Các Bài Suy niệm Lễ Suy Tôn Thánh Giá
Lời Chúa: Ds. 21, 4b-9; Pl. 2, 6-11; Ga. 3, 13-17
MỤC LỤC
- Phải được giương cao. 4
- Suy tôn Thánh Giá. 7
- Suy tôn Thánh Giá. 12
- Suy tôn Thánh Giá. 17
- Thập Giá giữa đời hôm nay. 19
- Lễ suy tôn Thánh Giá. 22
- Suy tôn Thánh Giá. 27
- Suy tôn Thánh Giá. 30
- Thập Giá, con đường về trời 34
- Ba cuộc đời – ba cách chết 36
- Suy tôn Thánh Giá. 39
- Chúa dùng Thánh Giá chuộc tội loài người 41
- Nhìn lên Thánh Giá. 45
- Suy tôn Thánh Giá. 53
- Học yêu Thánh Giá. 56
- Suy tôn Thánh Giá. 61
- Từ thập giá đến Thánh Giá. 67
- Lễ suy tôn Thánh Giá. 71
- Chóp đỉnh của sự đau khổ!. 75
- Thánh Giá, tình yêu bừng sức sống. 78
- Thánh Giá Chúa là nguồn phúc vinh. 84
- Lời mời khó. 87
- Sùng kính hay là vác thập giá. 91
- Chiêm ngắm Đấng chịu đóng đinh. 93
- Thập Giá và cuộc sống. 98
- Nhờ Thánh Giá hướng dẫn. 101
- Suy tôn Thánh Giá. 103
- Thập giá: Quyển sách cao siêu nhất 105
- Lễ Suy tôn Thánh Giá. 107
- Thánh Giá là nguồn tình yêu và hy vọng. 109
- Suy tôn Thánh Giá. 114
- Những kẻ điên. 116
- Tình yêu đẹp nhất trên đời 136
- Suy tôn Thánh Giá. 143
- Suy tôn Thánh Giá. 146
- Lễ Suy tôn Thánh Giá. 149
- Suy tôn Thánh Giá. 153
- Thánh Giá là biểu tượng của Tình Yêu. 156
- Mầu Nhiệm Thập Giá. 158
- Nhìn đúng cách. 161
- Suy tôn Thánh Giá. 164
- Suy tôn Thánh Giá. 167
- Suy tôn Thánh Giá. 174
- Suy tôn Thánh Giá. 185
- Suy tôn Thánh Giá. 189
- Bài học của Thánh Giá. 195
- Ích lợi của Thập Giá. 200
- Thánh Giá: Cây Phúc Trường Sinh. 204
- Nỗi ô nhục của Thập Giá. 207
- Suy tôn Thánh Giá. 209
- Từ Thập Giá tới vinh quang. 214
- Thập giá là chìa khóa. 219
- Thập giá vinh quang. 221
- Suy tôn Thánh Giá. 225
- Suy tôn Thánh Giá. 231
- Suy tôn Thánh Giá. 237
- Đường Hội Thánh đi là Đường Thánh Giá. 242
- Suy tôn Thánh Giá. 246
- Luận phạt hay cứu độ?. 250
- Lễ Suy Tôn Thánh Giá. 253
- Suy Tôn Thánh Giá. 258
- Suy tôn Thánh Giá. 262
- Suy tôn Thánh Giá. 265
- Suy tôn Thánh Giá. 269
- Suy tôn Thánh Giá. 274
- Suy tôn tình yêu và sự tha thứ. 279
- Quyền lực của Thánh Giá. 285
- Suy tôn Thánh Giá. 287
- Vinh quang Thập Giá. 290
- Nghịch lý không trái ngược. 297
- Khổ thật!. 305
- Suy tôn Thánh Giá. 312
- Chiêm ngắm tình yêu. 316
- Thập Giá trong đời 319
- Chân dung của Lòng Thương Xót 322
- Vinh quang Thập Giá. 329
- Suy tôn Thánh Giá. 335
- Suy niệm về Thánh Giá. 343
- Yêu cho đến cùng. 348
- Suy tôn Thánh Giá. 351
- Yêu đến quên mình. 354
- Thiên Chúa yêu thế gian. 357
- Tình yêu lớn nhất 361
- Suy tôn Thánh Giá. 365
- Truyện con rắn đồng. 367
1.Phải được giương cao
(Trích trong ‘Manna’ – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)
Suy Niệm
Nhiều người ngoài Kitô giáo cảm thấy sợ khi vào nhà thờ, nhìn lên thánh giá, thấy một người bị đóng đinh, máu chảy đầm đìa. Tại sao lại thờ một người khủng khiếp như vậy?
Một số nơi đã đặt tượng Chúa Phục Sinh trên thánh giá. Hẳn nhà thờ sẽ tươi hơn, ít gây sốc hơn, mầu nhiệm phục sinh được nổi bật hơn…
Nhưng chúng ta vẫn không được quên Chúa chịu đóng đinh. Không có cái chết ấy thì cũng chẳng có ơn cứu độ. Không có thánh giá thì cũng chẳng có phục sinh.
Khi suy tôn thánh giá, chúng ta không suy tôn hai thanh gỗ xếp hình chữ thập. Chúng ta suy tôn chính Đấng đi đóng đinh vào thánh giá. Ngài là Đấng vô tội, là Con Thiên Chúa làm người, là “Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gl 2, 20).
Chúng ta cũng không suy tôn đau khổ và cái chết, nhưng chúng ta suy tôn Tình Yêu: Tình Yêu của Cha dám trao cho thế gian người Con Một, Tình Yêu của Con dám sống hết mình cho Cha và anh em. Đau khổ và cái chết là cái giá phải trả cho một tình yêu. Tình yêu lớn nhất là tình yêu hiến mạng.
Thập giá là một thất bại của Tình Yêu.
Quà tặng của Cha bị loài người từ khước: Người Con yêu dấu bị làm nhục và đóng đinh.
Quà tặng của Con bị loài người rẻ rúng: Con chẳng đáng giá bằng tên sát nhân Baraba.
Thiên Chúa thất bại vì Ngài khiêm tốn. Ngài để cho con người có tự do chối từ. Ngài đau đớn lặng thinh khi Con Ngài hấp hối…
Nhưng thập giá lại là một thành công của Tình Yêu.
Nơi thập giá, tội ác con người lên đến cao điểm. Cũng nơi thập giá, Tình Yêu Thiên Chúa lên đến tột cùng.
Và Tình Yêu đã thắng tội ác, sự sống thắng sự chết, ánh sáng thắng bóng tối, tha thứ thắng hận thù.
Cha không đưa Đức Giêsu xuống khỏi thập giá, nhưng đưa Ngài ra khỏi nấm mồ hiu quạnh.
Thất bại của thập giá đã biến thành chiến thắng.
Thập giá trở thành Thánh Giá đem lại sự sống đời đời.
Thánh Giá đã trở nên biểu tượng của Kitô giáo.
Thánh Giá có mặt cả trên nến phục sinh.
Thánh Giá ở trên thân xác ta, mỗi lần ta làm dấu, nhưng Thánh Giá còn ở với người Kitô hữu suốt đời: “Ai muốn theo Tôi hãy vác thánh giá mình mà theo Tôi”.
Đừng sợ hãi tránh né dù đau đớn xót xa. Đừng kéo lê, bạn sẽ thấy thánh giá nhẹ hơn và sinh trái.
Hãy hôn kính Thánh Giá của mình, của quê hương, của Giáo Hội, dù chúng ta chẳng bao giờ hiểu hết được mầu nhiem.
Ước gì chúng ta thấy được ý nghĩa của khổ đau nhờ tin tưởng nhìn lên Thánh Giá Chúa Giêsu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Đứng trước những thất bại và khổ đau trong cuộc sống, bạn thường có thái độ nào (chán nản, bực tức, nổi loạn, đón nhận, phấn đấu vượt qua…)? Có khi nào nhờ thất bại và khổ đau mà bạn thấy mình lớn lên không?
Có khi nào bạn chấp nhận một chút hy sinh, một chút đau khổ, để người khác được hạnh phúc không?
Cầu Nguyện
Lạy Cha, xin ban cho con điều khó hơn cả, đó là ơn nhận ra Thánh Giá của Con Cha trong mọi nỗi khổ đau của đời con, và ơn bước theo Con Cha trên đường Thánh Giá, bao lâu tuỳ ý Cha định liệu.
Xin đừng để con trở nên chua chát nhưng được trưởng thành nhờ đón nhận đau khổ với sự kiên nhẫn, quảng đại, nhân từ và lòng khát khao nóng bỏng có ngày sẽ được ở nơi không còn khổ đau. Ngày đó, Cha sẽ lau khô mọi giọt lệ của những người đã yêu mến Cha, đã tin vào tình yêu Cha giữa nỗi thống khổ, tin vào ánh sáng của Cha giữa đêm đen.
Nhờ Cha, ước gì đau khổ của con nói lên lòng tin của con vào những lời hứa của Cha, lòng cậy của con vào tình yêu trung tín của Cha, và lòng mến mà con dành cho Cha.
Lạy Cha, xin cho con yêu Cha hơn yêu bản thân, và yêu Cha chỉ vì Cha, chứ không mong phần thưởng.
Ước gì Thánh Giá trở nên mẫu gương cho con, là ánh sáng cho đêm tăm tối, nhờ đó con không còn coi khổ đau như một tai họa hay một điều vô lý, nhưng như một dấu chỉ cho thấy con đang thuộc về Cha mãi mãi. (Karl Rahner)
2. Suy tôn Thánh Giá
Bài giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô trong Phụng vụ Thánh Thể Lễ Suy tôn Thánh Giá.
Trong bài giảng Phụng vụ Thánh Thể lễ Suy tôn Thánh Giá cử hành theo nghi lễ Byzantine tại Prešov, Slovakia, sáng thứ Ba 14/09/2021, Đức Thánh Cha mời gọi các tín hữu chiêm ngắm Thập giá để nhận ra vinh quang của Thập giá; đó là con đường Chúa đi để cứu độ chúng ta, để không ai phải thất vọng và cảm thấy bị đơn độc, bị bỏ rơi. Chiêm ngắm Thánh giá để từ đó làm chứng tá cho Thập giá bằng lối sống trong sáng của Tin Mừng và các Mối phúc.
***
“Chúng tôi rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh… sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa”. Thánh Phaolô nói với chúng ta như thế, nhưng ngài không giấu giếm sự thật rằng, theo sự khôn ngoan của con người, thập giá lại là một điều gì đó hoàn toàn khác: đó là “cớ vấp phạm” và “sự ngu xuẩn” (1Cr1, 23-24). Thập giá đã là công cụ của sự chết, nhưng nó đã trở thành nơi phát sinh sự sống. Đó là một cảnh tượng kinh khủng, nhưng nó đã mặc khải cho chúng ta vẻ đẹp của tình yêu thương của Thiên Chúa. Đó là lý do tại sao dân Chúa tôn kính Thánh giá và Phụng vụ cử hành ngày lễ hôm nay. Tin Mừng thánh Gioan dẫn dắt và giúp chúng ta đi vào mầu nhiệm này. Chính thánh sử đã hiện diện, đứng dưới chân Thánh giá. Chiêm ngắm Chúa Giêsu, đã chết, treo lơ lửng trên thanh gỗ, ngài viết: “Người xem thấy điều này đã làm chứng” (Ga 19, 35). Thánh Gioan vừa nhìn thấy vừa làm chứng.
Trước tiên là nhìn thấy. Thánh Gioan đã nhìn thấy gì khi đứng dưới chân Thánh giá? Chắc chắn là những gì những người khác đã thấy: Chúa Giêsu, một người vô tội và tốt lành, bị giết chết một cách tàn nhẫn giữa hai tên tội phạm. Một trong số rất nhiều bất công, một trong nhiều hy sinh đẫm máu không thay đổi lịch sử, bằng chứng mới nhất cho thấy dòng sự kiện trên thế giới của chúng ta không thay đổi: người tốt bị gạt sang một bên còn kẻ ác chiến thắng và thịnh vượng. Trong mắt người đời, cây Thánh giá tượng trưng cho sự thất bại.
Chúng ta cũng có thể có nguy cơ không vượt trên cái nhìn đầu tiên, hời hợt này; chúng ta cũng có thể không chấp nhận thông điệp của Thánh giá, không chấp nhận rằng Thiên Chúa cứu độ chúng ta bằng cách cho phép tất cả những điều xấu trên thế giới của chúng ta hoành hành trên chính thân mình Người. Chúng ta có thể cũng không chấp nhận, có lẽ ngoại trừ bằng lời nói, một Thiên Chúa yếu ớt và bị đóng đinh, và mơ về một Thiên Chúa mạnh mẽ và chiến thắng. Đây là một cám dỗ lớn. Chúng ta có thường khao khát một Kitô giáo của những người chiến thắng, một Kitô giáo chiến thắng có tầm quan trọng và ảnh hưởng, nhận được vinh quang và danh dự? Tuy nhiên, một Kitô giáo không có thập giá là một Kitô giáo của thế gian, và trở thành vô ích.
Mặt khác, thánh Gioan đã nhìn thấy nơi Thánh giá sự hiện diện và công trình của Thiên Chúa. Ngài đã nhận ra vinh quang của Thiên Chúa nơi Chúa Kitô chịu đóng đinh. Ngài đã thấy rằng bất chấp vẻ bề ngoài, Chúa Giêsu không phải là kẻ thua cuộc, mà là Thiên Chúa, Đấng sẵn lòng hiến thân vì mọi người. Tại sao Chúa làm điều này? Người có thể cứu mạng sống mình, có thể tránh xa khỏi lịch sử quá khổ đau và tàn bạo của nhân loại. Ngược lại, Người đã chọn đi vào lịch sử đó, để hòa mình vào nó.
Đó là lý do tại sao Chúa chọn con đường khó khăn nhất có thể: là con đường thập giá. Để không ai trên trái đất phải tuyệt vọng đến mức không thể tìm gặp Chúa, ngay cả ở đó, giữa đau khổ, tăm tối, bị bỏ rơi, tai tiếng về sự khốn khổ và sai lầm của chính mình. Ở đó, ở chính nơi mà chúng ta nghĩ rằng Chúa không thể hiện diện, thì Người đã đến. Để cứu những người tuyệt vọng, chính Chúa đã chọn nếm trải sự tuyệt vọng; tự mình gánh lấy nỗi thống khổ cay đắng nhất của chúng ta, trên Thánh giá Người đã kêu lên: “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Chúa bỏ rơi con?” (Mt 27, 46; Tv 22, 1). Một tiếng kêu mang lại ơn cứu độ. Nó mang lại ơn cứu độ bởi vì Thiên Chúa đã nhận lấy ngay cả kinh nghiệm bị bỏ rơi của chúng ta. Và bây giờ, với Người, chúng ta không bao giờ còn cô đơn nữa.
Làm thế nào để chúng ta học cách nhìn thấy vinh quang nơi Thánh giá? Một số vị thánh dạy chúng ta rằng Thánh giá giống như một cuốn sách: để biết nó, chúng ta phải mở nó ra và đọc. Mua một cuốn sách thôi là chưa đủ, hãy xem qua nó và đặt nó trên giá sách đẹp trong nhà của chúng ta. Điều này cũng đúng đối với Thánh giá: nó được vẽ hoặc chạm khắc ở khắp mọi nơi trong các nhà thờ của chúng ta. Các cây Thánh giá được tìm thấy ở khắp nơi xung quanh chúng ta: trên cổ, trong nhà, trong xe hơi, trong túi. Điều này có ích gì, trừ khi chúng ta dừng lại để chiêm ngắm Chúa Giêsu chịu đóng đinh và mở lòng với Người; trừ khi chúng ta để mình bị ngạc nhiên bởi những vết thương Người đã chịu vì chúng ta, trừ khi trái tim chúng ta thổn thức vì xúc động và chúng ta khóc trước Thiên Chúa bị thương tích vì yêu chúng ta. Nếu chúng ta không làm điều đó, Thánh giá vẫn là một cuốn sách không được đọc, dù chúng ta biết tựa đề và tác giả nhưng nó không có ảnh hưởng gì đến cuộc sống của chúng ta ta biết tựa đề và tác giả nhưng nó không có ảnh hưởng gì đến cuộc sống của chúng ta. Chúng ta đừng biến Thánh giá thành một đồ vật để sùng kính, tệ hơn nữa là một biểu tượng chính trị, một dấu hiệu của địa vị tôn giáo và xã hội.
Chiêm ngắm Chúa bị đóng đinh đưa chúng ta đến bước thứ hai: làm chứng. Nếu chúng ta chăm chú nhìn vào Chúa Giêsu, khuôn mặt của Người sẽ được phản chiếu trên khuôn mặt của chính chúng ta: các nét của Người trở thành của chúng ta, tình yêu của Đấng Kitô chiến thắng chúng ta và biến đổi chúng ta. Tôi nghĩ đến các vị tử đạo tại nước này đã làm chứng cho tình yêu của Chúa Kitô trong những thời kỳ khó khăn, khi tất cả đều được khuyên im lặng, che dấu, không tuyên xưng đức tin. Tuy nhiên, họ không thể không làm chứng. Biết bao người quảng đại đã phải chịu đau khổ và chết ở đây, tại Slovakia, vì Danh Chúa Kitô! Chứng tá của họ là chứng tá của tình yêu Chúa, Đấng mà họ đã chiêm ngắm lâu dài. Đến mức họ trở nên giống Người, ngay cả trong cái chết.
Tôi cũng nghĩ đến thời đại của chúng ta, trong đó không thiếu cơ hội để làm chứng. Tạ ơn Chúa, ở đây chúng ta không thấy có những kẻ bắt bớ Kitô giáo như ở rất nhiều nơi khác trên thế giới. Tuy nhiên, chứng tá của chúng ta có thể bị suy yếu bởi tính thế tục và sự tầm thường. Ngược lại, Thánh giá đòi một chứng tá trong suốt. Vì thập giá không phải là ngọn cờ để vẫy, nhưng là nguồn mạch thuần khiết của một lối sống mới. Đó là gì? Đó là lối sống của Tin Mừng, của các Mối Phúc.
Một chứng nhân mang Thánh giá trong lòng, và không chỉ trên cổ mình, không xem ai là kẻ thù, nhưng xem tất cả mọi người đều là anh chị em mà Chúa Giêsu đã hiến mạng sống vì họ. Một chứng nhân của Thánh giá không bám vào những điều sai trái của quá khứ hoặc cứ than thở về hiện tại. Chứng nhân của Thánh giá không sử dụng những cách lừa dối và quyền lực thế gian: họ không muốn áp đặt bản thân và những gì của họ, nhưng muốn hiến mạng sống của mình cho người khác. Họ không tìm kiếm lợi ích cho riêng mình, để được coi là đạo đức: đây sẽ là một tôn giáo giả hình, không phải là một chứng tá cho Chúa bị đóng đinh. Các chứng nhân của Thánh giá chỉ có một chiến lược, đó là chiến lược của Thầy: tình yêu thương khiêm nhường. Họ không tìm kiếm những chiến thắng ở thế gian, bởi vì họ biết rằng tình yêu của Đức Kitô sinh hoa kết trái trong những biến cố của cuộc sống hàng ngày, đổi mới mọi sự từ bên trong, giống như hạt giống rơi xuống đất, chết đi và sinh nhiều bông hạt.
Anh chị em thân mến, anh chị em đã thấy những chứng nhân như vậy. Hãy trân trọng ký ức về những người đã nuôi dưỡng và giúp anh chị em trưởng thành trong đức tin. Những người hèn mọn, đơn giản, những người đã yêu thương hiến dâng cuộc đời cho đến cùng. Đây là những anh hùng của chúng ta, những anh hùng của cuộc sống hàng ngày, và cuộc đời của họ đã thay đổi lịch sử. Các chứng nhân sinh ra những nhân chứng khác, bởi vì họ là những người ban sự sống. Đó là cách mà đức tin được lan truyền: không phải bằng quyền lực thế gian mà bằng sự khôn ngoan của Thánh giá; không phải bằng cơ cấu nhưng bằng chứng tá. Hôm nay, từ sự im lặng hùng hồn của Thánh giá, Chúa cũng đang hỏi từng người trong anh chị em: Con có muốn trở nên chứng tá của Thầy không?
Đứng cùng với thánh Gioan tại đồi Canvê là Thánh Mẫu của Thiên Chúa. Không ai đã thấy cuốn sách thập giá rộng mở như Mẹ, và Mẹ đã làm chứng cho điều đó bằng tình yêu khiêm nhường. Qua lời chuyển cầu của Mẹ, chúng ta hãy xin ơn hướng đôi mắt tâm hồn của chúng ta về Chúa Giêsu chịu đóng đinh. Khi đó đức tin của chúng ta sẽ có thể nở hoa trong sự viên mãn của nó; và chứng tá của chúng ta sẽ sinh hoa kết trái.
3. Suy tôn Thánh Giá
Bài giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô trong Thánh Lễ Suy Tôn Thánh Giá tại Nur-Sultan ngày 14/09/2022.
Đức Thánh Cha Phanxicô chủ sự Thánh lễ Suy tôn Thánh giá tại Trung Tâm Triển lãm Quốc tế EXPO ở Nur-Sultan, Kazakhstan, và nói rằng từ Chúa Giêsu bị đóng đinh, các Kitô hữu học được “tình yêu chứ không phải hận thù; lòng trắc ẩn chứ không phải sự thờ ơ; sự tha thứ chứ không phải báo thù”.
***
Thập giá là giá xử tử, nhưng hôm nay chúng ta cử hành lễ Suy tôn Thánh giá của Chúa Kitô, bởi vì trên cây gỗ đó, Chúa Giêsu đã tự mình gánh lấy tội lỗi của chúng ta và sự dữ của thế gian, và đánh bại chúng bằng tình yêu của Người. Vì thế, chúng ta tôn vinh Thánh giá. Lời Chúa mà chúng ta đã nghe nói với chúng ta về điều đó, bằng cách cho thấy sự đối nghịch, một bên là những con rắn cắn chết và một bên là con rắn cứu sống. Chúng ta hãy suy tư về hai hình ảnh này.
Trước hết là những con rắn cắn. Chúng tấn công người dân, những người đã vô số lần phạm tội lẩm bẩm, phàn nàn. Lầm bầm chống lại Thiên Chúa không chỉ có nghĩa là phản đối Người; cách sâu xa hơn, điều đó có nghĩa là trong lòng người dân Israel đã không còn sự tin cậy vào Thiên Chúa, vào lời hứa của Người. Thật vậy, dân Chúa đang đi trong sa mạc, hướng về miền đất hứa và họ mệt mỏi, không thể chịu nổi cuộc hành trình (x. Ds 21,4). Và rồi họ trở nên nản lòng, mất hy vọng, và đến một lúc nào đó, họ dường như quên lời hứa của Thiên Chúa. Họ thậm chí không còn đủ sức để tin rằng chính Thiên Chúa đang hướng dẫn họ đến một vùng đất trù phú và tươi tốt.
Không phải ngẫu nhiên mà khi lòng tin cậy vào Thiên Chúa vơi đi thì dân chúng lại bị rắn cắn chết. Nó nhắc chúng ta nhớ đến con rắn đầu tiên được đề cập trong Kinh Thánh, trong sách Sáng thế, kẻ cám dỗ đã đầu độc trái tim của con người để khiến họ nghi ngờ Thiên Chúa. Ma quỷ, dưới hình dạng một con rắn, đã lừa dối ông Ađam và bà Evà và khiến họ mất tin tưởng bằng cách thuyết phục họ rằng Thiên Chúa không tốt lành, nhưng ghen tị với tự do và hạnh phúc của họ. Và bây giờ, trong sa mạc, những con rắn trở lại; lần này là những con “rắn lửa” (câu 6). Nó có nghĩa là tội nguyên tổ quay trở lại: dân Israel nghi ngờ Thiên Chúa, không tin cậy Người, họ phàn nàn và nổi loạn chống lại Đấng đã ban cho họ sự sống và vì vậy họ gặp phải sự chết. Đây là kết quả của những trái tim ngờ vực!
Anh chị em thân mến, phần đầu tiên của tường thuật này yêu cầu chúng ta quan sát kỹ những khoảnh khắc trong lịch sử cá nhân và cộng đồng của chúng ta, những lúc mà sự tin tưởng vào Thiên Chúa và niềm tin giữa chúng ta bị mất đi. Đã bao lần, vì thất vọng và thiếu kiên nhẫn, chúng ta đã héo mòn trong sa mạc của chính mình, đánh mất mục tiêu của cuộc hành trình! Ngay cả trong đất nước vĩ đại này cũng có sa mạc, trong khi mang đến một phong cảnh tuyệt đẹp, nó nói với chúng ta về sự mệt mỏi, sự khô khan mà đôi khi chúng ta mang trong lòng. Đó là những giây phút mệt mỏi và thử thách, khi mà chúng ta không còn đủ sức để nhìn lên cao, hướng về Thiên Chúa; đó là những tình huống trong đời sống cá nhân, Giáo hội và xã hội, trong đó chúng ta bị con rắn của sự ngờ vực cắn, bị nhiễm độc thất vọng và tuyệt vọng, của sự bi quan và cam chịu, và bị đóng kín trong cái tôi của mình, mất đi tất cả sự nhiệt thành.
Nhưng trong lịch sử của vùng đất này còn có những vết cắn đau đớn khác: Tôi nghĩ về những con rắn hung hãn của bạo lực, cuộc đàn áp của chủ nghĩa vô thần, sự bách hại tôn giáo, và về một hành trình khó khăn khi quyền tự do của con người bị đe dọa và nhân phẩm của họ bị xúc phạm. Thật tốt cho chúng ta khi gìn giữ ký ức về những đau khổ đó và không cần xoá khỏi ký ức những khoảnh khắc đen tối; nếu không, chúng ta có thể tin rằng chúng là những điều đã qua và nghĩ rằng hành trình của điều thiện hảo được vạch ra một lần cho mãi mãi. Không. Hòa bình không bao giờ đạt được một lần cho mãi mãi; giống như sự phát triển toàn diện, công bằng xã hội và sự chung sống hài hòa của các dân tộc và truyền thống tôn giáo khác nhau, nó phải đạt được lại mỗi ngày. Và để Kazakhstan có thể phát triển hơn nữa “trong tình huynh đệ, đối thoại và hiểu biết […] để xây dựng những nhịp cầu cộng tác liên đới với các dân tộc, các quốc gia và các nền văn hóa khác” (THÁNH GIOAN PHAOLÔ II, Diễn văn trong nghi lễ chào đón, ngày 22 tháng 9 năm 2001), cần có sự dấn thân của mọi người. Tuy thế, trước đó, chúng ta cần phải canh tân niềm tin vào Chúa: ngước nhìn lên, nhìn vào Người và học hỏi từ tình yêu phổ quát và bị đóng đinh của Người.
Và vì vậy chúng ta đến với hình ảnh thứ hai: con rắn cứu sống. Khi dân chúng đang chết vì bị rắn lửa cắn, Thiên Chúa nghe thấy lời cầu bầu của ông Môsê và nói với ông: “Ngươi hãy đúc một con rắn và treo nó trên một cây cột. Nếu ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống” (Ds 21,8). Và quả thật, “hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng thì được sống” (câu 9). Tuy nhiên, chúng ta có thể hỏi: Tại sao Thiên Chúa không tiêu diệt những con rắn độc đó cách đơn giản thay vì đưa ra những chỉ dẫn chi tiết này cho ông Môsê? Cách hành động của Thiên Chúa mặc khải cho chúng ta thấy cách Người đối phó với sự ác, tội lỗi và sự ngờ vực của cuộc chiến thiêng liêng mạnh mẽ kéo dài suốt lịch sử, Thiên Chúa không hủy diệt những thứ thấp hèn và vô giá trị mà con người chọn theo đuổi. Rắn độc không biến mất; chúng luôn ở đó, nằm chờ, sẵn sàng cắn. Điều gì đã thay đổi sau đó, Thiên Chúa làm gì?
Chúa Giêsu nói với chúng ta trong Tin Mừng: “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3, 14-15). Đây là sự thay đổi mang tính quyết định: con rắn cứu sống đã đến giữa chúng ta. Chúa Giêsu, đã được giương cao trên cây Thánh giá, không cho phép những con rắn độc tấn công để giết chết chúng ta. Đứng trước sự khốn cùng của chúng ta, Thiên Chúa ban cho chúng ta một chân trời mới: nếu chúng ta luôn nhìn vào Chúa Giêsu, thì nọc độc của sự dữ không còn có thể chiến thắng chúng ta nữa, vì trên Thánh giá Người đã mang lấy trên mình nọc độc của tội lỗi và sự chết, và đè bẹp sức mạnh hủy diệt của chúng. Đó là cách Chúa Cha đáp lại sự dữ lây lan trên thế giới: Người đã ban cho chúng ta Chúa Giêsu, Đấng đến gần chúng ta theo cách mà chúng ta không bao giờ có thể tưởng tượng được. “Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta” (2Cr 5,21). Đó là sự vĩ đại vô biên của lòng thương xót của Thiên Chúa: Chúa Giêsu “mang lấy tội lỗi” vì chúng ta. Chúng ta có thể nói, trên Thánh giá, Chúa Giêsu “đã trở thành một con rắn”, để khi chiêm ngắm Người, chúng ta có thể chống lại những vết cắn độc của những con rắn độc ác tấn công chúng ta.
Thưa anh chị em, đây là con đường, con đường dẫn đến ơn cứu độ của chúng ta, sự tái sinh và sự phục sinh của chúng ta: chiêm ngắm Chúa Giêsu chịu đóng đinh. Từ đỉnh cao của Thánh giá, chúng ta có thể nhìn cuộc sống của chúng ta và lịch sử của các dân tộc của chúng ta theo một cách nhìn mới. Vì từ Thánh giá của Chúa Kitô, chúng ta học được tình yêu thương, chứ không phải sự thù hận; lòng trắc ẩn, chứ không phải sự thờ ơ; lòng tha thứ chứ không phải sự báo thù. Vòng tay dang rộng của Chúa Giêsu là vòng tay của tình yêu dịu dàng mà Thiên Chúa muốn ôm choàng chúng ta. Chúng cho chúng ta thấy tình yêu huynh đệ mà chúng ta được kêu gọi để dành cho nhau và cho mọi người. Chúng chỉ cho chúng ta con đường, con đường của Kitô giáo. Đó không phải là con đường của áp đặt và cưỡng bức, của quyền lực và địa vị; nó không bao giờ đưa Thánh giá của Chúa Kitô lên để chống lại anh chị em của chúng ta, những người mà Chúa đã dâng hiến mạng sống cho họ! Con đường của Chúa Giêsu, con đường cứu độ thì khác: đó là con đường của một tình yêu nhưng không, khiêm nhường và phổ quát, không có “nếu” và cũng không có “nhưng”.
Đúng, bởi vì trên cây gỗ của Thánh giá, Đức Kitô đã loại bỏ nọc độc khỏi con rắn sự dữ. Là một Kitô hữu có nghĩa là sống không có nọc độc: không cắn xé lẫn nhau, không phàn nàn, đổ lỗi và nhiều chuyện, không gieo rắc điều ác, không làm ô nhiễm trái đất bằng tội lỗi và sự không tin tưởng, những điều nảy sinh từ ma quỷ. Thưa anh chị em, chúng ta đã được tái sinh từ cạnh sườn bị đâm thủng của Chúa Giêsu bị đóng đinh trên Thánh giá. Xin cho chúng ta được giải thoát khỏi nọc độc của sự chết (xem Kn 1,14), và hãy cầu nguyện để nhờ ân sủng của Thiên Chúa, chúng ta có thể trở nên những Kitô hữu trọn vẹn hơn bao giờ hết: những chứng nhân vui tươi của sự sống mới, của tình yêu và hòa bình.
4. Suy tôn Thánh Giá
(Bài giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô tại Nhà nguyện Thánh Marta trong Thánh Lễ Suy tôn Thánh Giá và cầu nguyện với cha Jacques Hamel – Tứ Quyết SJ. – Nguồn tin: Radio Vaticana, 14.09.2016)
Hôm nay Hội Thánh cử hành lễ suy tôn Thánh giá Chúa Giêsu Kitô. Trong Thập giá Chúa Giêsu Kitô, chúng ta thấu hiểu mầu nhiệm Đức Kitô. Mầu nhiệm về sự tự hủy của Chúa rất gần gũi với chúng ta.
Thánh Phaolô nói: “Người vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2:6-8). Đây chính là mầu nhiệm về Chúa Kitô. Đây chính là mầu nhiệm về Đấng tử đạo tiên khởi để cứu độ loài người.
Chúa Giêsu Kitô là vị tử đạo tiên khởi, là người đầu tiên trao ban mạng sống vì chúng ta. Và từ mầu nhiệm này, Chúa Kitô mở ra toàn bộ lịch sử tử đạo của Kitô giáo từ những thế kỷ đầu cho tới ngày hôm nay. Thời Hội Thánh sơ khai, các Kitô hữu đã làm chứng cho Chúa bằng chính mạng sống của họ. Các tín hữu tiên khởi bị bắt buộc bỏ đạo, nhưng các ngài đã từ chối. Khi từ chối như thế, các ngài bị bắt bớ, bị giết. Câu chuyện ấy tiếp tục được lặp đi lặp lại cho tới ngày nay, và thời nay Hội Thánh có nhiều vị tử đạo hơn những thời trước. Ngày nay có nhiều Kitô hữu bị cầm tù, bị giết hại, vì họ không chối bỏ Chúa Giêsu Kitô. Câu chuyện này chúng ta tiếp tục gặp thấy nơi cha Jacques. Cha là một trong những vị tử đạo. Các vị tử đạo cho thấy rõ sự tàn ác của cuộc bách hại.
Cha Jacques Hamel đã cử hành hy lễ Thập giá Chúa Kitô. Cha là một người tốt, hiền lành, đầy tình huynh đệ, luôn nỗ lực xây dựng hòa bình, thế mà cha bị giết hại như một kẻ tội phạm. Đây là kiểu bách hại của ma quỷ. Có điều gì đó nơi cha làm cho chúng ta thấy rằng cha là vị tử đạo cùng với Đấng tử đạo là Chúa Kitô. Có một điều làm cho tôi nghĩ như thế, vì giữa thời gian khó khăn thử thách, cha vẫn sống rất hiền hậu tốt lành, cha vẫn sống như người anh em. Cha cũng không quên xác minh đích danh kẻ giết người, đó chính là ma quỷ. Cha nói cách rõ ràng: “Xéo đi, Satan!”. Cha đã trao tặng mạng sống tựa như lễ hy sinh của Chúa Kitô trên Thập giá.
Cha là mẫu gương về lòng can đảm cũng như mẫu gương về chính cuộc sống. Cha đã tự khiêm tự hạ để giúp đỡ người khác, để kết thân huynh đệ với tha nhân, để giúp chúng ta bước về phía trước mà không còn sợ hãi. Cha về Thiên Đàng, và chúng ta cầu nguyện với cha, cầu nguyện với vị tử đạo được chúc phúc, để chúng ta có thể hiền lành, đầy tình huynh đệ, bình an, và ngay cả can đảm nói lên sự thật rằng: ‘kẻ nhân danh Chúa để giết người’ chính là Satan.
5. Thập Giá giữa đời hôm nay
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)
Tôi vừa nhận được một video clip do một người bạn gửi qua email. Nội dung clip này ghi lại cảnh những binh lính thuộc tổ chức tự xưng Nhà nước Hồi giáo (IS) giết hại những Kitô hữu tại Syria. Hàng chục người tín hữu tay bị trói và bị bắt quỳ trên đất, những người lính bịt mặt dí súng vào đầu họ rồi bóp cò, trong lúc hàng trăm người khác nhảy mừng tung hô như những kẻ say máu. Tôi không thể xem hết những hình ảnh này, vì nó quá dã man và kinh hoàng. Chúa ơi, tại sao những người này lại tàn sát các tín hữu của Chúa một cách ghê rợn? Không thể tưởng tượng tại sao những hành động như vậy lại đang xảy ra trên hành tinh của chúng ta ở thế kỷ 21, khi mà con người không ngừng kêu gọi ngưng bạo lực và bảo vệ nhân quyền, thậm chí là bênh vực và bảo vệ những loài động vật. Không chỉ giết hại những người công giáo, những hình ảnh do chính nhóm Nhà nước Hồi giáo phát tán trên internet còn cho thấy những cuộc tàn sát dân lành, trẻ em và phụ nữ tại Iraq và Syria. Từng đoàn người đang bỏ lại đàng sau quê hương xứ sở của mình để lên đường tỵ nạn tới một nơi vô định và một tương lai mù mịt.
Trong những ngày qua, dư luận thế giới bàng hoàng trước việc binh lính Nhà nước Hồi giáo giết hại hai nhà báo người Mỹ là James Wright Folley 40 tuổi và Steven Sotloff, 31 tuổi. Hai nhà báo này đã bị giết hại bằng hình thức chặt đầu, như thời trung cổ.. James Wright Folley bị giết ngày 19-8-2014 và Steven Sotloff bị giết ngày 2-9-2014. Sự kiện này cùng với bạo lực ngày càng nghiêm trọng đã khiến cho tổng thống Mỹ Obama hôm 10-9 thề sẽ tiêu diệt hoàn toàn nhóm Nhà nước Hồi giáo ở Iraq và Syria.
Không chỉ những Kitô hữu ở Syria hay ở vùng Trung Đông, những nhà truyền giáo và hoạt động tông đồ đang bị bách hại và giết chết ở nhiều nơi trên thế giới. Ngày chúa nhật 7-9 vừa qua, ba nữ tu cao niên, cả đời phục vụ người nghèo ở Phi châu, chị Lucia Pulici 75 tuổi, và Olga Raschietti 83 tuổi, bị cắt cổ chiều Chúa nhật trong tu viện ở Kamenge, ngoại ô Bujumbura của Burundi. Sau đó, nữ tu Bernedetta Boggian, 79 tuổi, từ hơn 44 năm nay phục vụ tại Trung Phi, Congo và Burundi, cũng bị chém đầu trong đêm hôm ấy.
