sai thiên thần cứu tôi khỏi tay Hêrôđê và khỏi mọi âm mưu của dân Do-thái”. Được thả ra, Phê-rô lại tiếp tục sứ vụ của mình. Tiếp tục sứ vụ tức là tiếp tục chấp nhận bắt bớ, tù tội.Phê-rô cùng các Tông đồ khác đi khắp nơi loan báo Tin mừng và làm chứng cho Chúa. Cuối cùng, đến thời hoàng đế Nê-rô, năm 64, Phê-rô bị giết chết bằng hình khổ thập giá. Ngài xin được đóng đinh ngược lại vì Ngài cho rằng mình không xứng đáng giống như Thầy Giêsu.
- Phao-lô được chọn làm Tông đồ dân ngoại
Trước khi trở lại, Phao-lô là một người theo đạo Do Thái, mang tên là Sao-lô, rất trung thành với truyền thống của cha ông. Vì vậy, Phao-lô rất ghét những người kitô hữu. Ông đã tham gia các cuộc truy quét, bắt bớ, giết hại các kitô hữu. Ông đã tán thành việc ném đá ông Têphanô. Một hôm, trên đường đi bắt bớ các kitô hữu tại Đa-mát, Phaolô đã bị Đức Giêsu chinh phục. Chính Phaolô đã tường thuật lại biến cố đó trong sách Công Vụ Tông đồ: Ngài bị một luồng ánh sáng chan hòa từ trời bao phủ. Rồi Ngài bị ngã ngựa. Trong lúc đó, Đức Giêsu cho Phao-lô biết, bắt bớ các kitô hữu là bắt bớ Giêsu Nazaret. Rồi Phao-lô được chỉ dẫn đi vào Đa-mát gặp ông Anania để lãnh nhận Phép Rửa(x. Cv 22, 3-16). Từ đó, Phao-lô trở thành vị tông đồ cho dân ngoại. Nhưng khi mới trở thành kitô hữu, Ngài đã gặp rất nhiều khó khăn: người Do thái thì phận nộ, các kitô hữu và tông đồ cũng chưa thực sự tin nơi Phao-lô (x. Cv 9,26; Gal 1, 22-23). Dầu vậy, Phao-lô vẫn kiên trì vượt qua khó khăn, dùng đời sống của mình để thuyết phục các kitô hữu và các Tông đồ. Đồng thời, Ngài quyết tâm dùng hết tài năng và sức lực của mình để rao giảng Tin mừng cho dân ngoại. Trong thời gian 30 năm, Ngài đã thực hiện ba cuộc hành trình truyền giáo lớn (Hành trình thứ nhất khoảng từ năm 45 – 49; hành trình thứ hai khoảng từ năm 50 – 52; hành trình thứ ba khoảng từ năm 53 – 58; năm 60, Ngài bị giải về Rôma và chịu tử đạo), đã thành lập nhiều cộng đoàn kitô hữu như: Antiokia, Cilicia, Athens, Corintô, Galata, Thessalonica, Roma… Ngài kể lại hành trình truyền giáo đầy gian nan trong thư 2Cr như sau: “Bao lần suýt chết. Năm lần tôi bị người Do-thái đánh bốn mươi roi bớt một; ba lần bị đánh đòn; một lần bị ném đá; ba lần bị đắm tàu; một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi! Tôi còn hơn họ, vì phải thực hiện nhiều cuộc hành trình, gặp bao nguy hiểm trên sông, nguy hiểm do trộm cướp, nguy hiểm do đồng bào, nguy hiểm vì dân ngoại, nguy hiểm ở thành phố, trong sa mạc, ngoài biển khơi, nguy hiểm do những kẻ giả danh là anh em. Tôi còn phải vất vả mệt nhọc, thường phải thức đêm, bị đói khát, nhịn ăn nhịn uống và chịu rét mướt trần truồng. Không kể các điều khác, còn có nỗi ray rứt hằng ngày của tôi là mối bận tâm lo cho tất cả các Hội Thánh!”(x. 2Cr 11, 23-28).
Những khó khăn mà Ngài đã vượt qua, những thành quả mà Ngài đạt được chính là nhờ niềm tin và sự gắn bó mật thiết với Đức Kitô. Ngài nói: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi”(x. Gal 2,20). Tình yêu của Ngài đối với Đức Kitô bền chặt đến nỗi như Ngài thốt lên: “không có gì có thể tách ra được” (x. Rm 8, 35-39).
Trong bài đọc II hôm nay, Thánh Phao-lô còn cho Ông Timôthê biết: Thiên Chúa đã giúp Ngài để Ngài giảng đạo cho dân ngoại. Nhờ Chúa mà Ngài thoát được miệng sư tử. Ngài đã chiến đấu trong trận chiến chính nghĩa. Ngài đã chạy đến cùng và giữ vững đức tin. Giờ đây, Ngài đang chờ đợi triều thiên của Thiên Chúa ban cho Ngài (x. 2Tm 4, 6-8. 17-18). Vào năm 67, Thánh Phao-lô đã lãnh nhận triều thiên tử đạo, Ngài bị chặt đầu bởi hoàng đế Nerô ở Rôma.
- Sứ điệp ngày lễ hôm nay
Qua cuộc đời và sự nghiệp của hai thánh Tông đồ Phê-rô và Phao-lô mời gọi chúng ta:
Thứ nhất, chúng ta cảm tạ Chúa đã lập nên Giáo Hội và không ngừng gìn giữ Giáo Hội vượt qua mọi sóng gió của dòng đời. Suốt hơn 2000 năm qua, Giáo Hội luôn bị bách hại bằng nhiều cách khác nhau. Nhưng Giáo Hội vẫn tồn tại và phát triển đúng như lời Đức Giêsu nói với Phê-rô: “Con là Đá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được.”
Thứ hai, chúng ta hãy biết ơn Giáo Hội. Vì Giáo Hội là mẹ sinh ra chúng ta qua Bí tích Rửa tội, thánh hóa chúng ta qua Bí tích Giao Hòa, nuôi dưỡng chúng ta qua Bí tích Thánh Thể, liên kết chúng ta qua Bí tích Hôn phối và Truyền chức, dẫn dắt chúng ta về Thiên đàng qua Bí tích Xức Dầu…Vì thế, chúng ta phải luôn luôn biết ơn Giáo Hội.
Thứ ba, chúng ta tin tưởng và cộng tác với ơn Chúa để được biến đổi mỗi ngày. Vì nhờ ơn Chúa mà Phê-rô từ một người dân chài dốt nát, một người chối Thầy…Phê-rô đã được biến đối thành vị Tông đồ trưởng. Nhờ ơn Chúa mà Phao-lô từ một người bắt bớ Giáo Hội đã được biến đổi thành vị Tông đồ dân ngoại. Cho nên, mỗi khi chúng ta yếu đuối, sai lỗi, chúng ta hãy tin tưởng chạy đến với Chúa và để Chúa biến đổi chúng ta thành người tốt để làm sáng danh Chúa và mưu ích cho phần rỗi chúng ta.
Thứ tư, chúng ta hãy noi gương hai Thánh Tông đồ biết dùng khả năng, trí tuệ, sức khỏe và thời giờ của mình để làm vinh danh Chúa và phục vụ Giáo Hội. Đặc biệt, mỗi người hãy trở nên sứ giả loan báo Tin mừng cho những người xung quanh.
Lạy Chúa, Chúa đã chọn các tông đồ và các đấng kế vị theo ý Chúa để tiếp tục sứ mạng loan báo Tin mừng. Nhờ lời chuyển cầu của hai thánh Tông đồ Phê-rô và Phao-lô, xin cho mỗi chúng con luôn biết vâng phục giáo huấn của các ngài, đồng thời biết cộng tác với các ngài để làm cho Nước Chúa lan rộng khắp nơi. Amen.
47. Khuôn mặt lãnh đạo
(Suy niệm của Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long)
Xưa nay có những người đã qua đời hằng bao nhiêu năm, hằng bao thế kỷ, mà những công việc xưa kia họ đã thực hiện vẫn còn thời sự, có gía trị gây ảnh hưởng nơi con người. Họ là những vị anh hùng, những khuôn mặt lãnh đạo.
Hai Thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô thuộc vào những người như thế trong Hội Thánh Công Giáo.
Thánh Phêrô theo Kinh Thánh thuật kể lại là khuôn mặt lãnh đạo do thiên nhiên phú bẩm. Chúa Giêsu khi đi rao giảng nước Thiên Chúa đã tuyển chọn và cắt cử Ông làm người thủ lãnh nhóm 12 Tông đồ đầu tiên của Chúa ngay khi còn sinh thời. Ông đã đại diện anh em tông đồ Chúa Giêsu tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa.
Và Kinh Thánh cũng tường thuật những yếu điểm của Phêrô.
Chúa Giêsu báo trước chính ngài sẽ phải chịu đau khổ. Theo tính con người, Phêrô can ngăn Thầy mình tìm cách tránh xa con đường đó cho khỏi phải đau khổ. Nhưng Chúa Giêsu lớn tiếng mắng Ông nặng lời cho đó là mưu chước của qủy dữ satan.
Nơi sân đường xử án nhà Thầy cả thượng phẩm, Phêrô đã chối thầy mình, Chúa Giêsu: tôi không biết người đó là ai, tới ba lần. Nhưng Chúa Giêsu không vì thế bỏ rơi Phêrô, và Phêrô cũng không bỏ Thầy mình.
Trái lại, sau khi sống lại, bên bờ hồ Genezareth Chúa Giêsu đã trao năng quyền thiêng liêng cho Phêrô: Con hãy chăn dắt đoàn chiên của Thầy. Hãy củng cố đức tin anh em con!, vì lòng gắn bó của Ông với Chúa Giêsu: Thầy biết con yêu mến Thầy.
Đức tin tràn đầy lòng yêu mến hàm chứa sức mạnh cao vời tựa như sóng thần giúp Phêrô ra đi làm chứng rao giảng về Thầy mình là Chúa Giêsu bất chấp những nguy hiểm tù tội, vượt biển sóng gió, lẩn trốn. Phêrô đã củng cố đức tin của anh em mình, của các tín hữu Hội Thánh Chúa thuở ban đầu bằng cách sống đi trước, sống chấp nhận gian khổ tù tội..
Khi bị lên án hành quyết đóng đinh vào thập tự ở Roma, nơi Thánh nhân tụ tập lập cộng đoàn Hội Thánh Chúa, theo truyền thuyết thuật lại, Phêrô đã xin cho được đóng đinh ngược đầu xuống đất, để không bị lẫn lộn với Chúa Giêsu cũng đã bị đóng đinh vào thập gía.
Chắc chắn, khi bị tử hình, Phêrô đã không biết được rồi sẽ ra sao với con đường đời sống Hội Thánh Chúa ở trần gian. Vì Hội Thánh chỉ mới trong giai đoạn tiên khởi chưa có chân đứng vững chắc trong xã hội.
Nhưng Phêrô có niềm tin tưởng: Người quyết định không phải là mình, nhưng chính là Chúa Giêsu!
Thánh tông đồ Phaolô cũng có đời sống đức tin của một khuôn mặt lãnh đạo như Phêrô. Kinh Thánh thuật lại Phaolô đến với Cộng đoàn Hội Thánh Chúa Giêsu trễ muộn sau này, khi Chúa Giêsu đã về trời, qua con đường vòng nguy hiểm.
Phaolô là người có học thức cao sâu rộng trong xã hội thời đó. Ông là người thuộc hệ phái Phariseo trong đạo Do Thái. Ông thuộc vào những người cực đoan, cương quyết ra tay truy lùng bách hại những ai tin vào Chúa Giêsu, tìm cách phá hoại Hội Thánh Chúa ở vùng Gierusalem sang các vùng nước lân cận.
Trên đường đi phá hoại Hội Thánh Chúa, Chúa Giêsu đã hiện ra với Ông. Ánh sáng chói lòa từ trời cao chiếu xuống khiến ông bị ngã ngựa, trở thành mù lòa. Qua đó Chúa Giêsu đã gặp gỡ Phaolô.
Phaolô đã nghe tiếng Chúa Giêsu nói với Ông. Từ đó ông được mặc khải về đức tin vào Chúa mà Phêrô và các Tông Đồ khác rao giảng. Và từ đó Ông trở lại thành hăng say nồng nhiệt bênh vực cho Chúa Giêsu
Phêrô và các Tông đồ khác rất do dự nghi ngại khi thấy Phaolô đến trình diện gia nhập đoàn tông đồ Chúa Giêsu, để rao giảng làm chứng về Chúa Giêsu. Phaolô hiểu nhận ra điều này. Ông cảm nhận thấy mình được Chúa kêu gọi ra đi ngoài biên giới nước Do Thái để rao giảng làm chứng cho Chúa Giêsu.
Vì thế, Phaolô bất chấp những gian nan thử thách đầy nguy hiểm cho mạng sống, vì vượt biển đường dài xa nguy hiểm, bị đói khát, bị bắt bớ tù tội lên án, vẫn một lòng dấn thẩn cho Chúa Giêsu và Hội Thánh của người.
Nhờ có kiến thức học cao sâu rộng và tài hùng biện, Phaolô không sợ khi phải tranh luận biện hộ cho đức tin vào Chúa nơi công đường, nơi dân chúng khắp vùng Tiều Á từ nước Do Thái sang tận vùng Balkan bên Âu Châu. Khi đến Roma, Phaolô đã can đảm mạnh dạn trình bày giáo lý của Chúa Giêsu nơi tòa án tối cao của nhà vua.
Thánh Phaolô vì đức tin vào Chúa, bị lên án hành quyết chém đầu. Trong tin tưởng phó thác vào Chúa Ông đã sẵn sàng đặt đầu mình nghiêng ngả trên trụ chịu chém với tâm tình: Sự gì Chúa đã bắt đầu, ngài sẽ tiếp tục thực hiện. Tôi cũng không biết được sẽ như thế nào. Chúa luôn luôn là người quyết định thi hành!
Thánh Phêrô và Thánh Phaolô, nhất là Thánh Phaolô đã viết để lai cho Hội Thánh Chúa, cho nhân loại từ hai ngàn năm nay kho tàng qúy báu những bức thư mục vụ giáo lý về Đức tin vào Chúa.
Hai Thánh nhân là hai hình ảnh nổi bật nhất, cùng để lại những dấu ấn khắc ghi trong lịch sử xây dựng Hội Thánh Chúa ở trần gian.
Thánh Phêrô được Chúa Giêsu trao cho năng quyền đứng đầu Hội Thánh qua hình ảnh chiếc chìa khóa tháo cởi và khóa lại.
Thánh Phaolô được Chúa hiện ra sai đi là Tông đồ cho mọi dân nước trên thế giới qua đời sống và giáo lý Ông viết để lại.
Thánh Phêrô và Thánh Phaolô Tông đồ Chúa Giêsu là những khuôn mặt lãnh đạo đạo tinh thần trong Hội Thánh đầy lòng tin tưởng phó thác vào Chúa với tầm nhìn suy nghĩ chiến lược sâu rộng cho hôm nay và ngày mai.
48. Trung thành tuân giữ
(Suy niệm của Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB.)
Qua Lời Tổng Nguyện của Lễ Phêrô và Phaolô hôm nay, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa đã ban cho chúng ta được vui mừng hoan hỷ, nhân ngày đại lễ kính hai thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô. Chính nhờ các ngài, mà Hội Thánh đã bắt đầu đón nhận đức tin, thì xin cho Hội Thánh cũng luôn trung thành tuân giữ lời các ngài giảng dạy. Thánh Phêrô và thánh Phaolô không giống nhau về tính khí, cũng không giống nhau về phạm vi hoạt động. Hoàn cảnh các vị gặp Chúa đã tạo nên nét đặc biệt cho sứ vụ tông đồ của mỗi vị. Rồi tài ba của thánh Phaolô quả là có một không hai trong Kitô giáo. Tuy nhiên, hai vị liên kết với nhau nhờ lòng tin sâu xa và lòng yêu mến nhiệt thành đối với Đức Kitô. Các vị đã đổ máu mình để làm chứng cho Chúa Kitô, tại Rôma: có lẽ thánh Phêrô năm 64 và thánh Phaolô năm 67.
Luôn trung thành tuân giữ lời các ngài giảng dạy, bởi vì, các ngài được Chúa tuyển chọn cách đặc biệt, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, thánh Phaolô nói: Thiên Chúa đã dành riêng tôi ngay từ khi tôi còn trong lòng mẹ, và đã gọi tôi nhờ ân sủng của Người. Người đã đoái thương mặc khải Con của Người cho tôi, để tôi loan báo Tin Mừng về Con của Người cho các dân ngoại. Luôn trung thành tuân giữ lời các ngài giảng dạy, bởi vì, các ngài đã dùng chính cái chết của mình để làm chứng cho những gì các ngài giảng dạy, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Autinh nói: Một khi các ngài đã đi theo đường công chính, vì tuyên xưng và chết cho chân lý, thì giờ đây, các vị tử đạo này được thấy: thể hiện điều các ngài đã rao giảng. Một ngày kính chung cuộc tử đạo của hai vị Tông Đồ: Thánh Phêrô đi trước, rồi thánh Phaolô theo sau, hôm nay là một ngày thánh, vì đã được ghi bằng máu của các Tông Đồ.
Luôn trung thành tuân giữ lời các ngài giảng dạy, cho dẫu, bị bắt bớ, bị bách hại, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, sách Công Vụ Tông Đồ cho thấy: Các Tông Đồ bị tống ngục, nhưng, Chúa đã giải thoát họ, như lời thánh Phêrô nói: Bây giờ tôi biết thực sự là Chúa đã sai thiên sứ của Người đến, và Người đã cứu tôi thoát khỏi tay vua Hêrôđê, và khỏi mọi điều dân Dothái mong muốn tôi phải chịu. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 33, vịnh gia cũng cho thấy: Chúa đã giải thoát tôi khỏi mọi nỗi kinh hoàng. Ai nhìn lên Chúa sẽ vui tươi hớn hở, không bao giờ bẽ mặt hổ ngươi. Kẻ nghèo này kêu lên và Chúa đã nhận lời, cứu cho khỏi mọi cơn nguy khốn. Luôn trung thành tuân giữ lời các ngài giảng dạy, ắt sẽ được Chúa ban thưởng xứng đáng, như trong bài đọc hai của Thánh Lễ, thánh Phaolô nói: Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính; Chúa là vị Thẩm Phán chí công sẽ trao phần thưởng đó cho tôi trong Ngày ấy, và không phải chỉ cho tôi, nhưng còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người xuất hiện.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói với thánh Phêrô: Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời: dưới đất, anh ràng buộc điều gì, trên trời cũng sẽ ràng buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy. Chính vì là đại diện duy nhất của toàn thể Hội Thánh, nên thánh Phêrô xứng đáng được nghe Chúa nói: Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời. Không phải một cá nhân, nhưng cả Hội Thánh duy nhất đã lãnh nhận chìa khóa này. Do đó, địa vị nổi bật của thánh Phêrô được đề cao, vì chính ngài tiêu biểu cho đặc tính phổ quát, và duy nhất của Hội Thánh. Ước gì khi mừng lễ hai thánh Tông Đồ, chúng ta biết quý chuộng đức tin, đời sống, công lao khó nhọc và những khổ hình của các ngài, biết quý chuộng những lời các ngài tuyên xưng, và những điều các ngài rao giảng, hầu chúng ta có thể trung thành tuân giữ lời các ngài giảng dạy. Ước gì được như thế!
49. Cảm nhận một tình yêu
Hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô là hai cột trụ của Giáo hội, hai khuôn mặt sáng giá nhất và là những chứng nhân đầu tiên của Đức Kitô Phục Sinh. Cả hai vị đều đã được vực dậy tư một quá khứ đầy yếu đuối, lầm lỗi và sau khi được biến đổi, các ngài đã sống hoàn toàn cho Chúa và tha nhân. Hai vị đã hoạt động rất đắc lực cho chương trình tình yêu của Thiên Chúa. Các Ngài đã trở nên biểu tượng hiệp nhất trong giáo hội dù rằng hai vị có rất nhiều điểm khác nhau: tính khí, môi trường giáo dục, trình độ học vấn, đường hướng hoạt động … nhưng các Ngài đã gặp nhau trong việc cảm nhận tình yêu của Đức Ki tô. Tình yêu Đức Ki tô chính là cửa ngõ để tâm hồn các Ngài gặp được Đức Ki tô và là động lực cho mọi suy tư và hành động của các Ngài.
Thực vậy, Kinh Thánh cho chúng ta thấy tông đồ trưởng Phêrô đã từng đi đến tận cùng của sa ngã là hành vi chối Chúa đến ba lần trong cùng một đêm. Sau khi chối Thầy lần thứ ba, từ trên pháp đình, Chúa nhìn xuống Phêrô, Phê-rô chột dạ, nhớ lại lời Thầy: “Nội trong đêm nay, trước khi gà gáy con đã chối Thầy ba lần”. Tức thì, Phêrô lầm lũi ra khỏi pháp đình, nước mắt tuôn trào, tâm hồn trĩu nặng. Lòng khiêm nhường thẳm sâu và sám hối chân thành đã cho ông kinh nghiệm tuyệt vời về sự yếu hèn của ông và tình yêu vô biên Thiên Chúa đã dành cho ông. Còn Phaolô, một Pharisêu nhiệt thành đã từng hăng say lùng bắt các môn đệ của Chúa; đã đồng loã với những người quá khích ném đá vị tử đạo đầu tiên là Stêphanô. Thế nhưng, sau khi ngã ngựa đớn đau trên đường Đa mát, ông như kẻ bị mù trong ba ngày. Nhưng thật ra, tâm hồn ông lại sáng. Chúa Giêsu Phục Sinh đã đi sâu vào nội tâm ông làm cho ông thấy và thấy rất rõ: Đức Giêsu, Người đã Sống lại thật, lên trời ngự bên hữu Chúa Cha. Đó là sự thật mà ông phải chấp nhận. Một sự thật mà từ nay ông phải làm chứng bằng chính mạng sống của mình. Biến cố Đa mát đích thực là một dấu ấn ân thánh làm cho Phao lô được tái sinh trong đức tin, trong tình yêu của Đức Ki tô Phục Sinh.
Tình yêu của Chúa đã thắng vượt những yếu đuối của Phê rô và Phao lô. Chúa đã dung muôn ngàn cách để biến đổi cuộc đời các Ngài. Chúa đã cho các Ngài những cơ hội để làm lại cuộc đời: “Một khi đã trở lại, hãy củng cố đức tin cho anh em con”. Tình yêu ấy đã trở thành động lực của mọi hoạt động, thành tiêu chí để lượng giá mọi sự và là mục đích của cuộc đời các Ngài: “Đối với tôi, sống là Đức Kitô…”, “Không có gì tách tôi khỏi lòng mến của Thiên Chúa trong Đức Kitô”. Chính tình yêu ấy đã biến các Ngài thành đầy tớ và la tông đồ của Đức Ki tô: “Vâng lời Thầy con xin thả lưới”, “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”.
Mừng kính hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô hôm nay cho chúng ta một niềm xác tín: Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trong sự yếu hèn thiếu sót của chúng ta. Tình yêu đó không đòi chúng ta chối bỏ con người tự nhiên của chúng ta, trái lại Chúa muốn sử dụng tất cả những yếu đuối của chúng ta để làm nổi bật lên sức mạnh và sự khôn ngoan của Ngài. Điều quan trọng là như hai cột trụ của giáo hội, chúng ta cần ý thức thân phận yếu đuối bất toàn của mình để thành tâm sám hối, tin tưởng cậy dựa vào sức mạnh của ân sủng hầu được biến đổi mỗi ngày. Đặc biệt xin cho chúng ta cũng có được kinh nghiệm về sự yếu đuối của mình và về tình yêu thương tha thứ vô biên của Thiên Chúa để chúng ta cũng có thể quảng đại, nhẫn nại với những yếu đuối lầm lỗi của nhau, cảm thông tha thứ và đón nhận nhau, cho nhau những cơ hội để làm lại cuộc đời và cùng nhau làm chứng về tình yêu thương nhân hậu của Thiên Chúa cho thế giới hôm nay.
50. Lễ Thánh Phêrô và Phaolô
(Suy niệm của Lm. J.P.)
SUY NIỆM
Ngày hôm nay chúng ta cùng với Giáo Hội hân hoan mừng kính trọng thể lễ hai thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô. Mừng lễ hôm nay, chúng ta cùng tìm hiểu cuộc đời của các Ngài để thêm lòng yêu mến các Ngài và để có thể bắt chước mẫu gương loan báo Tin Mừng của các Ngài.
Trước hết, chúng ta cùng tìm hiểu về thánh Phêrô. Thánh Phêrô là người xuất thân từ nghề đánh cá, ít học, tính khí nóng nảy thẳng thắn và nhiệt thành. Một đặc điểm nổi bật của Thánh Phêrô là luôn sống chân thật. Chỉ có Thánh Phêrô dám nói thẳng ra những gì ngài suy nghĩ trong lòng. Chính vì thế trong Tin Mừng chúng ta thấy có những lời phát biểu đơn sơ của ngài. Chỉ có Thánh nhân mới dám nói lên ý định cản ngăn không cho Chúa Giêsu lên Giêrusalem chịu chết. Và lời nói tệ nhất trong cuộc đời thánh nhân là lời phủ nhận mình là môn đệ của Chúa Giêsu. Tại dinh thượng tế Caipha, khi Chúa Giêsu bị xét xử, một đầy tớ gái của Caipha nói Phêrô thuộc nhóm Chúa Giêsu thì Phêrô đã chối công khai tới ba lần. Có thể nói Thánh Phêrô là người có nhiều nhất những sai phạm về lời nói so với các tông đồ khác, thậm chí những lỗi lầm đó rất nặng đến độ đáng phải bị trừng phạt. Thế nhưng Chúa Giêsu vẫn yêu thương ngài. Chúa Giêsu vẫn tin tưởng và yêu mến Phêrô và đặt thánh Phêrô làm đầu Hội Thánh vì Chúa Giêsu tin tưởng vào khả năng lãnh đạo, lòng trung thành và yêu mến của thánh Phêrô.
Ðiều đó cho thấy Thiên Chúa trước sau như một, Thiên Chúa không bao giờ thất vọng vì con người, ngay cả với những người tội lỗi, Thiên Chúa hằng ngày đợi chờ những người tội lỗi, ăn năn sám hối trở về với ngài. Ðối với Thiên Chúa, dù có lỗi nặng hay lỗi nhẹ, nhiều hay ít không quan trọng, điều quan trọng là phải có một tấm lòng ăn năn sám hối chân thành và biết sửa đổi đời sống thì chắc chắn Thiên Chúa tha thứ, xóa bỏ mọi lầm lỗi.
Khi Chúa Giêsu trao cho thánh Phêrô vị trí đứng đầu Giáo Hội, Chúa Giêsu đã hết lòng tin tưởng ở ngài. Còn về phía thánh nhân, sau khi khóc lóc sám hối thảm thiết vì mình đã chối Chúa Giêsu ba lần, thánh nhân đã thay đổi hoàn toàn đời sống. Phêrô cảm nhận được tình thương tha thứ của Chúa Giêsu, thánh nhân luôn hết lòng tin tưởng và yêu mến Thiên Chúa. Và với lòng yêu mến Chúa Giêsu, thánh nhân đã can đảm lên đường loan báo Tin Mừng, làm chứng cho Chúa Giêsu Phục Sinh và đã đón nhận hồng phúc tử đạo tại Rôma năm 64 khi chịu chết trên cây thập giá như Thầy Chí Thánh của mình. Thế nhưng vì thấy mình không xứng đáng với Thầy Giêsu của mình, Phêrô đã xin lý hình cho mình được đóng đinh ngược đầu xuống đất.
Tiếp theo, chúng ta cùng tìm hiểu về thánh Phaolô. Cuộc đời thánh Phaolô cũng được tình thương Chúa chở che. Chúa Giêsu đã yêu thương và kêu gọi thánh Phaolô làm tông đồ dân ngoại vì Chúa muốn dùng tài năng của Phaolô vào việc loan báo Tin Mừng. Thánh Phaolô là một người tài năng, có trí thông minh, có vốn liếng kiến thức uyên bác về Kinh Thánh vì được học hành đàng hoàng tử tế. Ngài có khả năng giảng dạy giáo lý một cách mạch lạc và dễ hiểu đối với mọi người. Kể từ biến cố “té ngựa” trên đường đi Ða-mát, cuộc đời của Phaolô đã thay đổi hoàn toàn. Từ một người bắt bớ các Kitô hữu ngài đã trở thành người loan báoTin Mừng cứu độ. Ngài sẵn sàng quên mình để đi đến với những người ngoài Do-thái giáo và tiếp xúc với họ. Dù được biết Chúa Giêsu muộn hơn nhưng những đóng góp của ngài cho Giáo Hội thì không thua kém ai. Quả thật, lòng yêu mến Chúa chân thành là động lực thúc đẩy ngài đi đến với dân ngoại. Thánh nhân đã ý thức được sự hoạt động của Chúa khi ngài nói: “Tình yêu Chúa Kitô thúc bách tôi”. Giáo Hội mà ngài xây dựng là cộng đoàn gồm nhiều người thuộc nhiều quốc gia, chủng tộc, ngôn ngữ và văn hoá khác nhau, thế nhưng họ có chung một niềm tin và lòng yêu mến vào Chúa Kitô. Cuối cùng, ngài đã đón nhận hồng phúc tử đạo tại Rôma năm 67 để nói lên lòng trung thành và yêu mến Chúa Giêsu của mình.
Mừng lễ hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô hôm nay, chúng ta cùng cảm phục Thiên Chúa đã thực hiện một sự kết hợp kỳ diệu giữa hai con người có nhiều khác biệt, đó là Phêrô và Phaolô. Thiên Chúa lập nên Giáo Hội từ những con người có sự khác biệt để họ có thể hợp tác và bổ túc cho nhau.
Quả thật, mỗi người trong Giáo Hội dù khác nhau về trình độ, giai cấp, tính tình nhưng luôn có chung một tấm lòng. Ðó là tấm lòng yêu mến Chúa và yêu mến Giáo Hội. Khởi đi từ nền tảng lòng yêu mến Chúa và yêu mến Giáo Hội, mọi người trong Giáo Hội có thể đồng tâm hiệp lực với nhau để làm việc và sẽ có thể vượt qua được mọi khó khăn gian khổ và sẽ có thể làm được những điều kỳ diệu vượt quá sức tưởng tượng.
CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa, ngày hôm nay chúng con mừng lễ hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô. Xin Chúa giúp mỗi người chúng con biết noi gương các Ngài khi cùng cộng tác với Chúa trong sứ vụ loan báo Tin Mừng để chúng con có thể đón nhận phần thưởng là hạnh phúc Nước Trời. Chúng con có thể thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng khi tham gia vào những sinh hoạt tông đồ của cộng đoàn giáo xứ. Xin Chúa gia tăng lòng yêu mến Chúa, yêu mến Giáo Hội nơi mỗi người chúng con để chúng con có thể cộng tác với nhau xây dựng cộng đoàn giáo xứ trở thành cộng đoàn truyền giáo, hiệp nhất và yêu thương. Amen.
51. Lễ Thánh Phêrô và Phaolô
(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’ – Radio Veritas Asia)
Biến cố xảy ra gần thành Xêsarê thật quan trọng, chúng ta được mời gọi chiêm ngắm thêm một lần nữa nhân dịp Lễ Kính hai Thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ hôm nay. Đây không phải chỉ có một lời tuyên xưng của Phêrô mà thôi, nhưng là hai lời tuyên xưng, đó là của Phêrô và của Chúa Giêsu.
Lời tuyên xưng thứ nhất của Phêrô: “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa Hằng Sống”. Thiên Chúa yêu thương con người đến độ sai Con Một Người xuống thế để cứu rỗi nhân loại. Lời tuyên xưng của Phêrô nhìn nhận chương trình của Thiên Chúa đang diễn ra trong lịch sử con người: “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa Hằng Sống”.
Đáp lại lời tuyên xưng này, có thể nói dựa vào lời tuyên xưng Chúa Giêsu tuyên bố vinh hạnh của Phêrô, đồng thời cũng là vinh hạnh của con người, của tất cả mọi người được qui tụ trong đại gia đình của Thiên Chúa, trong một cộng đoàn con cái Thiên Chúa: “Này Simon Phêrô, trên tảng đá này Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy”.
Phêrô tuyên xưng vinh quang của Thiên Chúa, Chúa Giêsu tuyên xưng vinh quang của Phêrô. Phêrô được chọn làm đá tảng và sự lựa chọn đó bền vững muôn đời, cho dù Phêrô có thế nào đi nữa thì Thiên Chúa vẫn không thay đổi chương trình, không hủy bỏ sự lựa chọn: “Phêrô con là đá, trên đá này Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy”. Vinh quang của Phêrô được Chúa Giêsu tuyên bố ra đây không phải là để Phêrô khoe khoang vinh quang hay hưởng thụ quyền lực và danh vọng, mà là vinh quang của thập giá, của hy sinh chiến đấu, của sự từ bỏ mọi sự cho đến cả mạng sống mình, và chúng ta biết rõ con đường vinh quang thập giá mà Phêrô đã trải qua.
Phêrô vừa mới tuyên xưng một sự thật: “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa Hằng Sống”, tiếp đó Chúa Giêsu tuyên bố một sự thật khác:”Trên đá tảng là chính con đây, Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy”. Phêrô mới nhìn nhận mầu nhiệm Con Thiên Chúa nơi chính con người Giêsu thành Nazareth đang đứng trước mặt mình, thì Chúa Giêsu liền mạc khải thêm mầu nhiệm Nhập Thể thường hằng mãi mãi trong lịch sử, không phải cho một người mà cho nhiều người được qui tụ lại làm con Thiên Chúa trong một cộng đoàn, một Giáo Hội của Người. Giáo Hội là một mầu nhiệm nhập thể kéo dài mãi mãi của Con Thiên Chúa, đó là Giáo Hội mà chúng ta đang là phần tử và đó cũng chính là Giáo Hội mà Chúa Giêsu muốn thiết lập.
Thiên Chúa mời gọi chúng ta đến với Ngài trong Giáo Hội, để chúng ta được biến đổi thành con cái Thiên Chúa, sống trong sự hiệp thông với Chúa và với nhau. Tất cả mọi sinh hoạt của người đồ đệ Chúa đều được diễn ra trong Giáo Hội của Ngài, và mọi Kitô hữu đều được qui tụ lại với nhau trong Chúa, trong một thân thể huyền nhiệm của Chúa. Đây là Giáo Hội của Thầy, trên tảng đá Phêrô, Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy và cửa hỏa ngục sẽ không thắng được.
Giáo Hội yếu hèn vì gồm những con người tội lỗi, nhưng Giáo Hội cũng rất thánh thiện, tràn đầy thánh sủng của Chúa và được gìn giữ đến tận cùng: “Con là Phêrô nghĩa là đá, trên đá này Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy và cửa hỏa ngục sẽ không thắng được”. Lời công bố long trọng của Chúa Giêsu đã trấn an các Tông Đồ, đồng thời mạc khải tính cách thường hằng mãi mãi. Giáo Hội sẽ hiện diện mãi mãi trong lịch sử cho đến tận thế, dù cửa hỏa ngục, tức quyền lực của hỏa ngục tấn công vào Giáo Hội, nhưng hỏa ngục sẽ không thắng được. Chúng ta hãy tin tưởng vào Giáo Hội cho đến cùng, chúng ta hãy chiến đấu với chính sự dữ nằm trong bản thân để giúp Giáo Hội chiến thắng trên mọi sự dữ.
Lạy Chúa, xin hướng dẫn con trên đường về cùng Chúa, xin tăng triển nơi con tình yêu thương và tin tưởng vào Giáo Hội, xin củng cố đức tin và củng cố sự hiệp nhất giữa chúng con trong Chúa và trong Giáo Hội của Chúa. Amen.
52. Lễ Thánh Phêrô và Phaolô
(Suy niệm của Jos.Vinc. Ngọc Biển)
NỀN TẢNG VÀ CỘT TRỤ XÂY TÒA NHÀ GIÁO HỘI
Ngày 29-06 hằng năm được chọn là ngày lễ kính trọng thể hai thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô. Hai vị Tông đồ được mừng chung một ngày. Đây là điều đặc biệt. Tuy nhiên, cuộc đời, ơn gọi và sứ vụ của hai vị hoàn toàn khác nhau. Các ngài được Giáo Hội tôn vinh như là nền tảng và cột trụ của Giáo Hội.
Bởi vì, Phêrô được đặt làm người lãnh đạo Giáo Hội. Phaolô là người bảo vệ Giáo Hội bằng khả năng nghiên cứu và lời rao giảng.
Tuy đường lối và tính tình khác nhau, nhưng các ngài đã cùng nhau vươn tới mục đích, đó là xây dựng sự hiệp nhất và loan báo ơn cứu chuộc cho mọi người.
Vì thế, mỗi khi mừng lễ hai vị thánh đặc biệt này, chúng ta lại có dịp tìm hiểu nhiều hơn về thân thế, con người và sự nghiệp của các ngài để noi gương và bắt chước.
- Hai con người, hai khởi điểm
Trước tiên, chúng ta cùng nhau khám phá con người và ơn gọi cũng như sứ vụ của Phêrô:
Nói đến Phêrô, chúng ta nghĩ ngay đến sự kiện Đức Giêsu đi dọc bờ Biển Galilê và gọi bốn môn đệ đầu tiên, Phêrô là một trong 4 môn đệ đó.
Chỉ một lời mời gọi: “Hãy theo Thầy”, ông đã để lại đằng sau mọi sự để đi theo Ngài. Vì làm nghề chài lưới, nên Phêrô được biết đến như là một người bình dân học vụ. Chính từ việc xuất thân rất bình thường này đã hé mở cho chúng ta biết tính cách của ông. Ông là một người bộc trực, nóng nảy và hay thay đổi. Ông cũng là một con người thiếu lập trường, và nhát đảm. Điều này dễ hiểu, vì: xuất thân từ nghề ngư phủ, nên ông phải thăm dò và nương theo mực nước biển lên xuống để hành nghề, nên nó đã ảnh hưởng trực tiếp đến tính cách của ông.
Từ khi được chọn làm môn đệ, ông được Thầy Giêsu rất ưu ái. Vì thế, ông được nằm trong số 3 môn đệ thân tín với Đức Giêsu và được diễm phúc chứng kiến những sự kiện quan trọng trong cuộc đời Chúa Cứu Thế.
Ngoài ra, Phêrô còn được biết đến qua những biến cố như: dám cả gan ngăn cản Thầy lên Giêrusalem để chịu chết. Ông cũng là người duy nhất can đảm đứng lên đại diện anh em tuyên tín Đức Giêsu là Con Thiên Chúa hằng sống. Phêrô cũng rất anh hùng khi dám vung gươm chém đứt tai tên đầy tớ vị thượng tế đến bắt Đức Giêsu trong Vườn Cây Dầu.
Đỉnh điểm, đó là vụ “scandal” trối Thầy tới 3 lần vì sợ bị liên lụy. Cuối cùng, chính là việc Đức Giêsu đã tin tưởng Phêrô và đã trao cho ông sứ vụ lãnh đạo là đứng đầu Giáo Hội.
Kết thúc hành trình tại thế, Phêrô đã dùng chính cái chết qua việc bị đóng đinh ngược để bảo về chân lý Tin Mừng và niềm tin vào Thầy Giêsu.
Thứ đến, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về cuộc đời, ơn gọi và sứ vụ của Phaolô:
Ngược lại với Phêrô, toàn bộ Tin Mừng không nói gì về Phaolô. Nhưng sách Công Vụ Tông Đồ thì gần như nói về ngài và các cuộc hành trình truyền giáo của ngài nhiều nhất.
Cũng như Phêrô, nếu người ta biết đến vị lãnh đạo Giáo Hội với cái vụ “scandal” là trối Chúa, thì Phaolô được biết đến với sự hung ác đến tàn bạo khi sẵn sàng ra tay giết hại các Kitô hữu.
Sự kiện làm cho Phaolô biến đổi không phải là hành động nhẹ nhàng qua ánh mắt của Chúa như với Phêrô, mà là một cú ngã ngựa đau điếng dẫn đến việc bị mù.
Mặt khác, Phaolô không được diễm phúc sống cùng thời với Đức Giêsu và được ngài dạy dỗ như nhóm 12. Tuy nhiên, Phaolô lại được đặc ân là gặp gỡ trực tiếp với Đấng Phục Sinh là chính Đức Giêsu Kitô.
Trước khi được biến đổi, Phaolô được biết đến là một con người trổi trang về thế giá. Ngài xuất thân từ một gia đình thượng lưu, nên ngay từ nhỏ, đã được cho ăn học đàng hoàng, vì thế, khi lớn, Phaolô là một người học thức sâu rộng. Kiến thức Kinh Thánh của Phaolô rất uyên thâm vì được học cùng bậc thầy Kinh Thánh nổi tiếng là Gamaliel.
Trước khi được Chúa hoán cải, ông là một người đối đầu với các Tông đồ, với những người tin Chúa. Nói chung, ông ghét cay ghét đắng danh Giêsu và cả những ai tin Ngài.
Biến cố ghi dấu trong cuộc đời của Phaolô, chính là việc ngã ngựa lịch sử. Chính nhờ sự kiện này mà Phaolô được tẩy rửa thói kiêu căng để nhường chỗ cho sự khiêm nhường.
Sau này Phaolô đã trở thành nhà truyền giáo lừng danh cho dân ngoại.
Cuối cùng, để minh chứng hùng hồn về những gì đã rao giảng, ngài đã chấp nhận chết để bảo vệ chân lý và danh Đức Giêsu.
Điểm qua cuộc đời của hai vị thánh lớn trong Giáo Hội mà hôm nay chúng ta mừng kính để thấy được rằng: lòng thương xót của Thiên Chúa đã rợp bóng trên các ngài và chính bản thân các ngài đã cảm nghiệm được tình thương kỳ diệu của Thiên Chúa, nên đã ra đi loan truyền lòng thương xót ấy cho người khác.
- Cảm nghiệm lòng thương xót của Chúa để xót thương
Nhờ tình yêu của Đức Giêsu đặc biệt trên cuộc đời của các ngài, nên cuộc đời của Phêrô và Phaolô đã được khép lại đã khép lại quá khứ với đầy điển tích tội lỗi và ngu muội để thay vào đó là Ánh Sáng Tin Mừng của Đức Giêsu. Chính từ đây, hai Tông đồ đã trở thành những người tiên phong trong việc loan báo lòng thương xót của Thiên Chúa cho nhân loại.
Thật vậy, chính do tình thương, mà Thiên Chúa đã biến đổi:
Từ một Phêrô đã từng bị gọi là Satan. Một Phêrô đã từng phản bội. Một Phêrô hèn nhát, nay trở thành người củng cố đức tin cho anh em, trở thành người lãnh đạo Giáo Hội và điểm quy chiếu để hội tụ mọi thành phần dân Chúa.
Một Phaolô hiểu Kinh Thánh cách phiến diện. Một Phaolô với tính khí hung ác tàn bạo, sẵn sàng vung những nhát gươm sáng nhoáng để giáng xuống trên đầu những người tin vào Giêsu, thì nay, một Phaolô hiền lành, nhân hậu và xót thương đến hết mọi người. Nhờ ơn Chúa, ngài đã trở thành cột trụ của Giáo Hội ngang qua những kiến thức sắc bén bênh vực Giáo Hội.
Có thể nói: cuộc đời của hai vị không thiếu những màn đêm tội lỗi nặng nề. Các ngài đã phạm vào những tội tầy trời như trối Chúa và bách hại đạo. Tuy nhiên, lòng thương xót của Thiên Chúa đã hoán cải khiến các ông được đổi mới và trở thành những chứng nhân của Tin Mừng.
- Sứ điệp và bài học của ngày lễ
Mừng lễ hai thánh Tông đồ hôm nay, chúng ta học được những bài học giá trị như sau:
Trước tiên là niềm tin vào quyền năng của Thiên Chúa, vì: “Không có việc gì mà Thiên Chúa không làm được”.
Thứ đến, là lòng yêu mến Chúa tha thiết. Chính thánh Phêrô đã thốt lên: “Lạy Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy”, còn với Phaolô: “Không có gì có thể tách tôi ra khỏi lòng yêu mến của Đức Kitô” (x. 2 Tm 4,6-8).
Cuối cùng là bài học về sự trung thành với Chúa. Cả hai đấng đều trung thành với Chúa cách tuyệt đối khi sẵn sàng chấp nhận bị bắt bớ, đòn vọt và chấp nhận ngay cả cái chết để bảo vệ niềm tin của mình vào Chúa và Tin Mừng của Ngài.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con lòng yêu mến Giáo Hội, biết cộng tác với những người lãnh đạo chúng con để cùng nhau xây dựng Giáo Hội của Chúa nơi trần gian như gương của hai thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô khi xưa. Amen.
53. Lễ Thánh Phêrô và Phaolô
(Suy niệm của Jos.Vinc. Ngọc Biển)
CHỨNG TÁ CỦA SỰ HIỆP NHẤT ĐỨC TIN
TRONG ĐA DẠNG
Cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta hân hoan mừng trọng thể lễ hai thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô. Mừng kính các ngài, chúng ta nhớ đến hai đấng như là những mẫu gương sáng ngời về đời sống chứng tá cho đức tin qua tinh thần hiệp nhất trong đa dạng. Các ngài còn được ví như những người tiên phong trong công cuộc loan báo Tin Mừng; như những vì sao sáng trong Giáo Hội; như những vị tướng anh hùng trong trận địa đức tin.
Tuy nhiên, nhìn lại cuộc đời của hai thánh, chúng ta thấy các ngài là những con người rất đỗi bình thường.
Thánh Phêrô được biết đến như một con người bình dân học vụ, phát xuất từ một gia đình bình thường làm nghề ngư phủ, không gì nổi trội và nhiều điểm bất toàn như: tính nóng nảy, ăn nói không thông, cư xử cục mịch, nhanh tin nhưng cũng vội phủ nhận, can trường nhưng cũng không thiếu những lúc nhát đảm, và tội lớn nhất của Phêrô chính là chối Chúa đến ba lần.
Còn thánh Phaolô thì: xuất thân từ một gia đình tri thức, ăn nói thông thạo, lý luận sắc bén, tài cao hiểu rộng… Ngài còn được biết đến dưới bóng dáng của một kẻ bắt đạo khét tiếng. Quả thật, Phaolô ghét Danh Giêsu đến nỗi chỉ cần ai nói về Danh ấy thôi thì Phaolô cũng tìm mọi cách để triệt hạ.
Nhưng từ lúc Phêrô nhận ra ánh mắt nhân từ của Đức Giêsu khi ông chối Ngài đến ba lần; Phaolô được Đức Giêsu mặc khải qua vụ ngã ngựa lịch sử và chữa cho sáng mắt cách lạ thường, thì cả hai đấng đều có chung một thái độ là cảm nghiệm được Đức Giêsu yêu thương đặc biệt, nên ăn năn sám hối và quyết tâm thay đổi cuộc đời.
Nếu trước kia, các ngài ghét danh Giêsu, hay sợ không dám nói và làm chứng về Danh ấy, thì giờ đây, cả hai đều chỉ còn mối lợi tuyệt đối là được biết Đức Giêsu Kitô, Chúa của các ngài mà thôi và suốt cuộc đời còn lại dù thuận tiện hay không, các ngài luôn sẵn sàng loan báo về Đức Giêsu và ơn cứu độ mà Ngài mang đến cho nhân loại qua cái chết trên Thập giá và sự phục sinh vinh hiển.
Thật vậy, nơi các ngài, tuy nhiều điểm khác biệt, nhưng từ khi Đức Giêsu chiếm lĩnh tâm hồn, các ngài đã trở nên chứng nhân cho Chúa: can đảm, kiên trung và chấp nhận chết để bảo vệ đức tin và lời giảng của mình là xác thực.
Các ngài đã dùng đường lối khác biệt để quy tụ một gia đình duy nhất cho Đức Giêsu. Các ngài đã chấp nhận sự đa dạng, nhưng hiệp nhất với nhau trong cùng đức tin và lòng mến.
Hai con người; hai tính cách; hai lối rao giảng khác nhau, nhưng cả hai đều có chung một mục đích. Chính Đức Giêsu đã nối những điểm tương đồng ấy để tất cả được nên một nơi tình yêu và trong Ngài.
Lời nguyện tiền tụng thánh lễ hôm nay cho thấy rõ nét tính cách của hai Tông đồ trụ của Giáo Hội: thánh “Phêrô là người đầu tiên tuyên xưng đức tin, thánh Phaolô là người làm sáng tỏ đức tin, thánh Phêrô thiết lập Hội Thánh tiên khởi cho người Israel, thánh Phaolô là thầy giảng dạy muôn dân” (x. Lời Tiền Tụng).
Thật vậy, thánh Phêrô và Phaolô đã trở nên biểu tượng đức tin bất khuất cho Giáo Hội, trở nên đá tảng xây dựng Kinh Thành Muôn Thủa, trở nên kiểu mẫu của sự hiệp nhất trong đa dạng.
Được như thế, là vì các ngài khác nhau trong những điều phụ, nhưng hiệp nhất với nhau trong những điều chính và cùng chung một tình yêu trong tất cả mọi hoàn cảnh.
Vì thế, các ngài xứng đáng lãnh phần thưởng mà Thiên Chúa trao tặng cho người tôi tớ trung tín và khôn ngoan, được muôn dân truyền tụng và thiên hạ muôn đời còn tưởng nhớ chính nhân.
Nhân dịp mừng lễ của hai thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô, chúng ta nhận ra sự quan phòng kỳ diệu mà Thiên Chúa đã ban cho các ngài. Đồng thời cũng từ cuộc đời, ơn gọi và sứ mạng của hai thánh, chúng ta học được nơi các ngài những bài học quý báu trong hành trình môn đệ và sứ mạng của chúng ta:
Trước hết, chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta được nhận ra ơn gọi và chỗ đứng của mình trong lòng Giáo Hội để sẵn sàng thi hành bổn phận cách đặc thù mà Chúa muốn chúng ta thực thi để danh Chúa được rạng rỡ.
Thứ đến, chúng ta cũng nhận ra sứ mạng cứu độ phổ quát mà Thiên Chúa muốn trao ban cho nhân loại, hầu sẵn sàng loan báo Tin Mừng cho mọi người, mọi nơi và mọi thời, để đem lại niềm vui, hy vọng cho con người và thế giới hôm nay.
Tiếp theo, chúng ta hãy noi gương các ngài để yêu mến Chúa tha thiết, khiêm tốn, sám hối, trở về, can đảm và sẵn sàng làm chứng cho Đấng đã hiến mình làm của lễ đền tội cho chúng ta.
Cuối cùng, noi gương các ngài, chúng ta sẵn sàng ngoan ngùy để Chúa Thánh Thần dẫn dắt, hầu trở nên dấu chỉ của sự hiệp nhất và làm cho sự phong phú, phổ quát của ơn cứu độ được loan đi đến tận chân trời góc bể.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con cảm tạ Chúa đã ban cho Giáo Hội hai mẫu gương tuyệt vời là thánh Phêrô và Phaolô. Qua cuộc đời của các ngài, xin cho chúng con biết cùng nhau xây dựng sự hiệp nhất trong Giáo Hội bằng sự cảm thông, tôn trọng trong khi thi hành sứ vụ, hầu Tin Mừng được loan đi khắp nơi, bằng nhiều cách thế khác nhau nhưng vẫn giữ được sự tinh tuyền của đức tin. Amen.
54. “Giáo hội bền vững”
(Suy niệm của Viện phụ Hiền Lâm, O.Cist)
GỢI Ý SUY NIỆM (Lễ Vọng. Ga 21,15-19)
Chúng ta vẫn thường nói với nhau rằng, sở dĩ Chúa Giêsu hỏi thánh Phêrô “con có yêu mến Thầy không?” tới 3 lần là vì trước đó thánh nhân đã chối Chúa tới 3 lần. Điều này không sai, nhưng có lẽ không chỉnh lắm, vì việc chối Chúa là điều nghịch với đức tin, trong khi ở đây Chúa Giêsu đang hỏi thánh Phêrô về đức mến.
Tuy nhiên, ở đây chúng ta không nhằm bàn chuyện 3 lần chối tương đương 3 lần yêu, mà điều quan trọng là Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta: điều kiện đứng đầu trong các điều kiện của vai trò mục tử là lòng yêu mến Chúa.
Khi thiết lập người đứng đầu Giáo Hội, Chúa Giêsu lại đặt một vị đã từng 3 lần chối Chúa. Nếu xét theo cách nhìn của chúng ta thì có lẽ Phêrô không xứng đáng và không đủ tiêu chuẩn làm mục tử. Nhưng dưới cái nhìn của Chúa Giêsu, Người không nhìn Phêrô của ngày hôm qua mà là bắt đầu từ lúc này và hướng về tương lai. Phêrô từng lầm lỡ và khiêm tốn ăn năn để đứng lên, nên cũng chính Phêrô cảm thông được với những con chiên mà Chúa Giêsu trao phó cho ngài. Thiên Chúa đi tìm con chiên lạc thay vì ở nhà với 99 con chiên không lạc. Thiên Chúa cũng chọn một vị mục tử đã từng lạc lối, nhưng điều quan trọng là: “này Phêrô, một khi anh đã trở lại, anh hãy làm cho anh em vững tin”.
Khi đặt Phêrô làm mục tử chăn dắt Giáo Hội hoàn vũ, Chúa Giêsu chắc chắn không dựa trên tiêu chuẩn: thông minh, tài giỏi, oai phong, lợi khẩu… mà là lòng yêu mến. Chúa Giêsu chọn Phêrô vì thánh nhân đã yêu mến nhiều. Phêrô yêu mến nhiều là vì “ngài đã được tha thứ nhiều” (x.La 7,47).
Và vì yêu mến là tiêu chuẩn Chúa chọn mục tử, thì đòi hỏi mục tử cũng phải biết chăn dắt chiên bằng lòng yêu mến, chứ không phải bằng sự độc tài, quyền thế và chiếm hữu.
Chúa Giêsu, vị mục tử nhân lành hy sinh mạng sống vì yêu mến đoàn chiên, thì đến lượt mục tử Phêrô cũng hy sinh tính mạng vì đoàn chiên như Thầy: “Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn.” Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa. Thế rồi, Người bảo ông: “Hãy theo Thầy” (Ga 21,18-19).
Mục tử có thể thiếu thiếu những tiêu chuẩn khác như thông minh hay lợi khẩu, nhưng mục tử không thể thiếu lòng yêu mến; có làm được mọi sự phi thường, nhưng không có lòng mến thì vô ích. Cảm nghiệm được điều này, thánh Phaolô đã nói: “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm choẹ xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi (1Cr 13,1-3).
Người Do-thái không dùng thể so sánh tuyệt đối, nhưng dùng sự lặp lại 3 lần để chỉ điều tuyệt đối. Vì thế, khi lặp lại 3 lần sự tuyên xưng yêu mến thì có nghĩa là mức độ yêu mến của mục tử là trên hết và là điều kiện quan trọng nhất trong mọi điều kiện. Cuộc đối thoại hôm nay giữa Chúa Giêsu và thánh Phêrô nói rõ cho biết làm Kitô hữu có nghĩa là gì. Mỗi ngày, Chúa Giêsu cũng hỏi chúng ta có yêu mến Người một các đặc biệt và ‘trên hết mọi sự’ hay không: “Anh có mến Thầy hơn các anh em này không?” Cũng như thánh Phêrô, chúng ta trả lời “có”, mặc dù chúng ta đầy những yếu đuối; và Chúa Giêsu lại mời gọi chúng ta bước theo Người vì tình yêu (x.Ga 19), và cùng với Người gánh vác Dân Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã chọn thánh Phêrô làm người chăn dắt Giáo Hội vì thánh nhân đã yêu mến Chúa. Xin cho chúng con luôn ý thức rằng, tất cả mọi quyền bính trong Giáo Hội đều khởi đi từ lòng yêu mến, và đức mến là đồng phục của mọi Kitô hữu, để chúng con giữ trọn điều răn Chúa là: “Trước yêu mến một Thiên Chúa trên hết mọi sự, sau lại yêu người như mình ta vậy” Amen.
*******
GỢI Ý SUY NIỆM (Lễ chính ngày. Mt 16,13-20)
Hôm nay chúng ta mừng kính hai vị đại thánh là cột trụ của Giáo Hội Công Giáo: Một vị được chọn khi Chúa Giê-su còn sống trên trần gian, vị kia được kêu gọi khi Chúa đã về trời. Vị này là Tông Đồ thuộc Nhóm Mười Hai, vị kia mang danh Tông Đồ dân ngoại. Vị này rao giảng về những gì đã nghe và cảm nhận được khi cùng sống và cùng ăn cùng uống với Chúa Giê-su, vị kia rao giảng những gì được Chúa dạy dỗ và cảm nhận trong thời gian sa mạc. Vị này có một quá khứ đã từng chối Chúa, vị kia từng truy tìm bắt bớ các môn đệ của Chúa. Vị này xuất thân từ làng nghèo chài lưới, vị kia có quyền công dân của Rô-ma và được học hành chu đáo bởi Galmaliel. Nhưng rồi, cả hai cùng rao giảng một Chúa Giê-su Ki-tô chịu đóng đinh và phục sinh. Cả hai đã cũng đem Tin Mừng đến Rô-ma và đã cùng đổ máu đào để làm chứng cho đức tin vào hai thời điểm khác nhau: Phê-rô chịu đóng đinh và Phao-lô chịu chém đầu. Từ đó Rô-ma thắm máu của hai Đấng và Giáo Hội được xây nên bởi hai cột trụ Phê-rô và Phao-lô cách bền vững cho đến ngày hôm nay.
Bài Tin Mừng hôm nay, thánh Matthêu kể lại việc Chúa Giêsu trao quyền mục tử tối cao cho thánh Phêrô để chăn dắt đoàn chiên – lãnh đạo Giáo Hội hoàn vũ – sau khi nghe lời tuyên xưng thật đúng đắn của thánh nhân. Điều này cho thấy chỉ có ở nơi Giáo Hội mới có lời tuyên xưng đúng đắn nhất về thiên tính của Đức Giêsu Kitô, vì Giáo Hội đã sống với Người và được mặc khải từ Thiên Chúa.
* Lời tuyên xưng đức tin đúng đắn.
Tin Mừng thuật lại những ghi nhận của những người Do-thái về Chúa Giêsu thật ra không phải là sai, nhưng chưa đủ, mà chỉ nói lên được một khía cạnh trong sự tròn đầy của khuôn mặt Đức Giêsu là Chúa:
* Là Êlia (một ngôn sứ quyền năng, làm phép lạ…)
* Là Giêrêmia (một ngôn sứ bị bắt bớ và đầy đau khổ)
* Là Gioan Tẩy Giả (rao giảng sự sám hối và sống khắc khổ)
* Là một ngôn sứ nào đó (đời sống chứng nhân và rao giảng).
Riêng thánh Phêrô, dù lúc này ngài chưa hiểu hoàn toàn về con người và sứ vụ của Chúa Giêsu, nhưng do mặc khải của Chúa Cha mà thánh Phêrô đã tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Vâng, “Con Thiên Chúa” này bao gồm trọn vẹn mọi hình ảnh trên, là một Đức Giê-su Ki-tô Tử Nạn và Phục Sinh để cứu độ con người.
Tuyên xưng vào Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa Hằng Sống là tuyên xưng một Đức Giêsu là Chúa, nghĩa là Đức Giêsu quyền phép chữa lành bệnh tật và uy thế trước thế quyền (Êlia), một Chúa Giêsu đau khổ nơi người bất hạnh (Giêrêmia), một Đức Giêsu rao giảng ơn sám hối (Gioan Tiền Hô), một Đức Giêsu chứng nhân và rao giảng (các ngôn sứ)…
Như vậy, tính “Tông Truyền” của mọi sự tông truyền chính là Giáo Hội phải tuyên xưng và sống điều mà thánh Phê-rô đã tuyên xưng vào một Đức Ki-tô Con Thiên Chúa hằng sống đã tử nạn và phục sinh. Chỉ như vậy, Giáo Hội mới tồn tại và bền vững.
* Giáo Hội bền vững.
“Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” (Mt 16,18).
Theo truyền thống Cựu Ước, khi Thiên Chúa đặt tên cho ai là để chuẩn bị cho họ một sứ vụ, thì đây, Chúa Giêsu ngay từ đầu đã đổi tên Simon thành Phêrô, nghĩa là đá. Đá ở đây không phải vô tri vô giác, nhưng nói lên một kết cấu nguyên khối và bền vững. Để rồi, trên tảng đá Phêrô, Chúa Giêsu xây Giáo Hội của Người một cách duy nhất và kiên vững, hầu quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi.
Chúa Giêsu đã từng ví dụ về sự khôn ngoan hay khờ dại giống như người xây nhà mình trên đá hay trên cát. Nhà xây trên đá thì dù mưa sa nước chảy, gió thổi bão lay cũng không sao. Đó là hình ảnh Giáo Hội Chúa Kitô trải qua bao thế kỷ, gặp bao nhiêu thử thách, yếu đuối, bách hại và phải đương đầu với bao thể chế, lý thuyết, ý thức hệ, ly lạc giáo, sự tục hoá… thì trên nền đá Phêrô, Giáo Hội vẫn kiên cường bảo vệ đức tin và chuẩn mực đạo lý Kitô giáo cho mọi dân tộc.
* Năng quyền Giáo Hội.
“Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời” (Mt 16,19).
Chìa khóa, theo Thánh Kinh, là biểu tượng của sự tin tưởng, uy quyền, và trách nhiệm. Chúa đã tin tưởng thánh Phêrô, trao cho người quyền hành và trách nhiệm để hướng dẫn Giáo Hội trên trần gian: “Thầy sẽ trao cho con chìa khóa nước Trời; sự gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc; và sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở.”. Đây là một quyền hành thật cả thể. Vì bản chất của quyền hành ở đây theo từ ngữ chuyên biệt trong tiếng Do-thái có thể chỉ đến việc cầm buộc ma quỉ trong khi trừ quỉ, trong việc hành luật liên quan đến vạ tuyệt thông và trong những vấn đề phán quyết đức tin và luân lý.
Việc Chúa Giêsu trao chìa khoá Nước Trời cho thánh Phêrô cũng được hiểu như là biểu tượng Giáo Hội gìn giữ kho tàng ơn thánh và ơn cứu độ được đem đến qua Giáo Hội. Quyền này chỉ có nơi Chúa Giêsu, nhưng Người đã ban lại cho Giáo Hội qua quyền bính của vị đại diện Người. Ơn Cứu Độ từ Đức Kitô qua Giáo Hội của Người, bởi chỉ có Giáo Hội mới được mặc khải tròn đầy của Chúa Cha về Chúa Kitô (x.Mt 16,17), và chỉ có Giáo Hội mới nhận biết đúng đắn nhất về Chúa Kitô: “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16).
Theo nghĩa rộng, chìa khóa Nước Trời còn là hạt giống đức tin từ ngày lãnh nhận làn nước Bí Tích Rửa Tội giúp mọi Kitô hữu mở cửa bước vào kho tàng ân đức của Chúa nơi các bí tích. Sự đóng hay mở phụ thuộc vào việc bác ái hay khép kín của lòng người.
Từ cổ đến kim, nhiều lạc giáo đã tìm cách chối bỏ năng quyền này của Giáo Hội và bất phục với các đấng kế vị thánh Phê-rô, nghĩa là họ chối bỏ lời Chúa Giê-su dạy trong Tin Mừng hôm nay. Quá khứ bao nhiêu lạc giáo đã tự suy tàn, nhưng hiện tại đang manh nha có nhiều thứ lạc giáo mới, chung quy lại cũng đều truyền bá việc bất phục Đức Thánh Cha và các mục tử trong Giáo Hội, chúng đã lập ra những website và group facebook để lôi kéo các thành viên. Điều đáng tiếc là nhiều thành viên Công Giáo đã bị chúng mê hoặc. Chính vì thế, nhân lễ thánh Phê-rô và Phao-lô hôm nay, chúng ta cùng ý thức mình và cầu nguyện cho những ai lầm lạc biết hoán cải.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã xây dựng Giáo Hội trên nền đá là thánh Phêrô, Chúa cũng trao cho các đấng kế vị thánh Phêrô quyền bảo vệ đức tin, mối dây hiệp nhất và hướng dẫn đoàn chiên Chúa. Xin cho mọi người chúng con luôn biết quy phục Đức Thánh Cha, nhiệt thành xây dựng và làm phát triển Giáo Hội bằng đời sống chứng nhân theo phận vụ của mình, để Nước Chúa ngày một lan rộng khắp nơi. Amen.
55. Ngài Là Cha Tôi
(Trích trong ‘Lẽ Sống’ – Radio Veritas Asia)
Truyện cổ Roma thường ghi lại các cuộc chiến thắng khải hoàn của các vị Hoàng đế. Sau một lần thắng trận, các vị hoàng đế thường hướng dẫn các đoàn quân tiến qua các ngã phố cho dân chúng tung hô.
Lần kia, các đường phố đều đông nghẹt. Người ta phải dựng một khán đài đặc biệt để hoàng gia có thể theo dõi cuộc diễu hành. Khi hoàng đế và quân đội tiến đến gần khán đài nơi hoàng hậu và các công chúa, hoàng tử đang chờ đợi, người ta kinh ngạc vô cùng vì vị hoàng tử nhỏ nhất đã rời khỏi khán đài và chạy vụt đến chiến xa của hoàng đế.
Những người vệ binh có trách nhiệm giữ an ninh hai bên đường đã chận hoàng tử lại. Họ giải thích cho cậu biết rằng: xa giá đang tiến lại gần chính là xa giá của hoàng đế. Không ai được phép đến gần… Vị hoàng tử nhỏ điềm nhiên trả lời: “Ngài là hoàng đế của các ông, còn đối với tôi thì ngài là cha tôi”.
“Ngài là cha tôi”: đó phải là danh xưng mà chúng ta có quyền sử dụng để gọi Thiên Chúa. Ðó cũng là danh xưng nói lên mối liên hệ mật thiết mà Thiên Chúa luôn muốn thắt chặt với từng người trong chúng ta.
“Ngài là cha tôi”: danh xưng ấy cũng cho phép chúng ta khẳng định về giá trị của con người chúng ta. Dù chúng ta có bất tài, yếu hèn, tội lỗi đến đâu, chúng ta vẫn có thể gọi Chúa là Cha.
“Ngài là cha tôi”: danh xưng ấy không cho phép chúng ta thất vọng về chính mình. “Hãy trở nên chính mình”. Ðó là mệnh lệnh mà Thiên Chúa dành cho từng người chúng ta. Thiên Chúa yêu thương từng người trong chúng ta và yêu thương chúng ta vì những cá biệt của từng người.
Hôm nay chúng ta mừng trọng thể hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô. Hai trụ cột của Giáo hội, nhưng đồng thời cũng là hai tính khí khác nhau, có khi lại xung khắc nhau.
Một người xuất thân từ một dân chài, nóng nảy, cục mịch. Một người xuất thân là một thư sinh học rộng, hiểu sâu.
Hai trình độ khác nhau, hai tính tình khác nhau, nhưng mẫu số chung nối kết hai tâm hồn: đó là cuộc gặp gỡ với Ðức Kitô. Cuộc gặp gỡ ấy cũng diễn ra trong hai trường hợp khác nhau. Một người chỉ thực sự khám phá ra con người của Ðức Kitô sau ba lần phản bội. Một người chỉ nhận biết Ngài sau những lần truy lùng gắt gao các môn đệ của Ngài… Một người đã nhận ra tình yêu của Ngài qua những giọt nước mắt của sám hối, một người đã gặp gỡ Ngài sau một lần ngã ngựa đớn đau.
Hai tính khí khác nhau, hai trực giác khác nhau, hai đường hướng hoạt động tông đồ khác nhau, nhưng đã gặp gỡ nhau trong tình yêu Chúa và bổ túc cho nhau để xây dựng Giáo hội của Chúa.
Hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô vừa là hình ảnh đa diện phong phú của Giáo Hội, vừa là biểu trưng của Tình Yêu của Chúa đối với chúng ta. Thiên Chúa yêu thương chúng ta trong sự yếu hèn, thiếu sót của chúng ta. Tình yêu đó không đòi hỏi chúng ta phải chối bỏ con người tự nhiên của chúng ta. Trái lại Chúa muốn sử dụng tất cả những khuyết điểm, những giới hạn của con người chúng ta để làm nổi bật sức mạnh và sự khôn ngoan của Ngài.
56. Giáo Hội
Mừng kính lễ hai thánh Phêrô và Phaolô tông đồ, hai cột trụ vững chắc, chống đỡ cho tòa nhà Giáo hội, chúng ta cùng nhau nhìn vào tình trạng hiện nay, để rồi từ đó rút ra những kết luận thực hành. Nhìn vào Giáo hội hiện nay, chúng ta phải ghi nhận ba sự kiện đáng buồn sau đây:
Sự kiện thứ nhất, đó là người ta giảm sút lòng tôn trọng và vâng phục quyền bính trong Giáo hội.
Thực vậy, nếu theo dõi báo chí, ngay cả những tờ báo công giáo, chúng ta thấy xuất hiện một khuynh hướng cấp tiến nguy hiểm. Khuynh hướng này nhằm đả phá phẩm trật trong Giáo hội, bôi nhọ Đức Thánh Cha và nhất là phê bình những quyết định của Giáo hội. Tôi xin đan cử một trường hợp gần đây nhất, để cho thấy sự sút giảm đã đến hồi trầm trọng. Ai cũng biết Giáo hội Ý là một Giáo hội được coi như toàn tòng công giáo và Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II là một vị Giáo Hoàng được cảm tình của nhiều người. Khi ngài bị ám sát hụt tại công trường thánh Phêrô, ai cũng cảm thấy xót thương. Thế nhưng, hầu hết người dân Ý vẫn đi bỏ phiếu để chấp thuận luật phá thai, một vấn đề đã được ngài từng lên tiếng phản đối nhiều lần.
Đi xuống một lãnh vực nhỏ bé hơn, trong những câu chuyện thường ngày, tôi được nghe rất nhiều những lời chỉ trích, hạ nhục uy tín các linh mục. Tôi cũng được biết đến rất nhiều vụ kiện về cha này hay cha khác. Kéo nhau ra cha quản hạt hay lên Tòa giám mục mà thôi chưa đủ, họ còn mượn tay chính quyền để phân xử.
Sự kiện thứ hai, đó là người ta đòi hỏi Giáo hội hơn là đòi hỏi chính bản thân mình.
Thực vậy, người ta luôn đặt quyền lời của cá nhân hay gia đình lên trên quyền lợi của Giáo hội. Người ta đòi hỏi các cha, các thày, các dì phải thế nọ, phải thế kia, nhưng lại chẳng bao giờ tự hỏi lòng mình: Tôi đã làm được gì cho Giáo hội?
Rồi từ đó, người ta đi tới một thái độ cực đoan, muốn kiểm soát cả những vị bề trên của mình. Không thiếu gì những cặp mắt soi mói, luôn dò xét nhà thờ, nhà xứ, không phải để nâng đỡ, mà để bới móc. Và nếu chẳng may có một sự việc gì không được vừa ý là thổi phồng và bàn tán xôn xao.
Có nơi, ban hành giáo muốn kiểm soát cả sự chi tiêu của cha sở. Muốn làm bất cứ việc gì cũng phải trình qua ban hành giáo, bằng không thì sẽ có chuyện đôi co, chẳng lành. Hành động như thế là đi ngược lại với nguyên tắc quyền bính trong Giáo hội. Thực vậy, quyền bính trong Giáo hội phải từ trên đi xuống, chú không phải từ dưới đi lên.
Sau cùng, sự kiện thứ ba đó là người quá lo lắng cho bản thân, quá vun quén cho gia đình, mà quên đi lợi ích chung của giáo xứ, của giáo phận, cũng như của Giáo hội. Chẳng hạn việc bàu ban hành giáo. Mặc dù được nhắc đi nhắc lại chẳng biết bao nhiêu lần, thế mà số người ra ứng cử vào ban hành giáo chẳng được bao nhiêu. Hình như người ta ngại gánh vác những công việc chung. Ai cũng than là gia đình mình quá bận rộn và thiếu thốn. Tuy nhiên, xét cho cùng phải chăng là chúng ta thiếu tinh thần chung và chúng ta ngại hy sinh cho giáo xứ? Đã thế, khi có người thiện chí, dám hy sinh ra gánh vác công việc chung, thì chúng ta lại tìm cách ngăn cản, hay gièm pha thế này thế khác.. Chúng ta nói rằng mình yêu mến Giáo hội, thì hãy chứng minh lòng yêu mến ấy bằng những việc làm cụ thể. Đừng tưởng rằng mỗi năm mình đóng góp dăm ba chục ngàn hay một vài trăm ngàn là đã làm tròn phận sự, là đã yên lương tâm, để rồi có quyền đòi hỏi và hạch sách. Chúng ta thử nghĩ xem sự đóng góp ấy được là bao so với những chi phí cần thiết cho việc sinh hoạt cũng như cho việc duy trì và kiến thiết của giáo xứ.
Chẳng hạn việc học hỏi giáo lý. Mỗi năm mới có một kỳ hè. Đây là thời gian thuận tiện để mở những khóa giáo lý. Chính các Đức Giám mục cũng muốn như vậy. Không phải chỉ mình giáo xứ của chúng ta, mà hầu như tất cả các giáo xứ đều mở. Khi mở những khóa giáo lý như vậy, chúng tôi vừa hao tốn tiền bạc, vừa hao tốn thời giờ, lại vừa hao tốn công sức…Thế nhưng, chúng tôi sẵn sàng chấp nhận để con em chúng ta được bồi dưỡng về đạo đức, được giáo dục về đức tin. Tuy nhiên, tôi thấy có những người đã phát biểu nghe nó chua chát làm sao: Con tôi không phải để đi chơi, nhưng phải tập cho nó biết làm ăn… Nghỉ giáo lý một ngày thì không sao, chứ nghỉ ăn một ngày thì chết…
Từ những sự việc trên, chúng ta đi vào ngày lễ hôm nay: hai thánh Phêrô và Phaolô tông đồ đã chết để tuyên xưng đức tin và đã trở thành nền móng cho Giáo hội công giáo.
Còn chúng ta thì sao? Liệu chúng ta có dám sống và dám chết cho Giáo hội hay không? Chúng ta có dám lên tiếng để bênh vực những quyền lợi chính đáng Giáo hội hay không? Mỗi người chúng ta phải là một viên gạch, góp phần vào việc xây dựng Giáo hội. Vậy chúng ta cần phải làm gì?
Trước hết, chúng ta hãy tôn trọng và vâng phục quyền bính trong Giáo hội. Nhiều khi, trong những lúc vui đùa bên mâm cơm hay bên tiệc rượu, chúng ta đã kể những mẩu chuyện tiếu lâm liên quan tới tôn giáo. Làm như vậy, chúng ta đã vô tình coi thường những chức vụ trong Giáo hội, để dẫn tới những thái độ bất kính.
Tiếp đến, chúng ta hãy dùng lời nói và việc làm để góp phần xây dựng cho giáo xứ của mình, cũng như cho những giáo xứ khác, trong một tầm nhìn rộng lớn hơn và tổng quát hơn.
Đừng bao giờ hỏi rằng: Giáo hội đã làm gì cho tôi? Nhưng hãy tự vấn lương tâm xem: Tôi đã làm gì cho Giáo hội?
57. Thánh Phêrô Và Thánh Phaolô
Đại lễ kính thánh Phêrô và Phaolô hôm nay nhắc chúng ta nhớ tới hai cột trụ của Giáo Hội Rôma, Giáo Hội đặc biệt tôn kính hai gương mặt nầy. Giáo hội đã mở năm thánh Phaolô từ 28.6.2008 đến 29.6.2009, kỷ niệm 2.000 năm sinh nhật của thánh Phaolô, vị Tông Đồ Dân Ngọai, một gương mặt vượt trội của Giáo Hội ban sơ. Chúng ta suy niệm hai gương mặt sáng chói nầy.
Thánh Phaolô thuộc gia đình Do thái, gia nhập phái Pharisêu, sinh trưởng tại Tạc-xô, đất nước Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay. Ngài còn có tên là Saolô, tên gọi trước khi trở thành tông đồ của Đức Giêsu. Chính xác thì không rõ ngài sinh năm nào, có lẽ ngài trẻ hơn Đức Giêsu mươi tuổi. Ngài đã có mặt trong cuộc hành quyết phó tế Têphanô (Cv 7, 58), giữ áo choàng cho những người ném đá Têphanô.
Là người thông minh có văn hóa Hy-La, lớn lên tại Giêrusalem theo học với sư phụ Gamalien, rất nhiệt thành với Do thái giáo, giữ luật lệ nghiêm nhặt, nhiệt thành đến cuồng tín, cho nên khi nghe một tôn giáo mới ra đời, ngài là người hăng say đi bắt bớ các Kitô hữu, cho rằng Kitô giáo là một lạc giáo nguy hiểm cần tiêu diệt để bảo vệ tôn giáo độc thần của người Do thái.
Trên đường đi đến thành Đamát, thi hành lệnh bắt bớ các Kitô hữu, ngài đã bị quật ngã (Cv 9). Cuộc gặp gỡ kỳ lạ nầy đã biến con sói hung dữ thành chiên con ngoan hiền, không những thế ngài đã trở nên vị Tông Đồ Dân Ngọai không ai sánh kịp. Bốn cuộc hành trình truyền giáo của ngài, cũng như các Thư Mục Vụ của ngài minh chứng vị thế vô song trong truyền giáo thời Giáo Hội tiên khởi.
Bốn sách Tin Mừng ghi lại các lời Đức Giêsu nói và các việc Đức Giêsu làm để mặc khải mầu nhiệm Nước Thiên Chúa, còn Sách Công Vụ Tông Đồ là lời các tông nói và việc các tông đồ làm để rao giảng Tin Mừng cứu độ. Thật vậy Sách Công Vụ được chia làm hai phần: phần đầu là Tin Mừng trong thế giới Do Thái, mà khuôn mặt chói sáng là Phêrô, thì phần thứ hai được gọi là Tin Mừng trong thế giới Dân Ngoại, khuôn mặt vượt trội là Phaolô.
Về Thánh Phaolô. Sau buổi đầu bị các Kitô hữu nghi ngời về tư cách trung thực của Saolô, lý do là Saolô đột ngột tin theo Đức Giêsu, và tức thì ngay sau đó bắt đầu rao giảng Tin Mừng Đức Giêsu, ngài làm việc gần như độc lập mà không được bản quyền tại Giêrusalem sai phái. Nhờ sự giới thiệu rất uy tín của thánh Banaba, các tông đồ tại Giêrusalem chấp nhận và đón tiếp thánh Phaolô, từ đó ngài được Giáo Hội tin tưởng.
Ngài đã có uy tín và lập trường rõ rệt trong Công Đồng Giêrusalem họp vào năm 49-50 để giải quyết việc không cắt bì cho anh em lương dân trở lại đạo Kitô, việc nầy tách biệt Kitô giáo ra khỏi Do thái giáo. Ngài đã được Đức Giêsu Kitô phục sinh kêu gọi và đặt làm Tông Đồ Dân Ngọai: “Hãy tách riêng Banaba và Saolô cho Ta, để lo công việc Ta đã kêu gọi hai người ấy làm” (Cv 13, 2). Từ đó công việc truyền giáo gần như độc lập của ngài quay sang dân ngọai. Bốn hành trình truyền giáo của thánh Phaolô được ghi lại từ chương 13 sách Công Vụ Tông Đồ trở về sau.
Về Thánh Phêrô. Trong Bài Tin Mừng (Mt 16,13-19) Đức Giêsu đã phỏng vấn các môn đệ để biết thiên hạ nghĩ gì về mình và môn đệ nghĩ gì về Thầy của họ. “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Thánh Phêrô đã phát biểu thay cho anh em: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (câu 16), trên niềm tin đó Đức Giêsu thiết lập Hội Thánh của Người. Thánh Phêrô có gia đình, làm nghề thuyền chài, được gọi đầu tiên trong các tông đồ, được giao quyền chìa khóa tức là quyền cầm buộc, được diện kiến Đức Giêsu trong cuộc hiển dung, có mặt trong vườn Dầu, hăng hái và nhiệt thành, nhưng có lúc nông nỗi, đã chối Thầy 3 lần. Sau khi sống lại Đức Giêsu đã ba lần hỏi Phêrô con có yêu mến Thầy không, như cho Phêrô cơ hội tuyên xưng và xác tín lòng yêu mến của mình.
Theo truyền thuyết trong cuộc bách hại đạo của vua Nêron vào đầu thế kỷ thứ nhất, ngài đã muốn bỏ trốn khỏi thành Rôma, nhưng vừa đi tới cổng thành, ngài gặp Đức Giêsu vác thập giá đi vào thành. Ngài hỏi Chúa “Quo Va Dis?”, (Thầy đi đâu?), Đức Giêsu trả lời: Thầy vào thành để chết thay cho con một lần nữa. Tức thì Phêrô quay lại đi vào thành Rôma và chấp nhận chịu đóng đinh làm chứng cho Thầy. “Quo va Dis” là tựa đề một cuốn phim danh tiếng vể thời bắt đạo tại Rôma.
Còn thánh Phaolô trả lời câu hỏi của Thầy bằng chính cuộc sống của mình: “Đối với tôi sống là Đức Kitô và chết là một mối lợi. Tôi không biết gì khác ngoài Đức Giêsu bị đóng đinh vào thập giá” (1Cr 2, 2). Cả hai vị khác nhau trong hành trình ơn gọi, trong văn hóa, trong cách giảng dạy, trong chức vụ … Nhưng đã gặp nhau trong hết mình rao giảng Tin Mừng, trong chịu đựng gian khổ, lấy máu đào làm chứng đức tin.
Thân lạy hai thánh Phêrô và Phaolô, xin cho con biết tuyên xưng bằng lời và bằng cuộc sống làm chứng cho Đức Giêsu Kitô là Đấng cứu chuộc nhân lọai. Amen.
58. Hai tên gọi một lý tưởng
(Suy niệm của Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương, ĐCV. Vinh Thanh – Nghệ An)
Mừng lễ trọng hai thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô là dịp chúng ta suy ngắm hai khuôn mặt trổi vượt và quan trọng này trong Hội Thánh.
Tôi thấy trong mỗi vị đều có hai danh xưng khác nhau, đó là Simon – Phêrô; Saolô – Phaolô. Nếu tên gọi Simon và Saolô nói lên con người cũ, con người chưa được biến đổi, thì Phêrô và Phaolô là con người mới, con người đã được biến đổi bởi Đức Kitô.
1- Từ Simon đến Phêrô
Trước khi gặp Chúa Giêsu, chưa theo Chúa, Phêrô được gọi là Simon, con ông Giona, là một ngư phủ lành nghề nhưng quê mùa, chất phác và bộc trực. Ông đã có gia đình, có vợ con đề huề.
Trong Tin Mừng, Phêrô thể hiện rất rõ cá tính của mình: một Simon yếu đuối, nhẹ dạ, nhất thời, bồng bột và dễ thay đổi, phản bội trong những lúc gặp khó khăn thử thách (x. Mt 14,22; 16,23). Nhưng trong ông, cũng có một Phêrô khiêm tốn, chất phác và rất hăng hái, biết sám hối và nhận lỗi của mình (x. Mt 26,69); một Phêrô mạnh mẽ và vững vàng trong Đức tin, lòng mến, cũng như trong sứ vụ: “Lạy Thầy, bỏ Thầy con biết theo ai” (Ga 6,68); “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa Hằng Sống” (Mt 16,16).