Trước tình hình bạo động và tàn sát các Kitô hữu tại một số nước vùng Trung Đông, Đức Thánh Cha đã cử vị Đặc sứ của Ngài là Đức Hồng Y Filoni, Tổng trưởng Bộ Rao giảng Tin Mừng cho các dân tộc, đến tham và ủy lạo các cộng đoàn tín hữu tại Iraq từ ngày 13 đến ngày 20-8-2014. Đức Hồng Y đặc sứ đã trình bày với Đức Thánh Cha về tình trạng thê thảm tại Iraq: các làng mạc bị bỏ hoang vì người dân lành bị xua đuổi. Các nhà thờ bị tàn phá. Người dân ở đây thiếu thốn mọi nhu cầu cần thiết cho cuộc sống hằng ngày và bạo lực mỗi ngày một gia tăng.
Khi tàn sát dã man những người dân vô tội, những người Hồi giáo dòng SITE gọi cuộc khủng bố của họ là một cuộc thánh chiến. Họ mượn danh Thiên Chúa để làm điều ác. Họ phong chức “tử đạo” cho những binh lính chết trong khi tham gia những cuộc bạo loạn này! Con người không ngừng nhân danh Chúa để tàn sát lẫn nhau. Chúa Giêsu đã cảnh báo chúng ta: “Sẽ đến giờ mà kẻ nào giết anh em cũng tưởng đó là phụng thờ Thiên Chúa” (Ga 16,2).
Người Do Thái đã kết án Chúa Giêsu khổ hình thập giá. Người đã chịu chết trên thập giá để biểu lộ tình yêu thương của Chúa đối với nhân loại. Trải qua hơn 20 thế kỷ, con người vẫn không ngừng ghen ghét sát hại những người tin Chúa. Thập giá ngày hôm nay vẫn đang hiện diện nơi cuộc đời, khi con người đối xử tệ bạc với nhau. Thập giá hiện diện nơi gia đình khi sự chung thủy và tình yêu bị phản bội. Thập giá hiện diện nơi cộng đoàn giáo xứ khi mọi người chia rẽ và thù ghét nhau. Thập giá hiện diện nơi cuộc đời, khi con người đối xử với nhau bằng mưu mô tính toán và ích kỷ hẹp hòi. Thập giá vẫn còn đó và chúng ta được mời gọi hãy mang thập giá cho nhau bằng cách hãy sống với nhau cách trung thực, nhân hậu. Đừng tăng thêm gánh nặng cuộc đời cho anh chị em mình, vì cuộc đời đã là một gánh nặng khó vác.
Trong bối cảnh xã hội vùng Trung Đông và trên thế giới hôm nay, chúng ta là những Kitô hữu được mời gọi hiệp thông cầu nguyện cho những anh chị em của chúng ta đang phải vác thánh giá. Sứ mạng làm chứng và tử đạo luôn luôn gắn liền với cuộc đời Kitô hữu. Đây đó trên thế giới này, luôn luôn có những cuộc tàn sát đẫm máu vì lý do sắc tộc hoặc lý do tôn giáo. Thế gian ghen ghét các môn đệ của Chúa, như họ đã ghen ghét và lên án tử cho Người. Người Kitô hữu chân chính là người biết nhìn lên thập giá để mỗi ngày, để nhận ra sự hiện diện của Đấng đã chịu treo trên đó, đồng thời cảm nhận tình thương của Thiên Chúa đối với chúng ta. Ngắm nhìn thập giá cũng giúp chúng ta tìm được sức mạnh để bước đi trong cuộc đời đầy gian nan thử thách này, nhờ đó mà chúng ta vững tin như Chúa nói với chúng ta: “Hãy can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16,33).
Lạy Chúa, chúng con cầu xin cho anh chị em chúng con đang chịu bách hại trên khắp thế giới. Xin Chúa thêm sức cho họ, để họ biết chiến thắng bạo lực bằng tình yêu thương và tha thứ.
Xin Chúa giúp chúng con vác thập giá cuộc đời hôm nay, để nhờ ơn Chúa, chúng con cũng biết vác thập giá giúp anh chị em chúng con. Amen.
6. Lễ suy tôn Thánh Giá
(Suy niệm của ĐGM. Phaolô M. Cao Đình Thuyên)
Một nhà thông thái nằm mơ thấy mình để cả cuộc đời đi tìm một cuốn sách hay nhất gồm tóm mọi sự trên đời, cuốn sách đó chỉ tóm gọn trong một trang hay nhất, rồi trang ấy gồm trong một dòng hay nhất, rồi dòng ấy trong một chữ hay nhất. Ông giật mình tỉnh dậy, trên bàn ông có một chữ to tướng: Crux, Thánh Giá.
Phải, Thánh Giá là chữ hay nhất gồm tóm những bài học hay nhất, của một dòng chữ hay nhất, của một trang hay nhất, của một cuốn sách hay nhất. Vậy Thánh Giá là gì? Chắc chắn ta không nhìn và giải thích về mặt thể lý: 2 thanh gỗ, sắt, đồng, chì, vàng, bạc đóng vào nhau thành hình chữ thập, dù có gắn ảnh chuộc tội hay không.
Thánh Giá là tình thương vô biên của Thiên Chúa qua Chúa Kitô, đã tỏ cho loài người bằng cách hứng chịu mọi đau khổ trên thập giá để cứu độ chúng ta, và ngược lại, Chúa muốn chúng ta cũng qua Thánh Giá đóng góp phần mình vào ơn cứu độ để cứu mình và anh em, để tất cả được sống lại vinh quang với Chúa. Chỉ một vài dòng đơn sơ, nhưng nói đến Thánh Giá là động chạm đến bao vấn đề hết sức quan trọng và sâu sắc.
Trước hết, Thánh Giá là tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Thánh Gioan viết: “Tình yêu Thiên Chúa cốt tại điều này là không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa trước nhưng chính là Thiên Chúa đã yêu chúng ta trước. Tình yêu của Thiên Chúa biểu hiện qua việc Ngài đã sai Con Một Ngài vào trong thế gian để làm của lễ đền tội chúng ta”. Như thế, tình yêu Thiên Chúa là một tình yêu nhưng không, vô vị lợi. Chúa yêu chúng ta không phải vì chúng ta tốt hay vì Ngài cần chúng ta, nhưng chỉ vì Chúa tốt lành vô song. Tiên tri Giêrêmia đã nói rất cảm động: “Ta đã yêu con bằng tình yêu muôn đời, bởi thế Ta đã giữ bền ân nghĩa với con” (Giêrêmia 31,3). Thánh Augustin cũng nói: “Nguồn nước có được lợi gì khi kẻ khát nước đến uống ở đó, mặt trời có lợi gì khi con mắt được ánh sáng chiếu tới”. Nhà thần học Don Scot dòng Phanxicô, vào thế kỷ 14 còn nói mạnh hơn: “Giả thiết loài người không phạm tội thì vì yêu ta Chúa cũng có thể làm người và chịu nạn chịu chết”. Giả thiết vậy để kích thích ta thêm lòng đạo đức, đào sâu thêm huyền nhiệm tình yêu, chứ thực tế loài người đã phạm tội và Chúa đã sai con Ngài xuống thế gian thật để cứu chúng ta bằng cả cuộc sống của Ngài, mà cao điểm là cuộc khổ nạn và chết trên thập giá. Trước một tình yêu cao cả và vô vị lợi như thế sao ta lại dễ thất vọng chán nản mỗi khi gặp thử thách? Là con cái Chúa, là tu sỹ, nhất là tu sỹ Mến Thánh Giá lại ngã lòng mỗi khi Chúa muốn chúng ta chia sẻ Thánh Giá với Ngài? Phải chăng ta còn quá ích kỷ trong việc mến yêu Chúa? Ta yêu Ngài chỉ vì ta cần đến Ngài chẳng khác gì coi Ngài như cái vòi nước, khi cần thì đến vặn dùng, xong lại đóng sập lại ngay.
Một nhà mục sư Tin Lành giảng về câu Kinh Thánh của Thánh Gioan trên rất hay: 2 gia đình, 1 Công giáo, 1 Tin lành đi lại với nhau rất thân, gia đình Công giáo có 5 người con, ông bà Tin lành đã già mà không có con. Họ quý mến nhau lắm và mọi sự thông cảm chia sẻ với nhau rất quảng đại. Một hôm ông bà Tin lành mạnh dạn nói với ông bà Công giáo: Cả 2 ta cùng thờ một Chúa Giavê, một Chúa Kitô, tuy là 2 Hội Thánh nhưng chúng ta vẫn quý mến nhau vì cũng gặp ở một Chúa. Chúa cho gia đình bác nhiều cô cậu, còn tôi trong cảnh già nua buồn bã, tôi muốn xin bác cho chúng tôi 1 cô hoặc 1 cậu để ông bà làm vui. Tôi hứa sẽ yêu thương giáo dục cháu hết sức! Ông bà Công giáo cảm động quá về bàn với nhau xem nên cho đứa nào.
– Con cả là một cậu trai tuấn tú, thông minh, ngoan ngoãn, nhất định không được. Vả ai lại cho trưởng nam đi.
– Con thứ là một cô gái xinh đẹp đạo đức lại vừa đính hôn với một thanh niên xứ bạn, ai lai cho đi đứa con chỉ vài ba tháng nữa sẽ về nhà chồng.
– Con thứ ba là cậu trai tàn tật, què chân. Hai vợ chồng buồn bã cho số phận hẩm hiu của con nên càng đem lòng ưu ái con để bù thiệt cho nó, thì sao có thể cho nó đi và lại cho bạn một đứa con tàn tật, làm sao coi được.
– Con thứ tư là một cô thiếu nữ 10 tuổi. Vừa nói tới bà đã khóc tru trếu vì bà coi cô như hòn ngọc. Bà coi cô là hình ảnh sống động của mình vì lời ăn tiếng nói, nu cười, cả dáng đi đều giống hệt như bà.
– Con thứ 5 là cậu trai út, 4 tuổi, suốt ngày nói nói cười cười, khi ngồi trên gối mẹ, lúc lại nằm trên tay cha. Đi nhà thờ, đi dạo chơi luôn kèm theo mẹ cha sao có thể rời được. Rút cuộc đành phải báo lại cho ông bạn Tin lành là không thể cho ông bạn được đứa nào cả
Nhà mục sư cao giọng: Con người thân thiết nhau đến thế mà người có 5 con không thể cho ông bạn 1 đứa. Thế mà Thiên Chúa và nhân loại có thân thiết nhau được như thế không? Tội lỗi đã làm con người nên tử thần với Chúa, Chúa Cha lại chỉ có 1 người con vô cùng quý hóa, ấy mà Ngài lại cho con mình xuống trần gian tội lỗi chịu trăm ngàn đau khổ ma cao điểm là Thánh Giá để loài người được an vui.
Chúng ta nghĩ sao về tình yêu Chúa đối với ta và tình mến ta với Chúa. Lạy Chúa, xin tha thứ cho nỗi vong ân bội nghĩa của chúng con!
Cũng vì thế mà đứng trước Thánh Giá chung con vẫn không một chút mủi lòng. Vì không cảm hết được tình yêu Chúa đã tự triệt tiêu mình vì chúng con. Chúng con mang Thánh Giá trong mình mà chúng con lại mau mắn xua đuổi Thánh Giá đi xa dù chỉ là một Thánh Giá nhỏ nhẹ – một chút nhức đầu sổ mũi, một lời nói đùa cợt, một sự góp ý xây dựng đã đủ làm con phản ứng gay gắt, đỏ mày đỏ mặt, cử chỉ thô bạo, lắm lúc còn ấm ức tìm cách báo thù.
Ôi thật là lạ lùng! Thế mà con còn dám hãnh diện vì mình là người yêu Thánh Giá. Lạy Chúa, nghĩ lại chúng con thật đáng xấu hổ thẹn thùng. Thật đáng Chúa quở trách: Bọn này thờ ta bằng môi bằng miệng. Chúng con thật đáng liệt vào hạng ngoại giáo, thu thuế và bọn Biệt phái trong Phúc Âm.
Cũng vì không cảm hết được tình Chúa yêu con đến triệt tiêu mình cho con, nên con thường mắc bệnh chủ quan và luôn nhìn và phóng đại đau khổ mình mà không biết nhìn đến những thánh giá kẻ khác. Đau khổ mình thì dùng kính hiển vi mà phóng đại để tủi thân, để phàn nàn, để than trách. Còn đau khổ kẻ khác thì lại coi nhẹ, cho là việc nhà giàu đứt tay, không đáng kể. Ôi thật là ích kỷ! Sao con không nhìn lên Thánh Giá với những đau khổ dữ dằn hồn xác của Chúa đã gánh chịu cho con và cho tha nhân con. Tự hào là những người yêu Thánh Giá hơn ai, mến Chúa hơn ai mà con lại không biến cải những Thánh Giá chúng con thành những cây Thánh Giá để nên giống Chúa, để biểu lộ tình yêu Chúa yêu tha nhân? Thánh Têrêxa Avila thì nói: “Hoặc đau khổ hoặc chết”. Thánh Mađalêna de Passi: “Không chết nhưng xin đau khổ mãi mãi”. Thánh Rosa Lima: “Lấy vòng gai co mũi nhọn đội lên đầu, vác cây khổ giá nặng lâu giờ trong một ngày, ban đêm tự treo 2 tay lên khổ giá để kết hợp với Chúa hấp hối trên thánh giá xưa. Thế mà con, tu sỹ Thánh Giá thì lạikhiếp sợ Thánh Giá, chê chối tránh né Thánh Giá. Thật dân này chỉ mến ta bằng môi bằng miệng. Nhà văn Montalenebat viết trong cuốn “Các đan sỹ Phơng Tây” miêu tả lời than của cây gỗ Thánh Giá rất cảm động như sau: Từ năm xửa năm xưa, lâu lắm rồi, toi không còn nhớ nữa, lúc đó tôi mọc ở khu rừng, họ đã hạ tôi xuống đất, cưa chặt và mang tôi đi. Những kẻ thù thô lỗ đã chiếm lấy tôi để thành một trò hề. Họ đem tôi lên một ngọn núi và chôn tôi xuống đất. Ở đo tôi thấy Chúa tể loài người trong uy quyền đi tới trèo lên tôi. Để khỏi bất tuân với người tôi không dám gẫy cũng không dám cong, tôi cảm thấy đất run rẩy dưới chân tôi. Tôi cũng run khi thấy vị anh hùng ôm lên lấy tôi, nhưng tôi không dám cúi mình xuống, cũng không dám lún sâu xuống đất. Dù sao tôi cũng phải đứng thẳng và vươn lên để dương cao trên dân chúng Đấng là vua cao cả, là Chúa trời đất. Họ xuyên thủng tôi bằng những cai đinh màu xám, những vết thương còn biểu hiện trên mình tôi ngày nay. Cả Ngài lẫn tôi đều bị chửi rủa. Máu từ cạnh sườn Ngài loang đổ trên mình tôi. Mặt trời tối sẫm, cả vũ trụ than khóc vua họ bị ngã xuống. Trong cuộc thương khó trên Núi Sọ, cây gỗ giá đã đồng hóa mình với Chúa Giêsu, đã góp phần vào ơn cứu chuộc – Cây gỗ giá đã tuyên bố không dám gãy không dám cong mà cứ đứng thẳng và vươn lên. Còn ta, những người tự hào mình là kẻ hợp tác với ơn cứu độ, chuyền thông ơn cứu độ lại không dám đồng hóa với Chúa Kitô, không dám vươn lên, không dám vươn cao cho thế giới biết Đấng chịu đóng đinh là Chúa Trời Đất yêu thương ta vô cùng sao? Lạy Chúa, xin cho con can đảm như Cha Charle de Foucauld: Khi tôi ôm lấy Thánh Giá thì một trật tôi ôm lấy Chúa Kitô chịu đóng đinh vào đó.
7. Suy tôn Thánh Giá
(Suy niệm 2 của ĐGM. Phaolô M. Cao Đình Thuyên)
Lễ Suy Tôn Thánh Giá được cử hành vào hôm nay 14/9 hằng năm nhắc nhở cho ta một biến cố hết sức quan trọng. Đó là biến cố Đức Giêsu, Chúa chúng ta, bị treo trên cây thập tự như một tội nhân bị án tử. Nhưng tội nhân đó đã không bị khuất phục trước cái chết nhục nhã đó, mà từ cõi chết Ngài đã sống lại vinh quang toàn thắng. Như vậy, suy tôn Thánh Giá không phải là đề cao một hình phạt hay để vui thỏa một cách bệnh hoạn trong các đau khổ vật chất, mà là ca ngợi tình yêu vô biên của Đấng đã hy sinh vì người mình yêu. Nơi Thánh Giá không những tình yêu Thiên Chúa được thể hiện một cách trọn vẹn. Cũng nơi Thánh Giá chân lý về con người được tỏ bày một cách trong sáng nhất, vì con người chỉ là con người và chỉ có thể sống cho ra người khi họ biết hiến thân vô vị lợi. Nhưng ý nghĩa đó đã dần dần lu mờ đi trong đời sống người Kitô hữu. Thay vì nhìn Thánh Giá như một dấu hiệu, như một ngọn cờ bách chiến bách thắng để giúp mình can đảm hiến thân hy sinh theo gương Chúa Giêsu, để cứu rỗi thế gian, để giải phóng đồng loại, chúng ta lại thường biến Thánh Giá, như đồ trang sức, đồ trang trí phòng ốc để trang điểm con người.
Ta nên nhớ Giáo Hội thiết lập lễ Suy Tôn Thánh Giá không những chỉ là để biểu lộ lòng tôn kính đối với cây gỗ đã được hạnh phúc mang thân xác Con Chúa trong ngày cuối đời, cây gỗ đã được sử dụng làm phương tiện để cứu rỗi nhân loại, mà còn để chúng ta biết Thánh Giá chính là biểu tượng của lòng tin. Tin ở một đường hướng, một giải pháp. Đường hướng đó chính Chúa Kitô đã tự chọn để cứu độ, để giải phóng chúng ta. Đướng hướng đó, giải pháp đó chính là bước đi qua hy sinh gian khổ, đi qua Thánh Giá để rồi đến sự sống lại, sự toàn thắng.
Như thế, mầu nhiệm Thánh Giá là một mầu nhiệm cơ bản. Công đồng Vatican II đã đề cập đến trong nhiều bản văn, nhất là trong Hiến chế Tông Đồ Giáo Dân. Công đồng nói: Những kẻ có lòng tin như thế hy vọng sẽ được Chúa mạc khải cho như Chúa đã thương mạc khải cho con cái Ngài, nhờ lòng trí họ luôn tưởng nhớ đến Thánh Giá và sự Phục Sinh của Đức Kitô (số 15).
Kitô hữu là những kẻ tin ở Chúa, mong mỏi được làm như Chúa, được hưởng như Chúa Kitô. Vậy thì tất nhiên họ cũng phải luôn cắm mắt vào Thánh Giá của Chúa như một mục tiêu, một đường hướng. Muốn sống lại như Ngài, muốn thành công như Ngài, muốn vinh quang như Ngài, họ phải kinh qua Thánh Giá, phải chấp nhận hy sinh gian khổ như Ngài. Thánh Matthêu viết: Con Người sẽ bị nộp trong tay người ta, họ sẽ giết Ngài, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại (Mt 17, 22).
Là mầu nhiệm cơ bản, nhưng mầu nhiệm Thánh Giá không đi một mình. Nó luôn đi kèm theo mầu nhiệm Phục Sinh. Đường Thánh Giá không chỉ dừng lại ở chặng 14 – chôn xác Chúa. Chôn xác của Chúa không phải là chặng cuối cùng mà chính là sự sống lại, lên Trời của Ngài.
Người Kitô hữu đã tin vào Chúa, vào mầu nhiệm Thánh Giá, vào mầu nhiệm Phục Sinh, vì thế đáng lý họ phải là những kẻ dám hy sinh, dám dấn thân hơn ai hết. Bởi vì đã tin chắc kinh qua hy sinh gian khổ, thì nhất định sẽ đi đến toàn thắng, đến vinh quang. Người Kitô hữu mà không dám chấp nhận hy sinh để xây dựng Nước Trời, để xây dựng xã hội thì đó chỉ là người mang danh Kitô hữu thôi, chứ chưa phải là môn đệ thật của Chúa Giêsu Kitô, chưa phải là kẻ được đổi mới và có khả năng đổi mới.
Nói người rồi nghĩ đến ta: Là những người mang danh hiệu Tu sỹ Mến Thánh Giá, chúng ta đã thực sự có một tầm nhìn đúng về mình chưa? Chúng ta đã thực sự là những người mến Thánh Giá, là những người sẵn sàng hy sinh, phấn khởi dành dật Thánh Giá để cùng với Chúa mà cứu rỗi các linh hồn, mà xây dựng cộng đoàn, xây dựng Giáo Hội chưa?
Thánh Giá với Chúa Kitô đã trở thành quy luật cho sự đổi mới, cho mọi thành công. Thế thì ai chưa dám hy sinh, chưa vui đón gian khổ, đó chính là những người chỉ muốn chuốc lấy thất bại, chỉ muốn nằm lỳ trong tình trạng khô cứng…
Một công chúa được ơn gọi vào dòng. Cô đến gõ cửa một Dòng Mến Thánh Giá và xin nhập hộ. Bà mẹ Bề trên thấy một công chúa, một người đã từng sống trong cảnh sung sướng đầy đủ nên ngần ngại. Nhưng để chối từ cách khéo, bà đã dẫn cô đi tham quan các nhà trong dòng: nhà học, nhà ngủ, nhà thờ, nhà ăn…
Năm 1627, khi Cha Đắc lộ đến khởi đầu cuộc giảng đạo ở Việt Nam ta, Ngài dựng một cây Thánh Giá lớn trên quả núi cao nhìn xuống Cửa Bạng. Đâu xa cũng nhìn thấy Thánh Giá. 300 năm giảng đạo là 300 năm máu chảy đầu rơi. 13 vạn người đã hy sinh xương máu, liều mất mạng sống mình để cứu lấy anh em.
Lạy Chúa, thật Thánh Giá là luật khó hiểu, các môn đệ Chúa đã bực bội can ngăn. Nhưng đó là mầu nhiệm tình thương, mầu nhiệm cứu độ, là nguồn gốc sự sống. Xin Chúa giúp chúng con thấu hiểu và can đảm vác thập giá hằng ngày để theo Chúa, để cùng thưa với Chúa như Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu: Lạy Chúa Giêsu của con, Chúa đã làm việc đủ rồi. Chúa đã khóc đủ 33 năm sống trên nơi khổ ải này, hôm nay Chúa hãy nghỉ, đến lượt con đi chiến đấu và chịu đau khổ (Têrêxa Hài Đồng Giêsu).
8. Suy tôn Thánh Giá
(Suy niệm 3 của ĐGM. Phaolô M. Cao Đình Thuyên)
Nhà Dòng Cistaciens cũ ở Oliva gần Danzier trên biển Baltique có một nhà nguyện. Đặc sắc của nó là có một cây Oliva lạ lùng. Thân cây là một ống chì to có rất nhiều chi nhánh và lá to nhỏ bằng đồng. Cây ấy được thông với một ống dẫn thủy đêm ngày luôn tung tóe ra muôn vàn tia nước rất đẹp. Ngày nay nó đã mất tích vì tai họa chiến tranh. Nhưng khắp Giáo Hội trong các nguyện đường, thánh đường của ta lại còn có một thứ cây trên mọi thứ cây lạ lùng hơn gấp bội – lạ lùng vì cái tuổi thời gian của nó: đã hơn 2000 năm nay mà vẫn tươi xanh mãnh liệt như hôm qua và sẽ ngày càng phát triển mãi cho đến tận thế – lạ lùng nữa vì những hiệu quả vô cùng sung mãn và tác động hữu hiệu trên toàn cõi nhân loại. Thứ cây lạ lùng ta đã thấy, đã dùng và đã nếm qua bao nhiêu ảnh hưởng tốt đẹp của nó. Thứ cây lạ lùng ấy chính là cây Thánh Giá của Chúa, thứ cây mà hôm nay cùng toàn thể Giáo Hội ta đang trọng thể suy tôn và sốt sáng ngưỡng vọng.
Để chúng ta thêm lòng yêu mến cây Thánh Giá lạ lùng đó và để thu nhiều kết quả tốt đẹp bổ ích cho đời sống hằng ngày, giờ đây ta cùng nhau suy về 2 cái tia đặc sắc hơn của nó: Cây Thánh Giá tràn chảy tình thương cho nhân loại; Cây Thánh Giá tuôn đổ nguồn sinh lực cho ta.
1) Cây Thánh Giá chính là biểu hiệu rõ rệt nhất của tình Chúa yêu ta. Chính người đã nói: “Không ai yêu bạn mình cho bằng kẻ hy sinh mạng sống vì bạn”, thì đây chính Chúa tự nguyện xác minh lời đó trước nhất: Chúa đã chết thay cho nhân loại. Ôi, ai trong chúng ta khi chăm chú nhìn lên Thánh Giá mà không cảm thấy được điều đó. Lời Dym Bossence nói: Sao? Không phải chính ở Thánh Giá mà Đức Giêsu, Đấng cứu chuộc, đã dâng hiến lên trước tòa Chúa Cha, không phải những của lễ vô linh tính mà chính là xác Thánh của Người để làm của lễ đền tội cho ta. Không phải chính ở trên Thánh Giá mà Ngài đã giao hòa ta cùng Thiên Chúa bằng sự tẩy sạch tâm hồn ta với dòng máu đào của Ngài ư? Loài người đã phản nghịch với Thiên Chúa. Phép công thẳng Chúa đang sẵn sàng tràn đổ xuống để gìm họ xuống vực thẳm hỏa ngục với ma quỷ mà họ đã cam tâm làm nô lệ và học đòi những thái độ láo xược của chúng. Nhưng căng mình trên Thánh Giá, là bàn thờ, Người đã dùng máu đào để chuộc cái tội kiêu căng cho loài người và Người đã giăng tay tinh khiết ngăn cản cơn oai nộ của Chúa Cha, biến oai nộ thành một dòng suối tình vô tận. Ôi! hy sinh cao cả, ôi tình yêu lạ lùng. Lạy Chúa Giêsu con Thiên Chúa là chính Thiên Chúa, Chúa đã yêu tôi chính lúc tôi còn phản bội lại với Chúa. Sau khi đã chuốc đủ mọi nhuốc hỗ, đã chịu đủ mọi cực hình, đã phải hấp hối chết trong vườn Giệt, đã bị Giuđa phản bội, các môn đệ bỏ rơi, đã bị giam hãm, bị khạc nhổ, đã bị tát tai, đã bị bỏ vạ, bị đánh đòn đóng mão gai, bị chế nhạo, bị lột áo, và như để cho toàn nhân loại thấy rõ thì Chúa lại treo lên một cách ô nhục trên Thánh Giá giữa 2 tên đạo tặc để cứu rỗi tôi, cứu rỗi nhân loại. Ôi! Mầu nhiệm thay! Trách gì mà Thánh Phaolô khi suy đến đã dám táo bạo gọi đó là một sự điên cuồng của tình yêu! Người ta kể, một triết gia đã phải loay hoay nhiều với cái tham vọng muốn tóm gọn cả một cuốn sách vào một trang, rồi cả trang ấy vào chỉ 1 câu, và nữa, cả câu ấy vào chỉ 1 chữ! Nhà triết học đã không thể, nhưng Chúa đã làm, Chúa đã tóm gọn vào một tiếng tất cả mọi mầu nhiệm của đạo, mọi giáo lý của Phúc Âm thư, mọi chương trình của phần rỗi nơi tình yêu của Thiên Chúa: Tiếng ấy là Thánh Giá. Tôi không còn phải bỡ ngỡ nữa khi thấy các Thánh đã say sưa yêu mến Thánh Giá, say sưa đến quên ăn quên ngủ, say sưa đến vui lòng bỏ hết mọi vinh hoa phú quý, đến cả dòng máu đào mình cũng không từ, là vì các Ngài đã đọc được ở cuốn sách lạ lùng ấy cả một tình yêu mênh mông vô hạn đang bao trùm lấy các Ngài.
2) Thánh Giá nói lên tình yêu vô tận của Chúa và đồng thời Thánh Giá cũng làm nổi bật cuộc chiến thắng oanh liệt của Ngài – “Dominum regnarit a ligino”. Vừa tắt thở trên Thánh Giá, Chúa đã tiêu diệt được quyền lực của hỏa ngục, uy thế của bụt thần và cả lòng kiêu căng của nhân loại. Phải, từ ngày cây Thánh Giá được dựng lên trên trái đất, hỏa ngục đã bị mất mặt. Chúng không còn uy hiếp được loài người một cách tự do như tới nay nữa. Là vì với cây Thánh Giá, loài người đã có một lợi thế vô cùng sắc bén và hữu hiệu bảo đảm thắng lợi hoàn toàn cho họ. Và ở đâu bóng cây Thánh Giá tỏa đến là ở đó ma quỷ phải rút lui. Ma quỷ hỏa ngục đã phải rút lui thì bụt thần, con đẻ của nó, còn có nghĩa lý gì! Và thế là nhân loại được giải phóng! Và dần dần thế giới đã quay về gục đầu trước một người Do Thái bị đóng đinh. Ôi, thật lạ lùng! Bị hành hung, bị khinh rẻ khi còn tại thế, Chúa Giêsu lại bắt đầu thống trị khi tắt thở trên Thánh Giá. Cái giáo lý siêu phàm của Ngài lẽ ra làm Ngài được sùng bái khắp nơi thì lại làm Ngài phải chịu treo trên thập giá. Và cái thập giá ô nhục đáng thiên hạ khinh chê thì lại làm Ngài được tôn kính khắp nơi. Ngài vừa giăng tay ra trên Thánh Giá, mọi người đã vội vả đón nhận ấp yêu: Thật là hạt miến quẳng xuống đất bị thối rửa để làm mọc lên muôn vàn cây khác xanh tươi. Phải chăng lời tiên báo Chúa đã thực hiện: Ngày nào treo Ta lên, Ta sẽ kéo mọi sự lên cùng Ta. Thánh Giá đã lan rộng khắp nơi, khi khiêm tốn hiền từ trong khung cảnh nhỏ hẹp gia đình, khi oai vệ hiên ngang giữa trời xanh lồng lộng. Thánh Giá đã đập tan mọi bóng tối lầm lạc. Thánh Giá đã tỏa ánh sáng chân lý, nhân đức tự do, danh dự văn minh cho trần thế – Thánh Giá vạch cho ta một con đường đơn giản để đến quê Trời. Cũng vì thế mà nhân loại xô nhau về với Thánh Giá. Theo Jean Drias: Nhân loại thi nhau hàng phục Thánh Giá. Rồi họ say sưa, họ trìu mến, họ sống chết với Thánh Giá, và rõ ràng nhất là các tu sỹ Mến Thánh Giá. Bởi vì đúng như tên mà đấng sáng lập đã chọn, Hội Dòng này luôn sống trong tinh thần khổ chế hy sinh vì tình yêu. Họ tha thiết yêu Chúa Jésus chịu đóng đinh trên Thánh Giá, Đấng đã thí mạng sống và tình yêu cho Chúa Cha và nhân loại. Họ yêu Thánh Giá của Người và sẵn lòng đón nhận Thánh Giá của bản thân với xác tín là hoàn tất nơi thân xác những gì còn thiếu trong các nổi khổ đau Chúa Kitô phải chịu trong thân mình Ngài là Giáo Hội. Họ say mê gắn bó với thập giá là nhằm để đạt tới sự hiểu biết, yêu mến và hiến thân trọn vẹn cho Chúa Giêsu Kitô chịu đóng đinh qua sự suy niệm và noi theo cuộc đời lữ thứ lữ sinh của Người. Như vậy, tức là đáp ứng lời mời gọi thông dự vào tinh thần trung gian và tiếp nối sứ mạng cứu độ của Chúa Kitô – bằng việc cầu nguyện và đời sống thánh thiện, nhằm giúp hoán cải lương dân và các tín hữu tội lỗi, nhất là nhằm phục vụ thế giới, giới trẻ trong các lãnh vực văn hóa xã hội, y tế, luân lý, đức tin.
Là những tu sỹ Mến Thánh Giá, chúng ta phải can đảm hội nhập vào đoàn hùng binh của Chúa Giêsu để tiếp nối công cuộc cứu độ của Ngài. Hãy góp nhặt những Thánh Giá nhỏ nhẹ rải rác trong đời sống để kết vào Thánh Giá Chúa Giêsu làm ta có thể thưa với Chúa Giêsu như Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu: Lạy Chúa Giêsu của con, Chúa đã làm việc đủ rồi. Chúa đã khóc đủ 33 năm sống trên nơi khổ ải. Hôm nay Chúa hãy nghỉ, đến lượt con đi chiến đấu và chịu đau khổ. Amen.
9. Thập Giá, con đường về trời
Chúa ban cho chúng ta mỗi người một khuôn mặt, bất kỳ lúc nào cũng có thể ngước nhìn lên trời. Khi thức cũng như khi ngủ, và ngay cả khi đã bị chôn vùi trong lòng đất, mặt chúng ta cũng vẫn còn hướng lên trời. Vậy hướng lên trời để lam gì? Tôi xin thưa là để chúng ta nhớ rằng chúng ta còn có một người Cha đang mong chờ chúng ta, cũng như để chúng ta xác tín rằng Nước Trời mới chính là quê hương đích thực của chúng ta. Vậy thì để tìm về với Chúa, để đạt tới quê hương Nước Trời, chúng ta phải làm gì?
Hẳn chúng ta còn nhớ có lần Chúa đã xác quyết: Ta là đường, là sự thật và là sự sống. Thế nhưng con đường ấy như thế nào? Phải chăng là một con đường ngợp những cánh hoa. Tôi xin thưa không phải là như thế, nhưng là một con đường vừa khúc khuỷ, vừa nhỏ bé mà ít người muốn đặt chân vào. Và cụ thể hơn nữa, đó là con đường đau khổ, con đường thập giá như lời Người đã xác quyết: Ai muốn theo Ta phải từ bỏ mình vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta. Đó là con đường duy nhất, rẽ ngang vào một lối khác, chắc chắn thế nào chúng ta cũng bị lạc.
Thực vậy, muốn được vào Nước Trời, chúng ta phải có công nghiệp, mà muốn có công nghiệp, chúng ta phải vác lấy thập giá mình. Công nghiệp của chúng ta mặc dù là nhỏ bé nhưng lại là một sự cộng tác cần thiết cho chính bản thân chúng ta được cứu rỗi. Bởi đó chúng ta đừng vội lẩm bam kêu trách mỗi khi gặp phải những gian nguy thử thách. Trái lại hãy coi đó là một diễm phúc vì được làm chính việc của Chúa, vì được cộng tác với Chúa trong chương trình cứu độ. Hơn nữa những khổ đau chúng ta phải chịu trong cuộc sống hiện tại, sẽ không thể nào sánh ví được với hạnh phúc trường tồn vĩnh cửu mà chúng ta sẽ được đón nhận trên quê hương Nước Trời.
Có một vị ẩn sĩ sống trong một khu rừng vắng, ngày đêm không lúc nào ra khỏi chiếc lều ẩm thấp và chật hẹp. Ấy là chưa kể đến những hình khổ mà thầy dùng để đánh tội. Ngày kia có mấy người quý phái đến thăm, họ hết sức ngạc nhiên khi thấy thầy hãm mình một cách nghiêm ngặt. Họ hỏi thầy lam sao mà thầy có thể chịu đựng nổi. Thầy bèn chỉ vào một kẽ nứt bằng bàn tay trên vách núi và nói: Chính cái đó đã giúp đỡ tôi. Vì mỗi khi thân xác tôi muốn nổi loạn, thì qua kẽ nứt ấy tôi nhìn thấy bầu trời, và qua bầu trời tôi nhớ tới quê hương vĩnh cửu và đích thật của tôi.
Thực vậy, những giọt nước mắt ngày hôm nay nhỏ xuống, thì ngày mai sẽ kết thành những trái chín của hạnh phúc Nước Trời, bởi vì nhờ những giọt nước mắt kho đau ấy mà chúng ta trở nên giống Đức Kitô. Hay như lời thánh Phaolô đã nói: Nếu chúng ta cùng chết với Đức Kitô thì chúng ta cũng sẽ được sống lại với Người. Bởi vì chính Ngài đã long trọng công bố: Phúc cho những ai than khóc, vì họ sẽ được ủi an.
10. Ba cuộc đời – ba cách chết
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Trên đồi Golgotha cách đây hơn hai ngàn năm, có 3 tử tội trên thập giá. Ba con người đều chết trên thập giá với ba thái độ khác nhau. Đó chính là Thầy Giêsu ở giữa. Một người bên hữu được gọi là trộm lành. Một người bên tả truyền thống vẫn gọi là trộm dữ. Tại sao cùng một hoàn cảnh mà cách thức đón nhận lại khác nhau? Đâu là điểm khác biệt giữa ba con người?
Trước hết đó là Thầy Giêsu, một con người đã tự nguyện vác thập giá để cứu độ chúng sinh. Ngài chấp nhận đi vào cái chết không phải do tội của mình mà vì tội của nhân gian. Ngài đã chết để thí mạng vì bạn hữu. Cả cuộc đời của Ngài đã sống vì người khác. Ngài đã sống một cuộc đời để yêu thương và yêu thương cho đến cùng. Ngài đã đi đến tận cùng của yêu thương là thí mạng mình vì bạn hữu. Cái chết của Ngài là bằng chứng cho tình yêu. Đau khổ Ngài chịu cũng vì yêu thương nên Ngài không than vãn, không uất hận vì đời đen bạc. Không nguyền rủa cuộc đời vì những gánh nặng đang đè trên vai. Vì yêu đối với ngài không chỉ là tam tứ núi cũng trèo, thất bát sông cũng lội, mà còn dám chết cho người mình yêu được sống và sống dồi dào. Thế nên, đau khổ đối với Ngài là niềm vui. Và ngài đã đi vào cái chết trong thanh thản vì đã hoan thành sứ mạng đời mình: “yêu thương và phục vụ cho” người mình yêu. Ngài không hối tiếc về cuộc sống đã qua. Ngài không hối hận vì việc mình đã làm. Ngài rất vui vì đã đi trọn con đường của tình yêu. Ngài đã trút hơi thở cuối cùng trong an bình khi Ngài nói cùng nhân loại “mọi sự đã hoàn tất” và nói cùng Chúa Cha “Lạy Cha, con xin phó thác linh hồn trong tay Cha”.
Người thứ hai là anh trộm lành. Anh là một tội nhân. Anh đón nhận hình phạt và cái chết vì chính tội của mình. Nhưng anh là một con người biết phải trái. Anh biết việc mình làm là đáng tội, là đáng phải chịu hình phạt. Cuộc đời anh chưa làm điều gì tốt cho tha nhân. Anh đã sống một cuộc đời chỉ lam hại người khác. Thế nên, anh đã nói với Chúa: “Tôi đã bị như thế này là xứng đáng với tội của tôi”. Anh đón nhận thập giá để đền bù những lầm lỗi đã qua. Anh chấp nhận cái chết nhục nhã như là hình phạt đích đáng vì tội của mình. Anh đã tìm được bình an trong giờ phút cuối cùng của đời người. Anh cũng biết rằng anh không xứng đáng chung phần hạnh phúc thiên đàng với Thầy Giêsu, anh chỉ mơ ước Thầy Giêsu nhớ tới anh khi Thầy về thiên đàng. Đối với anh thập giá là cơ hội để anh để anh đền bù lầm lỗi. Thập giá là nhịp cầu đưa anh vào thiên đàng. Thế nên, anh đón nhận thập giá với lời xin vâng theo mệnh trời. Anh không oán trời, oán đất. Anh đi vào cai chết với tâm hồn thanh thản vì anh đã đền bù những lầm lỗi của quá khứ cuộc đời.
Người thứ ba là anh trộm dữ. Anh lao vào cuộc đời như con thú đang tìm mồi. Cuộc đời anh chỉ tìm hưởng thụ cho bản thân. Vì ham muốn danh lợi thú anh đã sẵn sàng hạ thấp nhân phẩm mình và chà đạp phẩm giá của tha nhân. Anh đang có nhiều toan tính để hưởng thụ. Thế nên, anh không chấp nhận thập giá trên vai anh. Anh không chấp nhận kết thúc cuộc đời bằng cai chết bi thảm trên thập giá. Anh đòi quyền sống. Sống để hưởng thụ. Anh nổi loạn vì đời anh còn quá trẻ, còn quá nhiều tham vọng nên anh không thể chấp nhận cái chết đến với mình. Thế nhưng, anh vẫn phải chịu hình phạt vì tội của mình. Công lý đòi buộc anh phải thi hành, dầu anh không muốn. Thập giá làm cho anh đau khổ. Cái chết làm cho anh nổi loạn. Anh nguyền rủa trời, nguyền rủa đất và xúc phạm cả đến Thầy Giêsu, một con người đang phải chịu cái chết vì đã liên đới với anh. Anh đã chết trong sự hoảng loạn và khổ đau.
Mỗi người chúng ta đang sống một cuộc đời cho chính mình. Mỗi người chúng ta đang đón nhận thập giá với thái độ khác nhau. Có người chap nhận thập giá để đền tội. Có người chấp nhận thập giá vì lòng yêu mến tha nhân. Và cũng có người đang từ chối thập gía trong cuộc đời. Hạnh phúc hay đau khổ tuỳ thuộc vào việc chọn lựa sống của chúng ta. Nhưng dù con người có muốn hay không? Thập giá vẫn hiện diện. Thập giá của bổn phận. Thập giá của hy sinh từ bỏ những tham lam bất chính, những ham muốn tội lỗi, những ích kỷ tầm thường. Đón nhận thập giá sẽ mang lại cho ta tâm hon bình an vì đã sống đúng với bổn phận làm người. Đón nhận thập giá còn là cơ hội để ta đền bù những thiếu sót trong cuộc sống của mình và của tha nhân. Đón nhận thập giá còn là cơ hội để ta tiến tới vinh quang phục sinh với Chúa trên thiên đàng.
Nguyện xin Chúa là Đấng đã vui lòng đón nhận thập giá vì chúng ta, nâng đỡ và giúp chúng ta vác thập giá hằng ngày mà theo Chúa. Xin giúp chúng ta biết sống một cuộc đời hy sinh cao thượng đe chúng ta không hối hận vì quá khứ, nhưng luôn bình an vì đã sống chu toàn bổn phận của mình với lòng mến Chúa, yêu người. Amen.
11. Suy tôn Thánh Giá
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’ – Radio Veritas Asia)
Tuần báo Thế Kỷ Kitô, xuất bản bên Hoa Kỳ có kể lại kinh nghiệm sau đây của một vị linh mục công giáo tại bang Carolina vào Tuần Thánh.
Để giúp các tín hữu trong giáo xứ suy niệm về mầu nhiệm thập giá, linh mục này cho dựng một cây thập giá cao to, bằng gỗ sơn đen ngay trong sân nhà thờ. Chẳng may trong ngày hôm đó, có người xưng mình là đại diện cho hãng du lịch trong vùng gọi điện thoại đến khiếu nại. Lý do như sau: khách du lịch đi qua trước nhà thờ không thích nhìn thấy cây thập giá đen thui này, họ muốn xem những gì vui tươi hơn. Đó là câu chuyện của đời này ở bên Hoa Kỳ. Nhiều người đã quên hay cố quên mầu nhiệm thập giá trong đời sống đức tin, nhưng không phải chỉ là chuyện đời này mà thôi, ngay từ thời xa xưa, thời các thánh tông đồ cũng đã xảy ra như thế. Thánh Phaolô đã thốt lên rằng: “Nhiều người sống nghịch lại thập giá Chúa. Họ chỉ sống theo cái bụng, chạy theo lợi lộc, ham vui”. Thập giá Chúa còn có ý nghĩa gì đối với người Kitô hôm nay chăng?
Trước khi mạc khải về ý nghĩa của mầu nhiệm thập giá, Chúa Giêsu nhắc lại cho ông Nicôđêmô về nguồn gốc thần linh từ trời xuống của chính mình như là Con Thiên Chúa: “Không ai đã lên trời, ngoài trừ Con Người, Đấng từ trời xuống”. Tự nó, thập giá là chặng dưới đất và thực tại đau buồn do con người tạo ra, nhưng để hiểu trọn vẹn ý nghĩa của nó thì cần phải đóng đinh Con Thiên Chúa vào đó, cần phải hiểu mầu nhiệm thập giá trong cái nhìn từ trên cao, trong cái nhìn của Thiên Chúa, Đấng muốn và đã sai Con Một mình xuống trần gian và chịu chết treo trên thập giá, để biến dấu chỉ của sự trừng phạt trở thành dấu chỉ của tình yêu cứu rỗi. “Con Người cũng sẽ bị treo lên như vậy, như con rắn đồng của Môsê, để ai tin vào Con Người thì được sống muôn đời”. Chúa muốn ông Nicôđêmô nhìn về thập giá từ trên cao theo cái nhìn của chính Chúa, và lúc đó con người sẽ khám phá ra rằng Thiên Chúa dùng thập giá để mạc khải tình yêu thần linh, để hòa giải con người với Thiên Chúa và với nhau.
Như lời mời gọi của Chúa cho ông Nicôđêmô, cần phải đặt Con Thiên Chúa vào thập giá, cần phải treo Con Thiên Chúa lên thập giá, con người chúng ta có hiểu được ý nghĩa của thập giá? Thập giá mạc khải cho con người biết tình yêu và sự tha thứ của Thiên Chúa, nhưng đồng thời cũng là dấu chỉ của sự khước từ của con người đối với Thiên Chúa, là dấu chỉ của sự thù ghét của con người đối với con người, của con người say mê quyền hành và danh vọng, muốn làm moi cách để loại bỏ đối thủ của mình như những người biệt phái Pharisiêu ngày xưa đã dùng thập giá để loại bỏ Chúa Giêsu, Đấng đang lôi kéo dân chúng bỏ họ mà theo Chúa.
Mỗi người Kitô chúng ta hôm nay, nhân ngày lễ Suy Tôn Thánh Giá, hãy kiểm điểm lại thái độ của mình đối với thập giá Chúa. Phải chăng thập giá Chúa đã bị tục hóa, bị chúng ta biến trở thành món trang sức để khoe của, để củng cố địa vị, để lường gạt anh chị em? Chúng ta làm dấu thánh giá trên mình, chúng ta mang dấu thánh giá trên áo, trên cổ nhưng chúng ta đã sống ý nghĩa của thập giá như Chúa đã mạc khải như thế nào?
Lạy Chúa,
Xin thương dạy con hiểu biết, đón nhận và sống mầu nhiệm thập giá trong chính đời sống của con. Xin cho con một tâm hồn quảng đại, không chạy trốn trước lời mời gọi của thập giá Chúa, nhưng sẵn sàng để cho cuộc đời con được đóng đinh vào thập giá với Chúa, trở thành của le hy sinh, giúp anh chị em nhận ra tình yêu Chúa.
12. Chúa dùng Thánh Giá chuộc tội loài người
(Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng)
Hôm nay Giáo Hội mừng lễ Suy tôn Thánh giá. Thánh giá là một nghịch lý trong đạo Thiên Chúa giáo nói chung và đạo công giáo nói riêng. Một đàng thánh giá là nguyên nhân thất vọng, tai họa và sự chết. Đàng khác Thánh giá mang lại nguồn hy vọng, toàn thắng và sự sống. Trước khi Đấng Cứu the đến, thánh giá là hình phạt khiếp sợ cho tội nhân. Bị coi là một tội nhân nên Đức Giêsu phải chịu đóng đinh trên thánh giá với hai người trộm cướp. Ngày nay Thánh giá đã trở nên dấu hi vọng và toàn thắng cho người Kito giáo. Đó chính là điều mà thánh Phaolô đã khẳng định: Rao giảng Đức Kitô chịu đóng đanh, điều mà người Do thái coi là ô nhục, không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa keu gọi, dù là Do thái hay Hi lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa (1Cr 1,23-24).
Phúc âm hôm nay nhắc đến một việc khủng khiếp xẩy ra cho dân Chúa trong sa mạc trên đường tìm về đất hứa. Khi dân chúng phàn nàn, kêu trách Chúa vì họ thiếu đồ ăn, nước uống, Chúa phạt họ bằng cách cho rắn độc đến cắn. Rồi với lòng thương xót, Chúa lại truyền cho ông Môsê làm cây gậy đồng để cứu chữa họ. Bất cứ khi nào ai bị rắn cắn, mà nhìn lên con rắn đồng thì được chữa khỏi (Ds 21,4b-9). Đức Giêsu coi việc treo con rắn đồng trong sa mạc là dấu chỉ Người sẽ bị treo trên thập giá để những ai tin vào Người thì được sống muôn đời (Ga 3,15). Thánh Phaolô cũng đã rao giảng về Đức Kitô chịu đónh đanh cho tín hữu Phi-líp-phê: Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự (Pl 2,8).
Như vậy theo Thánh kinh thì ơn cứu độ đến với loài người qua thánh giá và phục sinh. Thánh giá và phục sinh của Đức Kitô không thể nào tách rời được. Không có thánh giá, không thể có phục sinh. Không có phục sinh, không thể có sự sống vĩnh cửu. Đó là lý do tại sao Giáo Hội có thể nói đến sự toàn thắng của thánh giá trong nền tảng thần học của thánh giá.
Người Kitô giáo không thể tin vào Đức Kitô mà lại chối bỏ thánh giá. Người Kitô giáo không thể chối bỏ thánh giá, mà phải tôn vinh Thánh giá như phương tiện cứu rỗi. Họ phải hãnh diện về biểu hiệu của Thánh giá. Tuy nhiên họ không được dừng lại ở thánh giá mà phải vượt qua thánh giá và tìm cho ra ý nghĩa của việc mang vác thánh giá. Vì có sự liên hệ giữa thánh giá và phục sinh mà Đức Giêsu mời gọi người môn đệ vác lấy thánh giá để theo Người (Mt 16,24; Mc 8,34; Lc 9,23). Tại một một tiểu chủng viện kia trong quá khứ, các chủng sinh được ban giáo sư tập cho thói quen đặt thánh giá bên gối đầu giường để khi chưa ngủ được thì suy niệm về mầu nhiệm tử nạn và phục sinh. Sau khi chịu chức linh mục, có linh mục kia vẫn giữ thói quen để thánh giá bên gối đầu giường. Khi không thấy thánh giá, linh mục đó cảm thấy như thiếu thốn một báu vật gì khiến cho linh mục đó cảm thấy khó ngủ.
Phụng vụ lời Chúa hôm nay nhắc nhở người tín hữu về nền tảng của đức tin: qua thánh giá thì có triều thiên, triều thiên cứu rỗi, triều thiên đợi chờ những ai chạy tới cùng đích. Đối với người tín hữu, Thánh giá đã trở nên biểu hiệu của tình yêu thương bao la mà Thiên Chúa dành cho loài người. Do đó mà thánh Gioan Newman đã có thể đặt bút viết: Thập giá Chúa Kitô đã khiến cho những giá trị nhân bản phải được xét lại, bằng cách bầy tỏ một tình yêu mạnh đến nỗi đã san bằng hố sâu giữa sự sống và chết.
Nhìn quanh, người ta thấy biết bao người đang phải mang vác thánh giá về đau yếu, bệnh hoạn và tật nguyền về thể lý, tâm lý và tinh thần. Có những người uống thuốc chữa trị nhiều năm mà bệnh tình vẫn không thuyên giảm. Có những người đi bác sĩ, nằm nhà thương liên tiếp, mà bệnh tật vẫn còn đó. Nhiều người phải mang vác thánh giá của cảnh băn khoăn, lo âu, sợ hãi và hiểu lầm trong suốt cả cuộc sống.
Nhiều người còn phải mang vác thánh giá của cảnh nghèo túng và đói khát, ta cầu xin Chúa cho đất đai của họ trở nên mầu mỡ để họ có thể sản xuất thực phẩm. Nhiều người phải mang vác thánh giá của cảnh kì thị, ta cầu xin Chúa là sức mạnh và nguồn hi vọng của họ. Nhiều người phải mang vác thánh giá của cảnh bách hại vì tin vào Chúa ngay cả trong thời đại ta đang sống ở những miền đất khác nhau trên thế giới, ta cầu xin Chúa là nguồn an ủi và là sức mạnh của họ, ban chọ họ lòng can đảm, cậy trông. Nhiều người phải mang vác thánh giá của cảnh chia li, ta cầu xin Chúa cho họ được đoàn tụ với người thân yêu. Nhiều người khác phải mang vác thánh giá của cảnh li dị, ta cầu xin Chúa hàn gắn những vết thương lòng của họ.
Cuối cùng ta cầu xin Chúa ban sức mạnh và lòng can đảm cho những người phải mang vác những thánh giá khác nhau của cuộc sống để họ có thể biến đổi thánh giá thành dụng cụ của sự toàn thắng và ơn cứu độ.
Lời cầu nguyện cho những ai đang phải mang vác thánh giá của cuộc sống:
Lạy Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm người!
Vì yêu thương nhân loại,
Chúa đã chịu đau khổ và vác thánh giá vì tội lỗi loài người
gồm tội lỗi của chính con.
Xin Chúa ban sức mạnh và niềm an ủi cho những ai
đang phải vác thánh giá của cuộc sống
về bệnh tật, đau khổ phần hồn, phần xác và tinh thần.
Xin Chúa làm vơi nhẹ những thánh giá của họ
và biến đổi thánh giá của họ thành dung cụ cứu rỗi. Amen.
13. Nhìn lên Thánh Giá
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Hàng năm vào ngày 14 tháng 9, Giáo Hội mừng lễ Suy tôn Thánh giá. Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, Phụng vụ tưởng niệm cuộc Khổ nạn của Chúa và xin được dự phần vào cuộc thương khó của Chúa Giêsu. Còn hôm nay, Phụng vụ tập trung suy niệm về việc tôn vinh chính Thánh Giá.
Cây Thánh giá trên nóc tháp chuông, trên bàn thờ, người ta có thể phá đổ, hạ xuống. Chỉ có một nơi dựng Thánh giá mà không ai có thể phá đổ hay triệt hạ được. Đó là trong lòng trí và cuộc đời con người. Mỗi người đều được ghi dấu Thánh giá trên trán và trong lòng khi chịu Phép Rửa.
Các bài đọc Thánh kinh ngày lễ hôm nay quy hướng về việc tôn vinh Thánh Giá.
Bài đọc 1 sách Dân Số kể chuyện, dân Do thái đi trong sa mạc, họ kêu trách Thiên Chúa và ông Môsê rằng: “Tại sao lại đưa chúng tôi ra khỏi đất Ai cập, để chúng tôi chết trong sa mạc, một nơi chẳng có bánh ăn, chẳng có nước uống? …”. Vì thế, Thiên Chúa đã cho rắn độc bò ra cắn chết nhiều người. Sau đó dân hối lỗi chạy đến với Môsê và ông đã cầu khẩn cùng Chúa. Thiên Chúa thương xót, đã truyền cho Môsê đúc một con rắn đồng treo lên giữa sa mạc, và bất cứ ai, hễ bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng ấy thì được chữa lành.
Bài Tin Mừng, trong cuộc đối thoại với ông Nicôđêmô, Chúa Giêsu khẳng định: “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời”.
Lời Chúa trong sách Dân Số và trong Tin Mừng Gioan, qua hình ảnh “Con Rắn”, sẽ đưa chúng ta đi xuyên suốt lịch sử cứu độ, khởi đi từ kinh nghiệm phạm tội trong sa mạc (Ds 21,6), trở về với thời điểm khởi đầu của sự sống (St 3), sau đó đi đến ngôi vị của Đức Kitô (Ga 3,14) và vươn xa tới tận thời cánh chung (Kh 12,7-10).
Dịp hành hương Thánh Địa, chúng tôi có lên núi Nebo bên đất nước Jordanie. Chiêm ngắm tác phẩm điêu khắc Thánh giá theo hình con rắn, biểu tượng cho con rắn đồng ngày xưa được Môsê dựng nên, nhìn về Thánh địa và dâng lễ tại nhà nguyện trên núi.
- Núi Nebo
Núi Nebo là một dãy núi ở Vương quốc Jordanie, cao khoảng 817m. Cựu ước đã đề cập đến nơi này. Trên núi Nebo, Thiên Chúa đã cho Môsê nhìn về Đất Hứa. Từ đỉnh núi nhìn bao quát bức tranh toàn cảnh về Thánh Địa và thành phố bờ Tây sông Giođan là Giêricô, thậm chí vào một ngày rất đẹp trời người ta có thể nhìn thấy cổ thành Giêrusalem.
Theo chương 34 của sách Đệ Nhị Luật, Môsê đã đi lên núi Nebo từ đồng bằng Môáp đến đỉnh Pisgah đối diện với Giêricô để nhìn về Đất Hứa.Giavê phán với Môsê: Đó là đất Ta đã thề với Abraham, Isaac và Giacop rằng: Ta sẽ ban nó cho dòng giống ngươi! Ta đã cho ngươi thấy tận mắt, nhưng ngươi sẽ không qua đó!. Và Môsê đã chết trong xứ Môab. Người ta đã chôn cất ông trong thung lũng, ở xứ Môab, trước mặt Bet-pơor, nhưng không biết được mộ ông cho đến ngày nay.(Đnl 34,4-6).
Theo truyền thống Kitô giáo, Môsê đã được chôn cất trên núi này, tuy nhiên người ta vẫn không xác định được nơi chôn cất ông. Một vài truyền thống Hồi giáo cũng khẳng định điều tương tự, nhưng ngôi mộ của Môsê thì họ cho là ở Maqam El- Nabi Musa nằm về phía nam cách Giêricô 11 km và về phía đông cách Giêrusalem khoảng 20km trong hoang địa Giuđêa. Các học giả tiếp tục tranh luận xem ngọn núi hiện nay được gọi là là Nebo có phải là ngọn núi ngày xưa được đề cập trong bộ Ngũ kinh của Cựu ước không.
Theo sách Maccabê (2 Mcb, 2,4-7): Tiên tri Giêrêmia đã giấu Nhà tạm và Hòm Bia Giao Ước trong một cái hang trên núi Môsê đã lên và được chiêm ngắm cơ nghiệp của Thiên Chúa.
Ngày 20/03/2000, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đến núi Nebo trong cuộc hành hương Thánh địa. Ngài đã trồng một cây ô liu bên cạnh nhà thờ theo phong cách Byzantine như là một biểu tượng cho hòa bình.
Ngày 9/5/2009, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã đến thăm địa danh này, đọc bài diễn văn ở đây và ngài nhìn về thành Giêrusalem từ đỉnh núi Nebo.
Nghệ sĩ người Ý, Giovanni Fantoni đã thực hiện tác phẩm điêu khắc Thánh giá theo hình con rắn. Đây là biểu tượng cho con rắn đồng ngày xưa được Môsê làm theo lệnh của Chúa để cứu sống người bị rắn cắn (Ds 21,4-9) và là thánh giá trên đó Chúa Giêsu bị đóng đinh (Ga 3,14).
Trên đỉnh cao nhất của ngọn núi mang tên Syagha, người ta khám phá ra di tích ngôi nhà thờ và một tu viện vào năm 1933. Ngôi Nhà thờ được xây dựng lần đầu vào nửa bán thế kỷ thứ IV để kỷ niệm nơi Môsê qua đời. Thiết kế nhà thờ theo phong cách một Vương cung Thánh đường. Nó được mở rộng vào cuối bán thế kỷ thứ V và được xây dựng lại năm 597. Ngôi Nhà thờ đầu tiên được nhắc đến trong bản báo cáo về một cuộc hành hương của một người phụ nữ tên Aetheria vào năm 394. Người ta đã tìm thấy 6 ngôi mộ trống rỗng từ những phiến đá tự nhiên nằm dưới sàn khảm đá của nhà thờ.
Trong ngôi nhà nguyện hiện đại được xây dựng để bảo địa danh này và cung cấp nơi thờ phượng, người ta có thể nhìn thấy thấy những di tích của những sàn nhà khảm đá từ nhiều thời kỳ khác nhau. Một trong những bức tranh khảm đá lâu đời nhất là một tấm ghép với những hình chữ thập có viền hiện nay được đặt ở phía đầu Đông của bức tường phía Nam.
- Tại sao lại treo con rắn?
Trong trình thuật về Tội Nguyên Tổ (St 3,1-7), lời dụ dỗ của con rắn đã làm cho Evà và Adam nghi ngờ Thiên Chúa: Thiên Chúa nói rằng, ăn trái cây đó thì chắc chắn sẽ chết, nhưng con rắn nói: chẳng chết chóc gì đâu! Tin vào lời con rắn, đồng nghĩa với việc cho rằng Thiên Chúa nói dối ! Đó là cho rằng, Thiên Chúa lừa dối con người, vì Ngài không muốn chia sẻ sự sống của mình; đó là nghĩ rằng, Ngài tạo dựng con người để bỏ mặc con người trong sa mạc cuộc đời và nhất là cho số phận phải chết. Tin vào lời con rắn, chính là bị con rắn cắn vào người, chính là bị nó tiêm nọc đọc vào người. Và hậu quả là tương quan tình yêu giữa con người với Thiên Chúa, giữa con người với con người bị phá vỡ. Hậu quả tất yếu là chết chóc, như Thiên Chúa đã báo trước: Ngày nào ngươi ăn chắc chắn ngươi sẽ phải chết (St 2,17).
Dựa vào trình thuật Vườn Eden, chúng ta hiểu ra rằng, rắn độc mà sách Dân Số nói đến, chính là hình ảnh diễn tả sự nguy hại chết người của thái độ nghi ngờ Thiên Chúa: kế hoạch cứu sống, khi gặp khó khăn lại bị coi là kế hoạch giết chết. Nghi ngờ Thiên Chúa, đó là để cho mình bị rắn cắn, đó là mang nọc độc vào người.
- Tại sao “Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy”?
Trong Vương cung Thánh đường Thánh Ambrôsiô ở Milan, có 2 cột đá thật ấn tượng và giàu ý nghĩa; “cột rắn“: một con rắn bằng đồng thời Byzantine vào thế kỷ thứ X được đặt trên đỉnh một cột ngắn, đối diện bên kia có “cột thập giá”.
Bài đọc 1 là “lời tiên báo” của sách Dân Số, một lời tiên báo rất huyền nhiệm về Đấng Cứu Thế, về mầu nhiệm Thâp giá, nơi Đức Kitô là Con Người được “giương cao”. Trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giêsu coi cái chết của mình như là một sự tôn vinh, tôn vinh Tình Yêu của Chúa Cha, một Tình Yêu vô bờ bến, một Tình Yêu mãnh liệt đến nỗi Chúa Cha đã ban Con Một cho thế gian, để những ai tin vào Người Con thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời (x. Ga 3,16). Đồng thời cũng là tôn vinh Tình Yêu của Chúa Giêsu, một Tình Yêu đã hy sinh mạng sống vì những người mình yêu, là một hy lễ dâng lên Chúa Cha, cũng là sự tự hiến cho loài người chúng ta, trở nên lương thực nuôi sống chúng ta. Chúa Giêsu “chết để cho chúng ta được sống”.
Trong Tin Mừng Gioan, Đức Giêsu, ngay từ những lời nói đầu tiên đã đặt mầu nhiệm Thập Giá trong tương quan trực tiếp với hình ảnh con rắn biểu tượng của Tội và Sự Dữ: Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.
Một bên là con rắn bị giương cao. Một bên là Đức Kitô được giương cao trên cây thập giá. Trong Cuộc Thương Khó, Đức Kitô sẽ tự nguyện thế chỗ cho con rắn.Theo Thánh Phaolô: Đức Giêsu tự nguyện trở nên “giống như thân xác tội lội” (Rm 8, 3) và Ngài “đồng hóa mình với tội” (2Cr 5, 21; Gl 3, 13). Tội có bản chất là ẩn nấp, khó nắm bắt, giống như con rắn, nhưng đã phải hiện ra nguyên hình nơi thân xác nát tan của Đức Kitô: “tội để lộ chân tướng và cho thấy tất cả sức mạnh tội lỗi của nó” (Rm 7,13). Thập Giá Đức Kitô mặc khải cho loài người hình dạng thật của Tội. Chính vì thế mà trong Tin Mừng theo thánh Máccô, Đức Giêsu dạy, (chứ không phải báo trước) cho các môn đệ về cuộc Thương Khó của Người (Mc 8, 31).
Chúng ta được mời gọi nhìn lên Đức Kitô chịu đóng đinh trên Thánh giá để nhìn thấy:
Thân thể nát tan của Người vì roi vọt, kết quả của lòng ghen ghét, của lòng ham muốn, của sự phản bội, của sự bất trung, và của những lời tố cáo, lên án vô cớ, của vụ án gian dối.
Đầu đội mạo gai của Người, tượng trưng cho những lời nhạo báng, diễu cợt trên ngôi vị; chân tay của Người bị đinh nhọn đâm thủng và ghim vào giá gỗ; hình ảnh này cho thấy con người đã đánh mất nhân tính, và hành động theo thú tính; và cạnh sườn của Người bị đâm thủng, thấu đến con tim. Sự Dữ luôn đi đôi với bạo lực; và bạo lực luôn muốn đi tới tận cùng, là hủy diệt. Nhưng đồng thời cũng ở nơi đây, trên Thập Giá, tình yêu, lòng thương xót, sự thiện, sự hiền lành và cả sự sống nữa, của Thiên Chúa cũng đi tới tận cùng!
- Tại sao “nhìn lên” có khả năng chữa lành?
Theo lời của Đức Chúa, Môsê đã treo một con rắn bằng đồng lên cột gỗ và ai nhìn lên thì được chữa lành. Hình phạt bị rắn độc cắn là rất nặng nề, còn ơn chữa lành thật nhẹ nhàng: nhìn lên thì được sống.
Nhìn lên Đức Kitô chịu đóng đinh: “Đấng họ đã đâm thâu” (Ga 19, 37) với lòng tin chúng ta đón nhận ơn tha thứ và được chữa lành.
Thánh giá Đức Kitô chịu đóng đinh được các giáo phụ gọi là Cây Sự Sống, vì đã mang đến cho nhân loại Sự Sống của Thiên Chúa.
Thánh Giá mang lại cho nhân loại Ơn Tha Thứ của Thiên Chúa. Sự bất tuân của Adam đã mang đến án phạt và sự chết cho toàn thể nhân loại. Thì giờ đây, sự vâng phục của Chúa Giêsu mang lại Ơn Tha Tội của Thiên Chúa cho toàn thể nhân loại (bài đọc 2). Vì tình yêu vâng phục của Chúa Giêsu đối với Chúa Cha, vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá, Chúa Cha đã tha hết mọi tội lỗi cho nhân loại. Ơn tha thứ đã được ban một cách tràn đầy và cho mọi người, không trừ một ai. Ơn Tha Thứ ấy phát xuất từ Tình Yêu của Thiên Chúa Cha. Tình Yêu lớn hơn tội lỗi. Tình Yêu khỏa lấp muôn vàn tội lỗi. Chúa Giêsu chịu đóng đinh và chịu chết trên thập giá biểu lộ Gương Mặt đích thực của Thiên Chúa Cha giàu lòng thương xót.
Thánh Giá mạc khải Tình Yêu của Chúa Giêsu đối với Chúa Cha và đối với nhân loại chúng ta. Chúa Giêsu yêu mến Chúa Cha đến nỗi sẵn sàng hy sinh mọi sự vì Chúa Cha, dâng hiến sự sống mình lên cho Chúa Cha. Thánh Giá cũng biểu lộ Tình Yêu của Chúa Giêsu đối với chúng ta: “không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của kẻ thí mạng sống vì những người mình yêu”.
Thánh Giá đã in sâu và gắn chặt với Chúa Giêsu Kitô. Ngay cả sau khi Chúa sống lại vinh quang, các vết thương khổ nạn thập giá vẫn hiển hiện, vẫn không bị xóa nhòa. Thánh Giá Chúa Kitô xuyên qua thời gian và hiện diện trong mỗi giây phút cuộc đời chúng ta. Sự hiện diện ấy làm thay đổi tất cả.
Tôn vinh Thánh Giá là để chúng ta yêu mến và tôn thờ Chúa Cứu Thế. Thánh Gioan Maria Vianney đã nói: “Thánh giá là quyển sách cao siêu nhất… Chỉ có những ai yêu mến, nghiền ngẫm quyển sách này, những người đó mới thật sự là người thông thái“. Thánh giá Chúa Giêsu là quyển sách cao siêu nhất, bởi vì, đó là dấu chứng cao cả nhất của Tình Yêu. Từ một khí cụ độc ác đê hèn nhất của con người đã có thể nghĩ ra để hành hạ người khác, Chúa Giêsu đã biến nó thành dấu chứng của Tình Yêu: Tình Yêu vâng phục đối với Chúa Cha và Tình Yêu dâng hiến cho nhân loại…
Trong xã hội tiêu thụ và hưởng thụ ngày nay, bóng tối của quyền lực, tiền của, danh vọng, lạc thú đang che mờ bóng thánh giá. Con người đang lao mình vào bóng tối bằng mọi giá. Xã hội hôm nay cần phải được ánh sáng của Thánh Giá soi dẫn. Từ Thánh Giá Ðức Kitô, tình thương chúc phúc thế gian, sự sống chan chứa cho lòng người. Suy tôn Thánh Giá chính là suy tôn tình yêu, sự sống của Chúa Kitô.
14. Suy tôn Thánh Giá
(Biên dịch: Nhóm Bạn Đường Linh Thao – Nguồn: https://dailyscripture.servantsoftheword.org/readings/2018/sep14.htm)
SUY NIỆM
1/ Chúa Giêsu đã đến để hợp nhất đất với trời và nâng đỡ những người ở trần gian lên với vinh quang của Người.
Chúa Giê su đã dùng hình ảnh ông Môsê giương cao con rắn đồng trong sa mạc nhằm cứu thoát dân chúng khỏi sự chết, để “báo trước” cái chết sắp xảy đến với chính Người; lúc đó, Người sẽ “bị treo” trên cây thập tự ở đồi Canvê. Nhưng không giống như hình ảnh con rắn đồng được giương cao nơi hoang địa, cái chết đau thương của Đức Giêsu trên thập tự biểu dương sức mạnh, mang lại chiến thắng huy hoàng, cứu thoát chúng ta ra khỏi mọi tội lỗi và án phạt đời đời.
Chúa Giêsu đã gánh lấy mọi tội lỗi trần gian và mang lên thập giá, để sự Phục Sinh của Người đem lại cho chúng ta một đời sống mới dồi dào ân sủng trong Chúa Thánh Thần. Nhờ vậy, ta được tái sinh và được đón nhận làm con Thiên Chúa, cùng chung hưởng niềm vui với Người.
2/ Bằng chứng tình yêu của Thiên Chúa cho chúng ta
Không có bằng chứng nào về tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta to lớn hơn cho bằng việc Chúa Cha sai chính Con Một yêu dấu của Ngài đến thế gian trở nên một với chúng ta trong bản tính loài người, để giải thoát chúng ta khỏi sự bạo tàn, kéo chúng ta thoát khỏi nô lệ của tội lỗi và bóng đêm của sự chết.
Sự hy sinh của Đức Giê-su là hành động của tình yêu cho đi không mong được đáp trả, Chúa Giê-su hoàn toàn hiến mạng sống mình vì lòng vâng phục thánh ý Chúa Cha và để cứu lấy phần rỗi linh hồn của chúng ta. Sự hy sinh của Người trên thập giá vừa là lễ toàn thiêu dâng lên Thiên Chúa, vừa là lễ tế đền tội cho thế gian.
Thánh Gioan tông đồ nói cho chúng ta biết tình yêu Thiên Chúa không có giới hạn bởi tình yêu đó không có biên giới và bao bọc hết mọi loài thọ tạo (Ga 3,16). Tình yêu không giới hạn của Ngài không chỉ dành riêng cho một quốc gia đơn lẻ hay cho nhóm người được chọn lựa. Tình yêu của Ngài không biên giới bởi vì nó ôm trọn lấy cả thế gian và từng cá nhân “được tạo dựng giống hình ảnh Ngài”. Thiên Chúa là người cha yêu thương chúng ta vô bờ, Ngài sẽ không nghỉ ngơi cho tới khi những đứa con đi lạc trở về nhà với Ngài. Thánh Âu tinh đã nói: “Thiên Chúa yêu từng người chúng ta như thể chỉ có một mình ta để Ngài yêu mà thôi.”
3/ Tình yêu Thiên Chúa được bén rễ trong sự thật và lòng thương xót
Thiên Chúa ban cho chúng ta sự tự do để chọn lựa. Chúng ta có quyền yêu bóng tối của tội lỗi và hoài nghi, hoặc chúng ta có thể yêu thích ánh sáng của sự thật và lòng thương xót. Nếu tình yêu của chúng ta được soi sáng bởi sự thật và lòng thương xót, chắc hẳn chúng ta sẽ được dẫn đến sự lựa chọn là Thiên Chúa và yêu mến Người trên hết mọi sự. Những gì chúng ta thể hiện qua niềm yêu thích sẽ cho thấy những chọn lựa của chúng ta.
Bạn có yêu mến Thiên Chúa là Đấng tuyệt đối tốt lành trên hết mọi sự không? Bạn có tìm kiếm Thiên Chúa để đặt Ngài trên tất cả: tư tưởng, bận tâm, chọn lựa và hành động của bạn không?
4/ Thiên Chúa đặt để nơi chúng ta sự tự do để yêu và phục vụ tha nhân
“Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta” (Rm 5,5). Bạn có để cho tình yêu của Thiên Chúa thanh tẩy tâm hồn bạn và cách bạn đối xử với người khác không? Bạn có để cho tình yêu ấy biến đổi tâm trí và lối suy nghĩ áp đặt lên người khác của bạn hay không? Bạn có để cho tình yêu Thiên Chúa chinh phục mọi đam mê phóng túng, nghiện ngập khiến bạn rơi vào vòng xoáy của tội lỗi không?
Chúa Thánh Thần đã ban cho chúng ta bảy ân sủng thiêng liêng của Người: khôn ngoan, hiểu biết, lo liệu, sức mạnh, thông minh, đạo đức và lòng kính sợ Thiên Chúa, để chúng ta có thể sống như Chúa đã sống, biết phục vụ tha nhân và có lòng thương xót như Ngài. Bạn có khao khát “sự sống mới” trong Thần Khí không?
Lạy Cha đầy tình thương, nhờ cái chết đau thương của Con Cha là Chúa Giêsu Kitô đã mang lại sự sống đời đời cho chúng con. Xin lấp đầy chúng con bằng Thần Khí Cha, để chúng con có thể bước đi trong tự do và hân hoan như một người thừa kế gia nghiệp đời đời của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen.
15. Học yêu Thánh Giá
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Tình cờ tôi nghe bài hát “học yêu Thánh Giá”, từ web: mp3.zing.vn/bai-hat/Hoc-yeu-Thanh-Gia.
Lời ca ngắn gọn mà sâu sắc, giai điệu nhe nhàng cho tôi cảm nhận sâu lắng về tình yêu Thánh Giá Chúa Giêsu.
Thánh Giá là chữ T.
Người nằm giang tay chữ Y.
Là tình yêu, yêu đến tận cùng.
Yêu nhân gian chiều ngang.
Yêu đời mình chiều sâu.
Yêu Chúa là chiều cao.