Sau khi gặp Chúa Giêsu, được Chúa mời gọi, ông đã từ bỏ tất cả để theo Chúa. Chúa đặt cho ông một danh xưng mới: đó là “Phêrô, nghĩa là đá, trên đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy” (Mt 16,18). Với danh xưng này, Phêrô trở thành Tông Đồ của Chúa, và được chọn làm thủ lãnh của nhóm Mười Hai. Phêrô đã sống và gắn bó với Chúa Giêsu trong suốt ba năm trên mọi nẻo đường rao giảng. Sau khi Chúa về trời, Phêrô cùng với các Tông Đồ đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng. Phêrô đã đến giảng đạo tại Rôma, rồi bị bắt và bị đóng đinh trên đồi Gianicolo. Theo truyền thống kể lại, khi nghe tin sẽ bị bắt, Phêrô hoảng sợ tìm đường trốn khỏi Rôma để về quê, trên đường đi, ngài đã gặp Chúa Giêsu đang vác thánh giá vào thành Rôma, Phêrô hỏi Chúa: “Quo vadis – Thầy đi đâu?” Chúa Giêsu trả lời: “Thầy vào thành Rôma để chịu tử nạn lần thứ hai.” Hiểu ra ý Chúa nên Phêrô đã trở lại với đoàn chiên của ngài và chấp nhận án tử hình trên thập giá. Đang khi chịu đóng đinh, Phêrô xin lính La Mã đóng đinh đầu ngược, vì nghĩ rằng mình không xứng đáng được đóng đinh giống như Chúa Giêsu.
Một điều rất rõ mà chúng ta thấy trong cuộc đời của thánh Phêrô là khi nào ông càng cậy dựa vào sức mình, vào khả năng mình thì ông càng thất bại và tỏ ra yếu đuối. Nhưng khi nào ông càng bám lấy Chúa, tin vào Chúa, Phêrô càng thành công, càng trở nên vững vàng và rất cao cả!
2- Từ Saolô đến Phaolô
Cũng thế, nơi thánh Phaolô, có một Saolô trước khi gặp Đấng Phục Sinh, Saolô ấy không phải là một chàng trai ăn chơi lêu lổng, nhưng là một người nhiệt thành với truyền thống đạo Do Thái. Là con của một gia đình khá giả, Saolô được học hành chu đáo. Vì lòng trung thành với truyền thống cha ông, Saolô hăng hái đi bắt bớ các Kitô hữu đầu tiên vốn thuộc về một tôn giáo mới đang đe dọa sự tồn tại của đạo Do Thái.
Cú té ngựa trên đường Đamát đã làm cho Saolô thay đổi hoàn toàn. Saolô gặp Đấng Phục Sinh, và được Người đặt cho một tên mới đó là Phaolô, vị Tông Đồ của dân ngoại. Sau cuộc trở lại này, Phaolô hăng say rao giảng Đức Kitô. Ông đã sang Hy Lạp và La Mã nhiều lần để rao giảng Tin Mừng, rồi chịu tử đạo chặt đầu vì Tin Mừng ở ngoài thành Rôma.
3- Hai tên gọi, một lý tưởng
Hai danh xưng ấy nói lên hai khuôn mặt, hai con người đã được biến đổi bởi Đức Kitô. Hai con người ấy trở thành hai ngôi sao sáng, hai cột trụ chính của Giáo Hội. Cả hai đều có cùng một lý tưởng là Tông Đồ của Đức Kitô. Cả hai đã mang hạt giống Tin Mừng sang Châu Âu và đã biến Châu Âu thành một lục địa và là trung tâm của Kitô giáo. Cả hai đã đổ máu đào để làm chứng cho Đức tin và tình yêu vào Đức Kitô.
Cũng như Phêrô và Phaolô, những ai gặp Chúa, tìm kiếm Chúa, thì sẽ được Chúa biến đổi. Và những ai được Chúa biến đổi thì một cách tự nhiên, người đó cũng muốn giới thiệu Chúa cho người khác, muốn là Tông Đồ của Chúa cho thế giới hôm nay.
Trước những khó khăn và những lối rẽ khác mời mọc, cùng với Phêrô, chúng ta hãy xác tín thêm một lần nữa: “Bỏ Thầy, con biết theo ai” (Mt 16,16). Cùng với Phaolô, chúng ta tuyên xưng rằng: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo? Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta” (Rm 8,36-37). Amen!
59. Thánh Phêrô
Tôi tên là Phêrô.
Đó là đầu đề tấm bích chương loan tin Đức Gioan Phaolô II đến thăm nước Pháp. Và chính Đức Gioan Phaolô II cũng đã tự giới thiệu như thế, khi ngài xuất hiện ở Genève, trước hội đồng hợp nhất các Giáo hội…
Thực vậy, dù Đức Giáo Hoàng có tên là gì chăng nữa thì người ta vẫn gọi ngài là Phêrô, vị giám mục đầu tiên của thành Rôma. Thực ra, ngay từ năm 180, thánh Irênê đã khẳng định:
– Cả hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô cùng thiết lập Giáo hội Rôma và cả hai đều đã được diễm phúc tử đạo tại kinh thành muôn thuở này.
Chúng ta biết rằng Giáo hội Rôma, trong lễ kính ngày 29.6 hôm nay, đã liên kết chặt chẽ hai cột trụ ấy lại với nhau. Đồng thời mọi tuyên bố long trọng của Đức Giáo Hoàng đều được thực hiện chiếu theo quyền hành của thánh tông đồ Phêrô và Phaolô.
Nhưng dần dần qua những góc độ khác nhau trên khuôn mặt thánh Phêrô, các cộng đoàn tiên khởi đã đo lường được kích thước đích thực mà Đức Kitô muốn trao phó cho Phêrô, cũng như sứ mạng phục vụ toàn thể Giáo hội mà chính Phêrô đã nhận lãnh.
Từ bên ngoài chúng ta nhìn thấy: Phêrô là một người thuyền chài, tuy cộc cằn nhưng năng động, một tông đồ tuy nhát đảm nhưng biết sám hối. Tuy nhiên vượt trên những điểm cá tính ấy, chúng ta cần phải nhấn mạnh đến một số đường nét nằm trong ơn gọi đặc biệt của ngài.
Trước hết, Phêrô là một nhà truyền giáo tuyệt hảo: Đây là những người mà từ nay con phải chăn giữ. Việc trao chìa khóa là một hình ảnh tượng trưng cho đặc ân mở cửa nước trời nhờ việc rao giảng Phúc âm của ngài và thị kiến tại Jopphê cho thấy cửa trời đã được mở rộng cho muôn dân. Thánh Phêrô còn là biểu tượng cho người chủ chăn mẫu mực, có trách nhiệm ưu tiên là chăn dắt đoàn chiên Chúa và quyền hành được xây dựng trên tình yêu mến, gắn bó mật thiết với Đức Kitô.
Hẳn chúng ta còn nhớ, sau khi sống lại, Chúa Giêsu hiện ra và đã hỏi Phêrô ba lần:
– Phêrô, con có yêu mến Thày hơn những người này không?
Và Phêrô đã xác quyết tình mến của mình:
– Lạy Thày, Thày biết con yêu mến Thày.
Sau đó Đức Kitô đã phán với Phêrô:
– Con hãy chăn dắt các chiên con và chiên mẹ của Thày.
Tiếp đến, Thánh Phêrô là thày dạy đức tin Kitô giáo, là phát ngôn viên chính thức của nhóm Mười hai. Tại địa hạt Cêsarêa Philipphê ngài đã tuyên xưng:
– Thày là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống.
Rồi sau phép lạ bánh hóa nhiều, ngài cũng đã xác quyết:
– Lạy Thày, bỏ Thày chúng con biết theo ai vì chỉ mình Thày mới có những lời ban sự sống.
Chính Phêrô là người đầu tiên đã nhận ra Đức Kitô là Đấng Messia, Con Thiên Chúa hằng sống như chúng ta vừa thấy.
Mặc dù yếu đuối, nhưng thánh Phêrô đã tiếp nhận từ nơi Đức Kitô một sứ mạng duy nhất. Sứ mạng duy nhất ấy đã làm cho Phêrô đồng hóa với Thày mình hơn ai hết, ngoài ra ngài còn là một khuôn mặt tiêu biểu cho người môn đệ, cho người tín hữu.
Mừng lễ thánh Phêrô tông đồ, chúng ta hãy cầu nguyện cho Đức Thánh Cha, được hướng dẫn Giáo hội trên con đường thánh Phêrô đã đi, cũng như cho mỗi người chúng ta được trở nên những chứng nhân sống động cho Chúa giữa lòng cuộc đời.
60. Mầu nhiệm tình yêu
Mừng lễ hai Thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô, hai trụ cột xây dựng toà nhà Hội Thánh hôm nay giúp chúng ta khám phá ra nhiều điều thú vị về ơn gọi của các Ngài. Hai Thánh Tông đồ tuy khác nhau về tính tình, về trình độ, về khuynh hướng nhưng đều có điểm chung:
– Một ơn gọi: làm Tông đồ;
– Do một Đấng kêu gọi: Chúa Giêsu;
– Để cùng chia sẻ một trọng trách: xây dựng Hội Thánh trần thế.
Dầu vậy, trong cuộc đời theo Chúa, hai vị thánh cả đều mắc những sai lầm nghiêm trọng: Thánh Phêrô, dù theo Chúa ba năm, đã từng nghe, thấy bao phép lạ Chúa Giêsu làm, từng được Thầy ân cần dạy dỗ, sau những năm tháng sống chung với Thầy không rời nữa bước, lại được đặt lên làm đầu các Tông đồ, thế mà trong giờ phút khổ nạn của Thầy mến yêu, ông đã quay lưng lại với Thầy của mình bằng ba lần công khai chối Chúa. Thánh Phaolô, một người xuất thân từ nhóm biệt phái, thông thạo Kinh Thánh, nhiệt thành giữ luật Môisê và chính lòng nhiệt thành đó khiến ông mù quáng bách hại Hội Thánh buổi sơ khai. Vậy mà cả hai vị thánh Tông đồ đều được tuyên dương: Thánh Phêrô là “đá tảng của Hội Thánh” (Mt 16, 18). Thánh Phaolô được gọi là “thầy của dân ngoại về đức tin và chân lý” (1 Tm 2, 7). Lý do nào các ngài được như vậy?
Bởi vì Chúa chọn ai là tuỳ ý Chúa, bất chấp những khuyết điểm, lỗi lầm của con người. Và trong ý định quan phòng đời đời của Chúa, Chúa có cách để thu hút, lôi kéo những người Chúa chọn đi theo con đường Chúa muốn. “Cái nhìn của Chúa” đã làm cho Phêrô thổn thức ăn năn; “ánh sáng từ trời” quật ngã Phaolô để ông nhận ra sai lầm của mình, và hồi tâm đi theo con đường mới mà Chúa dẫn ông đi: trở nên Tông đồ dân ngoại. Con người thì nhìn bên ngoài. Chúa nhìn tâm hồn con người.
Về phía hai Thánh Tông đồ, các ngài đều có chung một tấm lòng khiêm nhượng thẳm sâu, và trong sáng, sẳn sàng phục thiện, đón nhận Chân lý. Điều đó giúp các Ngài mau chóng vượt qua những trở ngại là những yếu đuối, lỗi lầm, để năng nổ dấn thân phục vụ Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương chọn lựa các Ngài.
Những lỗi lầm của hai thánh Tông đồ, một đàng giúp các ngài ý thức hơn về sứ mạng của mình: nếu có thành công nào thì đó chính là nhờ sức của Chúa, đồng thời giúp các Ngài dễ cảm thông hơn với những lỗi lầm của anh em mình; đàng khác, cuộc đời các Ngài soi rọi cho chúng ta biết vượt qua những vấp ngã trong đời sống để sẳn sàng đứng lên, dấn bước phục vụ Thiên Chúa, trong niềm tin cậy vào tình thương mà Chúa dành cho những ai được chọn lựa làm môn đệ của Người.
Xin hai Thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô nâng đỡ đường đời chúng con. Amen.
61. Thánh Phêrô và Thánh Phaolô Tông Đồ
CON LÀ ĐÁ. THẦY SẼ TRAO CHO CHÌA KHÓA NƯỚC TRỜI
(Suy niệm của Lm. Micae Võ Thành Nhân)
Toàn thể Giáo Hội khắp nơi trên thế giới mừng kính trọng thể lễ hai thánh Phêrô và Phaolô tông đồ hôm nay, chúng ta chiêm ngắm hai vị thánh tông đồ nổi tiếng của Giáo Hội để cùng với các ngài, chúng ta tạ ơn Chúa và học nơi các ngài bài học là hết lòng cộng tác với Chúa để làm phát triển Giáo Hội Chúa nơi gian trần chúng ta đang sống.
Trước hết chúng ta chiêm ngắm thánh Phệrô: Ngài là em của thánh Anrê, là một ngư phủ, ít học, có lúc ngài bị Chúa la rầy: “Hỡi sa tan, hãy lui ra đằng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16, 23), có lúc ngài được Chúa khen: “Hỡi Simon con ông Giona, con có phúc…” (Mt 16, 17), có lúc ngài yếu đuối phạm tội như chối Chúa ba lần (Mt 26, 69 – 75)…. Nhưng hôm nay, Chúa lại trao chìa khóa Nước Trời cho thánh nhân, nghĩa là Chúa trao quyền bính và rồi đặt làm thủ lãnh Giáo Hội: “Vậy Thầy bảo cho con biết: Con là Đá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được. Thầy sẽ trao cho con chìa khoá nước trời. Sự gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc; và sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở” (Mt 16, 18-19).
Tiếp đến, chúng ta chiêm ngắm thánh Phaolô, theo sách Tông Đồ Công Vụ, ngài là một biệt phái lừng danh về tri thức, uyên bác về đạo cũng như đời, nhiệt thành với giao ước cũ, cho nên đã tự nguyện xung phong đi lùng bắt bớ các Kitô hữu đem về Giêrusalem để xứ án, và rồi sau biến cố té ngựa trên đường đi Đamát, ngài đã nhận ra Chúa và bước theo Chúa, trở thành tông đồ dân ngoại của Chúa.
Thoáng qua một chút tiểu sử các ngài, chúng ta thấy: Thánh Phêrô là thủ lãnh Giáo Hội, nắm quyền hành trong tay nhưng ít học. Còn thánh Phaolô, tông đồ, sinh sau đẻ muộn, nhưng là đỉnh cao tri thức, dưới quyền của thánh Phêrô. Thế mà các ngài làm việc với nhau để xây dựng Giáo Hội của Chúa rất thành công, không có chuyện tranh giành, cãi cọ, hơn thua nhau trong sứ mạng Chúa trao phó. Lý do là vì các ngài đặt Chúa lên trên mọi sự, lấy đức mến làm đầu, say mê các linh hồn, phục vụ Chúa trong hân hoan. Các ngài có những cách thức, sáng kiến khác nhau nhưng chung một phương hướng là để đưa con người chúng ta đến với Chúa. Bởi vậy các ngài tôn trọng nhau, nâng đỡ nhau, cầu nguyện cho nhau để chu toàn sứ mạng Chúa trao phó.
Đàng khác, Chúa chọn các ngài làm tông đồ, Chúa không dựa vào khả năng của các ngài, Chúa chỉ căn cứ trên tình yêu của các ngài đối với Chúa mà thôi: “Phêrô, con có yêu mến Thầy hơn những người này không…” (x. Ga 21, 15-19). Chính vì thế mà các ngài đã biết ơn Chúa rất nhiều. Vì những người khác có tài cán, có năng lựcmà Chúa không chọn làm tông đồ, đang khi đó Chúa lại chọn các ngài, các ngài chỉ là những người chân lấm tay bùn, khố rách áo ôm, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, lênh đênh ngày đêm trên sông nước, biển cả để kiếm ăn, một chữ cắn đôi cũng không biết. Và bởi vì biết ơn Chúa, lại còn ơn Chúa ban thêm nữa, cho nên khi Chúa về trời rồi, các ngài rất nổ lực, rất hăng say thực hiện lệnh Chúa truyền: “Vậy các con hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” (Mt 28, 19), để rồi ra đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng, mở mang nước Chúa đến mọi tâm hồn của con người nhân thế qua mọi thời đại.
Lạy Chúa, thánh Phêrô và thánh Phaolô trở thành tông đồ là do tình yêu của Chúa. Các ngài đã lãnh nhận từ nơi Chúa sứ mạng xây dựng Giáo Hội của Chúa ở trần gian này. Các ngài đã đem hết khả năng để chu toàn sứ mạng Chúa trao, dù phải hy sinh mạng sống. Xin cho chúng con biết nối tiếp công việc của các ngài, chúng con cộng tác với Chúa để làm cho Giáo Hội Chúa lang rộng đến mọi nơi, mọi tâm hồn bằng đời sống cầu nguyện, yêu thương, phục vụ, giúp đỡ mọi người.
Lạy Chúa, Chúa đã ban cho chúng con được vui mừng hoan hỷ nhân ngày đại lễ kính hai thánh tông đồ Phê-rô và thánh Phao-lô. Chính nhờ các ngài Hội Thánh đã bắt đầu đón nhận đức tin, xin cho Hội Thánh cũng luôn trung thành tuân giữ lời các ngài giảng dạy. Amen.
62. Thánh Phêrô và Thánh Phaolô Tông đồ
(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
Sau một thời gian giảng dạy và làm nhiều phép lạ, Đức Giêsu muốn biết người ta nghĩ sao về mình và Ngài cũng muốn hỏi các Tông đồ nghĩ sao về Ngài.
Dân chúng biết mù mờ về Đức Giêsu bởi họ không chú ý đến giáo huấn của Ngài. Lúc này đã gần đến giờ của Đức Giêsu, giờ Ngài sắp bước vào cuộc Thương khó – đỉnh cao của chương trình cứu chuộc nhân loại. Ngài muốn các môn đệ xác tín lập trường của mình, để các ông can đảm theo Ngài. Chúng ta cũng không thể biết Đức Giêsu là ai, nếu chúng ta không quan tâm học hỏi và khám phá. Không biết Đức Giêsu là một thiệt thòi lớn lao. Vì chỉ khi biết Đức Giêsu, chúng ta mới đạt được nguồn bình an và hạnh phúc vĩnh cửu.
Có nhiều câu trả lời về Chúa Giêsu: người thì bảo là Êlia, kẻ khác lại bảo là Giêrêmia hay một tiên tri nào đó. Mọi câu trả lời đều nói lên phần nào sứ mệnh của Chúa, nhưng chưa đúng hẳn, tức là dân chúng chỉ coi Chúa Giêsu là một tiên tri, tức là một người được Thiên Chúa sai đến để dọn đường cho Đấng Thiên Sai, chứ chưa phải là Đấng Thiên Sai. Vì thế, chỉ với câu trả lời của ông Phêrô: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”, Chúa Giêsu mới hoàn toàn bằng lòng, tức là ông Phêrô tuyên xưng Chúa là Đấng Thiên Sai. Quả thực, tin nhận Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa hằng sống là diễn tả được cả sứ mạng lẫn con người của Ngài.
Lời đáp trả của Phêrô quả là một lời tuyên xưng: “Ngài là Đức Kitô” tức là Đấng Thiên Chúa sai đến để giải phóng dân tộc. Tuy nhiên chúng ta thấy, trong cái nhìn của Phêrô và phù hợp với giấc mơ chung của các ông, thì Đức Kitô mà các ông mong đợi là Đấng sẽ đánh đuổi ngoại xâm và biến đất nước thành một vương quốc cường thịnh.
Chính vì thế, khi Chúa Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn Ngài phải trải qua, Phêrô đã can gián Ngài. Tuyên xưng một Đức Kitô Cứu Thế mà không chấp nhận con đường thập giá, Chúa Giêsu gọi đó là thái độ của Satan. Ba cám dỗ của Satan đối với Chúa Giêsu đều qui về một mối là khước từ con đường Thập giá. Do đó, khi Phêrô can gián Ngài từ bỏ ý định cứu rỗi bằng con đường Thập giá, Ngài đã gọi Phêrô là Satan.
Phêrô tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống và được Ngài khen là người có phúc. Tuy nhiên, ông không thể chấp nhận Đấng Kitô phải chịu đau khổ và chịu chết như thế được. Cũng như bao người Do thái khác, Phêrô mong đợi một Đấng Kitô như là một vị vua trần thế nắm quyền lực chính trị, giải phóng Israel khỏi ách thống trị Rôma, làm bá chủ thế giới. Nhưng đường lối của Chúa thì khác, con đường hiến thân phục vụ: “Con người đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống làm giá cứu chuộc muôn người” (Mc 10, 45) (5 phút Lời Chúa).
Phêrô và các môn đệ chỉ hiểu được sứ mệnh của Chúa Giêsu khi Ngài từ trong kẻ chết sống lại. Đấng Kitô là một danh hiệu gắn liền với Thập giá. Mang danh hiệu Kitô, tuyên xưng Đức Kitô cũng có nghĩa là chấp nhận đi theo con đường của Ngài. Phêrô và các môn đệ đã sống đến tận cùng lời tuyên xưng của các ông. Tất cả đều lặp lại cái chết khổ hình của Đức Kitô.
Chúng ta ghi dấu Thánh giá trên người chúng ta, chúng ta mang thánh giá trong người chúng ta, đó không là dấu hiệu của sự chết, nhưng là biểu dương của một sức sống của Đấng đã chết, đã phục sinh và đang tác động trong chúng ta. Nói như thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi”. Chúa Kitô sống trong chúng ta để tiếp tục và hoàn tất chương trình cứu rỗi loài người. Chúa Kitô đã vác Thập giá và đã chết một lần, cuộc Tử nạn ấy cần phải được tiếp tục qua các Kitô hữu. Cũng chính thánh Phaolô đã nói: “Tôi cần phải bổ khuyết những gì còn thiếu sót trong cuộc tử nạn của Chúa Kitô” (Mỗi ngày một tin vui).
Truyện: Ý nghĩa của một bức tượng
Nhà điêu khắc Dannecker người Đức, đã để nhiều công khó trong công tác tạc một bức tượng của Chúa Giêsu bằng cẩm thạch. Trong hai năm đầu, bức tượng đã xong, nhà điêu khắc mời một em bé vào phòng vẽ của mình và hỏi em bé rằng:
– Ai đó?
Em bé tức khắc trả lời:
– Một vĩ nhân.
Nhà điêu khắc buồn và nghĩ rằng, công khó của mình trong hai năm kể như đã hỏng. Ông tiếp tục tạc lại trong sáu năm nữa và mời một em bé khác vào phòng vẽ và hỏi:
– Em biết bức tượng này là ai không?
Sau khi nhìn bức tượng một lúc, yên lặng và nước mắt tràn ra đôi mi, em khẽ nói:
– Hỡi những con trẻ đau khổ hãy đến cùng ta!
Nhà điêu khắc thoả mãn, thành công về tác phẩm của mình. Nhà điêu khắc Dannecker sau đó đã tuyên bố:
– Tôi đã thấy Chúa Cứu Thế Giêsu và hình ảnh của Ngài đã thể hiện trong khi tôi tạc bức tượng Ngài bằng cẩm thạch này.
Sau đó ít lâu, hoàng đế Napoléon Bonaparte yêu cầu nhà điêu khắc tạc cho hoàng đế bức tượng nữ thần Vệ Nữ để trưng bày trong viện bảo tàng Louvre, Paris. Hoàng đế hứa sẽ trả cho ông một món tiền rất lớn, nhưng Dannecker từ chối. Ông nói rằng: “Một người đã thấy Đấng Kitô và đã tạc vẽ mặt của Ngài rồi, thì không thể dùng nghệ thuật của mình vào những việc ở đời này được nữa, bởi vì làm như thế là tục hoá nghệ thuật của mình mất rồi”.
63. Thí mạng vì Thầy
(Suy niệm của Logos)
Vào đầu thế kỷ thứ tư, hoàng đế Constantinô cho xây sáu vương cung thánh đường đầu tiên tại Rôma. Nếu có năm thánh đường cùng quay mặt về hướng Đông theo như kiểu các đền thờ lúc bấy giờ, thì riêng đền Thánh Phaolô ngoài bờ tường phía Đông thành phố lại xoay về hướng Tây, đối diện với Đền thánh Phêrô. Đây rõ ràng là một chủ ý trong kiến trúc, như muốn để cho ánh mắt của hai vị Tông đồ bao trùm toàn thể kinh thành của Giáo Hội, đồng thời muốn làm nổi bật ý nghĩa cuộc đời của hai vị thánh đã cùng chung tay dựng xây Giáo Hội, cùng chung lời làm chứng cho Đức Kitô, và giờ đây chắc chắn vẫn chung lời cầu bầu cho toàn thế giới.
Trong lòng Giáo Hội: đá tảng và cột trụ
Ngày Simon được đổi tên thành Phêrô chính là ngày Chúa Giêsu chính thức đặt viên đá đầu tiên xây dựng Giáo Hội. Không còn tên riêng quen thuộc của người ngư phủ, nhưng đã có một tên mới hàm chứa vai trò phải đảm trách cho cả một công trình. Việc xây dựng đã bắt đầu, nhưng diễn biến không hề đơn giản, khối đá còn quá “non”, còn đầy dấu vết của con người (x. Mt 16, 21-23), còn chưa đủ sức đương đầu với gió bão (Mt 14, 30), và thật không ngờ, đã có lần viên đá tảng đó như bị xê dịch khỏi vị trí (Ga 18, 26), và đích thân Đức Kitô phục sinh đã phải ba lần nhấc khối đá lên để đưa trở về đúng chỗ. Đó là chưa kể lần Phêrô phải hỏi Đấng đang vác Thánh giá đi ngược chiều với mình: “Quo vadis?”Cuối cùng, vì vẫn giữ được độ bền của lòng mến, nên “tảng đá”ù đã làm cho người kỹ sư trưởng yên tâm (x. Ga 21, 15-17). Phêrô đã không mất lòng tin, và khi trở lại đã làm cho các anh em nên vững mạnh (x. Lc 22, 31).
Nhưng công việc có quá nhiều đòi hỏi, nên không chỉ một mình Phêrô, cũng không chỉ nhóm Mười Hai đáp ứng được tất cả nhu cầu của công trình đồ sộ mà Đức Kitô muốn thiết lập. Trên nền móng Đức Tin, Giáo Hội còn cần đến những cây cột trụ vững chắc cho giáo lý Tin Mừng luôn phải được loan báo. Trên đường Đamas, Đấng đã tìm thấy Tảng Đá, nay như mới phát hiện một khối cẩm thạch vừa ý. Một cú đập khá mạnh tay rõ ràng là cần thiết để tách Saulô ra khỏi khối núi Lề Luật mà ông đã gắn bó từ lâu, một ánh chớp phải lóe lên để đưa người đồ đệ của Biệt phái ra khỏi bóng mây Cựu ước để có thể nhận ra ánh sáng mới, một câu hỏi được gửi tới để bắt con người nhiệt tình này phải suy nghĩ về điều ông đang làm, và ẩn trong tất cả những gì vừa xảy ra, đó là tiếng gọi của chính Đấng mà ông đang truy bắt. Khi đứng dậy, con người Saulô đã chuyển sang hướng khác.
Trong ngày lễ hôm nay, hai thánh Phêrô và Phaolô nhắc cho chúng ta một điều quan trọng trong đời, đó là dành cho Chúa quyền sử dụng cuộc đời của chúng ta. Phần chúng ta, hãy thưa “vâng”khi nghe tiếng Chúa gọi mời và nhiệt thành cộng tác vào công trình dựng xây Giáo Hội, mỗi người theo ơn gọi riêng của mình. Hãy dùng tình yêu để biến chính mình thành hạt cát, viên sỏi, hòn gạch để góp phần vào công trình cứu thế.
Giữa lòng thế giới: nhà truyền giáo và người qui tụ
Ước vọng của vị kiến trúc sư là thiết kế một Giáo Hội cho mọi người mọi nơi mọi thời, nên công trường không chỉ là Giêrusalem hay Rôma nhưng là cả thế giới ngút ngàn của cánh đồng truyền giáo. Để xây dựng Giáo Hội, Đức Kitô cần đến cả Phêrô lẫn Phaolô. Một Phêrô như dấu chỉ của Giáo Hội tông truyền và thánh thiện, một Phaolô như thừa tác viên của Hội Thánh duy nhất nhưng công giáo trong mọi dị biệt từ muôn dân.
Trong khi Phêrô dựng xây các cộng đoàn cho người Do thái, thì Phaolô xoay bước về phía dân ngoại (x.Cv 13, 46). (Có thể đó cũng là lý do để tên gọi Saulô bằng tiếng aram quá cá biệt đã được thay bằng tên Phaolô hy lạp dễ hội nhập hơn với thế giới đang cần gặp gỡ). Nếu như Phaolô là nhà truyền giáo ra đi không ngưng nghỉ để Tin Mừng cứu độ được loan xa đến tận cùng thế giới, thì Phêrô là hình ảnh của một đoàn Dân có cùng một đức Tin, một phép Rửa và một niềm hy vọng.
Trong cùng một tình yêu của Đấng đã kêu gọi và “thúc bách”các Tông đồ, chúng ta cũng muốn, cùng với Phêrô, “tiến lại gần Đức Kitô”, để trở nên “những viên đá sống động xây nên ngôi Đền thờ thiêng liêng”(1P 2, 4.5), cùng với Phaolô, bước thật gần bên Chúa vì “không có gì có thể tách tôi ra khỏi lòng mến của Đức Kitô”(Rm 8, 35) và đi thật xa để qui tụ muôn loài về cho Thiên Chúa.
Trước mặt muôn dân: hai con người nói chung một lời chứng
Theo truyền thuyết, hai thánh Phêrô và Phaolô, trước ngày tử đạo, đã có dịp gặp lại nói lời từ giã nhau trong một nhà ngục gần Đền Thánh Phaolô ngoại thành hiện nay. Sống không cùng một nơi và làm việc không cùng một trách vụ nhưng cả hai đều biết mình chỉ là “tôi tớ và tông đồ”của cùng một Ông Chủ (x. 2P 1, 1 và Rm 1, 1). Rao giảng không cùng một cách thế, nhưng cả hai đều biết mình chỉ nói về một Người (x. 2P 3, 15). Chết không cùng một ngày, không chịu cùng một hình khổ, nhưng cả hai chỉ có chung một lời chứng, lời chứng rực sáng của những ngọn đuốc soi giữa lòng thế giới, lời chứng trung thành của những người thuộc về Đức Kitô, lời chứng kiên cường của những người môn đệ muốn theo Thầy đến bất cứ nơi nào Thầy đã đi, lời chứng cao cả nhất của những cái chết vì người mình yêu mến. Ở Rôma, người ta vẫn tin rằng, khi Phaolô bị chém, đầu của Ngài đã nẩy lên ba lần trên mặt đất, khơi chảy ba dòng suối (Tre Fontane) như muốn giữ mãi kỷ niệm cái chết của người mang ba quốc tịch: Do thái, Rôma và Nước Trời.
Khi bắt Phêrô treo vào cây thập tự dựng trên sườn đồi Vatican, khi ra lệnh chém đầu Phaolô bên ngoài tường thành Rôma, hẳn hoàng đế Nêron chỉ nghĩ là mình vừa giết được hai thủ lãnh của nhóm kitô hữu bất trị. Chắc chắn những kẻ hành hình không ngờ rằng mình vừa giúp hai vị Tông đồ hoàn tất cử chỉ cuối cùng của cuộc đời dành cho Thiên Chúa và Giáo Hội.
Tôn vinh người cầm chìa khóa Nước Trời và người luôn mang theo những lá thư chất chứa Tình Yêu, Ân sủng và Hiệp thông, chúng ta xin cho được một cõi lòng rộng mở trước lời gọi của trời cao. Cử hành ngày lễ mang màu đỏ hồng của dòng máu tông đồ tử đạo, chúng ta xin cho biết yêu mến điều các ngài tuyên xưng và sống điều các ngài giảng dạy. Mừng kính nền Đá và Trụ cột của Giáo Hội, chúng ta muốn cảm nếm hạnh phúc của những kẻ tí hon đang được ở trên vai những người khổng lồ trong cuộc hành trình từ trần gian về đến quê trời.
64. Hai con người, hai ơn gọi
“Này Phêrô, Thầy bảo cho con biết: Phêrô nghĩa là đá; trên đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy và quyền lực hỏa ngục sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho con chìa khóa Nước Trời; điều gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc…” (Mt 16, 13-19)
Ơn gọi của Phêrô cũng giống như các môn đồ khác. Ngài thuộc nhóm bốn môn đồ đầu tiên. Phêrô và Anrê trước kia là môn đồ của Gioan Tẩy giả. Điều đặc biệt với Phêrô, đó là: ngài là người duy nhất được Chúa Giêsu đổi tên từ Simon ra Phêrô. Theo truyền thống Do thái, điều đó có ý nghĩa là ngài được trao cho một sứ mạng đặc biệt (Mt 16, 16).
Trong khi đó, Phaolô lại được gọi cách bất ngờ, mạnh mẻ. Chúa Giêsu dùng quyền mà khuất phục Phaolô, biến ông từ kẻ chống đối dữ dội, thành tông đồ nhiệt thành. Bài TM hôm nay chỉ đề cập đến Phêrô, nhưng chắc chắn không làm lu mờ địa vị của Phaolô.
- Qua bài Tin Mừng này, qua lời tuyên xưng của Phêrô, Chúa Kitô nhận ra ngay Ý Chúa Cha chọn Phêrô, nên mới soi sáng cho Phêrô biết bản tính siêu việt của Thiên Chúa. Vì thế, Chúa Kitô liền tuyên bố thiết lâp Hội Thánh trên nền tảng “Đá Phêrô” và công bố quyền lực tử thần không lấn át nổi; đồng thời Người cũng trao chìa khóa Nước Trời cho Phêrô.
Người ta có thể trách Chúa Giêsu, sao lai chọn các môn đồ tệ đến như vậy! Phêrô chối Chúa ba lần; Phaolô bắt bớ dữ dôi Hội Thánh Chúa. Thực ra, sau khi Chúa Thánh Thần đến, các ông hoàn toàn biến đổi, biến đổi đến ta phải kinh ngạc, sửng sờ. Người ta thường trách Chúa Giêsu vì đã chọn Phêrô là người chối Chúa; trách như thế là lầm to; Chúa Kitô hiểu rõ Phêrô hơn ta nhiều! Trên đời này, trừ Mẹ Maria ra, khó có người nào đã không sai lầm hay yếu đuối trong cuộc sống.Người ta lại càng ngạc nhiên hơn nữa khi nhìn đến cuộc đời của Phaolô, càng cho ta thấy rõ về ơn sủng của TC tác động trong tâm hồn chúng ta mạnh mẻ là chừng nào! Trước khi bị Thiên Chúa khuất phục, Phalolô còn rất trẻ, lại có thế giá trong giáo quyền Do thái. Là người biệt phái nhiệt thành, lại có quốc tịch Rôma nữa. Vậy mà khi bị Chúa chiếm hữu, Phaolô hoàn toàn đổi mới; từ một người bắt bớ các tín hữu Kitô, Phaolô nay là nhà truyền giáo lỗi lạc, không hổ thẹn, với sự nghiệp truyền giáo đồ sộ, là nhà thần học xuất sắc. Vậy mà tất cả những gì Phaolô làm được, ngài cho là chỉ do ân sủng của Thiên Chúa mà thôi (1 Cor 3, 5+). Phaolô khẳng định mạnh mẻ: “Đối với tôi, sống là Đức Kitô”. “Tôi không muốn biết điều gì khác, ngoài Đức Kitô chịu đóng đinh”. “Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gal 2, 20) Thực ra, cả hai vị tông đồ đều đi cùng một con đường: “đến với Đức Kitô, vì Đức Kitô và cho Đức Kitô” như lời Phaolô nói: “Tôi biết, tôi đang tin vào ai…”.
- Mỗi người Kitô hữu chúng ta khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, là lãnh nhận cùng một sứ mạng như hai vị tông đồ cả mà chúng ta kính nhớ hôm nay. Dù chúng ta không có địa vị như các ngài, thánh thiện, tài năng như các ngài; tuy nhiên điều quan trọng Chúa đòi hỏi nơi mỗi người chúng ta, không phải là ta sẽ làm được điều gì, hơn là chúng ta sẵn sàng sống và chết cho Đức Kitô, như lời Phaolô nói: Tôi không muốn biết điều gì khác ngoài Đức Kitô.
Hội Thánh Chúa Kitô, được xây dựng trên những con người bề ngoài có vẽ tầm thường; nhưng rõ ràng với ơn sũng của Thánh Thần, Hội Thánh không có gì mà không làm được. Ta có tin vào Hội Thánh, nhất là tin vào Chúa Kitô là Đầu của Hội Thánh không?
65. Trụ cột của Giáo Hội
Có thể nói, không ai liều mạng hơn Đức Giêsu trong việc tuyển chọn môn đồ để kế tục sự nghiệp của mình. Trong nhóm 12 môn đệ ruột, có những thành phần bị coi là rốt cùng trong xã hội: chài lưới, thu thuế, trộm cắp… Hậu quả của việc liều mạng ấy là có người chối Thầy, có người bán Thầy, có người chạy thục mạng khi Thầy gặp nguy hiểm… Và hình như việc đó còn chưa làm Ngài thất vọng và chán nản, nên còn tuyển thêm một đồ đệ vốn là “thù địch” của mình nữa. Việc làm như thế nếu không liều mạng thì sẽ gọi tên là gì? Chúa biết! Hôm nay, Giáo hội mừng kính 2 vị thánh tông đồ Phêrô và Phaolô, cột trụ của Giáo hội Chúa. Chúng ta hãy cùng suy gẫm đôi điều về cuộc đời của hai vị tông đồ trụ cột này để thấy được tình thương và sức mạnh của Thiên Chúa dành cho con người chúng ta.
Nhìn lại “thành tích” quá khứ của 2 vị tông đồ này, chúng ta cảm thấy hơi ngán ngại. Nếu Phêrô chối Đức Giêsu trong cơn nguy khốn và cô đơn tuyệt đỉnh thì Phaolô ở trong tình trạng căng thẳng hơn nhiều. Vì quá nhiệt thành với Do thái giáo, nên Phaolô rất dị ứng với Kitô giáo. Ông muốn tẩy trừ Danh Đức Giêsu Kitô ra khỏi cuộc đời này. Vì thế, ông rất hăng say bắt bớ và giết hại những ai xưng mình là Kitô hữu. Dù vậy, Chúa vẫn thương ông vì biết ông hành động do không hiểu biết và lầm lạc cách vô tình. Chúa nhìn thấu tâm hồn của ông chứ không theo những gì là bên ngoài. Hơn thế nữa, Ngài còn coi: “người này là lợi khí của Ta”. Biến cố Phaolô ngã ngựa trên đường đi Đamas mang nhiều ý nghĩa thâm sâu, nhưng trên hết là biến cố của lòng thương xót Chúa dành cho Phaolô nói riêng và cho con người chúng ta nói chung.
Giáo hội được xây trên nền tảng các tông đồ, những con người yếu kém và nhiều sai lỗi. Thế nhưng, Giáo hội đã trở thành men trong bột và làm cho cả khối bột là thế giới này dậy men. Chúa muốn cho con người nhận ra sự thật này là: Chúa yêu thương con người và muốn con người hãy tín thác vào Chúa, chứ đừng cậy dựa vào sức riêng của mình. Thế giới đang được Chúa yêu thương và chăm sóc từng giây từng phút, nhưng ít có ai nhận ra được điều đó. Đa số con người vẫn nghĩ rằng Chúa ban ơn cho họ cũng giống như một người nào đó tặng quà cho họ; lâu lâu một lần, có cũng được, không có cũng được. Đó là một sai lầm tai hại. Chúng ta cần xác tín rằng, nếu Chúa không giữ gìn ta và không chăm sóc dù chỉ một giây thôi thì chúng ta sẽ ra tro bụi hết. Đó là một huyền nhiệm của tình yêu mà chúng ta cần ý thức lại và tái khám phá để cuộc sống của chúng ta thêm an vui và hạnh phúc trong Chúa.
“Người ta bảo Thầy là ai?” Phêrô đã trả lời rất đúng “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” Trả lời như thế nhưng ông chưa hiểu rõ Con Người của Đức Giêsu cũng như sứ mạng của Ngài bao nhiêu. Do đó, ông đã nhát đảm và chối Chúa khi gặp gian nan khốn khó. Nhưng sau này, khi hiểu được Đức Giêsu Kitô cùng tận nhờ Chúa Thánh Thần, ông đã hết hết tình vì Danh Đức Giêsu Kitô.
Phaolô sau khi trở lại cũng có một niềm xác tín thâm sâu vào Đức Giêsu. Phaolô đã trả lời câu hỏi “Đức Giêsu là ai” như sau: “Người là Thiên Chúa, Đấng vượt trên mọi sự” (Rm 9, 5). Với niềm xác tín ấy, Phaolô đã sống hết mình vì Đức Giêsu Kitô, bất chấp mọi gian nguy khốn khó trong cuộc đời này nhằm cản bước tiến của ông trong việc làm chứng cho Đức Giêsu Kitô. Còn chúng ta thì sao? Đức Giêsu là ai trong cuộc đời của tôi và của bạn? Ngài có ảnh hưởng gì trên cuộc đời của chúng ta không? Câu hỏi ấy dành riêng cho mỗi người chúng ta. Khi nào chúng ta trả lời được Ngài là ai cách xác tín và mạnh mẽ, chúng ta mới có thể sống trọn vẹn cho Ngài mà thôi.
Tin tưởng vào tình thương của Thiên Chúa biểu lộ cách cụ thể nơi Đức Giêsu, chúng ta sẽ cảm thấy được an ủi để làm lại cuộc đời, một cuộc đời vốn đầy tội lỗi như Phêrô khi chối Chúa, như Phaolô trước khi gặp Chúa và được Chúa hoán cải. Hãy nhớ lại xem, trước sai lỗi của các tông đồ, Chúa Giêsu đã làm gì? Ngài không hề trách móc các ông, nhưng dùng tình thương để cảm hoá các ông. Đó có thể là ánh mắt thoáng buồn của Đức Giêsu nhìn vào Phêrô; đó có thể là việc cho Phaolô ngã ngựa và mù loà… và tình thương chứ không phải hận thù đã chiến thắng, đã qui phục được lòng người. Thiên Chúa là tình yêu và Ngài luôn hành động vì tình yêu và chờ đợi con người đáp trả lại cách tự do. Chúa vẫn hỏi mỗi người chúng ta như Chúa đã hỏi Phêrô ngày xưa: “Con có yêu mến Thầy hơn những người này không?” Nếu chúng ta thật lòng mến Chúa thì chúng ta cũng phải yêu mến anh em mình, dù cho đó là con người khó thương nhất.