Để tình yêu luôn mãi nhiệm mầu.
Thập giá là chữ T được tạo nên do hai thanh gỗ. Thanh nằm tượng trưng cho sự chết và sự yếu đuối trải rộng. Thanh đứng tượng trưng cho sự sống vươn cao. Ý mụốn của con người là thanh nằm. Y muốn của Thiên Chúa là thanh đứng. Trên thập giá, Chúa Kitô chịu đóng đinh dang tay thành chữ Y. Tình yêu là điểm giao thoa giữa thanh nằm của sự chết và thanh đứng của sự sống. Cả ba chiều kích ngang, sâu, cao của thập giá đều quy tụ nơi tình yêu của Đấng chịu đóng đinh. Chúa Kitô đã đón nhận cái chết trên thập giá vì yêu thương nhân loại.
Trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giêsu coi cái chết của mình như là một sự tôn vinh. Tôn vinh Tình Yêu của Chúa Cha, một Tình Yêu vô bờ bến, một Tình Yêu mãnh liệt đến nỗi Chúa Cha “đã ban Con Một cho thế gian, để những ai tin vào Người Con thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời” (Ga 3,16). Đồng thời cũng là tôn vinh Tình Yeu của Chúa Giêsu, một Tình Yêu đã hy sinh mạng sống vì những người mình yêu, là một hy lễ dâng lên Chúa Cha, cũng là sự tự hiến cho loài người trở nên lương thực nuôi sống chúng ta.
Thánh Phaolô nhấn mạnh sự tương phản chưa từng thấy trong mầu nhiệm Thập giá. Sự hạ mình sâu thẳm của Đức Giêsu Kitô “Đấng vốn dĩ là Thiên Chúa, đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế Thiên Chúa đã siêu tôn Người, tặng ban Danh hiệu vượt trên mọi Danh hiệu. Và khi nghe Danh Thánh Chúa Giêsu, mọi gối phải bái quỳ để tôn vinh Chúa Cha và tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa” ( Pl 2,6-11).
Theo cái nhìn của Phaolô cũng như của Gioan, Chúa Giêsu chịu đóng đinh cũng chính là Chúa Giêsu được tôn vinh. Đó là sự tôn vinh Tình Yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa, và Tình Yêu ấy đã biểu lộ rõ ràng nhất nơi Thập giá Chúa Kitô. Không nơi nào Tình Yêu của Thiên Chúa được biểu lộ trọn vẹn như nơi “con người Chúa Giêsu chịu đóng đinh”.
Ca nhập lễ ngày lễ Suy Tôn Thánh Giá đã mượn lời của Thánh Phaolô trong thư Galat 6,14 để hân hoan hát lên: “Niềm vinh dự của chúng ta chính là Thập Giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Nhờ Người, chúng ta được cứu độ, được sống và được phục sinh; chính Người cứu độ và giải thoát chúng ta”.
Kinh Tiền Tụng đã chú giải: “Thật vậy, xưa vì cây trái cấm, loài người chúng con phải tử vong, nay nhờ cây thập giá lại được sống muôn đời; và ma quỷ xưa chiến thắng nhờ cây trái cấm nay thảm bại vì cây thập giá của Đức Kitô, Chúa chúng con”.
Thánh Bonaventura viết: “Thánh Giá là cây tòan hảo, được thánh hóa bởi Máu Chúa Kitô, mang đầy trái thơm ngon“. Cây Thánh giá còn được phong phú hóa như là một loài cây quý hiếm và tươi thắm diễm lệ, hoa trái tràn đầy trong lời trong kinh ‘A Rất Thánh Giá’: “Khen cây thánh giá ở giữa rừng phàm, nên giống báu lành, nên cây sang trọng, nên đơn linh nghiệm, nên tàu vượt qua biển hiểm thế nầy….Cây thánh giá tốt lành rất mực dìm dà êm mát, bóng che thiên hạ khỏi chốn hỏa hình. Cội rễ, nhành lá, búp bông, hoa quả. Từ xưa đến nay, cây nào dám ví bằng cây thánh giá, từ cây thánh giá chở mình Chúa Cả đóng đinh trên cây thánh giá”.
Tại bãi biển Copacabana tối thư sáu 26-7-2013 đi Đàng Thánh Giá, Đức Thánh Cha Phanxicô diễn giảng Thập giá là: “Một tình yêu tuyệt vời khi đi vào tội lỗi của chúng ta và tha thứ cho nó, đi vào đau khổ của chúng ta và cho chúng ta sức mạnh để chịu đựng. Đó là một tình yêu đi vào cái chết để chiến thắng nó và cứu vớt chúng ta. Thập giá của Chúa Kitô chất chứa tất cả tình yêu của Thiên Chúa, lòng thương xót vô biên của Ngài. Đây là một tình yêu mà chúng ta có thể đặt vào đó tất cả niềm tin của chúng ta, nơi chúng ta có thể tin tưởng. Các bạn trẻ thân mến, chúng ta hãy phó thác cho Chúa Giêsu, chúng ta hãy phó thác vào Người một cách trọn vẹn! (x. Ánh Sáng Đức Tin, 16). Chỉ trong Chúa Kitô chịu đóng đinh và phục sinh, chúng ta mới có thể tìm thấy phần rỗi và ơn cứu độ. Với Ngài, sự dữ sự đau khổ và cái chết không còn quyền thế, bởi vì Ngài cho chúng ta hy vọng và sự sống: Ngài đã biến Thập gia từ một công cụ của sự thù ghét, sự thất bại và sự chết thành một dấu chứng của tình yêu, sự khải hoàn và sự sống”.
Đức Thánh Cha nhắc lại sự kiện vào cuối Năm Thánh Cứu Độ 1984, Đức Chân Phước Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II đã muốn tín thác Thập Giá Chúa cho người trẻ và ngài nói: “Các con hãy đem Thánh Giá vào trong thế giới như dấu chỉ tình yêu thương của Chúa Giêsu đối với nhân loại, và loan báo cho tất cả mọi người rằng chỉ nơi Chúa Kitô chết và phục sinh, mới có sự cứu rỗi và ơn cứu độ” (Diễn văn với giới trẻ, 22 tháng 4 năm 1984). Kể từ đó, Thập Giá đã rong ruổi qua mọi đại lục, và đi qua các thế giới khác nhau nhất của cuộc sống con ngươi, hầu như được thấm nhập bởi các tình trạng sống của biết bao nhiêu người trẻ đã trông thấy và đã mang Thập Giá đó. Không có ai đụng tới Thập Giá Chúa Giêsu mà không để lại một cái gì đó của chính mình, và không đem một cái gì đó của Thập Giá Chúa Giêsu vào trong cuộc sống của mình.
Thánh Giá là sự khôn ngoan và quyền năng của Thiên Chúa. Bởi vì “Sự điên rồ nơi Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn loài người, và sự yếu đuối nơi Thiên Chúa thì mạnh sức hơn loài người” (1Cr 1, 24 -25).Thánh Giá đã trở thành dấu chỉ của tình yêu hy vọng và sự sống. Thánh Giá là biểu tượng của Tình Yêu cứu độ. Thánh giá là niềm tự hào và vinh quang của người tín hữu.Thánh Phaolô có một ước muốn: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô” (Gl 6,14).
Chúa Giêsu chết trên thập giá, muốn minh chứng rằng Người yêu thế gian hơn yêu chính mình. Nơi thập giá,Chúa Giêsu chứng tỏ tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta là một tình yêu ở dạng thức cao nhất:Tình Yêu đến mức tận cùng, một Tình Yêu tự hiến trọn vẹn của Thiên Chúa. Yêu là hiến tế, là hy sinh chính mình. Hiến dâng chính mình vì thiện ích của kẻ khác. Chúa Giêsu hiến dâng chính mình trên thập giá như là sự đền bù vì ơn cứu độ nhân loại.
Thánh Giá đã in sâu và gắn chặt với Chúa Giêsu Kitô. Ngay cả sau khi Chúa sống lại vinh quang, các vết thương khổ nạn thập giá vẫn hiển hiện, vẫn không bị xóa nhòa. Thánh Giá Chúa Kitô xuyên qua thời gian và hiện diện trong mỗi giây phút cuộc đời chúng ta. Sự hiện diện ấy làm thay đổi tất cả.
Chúng ta yêu mến, tôn thờ Chua Giêsu trên Thánh Giá.Trong xã hội tiêu thụ và hưởng thụ ngày nay, bóng tối của quyền lực, tiền của, danh vọng, lạc thú đang che mờ bóng thánh giá. Con người đang lao mình vào bóng tối bằng mọi giá. Xã hội hôm nay cần phải được ánh sáng của Thánh Giá soi dẫn. Từ Thánh Giá Đức Kitô, tình thương chúc phúc thế gian, sự sống chan chứa cho lòng người. Suy tôn Thánh Giá chính là suy tôn tình yêu, sự sống của Chúa Kitô.
16. Suy tôn Thánh Giá
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Cô Ann Thomas có kể lại câu chuyện ý nghĩa.
Hôm đó, cô và Betty ghé một sạp bán đồ phế thải. Ann vừa lôi ra một khay đồ linh tinh, Betty bước tới hỏi:
– Có đồ gì đáng giá không?
Ann trả lời:
– Không, toàn là đồ năm vố thôi.
Đoạn cô bước sang bên cạnh nhường cho Betty vào xem. Betty chăm chú nhìn vào đống lặt vặt, nhặt lên một cây thánh giá cũ kỹ han rỉ và nói:
– Thật khó mà tin được. Tôi đã tìm được đồ quý: cây thánh giá này làm bằng chất bạc xưa.
Cô bạn của Ann bèn về nhà lau chùi và đánh bóng cây thánh giá. Đây quả là một vật quí. Về sau, đứa con trai bảy tuổi của Betty tên Bobby cầm cây thánh giá lên, cung kính ngắm nghía hồi lâu. Bỗng nhiên cậu bé oà lên khóc. Betty liền hỏi:
– Con sao vậy?
Bobby nói:
– Con không cầm lòng được khi thấy Chúa Giêsu bị treo trên thập giá.
***
Ba người nhìn vào cây thập giá, có ba thái độ khác nhau: một người dửng dưng cho là đồ ve chai, người khác thích thú vì khám phá ra vật quí báu, còn người khác nữa lại xúc động rơi lệ vì nhận ra Chúa Giêsu chịu đau đớn trên thập giá.
Thập giá là gì?
Thập giá (tức là cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu) là khúc xương khó nuốt nhất đối với các môn đệ. Ba lần Chúa báo trước cuộc tử nạn. Cả ba lần họ đều không hiểu và không chấp nhận. Các môn đệ nghe nói đến thập giá thì nổi da gà. Thập giá gợi lên một cây khổ giá trần trụi. Thập giá gợi lên hình ảnh một con người quằn quại, tuyệt vọng trong đau đớn, nhục nhã nỗi ê chề, lơ lửng giữa trời và đất, hấp hối giữa sống và chết, bị nhiếc mắng trước những cái nhìn thù ghét và khinh khi, bị chê bai trước những con mắt tò mò và dửng dưng. Phêrô đã từng run rẩy can ngăn Chúa Giêsu đừng đi vào con đường thập giá. Các tông đồ rùng mình sợ hãi khi Chúa Giêsu nói đến thập giá.
Nếu thập giá là biểu tượng của đau khổ thì Đấng chịu đóng đinh đã chiến thắng đau khổ. Chúa Kitô đã tạo ra sự khác biệt hoàn toàn giữa thập giá và kẻ bị đóng đinh. Khi nhận lấy thập giá, Chúa Kitô đã dùng tình yêu biến đau khổ thành niềm vui. Tình yêu làm cho thập giá trở thành Thánh Giá.
Những lời dạy của Chúa Giêsu sau ba lần loan báo cuộc khổ nạn giải thích ý nghĩa của tình yêu Thánh Giá.
– Lần thứ nhất, Chúa phán: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình vì Ta và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Mc 8,35).
– Lần thứ hai, Chúa dạy: “Ai muốn làm người đứng đầu thì phải làm người rốt hết và làm người phục vụ mọi người” (Mc 9,34).
– Lần thứ ba, Chúa dạy: “Con Người đến không phải để cho người ta phục vụ nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” ( Mc 10,45).
Thánh Giá biểu tượng cho cuộc chiến đấu của Chúa Giêsu và cũng là biểu tượng cho tình yêu mạnh hơn sự chết và cho sự Thiện sẽ giành chiến thắng cuối cùng trên sự Ác.
Thánh Giá là cánh cổng dẫn vào sự sống, thất bại chuyển thành chiến thắng, sự sống bị tước đoạt trở thành sự sống viên mãn, ai đánh mất mạng sống mình sẽ tìm gặp lại sự sống, ai can đảm chết cho Chúa Kitô sẽ được sống muôn đời.
Trong đêm Vọng Phục Sinh, Cây Nến Phục Sinh là tâm điểm của cử hành Phụng Vụ. Đức Giêsu Kitô đã ra khỏi mồ tối tăm, đã chiến thắng thần chết, và trở thành Nguồn Ánh Sáng, Sự Sống cho nhân loại. Để đánh mốc thời gian lịch sử cứu độ, trong đêm ấy, linh mục chủ tế khắc ghi trên nến với những dấu chỉ như sau:
– “Đức Kitô là một, (vẽ đường dọc)
– Hôm qua cũng như hôm nay, (Vẽ đường ngang)
– Là Alpha và là Omega, (Viết chữ Alpha trên cây Thánh Giá)
– Nghĩa là Khởi nguyên và tận cùng, (Viết chữ Omega ở phía dưới Thánh Giá)
– Người làm chủ thời gian, (Viết số đầu của năm đó bên góc trái phía trên Thánh Giá).
– Và muôn thế hệ, (Viết số thứ hai của năm nơi góc phải phía trên Thánh Giá).
– Vạn Tuế Đức Kitô, Đấng vinh hiển quyền năng, (Viết số thứ ba của năm góc trái phía dưới Thánh Giá).
– Vạn vạn tuế. Amen, (Viết số thứ tư của năm nơi góc trái phía dưới Thánh Giá).
Với năm hạt hương biểu thị năm dấu đinh của Chúa Giêsu khổ nạn được gắn trên cây nến Phục Sinh, gắn trên mỗi góc của Thánh Giá, vừa gắn vừa đọc:
– Vì năm vết thương
– Chí thánh và vinh hiển.
– Xin Chúa Kitô
– Gìn giữ
– Và bảo vệ chúng ta.” (Sách Lễ Roma).
Khi ghi dấu năm cứu độ chung quanh trục cây Thánh Giá, Giáo hội cũng ghi khắc vào đó cả khối tình tri ân của những năm hưởng nhờ hồng ân cứu độ trong lịch sử thời gian. Thánh Giá nối trời với đất trong không gian mênh mông. Thánh Giá là điểm thâu họp lịch sử dọc theo dòng thời gian. Thánh Gía bao gồm hai chiều kích ấy. Đức Kitô là trung tâm điểm của không gian và thời gian.
Hình Thánh Giá viết trên Cây Nến Đêm Vọng Phục Sinh, có ý nghĩa thâu họp vạn vật, mang ý nghĩa vũ trụ. Thánh Irénée viết: “Ngài đã đến dưới dạng hữu hình với những gì thuộc về Ngài, Ngài đã trở thành xác thịt và xác thịt ấy đã được treo lên cây Thập tự để bằng cách ấy thâu họp vào mình cả vũ trụ”. Thánh Giá trở thành trục thế giới. Thánh Cyrille ở Jérusalem viết: “Chúa Trời đã dang hai tay trên cây Thập Tự để ôm lấy bờ cõi Vũ trụ và vì vậy núi Golgotha là trục thế giới”. Trên trục vũ trụ ấy có treo lên một người Con của Thiên Chúa. Thánh Phaolô thì diễn tả trục này: “Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Kitô” (Ep 1, 10).
Là Trục của thế giới, Thánh Giá có trung tâm điểm là Đức Giêsu Kitô. Nhìn theo chiều kích cánh chung, thời gian sau cùng nhân loại sẽ chịu sự phân chia, bên tả hoặc bên hữu. Đó là thời gian của sự phán xét. Trục còn có nghĩa là mốc tuyển chọn, những người được tuyển chọn và những người tự mình đánh rơi. Thánh Phaolô nhìn trục này như sự phân chia Lề Luật và Đức Tin, phân chia tâm hồn con người thành hai phần, nhục thể và Thần Khí, để rồi cho thấy sự thống nhất của phân chia là việc hóan cải, tái sinh, công chính hóa, lề luật, nhờ vào niềm tin cuộc khổ nạn của Đức Giêsu trên Thánh Giá.
Là trục của thế giới, nhìn theo chiều kích cánh chung, Thánh Giá biểu trưng là chiếc thang, một chiếc thang đưa con người đi lên tham dự vào đời sống của Thiên Chúa. Một chiếc thang để đất trời không còn xa nhau. Chiếc thang nhiệm mầu mà thánh Nữ Perpétue thấy trong ngày chịu tử đạo: “Tôi nhìn thấy một cái thang bằng đồng thanh, cao khác thường, vươn tới tận trời, nhưng hẹp tới mức chỉ có thể đi lên từng người một: Hai bên thang tua tủa các khí giới: Kiếm, giáo, móc câu, gươm, như vậy mà nếu người nào lên mà lơ đãng, không chú ý nhìn lên trên cao, sẽ bị tan nát thịt da, để lại những mảng thịt mắc vào những khí giới đó. Và bên dưới cái thang có một con rồng to lớn dị thường, nằm đó chăng bẫy những ai đạp chân lên thang, làm cho họ khiếp sợ không dám trèo lên. Còn tôi, khi tôi đặt chân lên trên bậc thang thứ nhất, tôi đã đạp lên đầu con rồng đó, thế là tôi đi lên được và nhìn thấy một khu vườn rộng mênh mông”. Chiếc thang có những bậc của thử thách. Niềm an bình sẽ xuất hiện khi bước lên bậc thang thứ nhất. Và cứ thế theo từng bậc niềm an bình sẽ được gia tăng cho đến khi hòan tòan ở trên đỉnh thang. Muốn đi lên cao, cần rũ bỏ, rũ bỏ làm cho nhẹ nhàng thanh thóat trên đường đi lên. Đó cũng là thời gian dành cho việc cầu nguyện và ăn chay thực thi đức ái để trút bỏ mỗi ngày trong cuộc sống.
Thánh Giá là sự khôn ngoan và quyền năng của Thiên Chúa. Bởi vì “Sự điên rồ nơi Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn loài người, và sự yếu đuối nơi Thiên Chúa thì mạnh sức hơn loài người” (1Cr 1, 24 -25).Thánh Giá đã trở thành dấu chỉ của tình yêu hy vọng và sự sống.
Thánh Phaolô có một ước muốn: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô” (Gl 6,14).
Đức Cha Lambert de la Motte sáng lập Dòng Mến Thánh Giá. Chắc hẳn ngài đã cảm nghiệm sâu sắc về Cuộc Khổ Nạn của Đức Kitô nên mới có ý tưởng này! Dòng Mến Thánh Giá là Hội Dòng chọn Đức Kitô chịu đóng đinh là đối tượng duy nhất của tình yêu của lòng trí. Kể cũng thật lạ! Không chọn cái gì nhẹ nhàng mà lại chọn Đấng chịu đóng đinh trên Thánh Giá, phải vác phải mang ách nữa chứ! Ngài có thành công gì đâu trước mắt người đời! Có nhẹ nhàng gì đâu trước mắt trần thế! Thế nhưng, Đấng chịu đóng đinh là hồng ân cứu rỗi. Chọn con đường theo Chúa là đi vào con đường hẹp. Một chọn lựa khôn ngoan vì đã chọn chính Đấng Cứu Độ. Thánh Giá là đỉnh cao ơn cứu độ. Mến Thánh Giá là tình yêu cao nhất của đời dâng hiến. Từ đó nẻo đường cứu độ mở ra cho bản thân và có khả năng giúp cho những người khác tiến vào nẻo đường ấy.
Thánh Giá đã in sâu và gắn chặt với Chúa Giêsu Kitô. Ngay cả sau khi Chúa sống lại vinh quang, các vết thương khổ nạn thập giá vẫn hiển hiện vẫn không bị xóa nhòa. Thánh Giá Chúa Kitô xuyên qua thời gian và hiện diện trong mỗi giây phút cuộc đời chúng ta. Sự hiện diện ấy làm thay đổi tất cả.
Trong xã hội tiêu thụ và hưởng thụ ngày nay, bóng tối của quyền lực, tiền của, danh vọng, lạc thú đang che mờ bóng thánh giá. Con người đang lao mình vào bóng tối bằng mọi giá. Xã hội hôm nay cần phải được ánh sáng của Thánh Giá soi dẫn. Từ Thánh Giá Ðức Kitô, tình thương chúc phúc thế gian, sự sống chan chứa cho lòng người. Suy tôn Thánh Giá chính là suy tôn tình yêu, sự sống của Chúa Kitô.
17. Từ thập giá đến Thánh Giá
(Suy niệm của Lm. Vũ Xuân Hạnh)
Suy niệm lễ Suy tôn Thánh Giá, tôi nghe Chúa nói với tôi: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta” (Mc 8, 34). Thập giá đâu phải chuyện đùa, đâu phải cứ muốn vác là kê vai vác. Muốn vác phải bỏ mình! Chính vì thế, lời ấy trở thành một thử thách, còn hơn thế, là một thách thức lớn trong đời ta. Từ bỏ đã khó, từ bỏ chính mình lại càng khó. Nhưng Chúa không dừng ở đó, Người mời gọi ta đi xa hơn để theo Người: Từ bỏ chính mình vác thập giá. Lời Chúa quả là một đòi hỏi quyết liệt.
Suy nghĩ về lời mời gọi “Ai muốn theo Ta…” như thế, tôi lại đọc sứ điệp Giới trẻ lần thứ XV. Ngay từ đầu số 1 của sứ điệp, bằng những lời lẽ của một người cha đầy tình cảm, thân thiện và trìu mến, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II viết cho các bạn trẻ: “Các bạn trẻ thân mến, cách đây 15 năm (trong những ngày Đại Hội Giới Trẻ lần thứ I năm 1985), cha đã trao cho các con cây Thánh Giá lớn bằng gỗ và mời gọi các con đem đi khắp thế giới như DẤU CHỈ TÌNH YÊU của Chúa Giêsu đối với nhân loại, và để loan báo cho mọi người rằng chỉ nơi Đức Giêsu tử nạn và phục sinh mới có ơn cứu độ và cứu chuộc, kể từ ngày đó, nhờ những cánh tay và những tâm hồn quảng đại, cây Thánh Giá này đã trải qua một cuộc hành hương dài không ngưng nghỉ qua các lục địa, hầu chứng tỏ rằng Thanh Giá luôn đồng hành với người trẻ và người trẻ luôn đồng hành với Thánh Giá”.
“DẤU CHỈ TÌNH YÊU”! Đúng vậy, có hình tượng nào là biểu tượng của tình yêu lớn lao bằng Thánh Giá, có lý lẽ nào là bằng chứng hùng hồn của tình yêu cho bằng Thánh Giá. Chỉ có Thánh Giá mới là dấu chỉ tình yêu đúng nghĩa nhất, trọn vẹn nhất: Tình yêu của một người chết thay cho muôn người qua muôn thế hệ. Hơn thế nữa, tình yêu của một vì Thiên Chúa quyền năng đã làm người chết thay cho loài người.
Vì thế, chỉ có thánh giá mới là lẽ sống và hướng sống mà con người phải học lấy để sống và yêu. Cũng chính vì thế, chỉ có Thánh Giá, không chỉ cây Thánh Giá của Đức Thánh Cha trao – đúng hơn, cây Thánh Giá ấy là biểu trưng cho một tình yêu Thánh Giá mà Chúa Kitô thắp lên trong lòng người – mới xứng đáng được các bạn trẻ lãnh nhận và mang đi khắp thế giới, loan báo cho mọi người: “Chỉ nơi Chua Kitô Tử nạn và Phục sinh mới có ơn cứu độ và cứu chuộc”.
Cũng vậy, chỉ có Thánh Giá Chúa Kitô, chỉ có tình yêu Thánh Giá Chúa Kitô thắp trong tâm hồn, mới đồng hành với người trẻ trên mọi nẻo đường cuộc sống, và người trẻ đồng hành với Thánh Giá để hô to trên khắp trần gian về một tình yêu Thánh Giá bằng lời và bằng đời chứng tá, thậm chí cả mạng sống để làm chứng tá. Hiểu lời Đức Thánh Cha như thế, tôi cũng muốn ngỏ với ban dù ở lứa tuổi nào: Tình yêu Thánh Giá là một tình yêu mà chúng ta có được nhờ lãnh nhận từ nơi Chúa Kitô. Tình yêu ấy phải được thắp trong cuộc đời bằng cả cuộc đời của bạn, của tôi. Nếu được Thánh Giá đồng hành, can đảm chấp nhận để Thánh Giá đồng hành và cùng đồng hành với Thánh Giá, ấy chính là lúc bạn và tôi đang hướng về Chúa Kitô để làm trọn lời mời gọi: “Ai muốn theo Ta hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta”.
Bởi vậy, dẫu Lời Chúa là một đòi hỏi quyết liệt, và quyết liệt đến mức tưởng như vượt quá sức, thì Giáo Hội một khi lãnh nhận Lời ấy, qua vị Cha chung, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, vẫn tiếp tục mời gọi ta tháp nhập thap giá cuộc đời mình vào Tình yêu của Thánh Giá Chúa Kitô để không chỉ Thánh Giá Chúa Kitô, mà chính ta từ nay phải là dấu chỉ của tình yêu Thánh Giá sau khi được tình yêu Thánh Giá Chúa Kitô thánh hóa. Trở nên dấu chỉ, ta sẽ nói cho mọi người rằng: Dẫu lời mời gọi bước theo Chúa có quyết liệt đến đâu, ta vẫn có thể vượt qua, vẫn có thể trung thành, miễn là ta chấp nhận đức tin, chấp nhận phó thác chính mình nơi tình yêu Thánh Giá Chúa Kitô. Chỉ có đức tin mới làm cho ta đủ sức gánh lấy thập giá cả đời mình. Đức tin chính là đôi mắt của tâm hồn để nhìn Chúa Kitô đi trước trên đường thập giá mà bước theo sau.
Nếu hiểu thập giá là nỗi chông chênh, là nước mắt, là bệnh tật, là đớn đau trong đời, là tình yêu vắng bóng và cô đơn, buốt giá lên ngôi…, thì dẫu cho người có đức tin hay không có đức tin, đều phải chấp nhận vác lấy trong từng ngày sống của mình. Nhưng nếu toi tin, tôi sẽ yêu mến cây thập giá của đời mình hơn. Đức tin sẽ cho tôi cảm nhận thập giá dễ chịu hơn, vừa sức hơn. Nếu tôi tin, tôi sẽ hiểu rất rõ rằng, cùng với Chúa Kitô, Đấng đã dùng Thánh Giá để diễn tả tình yeu của Thiên Chúa, sẽ làm cho thập giá đời tôi thành Thánh Giá. Và thập giá cuộc đời chỉ là giới hạn, sẽ được tình yêu Thánh Giá của Chúa Kitô thánh hóa, để những gì chỉ là giới hạn trong cuộc đời mang lấy giá trị vĩnh cửu. Khi tin vững như thế, khi yêu mến Thánh Giá Chúa Kitô, và chấp nhận bước theo Người như thế, thái độ chấp nhận ấy, chính là câu trả lời cho lời mời gọi: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình…”.
Tắt một lời: Khi chấp nhan đồng hành cùng Thánh Giá, là đang hướng tới lời mời gọi của Chúa: “Ai muốn theo Ta…”. Nhưng khi lòng chấp nhận tin nơi tình yêu Thánh Giá và dám phó thác cho tình yêu Thánh Giá Chúa Kitô, để từng ngày sống ta bước đi với Người, để tình yêu Thánh Giá của Người thánh hóa thập giá đời ta, biến thập giá ấy thành Thánh Giá mang ơn cứu độ và cứu chuộc, lúc ấy ta không chỉ hướng tới lời mời gọi của Chúa nhưng là đang thực thi lời mời goi ấy. Vì lúc ấy chính là lúc ta chấp nhận vác Thánh Giá với Người cách dứt khoát nhất. Và khi chấp nhận vác Thánh Giá như thế, cũng chính là lúc ta chấp nhận từ bỏ mình cách triệt để nhất.
18. Lễ suy tôn Thánh Giá
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Đã là người, không ai tránh khỏi thập giá. Thập giá có thể làm tê liệt hoặc hủy hoại con người, nhưng nó cũng có thể là phương tiện giúp người ta nhận ra sự thực về chính mình, giúp người ta gần gũi và tùy thuộc Thiên Chúa hơn.
1) Thập Giá
Khi một người đang đi xe trên đường, gặp một cây lớn nằm vắt ngang; việc đưa chiếc xe vượt qua cản trở này là một vất vả với họ; cây nằm ngang đường đúng là “thập giá”. Tùy cây đó lớn nhỏ mà người ta có thể vượt qua chướng ngại đó hay không. Chuyện cái cây vắt ngang đường chỉ là một hình ảnh, “thập giá” cũng có thể là “cây” mà người ta đã ấn trên vai Đức Giêsu, và bắt Ngài vác ra gò Sọ, nơi mà chẳng ai muốn cho mình. Trên đường đời, có bao nhiêu cản trở vắt ngang; nó có thể là những bệnh tật, những thất bại trong đường công danh sự nghiệp, điều không được như ý trên đường tình duyên.
Thập giá đã hủy diệt nhiều người, nếu người ta không vượt qua được mà cũng không sẵn sàng chấp nhận thập giá. Có nhiều người cảm thấy bất hạnh khi gặp những bệnh nan y, thế nhưng cũng có những người chấp nhận bệnh hoạn, và vui sống trong hoàn cảnh của mình. Có những người mắc bệnh phong, nhưng vẫn vui trong tình trạng và hoàn cảnh của họ; họ còn lạc quan hơn nhiều người không mắc bệnh gì.
Vượt qua cái cây đổ ngang trên đường, là điều có thể làm được. Tránh khỏi thập giá người ta ấn trên vai như trường hợp Đức Giêsu bị dẫn trên đường đến gò Golgotha, là điều không thể. Có lúc người ta vượt qua thập giá, nhưng có lúc người ta phải chap nhận thập giá; chấp nhận thập giá cũng là một cách vượt qua thập giá. Đức Giêsu là người đã vượt qua thập giá bằng cách chấp nhận; và các Kitô hữu anh hùng tử đạo cũng là những người đã noi gương Đức Giêsu, vượt qua thập giá bằng cách chấp nhận; các ngài đã lãnh nhành thiên tuế.
2) Thập Giá của Đức Giêsu
Thời Đức Giêsu, người Do Thái sống dưới ách thống trị của người Roma, hình phạt chết treo thập giá là một điều khủng khiếp, một mối nhục. Người Roma không bị kết án chết trần truồng trên thập giá. Án thập giá chỉ dành cho những dân bị trị. Án thập giá là án ô nhục nhất giữa những hình phạt dành cho tội nhân. Đức Giêsu đã bị thi hành án ở gò Sọ, gần thành Yêrusalem, bên đường đi. Sở dĩ những người lãnh án bị hành hình nơi có người qua lại như thế, là nhằm răn dạy những người còn sống: nếu họ hành xử như vậy, họ cũng sẽ bị hình phạt như thế. Những người cam quyền mong rằng, khi người ta nhìn thấy cảnh khủng khiếp của những tội nhân tử hình như vậy, người ta sẽ khiếp sợ mà không phạm tội nữa.
Đức Giêsu đã bị chết treo thập giá giữa hai người trộm cướp. Ngài bị người ta liệt vào đồng hàng với những người tệ nhất trên đời. Hình phạt tử hình thập giá cho Ngài như cao điểm thập giá trong đời Ngài, tuy nhiên thập giá đã không thiếu trong suốt đời Đức Giêsu. Sinh trong một gia đình nghèo, thiếu điều kiện sống và ăn học, cũng là thập giá đối với nhiều người; sống trong một làng nghèo, với nhiều người, cũng là một thập giá. Khi đi rao giảng, Đức Giêsu đã bị nhiều người chống đối; Ngài bị người ta cho là người mat trí, một kẻ lộng ngôn phạm thượng, một kẻ thuộc phe quỷ vì lấy quyền của tướng quỷ mà trừ quỷ, một tội nhân. Bao nhiêu chống đối, bao nhiêu bất lợi trên đời: đó cũng là những thập giá đối với Đức Giêsu.
Đức Giêsu đã không bị hủy diệt bởi dư luận, bởi thế lực phàm trần. Người ta có thể vu oan giá họa cho Ngài, người ta có thể giết Ngài, nhưng người ta không thể bắt Ngài khuất phục. Ngài là con người tự do với tất cả: tự do với tiền bạc, tự do với dư luận khen chê, tự do với mọi thế lực hãm hại Ngài. Ngài vẫn cố sống cho ra người, trong mọi hoàn cảnh, và sống yêu thương. Tất cả những hoàn cảnh và thái độ của người ta đối với Ngài, vẫn không thay đổi được thái độ thẳm sâu của Ngài đối với mọi người: yêu thương. Ngài yêu thương tất cả con người, thông cảm với những giới hạn của con người, ngay cả đối với những người thù ghét và giết chết Ngài: “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng lầm chẳng biết”.
3) Thập giá tôi luyện con người
“Lửa thử vàng, gian nan thử đức”. Đường gian nan, sông khúc khuỷu, mới biết tay đua giỏi. “Ví thử đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai”. Con người ta lộ diện mình là ai, khi gặp những lúc gian nan sóng gió. Trước khi đưa một vật tưởng là vàng mà không phải là vàng thật vào lửa, người ta có thể lầm tưởng nó là vàng thật; nhưng một khi đưa nó vào lửa, lưa giúp người ta nhận ra sự thật: nếu là vàng thật nó sẽ không biến đổi, còn nếu là vàng giả thì nó sẽ biến đổi màu.
Thập giá giúp con người biết rõ về mình, biết mình là ai. Thập giá giúp mình nhận ra mình thật mong manh mỏng dòn, và cần Thiên Chúa giúp để có thể vượt qua những sóng gió chông gai trên đường đời. Thập giá, đối với những ai thuộc về Thiên Chúa, có thể giúp con người cậy dựa vào Thiên Chúa, tùy thuộc Thiên Chúa, gần gũi Thiên Chúa, thuộc trọn về Thiên Chúa hơn.
Thập giá không phải luôn luôn đến từ sự dữ, nhưng giả sử nếu nó do sự dữ thì con người vẫn chiến thắng sự dữ nhờ vào Thiên Chúa, như Đức Giêsu đã chiến thắng sự dữ nhờ Thiên Chúa. “Khi con người bị treo lên, Ta sẽ kéo mọi người lên với Ta”. Chính khi sự dữ giết được Đức Giêsu, thì lúc đó nó chiến bại. Thiên Chúa đã phục sinh Đức Giêsu. Thiên Chúa chiến thắng sự dữ. Những ai kết hiệp với Thiên Chúa, ở trong Thiên Chúa, thì sẽ chiến thắng sự dữ, vì Thiên Chúa chiến thắng sự dữ qua chính người đó.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1) Bạn có kinh nghiệm thập giá làm hủy hoại con người không? Xin chia sẻ.
2) Thập giá có khi nào làm người ta thăng hoa không? Xin bạn chia sẻ quan điểm và kinh nghiệm.
19. Chóp đỉnh của sự đau khổ!
(Suy niệm của P. Trần Đình Phan Tiến)
Kính thưa quý vị! Suy tư về Thánh giá là suy tư về cuộc khổ nạn của Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm Người. Vì thế, không ai có thể suy cùng, hiểu tận một mầu nhiệm quá lớn lao đối với nhân loại, là mầu nhiệm Thập giá.
Vâng! Bản thân Thập giá không có gì để suy tôn, nhưng chúng ta suy tôn về một mầu nhiệm của đau khổ, nơi đó Thiên Chúa muốn cứu độ nhân loại. Tại sao Thiên Chúa lại muốn cứu độ con người qua mầu nhiệm Thập giá? Thưa, chúng ta hãy so sánh hai vấn đề: ĐAU KHỔ và TÌNH YÊU.
Tình yêu càng lớn, đau khổ càng nhiều. Đó là quy luật, mà từ khi biết có tình yêu, người ta đã biết điều nầy. Bởi vì khi yêu, người ta mới đủ nghị lực cũng như can đảm để gánh lấy đau khổ. Còn nếu thiếu hương vị của tình yêu, người ta không thể gánh lấy đau khổ đến cùng.
Vâng! Với ý nghĩa đó, con người đôi lúc rất sợ “yêu”, bởi vì giá trị của tình yêu gắn liền với đau khổ. Nhưng khởi nguyên, Thiên Chúa không tạo ra đau khổ, đau khổ chỉ có mặt khi có sự đối nghịch với Thiên Chúa. Như vậy, cho thấy, đau khổ là hệ lụy của sự chống lại Thiên Chúa. Từ đó, chúng ta hiểu được Thiên Chúa là sự hoan lạc vô biên, vì tận cùng của sự sống không phải là đau kho. Như vậy, có mâu thuẫn khi nói: “Thiên Chúa là tình yêu”? Thưa hoàn toàn không. Bởi vì, nơi Thiên Chúa không có sự đau khổ, vì Thiên Chúa là Đấng Hằng Sống. Đau khổ chỉ gắn liền với cái chết, chết tâm linh và chết than xác.
Như vậy, vấn đề cứ quẩn quanh, lúc thì nói: Tình yêu gắn liền với đau khổ. Lúc thì nói: Đau khổ gắn liền với cái chết. Và người ta thường nói: “Chỉ có cái chết mới hết khổ”. Như vậy, hệ lụy của đau khổ chỉ có nơi thân xác?! Còn linh hồn thì sao?! Thưa, linh hồn chính là bảo tồn của sự sống. Ai cũng biết, sự sống nơi thế gian không là vĩnh cửu. Vậy sự sống vĩnh cửu ở đâu, nếu như không ở nơi có Thiên Chúa hiện hữu? Nhưng: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời mà xuống” (Ga 3,13). Như vậy, vấn đề nằm ở nơi: “Đấng từ trời mà xuống”.
“Đấng từ trời mà xuống” đã gánh lấy đau khổ cho nhân loại. Như vậy, tình yêu được nối kết và hien hữu giữa nhân loại, nhờ “Đấng từ trời mà xuống”. Nên chi, chúng ta nói: “Thập giá là nơi tình yêu ngự trị”, bởi vì Thập giá không còn đơn thuần là nơi biểu thị sự đau khổ đơn phương. Mà là nơi đã có “Tình yêu” đồng hành. Vì đau khổ và nhục nhã nơi Thập giá đã được Thiên Chúa đóng ấn bởi Người Con Một của Thiên Chúa là đấng cứu chuộc Giêsu-Kitô. Vì: “Như ông Môi-sen đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy” (c 14). Để làm gì? Thưa, “để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (c15).
Từ đó, tình yêu được gắn kết với đau khổ, vì tình yêu đã tự nguyện gánh lấy đau khổ. Đau khổ không chỉ là án phạt của nhân loại, mà là nơi đó tình yêu đã song hành. Như vậy, Thập giá là nơi sự chết đã được “đóng đinh” nhân danh Đấng từ trời mà xuống. Đồng nghĩa, mọi sự khổ đau của nhân loại cũng được đóng đinh vào Thập giá, khi chúng ta nhìn lên Đấng đã được đóng đinh, được treo lên, được đâm thâu, chúng ta tin vào Người thì chúng ta được cứu độ.
Tình yêu và đau khổ không còn mâu thuẫn với nhau nữa, mà là đã song hành với nhau. Điều đó có nghĩa là Thiên Chúa đã biểu lộ rõ ràng tình yêu của Ngài cho nhân loại. Chúa Giêsu không còn mãi trên Thập giá với sự chết của nhân loại. Nhưng từ đó, Người đã biểu dương quyền sống của Thiên Chúa và Đấng là Con Thiên Chúa cho mọi kẻ tin vào Người.
Như vậy, có thể nói tình yêu và đau khổ đã được Đấng từ trời mà xuống quân bình bởi sự hóa giải của Người. Từ đó, chúng ta nhận thấy rằng: Chóp đỉnh của Đau khổ chính là Thập giá. Nhưng Thiên Chúa đã dạy cho chúng ta rằng: Đau khổ của Thập gía sinh ra hoa trái, vì nơi đó không còn là sự trừng phạt của Thiên Chúa, mà là nơi đó tình yêu của Thiên Chúa đã biểu lộ và chuẩn nhận.
Con Rắn Đồng ngày xưa là biểu tượng của sự tha thứ của Thiên Chúa, nó chỉ là một vật tượng trưng về lòng xót thương của Thiên Chúa, chứ nó không phải là linh vật, nó không có sức mạnh cứu độ, nó chỉ nhờ vào Lời phán dạy Thiên Chúa mà thôi!
Nhưng Đấng từ trời mà xuong được giương lên trên Thập giá thì tất cả nhân loại được “cứu”, từ đó Thập giá và sự đau khổ của nó không còn là sự đau khổ đơn thuần, mà là nơi tình yêu ngự trị. Vì vậy, nơi đó được gọi là THÁNH GIÁ nơi treo Đấng Cứu Độ trần gian. Chúng ta hãy đến mà thờ lạy.
Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót chúng con. Amen.
20. Thánh Giá, tình yêu bừng sức sống
(Suy niệm của Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)
Nhìn lên thánh giá, suy nghĩ nông cạn và non nớt của loài người dễ cho rằng, đó là một thất bại to lớn. Người ta cũng dễ dàng nghĩ rằng, dấu vết của Thánh Giá chẳng qua chỉ là những kỷ niệm về một cái chết nhục nhã của một con người mà các Kitô hữu coi là vị lãnh đạo của mình, còn ghi lại nơi đời sống các Kitô hữu.
Suy nghĩ như thế là hời hợt, là dốt nát trước nội dung của bài học mà Thánh Giá gợi lại. Thực ra, đối với Kitô hữu, Thánh giá chính là hiện thân, là sự thành công lớn lao của một tình yêu vừa tận cùng vừa bất tận. Nói đúng hơn, đó là sự tận cùng của một tình yêu bất tận. Đó là một tình yêu vượt hết mọi rào cảng, vượt thắng tất cả sự tàn nhẫn và tội ác của con người. Đó là một tình yêu hạ mình, một tình yêu mà Thiên Chúa là Chúa trời đất đã hiến dâng chính mình để cứu lấy con người.
Nhìn lên Thánh Giá, các Kitô hữu không chỉ ôn lại một kỷ niệm, nhưng còn thấm thía nỗi đau trong tâm hồn, vì họ nhận ra dấu vết khủng khiếp do tội lỗi chính mình gây ra. Từ giữa bóng đêm tội lỗi ấy, lại tuôn trào sức sống Phục Sinh khơi nguồn từ Thánh Giá Chúa Kitô.
- TỪ THÁNH GIÁ BỪNG LÊN ƠN PHỤC SINH
Mừng lễ Suy tôn Thánh Giá Chúa, ngắm nhìn Thánh Giá Chúa, ta chỉ thấy một nỗi im lặng bao trùm. Nhưng chính trong ý nghĩa của thinh lặng Thánh Giá, ta lại nghe bằng chính nội tâm mình tiếng gào thét của một sức mạnh vô cùng: sức mạnh của một Tình Yêu đời đời bền vững. Sức mạnh của Tình Yêu trường cửu làm bừng lên ơn Phục Sinh giữa những tăm tối của nỗi chết chóc.
Ngay buổi chiều ngày Phục sinh, Chúa Kitô đã hiện ra với các môn đệ. Sau khi ban bình an, “Chúa cho các ông xem tay và cạnh sườn” của mình. Cho xem tay và cạnh sườn cũng đồng nghĩa với việc Chúa cho xem dấu vết kinh hoàng của Thánh Giá. Nhưng buổi chiều hôm Phục Sinh, thánh Tôma lại vắng nhà. Ông đa tỏ dấu nghi ngờ và đòi kiểm chứng sự kiện Phục Sinh. Đúng một tuần lễ sau, Chúa Phục Sinh đã đáp ứng đòi hỏi và giải tỏa nghi ngờ của thánh Tôma. Người hiện ra và bảo: “Tôma, đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”. Trước dấu chứng hùng hồn của Thánh Giá trên thân thể Đấng Phục Sinh, thánh Tôma chỉ còn biết run rẫy, cúi đầu thú nhận: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” (Ga 20, 19-31).
Chúa Kitô đã phục sinh. Nhưng Chúa chỉ phục sinh sau Thánh Giá. Vì thế, sự Phục Sinh dù vinh hiển và khải hoàn đến đâu, vẫn không thể xóa nhòa bất cứ một dấu ấn nào của Thánh Giá trên thân thể Đấng Phục Sinh. Nơi Chúa Kitô, hội tụ cả hai: Thánh Giá và Phục Sinh. Để có Phục Sinh cần có Thánh Giá. Như vậy, trước Phục Sinh đã có Thánh Giá. Thánh Giá đi trước và Phục Sinh đi sau, làm thành cuộc Vươt Qua có một không hai trong lịch sử, làm nên lịch sử và thánh hóa lịch sử. Thánh Giá khơi nguồn ơn Phục Sinh. Từ Thánh Giá, bừng lên ánh sáng chói ngời của ơn Phục Sinh. Bởi Đấng đã ngang qua Thánh Giá vào Phục Sinh vẫn khắc sâu dấu Thánh Giá nơi thân thể mình dù đã phục sinh, vì vậy, Thánh Giá:
– Không bao giờ mai một trên bàn thờ, trong từng hiến lễ. Chính vì thế, Chúa Kitô vẫn tiếp tục dâng hy tế của mình để tuôn trào ơn Phục Sinh mỗi khi dân Chúa cử hành mầu nhiệm Vượt Qua.
– Không bao giờ mai một trong Hội Thánh. Chính vì thế, Hội Thánh từ ngàn xưa, vẫn không ngừng đón nhận những thử thách và ngày càng lớn lên trong mọi thử thách ấy.
– Không bao giơ mai một trong nhân loại. Chính vì thế, nhân loại vẫn gánh lấy sức nặng của chính mình để tồn tại, để phát triển.
– Không bao giờ mai một trong lịch sử. Chính vì thế, lịch sử còn đó rất nhiều vết máu loan vương vãi, sẽ còn tiếp tục loan máu để gầy dựng một trang sử không phải cho quốc gia này, thế lực kia, dân tộc nọ, nhưng là một trang sử Thánh, chứa đựng ơn cứu độ loài người.
– Không bao giờ mai một trong sự sống của thụ tạo. Chính vì thế, “nếu thụ tạo đã từng ngong ngóng đợi chờ ngày Thiên Chúa mặc khải vinh quang của con cái Người” (Rm 8, 19), sẽ còn tiếp tục “rên xiết và quằng quại đau đớn như sắp sinh nở” (Rm 8, 22) cho đến ngày chuyển vào “trời mới đất mới” (Kh 21, 1).
– Không bao giờ mai một trong đời người. Chính vì thế, đời người vẫn còn đó nhiều đau đớn, ưu phiền, tang tóc…
Và mãi mãi sẽ không bao giờ mai một. Nhân loại vẫn còn, thụ tạo vẫn còn, vẫn còn đó dấu ấn vô cùng của Thánh Giá.
Nếu Chúa Kitô đã phục sinh ngang qua Thánh Giá, chúng ta cũng sẽ như Chúa của mình, sẽ phải đón nhận Thánh Giá, rồi vào vinh quang Phục Sinh. Bước theo Chúa, vác Thánh Giá để đến Phục Sinh, đó là hành trình tất yếu, sẽ không bao giờ vắng bóng trong đời người.
Vì thế, dấu vết kinh hoàng của Thánh Giá trên thân thể Đấng Phục Sinh còn là một nhắc nhở cho ta về khuôn mặt tình yêu vô bờ bến của Thiên Chúa. Chính vì tình yêu, Thiên Chúa đã cúi mình thật sâu trong thân phận con người để ta được diễm phúc làm con Thiên Chúa.
- THÁNH GIÁ, BÀI CA TUYỆT MỸ CỦA TÌNH YÊU
Mãi mãi, dấu Thánh Giá vẫn không bao giờ mai một trong Hội Thánh nói riêng và trong nhân loại nói chung, để bất cứ nơi đâu, nếu nhìn thấy bóng dáng Thánh Giá, người ta nhận ra rằng, tình yêu của Thiên Chúa là một tình yêu chung thủy, vẫn mãi mãi hiện diện giữa lòng đời. Đó là bài ca tuyệt mỹ của tình yêu tuyệt đối.
Thánh Gioan đã ghi nhận lời của Chúa Giêsu, cũng chính là ghi nhận lời của Tình Yêu không cùng ấy: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin ở Người Con ấy thì không phải chết, nhưng được sống đời đời” (Ga 3, 16). “Yêu… đến nỗi đã ban”, Cụm từ tuy đơn giản nhưng khắc họa sự lớn lao hết sức của tình yêu, đủ nói lên tất cả sức mạnh, tất cả sự tha thiết, tất cả sự mãnh liệt của một tấm lòng yêu thương. Còn hơn cả một lòng yêu thương mà chúng ta vẫn bắt gặp nơi nhiều anh chị em, bởi Đấng đã “Yêu… đến nỗi đã ban” ấy không phải là tình yêu con người dành cho nhau, nhưng là tình yêu của Đấng Tạo Thành dành cho thụ tạo của mình. Đó là Tình Yêu của Thiên Chúa hiến dâng cho loài người. Và tình yêu mà Thiên Chúa đã trao hiến ấy, không phải là cái gì bên ngoài Thiên Chúa, nhưng là chính bản thân Thiên Chúa, la chính Đấng phát xuất từ giữa cung lòng Thiên Chúa. Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa làm người, là hiện thân khôn tả của tình yêu vô cùng mà Thiên Chúa dành cho loài người.
Vì thế, khuôn mặt thập giá của Chúa Kitô là bằng chứng hùng hồn nhất, là tiếng nói mạnh mẽ nhất, là nét bút tuyệt vời nhất, là vết khắc sâu sắc nhất về một tình yêu bền vững có một không hai trong lịch sử nhân loại, tình yêu của Thiên Chúa từ trời cao dành cho người trần thế. Bởi vậy, cái chết của Con Người chịu đóng đinh kia, cho thấy chiến thắng của tình yêu siêu phàm. Cái chết uy hùng kia biểu dương một tình yêu mạnh hơn sự chết, có sức tiêu diệt hận thù và làm phát sinh từ trong cái chết của tội lỗi loài người một nguồn sống vô tận cho cả loài người.
Nơi Thánh Giá, chúng ta nhận ra rằng, chính khi tội ác của con người lên đến cao điểm, thì cũng là lúc tình yêu của Thiên Chúa dâng cao tột cùng. Nơi Thánh Giá, tình yêu chiến thắng tội ác; sự sống chiến thắng sự chết; ánh sáng chiến thắng bóng tối; tha thứ chiến thắng hận thù. Đó cũng chính là phương tiện mà loài người dùng để khử trừ Thiên Chúa ra khỏi tam hồn mình, lại được Thiên Chúa dùng để quay lại cứu độ loài người.
Vì thế, Thánh Giá, nơi Thiên Chúa hiến trao Con Một mình, nơi treo Đấng Cứu Độ trần gian, lại chính là nơi cứu chữa cả một đoàn con đông đảo trên khắp tran gian. Và Thánh Giá, nơi sĩ nhục không gì bằng, lại trở nên vinh quang vô cùng cho tất cả những ai tin. Bởi tất cả những ai tin, sẽ thuộc về Chúa Kitô và sẽ được Người cứu thoát như chính Người đã từng tuyên bố: “Chúa Cha yêu thương Người Con và đã giao mọi sự trong tay Người. Ai tin vào Người Con thì được sự sống đời đời” (Ga 3, 35-36).
III. KẾT LUẬN
Hôm nay, tôn thờ Thánh Giá Chúa Giêsu, chúng ta cảm tạ Thiên Chúa vô cùng, vì Người đã yeu thương ta đến nỗi không còn kể mình nữa, miễn là ta được sống. Muôn đời, Thánh Giá là bài ca tuyệt mỹ của một Tình Yêu tuyệt đối: THIÊN CHÚA YÊU CON NGƯỜI. Thiên Chúa yêu đến nỗi “đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin ở Người Con ấy thì không phải chết, nhưng được sống đời đời”.
Chúa Giêsu đã chấp nhận chết và chết trên Thánh Giá. Đó là lời nói cuối cùng, vô giá của tình yêu. Bởi “không có tình yêu nào cao cả bằng tình yêu của người hiến dâng mạng sống vì người mình yêu” (Ga 15, 13). Vì thế, tình yêu mà Chúa Giêsu diễn tả qua Thánh giá là một tình yêu không còn bất cứ cái gì sánh ví. Thánh Giá, mầu nhiệm tình thương của Thiên Chúa, là cuốn sách giá trị tuyệt đối, mà ở đó, những trang sách viết đầy hai chữ “TÌNH YÊU”. Cuốn sách ấy mở ra cho con người ơn bình an vô cùng, khiến con người hạnh phúc và reo vui vì được giải thoát.
Lạy Chúa, chúng con tôn thờ Thánh Giá Chúa. Chúng con ca tụng Tình Yêu diệu kỳ của Chúa đã làm cho chúng con được tái sinh trong sự sống. Xin cho chúng con luôn ý thức Tình Yêu mà Chúa dành cho chúng con, để chúng con sống suốt đời cho Tình Yêu của Chúa, và ngày càng xứng đáng với mối tình siêu nhiên ấy.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con điều khó khăn trên mọi điều khó khăn, đó là ơn nhận ra Thánh Giá của Chúa trong mọi nỗi khổ đau của đời con. Xin cho con đủ sức và lâu bền đi trên chính con đường Thánh Giá mà Chúa trao, để chúng con được thấy tình yêu chia sẻ và nâng đỡ của Chúa trong suốt mọi chặng đường Thánh Giá của cuộc đời chúng con.
Lạy Chúa, xin cho mỗi lần nhìn lên Thánh Giá là một lần chúng con ý thức ngày một hơn lòng thương xót của Chúa vẫn bao trùm lấy cuộc đời chúng con, để biết cảm tạ Chúa bằng lòng yêu thương anh em xung quanh suốt đời chúng con. Amen.
21. Thánh Giá Chúa là nguồn phúc vinh
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Ngày 14 tháng 9, Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta cử hành lễ Suy Tôn Thánh Giá Chúa với niềm vui vì được cứu độ. Ngày hôm nay, Thánh Giá được trình bày cho các tín hữu không phải dưới khía cạnh khổ đau, hay nặng nề thiết yếu của cuộc sống cần phải vác theo Đức Kitô, nhưng dưới khía cạnh vinh quang, như cái cớ để tự hào và không có khóc lóc. Lễ này khởi đi từ hai sự kiện lớn là khánh thành là cung hiến đền thờ Calvario và Mộ Thánh ở Thánh Địa do bà Helena, mẹ vua Constantin (khoảng năm 270, 280 đến 337), hoàng đế Roma cho xây cất năm 335. Ngày 14 tháng 9 còn là ngày mừng vì tìm được Thánh Giá thực vào 14 tháng 9 năm 326.
Cuộc chiến thắng của người Kitô giáo trước quân Ba Tư vào thế kỷ thứ VII, giúp tìm lại Thánh Giá Chúa và cung nghinh về Giêrusalem là sự kiện thứ hai. Từ đó, ở Giêrusalem có lễ Suy Tôn Thanh Giá vào ngày 14 tháng 9. Tuy nhiên với dòng thời gian, lễ này có một ý nghĩa riêng, vì được cử hành với niềm vui của mầu nhiệm Thánh Giá, một khí cụ man rợ và khủng khiếp nhất trong lịch sử nhân loại, được Đức Kitô dùng để cứu độ thế gian.
Điều này được phản ánh trong các bài đọc. Thánh Phaolô coi Thánh Giá là động lực lớn lao để “tán dương” Đức Kitô: “Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu, để khi nghe tên Giêsu, mọi loài trên trời dưới đất và trong địa ngục phải quỳ gối xuống, và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là Chúa, để Thiên Chúa Cha được vinh quang” (Pl 2, 8 -11). Thánh Gioan lại đề cập đến Thập Giá là khí cụ để cứu độ con người: “Cũng như Môsê treo con rắn nơi hoang địa thế nào, thì Con Người cũng phải bị treo lên như vậy, để những ai tin vào Người, thì không bị tiêu diệt muôn đời” (Ga 3, 14).
Như thế, Thánh Giá là Niềm Hy Vọng độc nhất trong Vinh Quang toàn thắng của Đức Kitô, Thánh Giá ban tặng cho nhân loại ơn sủng và ơn tha thứ. Nên “chúng ta phải hãnh diện về thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Nơi Người, ta được giải thoát, được sống và được sống lại; chính Người giải thoát và cứu độ ta” (Ca nhập lễ).
Giáo hội cử hành lễ Suy Tôn Thánh Giá Chúa, nhờ Đấng bị đóng đinh, chúng ta được đưa về trời cao, vứt bỏ sau lưng tội lỗi thế gian để đạt tới sự thiện trên trời. Chúng ta hát mừng Chúa sống lại hiển vinh, vì bởi cây Thánh Giá niêm hân hoan tràn ngập khắp địa cầu. Còn hạnh phúc nào hơn từ cây Thánh Giá; vì chính nhờ cây Thánh Giá, nguồn vinh phúc, ơn cứu độ chúng ta được phục hồi. Thật vậy, nếu không có cây Thánh Giá, Đức Kitô đã không bị đóng đinh, sự sống đã không bị treo lên gỗ giá, máu và nước, nguồn suối trường sinh đã không chảy ra từ cành sườn để rửa sạch tội lỗi thế nhân, bộ mặt kẻ tội lỗi đã không bị lột trần, chúng ta sẽ không được tự do và không được hưởng nhờ ơn phúc từ cây sự sống. Nếu như không có Thánh Giá, thiên đàng không được mở, sự chết không bị chôn vùi, mọi thủ đoạn của hỏa ngục sẽ không được phơi bày ra. Thánh Giá thật cao cả và quí giá biết bao. Cao cả, vì Đức Kitô đã chiến thang khải hoàn trước mọi đau khổ, Thánh Giá phát sinh sự thiện với biết bao kỳ công. Quí giá, vì Thánh Giá vừa là sự khổ đau vừa là khí giáp của Thiên Chúa. Là khổ đau, vì chính nhờ cây thánh giá Đức Giêsu đã hoàn toàn chịu chết; là khí giáp, vì ma quỉ đã bị tổn thương và đánh bại, sự chết đã bị Đức Giêsu tiêu diệt vĩnh viễn; cửa Hỏa ngục bị đập tan và Thánh Giá trở nên ơn cứu độ cho toàn thế giới. Thánh Giá được gọi là vinh quang của Đức Kitô, và tán dương Người. Chúng ta nhìn thấy nơi Thánh Giá, chén của ao ước và tất cả mọi khổ đau mà Đức Kitô đã phải chịu vì chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu Kitô, chúng con tôn thờ Thánh Giá Chúa, vì Chúa đã dùng Thánh Giá mà cứu chuộc trần gian. Amen.
22. Lời mời khó
(Suy niệm của Anmai)
“Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hàng ngày mà theo” (Lc 9, 23)
Ở đời! Có chăng người ta sẽ hăng hái bước đi theo ai đó, đi tìm điều gì đó nhẹ nhàng và thênh thang, êm ái và dịu chàng chứ chẳng ai đời lại muốn đi tìm cái khổ, cái khó cả.
Thoạt đầu, xem ra lời mời gọi khó nghe và nghịch lý nhưng ở khi đối diện với thực tại của cuộc đời, ai cũng có cây thập giá của đời mình. Và nếu như ai vui lòng vác những đau khổ, những vất vả thì đến cuối cuộc đời, đến cuối chặng đường sẽ cảm thấy lòng thanh thản và được hưởng vinh quang cùng với Đấng đã vui lòng vâng phục Chúa Cha.
Thập giá, từ xưa đó chính là dấu chỉ, là biểu tượng, là hình ảnh, là dụng cụ để người ta thi hành án tử cho tên tử tội. Với Chúa Giêsu cũng vậy, Chúa Giêsu cũng không thoát khỏi cây thập giá khi thi hành án. Án tử người ta dành cho Chúa Giêsu cũng chỉ vì cái tội kiêu ngạo. Cũng vì loại trừ, vì khước từ một Đấng Thiên Sai, Đấng Cứu Độ trần gian cho nhân loại, những người Do Thái thời Chúa Giêsu đã tìm đủ mọi cách để khử trừ Đấng đó ra khỏi cuộc đời này khi có dịp.
Cái tội kiêu ngạo đẩy con người vào con đường chết đó không phải có vào thời Chúa Giêsu nhưng nó đã có từ khi con người xuất hiện. Chính ông bà nguyên tổ đã đẩy Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời của mình vì tưởng rằng sau khi ăn trái cấm như lời con rắn dữ mời gọi họ sẽ hơn Thiên Chúa.
Vẫn là cái tội kiêu ngạo không chấp nhận thân phận thụ tạo của mình.
Trong cái thân phận là thụ tạo, điều chính yếu, điều căn cốt nhất mà con người phải nhận ra đó chính là mình chẳng là gì cả, tất cả là nhờ Chúa và bởi Chúa. Khi ý thức như vậy, con người sẽ cảm thấy nhẹ nhàng và thanh thản. Và ngược lại, khi con người không nhận ra căn cốt của đời mình thì con người sẽ nổi loạn để rồi lại bất phục tùng và cảm thấy mệt mỏi khi phải vác thập giá của đời mình.
Trong dòng chảy lịch sử cứu độ, những khuôn mặt, nhưng hình ảnh của những con người đau khổ vẫn còn đó như là bài học cho những ai bước theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá. Những khuôn mặt đó, nhìn thấy quả là đau khổ bởi lẽ không còn gì đau khổ hơn nhưng những người đó vẫn đi theo Chúa cho đến cùng.
Khuôn mặt sáng, khuôn mặt đẹp mà ta nhìn ngắm phải chăng là khuôn mặt của ông Giob. Đọc lại cuộc đời của ông. Nỗi đau tột cùng của ông sẽ không đau lắm khi ông là người bình thường mà lại rơi vào cảnh mất mát, đau thương cả tinh thần lẫn thể xác. Nỗi đau càng giày vò ông khi cuộc đời của ông đang sống trong vinh quang, trong phú quý và có thể nói là đỉnh, là điều mà nhiều người mơ ước với cái cơ nghiệp, con đàn cháu đống cùng với đàn súc vật thật đông. Nỗi đau sâu hoẵm đó nó khoét đời ông và thử thách niềm tin của ông khi những người bạn đến thách thức ông. Đau hơn nữa đó chính là lời phỉ báng, lời kém tin của người vợ của ông. Nhưng, trong những thử thách đó, lòng ông vẫn đơn thành: “Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về lòng đất cũng trần truồng. Chúa đã ban cho, Chúa lại lấy đi. Người muốn sao nên vậy: xin chúc tụng danh Chúa. Mình biết đón nhận ơn lành từ Thiên Chúa, còn điều dữ lại không biết đón nhận sao?” (G 1,21; 2,10b)
Lịch sử lại cứ trôi và cuộc đời vẫn chảy. Ta lại bắt gặp hình ảnh của người môn đệ đã hoàn thành cách xuất sắc khi bước theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá.
Nhìn, nghe, đọc những trang giấy trong sách Thánh, ta sẽ thấy những đau khổ của người môn đệ đau khổ đến tột cùng là Đức Trinh Nữ Maria. Thấy thôi chứ không cảm được đau khổ mà Mẹ phải chịu.
Thập giá ập đến ngay cuộc đời của Mẹ khi Mẹ nhận lời sứ thần truyền là mang thai Đấng Cứu Độ. Sẽ bị ném đá theo luật Do Thái ngay khi người ta truy tầm ra rằng thiếu nữ Maria không có chồng mà lại có mang. Thoát được án tử sau khi Giuse nhận Mẹ về làm vợ. Cuộc đời đâu êm ả như bao người suy và bao nhiêu người nghĩ. Tưởng chừng một màu hồng tươi đẹp trải suốt trên cuộc đời của Mẹ nhưng đâu được như thế! Đau khổ cứ như cuộn, cứ như ôm lay cuộc đời của Mẹ. Đau khổ đó cuộc vào đời Mẹ cho đến tận cùng đó chính là đỉnh đồi Canvê. Không còn nỗi nhục và nỗi đau nào cho bằng con mình vô tội lại chịu chết treo cùng với hai người có tội. Vô cớ, oan khiên nhưng đành phải chấp nhận bởi lòng người gian ác.
Mẹ đã thưa hai tiếng xin vâng cho đến cuối cuộc đời.
Và sẽ là một thiếu sót lớn hay nói cách khác là sẽ vô nghĩa khi không chiêm ngắm con người chịu treo trên thập giá để mang lại ơn cứu độ cho con người. Ơn cứu độ cho nhân loại khởi nguồn từ con người đã hoàn toàn vâng phục chịu chết treo trên thập giá như người mang trọng tội.
Thư gửi tín hữu Philip đã diễn tả:
“Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thien Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự”. (Pl 2, 6-8)
Chúa Giêsu, dù ở cái địa vị vinh quang nhưng lại trút bỏ và vâng phục và chết một cách nhục nhã. Còn ta, ta là ai mà ta lại tưởng mình thế này thế kia để ta lại muốn một lần nữa treo Chúa Giêsu – Đấng Cứu Độ trần gian – trên thập giá.
Chúa bắt phàm nhân trở về cát bụi,
Ngài phán bảo: “Hỡi người trần thế, trở về cát bụi đi!”
Ngàn năm Chúa kể là gì,
tựa hôm qua đã qua đi mất rồi,
khác nào một trống canh thôi!
Ngài cuốn đi, chúng chỉ là giấc mộng,
như cỏ đồng trổi mọc ban mai,
nở hoa vươn mạnh sớm ngày,
chiều về ủ rũ tàn phai chẳng còn.
Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống,
ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan.
Lạy Chúa, xin trở lại! Ngài đợi đến bao giờ?
Xin chạnh lòng thương xót những tôi tớ Ngài đây. (Tv 89,3-4.5-6.12)
Lời mời gọi bước theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá mãi mãi vẫn là lời mời gọi luôn luôn mới và giá trị trên cuộc đời của ta. Lời mời gọi đó quả là khó chứ không phải dễ dàng bước theo. Khi và chỉ khi ta nhìn nhận thật phận tôi đòi của chúng ta, thân phận thụ tạo của chúng ta thì khi ấy chúng ta lại nhẹ nhàng và thanh thản để đi theo con đường mà Chúa Giêsu đã đi. Và, khi vâng phục đến tột đỉnh vác thập giá đời mình thì dĩ nhiên ta cũng sẽ được hưởng phần phúc cứu độ mà Đấng Cứu Độ trần gian bị treo trên thap giá đã hứa ban cho những ai ngày mỗi ngày bước đi theo Ngài.
23. Sùng kính hay là vác thập giá
Tôi không rõ việc sùng kính thập giá Đức Kitô khởi sự từ đâu và vào thời gian nào, nhưng chắc chắn việc đó phải có từ thời hoàng đế Constantin, hay nói rõ hơn từ năm 335 là năm mà truyền thuyết cho rằng đã tìm lại được thập giá Đức Kitô; và nhân biến cố đó, hoàng đế đã cho xây một thánh đường ngay chính nơi mộ Đức Kitô, ngày lễ Suy Tôn Thánh Giá 14 tháng 9 là để kỷ niệm ngày cung hiến ngôi thánh đường này.
Như vậy, việc sùng kính thập giá quả đã có từ lâu đời, nhưng cũng không phải là một truyền thống có từ ban đầu. Vậy thì từ ban đầu thập giá có ý nghĩa gì?
Tôi xin thưa, ngay từ ban đầu thập giá đã là dấu chỉ của hồng ân cứu độ:
– Như Maisen treo con rắn nơi hoang địa thế nào, thì Con Người cũng sẽ bị treo lên như vậy, để những ai tin vào Ngài thì được sống đời đời.
Đồng thời thập giá còn là dấu chỉ của một tình yêu to lớn mà Thiên Chúa đã dành cho nhân loại:
– Không ai yêu hơn người hiến mạng song mình vì bạn hữu.
Cũng như thập giá là dấu chỉ của người môn đệ Chúa:
– Ai muốn theo Ta phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta.
Đối với người môn đệ Đức Kitô thì không có gì là vinh dự ngoài thập giá, bởi vì nhờ thập giá mà chúng ta được giải thoát, được cứu độ. Nhưng vinh dự vì thập giá nghĩa là gì? Phải chăng, là vì chúng ta có thập giá như là một kỷ vật châu báu, quí giá hơn vàng bạc. Nếu thế thì chẳng lẽ Đức Kitô lại làm giàu cho chúng ta với cây thập giá của Ngài sao?
Hẳn là không. Nhưng phải nhìn nhận rằng, chúng ta nhiều khi đã lợi dụng thập giá Chúa để làm giàu. Thánh giá trở nên một đồ vật cho người ta buôn bán: Nào thanh giá vàng, thánh giá bạc và như thế thánh giá trở thành phương tiện để người ta khoe khoang, vinh dự khi ấy không còn là vinh dự được Đức Kitô cứu chuộc bằng giá máu của Ngài. Làm như thế thánh giá trở nên một đồ vat quí giá chứ không phải là một kỷ vật nhắc nhở cái chết của Chúa. Và kẻ đeo thánh giá đó không cần phải tin Đức Kitô, lại càng không thể làm môn đệ của Ngài vì người môn đệ chân chính của Ngài là phải luôn vác thập giá trên vai, và nhất là phải chịu đóng đinh vào đó vì yêu thương và yêu thương cho đến cùng.
Đã hơn hai ngàn năm nay, người ta đã tạo ra biết bao kiểu thánh giá, to có nhỏ có và thánh giá đã có mặt ở khắp mọi nơi, nhưng càng ngày càng ít người chịu vác thánh giá trên vai và càng ít người hơn nữa chịu đóng đinh vào đó. Đáng buồn nhất là có những kẻ không ngần ngại đóng đinh người khác hay bắt kẻ khác vác những thánh giá nặng nề, đang khi chính mình vẫn đưa miệng hôn kính thánh giá.
Đức Kitô mời gọi chúng ta tình nguyện vác thập giá đi theo Ngài, nhưng chính Ngài cũng vác thập giá của mình mà đi trước chúng ta. Không bao giờ Ngài chất thập giá trên vai kẻ khác. Còn chúng ta, nhiều khi đã không chịu vác thập giá của mình thì chớ, mà lại còn chồng chất trên vai những người nghèo khổ và bé mọn, những người mà bình thường thập giá của họ đã nặng nề, mà không một ai giup đỡ như Simong, mà không ai lau mặt cho như Veronica thuở trước.
Nay đã đến lúc phải đặt thập giá vào đúng vị trí của nó, nghĩa là trên vai mỗi người chúng ta. Bởi đó, việc hôn kính thánh giá không quan trọng bằng việc vác thập giá, và việc suy tôn thánh giá cũng chẳng lợi ích gì nếu không sẵn sàng chịu đóng đinh mình vào thập giá.
24. Chiêm ngắm Đấng chịu đóng đinh
(Suy niệm của Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB.)
Từ cạnh sườn bị đâm thâu, với trái tim rộng mở, máu và nước chảy ra khai sinh Hội Thánh, và 7 nguồn ơn Bí Tích. Do đó, chúng ta phải quay trở về nguồn cội của mình, để kín múc từ nơi đó: nguồn sức sống dồi dào, và để nghe lại những tiếng lòng thổn thức từ Bảy Lời Cuối Cùng của Đức Giêsu trên Thánh Giá, được phát ra từ Thánh Tâm rực cháy lửa yêu thương, tha thứ.
1) Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm. Ngay từ buổi sơ khai, trong Hội Thánh, đã có ít nhiều rạn nứt, mà thánh Phaolô đã nặng lời quở trách. Trong các thời đại kế tiếp, phát sinh nhiều phân rẽ trầm trọng hơn, và nhiều cộng đoàn đã ly khai khỏi sự hiệp thông với Hội Thánh. Những đoạn tuyệt này đã làm tổn thương sự hiệp nhất của Nhiệm Thể Đức Kitô. Để có thể chữa lành, và hòa giải, chúng ta phải luôn yêu thương, kính trọng, những anh chị em ly giáo, lạc giáo, và luôn sẵn sàng tha thứ, và đối thoại với bất kỳ cá nhân, cũng như tập thể nào thường xuyên quấy rối và bách hại Hội Thánh. Mối bận tâm tái lập tình hiệp nhất là ý nguyện thánh thiện, nhưng, đó lại là điều vượt quá sức lực và khả năng của chúng ta. Chúng ta phải đặt hết hy vọng vào lời nguyện hiệp nhất của Đức Giêsu, vào tình thương của Chúa Cha, và vào quyền năng của Chúa Thánh Thần.
2) Quả thật, Ta bảo anh: Hôm nay anh sẽ được ở với Ta trong thiên đàng. Đức Kitô thánh thiện, tinh tuyền, không hề phạm tội; còn Hội Thánh, vì ôm ấp trong lòng những kẻ tội lỗi, nên vừa thánh thiện, vừa phải luôn thanh luyện chính mình. Do đó, một mặt chúng ta phải luôn nỗ lực sám hối và canh tân, mặt khác, chúng ta phải tỏ lòng bao dung, tha thứ, và cảm thông với các chi thể còn yếu đuối tội lỗi. Trong tất cả mọi người, cỏ lùng tội lỗi còn lẫn lộn với lúa tốt của Tin Mừng. Vì thế, Hội Thánh cũng quy tụ những con người tội lỗi, đã được lãnh nhận ơn cứu độ của Đức Kitô, nhưng, vẫn còn đang trên đường thánh hóa. Quả thế, sự thánh thiện là nguồn mạch bí ẩn và là khuôn vàng thước ngọc cho các hoạt động tông đồ và nhiệt tình truyền giáo của Hội Thánh. Nơi Ðức Maria, Hội Thánh đã đạt tới sự toàn thiện, trở nên không vết nhăn, không tì ố, nhưng, về phần chúng ta, chúng ta vẫn còn phải cố gắng chiến thắng tội lỗi, để tiến lên trên con đường thánh thiện.
3) Thưa Bà, đây là con Bà – Đây là Mẹ của con. Sự liên kết của Mẹ với Đức Kitô trong công cuộc cứu độ, được biểu lộ từ lúc: Mẹ thụ thai Chúa, cho đến lúc, Người chịu chết trên Thập Giá. Biến cố Truyền Tin đánh dấu một khởi đầu; biến cố Thánh Giá báo hiệu một kết thúc: Lời Truyền Tin thứ nhất do sứ thần đem đến: báo cho Mẹ biết: Mẹ sẽ làm Mẹ Thiên Chúa; lời Truyền Tin thứ hai do chính Ngôi Lời Thiên Chúa trăn trối cho Mẹ biết: Mẹ sẽ làm Mẹ Hội Thánh, Mẹ của toàn thể nhân loại. Vào những giây phút khởi đầu của biến cố Nhập Thể, Mẹ trở thành Mẹ Thiên Chúa; vào những giờ phút cuối cùng của biến cố Thập Giá, Mẹ đã trở thành Mẹ Hội Thánh, Mẹ của toàn thể loài người. Trong Mầu Nhiệm Truyền Tin, Mẹ đã trao dâng cung lòng trinh trong cho Con Thiên Chúa ngự vào; nơi Mầu Nhiệm Thập Giá, Mẹ đón nhận toàn thể nhân loại vào trong tâm hồn. Trong Vườn Địa Đàng, bên cây Trái Cấm, bà Evà đã đánh mất quyền làm mẹ chúng sinh; trên đồi Canvê, dưới chân Thánh Giá, Mẹ đón nhận quyền làm Mẹ của toàn thể nhân loại. Ước gì chúng ta biết bắt chước Mẹ: bước đi cùng với Đức Kitô từ khởi đầu cho đến lúc kết thúc dưới chân Thập Giá.
4) Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài nỡ bỏ rơi con! Khi cử chính Con Một đến trong thân phận tôi đòi, thân phận loài người sa đọa và phải chết vì tội lỗi, Thiên Chúa vì loài người chúng ta, đã coi Ðức Kitô, Ðấng không hề biết tội là gì, như hiện thân của tội lỗi, để trong Người, chúng ta được trở nên công chính trước mặt Thiên Chúa. Vì không hề phạm tội, Ðức Giêsu không bao giờ bị Thiên Chúa ruồng bỏ, nhưng, vì Ðức Giêsu đã đón nhận chúng ta trong tình yêu cứu chuộc và liên kết Người với chúng ta, cho đến độ: Người xem như bị tách lìa khỏi Thiên Chúa vì tội lỗi của chúng ta, nên Người thay chúng ta mà thốt lên: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài nỡ bỏ rơi con!”. Mầu nhiệm thập giá đã cho thấy tình yêu tự hiến của Thiên Chúa dành cho loài người chúng ta: Người đã chẳng dung tha, nhưng đã trao nộp chính Con Một của Người vì hết thảy chúng ta, để chúng ta được hòa giải với Người, nhờ cái chết của Con Một Người.
5) Ta khát. Bởi vì, Hội Thánh là bí tích cứu độ của Thiên Chúa, nên Hội Thánh phải có nghĩa vụ mang ơn cứu độ đến cho tất cả mọi người. Nỗi khắc khoải mang ơn cứu độ đến cho tất cả mọi người, bắt nguồn từ chính tình yêu vĩnh cửu của Ba Ngôi Chí Thánh. Nghĩa là, từ sứ mạng của Chúa Con và Chúa Thánh Thần, theo ý định của Chúa Cha. Ước gì Hội Thánh luôn ghi nhớ: Mục đích tối hậu của Hội Thánh là làm cho mọi người được hưởng ơn cứu độ. Ước gì Hội Thánh biết noi gương Đức Kitô, Đấng đã thực hiện công trình cứu độ của mình trong nghèo khó và bị bách hại, để rồi, Hội Thánh cũng được mời gọi dấn bước trên con đường ấy: mang những thành quả của ơn cứu độ đến cho mọi người. Chúng ta nhận thấy: có một khoảng cách giữa sứ mạng của Hội Thánh và sự yếu hèn của những con người được ủy thác cho sứ mạng đó. Chỉ trên con đường sám hối, canh tân, và qua cửa hẹp Thập Giá, Hội Thánh mới có thể chu toàn sứ mạng: mang ơn cứu độ đến cho tất cả mọi người.
6) Mọi sự đã được hoàn tất. Khi Chúa Con hoàn tất công trình Chúa Cha trao phó cho Người ở trần gian, Chúa Thánh Thần được cử đến trong ngày lễ Ngũ Tuần, để thánh hoá Hội Thánh luôn mãi. Bấy giờ, Hội Thánh được công khai giới thiệu cho nhân loại, và Tin Mừng bắt đầu được rao giảng cho muôn dân. Bởi Hội Thánh là cuộc “triệu tập” tất cả mọi người để hưởng ơn cứu độ, nên Hội Thánh tự bản chất là “sứ mạng”, được Đức Kitô cử đến với muôn dân, để làm cho tất cả mọi người trở thành môn đệ. Để giúp Hội Thánh thi hành và hoàn tất sứ mạng của mình, Chúa Thánh Thần đã trang bị và điều khiển Hội Thánh bằng nhiều ân huệ phẩm trật và các đặc sủng khác nhau. Ước gì Hội Thánh biết chăm chú trung thành để hoàn tất sứ mạng của mình, với lòng bác ái, và khiêm nhường, ngõ hầu, Nước Thiên Chúa được thiết lập nơi mọi dân tộc, và để Hội Thánh trở thành mầm mống và khai nguyên của Nước Chúa trên trần gian này.
7) Lạy Cha, con xin phó thác: linh hồn con trong tay Cha. Ý Cha được thực hiện trọn vẹn và một lần dứt khoát trong Ðức Kitô và qua ý muốn nhân loại của Người. Khi vào trần gian, Ðức Kitô nói: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài. Trong giờ hấp hối, Người cũng hoàn toàn vâng phục ý Cha: Xin đừng làm theo ý con, mà xin theo ý Cha, và khi hoàn tất công việc mà Chúa Cha trao phó, Người đã hoàn toàn phó thác linh hồn trong tay Chúa Cha. Ðức Giêsu, dù là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục, phương chi chúng ta là những thụ tạo và là tội nhân. Ước gì ý muốn của chúng ta được nên một với ý muốn của Chúa Cha. Về việc này, chúng ta hoàn toàn bất lực, nhưng, nhờ kết hiệp với Ðức Giêsu và nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần, chúng ta có thể nên một lòng một ý với Người.
Nếu không có Thánh Giá, thì Đức Kitô đã không bị đóng đinh, máu cùng nước thanh tẩy thế giới cũng không vọt ra từ bên sườn Người, văn khế tội nợ cũng không bị xé. Thánh Giá vừa là đau khổ, vừa là chiến tích của Thiên Chúa. Là đau khổ, bởi vì, Người đã tự nguyện chết trên đó; là chiến tích, bởi vì, ma quỷ đã bị trọng thương và bị đánh bại ở đó, thần chết cũng đã bị thua cùng với nó; then sắt hỏa ngục bị đập tan và Thánh Giá trở thành nguồn ơn cứu độ cho toàn thế giới. Thánh Giá là vinh quang của Đức Kitô, Thánh Giá nâng Người lên cao. Thánh giá là chén đắng Người khát khao, là bản thâu tóm mọi cực hình Người đã chịu vì chúng ta. Ước gì chúng ta luôn biết nhìn lên Thánh Giá Chúa, học lấy sự khôn ngoan từ Thánh Giá, để tất cả những gì chúng ta làm đều mang những thương tích tình yêu của Đấng đã yêu thương và hiến mạng vì chúng ta.
25. Thập Giá và cuộc sống
Thập giá nắm giữ vai trò nào trong cuộc sống mỗi người chúng ta?
Chúng ta thường thấy: nơi ơi bản thân, Thập giá được dùng làm đồ trang sức chúng ta đeo trên tai, trên cổ. Trong mỗi gia đình đều có một bàn thờ. Và trên bàn thờ ấy, chính giữa thường là cây thập giá, vì đó là vị trí chung ta lấy làm ưng ý nhất. Tại giáo xứ, chúng ta nhìn thấy thập giá trên tháp chuông, trên cung thánh hay trên những phần mộ.
Thập giá đã quá quen thuộc với chúng ta ngày từ hồi còn tấm bé. Chúng ta không thể diễn tả niềm tin Kitô giáo mà không cần đến cây Thập giá. Thế nhưng, còn trong cuộc sống thì sao?
Phải thành thật mà nói: nhiều khi Thập giá đã làm cho chúng ta run sợ và chúng ta đã tìm mọi cách để lẩn tránh. Thập giá dường như đã trở nên một cái gì thù địch, trái ngược với bản tính và niềm hạnh phúc của chúng ta.
Thế nhưng, kinh nghiệm cho thấy: chúng ta không thể nào lẩn tránh khỏi Thập giá, bởi vì Thập giá là một cái gì nằm sẵn trong thân phận con người. Sự chọn lựa của chúng ta không phải là có hay không có Thập giá, nhưng là có biết vác Thập giá mình cho nên hay không mà thôi. Bởi vì Thập giá sẽ đem lại nhiều lợi ích nếu chúng ta biết vác lấy vì lòng yêu mến Chúa.
Thực vậy, đứng trước thập giá, Chúa Giêsu đã có một thái độ hoàn toàn khác biệt với chúng ta. Phúc âm kể lại rằng:
Bấy giờ Chúa Giêsu và các môn đệ đang ở Giêricô, cách thủ đô Giêrusalem khoảng bốn mươi cây số, mà ngày lễ Vượt qua thì lại sắp tới, từng đoàn người hành hương hát vang những câu thánh vịnh. Và rồi một lần nữa Chúa Giêsu nói trước cho các ông về cuộc tử nạn của Ngài:
– Này Ta lên Giêrusalem, Con người sẽ bị nộp trong tay kẻ ngoại. Họ sẽ khạc nhổ, đánh đòn và sẽ giết chết Ngài.
Các môn đệ không muốn tin vào điều ấy. Lên Giêrusalem giữa một tình hình căng thẳng như lúc này, thì quả là một việc điên khùng và dại dột, nếu không muốn nói đó là một hành động tự sát, bởi vì đã từ lâu, bọn biệt phái và luật sĩ tại đó đã quyết định giết Chúa Giêsu.
Thế nhưng, các ông lại không đủ can đảm can ngăn Chúa Giêsu, bởi vì đã một lần Phêrô lên tiếng:
– Ước gì Thày không phải như vậy đâu.
Và ông đã bị Ngài quở trách nặng lời:
– Hỡi Satan hãy xéo đi, vì ngươi chỉ biết những việc thuộc về thế gian, mà chẳng biết chi đến những việc thuộc về Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đã nhìn thấy trước những khổ đau và cái chết nhục nhã Ngài sẽ phải chịu, thế mà Ngài vẫn cương quyết đi lên Giêrusalem.
Cuộc hành trình đi lên Giêrusalem phải chăng chính là hình ảnh cuộc đời chúng ta. Còn thái độ của các môn đệ, phải chăng cũng chính là thái độ của chúng ta.
Thực vậy, cuộc đời chúng ta thì chất đầy những khổ đau và lo lắng: nào đau ốm bệnh tật, nào hận thù chiến tranh, nào nghèo túng khổ cực… Chúng ta cảm thấy như bất lực, không thể nào giải quyết được. Trong khi đó, Chúa Giêsu đã can đảm bước đi và Ngài đã bước đi cho tới cùng, bởi vì sau thập giá sẽ là vinh quang phục sinh.
Có hai bà già mắc bệnh lao, nằm bên cạnh nhau trong một căn phòng bệnh viện. Họ biết rằng cơn bệnh của họ không còn phương cách nào cứu chữa, chỉ còn chờ ngày được nghỉ yên dưới lòng đất lạnh mà thôi.
Một bà thì cô độc, chỉ có một mình, bởi vì gia đình và những người thân đều đã chết vì trúng đạn pháo kích. Còn bà kia thì đã có chồng, nhưng ông chồng này đã bỏ bà từ lâu và hiện đang sống với người vợ lẽ. Bà biết rõ điều ấy.
Trước những nỗi đớn đau và bất hạnh như thế, mọi lời an ủi và khích lệ dường như đã trở nên thừa thải, nếu không muốn nói là đã trở nên lẩm cẩm và ngu ngốc. Thế nhưng, mỗi lần viếng thăm, tôi đều thấy hai bà cầm cây Thánh giá và nói với tôi:
– Cuối cùng chỉ còn lại cây Thập giá. Bởi vì chính tại Thập giá, Chúa Giêsu đã đau khổ trước chúng tôi và hơn chúng tôi bội phần. Cây Thập giá của Chúa đã nói với chúng tôi nhiều điều và đã đem lại cho chúng tôi niềm an ủi tuyệt vời nhất giữa những đắng cay chua xót của cuộc đời.
Hôm nay, chúng ta không phải chỉ suy tôn Thánh giá trong lời kinh tiếng hát hay trong những nghi thức phụng vụ, mà còn phải biết suy tôn Thánh gía trong chính cuộc sống chúng ta, bằng cách chấp nhận những hy sinh gian khổ mà chúng ta gặp phải vì lòng yêu mến Chúa, bởi vì đó chính là cây thập giá đời thường Ngài muốn chúng ta vác lấy để bước theo Ngài.
Bên trên những gai nhọn là cánh hồng nở thắm. Bên trên thập giá đời đời thường là vinh quang phục sinh chờ đón.
26. Nhờ Thánh Giá hướng dẫn
Phi trường mới ở Pittsburgh, Penssylvania, là một trong những phi trường lớn nhất và được trang bị đầy đủ nhất ở Hoa Kỳ. Chỉ một vài giây trong thời gian bay từ phi trường là nhà thờ Hiệp Nhất, trên đường thẳng với một trong những đường bay bận rộn nhất của phi trường. Một vài phản lực cơ bay quá thấp trên nhà thờ đến nỗi giáo dân sợ ngọn tháp nhà thờ bay đi mất. Người ta quyết định đặt một Thánh giá cao 3m bằng đèn điện quang ngay ở ngọn tháp là điểm cao nhất của khu vực. Một phi công đã nhìn nhận rằng: “Hầu hết chúng tôi đều dùng ánh sáng Thánh giá làm biển chỉ đường tới phi trường”.
Hôm nay, chúng ta cử hành điều được gọi là chiến thắng của Thánh giá. Hãy lưu ý là chúng ta tôn vinh Thánh giá hơn là tượng chiụ nạn. Thánh giá không còn thân xác Chúa Kito treo trên đó, còn tượng chịu nạn thì có mang thân xác Ngài. Tại sao chúng ta tôn vinh thánh giá hơn là tượng chịu nạn? Bởi vì các Kitô hữu tiên khởi chỉ tôn vinh thánh giá, họ muốn đưa ra chân lý cao cả là Chúa Kitô đã chiến thắng nhờ thánh giá, Ngài không còn bị đóng đinh vào đó nữa, bởi sự phục sinh, không những Ngài chỗi dậy khỏi mồ mà còn làm cho thánh giá thành dấu chỉ chiến thắng.
Trong năm thế kỷ đầu của Kitô giáo, Chúa Kitô rất ít được tiêu biểu trên thánh giá, và không còn đau khổ, chết chóc và thất bại, nhưng là chiến thăng, sinh động, vinh quang. Cánh tay Ngài giang rộng ra, nhưng không còn đinh sắt để mời gọi mọi người, và cầu nguyện cho tất cả chúng ta.
Còn lý do khác nữa chúng ta tôn vinh thánh giá là các Kitô hữu tiên khởi quay mặt về hướng Đông khi cầu nguyện, vì đó là hướng mà họ mong đơi Chúa Kitô trở lại. Dần dần thay vì quay mặt về hướng đông, họ quay về thánh giá là biễu tượng ơn cứu độ chúng ta, và họ cảm thấy là họ quay về đúng hứơng. Và họ thực hành như vậy.
Thánh giá là cột trụ chỉ dẫn cho họ và cũng là cho chúng ta. Thánh giá chiếu sáng của ngọn tháp nhà thờ Hiệp Nhất ở Pittsburgh là cột trụ hứơng dẫn cho các phi công khởi hành và trở lại phi trường. Thánh giá cũng hứơng dẫn cho bạn và cho tôi khi chúng ta khởi sự và hoàn tất bất cứ côngviệc nào dù nhỏ hay lơn.
Khi thánh giá hứơng dẫn chúng ta, thì chúng ta có thể chắc chắn là mình ở trên đường ngay thẳng, để chúng ta thật là đang “ở trên con tàu thiêng liêng”. Hãy khởi sự và kết thúc mọi công việc với Thánh gía chiến thắng và rồi mỗi phận sự sẽ là một chiến thắng, thành công. Chúng ta bắt đầu Thánh lễ này với dấu thánh giá, chúng ta sẽ kết thúc thánh lễ này với dấu thánh giá. Chúng ta dâng lên Thiên Chúa mọi sự chúng ta làm trong va nhờ lễ vật hiến tế này của Chúa Kitô. Ngài đã chiến thắng nhờ thánh giá đó. Chúng ta sẽ chiến thắng nhờ thánh giá đó, biểu tượng vẻ vang cho những thành công của chúng ta hôm nay và vào ngày tận cùng.
Đó là tinh thần của các Kitô hữu tiên khởi, tinh thần của công đồng Vatican II, mà muốn chúng ta làm nổi bật sự phục sinh. Trong tinh thần đó, chúng ta có thể làm mọi sự. Chúa Kitô chiến thắng ở với chúng ta.
Xin Chúa chúc lành cho các bạn.
27. Suy tôn Thánh Giá
(Suy niệm của JM.)
Thập giá nhắc đến một nghịch lý này: Chính lúc hạ mình xuống cùng cực, Con Người được nâng lên, được tôn vinh. Lúc Người bị kết án tử hình, thế gian lại được cứu độ.
Bài ca của Thánh Phaolô
Thập giá tới độ thấp nhất trong âm điệu của bài ca trong thơ gởi giáo đoàn Philíphê. Âm điệu của Con Thiên Chúa đời đời tự hạ mình xuống làm người, rồi lại tiến hành được tôn vinh trở về với vinh quang Thiên Chúa. Trung tâm thập giá là phụng vụ, khổ hình là dụng cụ tối cao đem ơn cứu chuộc đến cho loài người. Thập gía mang nặng ý nghĩa sự dữ cùng cực của chúng ta và vì Đức Giêsu đã chịu treo vào nó là dấu chỉ ơn cứu độ chúng ta.
Tôn vinh
Thánh Gioan dùng hình ảnh con rắn đồng Môsê treo lên, những ai bị rắn độc cắn nhìn lên rắn đồng sẽ được chữa khỏi. Đức Kitô bị treo lên thánh giá đem lại ơn cứu độ cho những ngươi nhìn lên Người với lòng cậy trông, sẽ nhận biết Người là con Thiên Chúa. Người trộm lành, môn đệ Gioan, viên sĩ quan Rôma, ông biệt phái Nicôđêmô, ông Giuse Arimathia, nghị viện hội đồng, đây là những vị được vây quanh Thánh Giá Đức Giêsu, mọi sự đã lìa những vị này, chỉ có một người liên kết với các vị ấy là Đức Giêsu trên thập giá.
Chúng ta sẽ không bao giờ hiểu hết những mầu nhiệm của Thiên Chúa: Đức Giêsu là Người tôi tớ đã chiếu tỏa vinh quang Thiên Chúa. Vinh quang xuất hiện từ thập giá, một nghịch lý của mặc khải Kitô giáo tại thế này. Thiên Chúa đã hạ mình thấp hèn trong Đức Giêsu, để mặc khải những sự lạ lùng hơn tất cả mọi quyền nang của thế gian này và nhờ thế đã giải thoát chúng ta khỏi thế gian này.
Trong khi nhìn lên thánh giá, chúng ta cảm tạ Chúa Cha, Ngài đã ban Con Ngài cho chúng ta, và chúng ta nhận ra ý nghĩa đời sống của chúng ta:
Mỗi lần chúng ta cầu nguyện, chúng ta biết đặt mình trước mặt Đức Kitô trên thánh giá. Chúng ta muốn chiêm ngắm Chúa, thì hãy nhìn lên thánh giá, Ngài sẽ hiện ra cho chúng ta nhìn ngắm, nhờ cái nhìn này chúng ta được cứu độ.
28. Thập giá: Quyển sách cao siêu nhất
Người ta thường mượn câu chuyện sau đây để nói đến tinh thần hy sinh, chấp nhận trong cuộc sống.
Có một người kia cứ phàn nàn trách Chúa vì đã gửi đến cho mình một thập giá quá nặng… Chúa bèn đưa người đó đến một cửa hàng có các thập giá đủ cỡ để người đó chọn lựa.Người đó hăm hở bước vào cửa hàng và dựng cây thập giá của mình vào tường. Người đó tự nhủ trong lòng: “Đây là chuyện cả đời người, ta phải hết sức cẩn thận”. Thế là anh ta đi rảo khắp hết mọi lối đi của cửa hàng và thử hết cây thập giá này đến cây thập giá khác.
Nhưng không có một cây nào làm anh vừa lòng. Cây thì quá dài, cây thì quá ngắn. Cây thì quá nhẹ, cây thì quá nặng… Anh lại tiếp tục tìm kiếm. Cuối cùng, anh đã tìm được cây thập giá mà anh cho là ưng ý nhất. Anh mang đến với Chúa và nở nụ cười mãn nguyện: “Lạy Chúa, đây chính là cây thập giá mà con hằng tìm kiếm. Con xin vác lấy”. Khi anh vừa hí hửng ra khỏi cửa hàng, thì Chúa mỉm cười nói với anh: “Ta rất vui mừng vì con đã chấp nhận cây thập giá. Đây cũng chính là cây thập giá mà con đã vac vào và dựng ở tường của cửa hàng”.
Hôm nay Lễ Suy Tôn Thánh Giá, Giáo Hội mời gọi chúng ta đào sâu Mầu Nhiệm Thập Giá trong đời sống Đức Tin của chúng ta. Thánh Gioan Maria Vianney, cha sở họ Ars bên Pháp, đã nói: “Thập giá là quyển sách cao siêu nhất… Chỉ có những ai yêu mến, nghiền ngẫm quyển sách này, những người đó mới thật sự là người thông thái”. Thập giá Chúa Giêsu là quyển sách cao siêu nhất, bởi vì, đó là dấu chứng cao cả nhất của Tình Yêu. “Không có tình yêu nào cao quý hơn mối tình của người thí mạng vì người mình yêu”.
Từ một khí cụ độc ác đê hèn nhất của con người đã có thể nghĩ ra để hành hạ người khác, Chúa Giêsu đã biến nó thành dấu chứng của Tình Yêu: Tình Yêu vâng phục đối với Chúa Cha và Tình Yêu dâng hiến cho nhân loại…
Suy tôn Thánh Giá Chúa, chúng ta hãy cảm tạ Chúa vì đã cho chúng ta được đi vào Mầu Nhiệm Tình Yêu của Chúa. Trong Mầu Nhiệm ấy, cuộc sống của chúng ta không còn bị đè bẹp dưới sức nặmg của những đau khổ nữa, nhưng luôn mang lấy một ý nghĩa: đó là ý nghĩa của Tình Yêu.
29. Lễ Suy tôn Thánh Giá
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
THIÊN CHÚA YÊU THẾ GIAN ĐẾN NỖI ĐÃ BAN CON MỘT
Suy niệm:
Một trong những bức tranh nổi tiếng nhất của danh hoạ Rembrandt, người Hoà Lan, sống vào thế kỷ XVII đó là bức tranh “Ba thập giá.” Nhìn vào tác phẩm, ai cũng bị thu hút ngay vào trung tâm: giữa thập giá cua hai người bất lương, thập giá của Chúa Giêsu trổi lên một cách ngạo nghễ. Dưới chân thập giá là cả một đám đông mà gương mặt nào cũng biểu lộ hận thù oán ghét. Tác giả như muốn nói rằng không trừ một người nào mà không dính líu vào việc đóng đinh Chúa Giêsu.
Nhìn kỹ vào đám đông, người ta thấy có một gương mặt gần như mất hút trong bóng tối, nhưng một vài nét cũng đủ để cho các nhà chuyên môn đoán rằng đó chính là khuôn mặt cua danh hoạ Rembrandt.
Tại sao giữa đám đông của những kẻ đang đằng đằng sát khí khi tham dự vào cuộc thảm sát Chúa Giêsu, Rembrandt lại chen vào khuôn mặt của mình? Câu trả lời duy nhất mà người ta có thể đưa ra để giải thích về sự hiện diện của tác giả giữa đám người lý hình: đó là ý thức tội lỗi của chính ông.
Rembrandt muốn thú nhận rằng chính tội lỗi của ông đã đóng góp vào việc treo Chúa Giêsu lên thập giá. Và qua sự có mặt của ông, tác giả cũng muốn nói với mỗi người chiêm ngắm bức tranh rằng, họ cũng dự phần vào việc đóng đinh Chúa Giêsu.
Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban Con Một:
Loài người càng tội lỗi Chúa càng yêu thương, yêu thương đến nỗi trao ban hết những gì thuộc về mình là Người Con duy nhất. Tình thương ấy được cụ thể hóa bằng việc Chúa Giêsu đã chịu treo trên thập giá. Trên thập giá Chúa đã giải nghĩa yêu thương. Một tình yêu quá cao vời vượt quá sức mường tượng của con người. Thế nên chỉ có hành động, những hy sinh cụ thể mới cảm hóa được lòng người hầu mong cứu họ thoát khỏi cảnh tội lỗi. Chính vì thế, thập giá đã trở thành Thánh Giá; Thánh Giá trở thành biểu tượng tình yêu cứu độ, biểu tượng của sự sống, của vinh quang. Vì thập giá được đón nhận trong tình yêu thì thập giá sẽ trở thành Thánh Giá.
Mừng lễ Suy Tôn Thánh Giá là dịp nhắc nhớ mỗi chúng ta hãy tạ ơn tình Chúa cao vời. Đồng thời nhắc chúng ta cũng biết sống hy sinh cho tha nhân, hy sinh vì những lý tưởng cao đẹp, hy sinh chịu thiệt thân để bảo vệ đức tin. Và nhất là hãy biết yêu người như Chúa yêu ta.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, xưa Chúa đã dùng thập giá để cứu chuộc chúng con. Chúa cũng có thể cứu chúng con bằng những phương thế khác. Nhưng Chúa đã không chọn cách nào khác ngoài việc chết trên thập giá. Và như thế chúng con mới hiểu được Chúa yêu chúng con đến cùng. Chúa đã mang lại cho thập giá một ý nghĩa mới: ý nghĩa của tình yêu trọn hảo. Xin Chúa giúp mỗi người chúng con cũng biết đón nhận thập giá của bản thân với tron vẹn tâm tình yêu thương: Yêu Chúa và yêu mọi người, để tình Chúa luôn mãi ở trong con. Và cuộc đời con luôn diễn tả tình yêu Chúa. Amen.
30. Thánh Giá là nguồn tình yêu và hy vọng
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Ngày nay, chúng ta thấy Thánh Giá được treo khắp nơi, nào là: Nhà Thờ, Nhà Nguyện, nhà tư; ở Nghĩa Trang, trên nấm mộ…; Thánh Giá còn xuất hiện trên áo, trong khăn và khắc trên gỗ, trên đá…; người ta cũng đeo Thánh Giá trên cổ, trên tay…
Tất cả những điều đó diễn tả niềm tin, sự tôn thờ của của người Công Giáo, bởi vì, Thánh Giá là niềm vinh dự, là sự toàn thắng, là ơn cứu chuộc, là sự sống, là niềm hy vọng của chúng ta.
Khi người Công Giáo tôn thờ Thánh Giá, chắc chắn không chỉ đơn thuần là tôn thờ một biểu tượng, càng không phải lưu ký một kỷ niệm buồn gợi lại sự đau khổ và chết chóc…
Nhưng Thánh Giá là tất cả, là trọn vẹn niềm tin, là niềm hy vọng duy nhất của chúng ta.
Tại sao vậy? Thưa! Vì chính nhờ Cây Thánh Giá, mà chúng ta được cứu độ.
Như vậy, khi tôn thờ Thánh Giá, chúng ta suy tôn tình yêu của Thiên Chúa, một tình yêu cứu độ và mang lại cho chúng ta niềm hy vọng phục sinh.
- Tôn thờ Thánh Giá là suy tôn tình yêu của Thiên Chúa
Khởi đi từ việc: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16). Từ “đến nỗi” cho thấy: Thiên Chúa đã yêu quá nhiều, yêu vô bờ và bao la, nhưng chưa thỏa lòng, nên còn một món quà duy nhất, cao quý, là tất cả của Thiên Chúa, nhưng Người sẵn lòng trao tặng cho nhân loại, đó chính là Đức Giêsu.
Khi Đức Giêsu xuất hiện, Ngài đã làm toát lên sự khiêm nhường tột cùng khi vâng lời Thiên Chúa Cha và yêu nhân loại tha thiết, nên Ngài: “…vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2, 6-8). Vì là hiện thân của Thiên Chúa, Đấng Giàu Lòng Thương Xót, nên cả cuộc đời và lời rao giảng của Ngài đều nhằm diễn tả bản chất tình yêu của Thiên Chúa cho con người. Đỉnh cao của mặc khải này chính là cuộc hiến tế trên Thánh Giá. Thật vậy: “Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga 15, 13); “Họa may có ai dám chết vì một người lương thiện chăng. Thế mà Ðức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5,7-8).
Không chỉ trao ban tình yêu cách phổ quát, mà Ngài còn ban riêng cho mỗi người, khiến ai cũng cảm nghiệm được tình yêu cứu độ mà Đức Giêsu dành cho. Quả thật, Ngài là “Ðấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gl 2, 20). Không phải yêu có thời gian và số lượng, mà là tình yêu trường cửu: “Ta đã yêu ngươi bằng mối tình muôn thuở, nên Ta vẫn dành cho ngươi lòng xot thương” (Gr 31, 3); và: “Ta quyết chẳng đoạn tình dứt nghĩa, quyết không hề bội tín thất trung” (Tv 89, 34).
Quả thật, Thiên Chúa đã buộc Mình vào một tình yêu muôn thuở; Người tự tước đoạt tự do của Mình vì yêu thương chúng ta. Đây là ý nghĩa sâu sắc của Giao Ước mà trong Chúa Kitô, nơi Thánh Giá, đã trở nên “mới mẻ và sống động”.
Vì thế, đây là lý do thứ nhất để chúng ta suy tôn Thánh Giá Chúa Kitô.
- Suy tôn Thánh Giá, đem lại cho chúng ta niềm hy vọng cứu độ
Lý do thứ hai chính là vì niềm hy vọng và ơn cứu độ của chúng ta nơi Thánh Giá.
Trong Cựu Ước, chúng ta thấy hình ảnh tiên trưng về Thánh Giá và ơn cứu độ qua cây gậy và con rắn đồng được treo lên.
Bài đọc I trình thuật việc ông Môsê dẫn dân ra khỏi Aicập và trên đường trở về Đất Hứa, dân Israel phải trải qua hành trình trong sa mạc. Trên hành trình ấy, dân đã nhiều lần bất trung, kêu trách Đức Chúa và trút tội lên đầu Môsê. Trước tình cảnh đó, Thiên Chúa đã cho rắn lửa xuất hiện và cắn chết nhiều người. Thấy được sự bất trung và cảm nghiệm sâu xa về tội của mình đã phạm, toàn dân đồng loạt kêu cầu Môsê xin Chúa tha thứ. Thiên Chúa đã nhận lời Môsê và truyền cho ông: “Ngươi hãy làm một con rắn và treo lên một cây cột. Tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống” (Ds 21, 8).
Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu đã minh nhiên xác định hình ảnh này chính là Ngài khi nói: “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3, 14-15).
Thật vậy, mang trong mình niềm tin vào Thiên Chúa và ơn cứu độ ngang qua Đức Giêsu, hẳn chúng ta không bao giờ được phép chối bỏ Thánh Giá bằng bất cứ giá nào. Ngược lại, luôn luôn hướng nhìn lên Thánh Giá Chúa như bảo chứng của ơn cứu đo, bởi vì chính Đức Giêsu đã chọn Thánh Giá làm giá chuộc muôn người. Nhờ cây Thánh Giá, Đức Giêsu đã giải thoát thế gian khỏi xiềng xích tội lỗi, để từ nay, tội lỗi không còn quyền chi đối với Ngài và tất cả những người tin vào Ngài cũng được hưởng nhờ ân huệ đó.
Nếu từ cái chết trên Thánh Giá, Đức Giêsu đã phục sinh, thì chúng ta cũng qua đau khổ, ắt chúng ta có niềm hy vọng được phục sinh như Ngài.
Nếu xưa kia, từ Cây Trái Cấm, mà Tổ Tiên loài người đã sa ngã, cửa Thiên Đàng đóng lại, thì nay nhờ Cây Sự Sống chính là Thánh Giá, cửa Thiên Đàng được mở ra và đón nhận tất cả những ai tin vào Cây Trường Sinh.
Như thế, Thánh Giá là biểu trưng cho sự khôn ngoan của Thiên Chúa và của những ai đón nhận như nguồn ơn cứu độ. Đây chính là nghịch lý của Thiên Chúa và của cả chúng ta, vì: “Dân Do thái thì đòi phép lạ, dân Hy lạp thì tìm lý lẽ cao siêu; còn chúng tôi lại rao giảng một Đức Kitô trên Thập giá […]. Thế nhưng, đối với ai được gọi, dù là Do thái hay Hy lạp, thì đó là một vị cứu tinh với quyền năng và khôn ngoan của Thiên Chúa” (x. 1Cr 1,18-25).
- Suy tôn Thánh Giá, chúng ta học được bài học thứ tha
Cuối cùng, khi suy tôn Thánh Giá, chúng ta được mời gọi hãy: “yêu thương như Thầy đã yêu thương” (x. Ga 13,3-35). Yêu như thầy là phục vụ vô vị lợi. Yêu như Thầy là hiến thân cho người mình yêu, không phân biệt bạn hay thù (x. Lc 6, 27-35). Yêu như Thầy cũng là tập sống bao dung, tha thứ, không xét đoán, giận hờn và luôn hướng tới sự thiện trọn hảo: “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ”, bởi vì: “Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau” (Cl 3:12-13).
Như vậy, yêu Chúa thì cũng phải yêu người. Lệnh truyền này không thể tách rời nhau. Nó luôn kết hợp với nhau cách chặt chẽ như thể thanh ngang và thanh dọc của Thánh Giá.
Kết hợp cả hai mới thành Thánh Giá, thì mến Chúa và yêu người phải luôn luôn sát cánh bên nhau không thể tách rời.
Lạy Chúa, chúng con tôn thờ Thánh Giá Chúa. Xin Thánh Giá Chúa rợp bóng trên cuộc đời chúng con, để chúng con được ơn cứu độ. Xin cũng cho chúng con học được bài học tha thứ của Chúa ngang qua Thánh Giá. Amen.
31. Suy tôn Thánh Giá
(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
1) Lòng mến mộ và tôn kính Thánh Giá đã có từ lâu đời trong Kitô Giáo. Cụ thể, khi đề cập đến Giáo hội từ thời sơ khởi, vào thế kỷ đầu của ngàn năm thứ nhất, nhiều chuyên gia về giáo sử, đặc biệt như Giáo phụ Tertuliano, đều cho biết: “Bất kỳ làm một việc gì có ý nghĩa, người Kitô hữu đều làm dấu Thánh Giá”. Thậm chí người Kitô hữu có thói quen làm dấu Thánh Giá trên người và vật như dấu chỉ sự chúc lành. Nhưng, phải đến thế kỷ thứ 4 trở đi mới có ngày lễ dành để tôn vinh Thánh Giá.
2) Đầu tiên, khi tìm được di tích Thánh Giá vào năm 326, bà Helena cho xây cất hai đền thờ, một tại núi Calvario và một tại Mộ Thánh ở Thánh Địa. Lễ khánh thành và cung hiến hai đền thờ này được tổ chức trọng thể tại Giêrusalem vào hai ngày 13 và 14 tháng 9 để mừng Đền thờ Calvario và Mộ Thánh. Năm 335, ngày 14 tháng 9 cũng mừng kính ngày tìm được Thánh Giá thực vào 14 tháng 9 năm 326. Vì gỗ Thánh Giá thực rất quý, nên được phân ra nhiều phần rất nhỏ, chia cho các Giáo hội tại mỗi nơi. Thành Constantinopoli được phần Gỗ Thánh lớn hơn và phần còn lại được lưu niệm tại Giêrusalem. Từ đó, ở Giêrusalem lễ tìm được Thánh Giá mừng kính trọng thể vào ngày 14 tháng 9.
3) Tiếp đến, Lễ Suy Tôn Thánh Giá được thiết lập tại Giêrusalem vào 14/9/629 như chứng tích sau:
Thế kỷ thứ 6, khi giặc giã nổi lên, vua Ba Tư Khosroès 1 (531–579), đem quân đến Cận Đông và đánh thắng quân của đế quốc Roma ở Phương Đông, chiếm đóng và tàn phá Thánh Địa, rồi cướp luôn cả Thánh Giá thực ở Giêrusalem. May thay, lúc ấy có ông Heraclius (575–641), vị tướng tài giỏi mới 35 tuổi, con của tổng trấn thành Carthage, đã lật đổ bạo chúa Phocas, rồi lên nắm quyền ở Constantinopoli ngày 3/10/610, và làm hoàng đế Byzantin, lấy hiệu là vua Heraclius 1 (610–641). Ông đã anh dũng điều khiển trận đánh và chiến thắng đầu tiên ngày 12/12/627. Ông rượt đuổi vua Khosroès 1 đến Ctésiphon, và tại đây, con trai của Khosroès là Siroes Shirva đã giết cha và giao nộp Thánh Giá thực lại cho vua Heraclius 1.
4) Năm 629, Thánh Giá được kiệu về Constantinopoli, rồi từ đó rước khải hoàn về Giêrusalem. Vua Heraclius muốn vác Thập Giá vào đền thờ để tạ ơn Chúa. Ông mặc vương phục và đội mũ hoàng đế. Nhưng khi vác Thánh Giá lên vai, ông thấy quá nặng. Tức thì, Đức Zacharias, Giáo chủ Giêrusalem, liền nói với vua: “Xin hoàng đế thận trọng, vì với mũ miện và y phục vương quyền mà ngài đang mặc, ngài không hợp để vác Thập Giá giống như thân phận khó nghèo, khiêm tốn của Chúa Giêsu Kitô”.