Nơi bệnh viện mà nữ tu Antoinette đang phục vụ có một ông lính già cực kỳ khó tính. Gặp ai ông cũng nhăn nhó, nạt nộ. Có chuyện gì trái ý, ông la lối rùm beng lên.
Ngày kia, đang mải mê phục vụ, nữ tu Antoinette nghe tiếng “lính già khó tính” hét lớn: Đem cho tôi một quả trứng luộc”. Antoinette vui vẻ đem quả trứng đến cho ông.
– Trứng chưa chín đủ mà cũng đem tới à? Lính già khó tính nhăn nhó. Antoinette tươi cười đem trứng đi luộc lại.
– Trứng gì mà luộc chín quá vậy? Vô ý vô tứ quá!
Antoinette chẳng biết làm sao. Chị bèn đi lấy một cái bếp lò đến kê bên giường và trao cho ông lính già khó tính một cái trứng để luộc cho vừa ý ông. Ông lính già thấy thế nổi máu nóng lên, đạp đổ bếp lò, quẳng quả trứng xuống nền gạch, miệng quát lớn: “Cô không biết tôi là bệnh nhân sao? Bệnh nhân mà đi luộc trứng à?”
Nữ tu Antoinette chẳng nói nửa lời, thinh lặng cúi xuống thu nhặt, quét dọn… Lát sau, chi đem đến cho ông lính già khó tính một cái trứng khác: “Ông cố gắng dùng thử cái trứng này, tôi luộc vừa chín thôi?” Bất giác, ông lính già rùng mình cảm động, nói lí nhí trong miệng: “Tôi ăn quả trứng này cũng là ăn lòng tốt của cô nữa.”
Tình yêu có sức biến đổi lạ lùng hơn bất cứ một biến đổi ngoạn mục nào, nhất là nó có khả năng biến đổi cả lòng người nữa.Ước gì chúng ta biết noi gương theo Thầy Chí Thánh Giêsu luôn nhìn thấy những điều tốt đẹp nơi con người và luôn hy vọng vào những người đang lầm lạc trong cuộc đời này để dùng tình yêu mà cảm hoá họ.
Xin cho chúng ta luôn biết nhẫn nại và quảng đại với những sai lỗi của con người và luôn coi họ hành động sai lầm vì họ không biết và ngây ngô mà thôi. Chắc chắn rằng khi chúng ta biết hành động yêu thương như Chúa, như nữ tu Antoinette, chúng ta sẽ trở thành những tông đồ “trụ cột” như hai thánh Phêrô và Phaolô mà chúng ta mùng kính hôm nay.
66. Lòng yêu mến
Nhìn vào cuộc đời của hai thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ, chúng ta thấy có nhiều điểm rất giống nhau. Tuy nhiên, điểm giống nhau chúng ta cùng chia sẻ trong một vài phút ngắn ngủi này, đó là lòng yêu mến Chúa. Thực vậy, Thánh Giacôbê Tông Đồ đã viết: Đức tin không có việc làm thì chỉ là một đức tin đã chết. Và theo tôi nghĩ: lòng yêu mến chính là sự triển nở, hay nói cách khác, chính là hoa trái của đức tin. Người có một đức tin sâu xa và kiên vững phải sống thích hợp với đức tin ấy bằng một cuộc sống ngập tràn tình yêu mến đối với Thiên Chúa. Thánh Phêrô và thánh Phaolô, hai vị Tông Đồ chúng ta mừng kính hôm nay, đã có một đức tin sát đá và sáng chói, thì chắc chắn các ngài cũng phải có một lòng mến dạt dào và nồng thắm.
Trước hết là thánh Phêrô.
Như chúng ta đã biết: Sau lời mời gọi của Chúa Giêsu, Phêrô đã bỏ mọi sự mà đi theo Chúa. Khi Chúa Giêsu loan báo cuộc hành trình tiến về Giêrusalem, ở đó Người sẽ phải đau khổ và bị giết chết, thì Phêrô đã phản đối, vì thánh nhân không muốn Đấng mình yêu mến phải đón nhận một số phận hẩm hưu như thế và Phêrô đã lên tiếng can ngăn: Xin Thiên Chúa gìn giữ Thầy để điều đó không xảy ra. Tình yêu, một khi bị chi phối bởi những lý do trần tục, sẽ làm cho chúng ta dễ dàng lầm đường lạc lối như vậy.
Phêrô luôn mang trong mình một trái tim nóng cháy tình yêu. Thực vậy, trong cuộc tử nạn của Chúa Giêsu, thánh nhân đã mạnh mẽ và dứt khoát thề thốt với Ngài: Cho dù mọi người có phản bội Thầy, nhưng con sẽ không bao giờ. Cho dù có phải chết cung Thầy, con cũng xin vâng. Mặc dù chúng ta biết Phêrô đã chối Chúa ba lần trong sân nhà thầy cả Thượng phẩm, nhưng thánh nhân vẫn được Chúa chọn và đặt làm đầu Hội Thánh vì Phêrô đã biết ăn năn sám hối và đã quyết tâm trở về với lòng yêu mến đối với Chúa. Thực vậy, sau khi sống lại Chúa Giêsu đã hiện ra bên bờ hồ Tibêriade và ba lần Người đã hỏi Phêrô: Con có yêu mến Thầy hơn những người này không? Và cũng ba lần, Phêrô đã xác quyết tình yêu của mình đối với Người: Lạy Thầy, Thầy biết rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy. Và thánh Augustinô đã diễn giải cho chúng ta hiểu thêm như sau: Thánh Gioan có thể đã yêu mến Chúa bằng một tình yêu đậm đà và nồng nàn hơn, nhưng chính thánh Phêrô mới yêu mến Chúa bằng một tình yêu hăng say và quảng đại hơn.
Tiếp đến là thánh Phaolô.
Trong các thánh Tông Đồ, chúng ta tìm đâu cho ra một trái tim bừng cháy lửa yêu mến, nếu không phải là trái tim của thánh Phaolô, vị Tông Đồ dân ngoại. Thực vậy, thánh Phaolô đã có lý khi kêu lên: Ai có thể dứt bỏ chúng tôi ra khỏi tình yêu Đức Kitô? Phải chăng là bắt bớ, đau khổ, lao tù và chết chóc sao? Và thánh nhân đã kết luận: Không có gì khả dĩ dứt bỏ chúng tôi ra khỏi tình yêu Đức Kitô. Nơi khác, thánh Phaolô còn xác quyết mạnh mẽ hơn: Dù tôi có nói được tiếng nói của các thiên thần và loài người, mà không có tình mến, thì tôi chỉ là như tiếng não bạt ầm vang. Dù tôi có ơn nói tiên tri hay biết được những màu nhiệm của khoa học, dù tôi có được một đức tin chuyển núi dời sông, mà không có tình mến, thì cũng chẳng ích lợi gì cho tôi. Dù tôi có bố thí mọi của cải, chịu mọi đớn đau cực hình, mà không có tình mến, thì cũng chỉ là uổng công vô ích mà thôi. Không phải chỉ nói trên môi trên miệng, mà hơn thế nữa, thánh nhân còn thực hiện trong đời sống của mình: Thánh nhân đã phải chịu đựng mọi khổ đau và thiếu thốn, mọi đòn vọt và tù ngục, để rao giàng Tin Mừng và chứng tỏ lòng yêu mến mình dành cho Chúa. Đối với thánh nhân, cái chết chính là mũ triều thiên của những người đã trung thành yêu mến Chúa.
Cũng chính tình yêu mến này đã thúc đẩy hai thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ hy sinh mạng sống để trở nên những chứng nhân cho Tin Mừng. Thánh Phêrô đã bị đóng đanh vào thập giá dưới thời bạo vương Nêrôn. Còn thánh Phaolô, sau nhiều ngày bị giam cầm, đã bị chém đâu trên đường Ostia, gần Rôma.
Dưới một góc độ nào đó, chúng ta có thể nói: Thánh Phêrô và thánh Phaolô, cả hai đều là những người cha của chúng ta trong đức tin, đều là những người thầy của chúng ta trong đức ái, vì thế, hãy noi gương bắt chước các ngài, yêu mến Chúa mỗi ngày một hơn, bởi vì với lòng yêu mến, thì mỗi ngày trong đời sống sẽ là một bước chúng ta tiến đến gần Chúa hơn trên quê hương Nước Trời.
67. Suy niệm của JKN
ÔNG PHÊRÔ TUYÊN XƯNG ĐỨC GIÊSU LÀ CON THIÊN CHÚA
Câu hỏi gợi ý:
- Nếu Đức Giêsu hỏi bạn: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”, thì bạn trả lời theo những gì bạn chứng nghiệm về Ngài, hay theo sự hiểu biết học được từ người khác?
- Là Kitô hữu, bạn đã có những cảm nghiệm thực tế và cụ thể về Đức Giêsu chưa, hay chỉ có một mớ những hiểu biết lý thuyết về Ngài, dù rất uyên bác sâu rộng?
- Bạn có muốn thật sự cảm nghiệm về Ngài không? Bạn đã từng nỗ lực làm điều này chưa? Theo bạn, phải làm sao để cảm nghiệm được Ngài?
Suy tư gợi ý:
- “Người ta nói…”, nhưng “còn anh em…” thì sao?
Khi trình bày về Thiên Chúa, về Đức Giêsu, chúng ta thường trình bày một cách lý thuyết, dựa trên những bài bản có sẵn, do người khác soạn sẵn, suy nghĩ sẵn, chúng ta chỉ việc nói theo đó. Điều đó cũng phần nào hợp lý, vì có dựa trên những bài bản có sẵn đó, thì những người nói về Thiên Chúa hay Đức Giêsu mới có sự đồng nhất với nhau. Nếu mỗi người đều nói theo quan niệm hay suy tư riêng của mình, thì sẽ thành ra mỗi người nói một kiểu, người nghe biết tin theo ai. Nhưng lý thuyết vẫn luôn luôn là lý thuyết, là cái gì ở ngoài mình, và được áp đặt xuống cho mình. Xét cho cùng đó chỉ là cái “người ta nói”, còn ta chỉ là người nói theo thôi. Trong bài Tin Mừng hôm nay, ta thấy Đức Giêsu hỏi các môn đệ hai câu khác hẳn nhau: “Người ta nói Con Người là ai?” và “còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Rõ ràng trong hai câu hỏi, Đức Giêsu coi câu sau quan trọng hơn câu trước rất nhiều. Ngài chỉ dựa vào câu trả lời cho câu hỏi sau để xem ai là người đáng Ngài tin cậy nhất.
- Điều quan trọng là cảm nghiệm thực tế về Đức Giêsu
Điều quan trọng không phải là những điều chúng ta nghe biết về Thiên Chúa hay Đức Giêsu. Đó là những điều chúng ta học được trong sách giáo lý, hay đọc được từ những tác phẩm thần học… Đó toàn là những điều “người ta nói” về Ngài, chứ không phải là những điều chính bản thân ta cảm nghiệm được về Ngài. Chính những cảm nghiệm đích thực về Ngài mới có khả năng làm ta yêu mến Ngài và dám dấn thân sống chết cho Ngài. Thật vậy, làm sao có thể yêu mến và dấn thân cho một người mà mình chỉ biết trên lý thuyết, chứ chưa từng gặp mặt, chưa từng có một quan hệ ngoại giao hay tình cảm nào? Nhưng làm sao có được những cảm nghiệm về Thiên Chúa hay Đức Giêsu? làm sao có được quan hệ tình cảm riêng tư với Ngài, khi mà Ngài vô hình, ta chẳng hề thấy hay gặp bao giờ?
- Làm sao cảm nghiệm được Ngài?
Vấn đề rất quan trọng trong đời sống Kitô hữu đích thực là phải cảm nghiệm được sự hiện diện và hoạt động của Ngài trong đời sống của ta, và có được một quan hệ riêng tư và tình cảm với Ngài. Nếu không có được cảm nghiệm và quan hệ này, Thiên Chúa hay Đức Giêsu vẫn chỉ là một ý niệm trong đầu óc ta không hơn không kém. Ý niệm ấy chẳng khác gì ý niệm về ánh sáng hay mầu sắc của một người mù bẩm sinh, sở dĩ có được là do nghe người khác nói.
- a) Cần thường xuyên ý thức Ngài hiện diện trong bản thân ta
Cảm nghiệm về Thiên Chúa hay Đức Giêsu phải khởi đi từ niềm tin này, là tin Ngài thật sự hiện diện trong tâm hồn ta. Đây là sự thật làm nền tảng cho đời sống tâm linh của ta, và là một tiêu chuẩn để biết mình có đức tin Kitô hữu hay không. Thật vậy, thánh Phaolô nói: “Anh em hãy tự xét xem mình có còn sống trong đức tin hay không. Hãy tự kiểm điểm xem: anh em chẳng nhận thấy có Đức Giêsu Kitô ở trong anh em sao?” (2Cr 13,5). Chúng ta không có may mắn gặp hay cảm nghiệm được Ngài bằng xương bằng thịt cách hữu hình như các tông đồ xưa. Tuy nhiên, dẫu có may mắn đó, chưa chắc ta đã “gặp” được Ngài thật sự. Biết bao người sống vào thời Đức Giêsu – chẳng hạn những người Pharisiêu hay các kinh sư Do-thái – đã từng thấy Ngài, nói chuyện với Ngài, nhưng đâu có “gặp” được Ngài, đâu có quan hệ riêng tư và tình cảm với Ngài! Vì sao? Vì “hữu duyên thiên lý năng tương ngộ, vô duyên đối diện bất tương phùng” (có duyên với nhau thì dù xa cách ngàn dặm cũng vẫn có thể gặp nhau, còn không có duyên với nhau thì có mặt chạm mặt cũng không thể gặp nhau). Hễ có duyên với Ngài thì sẽ khao khát muốn gặp Ngài và sẽ đi tìm Ngài. Mà hễ đã thật sự đi tìm thì ắt nhiên sẽ gặp, vì “ai tìm sẽ thấy” (Mt 7,8).
Sự hiện diện của Ngài trong bản thân ta đã được chính Ngài xác nhận: “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Thánh Phaolô cũng nói: “Chỉ có Đức Kitô là tất cả và ở trong mọi người” (Cl 3,11); “Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em” (Gl 4,6).
Vấn đề hết sức quan trọng là ta phải thường xuyên ý thức sự hiện diện ấy, đồng thời tin tưởng rằng Ngài là nguồn sức mạnh, nguồn yêu thương; và với Ngài, ta có thể làm được tất cả mọi sự (x. Pl 4,13).
- b) Cần tạo điều kiện để Ngài tự do hoạt động trong ta
Điều quan trọng thứ hai để Ngài có thể hoạt động hữu hiệu trong ta là phải để cho Ngài được tự do hoạt động. Điều làm cho Ngài không thể tự do hoạt động trong ta chính là ý riêng của ta và sự thiếu cộng tác của ta. Nếu ta coi nhẹ ý riêng mình để lúc nào cũng sẵn sàng cộng tác với Ngài thực hiện những gì Ngài muốn làm trong ta, thì ta sẽ thấy Ngài dần dần thực hiện được trong ta những thay đổi lớn lao. Chính Đức Giêsu cũng coi nhẹ ý riêng của Ngài, và luôn cộng tác với thánh ý Chúa Cha: “Tôi tự trời mà xuống, không phải để làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi” (Ga 6,38); “Tôi không tìm cách làm theo ý riêng tôi, nhưng theo ý Đấng đã sai tôi” (Ga 5,30); “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy” (Ga 4,34). – Nhưng làm sao biết được ý của Ngài thế nào?
Ý của Ngài được biểu lộ:
(1) trước hết và đặc biệt trong lời của Ngài, được ghi chép trong Kinh Thánh,
(2) trong luật của Ngài (được tóm lại trong hai chữ yêu thương),
(3) trong tiếng lương tâm của ta,
(4) trong các bổn phận và trách nhiệm của ta đối với Thiên Chúa, bản thân, tha nhân, gia đình, xã hội và Giáo Hội,
(5) trong các biến cố khách quan – tức xảy ra độc lập với ý muốn của ta – trong đời sống. Ngài dùng những biến cố này để thánh hóa ta.
Chỉ cần thực hiện được hai điều quan trọng trên thì tự nhiên giữa ta với Đức Giêsu càng ngày càng có một quan hệ mật thiết hơn. Dần dần, ta nhận ra Ngài đúng là một nhân vật, tuy vô hình nhưng rất “cụ thể”, có thể cảm nghiệm được cách sống động và rõ rệt. Ngài đóng một vai trò quan trọng trong đời sống ta, ảnh hưởng và biến đổi đời sống ta một cách mạnh mẽ, hữu hiệu.
- Người có đức tin sống động là nền tảng của Giáo Hội
Có cảm nghiệm được Ngài, ta mới có thể trả lời đúng ý Ngài câu hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Ngài muốn ta trả lời dựa trên chính kinh nghiệm của ta chứ không phải dựa trên những bài bản, trên những gì ta chỉ được nghe và ép lòng mình phải tin. Chỉ lúc đó, đức tin của ta mới trở thành đức tin đích thực, đến từ cảm nghiệm thực tế, chứ không chỉ đến từ một chấp nhận xuông của lý trí với tác động của ý chí. Chỉ đức tin ấy mới đủ sức mạnh để thúc đẩy ta thật sự dấn thân cho Thiên Chúa và tha nhân. Ta phải làm sao nói được như những người Samari xưa: “Không phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin, mà vì chính chúng tôi đã đích thân nghe Người nói và nhận ra rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian” (Ga 4,41).
Chỉ lúc đó, Đức Giêsu mới có thể nói với ta như đã nói với Phêrô: “Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi”. Theo ngữ cảnh của bài Tin Mừng này, Đức Giêsu nói với Phêrô câu ấy vì ông là người có đức tin mạnh mẽ, chứ không phải vì ông là trưởng nhóm các tông đồ. Thật vậy, trong thực tế từ xưa đến nay, Giáo Hội được xây dựng và tồn tại trên những đá tảng vững chắc là những người có đức tin sống động, dù họ là giáo dân, tu sĩ hay giáo sĩ. Chứ Giáo Hội không được xây trên những người đạt được những quyền cao chức trọng trong Giáo Hội nhưng lại không có đủ đức tin và tình yêu, không có một tương quan thật sự với Đức Giêsu. Lịch sử Giáo Hội đã chứng tỏ những người này chẳng những không làm vững chắc mà còn làm lung lay tòa nhà Giáo Hội nữa.
Ước gì mỗi người chúng ta có thể nói tương tự như Phêrô, nghĩa là nói bằng chính cảm nghiệm của mình, chứ không phải lập lại một cách máy móc lời của một người khác: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Đức Giêsu mong muốn chúng ta nói được như thế!
Cầu nguyện
Lạy Cha, đức tin và tình yêu đích thực không hề đến từ những hiểu biết có tính lý thuyết, mà đến từ khát vọng muốn cảm nghiệm được Cha và lòng quyết tâm đi tìm cảm nghiệm ấy. Xin đừng để con thỏa mãn và dừng lại nơi những hiểu biết về Cha, mà quyết tâm tìm cách cảm nghiệm Cha. Đừng để con giống như kẻ “ăn bã mía”, thấy người ta ăn mía khen ngọt, mình cũng nhai lại những bã ấy và bắt chước họ khen ngọt. Xin cho con cảm nếm được Cha, thưởng thức được sự ngọt ngào của tình yêu Cha dành cho con.
68. Mẫu gương
Hôm nay Giáo Hội mừng lễ thánh Phêrô và Phaolô, hai cột trụ của Giáo Hội. Nhờ đó mà Giáo hội có thể đứng vững trong ơn thánh của Thiên Chúa. Thánh Phêrô và thánh Phaolô đã đem Tin mừng cho thành Rôma và biến nơi trung tâm ngoạI giáo này thành trung tâm Kitô giáo. Chính nơi đây, Thánh Phêrô và những người kế vị ngài sẽ thực hiện việc thánh hoá, giảng dạy và cai quản dân Chúa trên khắp địa cầu.
Sau khi Phêrô thay mặt các tông đồ tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, chính Đức Giêsu đã nói với Phêrô: Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng Đá này, Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy và cửa địa ngục sẽ không thắng được. Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá nước trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng cầm buộc như vậy; dưới đất anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy. Đức Giêsu đã đặt Phêrô làm Đá Tảng xây Hội Thánh Chúa và trao quyền cầm buộc tháo cởi (vốn là đặc quyền của thiên Chúa) cho Phêrô.
Phêrô là trưởng nhóm 12 và là đại diện của Chúa ở trần gian. Ông đã chối Chúa nhưng đã ăn năn thật lòng. Trước khi về trời, Ngài không nhắc lại lỗi lầm của Phêrô, để ông khỏi hổ thẹn về quá khứ nhưng giao cho Phêrô công việc coi sóc đoàn chiên Chúa: Nếu con yêu mến Thầy, con hãy chăm sóc các chiên của Thầy, yêu mến các chiên của Thầy và đưa về đàn những chiên chưa thuộc đàn này. Sự sống mà Phêrô sẵn sàng hiến dâng cho Thầy thì hãy hiến dâng cho chiên của Thầy. Điều này cho thấy Chúa Giêsu quan tâm chăm sóc chúng ta tới mức độ nào. Việc phục vụ anh em là bằng chứng tình yêu lớn nhất của Phêrô đối với Đức Giêsu. Ngày nay Chúa Giêsu cũng ngỏ lời với mỗi người chúng ta như thế, những gì chúng ta muốn phục vụ cho Chúa để tỏ lòng biết ơn Ngài thì chúng ta hãy làm cho anh em mình. Chúng ta đừng bao giờ trả lời với Chúa như những ngừơi trong Mt 24: chúng tôi đâu có thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống… những người không biết tỏ lòng yêu thương anh em thì Chúa cũng không thể tỏ lòng thương xót họ trong ngày sau hết!
Chúa Giêsu muốn Phêrô nói rõ rằng Phêrô yêu mến Ngài. Quả vậy, Phêrô hết lòng yêu mến Chúa Giêsu. Phêrô đã tận tâm tận lực rao giảng Tin Mừng, không sợ gì đòn vọt hy sinh; tất cả vì Giáo Hội của Ngài, cho đoàn chiên của Ngài. Phêrô lấy làm vinh hạnh khi được chịu khổ vì Đức Kitô. Mỗi khi bị đánh đòn trước công chúng, các ngài không tức giận những người đánh mình. Trái lại còn hân hoan bởi được chịu khổ nhục vì danh Đức Kitô (Cv 5, 41). Cuối cùng, Phêrô chết trên thập giá để làm chứng về tình yêu của Ngài đốiI với nhân loại.
Chúa Giêsu cũng thích chúng con nói với Ngài rằng chúng con yêu mến Ngài. Nhờ đó, Ngài có thể dạy dỗ chúng con, giúp chúng con mỗi ngày một trưởng thành hơn, luôn theo sát bên Ngài và cộng tác với Ngài trong công trình cứu độ loài người. vấn đề là bây giờ con có dám nói với Chúa là “con yêu mến Chúa” hay không? Nếu Ngài đòi con tỏ tình yêu bằng những việc hy sinh, con có vui lòng chịu hay không? Yêu mến Chúa là làm theo ý Chúa, cụ thể trong việc hăng hái làm việc bổn phận hiện tại, kế đó là phục vụ những người nghèo về tinh thần hoặc vật chất. Phục vụ đòi hỏi nhiều hy sinh, chịu cực, mất mát thời giờ, tiền bạc, sức khoẻ… mà không đòi phải được đáp trả. Chính Chúa sẽ trả cho chúng ta trong ngày sau hết. Điều này đòi hỏi phải có lòng Tin, Cậy, Mến và tinh thần quảng đại phó thác.
Phêrô và những người kế vị ngài có nhiệm vụ giữ gìn đức tin của Giáo hội toàn cầu theo đúng mạc khải của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô. Phần chúng ta hãy hiệp một lòng một ý cùng Hội Thánh Chúa và góp phần của mình vào để Hội Thánh ngày một phát triển và đem ơn cứu độ đến cho mọi người.
Lạy Thánh Phêrô là người giữ chìa khoá cửa Thiên đàng, xin cầu cho chúng con là những người trong Giáo hội của Thầy Chí Thánh Giêsu được luôn trung thành với Chúa Kitô, nhiệt thành rao giảng và làm chứng cho Ngài. Xin cho những ai sa ngã, biết mau chóng ăn năn thống hối và chỗi dậy như Phêrô. Phần chúng con, chúng con sẽ cố gắng yêu mến Chúa hết lòng hết sức và trở nên những môn đệ nhiệt thành. Xin Chúa gìn giữ chúng con khỏi nao núng giữa cảnh đời đầy cám dỗ và thử thách gian truân.
69. Tuyên xưng
Đức Giêsu cùng các môn đệ đi đến địa hạt Cêsarê Philiphê. Đây là thành phố ở chân núi Mermon, phía bắc cách hồ Tibêria chừng 40 cây số. Chi tiếc này cho thấy Hội Thánh Chúa không còn giới hạn trong ranh giới Do Thái. Có thể nói công cuộc truyền giáo đánh dấu một thời kỳ mới, một giai đoạn chuyển tiếp. Giai đoạn này như một cuộc cách mạng đổi mới toàn bộ tâm tư và cách nhìn của người khác về Đức Kitô. Mặc dù Đức Giêsu hiểu đến tận cõi lòng thâm sâu của các môn đệ mình, nhưng Ngài vẫn muốn có một trắc nghiệm về nhận thức của dân chúng và câu khẳng định của các tông đồ “người ta bảo Thầy là ai?” và “anh em bảo Thầy là ai?”. Cuối cùng câu trả lời của tông đồ Phêrô đã làm vừa lòng Thầy mình: “Thầy là Đức Kitô con Thiên Chúa Hằng Sống”. Đó như là một phần thưởng, là kết quả mà chỉ có Phêrô mới được ban cho đặc ân đó. Có thể nói Phêrô làm được một điều mà chưa người nào làm được. Đức Giêsu đã chỉ cho ông thấy không phải do nỗ lực cá nhân mà ông làm được điều đó, mà là “Cha của Thầy Đấng ngự trên trời”. Thật đúng thế! Xét về tài năng ông vẫn kém hơn các môn đệ khác, xét về lòng can đảm thì lại càng xấu hổ hơn khi ông chối thầy ba lần… nhưng với nỗ lực cá nhân cộng với ơn Chúa Phêrô trở thành con người mạnh mẽ lạ thường. Ông đã mạnh dạn tuyên xưng về Đức Kitô với một định nghĩa đầy đủ nhất về Ngài, để thốt lên được điều mà dân chúng không thể thốt lên đòi hỏi phải có những điều kiện:
- Biết kết hiệp với Chúa.
Người ta thường nói “vô tri bất mộ”, phải biết thì mới mộ mến, mới yêu. Nhưng chỉ dùng với những tri thức tầm thường, những hiểu biết khoa học nhỏ bé để nói về Thiên Chúa, thì không thể định nghĩa về Ngài. Những sai lầm của dân chúng hôm nay là quá dựa vào những tri thức, mà mình biết để định nghĩa về Thiên Chúa, kẻ cho là Gioan Tẩy Giả, sở dĩ có dư luận này là do lời nói của Hêrôđê Antipas, cho rằng Gioan Tẩy Giả đã sống lại (Mt 14, 2). Kẻ thì bảo là Êlia, vì Malakia (3, 23) đã viết “Này Ta sai đến cho các người Tiên Tri Êlia trước khi ngày của Giavê”, nên thời đó người ta tin Êlia chưa chết và sẽ trở lại. Qua những lời khẳng định của họ về Đức Giêsu cho thấy họ là những người hiểu biết về Kinh Thánh và nắm bắt rõ về thời cuộc. Điều này là rất tốt nó như một điều kiện cần phải có, nhưng vẫn chưa đủ. Không những người ta phải hiểu về Chúa, mà còn phải biết kết hợp với Chúa, kề vai sát cách với Người. Sống với Chúa như nguồn lương thực không thể thiếu. Chính vì đã làm được như thế, nên sau khi Đức Giêsu hỏi Phêrô đã nhanh chóng tuyên xưng ngay. Ông khẳng định một cách xác tín mà không chần chờ, ông quyết định mà biết chắc là sẽ đúng, vì đối với ông lúc đó ông đã kết hợp với Chúa như lẽ sống của mình. Chắc chắn tâm trạng lúc đó của Phêrô không khác chi tâm trạng của Phaolô khi nói “Tôi sống nhưng không phải là tôi sống nhưng là chíng Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2, 20).
Chỉ khi nào hiểu và kết hợp mật thiết với Thiên Chúa, thì con người mới có thể tuyên xứng đúng về Ngài. Thật là ảo vọng khi mình nói về Chúa cho người khác mà mình lại không tuyên xưng đúng về Ngài, rao giảng Tin Mừng như thế không những không đem lại kết quả, mà còn đem đến hậu quả. Khi tiền đề về Đức Kitô sai thì đưa đến hậu kết sai là một điều hiển nhiên, và một hình ảnh méo mó về Đức Kitô trong con mắt người khác là không thể tránh khỏi.
- Đón nhận hồng ân.
Phêrô vừa dứt lời, thì Đức Giêsu mừng rỡ khen ngợi học trò mình cách đặc biệt “Chính Cha Thầy đã mạc khải cho con”. Phêrô đã được chọn như một công cụ đắc lực cho Chúa. Đức Giêsu mừng không phải do tài năng do trí phán đoán của Phêrô, nhưng niềm vui mừng là Phêrô dám chấp nận để ơn Chúa biến đổi, sẵn sàng đón nhận ơn Người như một hồng ân. Phêrô không nhận hồng ân đó cho riêng mình, mà nhận để rồi thay mặt cho nhân loại tuyên xưng Đức Kitô. Thật ra các ân huệ trao ban không nhằm để phục vụ cho những lợi ích riêng mình, nhưng nhằm lợi ích cho tha nhân, cũng như những người khác họ lãnh những ân huệ cũng vì lợi ích của bạn. Kinh Thánh nói: “Thần Khi tỏ mình ra mỗi người một cách là vì ích chung” (1Cr 12, 7). Thiên Chúa dự liệu cách này để mỗi người biết cần đến người khác. Khi cùng nhau tuyên xưng là cùng nhau sử dùng quà tặng và cùng được hưởng lợi ích. Amen.
70. Nhận biết và biến đổi
Thiên Chúa là Đấng Siêu Việt quyền phép vô cùng. Để thông ban hạnh phúc cho muôn loài, Ngài đã tạo dựng vũ trụ này và cho Con Một mình làm người để cứu chuộc muôn loài.
Mọi người có thể nhận ra Ngài nơi vũ trụ bao la kỳ bí vốn vượt trên sức hiểu biết của loài người. Tuy nhiên, cách nhận ra Chúa nhờ tha nhân là cụ thể nhất và hiệu quả nhất. Người người nhận ra Thiên Chúa nơi những công việc tốt lành của các Tông đồ và nơi Hội thánh Chúa.
Hai tấm gương sáng đặc biệt trong việc nhận biết và biến đổi nên con Chúa là thánh Phêrô và Phaolô mừng kính ngày hôm nay. Cả hai vị đã sống nhiệm hiệp bên Chúa. Thánh Phêrô nhận ra đúng thân thế, đúng vai trò và quyền năng của Thầy nhờ ơn trên soi sáng: Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống, ngài đã được Chúa Giêsu trao cho quyền chìa khóa trong Giáo hội mà Người thành lập. Thánh Phaolô là người bắt bớ đạo Chúa, cũng nhờ ơn Chúa soi sáng mà thay đổI hoàn toàn: từ chỗ chống đối sang làm tông đồ nhiệt thành.
Cả hai vị sau khi nhận biết Chúa Giêsu là ai đã thay đổi hẳn cuộc đời 180 độ. Phêrô từ một người dân chày dốt nát, không được giới luật sĩ trọng vọng, đã trở nên thông sáng, biết lãnh đạo, có khả năng làm người đứng đầu Giáo hội và lãnh đạo dân riêng Chúa. Phaolô từ một người bắt đạo trở nên tông đồ nhiệt thành thiếp lập được bao nhiêu giáo đoàn mới, đem về cho Chúa biết bao tín hữu. Hai vị tông đồ đúng là cột trụ của Giáo hội, là những người đại diện cho Chúa ở trần gian. Ngày nay, Giáo hội có Đức Giáo hoàng là người tiếp nối thánh Phêrô trong cương vị lãnh đạo và có những người tiếp nối thánh Phaolô, nhiệt thành lo cho nước Chúa được lan rộng và đi sâu trong các tâm hồn.
Noi gương các ngài, chúng ta phải nổ lực cầu nguyện và làm chứng Chúa vì hiện nay nhiều người chưa thực sự hiểu đạo Chúa. Đạo Chúa không không nhằm đem tới của cải giàu sang hay một cuộc sống đễ dãi ờ trần gian này. Cuộc đời theo Chúa vẫn luôn đòi hỏi những nổ lực, chiến đấu với 3 thù, tiến tới trưởng thành, sống các giới răn trong tình mến Chúa và tha nhân. Cuộc sống không tránh khỏi những cái ách và gánh nhưng ai biết đón nhận ách Chúa gởi với niềm tin và lòng yêu mến Chúa thì cảm thấy nhẹ nhàng, chấp nhận ý Chúa và hăng hái làm chứng trước mặt thế gian về niềm hy vọng sống lại mai sau. Xưa kia, nếu Dân Do thái giữ được tinh thần siêu nhiên, hiểu đúng về Ðấng Messia, nhận ra rằng tất cả những phép lạ và lời giảng dạy của Chúa Giêsu đến từ Thiên Chúa thì họ đã sống đúng con đường Chúa muốn. Chính Chúa Giêsu nói: ai thấy Thầy là thấy Cha. Tuy nhiên, có một trở ngại cho dân Do thái thời bấy giờ đó là quan niệm Messia, một số người Do thái không nhận ra Chúa Giêsu vì thành kiến, họ quá thiên về hình ảnh Messia quyền thế kiểu trần gian. Vì thế Chúa Giêsu đã có lần phải trách cứ họ: Nếu các người không muốn tin ta thì hãy tin vào các việc của Ta đã làm để được ơn cứu độ. Ngày nay, mỗi người chúng ta đã biết rõ về vai trò Messia của Chúa Giêsu, Thiên Chúa làm người. Vậy chúng ta càng phải biết bỏ mình, sống tinh thần siêu nhiên, nhận ra Chúa nơi những người đại diện của Hội thánh, và sự trợ lực của tha nhân. Nếu chúng ta sống đúng tinh thần nghèo, khiêm tốn, biết tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa thì Người sẽ luôn ngự trong chúng ta và bảo đảm ơn cứu chuộc cho chúng ta. Lạy thánh Phêrô và Phaolô, dưới thế này còn nhiều người chưa biết nhận ra sự hiện diện của Chúa hoặc chưa nhận ra ý Chúa trong cuộc đời mình. Xin hai Đấng hướng dẫn và giúp chúng con biết nhận ra Chúa và bước theo Ngài trong niềm tin vững vàng phó thác, hầu trở nên những nhân chứng sống động và được hạnh phúc cùng với Chúa và các ngài trên thiên đàng mai sau.
71. Thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ
Bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta đã được nghe đọc trong ngày lễ hai thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô. Nó có hai phần rõ rệt: những câu đầu tuyên xưng Đức Yêsu là Kitô; còn những câu sau tuyên bố Phêrô được đặt làm nền tảng xây lên Hội Thánh. Hai phần có thể tách rời nhau, vì quả thật Marcô và Luca đã không đính phần sau vào phần trước. Nhưng Matthêô đã có ý gom hai phần lại để nhấn mạnh sự liên hệ giữa việc Phêrô tuyên xưng đức tin và việc ông được chọn để xây lên Hội Thánh, cũng như giữa đức Kitô và con người được chọn để thay quyền Người dưới đất. Chúng ta hôm nay còn đọc lại cả bài Tin Mừng này cùng với hai bài đọc trên để hiểu rõ Hội Thánh và cảm tạ Thiên Chúa về Hội Thánh nhiều hơn.
- Hội Thánh Là Mầu Nhiêm Đã Đuợc Tiền Định Từ Đời Đời
Sách Isaia đã thuật lại một câu truyện trong lịch sử Dân Chúa. Nhưng đó lại là câu truyện có tính cách tiên tri, loan báo kế hoạch mầu nhiệm của Thiên Chúa. Và vì thế rất có hệ đến chúng ta.
Vua Israel bấy giờ dùng một vị đại thần hầu như là Nhiếp chính, mặc dầu cấp bậc chính thức chỉ là giám hộ hay chủ hộ. Mọi việc trong triều đều do ông ta định đoạt. Nhưng ông lại là kẻ thuộc hạng “mới làm ăn lên”, tài cán không biết thế nào, nhưng chắc chắn rất tham lam và ích kỷ. Chúa sai Isaia đến nói cho ông biết, Người sẽ truất phế và cất chức ông. Và sau đó, Người sẽ đặt Êlyaqim lên thế vị.
Điều đáng để ý trong câu truyện này là những lời sấm về Êlyaqim. Đó là những lời tiên tri rất long trọng, kể ngay từ những chữ đầu tiên. Chúa phán: “Ngày ấy, Ta sẽ gọi tôi tớ Ta là Elyaqim”. Vì hễ lần nào muốn tuyên sấm về một biến cố trọng đại trong tương lai, Người cũng bắt đầu bằng hai chữ: “Ngày ấy”. Nên những gì sẽ xảy ra trong ngày ấy cũng đều có ý nghĩa tiên tri, tức là nằm trong kế hoạch cứu chuộc mầu nhiệm của Chúa. Ở đây Chúa lại còn gọi Êlyaqim là tôi tớ, danh xưng mà Người chỉ dành cho những kẻ được chọn một cách đặc biệt như Abraham, Môsê và Đavít, trước khi áp dụng một cách tuyệt đối và vĩnh viễn cho Đấng Cứu Thế.
Chúng ta thật phải lấy làm la vì thấy Chúa săn sóc đến Êlyaqim một cách khác thường. Chính tay Người sẽ mặc áo dài cho ông, thắt lưng cho ông và đặt quyền bính vào tay ông. Chúa ban áo dài cho ai là muốn người đó được lãnh chức tư tế; và khi Người thắt lưng cho họ là muốn cho quyền bính của người đó được chặt chẽ và vững vàng. Người còn đặt chìa khóa nhà Đavít trên vai Êlyaqim. Cử chỉ này chúng ta chỉ hiểu được khi nhớ tới thời phong kiến và xa xưa hơn nữa. Mọi thị trấn và thành phố đều có tường thành kiên cố vây quanh và các cửa ra vào đều hết sức quan trọng. Các cánh cửa thành do đó đều chắc chắn, nặng nề và khóa bằng các then gỗ lớn, không thể cầm bằng tay mà phải vác trên vai. Và vì thế khi đã đóng mở rồi thì chẳng ai ra vào trái lệnh được nữa.
Sau cùng Chúa con hứa cắm Êlyaqim xuống như một cái đanh nơi đất cứng, để giống như một lều vải đã được cột chặt vào đất không ai nhổ lên được nữa… Triều đại của Elyaqim không những sẽ vững bền mà còn vẻ vang và được lòng dân (câu 21 và 23).
Nhưng lịch sử cho thấy sự thật không được như vậy. Elyaqim được lên chức giám hộ thật: nhưng rồi cái đanh ấy cũng đã bị nhổ đi. Dân Chúa suy nghĩ lại về những lời sấm long trọng kia. Người ta nhận ra rằng Êlyaqim chỉ là hình ảnh và là cớ để Chúa mạc khải kế hoạch cứu độ sâu xa của Người. Đấng mà Người nhắm kêu gọi và tuyển chọn sẽ không là ai khác chính Đức Yêsu Kitô; và cũng không phải chỉ là Đức Kitô lịch sử sinh sống ở Do thái mà là Chúa Yêsu Kitô viên mãn hằng ở cùng Hội Thánh. Đức Yêsu đang cai trị Hội Thánh. Kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa và về Hội Thánh trong kế hoạch ấy. Chúng ta hãy xem Hội Thánh đã được xây lên như thế nào để đáp ứng lời tiên tri trên.
- Phêrô Là Đá Xây Lên Hội Thánh
Hôm ấy Đức Yêsu đi cùng môn đệ đến địa hạt Caisaria. Chi tiết nơi chốn này cũng đáng để ý hầu chúng ta thấy rằng Hội Thánh của Chúa sẽ vượt ra khỏi ranh giới Do thái ngày xưa và bao gồm tất cả dân ngoại.
Đức Yêsu hỏi môn đồ: dư luận người ta nghĩ Người là ai? Người muốn biết tâm tư của mọi người sau một thời gian giảng đạo để chuyển sang một giai đoạn mới.
Môn đồ trả lời: kẻ bảo là Yoan Tẩy giả; kẻ bảo là Êlya; kẻ khác lại nghĩ là Yêrêmya hay một tiên tri nào khác. Thực ra môn đồ đã bắt đầu nói đến ý kiến của Hêrôđê vì ông này có mặc cảm đã giết Yoan Tẩy giả nên thấy Đức Yêsu dường như là hiện thân của vị tiền hô. Rồi họ đã kể đến dư luận chung hơn, nghĩ Đấng Thiên sai sẽ là Êlya trở lại. Một mình Matthêô đưa ra ý kiến Đức Yêsu là Yêrêmya vì có dư luận cho rằng Đấng Thiên sai cũng sẽ là nhà tiên tri bị bắt bớ. Nhưng nếu chẳng ý kiến nào trên đây được ưu thế, thì đây là ý kiến chắc không thể sai được: Đức Yêsu là một trong các vị tiên tri thời danh kia. Đó là dư luận chính thức của Do thái giáo thời bấy giờ. Giới tư tế cho rằng thời tiên tri đã mãn. Vậy nếu Đấng Thiên sai sẽ đến là tiên tri, thì Người chỉ có thể là một trong các tiên tri “lớn” trước đây trở lại.
Dù sao cách trả lời của môn đồ cũng cho thấy mọi người đã công nhận uy thế của Đức Yêsu. Người ta chưa biết đúng Người là ai, nhưng họ đã tin Người là Đấng được Thiên Chúa tuyển chọn để làm một công việc rất lớn lao nào đây. Nếu dùng lại danh xưng trong bài đọc 1 nói về Êlyaqim, ta có thể bảo thiên hạ bấy giờ đều đã coi Đức Yêsu là người tôi tớ của Thiên Chúa rồi.
Còn tâm tư của chính các môn đồ thì sao?
Phêrô “lên tiếng”, tức là đã nói thay cho cả đoàn rằng: “Thầy là Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.
Có thật Phêrô đã nói như thế không? Vì trong Marcô và Luca, ông chỉ thưa: Thầy là Kitô. Còn những chữ “Con Thiên Chúa hằng sống” là của riêng sách Tin Mừng Matthêô và dường như là thành ngữ tuyên xưng đức tin của Hội Thánh sau ngày Đức Yêsu hiển vinh. Nếu thực sự như vậy thì càng chứng tỏ trong đoạn Tin Mừng này, Phêrô được coi như gắn liền với Hội Thánh. Lời tuyên xưng của ông trở thành đức tin đã được ban cho Hội Thánh. Hội Thánh đang nằm ở trong con người ông. Nói đúng hơn, Hội Thánh đang được xây lên từ ông.
Quả vậy, ông vừa dứt lời thì Đức Yêsu đã mừng rỡ tuyên bố như đứng trước một mạc khải mới: “Con có phúc, hỡi Simon con Yôna, vì không phải thịt máu mạc khải cho con biết điều ấy nhưng là Cha Ta đấng ngự trên trời”. Nếu không phải “những yếu tố” loài người nói lên điều tuyên xưng kia, thì Simon đã trở thành dụng của Cha trên trời rồi.
Chúa Cha muốn dùng Simon vào việc nào đây? Đức Yêsu sắp ra đi chịu chết cứu chuộc nhân loại, thì hẳn Simon được thiên định hợp tác trong công cuộc này, một công cuộc còn phải nối dài trong mọi thế hệ. Và như vậy lời tiên tri về Êlyaqim, như đã nói ở trên, cũng phải được thực hiện nơi Simon qua Đức Yêsu.
Thế nên Đức Yêsu đã phán tiếp: Simon, từ nay con sẽ gọi là Phêrô, là Thạch, là Đá; con sẽ có một định mệnh mới là trở nên Đá kiên cố để Ta xây Hội Thánh của Ta trên Đá này. Cửa hỏa ngục, tức là sức mạnh của tử thần và tà thần muốn công phá cũng không làm gì được. Vì như trên đã nói “Cửa thành” là nơi tung sức trong thành ra và cũng là ngõ để kẻ thù tấn công vào. Nói cho đúng, Phêrô không phải là cửa thành vì chính Đức Yêsu mới là cửa vào dàn chiên; nhưng Hội Thánh xây trên Đá Phêrô sẽ phải chịu sức tấn công của cửa hỏa ngục. Và khi nói như vậy chúng ta không được hình dung Hội Thánh luôn luôn ở thế thủ. Chúa không nói Hội Thánh chịu tấn công. Người khẳng định: cửa hỏa ngục không làm gì được Hội Thánh. Vì khi làm việc rao giảng Phúc âm và làm các Bí tích, Hội Thánh đâu có ở thế thủ. Nhưng hỏa ngục vẫn không làm gì được. Người ta vẫn tin theo lời giảng dạy của Hội Thánh và đi vào Nước Trời.
Như vậy Hội Thánh đã thực hiện lời tiên tri về Êlyaqim: đó là cái đanh Chúa đã cắm xuống đất cứng không thể nhổ lên được nữa. Và như Êlyaqim đã được trao chìa khóa thành, thì Phêrô đã được trao chìa khóa Nước Trời. Mà chìa khóa ở đây như trên kia đã nói không nhỏ bé nhẹ nhàng đâu, nhưng là then gỗ thật lớn phải vác; và khi đã đóng mở thì chẳng ai làm ngược lại được nữa. Ở đây Đức Yêsu còn đi xa hơn, coi công việc của Phêrô là chính công việc của Thiên Chúa; Phêrô và Hội Thánh làm thế nào ở dưới đất, trên trời cũng quyết định như vậy.
Thật ra để chỉ công việc của Phêrô, Đức Yêsu không nói là đóng mở, mà là trói mở. Nhưng trói mở là cột lại và tháo ra, là cho vào và cấm vào; và như vậy cũng là đóng mở cửa Nước Trời. Và nếu phải xác định rõ hơn công việc này, có lẽ chúng ta có thể dừng đại ý tưởng của đức Kitô khi nói về Biệt phái. Người trách họ đã không để cho người ta vào Nước Trời, vì “giáo lý” của họ. Như vậy, quyền đóng mở cửa Nước Trời của Phêrô trước tiên nên được hiểu là quyền giáo huấn, dạy dỗ đức tin để người ta được sống đời đời.
Do đó, chúng ta thấy lời tiên tri về Êlyaqim trở nên lu mờ trước Lời Chúa phán với Phêrô, chứng tỏ Cựu ước chỉ là hình ảnh báo trước thực tại Tân ước; và khi thực tại đến, hình ảnh không còn giá trị như trước nữa. Vậy nếu Dân chúa đã mừng rờ hân hoan đón nhận lời tiên tri về Êlyaqim như là lời cứu độ thì chúng ta ngày nay càng phải hân hoan mừng rỡ hơn nữa khi đọc Lời Hứa về Phêrô và Hội Thánh. Đó là tâm tình mà bài Thánh thư hôm nay muốn gợi lên.
- Tạ Ơn Thiên Chúa Về Mầu Nhiệm Hội Thánh
Phaolô muốn kết thúc những chương suy nghĩ về số phận dân ngoại và nhất là số phận Israel. Người thấy đó là kế hoạch Thiên Chúa đã trù liệu cho Hội Thánh. Cả dân ngoại, cả Israel đã lầm lạc và lầm than trong tội bất vâng phục, để làm nổi bật tình thương nhưng không và vô biên chan chứa trong Hội Thánh. Thế nên Thánh nhân kêu lên: “Ôi! Thẳm sâu thay sự giàu có, khôn ngoan và thượng trí của Thiên Chúa”.
Đó là tiếng nói của tâm hồn dạt dào tình cảm mến, nhưng cũng là những tư tưởng thật đắn đo. Lịch sử dân ngoại và lịch sử dân Israel là gì nếu chẳng phải là lịch sử cứu độ, lịch sử Chúa trải tình thương vô biên quảng đại trên loài người tội lỗi? Dĩ nhiên ơn cứu độ của Người nằm trong mầu nhiệm Chúa Kitô. Nhưng mầu nhiệm này không phải là một sự kiện xảy ra trong một lúc. Chúa Kitô hôm qua, hôm nay và mãi mãi như thế. Mầu nhiệm Chúa Kitô đã chan chứa suốt thời Cựu ước chi phối cả lời tiên tri về Êlyaqim; mầu nhiệm ấy đang lan rộng trong Hội Thánh cho đến ngày nào đạt tới tầm mức tuyệt vời của Thân thể Đức Kitô.
Đó là kế hoạch sâu thẳm chỉ Thánh Thần mới dò được. Mọi sự giàu có phong phú đang chảy ra trong kế hoạch này. Thật là kế hoạch khôn ngoan mà thượng trí Thiên Chúa đã nghĩ ra để chúng ta được mọi ơn thiêng trong Đức Kitô và nơi Hội Thánh. Và tất cả như vậy là vì Thiên Chúa đã yêu chúng ta trước, đã tự ý ban Đức Kitô cho chúng ta, đã chọn Phêrô một cách nhưng không để xây nên Hội Thánh. Mọi sự đều do Người, nhờ Người và vì Người.
Do đó chúng ta phải tạ ơn Người. Và biết ơn cụ thể nhất là đi vào trong kế hoạch thâm sâu của Người, tức là vào sống trong mầu nhiệm Đức Kitô và mầu nhiệm Hội Thánh.
Chính những mầu nhiệm ấy sắp được cử hành trên bàn thờ bây giờ để khi tham dự, chúng ta được kết hợp với Đức Kitô là người tôi tớ mà Thiên Chúa đã sủng mộ và tuyển chọn một cách đặc biệt để đưa chúng ta, tức là cả dân ngoại và Israel vào Hội Thánh xây trên Đá Phêrô.
72. Giáo Hội và Cộng Đồng
Tàu Titanic bị chìm tháng Tư năm 1912 vì đụng băng đá ngầm ở Bắc Đại Tây Dương. Tai nạn này đã làm thiệt mạng hơn 1500 trong số 2200 hành khách. Sự việc đã gây nên nhiều đề tài sôi nổi. Một trong những điều đó là nó tự hào là không thể chìm nên không làm đủ các thuyền cấp cứu. Thật ra, gần một nửa số thuyền cấp cứu khi hạ xuống nước còn rất rỗng, nghĩa là nó có thể cứu sống thêm nhiều người nữa.
Những người sống sót kể lại là khi họ chèo ra xa chiếc tàu sắp chìm, họ nghe nhiều tiếng kêu cứu quanh họ, tiếng trẻ con, đàn ông, đàn bà. Nhưng họ nhất định chèo ra xa mà không trở lại cứu vớt những người kêu cứu vì họ sợ thuyền của họ bị chìm bởi những người đang cố tìm sống đó. Họ đã bỏ đi và để nhiều nạn nhân chết chìm.
Tại sao các thuyền cấp cứu không chở thêm cho đầy là một đề tài liên quan đến Lễ Hai Thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô hôm nay.
Kiến tạo tinh thần cộng đồng là một việc khó khăn. Để cho người khác tiến vào chỗ chúng ta, liên quan đến đời chúng ta là một thử thách khi chúng ta trên thuyền cấp cứu hay sửa soạn một chương trình tại hãng làm, tại trường học hay giáo xứ. Càng khó hơn để liên kết khi chúng ta đã có lần bị đau thương bởi những lời nói cay nghiệt, bởi những hành động không trung thành. Thật khó tỏ ra vui tươi với anh chị em khi mà những cánh cửa đập mạnh, khi những cơn giận đổ trên đầu chúng ta. Những lúc đó, xa cách dường như dễ làm hơn là tiến trình tha thứ.
Kiến tạo tinh thần cộng đồng có nghĩa là ra khỏi mình và chạm tới những người khác, những người có quan điểm khác với chúng ta, có cách thức hành động khác với chúng ta, có những nhu cầu khác của chúng ta, có ít may mắn hơn chúng ta.
Việc mừng hai vị Thánh hôm nay nói lên một vấn đề, khi chúng ta có cơ hội để xây dựng cộng đồng, chúng ta chèo thuyền đến những người cần đến chúng ta hay chèo xa đi? Chúa Giêsu đã chọn hai Ngài là những người thật khác nhau làm nền tảng cho Giáo Hội của Chúa. Điều đó đề nghị chúng ta hoạt động thế nào để mối dây liên kết giữa cộng đoàn được bền chặt.
Hai Thánh nhân khác nhau về nguồn gốc và đời sống. Theo xuất xứ, Thánh Phêrô là một người chài lưới đã theo Chúa một cách mau lẹ. Thánh Phaolô bắt bớ những người theo đạo và phải mất nhiều năm mới được ơn cải hoá. Những bài sách Thánh hôm nay nói lên hai biểu tượng: “đá” chỉ Thánh Phêrô, “đua” diễn tả Phaolô. Thánh Phaolô chạy đi bắt đạo rồi sau khi trở lại luôn luôn đi giảng đạo khắp các miền. Thánh Phêrô ở chính tại Rôma và Rôma đã trở thành trung tâm của Giáo Hội được thiết lập. Thánh Phêrô có liên hệ với Chúa Giêsu rất đặc biệt: là đại diện các tông đồ, là phát ngôn viên của nhóm 12 để tiếp đó trở thành lãnh đạo. Phaolô không là trưởng nhóm nhưng là một thợ rao giảng cho muôn dân.
Chúa Giêsu đã chọn hai vị thật khác biệt để thành nền tảng của Giáo Hội. Ngài muốn nói cho chúng ta: sự khác biệt làm mạnh mẽ sự đoàn kết, sự đổi thay phục vụ sự thật, tương phản làm giầu đức tin.
Chúa tỏ lộ một sự khôn ngoan mà thế giới đang cần, một viễn tượng đang thách đố chúng ta nhìn vào, đó là cộng đồng, trong tình trạng tốt nhất, đón nhận sự khác biệt. Cộng đồng đón nhận khác biệt chứ không xua đuổi. Cộng đồng vui mừng trong sự khác biệt vì đó là những kho tàng mở lối cho sự hiểu biết sâu rộng hơn về chân lý, cho sự quí trọng của đời sống, cho cơ hội thi hành tình yêu thương. Chúng ta tin tưởng đó là những phương tiện chắc chắn nhất giúp chúng ta lớn lên trong Chúa Kitô.
Chúa chọn hai vị rất khác nhau trong cộng đồng mà Ngài thiết lập. Phêrô và Phaolô là một biểu tượng cho Giáo Hội mà chúng ta gọi là tập hợp đoàn người khác nhau, khác nhau về quan niệm, khác nhau tài khéo, khác nhau sức lực để trong Chúa và nhờ Ngài giúp, chúng ta dùng những sự khác biệt một cách tích cực.
Chúng ta cảm tạ Chúa vì những sự khác biệt và xin Chúa giúp chúng ta tăng triển sự liên kết với với mọi người.
73. Khuôn mặt Đức Kitô
Chúng ta vừa mới nghe thánh Phêrô thay mặt cho nhóm mười hai tuyên xưng:
– Thày là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống.
Đây là lần đầu tiên các ông đã làm được một hành động tuyên xưng đức tin của mình. Tuy nhiên, để làm được như vậy, các ông đã phải trải qua nhiều tháng chung sống với Ngài, chứng kiến những việc kỳ diệu Ngài đã làm và lắng nghe những lời giảng dạy đầy khôn ngoan của Ngài. Đức tin của các ông đã được phát triển dần dần qua nhiều giai đoạn khác nhau.
Sự kiện thứ nhất đập vào mắt các ông, đó là những phép lạ Chúa Giêsu đã làm, qua đó các ông nhận thấy nơi Ngài có một quyền năng tuyệt đối, quyền năng của một vị Thiên Chúa.
Thực vậy, sau khi Chúa Giêsu đã chuyển cho sóng yên biển lặng, các ông đã thắc mắc về Ngài:
– Ngài là ai mà sóng gió cũng phải vâng phục.
Đây không phải là một phép lạ duy nhất, mà còn biết bao nhiêu phép lạ khác nữa. Mỗi lần chứng kiến một phép lạ là một lần các ông ngạc nhiên. Và từ chỗ ngạc nhiên ấy mà niềm tin mỗi ngày một trở nên kiên vững. Ngay cả dân chúng cũng đã từng đặt vấn đề:
– Ngài có phải là Đấng sẽ đến hay là chúng tôi còn phải đợi một Đấng nào khác?
– Phải chăng Ngài chính là vị tiên tri sẽ đến trong thế gian?
Sự kiện thứ hai khiến các ông phải lưu ý đó là những lời Ngài giảng dạy.
Thực vậy, Ngài giảng dạy như một Đấng có quyền, chứ không như bọn biệt phái và luật sĩ.
Đọc lại chương năm Phúc âm theo thánh Matthêu, chúng ta sẽ thấy rõ điều đó:
– Các ngươi đã nghe người xưa dạy rằng…Còn Ta, Ta bảo các ngươi…
Ngài đã xách định vai trò của Ngài là làm cho hoàn hảo lề luật của Maisen và các tiên tri bằng chính giới luật yêu thương của mình:
– Các ngươi đã nghe người xưa dạy rằng: hãy yêu thương anh em và ghét bỏ kẻ thù. Còn Ta, Ta bả các ngươi: hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ các ngươi.
Sự kiện thứ ba các ông đã quan tâm, đó là quyền tha tội.
Thực vậy, rất nhiều lần Chúa Giêsu đã nói với các bệnh nhân:
– Tội con đã được tha.
Lời nói này đã làm cho bọn biệt phái và luật sĩ tức tối. Họ đã kết án Ngài:
– Ông ta lộng ngôn phạm thượng, bởi vì ngoài Thiên Chúa, không ai có quyền tha tội cả.
Mặc dầu vậy, Ngài vẫn một mực làm sáng tỏ vấn đề. Ngài nói:
– Để cho các ngươi biết Con Người có quyền tha tội ở dưới đất, Ngài phán với người bất toại: con hãy chổi dậy, vác chõng mà về.
Lập tức người bất toại được khỏi.
Sau cùng, sự kiện thứ tư đã đánh động các ông, đó là tình thương bao la Ngài đã dánh cho đám đông.
Thực vậy, Ngài đã tự sánh ví mình như người mục tử nhân lành, không những đã chăm sóc từng con chiên, mà hơn thế nữa, còn sẵn sàng chấp nhận mọi hy sinh gian khổ để lên đường tìm kiếm những con chiên lạc và nhất là đã chịu chết trên thập giá để đàn chiên được sống, như lời Ngài xác quyết:
– Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.
Tất cả những sự việc ấy đã đem lại cho các môn đệ một niền tin kiên vững, một xác tín sâu xa. Thế nhưng, chúng ta vẫn có thể tự hỏi:
– Đâu là yếu tố căn bản của đức tin?
Bởi vì biết bao nhiêu người đương thời cũng đã nhìn thấy những việc Chúa làm, cũng đã lắng nghe những lời Chúa giảng, nhưng họ vẫn không nhận biết Ngài. Tại sao thế?
Tôi xin thưa:
– Ngoài việc tìm tòi và suy luận, chúng ta còn cần phải có một yếu tố căn bản khác nữa, đó là ơn Chúa, bởi vì chính Thiên Chúa mới là Đấng mở mắt cho Phêrô để ông tuyên xưng: Thày là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống. Đây cũng là điều chính Chúa Giêsu đã hé mở cho chúng ta được biết:
– Không phải xác thịt hay máu huyết nhưng là Cha Thày ở trên trời đã tỏ cho con biết.
Trong thinh lặng và cầu nguyện, Chúa Giêsu sẽ tỏ cho chúng ta biết Ngài là ai.
74. Thánh Phêrô
(Trích trong “Như Thầy Đã Yêu” – Thiên Phúc)
Nhân kỷ niệm 20 năm triều đại giáo hoàng của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, (1978-1998) người ta đã thống kê được những con số chính xác sau đây. Ngài đã thực hiện:
– 84 chuyến công du và hành hương ngoại quốc.
– 134 chuyến viếng thăm mục vụ trong nước Ý.
– 3.078 bài nói chuyện và bài giảng.
– 700 chuyến đi thăm nhà tù, dòng tu, chủng viện, bệnh viện, nhà dưỡng lão, giáo xứ.
Người đã viết:
– 13 Thông điệp.
– 36 Tông thư.
– 15 Thư cho các nhân vật và các nhóm đặc biệt.
– 9 Tông thư tổng kết sau Thượng Hội Đồng.
Ngài đã đọc diễn văn cho:
– 600 chuyến “Đi viếng Mộ Thánh Phêrô” của các Giám mục.
– Hàng 1000 diễn văn khác.
Ngài đã công bố:
– Giáo Luật Mới và sách Giáo lý Công giáo ( Giáo luật cũ đã công bố cách đây 400 năm )
ngài đã tôn phong:
– 798 chân phước.
– 280 thánh mới (trong đó có 117 vị thánh Tử đạo Việt Nam 19/6/1988).
– Chưa kể 233 vị thánh Tử Đạo tại Tây Ban Nha.
– Tổng cộng 145 buổi lễ phong thánh.
Ngài đã chọn:
– 2650 Giám mục trong số 4200 Giám mục trong Hội thánh.
– 159 Tân Hồng Y.
– Thiết lập quan hệ ngoại giao với 64 nước, phục hồi quan hệ ngoại giao với 6 nước khác, nâng tổng số các quốc gia có liên hệ với Tòa Thánh là 168 nước.
Đó là những con số biết nói trong 20 năm phục vụ Chúa và Giáo Hội của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, vị Giáo hoàng thứ 264 kế vị thánh Phêrô tông đồ, giáo hoàng tiên khởi, đã được Chúa trao cho quyền tối thượng. Tin mừng hôm nay nhắc lại sự kiện quan trọng ấy.
Khi Đức Giêsu hỏi các môn đệ về thân thế của Người, lập tức Phêrô được Chúa Cha mạc khải đã mạnh dạn thưa: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Người liền khen ông là người có phúc và trao cho ông quyền trên Giáo Hội: “Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời, dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy, dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy”.
Không còn nghi ngờ gì nữa, Đức Giêsu đã tuyển chọn và tấn phong Phêrô làm thủ lãnh của Giáo Hội. Người đã đổi tên Simon của ông Thành Phêrô, tiếng Aram là Kêpha, nghĩa là Tảng Đá, tượng trưng cho sự vững chắc trường tồn mà Thánh Kinh chỉ dành cho một mình Thiên Chúa: “Chúa là tảng đá của tôi, là thành trì của tôi”. Người đã xây Hội Thánh của Người trên tảng đá Phêrô và hứa bảo vệ Hội Thánh khỏi mọi tấn công của tử thần. Người còn trao cho Phêrô chìa khóa Nước Trời, tượng trưng cho quyền bính trên trời dưới đất. Với tối thượng quyền này, Phêrô sẽ cai quản, giáo huấn và thánh hóa Hội Thánh của Đức Kitô trong tinh thần phục vụ và yêu thương, sẵn sàng hiến mình cho đoàn chiên đã được trao phó.
Chắc không phải Đức Giêsu chọn Phêrô làm thủ lãnh Giáo Hội vì Phêrô đã mau mắn tuyên xưng Đức tin: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Vì chỉ ít phút sau đó, Đức Giêsu đã phải nặng lời với ông: “Satan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy”.
Chắc không phải Đức Giêsu chọn Phêrô làm đầu Hội Thánh vì Phêrô đã quả quyết: “Dầu tất cả có vấp ngã vì Thầy đi nữa, thì con đay cũng chẳng bao giờ vấp phải chết, không ai ra tay tra khảo, chỉ có mấy người đây tớ thượng tế gặng hỏi, ông đã thốt lên những lời độc địa và thề rằng: “Tôi không biết người ấy”.
Thế là đã rõ, Đức Giêsu đã không chọn một vị thánh để dẫn dắt Hội Thánh của Người, mà đã chọn mọi dân chài, ít học, nóng nảy, bộc trực, sa ngã, và … phản bội. Vượt lên những khuyết điểm, sai lầm và yếu đuối của Phêrô, hẳn Đức Giêsu đã nhiền thấu suốt tâm can của Phêrô một tâm tình khiêm tốn thẳm sâu và một lòng sám hối chân thành.
Phêrô, một con người khiêm tốn:
Sau khi Đức Giêsu giảng bên bờ hồ Ghennêxanét, Người bảo Simon: “Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá”. Simon đáp: “Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng dựa vào lời Thầy, tôi sẽ thả lưới”. Kinh nghiệm chài lưới của ông đã quá rõ, đánh cá ban ngày chẳng hy vọng gì, nhưng ông không cãi, ông khiêm tốn vâng lời. Khi kéo lên một mẻ cá quá lớn, lớn đến nỗi muốn rách lưới, ông không hả hê vui mừng, cũng chẳng kinh ngạc trước phép lạ cả thể, mà nghĩ ngay đến thân phận bất xứng của mình. Ông chạy đến sấp mình dưới chân Đức Giêsu mà nói: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi”. Trước sự khiêm tốn thẳm sau của Simon, Đức Giêsu không do dự, quyết định tuyển chọn ông: “Đừng sợ, từ nay sẽ là người cứu sống người ta”.
Phêrô, một con người sám hối:
Sau khi nghe Đức Giêsu tiên báo cuộc khổ nạn và cái chết của Người, thì phêrô nói: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy”. Nhưng Đức Giêsu đã mắng ông thậm tệ, còn gọi ông là Satan. Thực tình ông chưa hiểu sứ mạng thiên sai của Người, ông tưởng làm thế là thương Thầy, nhưng thật ra là ông đang nối giáo cho giặc. Ông chẳng hiểu gì cả, nhưng ông biết mình sai, ông im lặng, không cãi lại, âm thầm ăn năn.
Ông tưởng mình sẽ không bao giờ sai phạm nữa, chẳng bao giờ sa ngã nữa. suốt ba năm theo Thầy, chắc ông sẽ mạnh mẽ hơn trong Đức tin, sẽ trung kiên với Thầy cho đến cùng. Thế nên, khi nghe Đức Giêsu tâm sự trong bữa tiệc ly: “Đêm nay tất cả anh em sẽ vấp ngã vì Thầy”, thì Phêrô không thể nào tin được. Người còn nói đích danh Phêrô sẽ chối Thầy ba lần. Ông càng bực tức và quả quyết hơn: “Dẫu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy”. Nhưng chuyện gì đã xảy ra đêm hôm ấy, chúng ta đều biết rõ. Thánh sử Luca ghi lại: “Ông Phêrô trả lời cho tên đầy tớ vị thượng tế: “Này anh, tôi không biết anh nói gì!” Ngay lúc ông còn đang nói, thì gà gáy. Chúa quay lại nhìn Phêrô…”. Hai ánh mắt gặp nhau. Chúa biết hết rồi. Phêrô xấu hổ quá đỗi, nước mắt tuôn trào, ông lầm lũi ra khỏi pháp đình, tan nát cõi lòng, bước chân nặng trĩu.
Đêm hôm đó, một đêm dài nhất trong đời, ông không thể nào ngủ được, ông gặm nhấm tội lỗi của mình, tại sao mình có thể phản bội Thầy Được. Hóa ra mình chỉ là cát bụi chứ đâu là Tảng Đá, là tội nhân chứ đâu phải là thánh nhân. Ông khóc òa lên, khóc mãi, khóc mãi, cho đến khi ông nhớ lại lời của Thầy: “Thầy không bảo là (phải tha) đến 7 lần mà là 70 lần 7”. Và ông biết mình đã được Thầy tha thứ, ông biết mình đã được tha ngay từ cái nhì của Thầy trên dinh thượng tế. Ông quên đi quá khứ tội lỗi để hướng đến tương lại của ơn thánh: Cảm nghiệm sâu xa của lòng Chúa khoan dung tha thứ. Sau này Phêrô đã khuyên bảo các tín hữu của mình: “Vậy anh em hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa, để Người xóa bỏ tội lỗi cho anh em”.
75. Thánh Phêrô
Câu hỏi Chúa Giêsu đặt ra cho các môn đệ vẫn còn vang dội tới ngày hôm nay, và trong giây phút này dường như Chúa Giêsu Kitô hiện diện giữa chúng ta, Ngài cũng đặt câu hỏi với từng người, trước hết là câu: “Người ta và những kẻ khác, theo quan niệm trần tục của con người thì họ nghĩ Thầy là ai?”.
Chúa Giêsu Kitô là một thực tại, một con người lịch sự đã sống thật trên mặt đất này tại vùng Palestine cách đây hơn 2000 năm. Đây là một thực tại đầy mầu nhiệm, những việc lạ Chúa đã thực hiện, trước đó là phép lạ Chúa hóa bánh ra nhiều, nhưng họ không thể nhìn nhận ra thực tại Thần Linh của Chúa là Con Thiên Chúa Hằng Sống. Họ nhìn vào Chúa Giêsu như một tiên tri, một Elia, một Gioan Tẩy Giả, một người chuẩn bị nhân loại cho Thiên Chúa, nhưng chưa phải là Thiên Chúa. Những kẻ khác thời Chúa Giêsu, trên quan điểm trần tục không được Thiên Chúa soi sáng, như Phêrô đã không nhận ra Chúa Giêsu Kitô là ai? Và các Tông đồ đã kể lại cho Chúa nghe về các nhận xét của dân chúng xung quanh. Nhưng những kẻ khác, những kẻ ngoại chưa tin Chúa, không nhận ra Chúa, điều đó cũng chưa quan trọng đối với Ngài cho bằng chính những người mang tên là người đồ đệ của Chúa, là người Kitô mà lại không nhận ra Ngài.
Câu hỏi thứ nhất: “Người ta nghĩ Thầy là ai”, chỉ là một câu hỏi phụ, câu hỏi nhập đề để gợi ý thức nơi các đồ đệ. Câu hỏi thứ hai quan trọng hơn: “Phần các con, các con bảo Thầy là ai?”. Một người phải trực tiếp trả lời câu hỏi này bằng đức tin của mình đối với Chúa, điều Chúa muốn không phải là một câu trả lời suông ngoài môi miệng như một học trò trả bài giáo lý cho thầy giáo trong lớp: “Chúa Giêsu là Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế muôn dân”. Câu trả lời suông ngoài môi miệng như câu trả lời thuộc lòng bài giáo lý thì tương đối dễ, nhưng điều Chúa nhắm đến là lòng xác tín bên trong. Đức tin chân thật như là hồng ân từ Thiên Chúa Cha trao ban cho, ví như câu trả lời được ơn Thiên Chúa soi sáng hướng dẫn Phêrô đã mạnh mẽ trả lời với sự linh ứng của Thiên Chúa Cha: “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa Hằng Sống”.
Chúa Giêsu xác nhận không phải xác thịt nhưng là Cha trên trời đã ban cho con, đã soi sáng cho con. Chính thái độ xác tín đức tin này là điều Chúa muốn nơi mỗi người chúng ta. Thái độ xác tín đức tin đó là hồn ân của Chúa Cha ban cho: “Nếu ai không đến được với Thầy, nếu không được ơn Thiên Chúa Cha soi sáng và lôi kéo họ đến”. Chính thái độ xác tín đức tin này là khởi đầu và nền tảng của mọi sứ mạng Kitô. Thánh Phêrô đã nhận được sứ mạng: “Thầy trao cho con chìa khóa Nước Trời, con là đá trên đá này Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy”. Phêrô đã nhận được sứ mạng đó sau khi đã tuân phục ơn soi sáng của Thiên Chúa Cha và mạnh mẽ tuyên xưng: “Thầy là Con Thiên Chúa”.
Mỗi người chúng ta cần có niềm xác tín này để có thể chu toàn sứ mệnh mà Thiên Chúa đã trao phó cho, là làm chứng cho Chúa trên trần gian này giữa anh chị em xung quanh. Sứ mạng đã khó nhưng niềm tin xác tín nơi mỗi người lại khó hơn hết, vì nơi mỗi người cũng có thể nói là có hai con người, một con người trần tục và một con người mới. Con người mới này được ân sủng thánh hóa, soi sáng hướng dẫn. Con người cũ có những thói hư tật xấu, suy tưởng theo những lý luận trần tục, xa rời chương trình của Thiên Chúa, khó mà tuyên xưng đức tin vào Chúa, khó mà trung thành với đức tin tuyên xưng này.
Thánh Phaolô đả cảm nghiệm được kinh nghiệm đức tin này nơi chính bản thân, nên đã thốt lên: “Tôi không làm điều tốt mà tôi ưa thích, nhưng lại làm điều xấu mà tôi không muốn”. Cuộc giằng co giữa ân sủng và tội lỗi, giữa tin và không tin đã làm cho Ngài đôi khi mệt mỏi và xin Chúa hãy can thiệp cất đi điều ngài không muốn. Nhưng Chúa Giêsu đã nâng đỡ Phaolô: “Ơn Ta đủ cho ngươi, đừng lo”. Chính vì thế hơn ai hết, thánh Phalô Tông đồ đã chính bày cuộc sống trong ơn nghĩa Chúa như là một chiến đấu, một cuộc chạy đua, một cố gắng không ngừng cộng tác với ân sủng Chúa để mặc lấy con người mới, từ bỏ con người cũ để tuyên xưng đức tin, để trung thành với đức tin.
Trở lại bài Phúc âm hôm nay, chúng ta nhận thấy thêm một điều nữa là, mặc dù Phaolô đã có đôi lần sống theo con người cũ, con người trần tục, nhưng Chúa Giêsu không thay đổi chương trình, Ngài đã chọn Phaolô: “Ơn Ta đủ cho ngươi”. Ơn Chúa luôn luôn ban xuống tràn đầy, Chúa không hủy bỏ chương trình Ngài muốn thực hiện nhờ qua mỗi người, mặc dù đôi khi chúng ta không đáp lại hết lòng ân sủng của Chúa. Chúa muốn nhắn nhủ Phêrô, nhắn nhủ mỗi người “khi nào con trở lại hãy nâng đỡ củng cố anh em con”. Lời nhắn nhủ của Chúa cho Phêrô hãy biết thông cảm nâng đỡ cho anh em, vì chính ông cũng được Chúa thương tha thứ và nâng đỡ.
Thêm một bài học nữa cho mỗi người chúng ta là hãy cố gắng sống thánh thiện nơi chính bản thân mình và nâng đỡ những bất toàn, những sa ngã, những tội lỗi của anh em, xin Chúa gìn giữ chúng con trong Đức tin và trung thành với Tin Mừng: “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống”.
76. Đào tạo
Tin Mừng qua câu chuyện này cho thấy rằng sự ưu tiên của Phêrô không phải là một điều mà Giáo Hội sau này đã nghĩ ra. Nó đã có ngay từ thuở ban đầu trong tâm trí và ý muốn của chính Đức Giêsu.
Phêrô là một người có tính cách hay nhất trong Tin Mừng. Ông rõ ràng có những phẩm chất của người lãnh đạo. Nhưng rõ ràng ông cũng có những sự yếu đuối rất lộ liễu. Trong Tin Mừng, chúng ta thấy có lúc ông rất nhiệt thành rồi có lúc ông lại thờ ơ. Một đôi khi ông giống như một tảng đá, những lần khác ông giống như cọng bún. Ông rất người. Chắc chắn, ông không phải là ý tưởng để trở thành thủ lãnh của Giáo Hội Đức Kitô.
Nhưng rất lý thú, khi thấy Đức Giêsu đối xử với ông như thế nào. Người đã giúp đỡ ông trở thành một người sẵn sàng thí mạng sống mình vì Người, và Phêrô đã làm như thế. Sự trưởng thành này là một việc tuần tự, và đã có những lúc thụt lùi. Nhưng sự trưởng thành ấy xảy ra như thế. Sống là thay đổi và trở nên hoàn thiện là thay đổi thường xuyên.
Chúng ta hãy xem xét kỹ vào mối quan hệ giữa Đức Giêsu và Phêrô. Điều này sẽ giúp đỡ chúng ta trưởng thành như một con người và như những môn đệ của Đức Giêsu. Và nó sẽ chỉ cho chúng ta cách tốt nhất để giúp đỡ những người chúng ta yêu thương được trưởng thành.
Mọi sự đã bắt đầu khi Đức Giêsu kêu gọi ông. Dĩ nhiên Đức Giêsu đã thấy tiềm năng của ông. Tất cả chúng ta cần có ai đó tin tưởng mình. Khi có được sự tự tin nếu không có một ai khác tin tưởng chúng ta.
Phêrô không nghĩ ông xứng đáng với sự kêu gọi ấy. Ông nói “Lạy Chúa, xin hãy tránh xa tôi vì tôi là một người tội lỗi”. Đức Giêsu không phủ nhận Phêrô là người tội lỗi, nhưng Người đòi hỏi ông trưởng thành. Chúng ta cần được yêu sách. Phải có những yêu sách đặt ra cho chúng ta. Không đòi hỏi một điều gì đó ở một người tức là kết án người ấy một đời sống cằn cỗi.
Đức Giêsu lôi kéo ông vào công việc của Người. Người làm cho ông thành một người cộng tác trong công việc, không chỉ như một cậu bé đưa thư. Tinh thần trách nhiệm giúp cho con người trưởng thành.
Người yêu cầu ông tuyên bố lòng trung tín của ông. Có lần khi nhiều người rời bỏ Người, Đức Giêsu quay lại Phêrô và nói:”Anh cũng sẽ bỏ đi chứ?” Điều này bắt buộc Phêrô nhìn lại tâm hồn mình và đứng lại trên hai chân của mình. Điều ấy giúp ích cho sự trưởng thành.
Khi Phêrô long trọng tuyên xưng đức tin:”Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Đức Giêsu khen ông, và hứa trao cho ông trách nhiệm sau này. Tất cả chúng ta cần có sự khẳng định. Điều này động viên chúng ta có thêm lòng quảng đại.
Đức Giêsu sửa chữa ông. Khi Phêrô rút gươm ra trong vườn Giệtsimani. Đức Giêsu nói với ông, “Hãy xỏ gươm vào vỏ…” Một người Thầy phải có can đảm chỉ ra mọi sai lầm. Và học hỏi từ những sự sai lầm của mình là phần quan trọng của việc trưởng thành.
Có lần Đức Giêsu nói với ông thẳng thừng. Khi Phêrô muốn ngăn cản Người Lên Giêrusalem, Đức Giêsu nói “Satan lui đi, đừng ngăn cản ta…”. Trong những lúc đó, người Thầy phải quở trách. Nhưng có một nghệ thuật quở trách. Đức Giêsu đặt Phêrô đối đầu với khuyết điểm của ông khi ông mới tỉnh thức trong vườn:”Thế ra anh không thể canh thức nổi với Thầy một giờ sao?”. Ích lợi gì khi gạt bỏ một người vì người này nhu nhược và thấp kém.
Đức Giêsu cũng đe dọa đoạn tuyệt với Phêrô trong biến cố rửa chân. Chúng ta có lúc phải nghiêm khắc và từ chối mọi thỏa hiệp khi đụng đến vấn đề nguyên tắc.
Đức Giêsu biết rằng khi Phêrô chối Người, thì Phêrô đã biểu lộ sự yếu đuối của mình hơn là có ác tâm. Người đã tha thứ cho Phêrô và cho Phêrô cơ hội để bắt đầu trở lại. Tất cả chúng ta đều cần có người hiểu biết sự yếu đuối của chúng ta và không loại trừ chúng ta khi chúng ta không thể thực hiện ngay những điều tốt lành.
Nhưng Đức Giêsu không bao giờ làm hư hỏng Phêrô tức phá bỏ những cơ hội làm Phêrô trưởng thành.
Sợi chỉ xuyên suốt trong mối quan hệ của Đức Giêsu và Phêrô là yêu thương. Phêrô biết rằng Đức Giêsu yêu thương ông. Tình yêu thương là không khí trong đó người ta có thể trưởng thành. Đó là tảng đá trong đời sống của Phêrô.
Chúng ta có thể tưởng tượng rằng Phêrô đã được đào tạo thành một thủ lãnh rất tốt. Một thủ lãnh phải ý thức về sự yếu đuối của mình. Kinh nghiệm chối Chúa đã giải thoát Phêrô khỏi lòng Kiêu ngạo và tin cậy mù quáng vào sức lực của mình. Đồng thời, nó cho ông khả năng hiểu được sự yếu đuối của những người khác.
Câu chuyện của Phêrô cũng là câu chuyện của chúng ta. Chúng ta cũng hay dao động ngả nghiêng. Có những lúc chúng ta mạnh mẻ, và những lúc khác chúng ta yếu đuối. Không có mối tương quan nồng ấm với Đức Kitô, chúng ta chỉ ở vòng ngoài của đạo chúng ta. Chúng ta giống một người nói về tình yêu so với một người sống trong tình yêu.
77. Câu trả lời
Trong Tin Mừng hôm nay, chúng ta có một ví dụ về sự thăm dò ý kiến. Và chính Đức Giêsu đã chỉ đạo cuộc thăm dò. Dù nó rất hạn chế nhưng nó tập trung trên một vấn đề chính: căn tính của Đức Giêsu.
Ngày nay, chúng ta có quá nhiều cuộc thăm dò. Một cuộc thăm dò chúng ta thấy có nhiều ý kiến trái ngược nhau về một vấn đề hay cá nhân đặc thù nào đó. Cuộc thăm dò trong Tin Mừng cũng cho thấy điều đó. Chúng ta thấy người ta đưa ra những câu trả lời khác nhau cho vấn đề chủ yếu: Đức Giêsu là ai.
Câu hỏi Đức Giêsu đưa ra cho các Tông đồ không phải là một câu hỏi quanh co hoặc thông thường. Đó là một câu hỏi rất nghiêm túc. Đó là một vấn đề xuyên suốt toàn bộ Tin Mừng. Nó là vấn đề chính của Tin Mừng. Nó liên quan đến căn tính của Đức Giêsu. Mọi vấn đề khác xoay quanh vấn đề ấy. Người không đưa ra câu hỏi ấy để chơi. Đó là một vấn đề mà rõ ràng mỗi người đều phải đặt ra: ”Ông Giêsu này là ai vậy?”.
Nghe được ý kiến mà những người khác nói. Đức Giêsu quay lại các Tông đồ và hỏi “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Không chút nghi ngờ, Người đã biết điều họ suy nghĩ. Tuy vậy, Người cho họ cơ hội để họ bày tỏ ý kiến của mình. Chúng ta chỉ có thể ngạc nhiên về cách thức mà Đức Giêsu không nói gì về Simon, nhưng chờ đợi Chúa Cha trước hết nói với Phêrô.
Điều quan trọng đối với chúng ta là đưa ra câu trả lời của mình. Phải có khả năng tuyên xưng niềm tin và giá trị của một Kitô hữu. Sẽ chưa đủ nếu chúng ta lặp lại những lời giải đáp chính thức. Chúng ta phải làm thành đức tin của mình. Một đức tin mua giá rẻ là một đức tin nghèo nàn.