Nhà vua nghe theo lời Đức Giáo chủ, bỏ hết mũ miện, vương phục. Tức thì gỗ Thập Giá trở nên nhẹ nhàng và Heraclius 1 vác Thập giá gỗ vào đền thờ. Với gỗ Thập Giá Thánh, Thiên Chúa còn ban nhiều phép lạ, trong số có một người chết được sống lại; bốn người bất toại được lành bệnh; mười người phong cùi được trở nên sạch sẽ, bình phục; mười lăm người mù được sáng mắt; vô số người bị quỷ ám được giải thoát…” (Theo nghiên cứu của Abbé L. Jaud, Vie des Saints, 1950)
32. Những kẻ điên
(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
Xả thân nếu muốn theo Thầy
Vác cây khổ giá hằng ngày mà theo.
(Mt 16,24)
- LƯỢC SỬ LỄ KÍNH THÁNH GIÁ.
- Suy tôn thánh giá Chúa.
Dưới thời hoàng đế Hérachius I, những người Ba tư xâm chiếm Giêrusalem và lấy mất phần chính của thánh giá thật mà thánh Hélène, mẹ của hoàng đế Constantin đã để lại. Hérachius nhất định chiếm lại thánh giá này. Ngài cầu nguyện, xin Chúa giúp đỡ và nung nấu lòng can đảm. Quả nhiên, lời cầu xin của vua dược Chúa chấp nhận, ngài đã đánh bại được quân Ba tư và trở về Constantinople giữa tiếng reo hò của dân chúng. Với những cành olive, những ngọn đuốc cháy sáng, thánh giá thật của Chúa được tôn vinh trong bầu khí khải hoàn. Hoàng đế tràn trề sung sướng muốn trở về Giêrusalem với thánh giá này sau mười bốn năm lưu lạc.
Nhà vua tiến vào thành thánh, nhưng trước khi lên núi Sọ, ngài đã không thể bước đi được nữa, khiến cho mọi người đều kinh ngạc sợ hãi. Giáo trưởng Zacharie hô lớn: “Tâu đức vua, chắc chắn phẩm phục của đức vua không xứng hợp với cảnh nghèo nàn và khiêm nhường của Chúa Giêsu khi vác thánh giá”. Hérachius vội cởi bỏ mọi phẩm phục sang trọng, và thay vào bằng bộ áo quần nghèo hèn. Tức thì nhà vua cất bước một cách dễ dàng… và để tỏ ra sự khải hoàn, Chúa đã ban nhiều phép lạ cả thể trong ngày ấy.
Từ đó, lễ kính thánh giá Chúa Giêsu được lập ra để nhắc nhở cho các thế hệ kỷ niệm này.
- Cây khổ giá của Chúa.
Theo nhiều nhà nghiên cứu Thánh kinh, người ta cho biết một số đặc điểm về cây thánh giá ấy. Cây thánh giá này bằng gỗ tùng rất nặng. Cây dọc 4 thước rưỡi, cây ngang 2 thước rưỡi, nặng 100 ký. Vác kéo lê thì giảm sức nặng đi 30 ký. Như vậy, Chúa còn bị sức nặng 70 ký đè trên thân xác yếu ớt vì đòn vọt, và vác khệ nệ trên con đường dai 700 thước. Quãng giữa thánh giá, thường đóng một miếng gỗ để tội nhân tì mông vào cho dễ đóng đinh, và đóng mỗi chân một đinh. Nay các nhà kỹ thuật đã hạ miếng gỗ đó xuống làm đế đỡ chân, và hai chân đóng chụm lại cho đẹp.
- Ý NGHĨA CÂY THÁNH GIÁ.
- Đối với dân ngoại.
Thập giá là một dụng cụ để xử tử phạm nhân mà người Phênixi đã dùng trước hết, kế đó người La mã cũng dùng. Nhưng chính phủ La mã chỉ dùng hình phạt này cho kẻ nô lệ, dân bị trị, những người thấp hèn và những người phạm các giống tội bị coi là nặng nề nhất như trộm cướp, ít khi áp dụng cho công dân La mã. Đóng đinh trên thập giá là một hình phạt đau đớn, nhục nhã và độc dữ nhất. Bàn về hình khổ đó, nhà hùng biện trứ danh La mã xưa, ông Cicéron, đãkêu lên: “crudelissimum et teterrimum supplicium” (cực hình ghê rợn và độc dữ nhất).
Trước hết, phạm nhân bị đánh đòn cách tàn nhẫn, rồi cả tay và chân đều bị những mũi đinh to xuyên qua và dính vào thanh gỗ. Bây giờ thập giá được dựng lên. Máu ra nhiều, nhiệt độ trong người gia tăng thành một cơn sốt rất nặng, phạm nhân bị kiệt sức, lưỡi bị khô cứng, các mạch máu sưng lên, các đường gân căng thẳng, toàn thân nhức nhối vô cùng. Thường thường phạm nhân bị thống khổ như vậy đôi ba ngày, hoặc một tuần rồi mới chết. Thời gian ấy câm bằng bao thế kỷ!
Như vậy, cây thập giá là dịp vấp phạm cho người ngoại. Thánh Phaolo đã nhận xét: “Trong khi người Do thái đòi dấu lạ, và người Hy lạp tìm sự khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Kitô đã bị đóng đinh vào thập giá, cớ vấp phạm cho người Do thái, sự điên rồ đối với người dân ngoại (Hy lạp)” (1Cr 1,22-23).
Tại sao có thể xưng nhận một người chịu chết nhuốc khổ đến thế là Chúa? Nếu Ngài toàn năng, sao Ngài đành thinh lặng trước thái độ ngỗ nghịch của bao kẻ khôn ngoan. Thế lực gì kẻ bị chết trần truồng không mảnh vải che thân: đó, lý luận của người đời. Với trí suy hiểu tự nhiên, họ không thể thấy cao nhìn xa hơn được nữa. Cái chết của Ngài có thể coi như một sự chúc dữ của Thiên Chúa (Dt 21,22). Ngài đã nhận cực hình của kẻ nô lệ (Gl 3,13). Nói đúng hơn, không những là cực hình nhưng còn là khổ nhục nữa (xem thêm Phil 2,8; Dt 12,2 và 13,3; Mt 27,42; Lc 23,39).
- Đối với Kitô hữu.
Chúa Giêsu đã dùng cây thánh giá để chuộc tội cho nhân loại, nhờ cây thánh giá mà nhân loại được sống. Như thế, đối với chúng ta, cây thánh giá không còn đáng ghê tởm và kinh khiếp nữa, trái lại, nó là niềm kiêu hãnh của chúng ta. Thánh Tông đồ dân ngoại kể như mình đã bị đóng đinh vào thập giá với Chúa Giêsu, khoe về thập giá của Chúa Giêsu và lấy làm vinh dự rao truyền thập giá ấy bất cứ nơi nào. Ngài đã múc được sự khôn ngoan trong thánh giá Đức Kitô, một thứ khôn ngoan mà người thông thái trần gian không có:
“Lời giảng về thập giá Chúa Kitô, quả thực, đối với những kẻ hư hỏng (cứng lòng tin) là điều điên rồ, nhưng đối với những ai được cứu rỗi như chúng ta, lại là sức mạnh của Thiên Chúa, vì có lời chép: “Ta sẽ hủy diiệt sự thông thái của người thông thái, và phế bỏ sự khôn ngoan của người khôn ngoan (Is 29,14). Người khôn đâu? Văn sĩ đâu? Người biện lý thế gian đâu? Nào Thiên Chúa đã chẳng khiến sự khôn ngoan của thế gian này ra ngu ngốc sao? Vì thế gian chẳng theo sự khôn ngoan Thiên Chúa để nhận biết Thiên Chúa, mà chỉ theo sự khôn ngoan riêng mình, nên Thiên Chúa muốn dùng lời giảng điên rồ (về thập giá Chúa Kitô) để cứu rỗi những ai tin theo!
Người Do thái đòi phép lạ, người Hy lạp tìm triết lý: còn chúng tô lại rao giảng Đức Kitô chịu đóng đinh: Đấng người Do thái cho là gương xấu, còn dân ngoại cho là điên rồ, nhưng đối với những người Do thái va Hy lạp đã được Chúa gọi, thì Đức Kitô lại là sức mạnh và sự khôn sáng của Thiên Chúa: Vì sự điên rồ của Thiên Chúa còn khôn sáng hơn sự khôn sáng của loài người, và sự yếu đuối của Thiên Chúa còn lực lượng hơn sức mạnh của loài người” (1Cr 1,18-25).
Chính vì cây thánh giá đã đem đến cho nhân loại ơn cứu rỗi, nên Giáo hội đã xưng tụng: O crux, ave, spes unica: kính chào cây thánh giá là niềm hy vọng độc nhất của chúng tôi. Trong bài ca vãn ngày thứ sáu tuần thánh cũng có câu: Ôi, thánh giá trung tín, là cây cao qúi hơn mọi cây: không rừng nào có cây lá, hoa trái như vậy. Ôi gỗ êm ái, gỗ mang thân nặng đóng đinh dịu dàng! Hỡi miệng lưỡi, hãy ca hát chiến thắng vinh hiển, hãy công bố cuộc chiến thắng oai hùng trên thập giá: Đấng cứu độ thế gian tự hiến tế đã toàn thắng.
- Thập giá và vinh quang.
Chúa có thể cứu rỗi chúng ta bằng nhiều cách, chỉ một giọt mồ hôi của Chúa đổ ra cũng đủ dư để cứu chuộc nhân loại, nhưng Chúa Giêsu không muốn thế, Ngài muốn dùng một hình phạt ghê sợ nhất để thực hiện công cuộc cứu chuộc. Nhờ cây thập giá mà Chúa Giêsu đã lôi kéo mọi sự và mọi người về với Chúa: “Khi nào chịu treo trên thập giá, Ta sẽ kéo mọi sự về với Ta”. Nhờ cái chết đau thương ô nhục mà Chúa Giêsu đã phục sinh vinh thắng để đem lại cho ta sự sống dồi dào. Phải chết đi rồi mới sống lại được, không chết thì phục sinh làm sao? Hạt giống không mục nát ra, làm sao có thể trổ mầm và sinh hoa kết quả được? Chúa Giêsu đã nói như vậy:
Này Ta bảo thật các con,
Hạt kia nếu chẳng xuống bùn chết di,
Một mình nó được ích gì!
Còn như nó chết tức thì sinh ra
Muôn ngàn những quả cùng hoa.
(Ga 12,14)
Trong đời sống hằng ngày, ai cũng có kinh nghiệm về những thành công của mình hoặc của người: không có thành công nào mà không được mua bằng hy sinh. Ông Corneille đã nói rất đúng: “Chiến đấu càng gian nan, khải hoàn càng vinh thắng”.
Truyện: hoàng tử và thanh kiếm
Vua Charles V một lần kêu hoàng tử đến và cho hoàng tử được lựa chọn. Trên bàn vua đặt một thanh kiếm và một triều thiên.
Vua nói:
– Con chọn cái nào?
Ngần ngừ một lúc, hoàng tử cầm lấy thanh kiếm.
Vua cha hỏi:
– Sao con lại chọn thanh kiếm?
Hoàng tử cầm thanh kiếm chỉ vào vương miện và đáp:
– Nhờ thanh kiếm này, con sẽ được triều thiên kia.
Chúng ta cũng phải bắt chước gương hoàng tử để chịu khó ở đời này. Phần thưởng đời sau của chúng ta chỉ có thể mua được bằng thanh kiếm của những sự khó nhọc vất vả, những hy sinh hằng ngày, những công việc không tên tuổi, những công việc đều đều nhàm chán, những sự từ bỏ mình liên miên, vì:
Lúc vất vả, lúc thanh nhàn,
Không dưng ai bỗng đem tàn che cho.
(ca dao)
- Cây thập giá và đức tin.
Chúng ta đã biết, cây thập giá đối với người ngoại, đối với những người không có đức tin thì đó là cả một vật kinh tởm, một sự thất bại và nhục nhã ê chề của một Giêsu chịu đóng đinh, người mà dân chúng đã tố cáo là một tên phản loạn. Nhưng đối với chúng ta, với con mắt dức tin, ta thấy trong thập giá Đức Kitô cả một nguồn tài sản phong phú, một nguồn ơn dồi dào vô biên, một nguồn suối không bao giờ cạn, một kho tàng lớn lao không gì có thể chứa nổi. Những cái đó, người thông thái thế gian với con mắt thịt không bao giờ có thể trông thấy được.
Truyện: kho tàng và hạt kim cương.
Theo tài liệu sử cho biết: năm 1662 một chiếc tầu Tây ban nha chở đầy vàng đã bị chìm xuống đáy biển… Người ta đã bỏ ra hơn hai triệu Mỹ kim để tìm kho tàng ấy nhưng đến nay vẫn chưa tìm thấy.
Chúa Giêsu cũng ví Nước Trời giống như kho tàng chôn dưới đất, một người biết được đã bán tất cả để mua cho được thửa ruộng ấy. Nước Trời cũng giống như hạt kim cương quí giá tìm được (x. Mt 13,44-46).
Hiện nay cục kim cương lớn nhất thế giới đuợc tìm thấy tại Nam phi năm 1917. Cục kim cương này nặng 3200 cara. Người ta đã chia cục kim cương này thành 105 miếng nhỏ và trong số đó vẫn còn hai cục được kể là lớn nhất thế giới. Cục kim cương trên đã dâng cho Anh hoàng là Edward VII.
Nhiều mgười khôn ngoan đã đi tìm sự khôn ngoan trong thập giá của Chúa nhưng chẳng bao giờ tìm được vì họ còn thiếu điều kiện “sine qua non”, đó là đức tin. Họ chỉ nhìn thập giá dưới khía cạnh vật chất thì làm sao có thể tìm thấy được ý nghĩa thiêng liêng của nó. Họ giống như một ông lão ở nước Ba tư, nghe lời khuyên của một đạo sĩ đi tìm vàng. Ông đã bán hết gia sản, đi khắp nơi để tìm, nhưng… công dã tràng. Ông buồn bực nên đã tự tử. Một người nông dân đã mua nông trại của lão và sau đã khám phá ra, đó là một mỏ kim cương lớn. Và trong đó người ta cũng tìm thấy hai hạt kim cương lớn nhất thế giới của Nga hoàng và Anh hoàng.
III. TẠI SAO NGƯỜI TA YÊU THÁNH GIÁ?
- Ai khôn, ai dại?
Trong đời sống hằng ngày, người nào cũng muốn cho mình là khôn, ai cũng muốn cho mình là thầy của thiên hạ, mình là cái túi khôn muôn đời, nhưng thử hỏi có mấy người khôn thật, có mấy người có con mắt tinh đời để nhìn sự vật cho đúng? Người ta hay đánh giá sự vật theo cái vỏ bên ngoài mà quên cái bản chất của nó nhiều khi “sù sì da cóc trong bọc trứng tiên” bởi vì nó “xanh vỏ đỏ lòng” ai ngờ được. Chỉ có những người chuyên môn và có con mắt tinh đời mới nhìn đúng sự vật.
Truyện: Ngọc Biện Hoà.
Đời chiến quốc bên Tàu, có người nước Sở tên Biện Hoà tìm được ở núi Kim sơn một viên ngọc qúi đem dâng vua Lệ Vương, vua trao cho thợ xem thử, thợ bảo là đá. Biện Hoà bị khép tội khi quân và bị chặt một chân. Đời vua sau là Bảo Vương, Hoà cũng đem dâng như trước và lại bị chặt thêm chân nữa. Tới đời Sở Văn Vương, Hòa định đem dâng, ngặt vì cụt hai chân không đi được. Hòa ngồi khóc ba ngày, có người hỏi, Hòa đáp: “Không phải tôi muốn dâng công mà chỉ vì không có kẻ nhìn ra ngọc qúi “. Sở văn Vương nghe được liền sai người đập đá ra, quả thấy ngọc ở trong. Từ đó đặt là ngọc Biện Hòa.
(Hương liệu, Sàigòn, 1975, tr 196)
Biện Hòa là người có con mắt tinh anh, biết nhìn ra giá trị của viên đá, bề ngoài xem ra chỉ là hòn đá, nhưng bên trong thực sự đã có sẵn viên ngọc. Biện Hòa bị chặt hai chân chỉ vì không có ai nhìn ra được viên ngọc ở trong thôi. Ở đời thiếu gì những cảnh tượng như thế xẩy ra chung quanh chúng ta.
Trong đời sống thiêng liêng, số người như thế lại càng nhiều. Nếu người ta chỉ nhìn mọi vật theo chiều hướng vật chất thì làm sao người ta có thể tìm ra được cái ý nghĩa thiêng liêng cao qúi tàng ẩn trong đó. Nếu người ta chỉ nhìn thấy cây thập giá với con mắt vật chất thì cây thập giá ấy chẳng có nghĩa lý gì, mà còn làm trò cười cho thiên hạ. Và những ai yêu mến cây thập giá thì đúng là NHỮNG KẺ ĐIÊN, kẻ khùng, kẻ nông nổi, mê tín dị đoan. Nhưng với con mắt đức tin, người ta mới tìm ra sự khôn ngoan vô cùng đã chứa sẵn trong cây thập giá đó, giống như Biện Hòa đã tìm ra ngọc qúi trong viên đá tầm thường đó.
- Thằng Bờm khôn hay dại?
Không ai trong chúng ta lại chưa nghe bài ca dao về thằng Bờm! Ai cũng cho thằng Bờm thuộc vào típ người khờ dại, nửa người nửa ngợm nửa đười ươi. Đúng thế, chính tôi xưa nay vẫn hiểu như vậy vì ý nghĩa của nó qúa rõ ràng: thằng Bờm chỉ có cái quạt mo thôi, thế mà phú ông lần lượt đổi cho nó: ba bò chín trâu, ao sâu ca mè, một bè gỗ lim, đôi chim đồi mồi, nhưng Bờm ta nhất định không đổi. Sau cùng phú ông đổi cho nắm xôi, thì Bờm cười ưng thuận ngay!.
Chúng ta thấy diễn tiến câu chuyện thật là chặt chẽ: phú ông thích cái quạt mo của thằng Bờm quá, nên không ngần ngại đổi ngay cho nó ba bò chín trâu, một cái gia giản quá lớn lao đối với thằng Bờm. Nhưng lạ thay, thằng Bờm không thích, có lẽ to quá chăng? Phú ông liền hạ xuống ao sâu cá mè. Bờm cũng không chịu. Phú ông hạ xuống nữa, và sau cùng, ông tưởng là thằng Bờm này khờ dại nên thử đổi cho nó nắm xôi xem sao. Đúng tủ, thằng Bờm cười khoái trá, nhận lấy. Mọi người thấy thái độ của thằng Bờm đúng là thái độ của một đứa khùng, tiền của nhiều không đổi, lại đi đổi lấy nắm xôi. Khờ ơi là khờ!
Nhưng nếu câu chuyện thằng Bờm chỉ có thế, và người ta thoả mãn ngay với câu kết: phú ông xin đổi nắm xôi Bờm cười để kết luận rằng thằng Bờm là thằng khờ, thì thiết tưởng người ta đã hiểu câu chuyện đó một cách quá đơn giản, ý nghĩa quá nông cạn. Riêng tôi, sau khi đã suy nghĩ về cách kết cấu của bài này, tôi thấy bài ca dao Thằng Bờm hàm chứa cả một triết lý sâu sa về cuộc đời và một nền đạo đức căn bản cho đời sống tu trì của chúng ta.
Trước tiên, ta thử hỏi: Tại sao phú ông lại thích cái quạt mo của thằng Bờm đến thế? Có cái gì hấp dẫn mà ông đã bỏ ngay ra ba bò chín trâu để đổi lấy, trong khi cái quạt mo chỉ là cái bẹ cau già cắt đi để làm quạt, một thứ quạt tầm thường và rẻ tiền của những người dân quê nghèo khổ! Nếu không thì phú ông lại chính là thằng khùng!
Sở dĩ phú ông đã làm một cuộc trao đổi như thế là vì phú ông tuy là người giầu có, nhưng trong lòng không bao giờ được thảnh thơi, thoải mái, đúng như người ta nói:
Ăn cơm với thịt bò thì lo ngay ngáy,
Ăn cơm với cáy thì ngáy o o.
Phú ông luôn bon chen, kèn cựa với người khác để làm giầu và còn phải tìm cách để giữ của, vì thế, không lúc nào ông thấy thảnh thơi. Lúc này ông thấy thằng Bờm phe phẩy cái quạt mo ra vẻ ung dung, sung sướng làm cho phú ông phát thèm. Phú ông là người chỉ biết có tiền, có của, không biết niềm vui sướng thảnh thơi của thằng Bờm bởi đâu mà đến, ông tưởng rằng sự vô tư thảnh thơi của nó ở trong cái quạt nên ông mới đổi lấy để hòng có được lấy những phút thảnh thơi trong đời.
Phú ông tưởng rằng bỏ ra một tài sản kếch sù như thế để đổi lấy cái quạt mo thì ăn chắc rồi. Nhưng ngược lại với điều ông suy tưởng: Bờm ta nhất định không đổi. Phú ông lại nghĩ: thằng này đúng là khờ rồi, tại sao không đổi, ừ, ta hạ xuống xem sao, hạ xuống, hạ nữa, sau cùng, mình đổi cho thằng khờ nắm xôi xem nó có đổi không! Đến đây ta thấy thằng Bờm nó cười.
“Bờm cười”. Hai tiếng kết thúc bài thơ này cần cho chúng ta suy nghĩ. Bờm cười có nghĩa gì? Bờm ưng thuận hay Bờm từ chối? Đến đây tôi cho rằng: thằng Bờm đã từ chối. Cái cười của thằng Bờm hàm chứa một chút khinh bỉ đối với phú ông. Nó cho rằng: ông tưởng tôi là thằng khờ, nhưng tôi đâu phải là thằng khờ! Ông đổi cho tôi ba bò chín trâu, tôi còn chả lấy, lấy chi nắm xôi cho nó rẻ người ra. Sở dĩ tôi không muốn đổi lấy cái tài sản to tát của ông là vì tôi không muốn trở thành người giầu có bon chen như ông kẻo mất đi cái sự thanh thản của tâm hồn. Tôi không muốn tiền bạc của cải chi phối tôi, vì người ta thường nói: “Hoàng kim hắc nhân tâm” hay “Đồng tiền đổi trắng thay đen lòng người”. Tiền của đâu có làm cho người ta hạnh phúc.
Anh chàng Bờm này khôn thật, anh đã thấy Chúa Giêsu nói lên một sự thật phũ phàng là của cải thường ám ảnh lòng trí con người khiến họ khó bề siêu thoát:
Nơi con chôn giấu kho tàng,
Trí lòng con hẳn tấc gang không lìa.
(Mt 6,21)
- Chúng ta khôn hay dại?
Trong phạm vi siêu nhiên, không phải ai cũng có thể trông thấy những thực tại giống nhau, mà mỗi người thấy nhiều hay ít, rõ hay mờ, tùy ở mức độ Chúa cho biết, mà Chúa thường tỏ lộ cho kẻ khiêm nhường bé mọn: “Lạy Cha là Chúa trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu các điều ây cùng hạng người khôn ngoan thông thái, mà đã tỏ bầy tỏ cho người bé mọn”(Mt 11,25;Lc 10,21). Ai được Chúa cho biết những bí nhiệm Nước Trời, đó là người có phúc: “Phần các con, mắt các con có phúc vì được thấy, tai các con có phúc vì được nghe. Quả thật Thầy bảo các con: nhiều vị tiên tri, nhiều đấng công chính đã ao ước đuợc thấy điều các con thấy, mà không được thấy, nghe điều các con nghe, mà không được nghe”(Mt 13,16-17).
Chúng ta có phúc vì được hiểu những sự về Nước Trời, trong khi những người khôn ngoan trần thế này không được hiểu. Chúng ta đã đọc Phúc âm, ta còn nhớ: có một chàng thanh niên đến hỏi Chúa Giêsu xem, anh phải làm việc gì lành để được sống đời đời? Chúa Giêsu đã không ngần ngại trả lời:
Nếu con muốn ở trọn lành,
hãy về bán hết gia phần của con.
Phát cho quả phụ cô nhi,
kho tàng thiên quốc con thì cầm tay.
(Mt 19,21)
Nghe lời khuyên này, chàng thanh niên tiu nghỉu, anh lặng lẽ bỏ ra đi mà không bao giờ trở lại. Lời khuyên của Chúa khó nghe vì nó không thích hợp với lối sống, với lối suy luận của con người xương thịt, của những con người còn bị vật chất chi phối quá nhiều. Nếu người ta lại phải nghe bài giảng Tám mối phúc thật ở trên núi (x.Mt 5,3-11) thì người ta có thể chấp nhận được không? Chắc người ta sẽ cho là lời nói chói tai, không thể chấp nhận được. Nhưng chỉ những người nào đuợc ơn hiểu thì mới có thể hiểu được.
Chúng ta đi tu, người ta nhìn người tu sĩ với con mắt ngỡ ngàng, khó hiểu. Người ta thắc mắc: tại sao những người này lại đi tu? Tại sao họ lại bỏ cả mọi sự đời mà chấp nhận một đời sống khắc khổ như vậy? Tại sao họ lại đi tu dòng Mến Thánh Giá, lý do nào thúc đẩy họ làm như thế? Phải chăng họ là những người khờ, NHỮNG NGƯỜI ĐIÊN, phải chăng đây là hiện thân của những thằng Bờm trong thời đại nguyên tử và phi thuyền này? Họ còn đặt nhiều câu hỏi mà không có câu trả lời, vì họ không có con mắt đức tin để hiểu được những thực tại siêu nhiên. Chúng ta nhận mình là những thằng Bờm, nhưng là những thằng Bờm khôn ngoan, đó là bỏ đi tất cả để được tất cả: “Kẻ nào muốn cứu lấy mạng sống mình, thì sẽ mất, còn kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Ta, thì sẽ được sống” (Mt 16, 25).
- CHÚNG TA PHẢI LÀM GÌ?
- Yêu mến Thánh giá Chúa.
Thánh Augustinô nói: “Yêu ai thì nên giống ngưới ấy”. Chúng ta yêu mến Chúa Giêsu thì chúng ta cũng phải trở nên giống Người, phải trở nên đồng hình đồng dạng với Người. Chúa Giêsu đã được tiên tri Isaia mô tả là một tên tôi tớ rốt hèn, chịu đau thương (x. Is chương 53). Thánh Tông đồ dân ngoại lại mô tả: “Đức Giêsu Kitô vốn là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,6-8).
Chúng ta phải bắt chước Chúa ở chỗ phải đóng đinh xác thịt mình vào thánh giá Chúa để được nên giống như Người. Và muốn để dễ nhớ đến Người, chúng ta đã đeo thánh giá Chúa ngay ở trước ngực. Chúng ta đeo thánh giá không phải để trang hoàng nhưng để nhắc nhở chúng ta về Chúa Kitô chịu đóng đinh.
Truyện: đeo thánh giá vàng.
Gia đình kia có cô con gái 18 cái xuân xanh được cha mẹ hết sức nuông chiều nâng niu, vì là đứa con một hiếm hoi. Mặc dầu nhà nghèo, hai ông bà cố gắng kiếm tiền nuôi sống và cung cấp cho con ăn mặc để lên mày lên mặt với chị em. Cô đòi cha mẹ phải sắm cho cô một tượng thánh giá bằng vàng đeo vào cổ để làm đồ trang sức cho hơp thời trang.
Vì được quá nuông chiều nên cô làm phách lối, hơi bị trái ý một tí là cô la hét, chửi bới không biết nể lời. Cổ cô đeo thánh giá thật đấy nhưng không bao giơ cô nghĩ tới thánh giá để làm một vài việc hy sinh hãm mình để theo gương Chúa.
Một hôm người cha nói với cô: “Con ơi, nhiều ngày cha vác những bao than nặng nề trên vai, trèo lên những nhà cao năm, sáu tầng, vai cha tê cứng, và cha tưởng nhở đến Chúa Giêsu cũng chịu khốn khổ trên vai vì cây thánh giá quá nặng mà Người phải vác. Cha liền dâng lên cho Chúa những sự cực khổ của cha để xin cho con cái cha được theo Chúa giữ đạo cho sốt sắng. Này con, có phải mang thánh giá vàng đeo vào cổ là đủ đâu? Có phải đó là trọn lời Chúa đã khuyên: “Hãy vác thập giá hằng ngày mà theo Chúa chăng” (Mt 16,24).
Đến đây, cô con gái mới sực tỉnh về thái độ vô ý thức của mình và mới hiểu lời khuyên bảo của người cha.. Từ đấy cô đã sửa đổi được cuộc sống, cô bán tượng thánh giá vàng đi, phân phát cho kẻ khó và chỉ đeo tượng thánh giá thường thôi, không phải đeo để trang hoàng, nhưng đeo để nhắc nhở cô luôn biết theo Chúa, vác thánh giá Chúa hằng ngày bằng cách chấp nhận cuộc sống với bao hy sinh, bao đau khổ và nhẫn nhục chịu đựng mọi trái ý hằng ngày, có ý kết hợp vào sự thương khó của Chúa trong việc cứu rỗi các linh hồn.
Người dân Việt nam luôn có đầu óc sùng kính những gì đáng cho là sùng kính. Từ tên cha mẹ, ông bà cho đến một ông vua, thời quân chủ, không bao giờ họ dám gọi tên thật. Họ lấy tên người con trưởng để gọi thế tên cha, hay nói chại cái tên đi, ví dụ: nếu tên Cảnh thì gọi là Kiểng. Nhiều ông đồ, vì tính gàn cứ dùng tên húy của vua, của bà con dòng họ vua, là bị đạp vỏ chuối ngay. Có khi còn bị ăn cơm vắt phèn. Đó là cái tên gọi. Còn chữ viết, Các người theo đạo Khổng Mạnh hay Phật giáo, ho qúi trọng đạo cho đến chữ viết cũng qúi. Đi giữa đường, gặp tờ giấy chữ nho, hay một trang kinh sách chữ nho, họ liền cúi xuống, kính cẩn nhặt bỏ túi đem về đốt. Lòng sùng kính chân thật của họ được biểu lộ dưới nhiều hình thức. Tất cả những hình thức ngay thẳng, chân thành đều đáng cho ta lưu ý.
Trở lại câu hỏi: Thánh giá dùng để làm gì? Có phải dùng để trang sức không?
Ông bà cha mẹ ta, một khi qua đời, để lại cho ta một vật gì qúi báu nhất? Tấm hình, được để trên bàn thờ hương khói hằng ngày, dù nó chỉ là miếng giấy không hơn không kém. Nhưng trong miếng giấy ấy có cái gì linh thiêng nhất? Đó là hình dáng ông bà cha mẹ, đôi mắt dịu hiền, nụ cười tươi tắn, bàn tay mềm mại, nhưng đã nuôi nấng, dạy dỗ, gầy dựng cho ta thành người.
Còn cây thánh giá, tại sao không đeo chỗ khác, như trong cổ tay chẳng hạn, mà lại đeo trên cổ trên ngực? Để làm gì? Để đêm ngày kính nhớ Chúa Giêsu đã hy sinh tất cả cho ta, đem lại cho linh hồn ta một đời sống sung mãn. Trên cây thánh giá có hình ai? Ta nhìn Đấng bị đónh đinh trên thánh giá lòng ta lo nghĩ ra sao? Ta đeo tượng thánh giá trước ngực để luôn ghi tạc vào lòng, vào trí não bổn phận ta đối với Chúa, gắng ở làm sao cho Người được vui lòng, để đền đáp lại một phần nào các ơn thiêng liêng Người đã ban cho ta hưởng nhờ.
(Khắc Minh, báo Việt tiến số, tr 30)
- Vác thánh giá Chúa.
Yêu ai mà chỉ thấy thương mến không, chưa đủ. Đặc tính của tình yêu là hy sinh, là cho đi.
Thiếu yếu tố hy sinh thì tình yêu chưa thể được coi như thứ tình yêu thật, tình yêu không hy sinh chỉ là tình yêu vị kỷ chứ chưa phải là vị tha. Muốn tỏ lòng yêu Chúa, ta phải theo Chúa, vác đỡ thánh giá cho Người. Ông Simong không tự ý mình vác thánh giá, người ta cưỡng bách ông phải vác đỡ Chúa. Thế mà giá ông ta biết rằng hàng mấy ngàn năm và muôn muôn ức ức người ghen với ông ta mấy phút nhọc mệt ấy. Ôi, họ cũng vậy, giá họ có thể được giúp Chúa đẫm máu.
Khi nghe thuật lại lúc Chúa Giêsu chịu nạn, vua Clovis, một vua ngoại giáo, đập vào gươm than rằng: “Ôi Đấng Kitô trơ trọi. Ôi, tại sao lúc đó ta và bọn lính của ta không ở đấy”! Lời than này có nghĩa là: Phải, nếu tôi ở đấy, tôi sẽ không để ông ta chịu đau đớn như thế.
Ngày xưa Chúa đã vác thánh giá lên núi Sọ, con đường lên núi Sọ dài có 700 mét và Chúa Giêsu chỉ đi được 1321 bước (theo kinh nguyện của dòng Ba Đa minh), Chúa đã vác thánh giá, Người đã chịu chết trên thánh giá. Nhưng ngày nay, Người vẫn còn tiếp tục vác thánh giá mà những con cái của Người đè lên vai Người bởi những tội lỗi người ta phạm hằng ngày. Chúng ta hãy cố gắng thi hành lời Chúa khuyên từng người chúng ta:
Xả thân nếu muôn theo Thầy,
Vác cây khổ giá hằng ngày mà theo.
(Mt 16,24)
Theo Chúa là phải vác thánh giá. Thánh giá nói lên sự từ bỏ mình. Chúa Giêsu còn nói mạnh thêm: “Ai không vác thập giá mình mà theo Ta, kẻ đó không xứng đáng là môn đệ Ta” (Lc 14,27).
Ngày nay được dùng theo ý nghĩa phổ thông, từ ngữ “THẬP GIÁ” đã mất đi phần nào ý nghĩa nguyên ngữ của nó. Một ít khổ đau, bất hạnh, thử thách đều có thể là một thánh giá. Khi nói rằng ai không vác thập giá thì không xứng đáng làm môn đệ Người, Chúa Giêsu muốn chỉ đến một hành động quyết liệt dứt khoát hơn. Hẳn Người đang nghĩ đến các hình ảnh khủng khiếp của những hình khổ lúc bấy giờ. Người La mã thường dùng thập giá như một khổ hình. Người Palestine đã quá quen thuộc từng đoàn người vác thập giá của mình đến nơi họ sẽ bị treo lên. Thập giá có nghĩa là người vác nó đã bị kết án vào một cái chết nhục nhã. Vác sự nhục nhã đi qua giữa đô thị là một lời cảnh cáo cho dân chúng.
Chúa Giêsu dùng hình ảnh này để nói lên những gì mà bản tính nhân loại của chúng ta sẽ gặp phải. Về sau, hình ảnh này đã mang lấy ý nghĩa cao đẹp khi trở thành biểu trưng của sự Cứu rỗi. Người Kitô hữu, nhất là người tu sĩ, một khi đã chọn Chúa, phải từ bỏ mình. Phải đi qua cuộc sống như một người đặc biệt, làm đối tượng cho sự nhạo báng, thù ghét của người trần gian. Chúa Giêsu muốn làm nổi bật tương phản giữa người Kitô hữu và trần gian, người Kitô hữu là người bị kết án.
(Pascal Foresi, Con đường thăng tiến, 1974, tr 17-18)
- Thái độ trước đau khổ.
Vác thánh giá là một hình khổ. Hình khổ dĩ nhiên sẽ tạo nên đau khổ. Đau khổ lại man vàn trong đời sống hằng ngày. Thi hào DANTE đã gọi là “Terra lacrymosa” (qủa đất đẫm lệ). Thánh vịnh lại gọi quả đất là thung lũng nước mắt (Tv 79,83). Sách Khôn ngon nói: “Như tất cả mọi người trên trần, tôi đã cất tiếng kêu đầu tiên pha hoà trong nước mắt” (Kn 7,3). Ý tưởng sách Khôn ngoan rất phù hơp với câu tục ngữ Việt nam: “Cất tiếng khóc chào đời”. Người ta không chào đời bằng tiếng cười mà lại bằng tiếng khóc. Thi sĩ Nguyễn gia Thiều đã nói:
Thảo nào khi mới chôn nhau,
đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra.
(Cung oán ngâm khúc )
Thi sĩ Cao bá Quát cũng đồng quan điểm như trên:
Vừa sinh ra sao đà khóc chóe.
Đời có vui sao chẳng cười khì.
Trần gian đầy đau khổ, đó là một sự kiện, một thực tại phũ phàng mà mọi người phải chấp nhận. Nhưng xét cho kỹ, các đau khổ ấy cũng có cứu cánh của nó chứ không phải phi lý.
Khổng giáo chuẩn bị Kitô giáo bằng cái nhìn sâu sắc về đau khổ, xem như phương thế hữu hiệu để hoàn bị hóa con người. Đức Khổng Thử nói: “Khi Trời muốn trao cho ai một sứ mạng cao cả, trước hết Ngài đổ cay đắng vào tâm hồn họ, làm gân cốt họ ra suy nhược, buộc cơ thể họ phải nếm mùi đói khát, đưa họ đến chỗ tận cùng của đau khổ, cản trở và lật đổ những gì họ xây đắp. Có như vậy mới làm sống lại trong con người những tâm tình tốt đẹp, củng cố đức kiên nhẫn và mang lại cho con người những gì còn thiều sót”.
Thì luân lý Tin Mừng cũng tuyên bố: “Nếu hạt giống không chết đi, ngươi không thể thấy thân mình nảy nở trong một đời Kitô hữu hoàn toàn”. Vì rằng, sự đổi mới của Chúa Giêsu không làm đảolộn đời sống con người., không hủy bỏ đau khổ và sự chết, nhưng mặc cho đau khổ cái công dụng giúp con người và vũ trụ tân tiến. Nếu ta theo ý định của Chúa, nhận sự đau khổ và sự chết trong đức vâng lời. và vì lòng mến Chúa và thương yêu anh em, thì đau khổ và sự chết hóa nên con đường độc nhất đưa đến sự sống lại vinh hiển, vĩnh viễn cho ta và cho cả vạn vật.