Trong quá khứ, mọi việc về đức tin đều được đọc sẵn cho chúng ta. Chúng ta không chỉ có sẵn câu đáp mà còn có sẵn câu hỏi. Và cũng không bao giờ có người hỏi chúng ta “Bạn nghĩ gì?” Chúng ta không có cơ hội để tranh luận, để quan tâm tra hỏi về một điều gì. Kết quả là chúng ta phải có khả năng đưa ra câu trả lời đúng, nhưng nếu bắt chúng ta phải nói tại sao mình tin vào chân lý này, nọ hoặc chân lý ấy có ý nghĩa gì với chúng ta, chúng ta thường lúng túng.
Ngày nay, có thể có một nguy hiểm khi đi quá xa trong hướng ngược lại. Nghe một số người nói, chúng ta hẳn sẽ nghĩ rằng không có những chân lý và giá trị khách quan. Điều gì tôi nghĩ, tôi cảm nhận, tôi muốn điều ấy mới quan trọng. Nhưng một quan điểm riêng tư như thế có thể sai lầm. Đức Giêsu khen ngợi Phêrô, không phải vì ông có câu trả lời của riêng ông mà bởi vì ông có câu trả lời đúng.
Tuy nhiên, chúng ta sẽ thấy rằng Phêrô không hiểu hết điều ông nói. Khi ông thừa nhận Đức Giêsu là Đấng Mêsia. Con Thiên Chúa hằng sống, ông không hiểu Đức Giêsu phải là Đấng Mêsia chịu đau khổ. Có điều ông còn phải học, và học bằng con đường gian khổ.
Chúng ta phải trưởng thành trong kiến thức về đức tin. Điều quan trọng là biết tin tưởng vượt qua xác tín cá nhân. Chúng ta càng có nhiều người như thế trong Giáo Hội, thì Giáo Hội càng được thiết lập vững chắc trên đá tảng.
Câu hỏi chủ yếu cho mỗi người chúng ta: Đối với tôi, Đức Kitô là ai? Người có là Con Thiên Chúa hằng sống không? Nếu đúng là thế, niềm tin ấy tác động như thế nào vào cách sống của tôi?
78. Đích thực
Câu chuyện Tin Mừng hôm nay cho thấy sự ưu tiên của Phêrô không phải là một điều do Giáo Hội về sau đặt ra. Nó đã có ngay từ lúc ban đầu, thật vậy, trong tâm trí và ý muốn của Đức Kitô. Nhiều chi tiết trong Tin Mừng cho thấy vị trí thủ lãnh của Phêrô trong nhóm mười hai. Ví dụ như ông được giới thiệu như người phát ngôn của nhóm mười hai và trong danh sách nhóm này, lúc nào tên ông cũng đứng đầu.
Dĩ nhiên Tin Mừng không chừa Phêrô ra, nhưng chỉ ra rõ ràng những điểm mạnh và điểm yếu trong đời sống của ông. Chắc chắn điểm yếu nhất là khi ông chối Chúa. Biến cố kể lại trong bài Tin Mừng hôm nay, lúc ông tuyên xưng đức tin vào Đức Giêsu chắc chắn là thời điểm tốt đẹp nhất của ông.
Đức Giêsu có thể điều hòa thời điểm này với va chạm của thực tế, trong trường hợp Phêrô tỏ ra tự mãn. Thay vì thế, Người khen ngợi và chúc lành cho Phêrô và hứa ban trách nhiệm và quyền bính cho ông.
Trong tính cách của Phêrô, có khía cạnh vững chắc như đá tảng. Ông luôn luôn là người tiến tới. Rõ ràng ông có những phẩm chất lãnh đạo mà Đức Giêsu đã nhận ra.
Nhưng có một khía cạnh khác trong tính cách của ông, khía cạnh yếu đuối và đen tối của ông mà ông chưa biết. Nhưng ông sẽ tìm ra nó kịp thời. Điều đó chứng tỏ ông đã có một kinh nghiệm cay đắng và làm ông phải khiêm nhường. Những người ở vị trí lãnh đạo phải ý thức về sự yếu đuối của mình và đó là một điều quan trọng. Người nào hành động như thể họ không thể sai lầm tạo ra nhiều lỗi lầm và làm tổn thương đến nhiều người khác.
Điều quan trọng là phải nhớ rằng Phêrô, người đã nói: “Thầy là Đấng Mêsia Con Thiên Chúa hằng sống” cũng là Phêrô người sau này đã nói “Tôi không biết người ấy”. Nếu là một Phêrô khác, thì có thể giải thích mọi việc. Nhưng cũng chính là Phêrô ấy. Chúng ta có thể nói rằng: “Ồ, nhưng Phêrô đầu tiên mới là Phêrô chân chính và đích thực”. Nhưng điều này không đúng vì chỉ có một Phêrô.
Điều ấy có nghĩa gì đối với chúng ta? Có một chia rẽ trong Phêrô, giống như sự chia rẽ trong mỗi người chúng ta. Như Phêrô khi thì can đảm, khi thì hèn nhát và chúng ta cũng thế.
Mỗi người trong chúng ta có những lúc cao thượng và những lúc thấp hèn, và chúng ta phải rút ra sức mạnh từ những lúc cao thượng. Trong lúc không quên khía cạnh yếu đuối, chúng ta phải cố gắng hành động từ khía cạnh mạnh mẻ. Chúa mỉm cười với chúng ta trong những khi tốt lành, và nâng đỡ chúng ta trong những lúc thấp kém.
Những lúc thấp kém của người khác không làm cho chúng ta hạ thấp họ hoặc loại trừ họ. Những lúc tốt lành của họ phải giúp chúng ta thấy tiềm năng của họ, để thừa nhận và khích lệ họ. Một cách tổng quát, chúng ta thường hăm hở lên tiếng phê bình, nhưng không sẵn lòng đưa ra một lời khích lệ, và bằng cách này, chúng ta ngăn cản mọi con đường thăng tiến.
Tôi đọc được một nhận xét ở đâu đó:”Tôi thường tìm điều xấu xa của người khác và hạ bệ họ. Giờ đây, tôi cố gắng tìm một điều tốt để nói với họ và xây dựng họ”. Khi quan niệm họ không thuộc loại người nào, chúng ta nhìn xuyên qua thực tế của họ. Tốt hơn hãy đánh giá điều gì một người có hơn là nghiền ngẫm điều họ không có.
Phêrô có những khiếm khuyết và những khiếm khuyết ấy rất rõ ràng. Nhưng sức mạnh của ông như lòng quảng đại, nhiệt thành, tài lãnh đạo cũng có. Và Đức Giêsu đã thấy rằng dù ông có thế nào, tấm lòng ông vẫn lành mạnh.
Chúng ta hãy cố gắng tìm điều tốt nơi mỗi người, phát hiện nó và đưa nó ra ánh sáng, như Đức Giêsu đã làm trong trường hợp của Phêrô.
79. Viên đá
Bài Tin Mừng hôm nay kể rằng thánh Phêrô đã được Đức Giêsu chọn làm tảng đá để xây dựng Hội thánh của Ngài trên đó. Nhưng ngoài tảng đá Phêrô, Chúa còn xây dựng Hội thánh của Ngài trên đá tảng nào khác nữa không? Đây là một câu hỏi thú vị. Câu hỏi thú vị này lại có câu trả lời thú vị không kém, mà lại là câu trả lời của chính tảng đá Phêrô: Thưa có, mỗi Kitô hữu cũng là một viên đá để xây dựng Hội thánh. Nguyên văn câu nói của Phêrô trong thư thứ nhất của ngài là:” Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây nên Đền thờ thiêng liêng”.
Như thế, thánh Phêrô không dành độc quyền xây dựng Hội thánh mà chia quyền ấy cho mọi Kitô hữu. Công đồng Vaticanô II cũng nói không khác với Phêrô: mọi Kitô hữu đều có sứ mạng xây dựng Hội thánh, mỗi người trong cương vị của mình, hoàn cảnh của mình và theo khả năng của mình.
Có một bài cầu nguyện rất đặc biệt mà tôi đã đọc trong một quyển sách. Tôi không còn nhớ tựa đề quyển sách đó, cũng không nhớ tên tác giả, nhưng vẫn nhớ nội dung lời cầu nguyện ấy mặc dù không nhớ kỹ từng lời. Đó là lời cầu nguyện của một viên gạch. Viên gạch này nằm sát chân tường. Đôi khi nó nhìn lên những viên gạch khác và trong lòng nó chợt nảy ra những so sánh, những ước ao, và nó cầu nguyện như sau:
Lạy Chúa, con chỉ là một viên gạch tầm thường nằm sát dưới chân tường.
Con không được như viên gạch xây cửa, ở ngay tầm mắt người ta.
Con không được như viên gạch xây mặt tiền, hãnh diện nhìn người qua kẻ lại và sung sướng được người ta khen đẹp.
Con không được như viên gạch trong phòng khách, hàng ngày được người ta lau chùi đánh bóng.
Con chỉ là một viên gạch tầm thường nằm sát chân tường.
Nhưng viên gạch ấy đã suy nghĩ, rồi nó cầu nguyện thêm: Nhưng Lạy Chúa, con vui vì chỗ ở của con, con vui với nhiệm vụ của con. Con mừng vì con cũng có góp phần trong ngôi nhà xinh đẹp này. Không có phần nhỏ bé và âm thầm của con thì bức tường sẽ đổ, ngôi nhà sẽ sập. Mặt tiền xinh đẹp kia không còn, cánh cửa xinh đẹp kia không còn, phòng khách xinh đẹp kia cũng không còn.
80. Thầy là ai?
Câu hỏi xưa kia Chúa Giêsu đặt cho các môn đệ: ‘Còn các con, các con bảo Thầy là ai? Hôm nay Ngài còn đặt cho mỗi người chúng ta.Hoặc trả như Phêrô: “Thầy là Con Thiên Chúa hằng sống”. Trả lời như vậy là rất đúng. Nhưng sợ rằng dó là một câu trả lời lý thuyết, hiển nhiên, có sẵn, theo sách vở. Chúng ta học trong sách thế nào thì thưa lại như vậy, chứ chưa chắc đã là xác tín của bản thân. Cách thứ hai là trả lời theo kinh nghiệm bản thân. Sau khi suy nghĩ, cân nhắc mình nghĩ thế nào, cảm nghiệm điều gì thì nói lên trung thực như vậy. Theo cách này thì trả lời không dễ và mỗi người có câu trả lời riêng của mình. Bạn sẽ trả lời như thế nào? Riêng tôi, tôi sẽ thành thật thưa cùng Chúa như thế này: Thầy là người gây rất nhiều phiền toái cho người khác, là một gương mẫu không thế theo nổi nên dễ làm nản lòng… nhưng đồng thời Thầy là người mà con cần đến nhất, không thế thiếu trong đời con.
Trước hết, Chúa Giêsu gây rất nhiều phiền toái cho mọi người, nhất là cho những ai muốn theo Ngài. Ngài đòi hỏi quá nhiều. Và những điều Ngài đòi hỏi thường đại ngược lại với bản năng của con người. Ngài mời gọi theo con đường hẹp, và qua cửa hẹp, vác thập giá mỗi ngày. Ngài còn đòi hỏi phải từ bỏ tất cả, kể cả chính bản thân. Nhiều lúc Ngài đặt người môn đệ trước những lựa chọn rất nghiêm trọng và gay cấn. Muốn trung tín với Ngài nhiều khi phải chịu những thiệt thòi rất lớn, chẳng hạn phải hy sinh tiền của, tình yêu, gia đình, sự nghiệp, tương lai…. Và trong thực tế nhiều người đã không có đủ nghị lực để chấp nhận những hy sinh đó. Có không ít những lời bộc lộ tâm tình thành thực rất đáng được thông cảm. Một nhà kinh doanh nói: Nếu làm đúng theo lương tâm Kitô giáo thì chúng tôi bị thiệt thòi quá lớn, biết lấy gì mà bù lại được! Một bà mẹ gia đình nói lên tình trạng bối rối: Nếu giữ đúng luật Chúa thì đời sống chúng tôi sẽ vô cùng chật vật, bấp bênh. Một đôi trẻ tâm sự: Nếu không phải là người có đạo thì chuyện tình duyên của chúng tôi gỡ rối cũng chẳng có gì khó. Nhưng khổ là mình có đạo nên mới thành bế tắc. Quả thật Chúa Giêsu gây không ít phiền toái, rắc rối… làm nhiều người đau khổ. Tiếp đến, người tín hữu phải theo gương Chúa Giêsu. Nhưng gương tuyệt hảo, cao siêu của Ngài dễ làm người ta choáng váng. Chúa Giêsu không chấp nhận một lối sống tầm thường. Ngài không muốn chúng ta thánh thiện nửa vời. Ngài chỉ cho thấy một lý tưởng cao vút: hãy nên toàn thiện như Chúa Cha trên trời. Ngài vạch ra một con đường khó đi: hãy sống như Ngài, theo gương Ngài. Theo Chúa Giêsu còn khó hơn leo núi. Mà chiều cao của ngọn núi này không thể đo được bằng thước trần gian. Càng leo càng thấy cao và càng thấy dốc. Làm sao đôi lúc tránh được cơn cám dỗ ác hại nhất là bỏ cuộc vì nản lòng.
Nhưng xét cho cùng, Chúa Giêsu vẫn là người mà ta cần đến nhất. Thiếu Ngài là bản thân sẽ chới với, ngả nghiêng. Cuộc đời sẽ chao đảo, lạc hướng, mất hết ý nghĩa. Cuộc sống cũng như tâm hồn chúng ta có nhiều tầng lớp nông sâu khác nhau. Nhận định và ý nghĩa về mỗi sự việc tùy thuộc vào vị trí chúng ta đứng mà nhìn.
Nếu ngừng lại ở tầng lớp nông cạn bên trên thì chỉ gặp nơi con người toàn những khát vọng, ưu tư, toan tính về cuộc sống thường ngày, cuộc sống thể xác, vật chất trước mắt. Những khát vọng, ưu tư này dầu có thiết thân đến đâu thì cũng vẫn chỉ có tính giai đoạn, ngắn hạn, nghĩa là tương đối. Về mặt này thì có lẽ Chúa Giêsu cũng chẳng có ích gì nhiều cho chúng ta. Nhưng càng đại xuống tầng lớp sâu hơn thì càng dễ khám phá ra những ước mơ thầm kín, thâm sâu của con người. Chúng luôn âm ỉ dưới chiều sâu, ẩn giấu… nhiều khi chính mình cũng không thế ý thức được hết. Những ước mơ này liên quan đến vận mệnh và ý nghĩa của cuộc sống. Chúng ta nhận ra mình vẫn mơ ước, ít ra một cách mơ hồ, cái gì chân thật hoàn hảo, vĩnh cửu, nghĩa là mơ ước chân lý, sự toàn thiện,Vấn đề là ai có thể thỏa mãn được những ước mơ thâm sâu và thầm kín đó? Chắc chắn chỉ có mình Đấng đã tự giới thiệu mình là Chân lý và là Sự sống: “Ta là Đường, là Sự thật và là Sự sống”. Chính vì thế mà Ngài là người mà chúng ta cần đến nhất, một người không thế thiếu… mặc dầu sự hiện diện của Ngài có gây phiền toái, và sự thánh thiện của Ngài đôi khi có làm cho chúng ta nản lòng. Cho nên lời tuyên xưng xưa của Phêrô còn phải trở thành kinh nghiệm riêng của mỗi người chúng ta hôm nay: “Lạy thầy, bỏ Thầy con biết đi theo Ai”.
81. Con Người là ai?
Một anh lính giải một nhà sư bị tù lên tỉnh. Anh ta có tính hay quên, nên vừa đi vừa lẩm bẩm, kiểm lại người và đồ đạc cho khỏi quên: “Khăn gói đây, dù đây, gông đây, lệnh toà đây, sư đây, mình đây. Khăn gói đây, dù đây, gông đây, lệnh toà đây, sư đây, mình đây…” Nhà sư biết đây là “dân thứ thiệt”, nên tìm cách đánh lừa. Sư rủ anh lính vào quán uống rượu, nhậu thịt chó một bữa say mèm. Trong khi anh lăn quay ra ngủ, sư lấy dao cạo trọc đầu anh lính, tháo gông đeo vào cổ anh ta, rồi trốn mất. Khi tỉnh dậy, theo thói quen, anh lính kiểm lại hết mọi sự, miệng lẩm bẩm: “Khăn gói đây, dù đây, lệnh tòa đây, gông đây…” Đến đó anh giật mình thét lên: Còn nhà sư đâu mất tiêu rồi. Anh ta cuống quít vo đầu, thấy đầu trọc lóc nên mừng rỡ la lên: Nhà sư đây rồi! Anh ta chợt sực nhớ lại điều gì nên than thở: Quái lạ! Còn mình đâu mất rồi mà không thấy đâu? Người lính đãng trí đã không nhớ mình là ai. Tuy nhiên trong đời sống, có nhiều lần chúng ta thật sự không nhớ mình là ai trong hành động, trong những việc chúng ta làm.
Trong bài Phúc âm, Chúa Giêsu không quan tâm đến điều người ta nghĩ Ngài là ai. Chúa dùng đó để mở đầu việc mạc khải chính mình cho các môn đệ. Khác với Chúa, chúng ta thường quá quan tâm đến điều người ta nghĩ về mình. Chúng ta tìm cách làm đẹp lòng người khác để được quý mến, ủng hộ. Chúng ta hùa theo đám đông để cầu an, khỏi bị để ý, chống đối. Vì thế chúng ta sống một cuộc sống giả tạo, không phù hợp với căn tính của mình. Thiên Chúa sai mỗi người vào thế giới với một sứ mệnh, cùng với những tặng ân cần thiết để hoàn thành sứ mạng. Sứ mạng và những tặng ân đó nói cho chúng ta biết mình là ai và phải làm gì. Chúng ta cần quan tâm đến điều đó, hơn là nhìn chung quanh để thấy người ta làm gì thì mình làm theo. Nếu Chúa ban cho khả năng lãnh đạo, có óc tổ chức, chúng ta cần đem tài năng đó để phục vụ giáo xứ cộng đoàn. Ngoaøi ra, Chúa coøn mạc khải cho các môn đệ rằng danh xưng Kitô mang ý nghĩa thánh giá, đau khổ, tử nạn. Danh tánh căn bản của mỗi người chúng ta là Kitô hữu. Cuộc sống của chúng ta chắc chắn không khác gì Chúa Kitô. Nếu danh xưng Kitô hữu là điều làm chúng ta hãnh diện, hy vọng, tin tưởng, thánh giá sẽ là vinh quang của chúng ta trong cuộc sống đời đời. Chúng ta hãy luôn ngước mắt chiêm ngắm Chúa Giêsu trên thánh giá, để khi đau khổ, khó khăn đến trong cuộc đời, chúng ta không lanh miệng chối bỏ như Phêrô, nhưng hân hoan reo vang như Phaolô: “Vinh dự của chúng ta là thập giá Đức Kitô.”
82. Biết và Yêu Chúa
Lần dở Phúc Âm, chúng ta thấy ít nhất bốn trường hợp Chúa Giêsu được nhận biết và tuyên xưng là Con Thiên Chúa qua những người và hoàn cảnh khác nhau. Một của Nathanien khi Chúa khen ông thành thật (Ga 1,49). Một của viên đội trưởng khi thấy sự lạ giờ Chúa chịu chết (Mc 15,39). Một của các tà ma trong Phúc âm thánh Marcô (Mc 3,12); và một của Phêrô do ơn linh ứng của Thánh Linh trong bài Phúc âm hôm nay (Mt 16,16). Qua bốn trường hợp trên chúng ta thấy ánh sáng của trời cao đã đóng một vai trò quan trọng trong việc giúp con người nhận biết Thiên Chúa.
Đứng trong phòng, nhìn qua khung kính cửa sổ, chúng ta xem thấy người, vật, xe cộ qua lại và chúng ta nhận ra Thiên Chúa sống động trong những sinh hoạt đó; nhưng cũng tấm kính cửa sổ trên chỉ một lớp bạc, lớp thủy ngân được phủ lên, tấm kính cửa sổ đó đã trở nên tấm gương và thay vì nhìn thấy cảnh vật, người, sinh hoạt sống động, chúng ta sẽ chỉ nhìn thấy chúng ta.Ngày nay con người cũng đang bị bao phủ bởi những lớp bạc đơn giản đó là tình, tiền, tài, danh giá, và tìm mình. Những lớp bạc đó đã làm con người chỉ nhìn thấy toàn là mình, mà không nhận ra Thiên Chúa trong các sự vật và hoàn cảnh chung quanh.Như Gia-kêu xưa đã bị lớp người vây quanh Chúa làm cản trở ông không xem thấy Chúa. Ông đã biết trèo lên cây cao để nhìn xem Chúa. Chúng ta cũng cần biết vượt lên cao khỏi những ràng buộc thế tục làm cản trở chúng ta nhận biết Chúa.
Nhận biết Thiên Chúa là một ơn Chúa ban, nhưng để lãnh nhận được ơn đó đòi phải có những điều kiện thoả đáng. Đứng trước máy xay lúa và trong khi nhìn gạo chuyển từ máng vào bao, chúng ta rút ra được những bài học sau:
Điều kiện thứ nhất: Khiêm nhường: Nói một cách tổng quát, Thiên Chúa không làm gì khác trật tự nhiên: nước mưa rớt xuống, nhưng lưu lại ở thung lũng. Ơn Thiên Chúa cũng xuống kẻ kiêu ngạo cũng như người khiêm nhường, nhưng lưu lại nơi tâm hồn khiêm nhu.
Điều kiện thứ hai: Sẵn lòng đón nhận. Theo Thomas Merton, người ta không thể cho nếu không có người nhận. Ơn Thiên Chúa tuy nhiều, nhưng nếu lòng con người không cởi mở, không đón nhận thì ơn Thiên Chúa vào sao nổi.
Điều kiện thứ ba: Trống rỗng, tinh thaàn cuûa Thiên Chúa và tinh thần thế gian không thế sống chung hoà bình. Nếu lòng con người còn mang nặng tinh thần thế gian thì ơn Thiên Chúa đau có chỗ đứng.
Hẳn không ai trong chúng ta muốn nhận biết Thiên Chúa để rồi thù ghét Ngài như ma quỉ, nhưng cũng phải nhận rằng chúng ta chưa nhận biết và yêu mến Chúa cho đủ. Vậy chúng ta cùng cầu nguyện cho nhau để sau khi nhận biết Thiên Chúa, chúng ta biết đem hết tâm hồn yêu mến Chúa là Đấng đã chết vì yêu chúng ta.
83. Thầy là ai?
Rembrandt vẽ Đức Giêsu rất con người với tất cả ánh sáng và bóng tối. El Greco trình bày một Đức Giêsu đòi hỏi và hoang dã, hơi gầy và tình cảm. Còn Angelico miêu tả một Đức Giêsu ngọt ngào giống như thiên thần. Có những hình vẽ Đức Giêsu là Chúa Chiên Lành, hiền từ và yêu thương, ôm lấy những con chiên hay bế trẻ thơ trong cánh tay. Có hình vẽ Đức Giêsu là quan án, nghiêm khắc, ngồi trên ngai, đang nhìn thấu suốt tâm tư của con người.
Điều không ai nghi ngờ là, con người được miêu tả nhiều nhất trong nghệ thuật trải qua bao thế kỷ, là Đức Giêsu Kitô. Ngày xưa cũng như ngày nay, người ta vẫn tiếp tục vẽ ra hình ảnh của Ngài. Bài Phúc âm hôm nay, nói đến sự kiện Chúa Giêsu rút về vùng Caesarea Philippi và hỏi các môn đệ: “Người ta bảo Con Người là ai?” Họ trả lời: “Người thì bảo là Gioan Tẩy giả, kẻ thì bảo là Elia, kẻ khác lại bảo là Giêrêmia hay một tiên tri nào đó”. Ngài hỏi thẳng các môn đệ: “Phần các con, các con bảo Thầy là ai?” Phêrô thưa: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.
William Barclay đã nêu lên những lý do rất hợp lý giải thích tại sao Chúa Giêsu lại rút về vùng Caesarea Philippi để dạy cho các môn đệ biết Ngài là ai. Vào thời điểm này, Chúa Giêsu phải đối diện với một vấn đề rất gay go. Cuộc đời trần thế của Ngài quá ngắn ngủi, đã có ai thực sự hiểu và nhận biết Ngài là ai chưa? Vì thế, Chúa đã chọn lựa rất kỹ lưỡng địa danh này để đặt câu hỏi “Thầy là ai?”
Theo William Barclay, vùng Caesarea Philippi cách biển Galilêa 25 dặm về phía đông bắc, ngoài vùng đất cai trị của vua Hêrôđê, đa số dân chúng không phải là Do Thái, chịu ảnh hưởng của những thần ngoại đạo, với nhiều đền thờ cổ thờ thần Baal của người Syrian. Vùng này lại có nhiều hang động nằm sâu trong núi. Một trong những hang này được tin tưởng là nơi sinh ra của vị thần Pan, thần của vũ trụ. Những huyền thoại về các thần của người Hy Lạp đã được gom góp lại trên phần đất này. Xa hơn nữa, hang này đã được truyền tụng là nơi xuất phát ra những nguồn suối nước tạo nên dòng sông Giođan. Nhưng quan trọng hơn hết, có một đền thờ vĩ đại bằng cẩm thạch trắng để thờ vị thần của hoàng đế Caesar.
Đang khi nhóm người Do Thái chính thống âm mưu giết Ngài như một kẻ rối đạo, Ngài đi đến một vùng đất thiêng thánh nhất của dân ngoại để mạc khải sự thật của Ngài. Đây là một bối cảnh có ý nghĩa sâu xa và có lẽ cũng là nơi an toàn để Chúa Giêsu cùng với 12 môn đệ tuyên xưng niềm tin. Qua lời tuyên xưng của Phêrô: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”, Chúa Giêsu mạc khải về thần tính của Ngài ở địa vị tối thượng trên hết mọi thần linh.
Câu trả lời của thánh Phêrô là kết quả của những ngày tháng gặp gỡ chính con người Đức Kitô. Ông đã quan sát đời sống hằng ngày của Ngài khi giảng dạy, làm phép lạ, chữa lành bệnh nhân, kêu gọi dân chúng thay đổi đời sống, tiếp xúc với những người tội lỗi, phụ nữ và trẻ em, ăn uống, gần gũi và yêu thương những người bị bỏ rơi… Khi sống chung với Đức Giêsu Kitô, sự nhận thức của Phêrô về Ngài được mở ra dần dần. Ông nhìn thấy khuôn mặt của Thiên Chúa trong Đức Giêsu. Lời tuyên xưng phát xuất từ sự gặp gỡ chân thành trong tâm hồn của Phêrô.
Đức Tổng giám mục Oscar Romero của El Salvador, người đã bị bắn chết đang lúc dâng thánh lễ, đã phát biểu một cách hùng hồn rằng: “Kitô giáo không phải là một bộ sưu tập những sự thật để tin, những luật lệ phải tuân giữ… Kitô giáo là một con người… Kitô giáo là Chúa Kitô”.
Chính sự kết hợp mật thiết và gắn bó với Chúa Giêsu mà Phêrô đã được đặt làm thủ lãnh của Giáo Hội: “Con là Đá, trên đá nầy Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được”.
84. Đức Kitô
Cuốn phim “The Passion” (Cuộc Thương Khó) của đạo diển Mel Gibson đã thu hút sự quan tâm của cả thế giới. Đây không phải là lần đầu tiên Chúa Giêsu trở thành đối tượng cho loại hình “Nghệ thuật thứ bảy” nầy. Và nhất là không chỉ có mặt nơi sân khấu điện ảnh, hình tượng Chúa Giêsu còn xuất hiện trong nhiều loại hình văn học nghệ thuật khác: thi ca, tiểu thuyết, âm nhạc, hội họa…Có chỗ Ngài được đề cao như một thần tượng đầy hấp dẫn và thuyết phục tuyệt đối (Qui luật của muôn đời của Dumbatze), nhưng cũng có khi Ngài bị lột trần xúc phạm như một kẻ phàm phu tục tử đến độ làm sôi lên cơn phẫn nộ của giới Kitô giáo (Cơn cám dỗ cuối cùng của Nikos Kazant-zakis)…Thì ra, Giêsu Na-da-rét, sau 2000 năm, vẫn còn sống mãi giữa lịch sử nhân loại. Nói cách khác, Chúa Giêsu hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn còn là một vấn nạn cho muôn con người, một vấn nạn mà chính Ngài đã đặt ra cho các môn sinh cách đây hơn 2000 năm trước: “Phần các con, các con bảo Thầy là ai?”.
Quả thật, trong đời sống, có những câu trả lời thật quan trọng, ảnh hưởng trên toàn bộ vận mệnh của cả một dân tộc, của cả một đời người. Chỉ một câu trả lời “không” của Nhật Hoàng trước đề nghị đầu hàng vô điều kiện của phe Đồng Minh, hai thành phố Hiroshima và Nazasaki của Nhật bị tiêu hủy bởi hai quả bom nguyên tử của Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ. Bởi một câu trả lời của con gái bà Herodia: “Con muốn đầu Gioan Tẩy Giả…”, lập tức cuộc đời của nhà đại tiên tri của cựu ước bị xóa sổ! Trên thế giới hôm nay, câu trả lời trong những cuộc thương thuyết chính trị hay trong các cuộc mặc cả với các tên khủng bố cũng rất là quan trọng vì có liên hệ đến sinh mệnh và cuộc sống của rất nhiều người…
Nếu quả thật, câu trả lời cho vấn nạn “các con bảo Thầy là ai” chỉ là một cụm từ không liên hệ gì đến con người, đến lịch sử nhân loại, đến vận mệnh cuộc đời, đến sự sống sự chết…thì quả thật câu trả lời đó chả cần thiết. Thật vậy, vào chính thời điểm câu hỏi đó đặt ra, thì đối với những con người như vua Hêrôđê, như quan tổng trấn Philatô, như các bậc đại gia ăn trên ngồi trước và chức quyền đạo đời ung dung bề thế ở thủ đô Giêrusalem, với vợ đẹp con khôn, với tiền bạc và phương tiện dồi dào… thì “Thầy là ai” mặc kệ Thầy, có liên quan gì đến họ, miễn là đừng làm gì ảnh hưởng đến sự an toàn của họ, vị thế chính trị của họi, sự hưởng thụ của họ. Nếu có, coi chừng họ sẽ loại trừ Thầy như nhỗ một cái đinh. Tuy nhiên, cũng trong thời điểm đó, câu trả lời “Thầy là ai” lại tuyệt đối quan trọng và cần thiết cho rất nhiều người, những người đang dõi mắt trông chờ ngày hiện thực của những lời sấm ngôn thuở trước như: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi. Ngài đã xức dầu tấn phong tôi để tôi đem Tin mừng cho kẻ nghèo…Với họ, duy nhất chỉ có câu trả lời: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” thì: Kẻ mù mới hy vọng được sáng mắt, kẻ què mới hy vọng nhảy cửng lên như nai, kẻ phung hủi bị đọa đầy cách ly ngoài hoang mạc mới có cơ may trở về sống kiếp con người, kẻ lầm đường lạc lối như Maria-Mađalêna, Giakê, Matthêu… mới còn sinh lộ làm lại cuộc đời, và kẻ chết như con trai bà góa Naim, như Lazarô ở Bêtania mới có ngày được thấy lại mặt trời sự sống…
Và suốt hơn 2000 năm nay, có hàng hàng lớp người nhờ câu trả lời như thế mà tìm được ý nghĩa cho cuộc đời, tìm được hạnh phúc đích thực.
Thầy phải là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống để thế giới hôm nay hòa bình hơn, huynh đệ hơn. Thầy phải là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống để những giá trị tinh thần được thăng hoa, để hạnh phúc các gia đình được thiết định trên nền tảng Tin Mừng, để tình yêu hôn nhân được liên kết và vững bền bằng giao ước thánh, để thiếu nhi được chăm sóc yêu thương và giáo dục, để người trẻ sống có lý tưởng và can đảm dấn thân xây dựng nền văn minh tình thương và sự sống, để những người già được yêu thương và kính trọng…Thầy phải là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống để chúng ta nhìn nhận nhau là huynh đệ một nhà, để người giàu biết sẻ chia, người nghèo biết khiêm nhu đón nhận, kẻ bịnh hoạn tật nguyền luôn mỉm cười hy vọng được ủi an, người tội lỗi biết mở lòng sám hối để làm lại cuộc đời…
Vâng, câu trả lời “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” không chỉ để trả lời một vấn nạn mà là một tuyên xưng niềm tin, một xác tín, một niềm hy vọng ngút ngàn, một tiếng kêu òa vỡ của hạnh phúc và niềm vui khi chợt khám phá ra “Nước Trời đang đến”, ơn cứu độ đã được trao ban, Thiên Chúa đã nhập thể và đang đồng hành cùng nhân loại.
85. Thánh Phêrô
Trong câu chuyện trao đổi giữa Thầy và trò, Chúa Giêsu đã hỏi các môn đệ:
– Người ta bảo Thầy là ai.
Các môn đệ liền đúc kết các dư luận quần chúng:
– Người thì bảo Thầy là Êlia, là Giêrêmia, là Gioan Tiền hô hay là một tiên tri nào đó.
Có lẽ lúc bấy giờ Chúa Giêsu đã nhìn các ông và đưa ra một câu hỏi cân não:
– Còn các con, các con bảo Thầy là ai?
Giữa lúc các bạn còn lúng túng, phân vân, suy nghĩ, thì Phêrô đã mạnh dạn thưa:
– Thầy là Đức Kitô, con Thiên Chúa hằng sống.
Lời tuyên xưng của Phêrô thật đáng ca ngợi. Thế nhưng, nguyên một lời tuyên xưng mà thôi, thì chưa đủ để bảo đảm phẩm chất của một đức tin, bởi vì còn hải đợi xem đức tin ấy sẽ trải qua những thử thách nào và được tôi luyện trong thực tế ra làm sao? Khi tuyên xưng đức tin, hẳn Phêrô chưa thấy hết được những khó khăn sẽ gặp phải trên con đường tin sau này.
Thực vậy, khi Chúa Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn sắp tới của Ngài, thì Phêrô đã phản ứng một cách dữ dội, ông đã quyết liệt can ngăn Ngài. Thử thách đức tin lớn nhất Phêrô đã trải qua chính là cuộc thương khó. Tại vườn Cây dầu, ông đã hung hăng chém đứt tai người lính để bảo vệ Thầy, nhưng rồi sau đó, ông cũng đã chạy trốn. Tiếp đến, khi bị người tớ gái nhận mặt và chất vấn, ông đã chối Thầy tới ba lần. Rồi khi được tin báo Chúa Giêsu đã sống lại, thì cũng như các tông đồ khác, Phêrô vẫn chưa chịu tin ngay.
Chỉ khi nhận lãnh Chúa Thánh Thần, đức tin của Phêrô mới thực sự trưởng thành và trở nên kiên vững. Lúc đó đức tin biến thành một xác tín và người tin trở thành một chứng nhân, tuyên xưng niềm tin của mình không chỉ bằng lời nói, mà còn bằng việc làm, bằng chính cuộc sống của mình.
Con đường Phêrô đã đi qua cho chúng ta thấy: Từ chỗ chấp nhận chân lý đức tin đến chỗ sống đức tin của mình là cả một chặng đường dài, đầy cam go. Con đường dài này là một cuộc thử lửa, một cuộc kiểm tra chất lượng.
Như một sản phẩm, trước khi được tung ra thị trường, cần phải được đưa qua khâu kiểm tra chất lượng để đo độ bền, độ cứng, độ dẻo, sức chịu nhiệt, chịu ẩm…Cũng vậy, chất lượng đức tin của chúng ta cũng cần phải được kiểm tra. Chính cuộc sống mỗi ngày sẽ kiểm tra chất lượng và định đoạt số phận đức tin của chúng ta. Nếu chúng ta sống hợp với điều chúng ta tin., nếu trong gian nan thử thách lòng tin của chúng ta vẫn không bị nao núng, nếu vì đức tin mà dám chịu thiệt thòi… thì quả thực đức tin đó đã được tôi luyện và đã trưởng thành. Đức tin đó không chỉ còn là một thái độ của trí tuệ mà đã trở thành một nếp sống.
Ban đầu đức tin của Phêrô còn non nớt, bởi vì Phêrô mới chỉ tuyên xưng bằng lời nói. Dần dần qua những khó khăn, những thất bại, những cố gắng, những phấn đấu, đức tin đó đã lớn lên và được tuyên xưng bằng chính cuộc sống. Và đó là một sự trưởng thành cần thiết.
Hãy cầu xin cho đức tin của mỗi người chúng ta cũng lớn lên, cũng trưởng thành theo nhịp độ của cuộc sống, giữa những gian nguy thử thách chúng ta gặp phải.
86. Hội Thánh của Chúa
“Con là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy”. Với lời này, Chúa Giêsu chính thức thiết lập Hội Thánh. Lời Chúa cho ta thấy những đặc tính của Hội Thánh.
Đó là một Hội Thánh cho con người.
Chúa Giêsu xây dựng Hội Thánh trên nền đá Phêrô. Phêrô vốn là một người yếu đuối. Đời ông nhiều thất bại hơn thành công, nhiều yếu đuối hơn mạnh mẽ. Đã từng ra khơi suốt đêm để sáng sớm trở về tay trắng. Đã từng chìm xuống khi muốn đi trên mặt nước. Đã từng ngủ mê khi phải canh thức với Thầy trước giờ tử nạn. Và tệ hại nhất là đã từng chối Thầy ba lần khi Thầy chịu khổ nạn. Nền tảng tượng trưng cho cả toà nhà. Nền tảng Phêrô là một con người yếu đuối cũng như cả Hội Thánh gồm những con người mỏng giòn. Những thất bại của Phêrô thường diễn ra trong bóng đêm. Đánh cả suốt đêm không được gì. Chìm xuống mặt nước lúc ban đêm. Ngủ gật trong vườn Cây Dầu khi trời tối. Chối Thầy trong bóng đêm. Đó là hình ảnh Hội Thánh còn phải lần mò đi trong đêm tối thử thách của thế giới với những yếu đuối của con người. Chúa dùng người yếu đuối để qui tụ những con người yếu đuối. Chúa sử dụng những phương tiện của con người để nâng đỡ con người.
Đó là một Hội Thánh của Thiên Chúa.
Tuy Hội Thánh dành cho con người, gồm những con người yếu đuối, nhưng đó lại là Hội Thánh của Thiên Chúa. Hội Thánh của Thiên Chúa vì chính Thiên Chúa thiết lập. Chúa Giêsu xác định đây là “Hội Thánh của Thầy”. Hội Thánh của Thiên Chúa nên sống bằng sức sống của Thiên Chúa chứ không bằng sức sống của con người. Thật vậy, Hội Thánh rất yếu đuối. Có những yếu đuối khi phải đương đầu với những khó khăn thử thách bên ngoài. Biết bao vua chúa đã muốn triệt hạ Hội Thánh khi Hội Thánh chỉ là một nhóm những người bé nhỏ nghèo hèn. Có những yếu đuối từ trong nội bộ. Biết bao lần chia rẽ, phân ly. Biết bao lỗi lầm tai hại tưởng như khiến Hội Thánh đổ nát tan tành. Nhưng Hội Thánh vẫn đứng vững với thời gian. Vì đó là Hội Thánh của Thiên Chúa.
Hiểu biết như thế, ta phải có thái độ thích hợp.
Vì Hội Thánh là chính chúng ta, những con người mỏng giòn, nên ta cần khiêm nhường. Khiêm nhường nhận biết mình yếu đuối. Khiêm nhường nhận biết Hội Thánh còn chưa thánh thiện. Khiêm nhường như thánh Phêrô suốt đời cầu xin lòng thương xót của Chúa. Khiêm nhường như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II công khai lên tiếng xin lỗi về những sai sót của Hội Thánh. Ta không chỉ khiêm nhường khi đấm ngực chuẩn bị dâng thánh lễ, mà còn phải khiêm nhường trong đời sống hằng ngày.
Vì Hội Thánh là cho con người nên ta cần có thái độ cảm thông. Biết mình yếu đuối, tôi sẽ dễ cảm thông với những yếu đuối của anh em. Cảm thông không phải để mặc anh em chìm xuống, những để giúp anh em vượt lên. Như lời Chúa dạy Phêrô: “Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho các anh em của anh nên vững mạnh” (Lc 22, 32)
Vì Hội Thánh là của Chúa nên ta phải hoàn toàn tin tưởng vào Chúa. Biết mình u mê, ta sẽ phó thác cho Chúa hướng dẫn cuộc đời. Biết mình yếu đuối, ta sẽ không còn cậy dựa vào sức riêng, nhưng hoàn toàn tin tưởng vào Chúa, làm việc bằng sức mạnh của Chúa. Như thánh Phêrô giảng đạo trong ngày lễ Ngũ Tuần nhờ ơn Chúa Thánh Thần hướng dẫn.
Chính Chúa là sức mạnh của Hội Thánh. Phêrô là Đá Tảng nhưng chính Chúa làm cho Đá Tảng vững bền. Phêrô giữ chìa khóa nhưng chính Chúa gìn giữ tòa nhà.
87. Trên tảng đá này
Trong cộng đoàn Hội Thánh, Simon là khuôn mặt nổi bật trong nhóm Mười Hai. Ông thuộc nhóm những môn đệ đầu tiên theo Đức Giêsu, và là một trong ba môn đệ thân tín nhất.
Ông có mặt lúc Chúa hiển dung và trong Vườn Dầu.
Ông thường là phát ngôn viên của cả nhóm (x. Mt 19,27).
Đức Giêsu phục sinh đã hiện ra cho ông trước tiên (1Cr 15,5), và giao cho ông chăn dắt đoàn chiên của Ngài (Ga 21,15-17).
Simon có bản tính bộc trực, hăng hái. Vì quá tin vào sức mình, ông đã sa ngã, chối Chúa.
Bất chấp những yếu đuối và giới hạn của Simon, Đức Giêsu vẫn chọn ông đứng đầu nhóm Mười Hai, và làm nền tảng cho Hội Thánh của Ngài.
Ngài đặt cho Simon một tên mới là Phêrô, tiếng Aram gọi là Kêpha, nghĩa là Tảng Đá. Tên mới này phản ánh sứ mạng Chúa giao cho ông.
Phêrô được tuyên bố là người có phúc, vì ông đã được Cha trên trời cho biết Đức Giêsu là ai. Ông đã tin tưởng đón nhận mạc khải ấy. “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.” Đó là lời tuyên xưng đức tin của Phêrô.
Nhưng ông không chỉ tuyên xưng đức tin của mình, ông còn tuyên xưng tình yêu nữa: “Lạy Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy.”
Với niềm tin-yêu vào Đức Giêsu, Phêrô sẵn sàng chia sẻ sứ mạng Mục Tử của Ngài, sẵn sàng hiến mình vì đoàn chiên.
Quả thực, Phêrô đã giang tay chịu chết như Thầy Giêsu, đã theo Thầy và đến nơi mình không muốn đến.
Chúng ta ngỡ ngàng trước sự tin tưởng của Đức Giêsu.
Ngài cho Phêrô được chia sẻ trách nhiệm với Ngài, dù ông chỉ là một ngư phủ bình thường, ít học.
Chỉ mình Đức Giêsu mới là Nền Tảng (x. 1Pr 2,4-5), nhưng Phêrô cũng được làm nền cho Hội Thánh.
Chỉ mình Đức Giêsu nắm giữ chìa khóa (x. Kh 3,7), nhưng Phêrô cũng được trao chìa khóa Nước Trời.
Nếu Phêrô có quyền giáo huấn, quyền thánh hoá và quản trị Hội Thánh, thì chỉ nhằm mục đích là phục vụ Dân Chúa.
Hội Thánh đã gặp biết bao khó khăn trong dòng lịch sử. Không phải chỉ là những cuộc bách hại đẫm máu, mà còn là những chia rẽ, tranh chấp nội bộ, những sa sút trầm trọng vì chạy theo thế gian.
Hôm nay, Hội Thánh cũng gặp khó khăn không ít, khi nhiều người bỏ nhà thờ, bỏ đức tin; khi ơn gọi giảm sút ở nhiều nơi; khi Đức Thánh Cha bị công kích.
Ước gì mỗi người chúng ta ở lại và yêu mến Hội Thánh, cải tổ và canh tân Hội Thánh bằng việc canh tân chính bản thân mình.
88. Phần quan trọng của cơ thể
Có một người mẹ trẻ thường hay đố đứa con gái rằng: “Phần nào trong cơ thể quan trọng nhất?”. Em trả lời âm thanh là quan trọng nhất nên đôi tai là bộ phận quan trọng nhất trong cơ thể. Thế nhưng người mẹ lắc đầu bảo rằng: “Có rất nhiều người điếc, họ không cần âm thanh”. Một thời gian sau, người mẹ lại hỏi và lúc này đứa bé đã lớn hơn một chút nên nó nhận xét: hình ảnh là quan trọng nhất trong cuộc sống nên đôi mắt là phần quan trọng nhất. Người mẹ âu yếm nói với con: “Nhiều người mù họ không cần hình ảnh. Đôi mắt vẫn chưa phải là cần thiết nhất. Con hãy tiếp tục suy nghĩ”. Sự kiện được tiệp tục nhiều năm tháng trôi qua, cho tôi hôm ông nội của đứa trẻ qua đời. Người mẹ dẫn con lại chào ông nội lần cuối và nói rằng: “Con đã tìm ra câu trả lời chưa?”. Đứa con ngạc nhiên vì câu hỏi của mẹ trong lúc này, nó tưởng rằng đây chỉ là trò đùa giữa hai mẹ con, nhưng người mẹ trịnh trọng nói: “Phần quan trọng nhất trên cơ thể con người chính là đôi vai. Vì đó là nơi người thân có thể dựa vào khi họ khóc. Mỗi người đều cần có một đôi vai để nương tựa trong cuộc sống. Mẹ chỉ mong con có nhiều bạn bè và nhận được nhiều tình thương để mỗi khi con khóc lại có một cái vai để con có thể ngả đầu vào. Hôm nay gia đình chúng ta đã mất đi đôi vai của người cha, người ông. Một con người mà cả gia đình đã nương tựa nay đã không còn”.
Vâng, phần quan trọng nhất của con người không phải là phần để cho mình mà là để cho tha nhân. Vì thế, một con người quan trọng trong xã hội là một con người có ích cho người khác. Một người được yêu mến và quý trọng không phải vì địa vị hay chức quyền mà là vì sự đóng góp của họ với cộng đồng nhân loại.
Hôm nay, sau lời tuyên xưng đức tin của thánh Phê-rô, Chúa đã đặt Phêrô làm đá tảng của Giáo hội. Chúa không bảo Phêrô trở thành một cục đá vô hồn mà là một viên đá sống động, một chỗ dựa cho các tông đồ và cho toàn thể giáo hội. Phêrô phải là một tảng đá có một đức tin vững chắc đến nỗi không có gì lay chuyển nổi mới có thể bảo vệ và gìn giữ Giáo hội. Chúa cũng biết con người Phêrô còn đầy bất toàn, yếu đuối, nhưng Chúa cũng nhận thấy Phêrô có một tấm lòng nhiệt thành theo Chúa. Ông mến Chúa. Ông luôn mong muốn hoàn thiện đời mình. Ông đã từng vấp ngã, nhưng ông mau làm lại cuộc đời. Chúa chọn ông không vì tài năng đức độ, nhưng vì lòng chân thành của ông. Chúa dùng ông, một con người đã từng vấp ngã để có thể nâng đỡ đức tin còn yếu kém nơi anh em. Chính Chúa đã từng nói với Phê-rô: “khi nào con trở về, con hãy củng cố đức tin anh em con”.
Hôm nay, Chúa vẫn mời gọi chúng ta hãy trở nên những viên đá sống động để xây dựng Giáo hội. Tuy nhiên, mỗi người một khả năng, mỗi người một hoàn cảnh, Chúa mời gọi chúng ta hãy biết tự xây dựng đời mình bằng những vật liệu mà chúng ta đang có để trở thành những viên đá hữu ích cho tha nhân. Đặc biệt là cho gia đình chúng ta đang sống. Có nhiều người nghĩ rằng: mình phải làm ông này bà nọ mới có thể cống hiến cho tha nhân. Đó là chuyện của tương lai, nhưng ngay hôm nay, chúng ta hãy biết vận dụng những khả năng, hoàn cảnh Chúa ban để giúp đời, để cứu đời, để xoa dịu nỗi đau cho những người chung quanh, để trở nên điểm tựa cho anh chị em chúng ta.
Nếu chúng ta là người chồng hay người vợ: hãy đưa vai gánh lấy cuộc đời nhau. Hãy là điểm tựa để nâng đỡ chia sẻ buồn vui và cùng dìu nhau qua những thăng trần của dòng đời.
Nếu chúng ta là người cha, người mẹ: hãy là điểm tựa cho con cái. Hãy sống vì gia đình, vì con cái mà quên đi những niềm vui riêng của mình. Hãy chu toàn bổn phận của mình để xứng đáng là núi thái sơn, là biển rộng bao la cho con cái hưởng nhờ sự ấm áp, sự chở che của tình cha nghĩa mẹ.
Nếu chúng ta là con cái trong gia đình: hãy gánh vác trách nhiệm với gia đình. Hãy quan tâm tới gia đình, đừng vì sự lười biếng, cẩu thả của mình mà trở thành gánh nặng cho gia đình.
Nếu chúng ta là thành viên trong cộng đoàn nhân loại: hãy chung vai góp sức xây dựng hoà bình. Hãy hỏi với lòng mình: “Tôi đã làm gì cho thế giới này được tốt đẹp hơn?”. Hãy biết dùng cuộc đời nhỏ bé của mình để trở nên những viên gạch xây dựng thế giới này mỗi ngày hạnh phúc và an khang hơn.
Trong cuộc sống không có việc gì là việc tầm thường đến nỗi không đáng cho chúng ta làm mà chỉ có những con người tầm thường khi thiếu trách nhiệm với gia đình và xã hội. Có thể công việc của chúng ta thật bé nhỏ, thật âm thầm nhưng nó lại thật cần thiết cho gia đình và xã hội. Tựa như viên đá góc tường nhỏ bé nhưng không thể thiếu khi muốn xây dựng ngôi nhà cao rộng hơn.
Tuy nhiên, muốn trở thành chỗ dựa cho tha nhân, chúng ta cần phải biết xây dựng đời mình trở nên những viên đá vững chắc, nghĩa là mỗi người cần biết rèn luyện đức hạnh đời mình trên nền móng Lời Chúa và phải được tôi luyện hằng ngày qua việc tìm kiếm và thực thi thánh ý Chúa. Đó chính là người khôn ngoan. Vì kẻ khôn ngoan là người biết lắng nghe và thực thi Lời Chúa, cho dù có gặp thử thách, gian truân, tựa như nước lũ ngập tràn cũng không lay chuyển. Còn kẻ thiếu đức hạnh, thiếu nền tảng Lời Chúa, không chỉ làm hỏng đời mình mà còn gây tai hoạ cho biết bao người khác, vì “mù dắt mù cả hai sẽ rơi xuống lỗ”.
89. Ý Chúa
Trong bài Phúc Âm hôm nay, ta thấy Chúa Giêsu khen ngợi thánh Phêrô. Thực vậy, Chúa Giêsu hỏi các tông đồ: Các con bảo Thầy là ai. Thánh Phêrô thưa: Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống. Nghe vậy, Chúa Giêsu liền chính thức xác nhận: Tư tưởng con vừa nói ra, không phải của con, nhưng đúng là của Chúa Cha soi sáng cho con.
Với lời đó, Chúa Giêsu đã đánh giá cao quan điểm của Phêrô. Cũng vì thế Chúa Giêsu trao cho Phêrô một nhiệm vụ hết sức quan trọng đó là nhiệm vụ phải đội trên mình tất cả toà nhà Hội Thánh. Chúa phán: Con là đá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy.
Thánh Phêrô hiểu lời đó. Ngài hiểu là chính bản thân mình, với tâm tình, tư tưởng của mình cùng với cuộc đời mình, sẽ phải là một cái nền, để Chúa xây Hội Thánh lên trên. Đó là nhiệm vụ hết sức nặng nề, đồng thời cũng là một vinh dự hết sức lớn lao. Vinh dự làm người đứng đầu Hội Thánh. Thánh Phêrô hiểu rõ mình được Chúa Giêsu tín nhiệm, nên ngài cũng tự nhiên nhìn thấy trước mắt một bổ phận được đặt ra cho mình, đó là phải bảo vệ Thầy mình. Bảo vệ Thầy mình có nghĩa là làm sao cho Thầy mình được an toàn, uy tín của Thầy mình được vẻ vang. Ít là thế, ít là phải thế. Chính vì vậy mà mấy ngày sau, khi nghe Chúa Giêsu nói, Chúa sẽ phải nạp mình chịu chết một cách đau đớn khổ nhục, thì Phêrô liền phản ứng ngay lập tức. Phêrô can ngăn: Xin Thầy đừng làm chuyện đó. Xin Chúa Cha đừng để chuyện đó xảy ra cho Thầy. Sở dĩ Phêrô can ngăn chính là để bảo vệ mạng sống và uy tín của Thầy. Ngài nói lên ý nghĩ của mình. Nhân danh của kẻ đã được chọn đứng đầu Hội Thánh. Phải bảo vệ Chúa. Tôi tưởng rằng, khi nghe lời thánh Phêrô nói, Chúa Giêsu sẽ lại khen như lần trước và Chúa sẽ nói: Tư tưởng của con là được Chúa Cha soi sáng cho con. Thế nhưng sự việc đã xảy ra trái ngược. Chúa Giêsu không những không khen, lại còn nặng lời mắng trách: Satan hãy lui xa Ta, vì tư tưởng vừa nói không phải là do Chúa Cha soi sáng cho con đâu. Rõ ràng, ở đây có mâu thuẫn giữa ý Phêrô và ý Chúa.
Sự mâu thuẫn này, lại xảy ra một lần nữa ở vườn Cây Dầu, tối thứ năm tuần thánh. Phêrô liền tuốt gươm chém đứt tai một người trong bọn họ. Phêrô biết việc mình làm là một đụng độ liều mạng, là một thái độ cứng rắn, mục đích chỉ là để bảo vệ Thầy mình. Phêrô đã làm việc đó với tư cách một người đã được Chúa chọn làm nền tảng Hội Thánh. Tôi tưởng rằng việc làm đó của Phêrô được Chúa khen và Chúa sẽ nói: Việc con vừa làm là do Chúa Cha soi sáng. Nhưng không, Chúa Giêsu không khen, trái lại Chúa còn trách Phêrô đã làm một việc ngăn cản thánh ý Chúa Cha.
Khi suy nghĩ mấy sự việc trên đây nơi thánh Phêrô, tôi thấy lo sợ. Tôi thấy thánh Phêrô là người được Chúa chọn đứng đầu Hội Thánh, được ở gần Chúa. Ngài có những ý nghĩ và việc làm tưởng là đẹp lòng Chúa, tưởng là cần thiết để bênh Chúa, bên đạo, thế mà Chúa lại không chấp nhận. Ý Chúa khác xa ý ngài. Những trường hợp như thế, có thể đã và đang xảy ra nơi nhiều người chúng ta. Chúng ta cũng như thánh Phêrô, thực sự nhằm mục đích làm sáng danh Chúa, bênh đạo. Mục đích như thế là rất tốt. Mục đích đó chẳng có gì phải trách. Nhưng đều có thể bị Chúa trách, đó là cách ta chọn để đạt mục đích đã thiếu khôn ngoan siêu nhiên. Tôi nghĩ là chúng ta phải khôn ngoan dè dặt, tế nhị nhiều lắm. Phải khiêm tốn nhiều lắm mới có thể nhìn rõ ý Chúa. Chúng ta hãy cầu xin cho chúng ta được sự khiêm nhường nhưng đầy can đảm, sự dè dặt tế nhị đầy sáng suốt, để nhận ra đâu là ý Chúa muốn cho chúng ta phải thực hiện.
90. Phêrô con người trong sáng
(Suy niệm của J.M.)
Người ta nhớ rằng trong Tin Mừng người được nghe thấy luôn luôn chính là Phêrô. Ngài còn để lại hai bức thư, rất ngắn, trong công vụ tông đồ14 chương đầu nói về Phêrô. Sau công đồng Giê-ru-sa-lem, Luca không nói về Phêrô nữa, phần còn lại dành cho Phaolô.
Biết Đức Giê-su…
Phaolô là nhà luân lý như trong thư Ngài viết, vì Ngài là biệt phái trung thành. Còn Phêrô trong các bài diễn văn như Luca kể lại, Ngài chỉ nói về Đức Giê-su và về Đức Giê-su Phục Sinh.
Phaolô trong những thư Ngài viết, dù bị chi phối về những bài giảng mà Ngài nghe, Ngài vẫn có những trực giác do ân sủng Ngài lãnh nhận.
Nhưng Phêrô con nhưng hung hăng, mãnh liệt lại bước nhịp nhàng theo chân Đức Ki-tô, Phêrô một con người trong sáng về đức tin. Bài diễn văn của Ngài đầy vẻ an bình. Theo gương Thầy chí thánh, Ngài không pha loãng chân lý bằng những lời nồng nhiệt bốc khói. Nhưng cũng như Thầy, trái tim Ngài cởi mở đón tiếp tất cả. Đức Giê-su rao giảng Chúa Cha cho người Do Thái. Phêrô cũng rao giảng cho người Do Thái về Đức Giê-su Đấng thiên sai cứu thế. Đấng tế lễ và ngôn sứ. Đấng con Thiên Chúa. Và sứ điệp Ngài cũng nói cho chư dân đã được Ngài gặp gỡ và làm cho trở lại đạo trước Phaolô.
Ngài là lơi, là mục tử, là đá góc tường, là vị kế nghiệp của Đức Ki-tô.
Tất cả vì Đức Ki-tô…
Đó là sức mạnh con người tự nhiên! Ngài đã theo Đức Ki-tô trong cuộc đời công khai với tất cả bản năng tự nhiên, còn do dự về Đức Ki-tô và về chính mình, thường hay đòi hỏi cho mình làm xúc phạm đến một người cùng làng quê với mình!
Sau lễ hiện xuống thì thật trong sáng, thật vững chắc, Phêrô đã có đức tin sao? chẳng nhưng tin mà còn biết bằng tai nghe, mắt thấy, tay sờ,và lòng mến được những hương vị ngoạt ngàoêm dịu trước sự hiện diện của Đức Ki-tô cháy đến từng thớ thịt toàn thân.
Ngài có thể nói với chúng ta như Đức Ki-tô nói: “hãy tin tôi đi, tôi đã thấy, đã nghe Người”. Với thánh Phêrô, chúng ta có thể thêm: “Tôi đã chối Chúa, nhưng Người vẫn yêu tôi”.
91. Giáo Hội phục vụ
(Suy niệm của J.M.)
Tin Mừng nói Giáo Hội phục vụ thế giới mới này, phục vụ nước trời: “Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa nước trời…”
Để làm gì?
Giáo Hội không phải mình là mục đích cho riêng mình, không phải để mình cai trị trần thế mặt đất, cũng không chinh phục tất cả loài người, Giáo Hội phục vụ mục đích cao cả hơn mình, vượt tầm mức của mình, phục vụ kế hoạch của Thiên Chúa nơi thế giới, xây dựng nước Thiên Chúa.
Giáo Hội phục vụ gì? Giáo Hội phục vụ để đào tạo thế giới lên nước Thiên Chúa. Giáo Hội có bổn phận chuẩn bị thế giới ngay từ bây giờ, để thế giới lớn lên hằng ngày trong tương quan giữa người với người và với xã hội.
Giáo Hội đã làm đầy đủ sứ mạng của mình thế nào?
Theo chân Đức Giê-su, Giáo Hội mời gọi chúng ta đổi mới não trạng trong tương quan giữa cá nhân. Trong xã hội, kinh tế, chính trị và trong đời sống gia đình. Đó là việc thực sự không thể nào, không ngược lại với đời sống xã hội, kinh tế hay chính trị. Thế giới mới được Đức Giê-su đến phục hưng, đó là một thế giới được thấm nhuần tinh thần của Đức Giê-su, sinh hoạt theo tâm trí của Người và được soi sáng bằng ánh sáng của Tin Mừng.
Là Giáo Hội, là Kitô hữu không phải chỉ lo bảo vệ đời sống cho chính mình mà chính là cùng một lúc biết chịu trách nhiệm làm cho nước Thiên Chúa lan rộng khắp chung quanh mình, chúng ta cần phải cho chính mình thấm nhuần tinh thần Đức Giê-su và não trạng của Người, đề tinh thần Đức Giê-su soi chiếu ra chung quanh chúng ta, biến đổi dần dần não trạng của những người gần bên chúng ta.
Điều thiết yếu của Giáo Hội, là chính các Kitô hữu phải tin vững chắc vào Đức Giê-su Ki-tô, sống theo não trạng của Người. Khi hoạt động thay đổi não trạng con người chính là lúc chúng ta biến đổi thế giới thành nước Thiên Chúa.
92. Hai cột trụ của Giáo Hội
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Phêrô và Phaolô là hai trụ cột của Giáo hội mà phụng vụ không thể tách rời. Đây là hai khuôn mặt sáng ngời của Giáo hội, hai người Do Thái gắn bó với đạo cha ông, một người sống ở miền quê, người kia thành thị, cả hai đã được Đức Kitô chọn gọi.
Simon, mạnh mẽ với đức tin bình dân xứng đáng với tên gọi Phêrô. Saolô, người đã theo học với các bậc thầy nổi tiếng, trên đường đến Đamát, ông đã gặp Chúa Giêsu, Đấng tự tỏ mình cho ông như một nhân vật sống trong vinh quang của Thiên Chúa duy nhất và trong lòng những người tin vào Người mà ông đang bắt bớ (x. Cv 9,1-19), được đầy Thánh Thần ông được gọi là Phaolô (x. Cv 13,9).
Phêrô vất vả vượt qua biên giới Israel mở toang cánh cửa Giáo hội cho những người không phải là con cháu của Abraham bước vào. Trái lại, Phaolô là một nhà truyền giáo khắp nơi của Giáo hội và trên thế giới. Phêrô và Phaolô là những chứng tá sống động, mẫu mực về đời sống thiêng liêng. Hơn bao giờ hết, chúng ta có được cảm hứng từ đời sống của hai đấng, nếu chúng ta muốn, đến lượt chúng ta, có thể làm chứng trong chân lý về đức tin của chúng ta, đem Tin Mừng đến cho những người chung quanh. Cùng đi với Giáo hội hướng tới chân lý và ánh sáng giữa sóng cả ba đào thế gian. Chúa Giêsu nói: “Lạy Cha, Con chúc tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn” (Mt 11, 25). Chúng ta, những con người nhỏ bé, nghèo hèn phải đối mặt với một thế giới đầy khó khăn. Cùng với Chúa Giêsu, chúng ta tiến bước trong ân sủng với niềm tin và hy vọng.
Chúa Giêsu trả lời Phêrô: “Hỡi Simon con ông Giona, con có phúc, vì chẳng phải xác thịt hay máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 16, 17). Phêrô sẽ không đòi cho mình sự độc quyền để trở nên Phêrô cho Giáo hội đang gặp rắc rối giống như ông lúc Chúa Giêsu chịu khổ nạn: “Anh em cũng vậy, anh em là những viên đá sống động mà xây dựng cộng đoàn dưới tác động của Chúa Thánh Thần” (1Pr 2, 5). Ngôi Đền Thờ thiêng liêng Cộng đoàn Kitô giáo được xây dựng trên Chúa Kitô là Đá Tảng của Thiên Chúa. Phêrô với tư cách cá nhân tuyên xưng: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16, 16). Những gì ông nói thực sự là căn tính của Chúa Giêsu trong tương quan giữa Chúa Giêsu với Cha Người, đây là đức tin của Giáo hội sau khi Chúa phục sinh. Đức tin này đã được các Tông Đồ trung thành gìn giữ cho đến tử vì Đạo.
Tiếp theo, chúng ta đề cập đến niềm tin của chúng ta vào lời Chúa Giêsu trong Tin Mừng, và giáo huấn của Giáo hội. Chúng ta xin ơn khiêm nhường để phó thác hoàn toàn vào tay Thiên Chúa. Phêrô và Phaolô đã tỏ bày sự nóng bỏng của Tình Yêu, Đức Ái nơi lòng mình. Các ngài đã nói về Tình Yêu là Chúa Thánh Thần, và các ngài đã làm điều đó không chỉ bằng lời nói, nhưng trên tất cả bằng hành động. Phêrô và Phaolô đã thấy mình cùng rực cháy lửa tình yêu của Thiên Chúa. Và chính Tình Yêu này đã thúc đẩy họ hiến trọn thân mình cho Chúa Kitô và hiền thê của Người là Giáo hội.
Lời tuyên xưng của Phêrô sẽ là điểm qui chiếu cho các môn đệ, một điểm chuẩn cho tất cả mọi thời. Còn Phêrô sẽ là điểm qui chiếu cho những người tin, nhờ ông mà họ có thể khẳng định niềm tin của mình. Chúa Giêsu nói với Simon bằng một lời chúc phúc: ” Hỡi Simon con ông Giona, con có phúc”, Người đã mạc khải cho Phêrô cái phúc mà ông vừa tuyên xưng, đón nhận lời tuyên xưng của Phêrô vào Người mà Thiên Chúa Cha đã mạc khải cho ông. Chính nhân đức này mà Phêrô được Chúa Giêsu coi như đá góc của Giáo hội. Chúa Giêsu muốn chúng ta nhận ra rằng đức tin đến từ những nơi khác: Đó là một sự trung thành mà Chúa Thánh Thần nói cho chúng ta. Chúa Giêsu trao cho Phêrô Mầu Nhiệm của Giáo hội Chúa, mầu nhiệm đó sẽ là cả hai cùng chịu đóng đinh với Người và được sống lại với Người. Qua mái trường tình yêu tuyệt vời của phụng vụ, một kho tàng được ban cho chúng ta mỗi ngày. Dân Thiên Chúa bước đi trong một thế giới khủng hoảng. Với Chúa Thánh Thần, dân Chúa có thể đánh bại quyền lực của bóng tối nhờ Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống. Đối với mỗi người Kitô hữu, sống là Đức Kitô, thánh Phaolô nói: “Những gian nan thử thách Đức Ki-tô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh.” (Col 1, 24). Lòng chúng ta bừng cháy lửa tình yêu đối với Chúa Giêsu và Giáo hội của Người, bởi vì yêu mến Chúa Giêsu là yêu mến Giáo hội của Chúa và dâng hiến hoàn toàn cho Giáo hội.
Đại lễ mừng kính hai Thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô hôm nay khơi dậy nơi chúng ta một niềm vui lớn lao, vì đặt chúng ta trước công trình thương xót của Thiên Chúa trong tâm hồn hai vị Thánh, hai người tội lỗi. Và Thiên Chúa cũng muốn làm cho chúng ta được tràn đầy ân sủng của Ngài như đã làm cho hai thánh Phêrô và Phaolô. Kính xin hai Thánh, giúp chúng ta đón nhận ơn thánh như hai vị với con tim rộng mở.
93. Hồng Ân Đức Tin
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Ngày 29 tháng 6 hàng năm là ngày dành riêng cho hai vị thánh tử đạo Phêrô và Phaolô Tông Đồ, chúng ta long trọng cử hành Đại Lễ Kính Các Ngài là nền tảng của Hội Thánh sơ khai, và đức tin của người kitô hữu, vì “Phêrô là người đầu tiên tuyên xưng đức tin”; “Phaolô, là người làm sáng tỏ đức tin” (Kinh Tiền Tụng).
Là Tông Đồ của Chúa Giêsu, và là nhân chứng tiên khởi, nên Hai Thánh đã sống những khoảnh khắc đầu tiên và chứng kiến sự lớn mạnh của Giáo hội, đồng thời đã đổ máu đào để chứng tỏ lòng trung thành với Chúa Giêsu. Chúng ta, những kitô hữu ở thế kỷ XXI, có thể là những chứng nhân đáng tin cậy về tình yêu của Thiên Chúa giữa thế gian giống như Hai Tông Đồ và nhiều người khác nữa.
Trong Huấn từ đầu tiên của Ðức Thánh Cha Phanxicô, ngỏ lời với các hồng y năm 2013, ngài nói “Chúng ta phải bước đi, xây dựng và tuyên xưng” Không Tuyên Xưng Ðức Kitô Chịu Ðóng Ðinh, thì Không Phải Môn Ðệ của Người. Chúng ta có thể đi như chúng ta muốn, chúng ta có thể xây dựng rất nhiều điều, nhưng nếu anh em không tuyên xưng Ðức Giêsu Kitô, thì có điều gì sai? Chúng ta sẽ trở thành một cơ quan hỗ trợ cho tổ chức phi chính phủ (NGO), chứ không phải Hội Thánh, là Hiền Thê của Chúa.”
Vì thế câu hỏi “Người ta bảo Con Người là ai?” Chúa Giêsu đặt ra cho các môn đệ về nguồn gốc của chính mình. Trong số người đương thời, có kẻ cho Chúa Giêsu là Gioan Tẩy Giả, Êlia, Giêrêmia, hay một tiên tri nào đó (x. Mt 16,13-19).
Đối với Phêrô, vị ngư phủ miền Galilê, Chúa Giêsu đòi hỏi một hành động về đức tin của chính mình và ông đã không ngần ngại tuyên xưng: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Ngay lập tức, Chúa Giêsu nói với ông: “Phêrô, con là Đá, trên Đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy” ( Mt 16,18) và trao cho ông chìa khóa nước Trời, đặt ông làm Thủ lãnh các Tông Đồ, cùng với quyền tối thượng.
Đức Kitô, Con Thiên Chúa có nghĩa là Đấng được xức dầu làm Ngôn Sứ, Vương Đế và là Mục Tử chăn dắt Israel. Trên miệng của Phêrô, tước hiệu Đức Kitô chứa đựng ý tưởng toàn năng. Các môn đệ nhìn chung đều nghĩ rằng, Chúa Giêsu đến để tái lập Vương Quốc Israel, Người sẽ dùng quyền năng đánh đuổi quân Rôma, đưa người Do thái lên thống trị. Vì thế, khi Phêrô thưa: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16, 16), là ông nghĩ tới một Đức Kitô vinh quang, thống trị toàn năng, chiến thắng mọi kẻ thù.
Câu hỏi về căn tính của Chúa Giêsu không đơn giản là câu hỏi điều tra, tín điều hay là chú giải Kinh Thánh, cũng không phải là câu trả lời cho những người đến hỏi Chúa Giêsu hoặc tìm xem Kinh Thánh nói gì về Chúa. Đây là một câu hỏi về đời sống! Toàn bộ lịch sử, Kinh Thánh hoặc tín điều chúng ta nói về con người Chúa Giêsu, chúng ta chỉ là mình khi biết chấp nhận đi trên đường Chúa đã chỉ cho. Tin Mừng mạc khải dần dần cho chúng ta về căn tính đích thực của Đức Kitô để dẫn chúng ta tiến về Giêrusalem cách khải hoàn, cùng lúc soi sáng tâm hồn chúng ta và dạy cho chúng ta biết rằng, ta chỉ có thể nhận biết Chúa Giêsu nếu chúng ta để Chúa biến đổi đời ta.
Những trang tiếp theo của Tin Mừng thuật lại, Chúa Giêsu ba lần loan báo cuộc thương khó rằng Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, bị giết chết. Nhưng các môn đệ không hiểu, không tin vào những gì sắp xảy đến. Đối với họ, Đức Kitô chịu khổ nạn là không thể, hình ảnh Đức Kitô vinh quang khác với hành động của Người. Họ không thể đón nhận Đức Kitô đau khổ thay vì vinh quang. Vì thế, ngày hôm nay phải là ngày tạ ơn Thiên Chúa vì hồng ân đức tin chúng ta được loan báo bởi hai cột trụ của Giáo hội là thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ. Đức tin này đã thắng thế gian, vì đức tin ấy tin và tuyên xưng rằng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa.
Cho dù Phêrô hay những người kế vị đã được trợ giúp bởi sức mạnh của Chúa Thánh Thần, vẫn cần đến lời cầu nguyện của chúng ta, vì nhiệm vụ của các ngài thật cao cả tuyệt vời đối với đời sống của Giáo hội: Các ngài phải là nền tảng vững chắc cho tất cả các Kitô hữu ở mọi nơi mọi thời; Thế nên, chúng ta phải cầu nguyện hàng ngày cho Giáo hội, cho Đức Thánh Cha.
Những ngày lễ về hai thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô trong năm nhắm đến khía cạnh khác, nhưng hôm nay 29 tháng 6, chúng ta chiêm ngưỡng điều cho phép chúng ta gọi là “những người đầu tiên loan báo đức tin”: thông qua cuộc tử đạo của Hai Thánh, và lời tuyên xưng của Các Ngài. Lời tuyên xưng ấy không phải xác thịt hay khí huyết mặc khải cho Phêrô về Chúa Giêsu, nhưng là Chúa Cha Đấng ngự trên trời (x. Mt 16,17). Tương tự như vậy, việc phát hiện ra Chúa Giêsu là “một trong những người bị bắt bớ”, ngay cả đối với Saolô, thực sự mở ra ân sủng của Thiên Chúa. Trong cả hai trường hợp, nhu cầu tự do con người đòi hỏi hành động của đức tin dựa trên tác động của Chúa Thánh Thần.
Đức tin của các Tông Đồ là đức tin Giáo hội, duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền. Kể từ khi Phêrô tuyên xưng tại Caesarea Philiphê, “mỗi ngày, toàn thể Giáo hội, chính thánh Phêrô nói: ‘Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Saint Lêô Cả). Từ đó cho đến nay, tất cả các Kitô hữu ở mọi nơi mọi thời nam phụ cũng như lão ấu, thuộc các nền văn hóa khác nhau đều tuyên tuyên xưng cùng một đức tin như thế với sự khải hoàn.
Lạy thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ, chúng con cám ơn Hai Đấng vì hồng ân đức tin mà Các Ngài đã rao giảng và sống, đồng thời truyền lại cho chúng con. Amen.
94. Hai phản ánh đẹp về Chúa Giêsu
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
A- Phân tích (Hạt giống…)
Đoạn này cho thấy 3 mức độ hiểu biết về Chúa Giêsu:
- Mức độ của dân chúng: nếu chỉ thấy những việc Chúa Giêsu làm và nghe những lời Ngài dạy mà không suy nghĩ thêm thì người ta chỉ biết Ngài là một tiên tri thôi.
- Mức độ của Phêrô: được ơn Chúa soi sáng, Phêrô hiểu Chúa Giêsu là Đức Kitô Con Thiên Chúa. Nhưng nếu ơn soi sáng của Thiên Chúa không có sự hợp tác là sự “đi theo” của con người thì dù có hiểu biết Chúa Giêsu, con người vẫn có thể phản đối và cản bước Thiên Chúa (cc. 21-23)
- Mức độ Chúa Giêsu đòi hỏi nơi người môn đệ: hiểu biết Chúa Giêsu cộng thêm sự từ bỏ và vác thập giá đi theo Ngài.
B- Suy gẫm (…nẩy mầm)
- Tôi hiểu biết Chúa Giêsu tới mức độ nào:
– Coi Ngài là một tiên tri. Do đó tôi chỉ liên hệ với Ngài để xin ơn?
– Coi Ngài là Đức Kitô Con Thiên Chúa, là lẽ sống đời tôi, nhưng lại sợ khó, ngại khổ?
– Sẵn sàng bỏ tất cả và vác thập giá đi theo Ngài?
- Chúng ta có nhiều cách để khước từ thập giá: khi không tiếp nhận cuộc sống như một ơn ban, khi chỉ bị quay nhìn về các biến cố và con người, khi bán đứng lương tâm vì chút lợi lộc vật chất, khi đóng kín niềm tin trong các buổi phụng vụ mà quên rằng sống đạo là sống niềm tin kitô trong từng phút giây cuộc sống. (Trích “Mỗi ngày một tin vui”)
- Ngày kia, hoàng đế của một vương quốc lớn đã mời gọi các nghệ sĩ từ nhiều nước đến dự cuộc thi “mô tả chân dung hoàng đế”. Các nghệ sĩ Ấn Độ đến với đầy đủ dụng cụ và các thứ đá hoa kim cương quí nhất. Các nghệ sĩ Ai cập thì mang đến đủ thứ đồ nghề và một khối cẩm thạch hảo hạng. Sau cùng người ta rất nhạc nhiên khi thấy phái đoàn Hy Lạp chỉ mang vỏn vẹn một gói thuốc đánh bóng.
Mỗi phái đoàn dự thi trong một căn phòng đặc biệt của cung điện. Khi thời gian đã hết, hoàng đế cho trưng bày các tác phẩm tranh giải. Ông hết sức khen các bức chân dung của chính mình do các nghệ sĩ Ấn Độ và Ai cập tạc nên. Sau cùng đến phòng trưng bày của người Hy Lạp, hoàng đế chỉ thấy duy nhất một bức tường đã được đánh bóng đến độ khi hoàng đế nhìn vào ông thấy khuôn mặt của mình hiện ra từng nét. Và phái đoàn Hy Lạp đã đoạt giải nhất trong cuộc thi đó.
Sứ mệnh căn bản của mỗi Kitô hữu là hoạ lại dung nhan của Đức Kitô nơi cuộc sống và tâm hồn của mình. Để đạt được điều đó, chúng ta phải đục đẽo, phải loại bỏ tất cả những gì là gồ ghề, thô nháp, những thói hư tật xấu và phải cầu xin để có một đức tin vững mạnh.
Lạy Chúa, xin cho con biết kiên nhẫn đục đẽo tâm hồn và cuộc sống con để dung nhan Ngài giãi sáng qua mọi hành vi của đời sống con. (Hosanna)
- Ông Simon Phêrô thưa: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16)
Hằng ngày tôi phải đối mặt với biết bao vấn đề, biết bao chuyện mà Thiên Chúa đòi tôi phải làm chứng cho Ngài. Trước bao vấn đề cần sự can thiệp của tôi: kỷ luật trong lớp học, dàn hoà một cuộc cãi nhau hay một xích mích, giúp đỡ kẻ nghèo… Tôi chỉ biết suy nghĩ cách giải quyết này đến cách giải quyết khác. Tất cả chỉ là những lý tưởng. Vì chúng chỉ lẩn quẩn trong đầu tôi mà không thể đi tới hành động.
Ông Phêrô đã tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống, nhưng khi chối Chúa 3 lần, ông đã không dám dấn thân đến cùng cho niềm tin. Và đức tin không có việc làm là đức tin chết!
Lạy Chúa, xin ban Thần Khí của Người, để con mạnh dạn tuyên xưng Chúa bằng chính hành động của con. (Hosanna)
- “Thầy bảo cho anh biết: anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá. Trên tảng đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” (Mt 16,18). cầu nguyện cho Đức Thánh Cha và cho Giáo Hội.
Khi xưa Chúa nói với Phêrô “Anh là Tảng Đá”. Hôm nay nghe lại đoạn Phúc Âm này tôi cảm thấy như Chúa nói với tôi.
Mỗi viên đá đều góp phần tạo nên nền móng cho ngôi nhà. Bé nhỏ, yếu hèn và bất lực, tôi lo sợ viên đá của mình có lúc sẽ vỡ tan. Đó là lúc tôi đánh mất chính mình trong bổn phận hằng ngày.
Lạy Chúa, xin cho con được vững vàng và can đảm hơn, để con thực sự là viên đá hữu dụng trong tay Chúa (Hosanna)
95. Phêrô và Phaolô, tượng đài hiệp nhất
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Giáo hội mừng kính hai thánh Tông Đồ, hai cột trụ Giáo hội cùng chung một ngày. Hai con ngưòi khác nhau từ cá tính đến thân thế nhưng cùng chung một ơn gọi từ Chúa Kitô, cùng chung một niềm tin vào Chúa Kitô, chung một sứ mạng Chúa Kitô trao phó và cuối đời cùng chịu tử đạo vì Chúa Kitô tại Roma. Cùng chia sẽ một niềm tin, cùng thi hành một sứ mạng, Chúa Kitô đã đã đưa hai Ngài đến một cùng đích, một vinh quang đội triều thiên khải hoàn.
Bản tin Zenit.org tháng 7 năm 2010 kể về “Ngục thất nơi giam hai thánh Phêrô và Phaolô: Từ tăm tối trở thành ánh sáng”.
Sau một năm trời khai quật, Nhà ngục Mamertine, nơi Thánh Phêrô và Phaolô phải giam giữ trước khi bị hành hình, đã được tân trang và mở cửa lại.
Địa điểm nhà ngục nằm cạnh Quần thể Cổ Roma (Ancient Roman Forum), tạc sâu vào vách đá của đồi Capitol (Capitoline Hill) và nhìn xuống ngôi nhà dùng làm Nghị viện thời đó. Người ta vẫn tin là nhà ngục này – còn có tên gọi là Carcer Tullianum – được hoàng đế Roma Servius Tullius xây vào thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên, gồm có hai phòng giam chồng lên nhau. Phòng giam dưới là một khoảng chật hẹp ẩm thấp, chỉ xuống được qua một lỗ hổng trên sàn phòng giam trên, được sử dụng suốt thời kỳ Cộng hoà và Đế quốc Roma để làm tù ngục giam giữ và hành quyết.
Chính tại phòng giam này viên tướng chỉ huy quân đội người Gaule là Vercingetorix bị xiết cổ chết sau trận chiến thắng của Julius Caesar, và cũng tại nơi đây, trong tù ngục âm u, Jugurtha, vua người Numidians đã bị để cho chết đói. Vào thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên, Sallust một văn sĩ Roma đã mô tả nhà ngục này “sâu 12 feet, chung quang là tường và trên là mái vòm bằng đá. Khung cảnh thật ghê tởm và đáng sợ vì bị bỏ bê, tối tăm và hôi thối.”
Một thế kỷ sau lời mô tả như trên của Sallust, Thánh Phêrô và Phaolô đã phải đến cư ngụ trong phòng giam dưới cực kỳ ghê tởm này, trong những ngày cuối đời trước khi tử vì đạo, bị cầm tù theo lệnh của hoàng đế Nero. Sự hiện diện của hai vị tông đồ đã chuyển biến địa điểm thất vọng này thành nơi chỗ hy vọng, khi các ngài rao giảng đức tin cho lính canh ngục là Processus và Martinianus. Hai người lính Roma xin được rửa tội, nhưng không có nước trong phòng giam để cử hành bí tích này, vì thế Thánh Phêrô dùng gậy đập trên nền phòng và nước phun ra từ tảng đá. Địa điểm nơi dòng nước của phép lạ này chảy ra nay còn được ghi nhớ nơi phòng giam dưới.
Những người giam giữ Phêrô giúp ông vượt ra khỏi nhà ngục tồi tệ này, nhưng sau khi gặp được Chúa Kitô trên con đường Appian, Thánh Phêrô quay trở lại và tự ý nhận lấy cái chết là bị đóng đinh vào thập giá tại đấu trường của Nero trên đồi Vatican.
Tuần qua, văn phòng của vị giám sát khảo cổ tại Roma loan báo rằng công việc khai quật đã khám phá ra những phần còn lại của các bích họa cho biết việc chuyển đổi nơi này thành một không gian tôn kính của người Kitô giáo đã xảy ra ngay tận đầu thế kỷ thứ 7, cùng thời gian với việc Curia (Nghị viện) được biến đổi thành một thánh đường cũng như nhiều cấu trúc khác trong khu vực Quần thể. Cuộc khai quật dõi tìm được dấu vết nhiều giai đoạn khác nhau của khu vực này, từ lúc còn là khu mỏ đá cổ cho đến khi trở thành nhà ngục cho đến lúc “biến đổi rất nhanh”thành một trung tâm tôn kính Thánh Phêrô.
Ngày nay, ngục giam này nằm dưới ngôi Thánh đường San Giuseppe dei Falegnami xây vào thế kỷ 17, nhưng địa điểm là do Tòa giám quản giáo phận Roma sở hữu và sẽ được Opera Romana Pellegrinaggi mở cửa cho công chúng vào thăm viếng có thể là từ đầu tháng 7 này. Ở đó khách hành hương có cơ hội tỏ lòng tôn kính hai thánh Phêrô và Phaolô. Hai thánh nhân đã từng nhìn ra ngoài Quần thể nơi có nhiều đền đài thờ phượng những con người phàm đã biến thành thần nhân, và các ngài đã có dũng cảm tuyên xưng Tin Mừng của Thần Chúa đã sinh hạ làm người phàm. (x.VietCatholic News, 03-7-2010).
Hai Thánh Tông Đồ: Phêrô – Phaolô, hai vì sao sáng ngời chiếu toả ánh sáng Chúa Kitô cho nhân loại.
Bài ca nhập lễ ngày Lễ Trọng hôm nay vang lên hùng tráng: “Hai vì sao sáng chói, lấp lánh trên bầu trời, ngời sáng đêm trường, rực rỡ soi đường sưởi ấm yêu thương.Hai tình yêu chiến thắng, ngất ngây trong cuộc đời, từ trái tim nồng dòng máu anh hùng ngời sáng muôn trùng”. Hai Thánh Tông Đồ là hai con người xuất thân khác nhau, tính cách khác nhau nhưng cùng một niềm tin, cùng một sứ mạng và cùng một vinh quang được đội triều thiên vinh hiển để trở thành hai vì sao sáng cho Giáo hội.
“Còn nhớ hôm nào người ba lần chối Giêsu. Còn nhớ ngày nào người bắt Chúa trong căm thù”. Lời ca ngắn đúc kết phần một trong cuộc đời hai Ngài: chối Thầy, bắt Thầy. Nhưng cuộc đời phần hai đã viết nên những trang hào hùng oanh liệt. Nhờ tình yêu Chúa dẫn lối, hai Ngài cầm đuốc Tông đồ rao truyền Tin mừng Chúa Giêsu Kitô cho thế giới.
Đọc lại cuộc đời của hai Thánh Tông đồ để nhận thấy sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa. Ơn Gọi Tông Đồ quả là một mầu nhiệm lạ lùng.
- Thánh Phêrô
Cuộc đời Phêrô có nhiều sôi nổi. Gồm lại những sôi nổi, ta có thể chia đời ông ra làm hai: cuộc đời phần một, từ khi theo Thầy ở biển hồ Galilê đến lúc chối Thầy; phần hai, từ khi theo Thầy ở biển hồ Tibêria cho đến cuối đời chết ở Roma. Trong cuộc đời phần một của Phêrô, ông đi từ lỗi lầm này sang lỗi lầm khác.Cuối đời của Chúa, Chúa đã bị ông từ chối thê thảm (Mc 14, 66-72). Gom nhặt những đoạn phúc âm nói về Phêrô, ta thấy mãnh đời của ông có nét chân dung thế này:Là tông đồ bị Chúa mắng nhiều nhất. – Mắng lần đầu tiên: Quân yếu tin ( Mt 14, 31) – Lần thứ hai: Ngu tối ( Mt 15, 16) – Lần thứ ba: Satan ( Mc 8, 33) Khi Chúa bị bắt, bị kết án, Phêrô đã chối Thầy 3 lần. Phêrô chối Chúa vì quá yếu đuối chứ không phải vì không yêu Thầy.Trước cái chết, Phêrô rùng mình chối bỏ, tìm đường chạy trốn.Thế nhưng trước yếu đuối ấy, Phêrô đã khóc lóc nhớ lại lời Chúa nói về thân phận mình, ông oà khóc nức nở như một đứa bé với dòng lệ sám hối. Chúa đã nhìn ông bằng ánh mắt thứ tha trìu mến. Đời ông là giằng co giữa yếu đuối và dũng mảnh, giữa trọn vẹn và dang dỡ, giữa xa và gần, giữa trời và đất. Trái tim ông có u tối đi tìm ánh sáng, có nuối tiếc đi tìm lý tưởng. Đời ông có tự tin gặp vấp ngã, có phấn đấu gặp thất bại. Trong sự vấp ngã yếu đuối cuộc đời phần một của người môn đệ này vẫn có một tâm hồn chân thành. Phần hai cuộc đời ông là một thiên anh hùng ca.Thiên anh hùng ca được mở đầu bằng những lời chứng của Gioan(Ga 21, 2-3). Lời chứng nói về một đêm đen mờ mịt của biển hồ Tibêria, rồi đưa đời ông từ đếm đen mờ mịt ấy về một cõi trời phiêu bạt mịt mù sương gió cho Nước Trời. Sứ mạng theo Đức Kitrô khởi đầu từ đây khi bảy anh em ra đi đánh cá, vất vả cả đêm mà không được gì. Đức Giêsu Phục sinh đến với họ ban cho họ mẻ cá lạ lùng.Chính Đấng Phục sinh đã hỏi Ông: Phêrô, con có yêu mến thầy không? Phêrô đáp: Thưa Thầy, Thầy biềt rõ mọi sự, thầy biết con yêu mên Thầy. Sau khi Phêrô trả lời câu hỏi ấy với tất cả chọn lựa cân nhắc, Chúa nói với ông rằng: Thầy bảo cho anh biết lúc còn trẻ anh tự thắt lưng lấy và đi đâu tuỳ ý.Nhưng khi đã về già, anh đã phải giang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn tới nơi anh chẳng muốn. Phúc âm Gioan cắt nghĩa rõ con đường này là: Người nói như vậy có ý ám chỉ ông phải chết cách nào.Thế rồi Chúa bảo ông: hãy theo Thầy. Chỉ chờ đợi lời mời gọi này, Phêrô lập tức lên đường thực thi sứ mạng Thầy trao.Từ đây trên tảng đá này Thầy xây Giáo hội của Thầy, cửa hoả ngục sẽ không thắng được.Từ đây, những trang sử vẻ vang của giáo hội sơ khai được viết nên bởi vị Tông đồ có lòng yêu mến Chúa thiết tha.
- Thánh Phaolô
Đọc Công vụ Tông tồ từ chương 8 trở đi, chúng ta bắt gặp một Saolô, ở Tac-xô, là người Do thái, trí thức, thông thạo nhiều thứ tiếng miền Do thái – Hy lạp, rất sùng đạo theo môn phái Ga-ma-li-ên ở Giê-ru-sa-lem. Cuộc đời phần một của Phaolô là biệt phái nhiệt thành đi lùng sục bắt bớ Đạo Chúa, tham gia vào vụ giết Tê-pha-nô và trên đường Đa-mát truy lùng các Kitô hữu.
Được ơn trở lại trên đường Đa-Mat, Saolô được biến đổi để trở nên chứng nhân vĩ đại là Phaolô, Tông Đồ dân ngoại. Cuộc đời phần hai của Phaolô đã viết nên thiên anh hùng ca. Sách Công vụ tông đồ kể lại: trên đường Đa-mat, Phaolô rong ruổi trên yên ngựa hăng say truy bắt các Kitô hữu thì thình lình ánh sáng từ trời loé rạng bao lấy ông. Không bao giờ Phaolô còn thoát được ra ngoài ánh sáng đó. Từ đó trở đi, Chúa Kitô đã trở thành tất cả đối với Phaolô. Từ đó trở đi, chỉ có Chúa Kitô là đáng kể. Khi đã biết Chúa Kitô thì “những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay, vì Đức Kitô, tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa tôi còn coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Giêsu Kitô, Chúa của tôi. Vì Ngài, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như đồ bỏ, để được Đức kitô và được kết hợp với Người. Được như vậy, không phải nhờ sự công chính của tôi, sự công chính do luật Mô-sê đem lại, nhưng nhờ sự công chính do lòng tin vào Đức Giêsu ( Pl 3, 7-9). Từ đó trở đi Phaolô hiên ngang vì tư cách làm môn đệ Chúa Kitô và với tư cách ấy Ngài tuyên xưng sự duy nhất, sự bình đẳng, tình huynh đệ thực sự giữa tất cả mọi người:”Vì anh em, phàm ai đã được thanh tẩy trong Đức Kitô, thì đã được mặc lấy Đức Kitô: không còn Do thái hay Hy lạp;không còn nô lệ hay tự do;không còn nam hay nữ; vì anh em hết thảy là một trong Đức Kitô Giêsu (Gal 3, 27-28).Vì Đức Kitô là “tất cả mọi sự và trong mọi người”( Col 3, 11). Phaolô hiên ngang được sống và được chết cho Chúa Kitô.Các mối phúc thật được kết tinh nơi cuộc đời Phaolô. Biết mình đã tin vào ai, Phaolô đã sung sướng sống nghèo, lấy việc lao động mà đổi miếng ăn, không để giáo hữu phải cung phụng mình (1Cor 9, 3-18;2Cor11, 8-10), sung sướng vì đã mất tất cả và chịu đủ thứ khốn khổ vì Chúa Kitô. Phaolô không ngại trở nên hùng hồn kể về những”… lao tù đòn vọt, bao lần suýt chết, năm lần bị người do thái đánh bốn mươi roi bớt một, ba lần bị đánh đòn, một lần bị ném đá, ba lần bị đắm tàu, một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi.Phải chịu đủ thứ nguy hiểm bởi “phải thực hiện nhiều cuộc hành trình, gặp bao nguy hiểm trên sông, nguy hiểm do trộm cướp, nguy hiểm do đồng bào, nguy hiểm vì dân ngoại, nguy hiểm ở thành phố, trong sa mạc, ngoài biển khơi, nguy hiểm do những kẻ giả danh là anh em;phải vất vả mệt nhọc, thường phải thức đêm, bị đói khát, nhịn ăn nhịn uống và chịu rét mướt trần truồng ( 2 Cor 11 23-27). Phaolô ra vào tù thường xuyên, có lần Ngài viết từ ngục thất cho Ti-mô-thê, người môn đệ, có khi không khỏi nao núng:”anh đừng hổ thẹn làm chứng cho Chúa chúng ta, cũng đừng hổ thẹn vì tôi, là kẻ bị tù vì Ngài”.Phaolô không hổ thẹn”vì tôi biết tôi đã tin vào ai …”(2 Tim 1, 8-12).Vì Đức Kitô “tôi phải lao đao khốn khó đến cả xiềng xích như kẻ gian phi, nhưng Lời Thiên Chúa không bị xiềng xích”(2Tim 2, 9). Phaolô đã sung sướng tự hào cả khi ý thức những yếu đuối của mình “Ơn Ta đủ cho con vì chưng quyền năng trong yếu đuối mới viên thành”(2 Cor 12, 9).Không gì có thể làm nao núng lòng tin mãnh liệt ấy “chúng tôi bị dồn ép tư bề nhưng không bị đè bẹp;hoang mang nhưng không tuyêt vọng;bị ngược đãi nhưng không bị bỏ rơi;bị quật ngã nhưng không bị tiêu diệt”( 2cor 4, 8-9) Vị Tông đồ dân ngoại đã nhiệt thành loan truyền Chúa Kitô với tất cả thao thức “Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng”( 1Cor 5, 14). Ngài luôn sống trong niềm tin tưởng yêu mến vào Đấng đã kêu gọi Ngài “tôi sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, là Đấng yêu mến tôi và thí mạng vì tôi”( Gal 2, 20). Vì Đức Kitô và vì Tin mừng thánh nhân đã sống và chết cho sứ mạng. Cuộc sống buôn ba vì Nước trời được điểm tô muôn ngàn vạn nét đẹp của Phaolô mãi mãi được hát lên như một bài ca khải hoàn “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, bắt bớ, đói khát, trần truồng, nguy hiểm, gươm giáo? … Vì tôi thâm tín rằng sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay thiên phủ, dù hiện tại hay tương lai, hay bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ tạo vật nào khác, không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa thể hiện cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta “( Rm 8, 35-39).
- Phêrô và Phaolô, tượng đài hiệp nhất.
Giáo hội mừng kính hai thánh Tông đồ, hai cột trụ Giáo hội cùng chung một ngày. Hai con ngưòi khác nhau từ cá tính đến thân thế nhưng cùng chung một ơn gọi từ Chúa Kitô, cùng chung một niềm tin vào Chúa Kitô, chung một sứ mạng Chúa Kitô trao phó và cuối đời cùng chịu tử đạo vì Chúa Kitô tại Roma. Cùng chia sẽ một niềm tin, cùng thi hành một sứ mạng, Chúa Kitô đã đã đưa hai Ngài đến một cùng đích, một vinh quang đội triều thiên khải hoàn. Hai con người khác biệt ấy laị có những điểm tương đồng lạ lùng.Chúa Kitô đã nối những điểm tương đồng ấy để tất cả được nên một ở trong Người. Thánh Phêrô, trước đây hèn nhát, sợ hãi, chối Chúa, về sau yêu Chúa nồng nàn thiết tha. Thánh Phaolô, trước kia ghét Chúa thậm tệ, sau này yêu Chúa trên hết mọi sự. Trước kia hai vị rất khác biệt, bây giờ cả hai nên một trong tình yêu Chúa.
Sự nghiệp Tông đồ tiếp bước Chúa Kitô, hai vị hiệp nhất trong cùng một lòng chân thành tuyên xưng, hiệp nhất trong một tâm huyết nhiệt thành rao giảng để rồi mãi mãi hiệp nhất trong cùng một đức tin minh chứng. Mặc dù có nhiều khác biệt về thành phần bản thân, về ơn gọi theo Chúa về hướng truyền giáo, nhưng cả hai vị đã tạo nên sự hiệp nhất trong đa dạng. Cùng chịu tử đạo. Cùng trở thành nền móng xây toà nhà Giáo hội. Cùng trở nên biểu tượng hiên ngang của niềm tin Công Giáo. Hai Vì Sao Sáng được Giáo hội mừng chung vào một ngày lễ 29 tháng 6. Hai Tông Đồ cột trụ đã trở nên tượng đài của sự hiệp nhất trong Giáo hội. Hiệp nhất là một công trình được xây dựng với nhiều nổ lực của con người dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Linh. “Khác nhau trong điều phụ, hiệp nhất trong điều chính, yêu thương trong tất cả”, đó là khuôn vàng thước ngọc cho tinh thần hiệp nhất trong Giáo hội (x. Làm nụ hoa trắng. ĐGM Vũ Duy Thống).
Đón nhận ánh sáng từ nơi Chúa Kitô, hoạt động truyền giáo theo sự dẫn dắt của Chúa Thánh Linh, hai Thánh Tông đồ Phêrô, Phaolô đã nên hai vì sao sáng ngời, trở nên nền tảng hiệp nhất. Xin hai Ngài luôn nâng đỡ Giáo hội hiệp thông.
96. Những tương đồng lạ lùng
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Giáo hội mừng kính hai Thánh Tông đồ, hai cột trụ Giáo hội cùng chung một ngày. Hai con người khác nhau từ cá tính đến thân thế nhưng có rất nhiều cái chung: Cùng chung một ơn gọi từ Chúa Kitô, cùng chung một niềm tin vào Chúa Kitô, cùng chung một sứ mạng Chúa Kitô trao phó, và cuối đời cùng chịu tử đạo vì Chúa Kitô tại Roma. Cả hai Ngài cùng chia sẻ một niềm tin, cùng thi hành một sứ mạng. Chúa Kitô đã đã đưa hai Ngài đến một cùng đích, một vinh quang đội triều thiên khải hoàn, cùng trở thành nền móng xây toà nhà Giáo hội, cùng trở nên biểu tượng hiên ngang của niềm tin Công Giáo. Hai Thánh Tông Đồ được Giáo hội mừng chung vào một ngày lễ 29 tháng 6.
Hai con người khác biệt ấy lại có những điểm tương đồng lạ lùng. Chúa Kitô đã nối những điểm tương đồng ấy để tất cả được nên một ở trong Người. Thánh Phêrô, trước đây hèn nhát, sợ hãi, chối Chúa, về sau yêu Chúa nồng nàn thiết tha; Thánh Phaolô, trước kia ghét Chúa thậm tệ, sau này yêu Chúa trên hết mọi sự. Trước kia hai vị rất khác biệt, bây giờ cả hai nên một trong tình yêu Chúa.
Hai tên gọi cùng được đổi mới.
Theo cách dùngThánh Kinh, tên không những chỉ là danh xưng dùng để gọi một người mà còn là hiện thân của một người (x. Từ điển Công Giáo phổ thông). Tên gọi nói lên một sứ mạng. Tên mới biểu tượng một thân phận mới, một bản chất mới. Ađam đặt tên cho mọi giống vật và đặt tên cho vợ: “Ngươi sẽ gọi tên vợ là Eva, vì bà là mẹ của chúng sinh”(St 3, 20). Abram được đổi tên để nhận lấy một sứ mạng cao cả: “Tên ngươi không còn là Abram nữa, mà là Abraham… Sarai, vợ ngươi, sẽ không còn là Sarai nữa. Song tên nó là Sara. Bởi Sara, ngươi có một người con trai, ngươi sẽ đặt tên cho nó là Isaac”(St 17, 5-20). Tổ phụ Giacop được đổi tên là Israel: “Người đó hỏi ông: “Tên ngươi là gì?”Ông đáp: “Tên tôi là Giacop. “Người đó nói: “Người ta sẽ không gọi tên ngươi là Giacop nữa, nhưng là Israel, vì ngươi đã đấu với Thiên Chúa và với người ta, và ngươi đã thắng.”(St 32, 28-29). Theo lời Sứ thần Gabriel, Đức Maria đặt tên cho con là Giêsu. Ông Giacaria đặt tên cho con trai là Gioan.
Khi Anrê dẫn em trai là Simon đến gặp Chúa Giêsu, Người nhìn Simon và nói: “Anh là Simon, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kêpha”(tức là Phêrô) (Ga 1, 42). Chúa xây dựng Giáo Hội trên Đá Tảng Phêrô: “Thầy bảo cho anh biết: anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá. Trên tảng đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi”(Mt 16, 18). Chúa còn trao chìa khoá Nước trời cho Phêrô.
Saolô là một biệt phái nhiệt thành. Trên đường đến Đamát, thình lình một luồng sáng từ trời bao tỏa lấy Saolô. Ông ngã xuống đất và nghe một giọng nói với ông: “Saolô, Saolô, tại sao ngươi bắt bớ Ta? Saolô hỏi: “Ngài là ai?”Và có tiếng trả lời “Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ”(Cv 9, 1-5). Saolô đã bị mù lòa. Ông làm những gì được chỉ bảo. Ba ngày sau, ông Annanias đến, đặt tay trên Saolô và ngay lập tức có cái vảy bong ra khỏi mắt và ông được sáng. Ông đứng dậy và chịu phép rửa (Cv 9, 6-18). Từ đó, Chúa Giêsu biến đổi Saolô thành một Tông đồ dân ngoại. Kể từ chương 13 sách CVTĐ, Saolô có tên mới là Phaolô.
Đặt tên cho một người là định hướng cuộc đời người ấy theo tên gọi. Từ đó có một chương trình trong sự quan tâm trìu mến của người đặt tên. Tên Giêsu là sứ mạng của Người (Mt 1, 21) nghĩa là cứu độ (Cv 14, 3), cứu thoát (Cv 4, 12), đem lại sự sống siêu nhiên cách viên mãn (Col 3, 17). Ai cầu nguyện nhân danh Đức Giêsu, theo ý hướng của Người sẽ luôn luôn được nhận lời (Ga 15, 16); Ai kêu cầu tên Người sẽ được cứu thoát (Rm 10, 13); Những ai tin vào tên Người sẽ làm nên Hội Thánh (1 Cor 1, 2) và từ đó được gọi là Kitô hữu (Cv 11, 26). Simon và Saolô đón nhận tên gọi mới là Phêrô và Phaolô với sứ vụ cao cả là đá tảng và là cột trụ của Giáo Hội.
Hai khuôn mặt cùng một niềm tin
Có nhiều dư luận nói về Chúa Giêsu. Người hỏi các môn đệ: “Các con bảo Thầy là ai?”. Simon Phêrô nhanh nhẹn đáp: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”(Mt 16, 16). Chúa Giêsu rất hài lòng về câu trả lời của Phêrô. Người nói với Phêrô: “Này anh Simon, con ông Gioan, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời”(Mt 16, 17). Phêrô tuyên xưng niềm tin. Chúa Giêsu đặt thánh Phêrô làm đầu Giáo Hội (Mt 16, 18).
Từ khi nhận phép rửa, Phaolô đã mạnh dạn rao giảng về Chúa Kitô khiến nhiều người Do Thái ngạc nhiên tự hỏi: “Ông này chẳng phải là người ở Giêrusalem vẫn tiêu diệt những ai kêu cầu danh Giêsu sao? Chẳng phải ông đã đến đây với mục đích bắt trói họ giải về cho các thượng tế sao?”(Cv 9, 21). Phaolô đã làm bẽ mặt những người Do Thái ở Đamát, khi minh chứng rằng Đức Giêsu là Đấng Mêsia (Cv 9, 22). Phaolô đã được các tông đồ tin tưởng nhờ đó ngài và các tông đồ đi lại hoạt động tại Giêrusalem. Phaolô mạnh dạn rao giảng nhân danh Chúa Giêsu Kitô (Cv 9, 28).
Phêrô tuyên xưng đức tin. Trên đá tảng Phêrô, đức tin được xây dựng. Phaolô làm sáng tỏ đức tin. Vị tông đồ dân ngoại hăng hái đem đức tin gieo trồng khắp mọi nơi. Hai khía cạnh của đức tin luôn sống động trong Giáo Hội, sứ mạng củng cố đức tin, xây dựng nội bộ và sứ mạng truyền giáo, đem đức tin đến với muôn dân.
Hai tính cách cùng một lòng mến
Thánh Phêrô, tính tình nóng nảy, bộc trực và đôi lúc hơi liều lĩnh. Nói về ông người ta không thể không nhắc đến cái vết thật đen trong cuộc đời của ông. Đó là lần ông đã chối Chúa. Alain một nhà tư tưởng lớn của Pháp đã viết những lời như thế thật chua cay về cái biến cố này: “Tôi hình dung ra ông ta đang ở trên Thiên đàng, đầu đội triều thiên hào quang sáng chói nhưng mỗi khi nhớ đến ‘dzụ’ ấy, chắc ông còn phải đỏ mặt”. Lý do, ông viết tiếp: “Tông đồ Phêrô trong hoàn cảnh lúc đó đã lẩn trốn như thỏ hay như chuột”. Lời nhận định hơi chua chát một chút nhưng nó cho chúng ta thấy tính cách nghiêm trọng của vấn đề. Vì Phêrô là Thủ lãnh các tông đồ, thủ lãnh nhóm 12 và nhất là trước đó Chúa đã cảnh cáo ông.
Đời ông là giằng co giữa yếu đuối và dũng mãnh, giữa trọn vẹn và dang dở, giữa xa và gần, giữa trời và đất. Trái tim ông có u tối đi tìm ánh sáng, có nuối tiếc đi tìm lý tưởng. Đời ông có tự tin gặp vấp ngã, có phấn đấu gặp thất bại. Tuy nhiên, thánh Phêrô có nhiều đức tính đáng nể phục. Chính những đức tính sáng chói này sẽ làm lu mờ đi những cái tầm thường nơi con người của ngài. Nhờ đó, ngài đã xứng đáng với sự tín nhiệm của Chúa. Thánh Phêrô có lòng quảng đại. Khi được Chúa gọi, ông nhanh nhẹn bỏ tất cả mọi sự rồi theo Chúa. Thánh Phêrô có một đức tin chân thành và lòng gắn bó keo sơn với Chúa: “Lạy thầy, bỏ Thầy chúng con biết theo ai vì Thầy có lời ban sự sống đời đời”. Đức tính đáng cảm phục nhất chính là lòng khiêm nhường. Đó là nhân đức nền tảng của mọi nhân đức. Khiêm nhường là mẹ các nhân đức. Rõ ràng, trong trái tim Phêrô lúc nào cũng yêu Chúa. Ngay cả khi Chúa bảo Phêrô là Satan thì Phêrô cũng không giận Chúa. Chỉ vì sự sợ hãi yếu đuối mà chối Thầy, chứ trong tâm hồn lúc nào Phêrô cũng yêu mến Chúa. Không phải Phêrô yếu đuối vấp ngã mà Chúa bỏ rơi, chính tình yêu chân thành trong tâm hồn Phêrô mà Chúa đã yêu thương chọn làm Tảng Đá.
Saolô là người Do thái, trí thức, thông thạo nhiều thứ tiếng miền Do thái – Hy lạp, rất sùng đạo theo môn phái Gamaliên ở Giêrusalem. Saolô là biệt phái nhiệt thành đi lùng sục bắt bớ Đạo Chúa, tham gia vào vụ giết Têphanô và trên đường Đamát truy lùng các Kitô hữu. Được ơn trở lại, Saolô được biến đổi để trở nên chứng nhân vĩ đại là Phaolô, Tông Đồ dân ngoại. Khi đã biết Chúa Kitô thì “những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay, vì Đức Kitô, tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa tôi còn coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Giêsu Kitô, Chúa của tôi. Vì Ngài, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như đồ bỏ, để được Đức Kitô và được kết hợp với Người. Được như vậy, không phải nhờ sự công chính của tôi, sự công chính do luật Môsê đem lại, nhưng nhờ sự công chính do lòng tin vào Đức Giêsu”(Pl 3, 7-9). Phaolô hiên ngang được sống và được chết cho Chúa Kitô. Ngài trở thành một Tông đồ dân ngoại kiệt xuất, thành lập nhiều Giáo đoàn, mở mang phát triển Hội Thánh cách quang minh chính đại, khiến bản thân phải ra toà, tù tội, vất vả trăm đường. Các mối phúc thật được kết tinh nơi cuộc đời thánh nhân. Phaolô đã sung sướng tự hào cả khi ý thức những yếu đuối của mình “Ơn Ta đủ cho con vì chưng quyền năng trong yếu đuối mới viên thành”(2 Cor 12, 9). Không gì có thể làm nao núng lòng tin mãnh liệt ấy “Chúng tôi bị dồn ép tư bề nhưng không bị đè bẹp; hoang mang nhưng không tuyêt vọng; bị ngược đãi nhưng không bị bỏ rơi; bị quật ngã nhưng không bị tiêu diệt”(2cor 4, 8-9). Vị Tông đồ dân ngoại đã nhiệt thành loan truyền Chúa Kitô với tất cả thao thức “Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng”(1Cor 5, 14). Ngài luôn sống trong niềm tin tưởng yêu mến vào Đấng đã kêu gọi Ngài “Tôi sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, là Đấng yêu mến tôi và thí mạng vì tôi”(Gal 2, 20). Vì Đức Kitô và vì Tin mừng, thánh nhân đã sống và chết cho sứ vụ. Cuộc sống buôn ba vì Nước trời được điểm tô muôn ngàn vạn nét đẹp của Phaolô mãi mãi được hát lên như một bài ca khải hoàn “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, bắt bớ, đói khát, trần truồng, nguy hiểm, gươm giáo? … Vì tôi thâm tín rằng sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay thiên phủ, dù hiện tại hay tương lai, hay bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ tạo vật nào khác, không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa thể hiện cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”(Rm 8, 35-39).
Hai vị Thánh Tông Đồ có chung một lòng mến, một niềm tin và một khát khao nên thánh. Cả hai vị đều có những lầm lỗi và yếu đuối. Và cả hai đều hối hận, đều yêu mến Chúa thật tình. Chúa đã gọi và chọn hai vị làm Tông Đồ. Nhân danh và nhờ quyền năng Chúa Giêsu Kitô, hai vị đã làm được nhiều phép lạ.
Phêrô cùng với Gioan chữa lành một người què từ lúc lọt lòng mẹ vẫn ngồi ăn xin ở Cửa Đẹp Đền Thờ (x. Cv 3, 7 – 9 ); Phêrô làm cho người chết sống lại (x. Cv 9, 40 – 42); Phêrô chữa nhiều người đau ốm bệnh hoạn mà dân chúng khiêng họ ra tận đường phố để khi Phêrô đi qua, ít ra cái bóng của ông phủ lên một bệnh nhân nào đó, và tất cả đã được chữa lành (x. Cv 5, 15 – 16)…
Phaolô đã chữa lành một người bẩm sinh bị bại chân tại Lítra (x. Cv 14, 8 – 10). Phaolô cũng làm cho một người đã chết sống lại (x. Cv 20, 9 – 12). Sách Công Vụ Tông Đồ cho biết Phêrô bị bắt giam trong ngục, đã được Chúa sai thiên sứ đến cứu thoát khỏi tay vua Hêrôđê (x. Cv 12, 1–11). Cả hai vị được đầy quyền năng và vinh quang trước mặt người đời.
Cuối cùng hai vị cũng bị bắt và chịu chết vì Danh Đức Giêsu Kitô. Cả hai vị đã bằng lòng hy sinh đến giọt máu cuối cùng để làm chứng cho Đức Giêsu Phục Sinh. Hai vị đã trở nên trụ cột của Giáo Hội. Phêrô là Anh Cả, đứng đầu Tông Đồ Đoàn. Phaolô là Tông Đồ Dân Ngoại. Hai vị có tính tình khác nhau, trình độ văn hóa khác nhau, khả năng làm việc khác nhau, nhưng lại cùng hoạt động, cùng xây dựng Nước Chúa. Những khác biệt của hai vị là để bổ túc cho nhau, giúp đỡ nhau, cùng nhau thăng tiến trong sứ vụ Tông đồ. Trên “tảng đá Phêrô”và “cột trụ Phaolô”, Giáo Hội Chúa Kitô bền vững và phát triển đến thiên thu vạn đại.
Sự nghiệp Tông đồ tiếp bước Chúa Kitô, hai vị hiệp nhất trong cùng một lòng chân thành tuyên xưng, hiệp nhất trong một tâm huyết nhiệt thành rao giảng để rồi mãi mãi hiệp nhất trong cùng một đức tin minh chứng. Mặc dù có nhiều khác biệt về thành phần bản thân, về ơn gọi theo Chúa về hướng truyền giáo, nhưng cả hai vị đã tạo nên sự hiệp nhất trong đa dạng. Hiệp nhất là một công trình được xây dựng với nhiều nổ lực của con người dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Linh. “Khác nhau trong điều phụ, hiệp nhất trong điều chính, yêu thương trong tất cả”, đó là khuôn vàng thước ngọc cho tinh thần hiệp nhất trong Giáo hội.
97. Thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Bài ca nhập lễ vang lên hùng tráng trong ngày Lễ kính hai Thánh Tông đồ Phêrô, Phaolô: Hai vì sao sáng chói, lấp lánh trên bầu trời, ngời sáng đêm trường, rực rỡ soi đường sưởi ấm yêu thương. Hai tình yêu chiến thắng, ngất ngây trong cuộc đời, từ trái tim nồng dòng máu anh hùng ngời sáng muôn trùng.
Phêrô, Phaolô hai vì sao sáng ngời chiếu toả ánh sáng Chúa Kitô cho nhân loại.
Hai Thánh Tông đồ là hai con người xuất thân khác nhau, tính cách khác nhau nhưng cùng một niềm tin, cùng một sứ mạng và cùng một vinh quang được đội triều thiên vinh hiển để trở thành hai vì sao sáng cho Giáo hội.
Còn nhớ hôm nào người ba lần chối Giêsu. Còn nhớ ngày nào người bắt Chúa trong căm thù. Lời ca ngắn đúc kết phần một trong cuộc đời hai Ngài: chối Thầy, bắt Thầy. Nhưng cuộc đời phần hai đã viết nên những trang hào hùng oanh liệt. Nhờ tình yêu Chúa dẫn lối, hai Ngài cầm đuốc Tông đồ rao truyền Tin mừng Chúa Giêsu Kitô cho thế giới.
Đọc lại cuộc đời của hai Thánh Tông đồ để nhận thấy sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa. Ơn Gọi Tông Đồ quả là một mầu nhiệm lạ lùng.
Cuộc đời Phêrô có nhiều sôi nổi. Gồm lại những sôi nổi, ta có thể chia đời ông ra làm hai: cuộc đời phần một, từ khi theo Thầy ở biển hồ Galilê đến lúc chối Thầy; phần hai, từ khi theo Thầy ở biển hồ Tibêria cho đến cuối đời chết ở Roma.
Trong cuộc đời phần một của ông, ông đi từ lỗi lầm này sang lỗi lầm khác. Cuối đời của Chúa, Chúa đã bị ông từ chối thê thảm (Mc 14, 66-72)
Gom nhặt những đoạn phúc âm nói về Phêrô, ta thấy mãnh đời của ông có nét chân dung thế này: Là tông đồ bị Chúa mắng nhiều nhất.
Mắng lần đầu tiên: Quân yếu tin (Mt 14, 31)
Lần thứ hai: Ngu tối (Mt 15, 16)
Lần thứ ba: Satan (Mc 8, 33)
Khi Chúa bị bắt, kết án, Phêrô đã chối Thầy 3 lần. Phêrô chối Chúa vì quá yếu đuối chứ không phải vì không yêu Thầy. Trước cái chết, Phêrô rùng mình chối bỏ, tìm đường chạy trốn. Thế nhưng trước yếu đuối ấy, Phêrô đã khóc lóc nhớ lại lời Chúa nói về thân phận mình, ông oà khóc nức nơ như một đứa bé với dòng lệ sám hối. Chúa đã nhìn ông bằng ánh mắt thứ tha trìu mến. Đời ông là giằng co giữa yếu đuối và dũng mảnh, giữa trọn vẹn và dang dỡ, giữa xa và gần, giữa trời và đất. Trái tim ông có u tối đi tìm ánh sáng, có nuối tiếc đi tìm lý tưởng. Đời ông có tự tin gặp vấp ngã, có phấn đấu gặp thất bại. Trong sự vấp ngã yếu đuối cuộc đời phần 1 của người môn đệ này vẫn có một tâm hồn chân thành.
Phần hai cuộc đời ông là một thiên anh hùng ca. Thiên anh hùng ca được mở đầu bằng những lời chứng của Gioan (Ga 21, 2-3). Lời chứng nói về một đêm đen mờ mịt của biển hồ Tibêria, rồi đưa đời ông từ đếm đen mờ mịt ấy về một cõi trời phiêu bạt mịt mù sương gió cho Nước Trời.
Sứ mạng theo Đức Kitrô khởi đầu từ đây khi 7 anh em ra đi đánh cá, vất vả cả đêm mà không được gì. Đức Giêsu Phục sinh đến với họ ban cho họ mẻ cá lạ lùng. Chính Đấng phục sinh đã hỏi Ông: Phêrô, con có yêu mến thầy không? Phêrô đáp: Thưa Thầy, Thầy biềt rõ mọi sự, thầy biết con yêu mên Thầy. Sau khi Phêrô trả lời câu hỏi ấy với tất cả chọn lựa cân nhắc, Chúa nói với ông rằng: Thầy bảo cho anh biết lúc còn trẻ anh tự thắt lưng lấy và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh đã phải giang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn tới nơi anh chẳng muốn. Phúc âm Gioan cắt nghĩa rõ con đường này là: Người nói như vậy có ý ám chỉ ông phải chết cách nào. Thế rồi Chúa bảo ông: hãy theo Thầy. Chỉ chờ đợi lời mời gọi này, Phêrô lập tức lên đường thực thi sứ mạng Thầy trao. Từ đây trên tảng đá này Thầy xây Giáo hội của Thầy, cửa hoả ngục sẽ không thắng được. Từ đây, những trang sử vẻ vang của giáo hội sơ khai được viết nên bởi vị Tông đồ có lòng yêu mến Chúa thiết tha.
Đọc Công vụ Tông tồ từ chương 8 trở đi, chúng ta bắt gặp một Saolô, ở Tac-xô, là người Do thái, trí thức, thông thạo nhiều thứ tiếng miền Do thái – Hy lạp, rất sùng đạo theo môn phái Ga-ma-li-ên ở Giê-ru-sa-lem. Cuộc đời phần một của Phaolô là biệt phái nhiệt thành đi lùng sục bắt bớ Đạo Chúa, tham gia vào vụ giết Tê-pha-nô và trên đường Đa-mát truy lùng các Kitô hữu.
Được ơn trở lại trên đường Đa-Mat, Saolô được biến đổi để trở nên chứng nhân vĩ đại là Phaolô, Tông Đồ dân ngoại. Cuộc đời phần hai của Phaolô đã viết nên thiên anh hùng ca.
Sách Công vụ tông đồ kể lại: trên đường Đa-mat, Phaolô rong ruổi trên yên ngựa hăng say truy bắt các Kitô hữu thì thình lình ánh sáng từ trời loé rạng bao lấy ông. Không bao giờ Phaolô còn thoát được ra ngoài ánh sáng đó. Từ đó trở đi, Chúa Kitô đã trở thành tất cả đối với Phaolô. Từ đó trở đi, chỉ có Chúa Kitô là đáng kể.
Khi đã biết Chúa Kitô thì “những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay, vì Đức Kitô, tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa tôi còn coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Giêsu Kitô, Chúa của tôi. Vì Ngài, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như đồ bỏ, để được Đức Kitô và được kết hợp với Người. Được như vậy, không phải nhờ sự công chính của tôi, sự công chính do luật Mô-sê đem lại, nhưng nhờ sự công chính do lòng tin vào Đức Giêsu” (Pl 3, 7-9). Từ đó trở đi Phaolô hiên ngang vì tư cách làm môn đệ Chúa Kitô và với tư cách ấy Ngài tuyên xưng sự duy nhất, sự bình đẳng, tình huynh đệ thực sự giữa tất cả mọi người: “vì anh em, phàm ai đã được thanh tẩy trong Đức Kitô, thì đã được mặc lấy Đức kitô: không còn Do thái hay Hy lạp; không còn nô lệ hay tự do;không còn nam hay nữ;vì anh em hết thảy là một trong Đức Kitô Giêsu” (Gal 3, 27-28). Vì Đức Kitô là “tất cả mọi sự và trong mọi người” (Col 3, 11). Phaolô hiên ngang được sống và được chết cho Chúa Kitô. Các mối phúc thật được kết tinh nơi cuộc đời Phaolô. Biết mình đã tin vào ai, Phaolô đã sung sướng sống nghèo, lấy việc lao động mà đổi miếng ăn, không để giáo hữu phải cung phụng mình (1Cr 9, 3-18; 2Cr11, 8-10), sung sướng vì đã mất tất cả và chịu đủ thứ khốn khổ vì Chúa Kitô. Phaolô không ngại trở nên hùng hồn kể về những “… lao tù đòn vọt, bao lần suýt chết, năm lần bị người do thái đánh bốn mươi roi bớt một, ba lần bị đánh đòn, một lần bị ném đá, ba lần bị đắm tàu, một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi. Phải chịu đủ thứ nguy hiểm bởi “phải thực hiện nhiều cuộc hành trình, gặp bao nguy hiểm trên sông, nguy hiểm do trộm cướp, nguy hiểm do đồng bào, nguy hiểm vì dân ngoại, nguy hiểm ở thành phố, trong sa mạc, ngoài biển khơi, nguy hiểm do những kẻ giả danh là anh em;phải vất vả mệt nhọc, thường phải thức đêm, bị đói khát, nhịn ăn nhịn uống và chịu rét mướt trần truồng” (2 Cr 11 23-27). Phaolô ra vào tù như đi chợ, có lần Ngài viết từ ngục thất cho Ti-mô-thê, người môn đệ, có khi không khỏi nao núng: “anh đừng hổ thẹn làm chứng cho Chúa chúng ta, cũng đừng hổ thẹn vì tôi, là kẻ bị tù vì Ngài”. Phaolô không hổ thẹn vì tôi biết tôi đã tin vào ai…(2 Tim 1, 8-12). Vì Đức Kitô “tôi phải lao đao khốn khó đến cả xiềng xích như kẻ gian phi, nhưng Lời Thiên Chúa không bị xiềng xích” (2Tìm 2, 9). Phaolô đã sung sướng tự hào cả khi ý thức những yếu đuối của mình “Ơn Ta đủ cho con vì chưng quyền năng trong yếu đuối mới viên thành” (2 Cr 12, 9). Không gì có thể làm nao núng lòng tin mãnh liệt ấy “chúng tôi bị dồn ép tư bề nhưng không bị đè bẹp;hoang mang nhưng không tuyêt vọng; bị ngược đãi nhưng không bị bỏ rơi;bị quật ngã nhưng không bị tiêu diệt” (2Cr 4, 8-9)
Vị Tông đồ dân ngoại đã nhiệt thành loan truyền Chúa Kitô với tất cả thao thức “Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng” (1Cr 5, 14). Ngài luôn sống trong niềm tin tưởng yêu mến vào Đấng đã kêu gọi Ngài “tôi sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, là Đấng yêu mến tôi và thí mạng vì tôi” (Gal 2, 20).
Vì Đức Kitô và vì Tin mừng thánh nhân đã sống và chết cho sứ mạng. Cuộc sống buôn ba vì Nước trời được điểm tô muôn ngàn vạn nét đẹp của Phaolô mãi mãi được hát lên như một bài ca khải hoàn “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, bắt bớ, đói khát, trần truồng, nguy hiểm, gươm giáo?… Vì tôi thâm tín rằng sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay thiên phủ, dù hiện tại hay tương lai, hay bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ tạo vật nào khác, không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa thể hiện cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta ” (Rm 8, 35-39).
Giáo hội mừng kính hai thánh Tông đồ, hai cột trụ giáo hội cùng chung một ngày. Hai con ngưòi khác nhau từ cá tính đến thân thế nhưng cùng chung một ơn gọi từ Chúa Kitô, cùng chung một niềm tin vảo Chúa Kitô, chung một sứ mạng Chúa Kitô trao phó và cuối đời cùng chịu tử đạo vì Chúa Kitô tại Roma. Cùng chia sẽ một niềm tin, cùng thi hành một sứ mạng, Chúa Kitô đã đã đưa hai Ngài đến một cùng đích, một vinh quang đội triều thiên khải hoàn. Hai con người khác biệt ấy laị có những điểm tương đồng lạ lùng. Chúa Kitô đã nối những điểm tương đồng ấy để tất cả được nên một ở trong Người. Đón nhận ánh sáng từ nơi Chúa Kitô, hai vị Thánh Tông đồ Phêrô, Phaolô đã nên hai vì sao sáng ngời cho tất cả chúng ta.