(Nữ tu Thiên Phước, báo Nhà Chúa số 6, tr 41)
Khó khăn, đau đớn xảy đến cho con người như cơm bữa: “ Đêm ngày nước mắt đã trở thành bánh con ăn” (Tv 42,4). Như vậy, đau khổ xẩy đến không quan hệ, mà chỉ quan hệ ở chỗ là thái độ của chúng ta thế nào trước những đau khổ ấy?
Ta nghĩ thế nào về hạt cát? Hạt cát có lợi hay có hại cho ta.? Phải chấp nhận nó hay phủi nó đi? Nếu hạt cát rơi vào mắt ta, chắc chắn ta phải tìm cách phủi đi ngay vì nó chỉ làm ta đau khổ. Nhưng nếu hạt cát đó lại rơi vào miệng con sò thì sao? Con sò sẽ tiết ra một chất nhờn bao bọc lấy hạt cát và sẽ biến nó thành hạt ngọc. Vì thế, người ta thường tìm sò hến để kiếm ngọc.
Người ta kể sự cấu tạo ngọc trai như sau: khi một vật lạ, chẳng hạn như hạt cát, rơi vào cơ thể tức phần ruột trong vỏ con trai, vào ngay giữa lớp nhuyễn mạc của phần vỏ ngoài con trai. Sau đó nhuyễn mạc sẽ cong lên và tạo thành một cái túi, hạt cát lọt vào trong túi ấy, việc nhuyễn mạc cong lên này cốt chỉ để ngăn chặn sự cọ sát có thể làm trai đau đớn. Dần dần nhuyễn mạc nhả vào trong túi càng ngày càng nhiều để tránh sự đau đớn, nhuyễn mạc bao quanh hạt cát và vô tình tạo thành ngọc cho loài người. Việc cấu tạo thành ngọc trai có thể xẩy ra từ ba, bốn, năm năm là viên ngọc đã tròn và sáng. Ngọc để lâu trong con trai càng lâu càng chắc và đẹp. Tuy nhiên trong khoảng thời gian đó một dòng nước có mang những vi sinh vật làm hại trai, có thể đến với những con trai có mang ngọc, lúc ấy viên ngọc sẽ chết và không còn giá trị.
Xem như thế, chúng ta thấy: đau khổ có thể trở thành dịp tốt cho ta, nếu ta biết lợi dụng nó. Đau khổ trở nên tốt hay xấu là do thái độ của ta đối với nó. Vậy ta có thái độ nào?
- Tìm cách đẩy lui nó với thái độ bất mãn khó chịu.
- Đón nhận vui vẻ và biến nó trở thành những hạt ngọc sáng chói. Chính những đau khổ
ấy sẽ trở nên hòn ngọc qúi giá là những công phúc mà chúng ta bỏ vào kho trên trời.
Chúng ta đã theo Chúa, vác thánh giá với Chúa, nhưng chúng ta có thể trung thành với Người không, hay giữa đường đứt gánh? Chúng ta có bị liệt vào những hạng thiếu nữ tân thời, thay chồng như thay áo, những người chỉ chú trọng vào những thú vui đê hèn hay chỉ tìm khai thác tiền của, đến khi nhạt nhẽo thì bỏ, đến nỗi thi sĩ Thế Lữ phải than:
Tình người thay đổi,
Thay đổi tình người,
Anh đi đường anh, tôi đi đường tôi,
Tình nghĩa đôi ta có thế thôi.
Chắc chúng ta không muốn bị liệt vào những hạng gái xấu nết này. Chị em đã chọn Chúa Giêsu làm bạn trăm năm của mình thì quyết trung thành với Người, dù đắng cay trăm phần cũng chịu:
Đi đâu cho thiếp đi cùng,
đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam.
(ca dao)
Chúng ta hãy dùng cây thánh giá để được sức mạnh can đảm mà chịu đựng, mà chấp nhận cảnh sống hiện tại với bao hy sinh đau khổ. Hãy qúi mến thánh giá như gương của tướng Carreau. Người ta kể rằng: tướng Carreau bị tử thương. Sau khi được chịu các phép sau hết, ông cầm cây thánh giá mà vợ ông đã đeo vào cổ ông, rồi nói với các bạn: “Các bạn hãy can đảm lên. Giữa các sự cực nhọc và đau khổ của các bạn, đừng quên rằng cuộc đời là vắn vỏi, và ta thật vô phúc nếu sau khi chết, ta thấy rằng ta không hiểu biết, thờ lạy và bênh vực Chúa Kitô”.
(Nguyễn Hài Đồng, Tự điển câu truyện, 1969, tr 139)
KẾT LUẬN
Chị em hãnh diện vì mình được mang tên là dòng Mến Thánh giá. Phải mến Thánh giá thực sự. Muốn không chưa đủ, phải yêu nữa. Vì nếu chỉ mến thôi, người ta còn ở xa, “kính nhi viễn chi”, người ta suy phục nhưng có thể chưa hy sinh cho người mình mến. Nhưng nếu yêu ai thì tình yêu ấy có thể thúc đẩy nguời ta hy sinh cho người mình yêu: “Không có tình yêu nào cao trọng cho bằng chết vì người mình yêu”. Dòng Mến Thánh Giá! Dòng mang tên thập đẹp mà nếu trong đời sống hằng ngày mà không thực yêu thánh giá thì phải gọi là “DÒNG KHIẾP THÁNH GIÁ”, hay còn tệ hơn nữa là “DÒNG GHÉT THÁNH GIÁ”.
Chị em Mến Thánh giá thì phải luôn nhắc tới Thánh giá. Mỗi khi làm dấu Thánh giá chị em phải hiểu ý nghĩa tượng trưng của nó:
– NHÂN DANH CHA: tay để trên trán, dạy ta phải hiểu rằng Chúa đã dùng cây thánh giá mà chuộc tộâi cho nhân loại.
– VÀ CON: tay để ở ngực, ở trái tim, dạy ta phải yêu mến thánh giá Chúa, phải ôm lấy thánh giá Chúa vào lòng, phải yêu mến sự hy sinh hãm mình: per crucem ad lucem.
– VÀ THÁNH THẦN: tay để ở hai vai, dạy ta phải vác đỡ thánh giá Chúa, hai vai thay nhau mà vác.
– AMEN: chắp hai tay, cúi đầu xuống, dạy ta hãy tôn kính thánh giá Chúa. Hoặc tay xếp hình thánh giá để vào miệng, dạy ta hãy tôn kính và dùng môi miệng mình để cao rao Chúa Kitô chịu đóng đinh như thánh Phaolô đã tuyên xưng: “Praedicamus Jesum cruxifixum” (1Cr 1,23): Chúng tôi rao giảng Chúa Kitô chịu đóng đinh.
Hôm nay lễ kính Thánh giá Chúa, quan thầy của dòng chị em, chúng ta hãy cầu nguyện cho nhau để thực sự có lòng yêu mến thánh giá Chúa, tìm thấy sự khôn ngoan trong thánh giá, sự khôn ngoan đã bị che khuất mắt những người thông thái thế gian, để chúng ta không còn mặc cảm mình là những kẻ khờ, người điên. Cho dù bị gọi là người điên trước mặt người ta nhưng trước mặt Chúa là những người khôn ngoan. Hãy suy niệm lời thánh Phaolô để yên ủi mình: “Nếu ta đã chết với Đức Kitô, ta tin tưởng cũng sẽ được cùng sống với Người” (Rm 6,8).
33. Tình yêu đẹp nhất trên đời
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Dũng, SDB.)
Phụng vụ hôm nay tập trung vào thập giá của Chúa Giêsu. Nghi thức hôm nay được gọi là “Suy Tôn Thánh Giá.” Như chúng ta biết, bị đóng đinh trên thập giá là một trong những hình phạt tàn bạo nhất mà người Rôma dùng để trừng trị phạm nhân. Hình phạt này chỉ được sử dụng cho các nô lệ và không bao giờ được áp dụng cho các công dân La Mã. Trong thời đó, thập giá chính là “ác mộng” của các phạm nhân, nhất là những phạm nhân chống lại La Mã. Nếu thập giá là một “ác mộng” khủng khiếp cho mọi người thời đó, nhất là cho các phạm nhân, tại sao chúng ta lại suy tôn thập giá? Thánh giá có gì đặc biệt để chúng ta suy tôn? Chúng ta để lời Chúa trả lời cho chúng ta lý do tại sao chúng lại suy tôn thánh giá Chúa Giêsu hôm nay.
Ngôn sứ Isaia, qua bài ca thứ tư của người tôi tớ của Thiên Chúa trong bài đọc 1 hôm nay, cho chúng ta hay rằng chính người tôi tớ của Thiên Chúa sẽ “được suy tôn đến tột cùng” (Is 52:13). “Hình ảnh biến dạng” của người tôi trung của Thiên Chúa được Isaia mô tả trong bài đọc 1 chính là hình ảnh của Đức Giêsu được Thánh Gioan trình bày trong Tin Mừng hôm nay: “Người tôi trung của Ta mặt mày tan nát chẳng ra người, không còn dáng vẻ người nữa, cũng vậy, người sẽ làm cho muôn dân phải sững sờ, vua chúa phải câm miệng, vì được thấy điều chưa ai kể lại, được hiểu điều chưa nghe nói bao giờ” (Is 52:14-15). Hơn thế nữa, “người tôi tớ của Thiên Chúa [Đức Giêsu Kitô] chẳng còn dáng vẻ, chẳng còn oai phong đáng chúng ta ngắm nhìn, dung mạo chẳng còn gì khiến chúng ta ưa thích. Người bị đời khinh khi ruồng rẫy, phải đau khổ triền miên và nếm mùi bệnh tật. Người như một kẻ ai thấy cũng che mặt không nhìn, bị chúng ta khinh khi, không đếm xỉa tới” (Is 53:2-3). Một Đức Kitô, không còn dáng vẻ con người, bị treo trên thập giá, có đáng để suy tôn không? Nếu thập giá là “ác mộng” và Đấng bị treo trên thập giá “không còn dáng vẻ con người,” thì chúng ta có lý do gì để suy tôn hôm nay?
Ngôn sứ Isaia đưa ra cho chúng ta những lý do mà qua đó người tôi trung của Thiên Chúa được suy tôn và những lý do đó được hoàn thành nơi Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay. Chúng ta suy tôn thánh giá với những lý do sau:
Thứ nhất, trên thập giá, “chính Người [Người tôi trung của Thiên Chúa—Chúa Giêsu] đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta” (Is 53:4): Trong suốt cuộc đời rao giảng của Chúa Giêsu, Ngài luôn “mang lấy những bệnh tật” của dân chúng và chữa lành họ. Những đau khổ chúng ta Ngài cũng gánh chịu và chia sẻ với chúng ta. Ngài không chỉ đau khổ với chúng ta, nhưng còn đau khổ vì và cho chúng ta. Đây chính là lý do thứ nhất Chúa Giêsu được Chúa Cha tôn vinh và được chúng ta suy tôn. Lý do đầu tiên mời gọi chúng ta, trong khi suy tôn thánh giá Chúa Giêsu hôm nay, là hãy biết dâng lời tạ ơn Ngài vì đã mang lấy bệnh tật và gánh chịu những đau khổ của chúng ta. Đồng thời, chúng ta cũng được mời gọi để mang lấy bệnh tật và gánh chịu những đau khổ của anh chị em chúng ta.
Thứ hai, trên thập giá “chính Người [Người tôi trung của Thiên Chúa—Chúa Giêsu] đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm; Người đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an, đã phải mang thương tích cho chúng ta được chữa lành. Tất cả chúng ta lạc lõng như chiên cừu, lang thang mỗi người một ngả. Nhưng Đức Chúa đã đổ trên đầu Người tội lỗi của chúng ta” (Is 53:5-6). Chúa Giêsu bị đâm thâu vì chúng ta đã phạm tội. Ngài đã mang trên mình tất cả tội lỗi của chúng ta hầu đem lại cho chúng ta ơn tha thứ và bình an. Khi chiêm ngắm Chúa Giêsu trên thánh giá, chúng ta được mời gọi nhìn lại cuộc sống của mình để dốc lòng tránh những lỗi lầm đã đâm thâu vào con tim của Chúa Giêsu. Đồng thời, chúng ta cũng được mời gọi trở nên khí cụ hoà giải hầu mang bình an đến cho anh chị em của chúng ta.
Thứ ba, trong mầu nhiệm thập giá “bị ngược đãi, [Người tôi trung của Thiên Chúa—Chúa Giêsu] cam chịu nhục nhã, chẳng mở miệng kêu ca; như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, Người chẳng hề mở miệng. Người đã bị ức hiếp, buộc tội, rồi bị thủ tiêu.” (Is 53:7-8). Khi nhìn lên thánh giá Chúa Giêsu, chúng ta nhận ra ở đó một Con Người rất “hiền lành và khiêm nhường,” một Con Người với những lời thì thầm thật ngọt ngào: “hãy đến với ta hỡi những ai mang gánh nặng nề. Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách của Ta thì êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng.”
Thứ tư, trong mầu nhiệm thập giá “Người [Người tôi trung của Thiên Chúa—Chúa Giêsu] đã bị khai trừ khỏi cõi nhân sinh, vì tội lỗi của dân, người bị đánh phạt. Người đã bị chôn cất giữa bọn ác ôn, bị mai táng với người giàu có, dù đã chẳng làm chi tàn bạo và miệng không hề nói chuyện điêu ngoa” (Is 53:8-9). Chúa Giêsu bị đánh phạt vì tội lỗi của chúng ta. Ngài đón nhận hình phạt dù Ngài không phạm tội. Nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta để cho tính tự ái chiến thắng chúng ta. Chúng ta có thể chịu thiệt một tí, hoặc đơn giản nói lời “xin lỗi,” để có thể cứu được các tương quan mà chúng ta đã gầy dựng và vun đắp từ lâu. Nhưng chúng ta đã không làm điều đó. Hôm nay khi suy tôn thánh giá Chúa Giêsu, chúng ta được mời gọi chấp nhận hình phạt cho người khác, dù chúng ta không lỗi phạm.
Thứ năm, trên thập giá “nhờ nỗi thống khổ của mình, người sẽ nhìn thấy ánh sáng và được mãn nguyện. Vì đã nếm mùi đau khổ, người công chính, tôi trung của Ta, sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ” (Is 53:11). Chính qua đau khổ của mình, Chúa Giêsu làm cho tất cả chúng ta được nên công chính. Như vậy, thập giá chính là “công cụ” mà qua đó Chúa Giêsu sử dụng để đánh bại thần chết và làm cho chúng ta nên công chính. Khi suy tôn thánh giá Chúa Giêsu, chúng ta được mời gọi đón nhận những nỗi thống khổ của mình và của người khác để sinh ích cho người khác.
Thứ sáu, “Ta [Thiên Chúa] sẽ ban cho Người muôn người làm gia sản, và cùng với những bậc anh hùng hào kiệt, Người sẽ được chia chiến lợi phẩm, bởi vì Người đã hiến thân chịu chết, đã bị liệt vào hàng tội nhân; nhưng thực ra, Người đã mang lấy tội muôn người và can thiệp cho những kẻ tội lỗi” (Is 53:11:12). Qua cái chết của mình, Chúa Giêsu đã được ban cho mọi vinh quang, danh dự trên trời và dưới đất. Và chúng ta được mời gọi để được chia sẻ vinh quang và danh dự với Ngài. Khi suy tôn thánh giá Chúa Giêsu hôm nay, chúng ta được mời gọi từ bỏ những của cải chóng qua thuộc về mình, để chia sẻ với Chúa Giêsu trong gia sản không bao giờ tàn phai của Ngài.
Về phần mình, tác giả thư gởi tin hữu Do Thái trình bày Chúa Giêsu như Vị Thượng Tế siêu phàm. Ngài hiến dâng chính mình làm hy tế để giao hoà Thiên Chúa với con người. Ngài là Vị Thượng Tế duy nhất “biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội.” Vì Ngài biết cảm thông với những yếu đuối của thân phận con người, nên “ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần” (Dt 4:15-16). Những lời này mang lại cho chúng ta sự tự tin khi đến chiêm ngắm Đấng chịu đóng đinh trên thập giá. Không có những đau khổ và thử thách nào mà Ngài đã không trải qua. Điều khác biệt là Ngài không phạm tội. Vì vậy, mỗi khi bị thử thách hoặc gặp gian truân, không có phương thế nào để nhận ơn trợ giúp và sự thương xót hữu hiệu cho bằng đến ngồi dưới thập giá và chiêm ngắm Đấng chịu treo trên thập giá. Cũng chính giây phút ngồi dưới chân thập giá, chúng ta sẽ học được thế nào là vâng phục thánh ý Thiên Chúa Cha. Dưới chân thập giá, chúng ta sẽ cảm nghiệm được tiếng kêu van khóc lóc của Chúa Giêsu cầu cho con người khỏi chết đời đời. Dưới chân thập giá, chúng ta sẽ nhận ra Chúa Giêsu chính là nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu: “Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người” (Dt 5:8-9). Chỉ nơi thập giá và Đấng chịu treo trên thập giá, chúng ta mới hiểu hết ý nghĩa của những đau khổ và yếu đuối của kiếp sống con người.
Cuối cùng, chúng ta cùng nhau suy gẫm về cuộc thương khó của Chúa Giêsu mà hôm nay chúng ta được mời gọi suy gẫm. Bài Thương Khó trích từ Tin Mừng Thánh Gioan. Sự kiện Chúa Giêsu chịu đóng đinh đứng ở trung tâm của sự mặc khải về tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa. Trong cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu được Thánh Gioan trình bày, chúng ta rút ra được điều gì từ hình ảnh của thập giá cho đời sống của mình trong tương quan với Thiên Chúa và tha nhân? Từ bài thương khó, chúng ta có thể suy gẫm trên ba điểm sau:
Thứ nhất, thập giá là lối diễn tả cách triệt để sự vâng phục thánh ý Thiên Chúa trong sự hiền lành và khiêm nhường của Chúa Giêsu. Điều này đã được ám chỉ đến trong hình ảnh của Người Tôi Tớ Đau Khổ của Đức Chúa trong bài đọc 1. Trong bài Tin Mừng, Thánh Gioan trình bày cho chúng ta thấy Chúa Giêsu luôn giữ thái độ hiền lành trước ‘bạo lực’ và bất công của những người liên quan đến cái chết của Ngài: Ngài hiền lành với Giuđa kẻ nộp Ngài; Ngài hiền lành với những người đến bắt Ngài; Ngài dạy Phêrô hiền lành và không dùng bạo lực để đáp lại bạo lực; Ngài hiền lành với các thuợng tế và nhóm Pharisêu là những người định tâm giết Ngài; Ngài hiền lành với Philatô người không có đủ can đảm để bảo vệ sự thật; Ngài hiền lành với Phêrô kẻ chối Ngài; Ngài hiền lành với các môn đệ là những kẻ bỏ Ngài mà chạy; Ngài hiền lành với những người lính đánh đập Ngài; Ngài hiền lành với những người sĩ nhục Ngài; Ngài hiền lành với người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Ngài; Ngài hiền lành với hai người trộm đóng đinh với Ngài; Ngài hiền lành với hết mọi người không trừ một ai. Sự hiền lành và khiêm nhường của Ngài là lối diễn tả tuyệt hảo nhất việc vâng phục thánh ý Chúa Cha và sự vâng phục đó đã được diễn tả cách triệt để trong mầu nhiệm thập giá.
Thứ hai, thập giá là dấu chứng tình yêu không thay đổi trước sự thay đổi của con người. Điều này chúng ta chứng kiến trong hình ảnh các môn đệ, những người được Chúa Giêsu yêu thương, dạy dỗ nhưng lại nộp, chối và bỏ Ngài mà chạy; hoặc trong hình ảnh đám đông, những người đã chứng kiến các phép lạ Ngài làm rồi mở miệng tung hô Ngài, nhưng sau đó lại kêu lên: ‘Đóng đinh nó vào thập giá.’ Đứng trước sự thay đổi này của con người, Chúa Giêsu trung thành với tình yêu của Ngài để bước lên thập giá. Chúng ta chỉ hiểu điều này khi chúng ta đi vào trong mầu nhiệm của Thiên Chúa. Thánh Gioan đã khẳng định rằng: Thiên Chúa là tình yêu (1 Ga 4:8). Điều này cho thấy, tình yêu là bản chất của Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa là vĩnh cửu, nên tình yêu của Ngài muôn đời tồn tại. Tình yêu không phải là bản chất của con người và con người là một thụ tạo yếu đuối, giới hạn, nên tình yêu không phải là điều nội tại trong con người. Vì lý do này, chúng ta thấy con người dễ dàng thay đổi tình yêu của mình dành cho người khác. Trong bài Thương Khó, chúng ta thấy trên thập giá, Chúa Giêsu diễn tả tình yêu cho đến cùng của mình cho những kẻ thuộc về Ngài. Nhìn lên thập giá, chúng ta được mời gọi sống trung thành với tình yêu của mình dù cuộc đời nhiều đau khổ và nước mắt, dù người khác thay đổi tình yêu của họ dành cho chúng ta.
Thứ ba, thập giá là nơi quy tụ và làm phát sinh gia đình mới của Chúa Giêsu. Chúng ta thấy điều này qua hai hình ảnh sau: (1) tấm bảng treo trên thập giá được viết bằng ba thứ tiếng thông dụng thời đó là Do Thái, Latin và Hy Lạp; (2) việc trao Đức Mẹ cho Thánh Gioan và Thánh Gioan cho Đức Mẹ. Thập giá là dấu chỉ của sự hiệp nhất cho mọi người ở mọi nơi và mọi thời. Khi nhìn lên Đấng chịu đóng đinh trên thập giá, con người được hiệp nhất trong một đức tin, trong một niềm hy vọng và trong một đức ái. Chính điều này tạo ra gia đình mới mà Chúa Giêsu thiết lập dưới chân thập giá qua hình ảnh của Mẹ Maria và Thánh Gioan. Như vậy, thập giá và chiêm ngắm Đấng chịu treo trên thập giá với lòng thành và trọn con tim sám hối chính là phương thuốc chữa lành sự chia rẽ của con người. Chỉ những ai đứng liên lỉ dưới chân thập giá mới có khả năng trở nên những thành viên mới trong gia đình của Chúa Giêsu.
34. Suy tôn Thánh Giá
Suy nghĩ về Thập giá trong đời sống…
Người Kitô hữu nào hẳn cũng được dạy làm dấu Thánh giá từ khi còn rất bé. Mẹ cầm tay ta làm dấu thánh giá đơn, rồi thánh giá kép, trên trán, trên miệng, trên ngực…
Từ đó, Thánh giá hiện diện mỗi ngày trong đời ta như dấu chỉ “ta là người có đạo”, như là bằng chứng đơn sơ và dễ thấy nhất của việc tuyên xưng niềm tin vào Đức Kitô.
Lớn lên một chút, được ba mẹ dắt đến nhà thờ, ta bắt gặp Thánh giá hiện diện khắp nơi: trên nóc nhà thờ, trên bàn thờ, quanh nhà thờ…
“Vì dấu Thánh giá, xin chữa chúng con cho khỏi sự dữ, nhân danh Cha và Con, và Thánh Thần…” Lời kinh giản dị ta nhẩm theo cộng đoàn trong lúc đưa tay cung kính làm dấu Thánh giá trên mình đã gói gọn chân lý này: Thánh giá, nơi đã từng treo Đấng Cứu Thế, là cây mang lại hoa trái tuyệt diệu, là cây sức mạnh, là gươm đánh đuổi mọi sự dữ và làm cho Sa tan – Kẻ Thù của Ơn Cứu độ – phải khiếp sợ. Việc ghi dấu Thánh Giá nhắc ta nhớ điều quan trọng nhất của đời ta: Ta thuộc về Đức Kitô.
Một Thánh phụ đã từng dạy: “…Thánh giá chính là dấu ấn Thiên Chúa đóng để giữ gìn ta khỏi tay Ma quỷ, là giá đỡ những ai mỏi bước, là gậy chỉ đường những ai lạc lối, là mục tiêu để ta nhắm đến, là sức khỏe của tâm hồn và thân xác, xua đuổi cái ác, đón nhận cái tốt, là cái chết của tội lỗi, là cây phục sinh và cây của sự sống muôn đời”. (Thánh Gioan Damascene, De fide ortodoxa, IV, 11)
“Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16, 24). Chúa Giêsu đã rất rõ ràng khi đề cập đến điều kiện để theo Ngài: Thập giá được báo trước sẽ không vắng bóng trong cuộc đời của người môn đệ theo Thầy Giêsu: bệnh tật, nghèo khó, mệt nhọc, đau khổ, cô đơn, thấp kém…
Nhiều lần, ta đã trốn chạy khỏi những thập giá trong đời mà không ngờ rằng ta đang trốn chạy một nguồn vui đích thực, đang quay lưng lại một cơ hội trưởng thành trong đức tin và đang bỏ qua một dịp thánh hóa bản thân; chúng ta đang chạy trốn chính Chúa Giêsu. Tuy nhiên cũng không ít lần ta đã vui vẻ đón nhận thập giá, không phàn nàn, không than thở, không nổi loạn, nhưng với tất cả tình yêu. Và khi ấy, một sự bình an lan tỏa trong tâm hồn…
Tình yêu dành cho Thánh giá đem lại hoa trái phong phú cho linh hồn. Nhiều lần, ta chợt nhận ra Chúa Giêsu đồng hành cùng ta và Ngài đang vác phần nặng hơn trên vai Ngài. Những đau khổ của ta, nếu kết hiệp với những đau khổ của Thầy, sẽ không còn là sự dữ làm cho âu sầu và tàn tạ, nhưng là cơ hội cho ta nên một với Chúa. Một nhà đạo đức đã khuyên: “Khi con đau khổ, hãy nhấn chìm nỗi đau của con vào nỗi đau của Chúa, hãy tham dự Thánh Lễ. Nếu thế gian không hiểu những nỗi đau của con, đừng lo lắng; chỉ cần Chúa Giêsu, Mẹ Maria và các Thánh hiểu con. Hãy sống với các Ngài và để máu con tuôn chảy vì ơn cứu độ cho thế gian: như Chúa của con!” (Ch. Lubich, Suy niệm)
Thánh giá mỗi ngày là một dịp thuận tiện để sám hối, từ bỏ và làm vinh danh Thiên Chúa. Thánh Phaolô thường dạy các tín hữu đầu tiên rằng những thử thách thì ngắn ngủi và có thể chịu đựng được, và những đau khổ ta chịu vì yêu Chúa sẽ mang lại phần thưởng lớn lao và vĩnh cửu. Chính vì thế mà Thánh nhân đã vui mừng trong gian lao và xác tín rằng không có nỗi khổ nào lớn hơn việc lìa xa Chúa trong đời. Mọi đau khổ đều là tạm thời, chóng qua và sẽ biến thành vui mừng và bình an, như lời của Thánh Josemaria Escriva trong suy niệm Đường Thánh giá:
“Chẳng phải khi con thôi sợ Thập giá, cái mà người ta gọi là Thập giá, và khi mà ý chí của con chấp nhận Thánh ý của Chúa, hẳn con cảm thấy hạnh phúc, và mọi lo âu, mọi khổ đau thể xác và tinh thần sẽ biến mất? Quả thật, Thập giá Đức Kitô thì dịu dàng và dễ mến. Với Thập giá, mọi vất vả đều không có gì quan trọng, chỉ còn lại niềm vui vì biết rằng mình được cộng tác vào công trình cứu độ của Đức Kitô.”
(Nguồn: Lược dịch từ ‘Trò chuyện với Chúa’ – Phanxicô Carvajal – Lễ Suy tôn Thánh Giá)
35. Suy tôn Thánh Giá
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Vinh Sơn, SCJ.)
Câu chuyện
Trong truyền thuyết Hy Lạp cổ xưa, thần chữa bệnh có tên là Asklepios được biểu trưng bằng con rắn, chính vì lý do này, ngày nay hình con rắn được dùng để làm biểu tượng cho ngành Dược và ngành Y là những ngành khoa học nghiên cứu và chữa trị con người thoát khỏi bệnh tật.
Hơn nữa, con rắn đồng được giương cao trong Kinh Thánh mang ý nghĩa: Thiên Chúa cứu độ con người.
Ý nghĩa cứu độ được bắt đầu bằng những biến cố của dân Chúa khi thoát khỏi Ai Cập, thoát khỏi ách nô lệ đi vào đời tự do. Chính trong sự tự do suốt bốn mươi năm ròng rã nơi hoang địa, họ gặp nhiều thử thách tranh đấu. Bị thử thách, họ đã oán trách Thiên Chúa, vì thế cơn thịnh nộ của Chúa đã để cho rắn độc trong sa mạc cắn chết nhiều người. Dân Chúa biết tội và nhìn nhận tội lỗi của mình. Chúa đã đoái thương nỗi thống khổ của họ. Người truyền cho Môisê làm một con rắn bằng đồng, treo lên cây, để bất cứ ai bị rắn cắn, nếu nhìn lên con rắn đồng sẽ được cứu (x. Ds 21,4-9).
Suy niệm
“Xưa Môisê treo con rắn trong sa mạc thế nào, Con Người cũng sẽ bị treo lên như vậy, hầu cho mọi kẻ tin kính Ngài khỏi hư đi nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,14-15).
Sự giương cao của con Thiên Chúa qua cái chết trên thập tự để toàn thể nhân loại nhìn vào với niềm tin thì sẽ được cứu độ. Thật thế, nhân loại trải qua dòng lịch sử, cũng bất trung, nổi loạn khi sống song hành với bóng tối, từ lúc nguyên tổ khước từ quyền sống trong sự bao bọc tình yêu của Thiên Chúa khi nghe theo sự nổi loạn của Satan. Thiên Chúa không bỏ rơi con người, tình thương của Ngài hứa cứu độ và ơn cứu độ được thực hiện trong Đức Giêsu.
Con người giương cao chính là Con Thiên Chúa đã được chính Thiên Chúa hứa ban cho thế gian. Con Một của Ngài đến, không phải để lên án, nhưng dẫn nhân loại đến đời sống vĩnh cửu: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Tình yêu vĩ đại của Thiên Chúa cho nhân loại, chính tình yêu này là căn bản của công trình cứu độ xuất phát từ cung lòng Ngài, cung lòng tình yêu luôn trao ban dù rằng con người đã bất trung.
Con Một của Thiên Chúa – Đức Kitô chết giương cao để cho con người được cứu chuộc và được sống. Thánh Phaolô luôn ghi tạc trong tâm khảm đức tin hình ảnh Con Thiên Chúa giương cao trên thập giá: “Tôi không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài một Giêsu chịu đóng đinh vào thập giá” (1Cr 2,2), để rồi sự sống của Thiên Chúa tỏ hiện trong cuộc sống của vị tông đồ dân ngoại: “Tôi mang trong thân mình cuộc tử nạn của Ngài, ngõ hầu sự sống của Chúa Giêsu cũng được tỏ hiện nơi thân xác chết dở của tôi” (2Cr 4,10).
Nhân loại muốn đạt được ơn cứu độ phải đi theo con đường tin vào thập giá, nơi giương cao Đức Giêsu – Con Thiên Chúa: “Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa” (Ga 3,18). Tin tưởng vào Thiên Chúa và ơn cứu độ của Ngài dành cho qua cái chết của con Ngài trên thập tự, nhân loại sẽ được cứu rỗi.
Cuộc sống hàng ngày vốn bị chi phối bởi tội lỗi, bởi bóng tối của sự dữ. Chúng ta ngước nhìn lên Đức Kitô bị treo trên thánh giá. Ngài chiếu tỏa xua đuổi bóng tối trong cuộc đời chúng ta, đi theo ánh sáng của niềm tin vào Đấng được giương cao, như chính Đức Giêsu đã nói: “Những kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: Các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa” (Ga 3,21).
Mong sao mỗi người chúng ta cảm nghiệm được sức mạnh từ thập giá khi ngước mắt nhìn với niềm tin: Đức Giêsu được “giương cao trên thập giá”, và cũng được “đưa lên” ngự bên hữu Chúa Cha nhờ cuộc phục sinh và lên trời (x. Ga 3,14; 8,28; 12,32-34). Người tin và đi trên đường của Ngài, cũng sẽ được như Ngài, vì lời Ngài hứa: “Khi nào Ta được đưa lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên với Ta” (Ga 12,32),
Ý lực sống
“Tôi mang trong thân mình cuộc tử nạn của Ngài, ngõ hầu sự sống của Chúa Giêsu cũng được tỏ hiện nơi thân xác chết dở của tôi” (2Cr 4,10).
36. Lễ Suy tôn Thánh Giá
(Lm. Đaminh Lê Đình Du – Sưu tầm)
Dưới thời Hoàng đế Heralius I, những người Ba Tư theo Hồi Giáo đã chiếm thành Giêrusalem và cướp lấy Thánh Giá thật Chúa Giesu. Năm 627 Hoàng đế Heralius đã kéo quân sang đánh Ba Tư để lấy lại Thánh Giá thật của Chúa.
Từ sau biến cố nầy, Hội Thánh lập lễ Suy Tôn Thánh Giá, để muôn đời kính nhớ ngày dân thành Giêrusalem cung nghênh Thánh giá Chúa.
Thánh giá Chúa là biểu tượng cho ơn cứu độ của chúng ta, vì trên đó Chúa Kitô đã chịu treo lên để cứu độ nhân loại. Xin cho mỗi người chúng ta hết lòng tôn kính Thánh Giá Chúa và cầu xin cho chúng ta biết sẵn lòng vác Thánh giá của mình theo Chúa để ngày sau chúng ta cũng được vinh quang với Người.
***
Kính thưa quý ông bà anh chị em, có một người kia tự nhận mình là kẻ thù không đội trời chung với Đức Giêsu. Ông đã tháo gỡ tất cả mọi cây thánh giá trong nhà và ngay cả cây thánh giá vợ ông đang đeo trên cổ ông cũng không tha.
Sự căm thù mỗi lúc một sâu sắc hơn, đến nổi ông quyết tâm triệt hạ hết mọi cây thánh giá trên đường ông đi. Sau cùng, ông đã leo lên tháp nhà thờ để đốn ngã cây thánh giá cuối cùng.
Một buổi chiều nọ trên đường về nhà, ông bỗng nghe tiếng chim hót kỳ lạ, nhìn lên cành cây nơi con chim đang hót, ông ta quá phẫn nộ khi thấy cành cây cũng có hình thánh giá. Đảo mắt nhìn vào khu vườn ông thấy toàn là cây thánh giá. Về đến nhà ông ta như điên dại khi nhìn quanh quẩn đâu đâu cũng thấy thánh giá. Thánh giá như ám ảnh vào trong tâm trí ông, quá tức giận ông đã nổi lửa đốt cháy căn nhà. Trong đống tro tàn người ta tìm thấy xác của ông. Đó là số phận của con người luôn nung nấu sự hận thù.
Kính thưa cộng đoàn, đối với người Do Thái – ngày xưa cũng như ngày nay – thập giá là một dụng cụ để hành hình, đó là biểu tượng của cuộc tử hình nhục nhã cho tội nhân, chứ không phải khí cụ để giải phóng, để cứu rỗi. Thập giá chính là hai thanh gỗ biểu tượng cho thất bại ê chề, chứ không phải là dấu chỉ của vinh quang. Thập giá là biểu hiện sự chết chóc, tan nát, chứ không phải là sự cứu độ, giải thoát con người. Thế nhưng, đối với Kitô hữu: hình ảnh thập giá là dấu chỉ ơn cứu độ của Ngôi Hai Thiên Chúa.
Hôm nay, Giáo hội mừng lễ suy tôn Thánh giá Chúa, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về tình thương của Chúa qua mầu nhiệm Thập giá.
Chúa Giêsu nói cùng ông Nicôđêmô: “như ông Mô sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để phàm ai tin vào Người thì có sự sống đời đời”. ( Ga 3, 14 – 15 ).
Tại một số quốc gia trên thế giới, vẫn áp dụng hình phạt tử hình cho mộ số trọng tội. chẳng hạn như nước Anh: treo cổ; nước Mỹ: ghế điện; một số nước khác thì chém đầu… Tại nước Do Thái thời xưa, khi bị Rôma đô hộ thì hình phạt chém đầu chỉ dành cho công dân Rôma, còn đối với người Do Thái, hình phạt tử hình là đóng đinh vao thập giá.
Người Do Thái có lý khi coi đây là hình phạt man rợ, đau đớn và sỉ nhục. Nhưng chính “hình phạt đóng đinh vào thập giá” nầy, Đức Giêsu Kitô – con Thiên Chúa – đã chấp nhận để cứu chuộc nhân loại, để tất cả những ai tin Ngài sẽ được sống đời đời.
Chúng ta có thể tự hỏi: “ Động lực nào đã khiến Chúa Giêsu chấp nhận khổ hình nhục nhã: Chết trên thập giá? Câu trả lời ngắn gọn chính là vì “thập giá là biểu tượng của tình yêu” chính tình yêu đối với Thiên Chúa và yêu thương nhân loại đã là động lực khiến Đức Giêsu chấp nhận khổ hình thập giá.
Ngoài ra, đoạn Tin mừng hôm nay còn ghi một động lực khác, chính hành vi sẵn sàng vâng phục, chấp nhận cái chết trên thập giá Chúa Giêsu như tột đỉnh, đó là phương thế của Thiên Chúa Cha đã dùng để bày tỏ tình yêu: Thiên Chúa đã cho Con Một Ngài chịu chết, để nhân loại khỏi phải chết đời đời, như Thánh Gioan diễn tả. Vì Thiên Chúa sai con mình xuống thế gian không phải để luận phạt, nhưng để thế gian nhờ con của Ngài mà được cứu độ. ( Ga 3, 17).
Do đó, thập giá đối với niềm tin Kitô giáo đồng nghĩa với tình yêu. Và chính tình yêu của Thiên Chúa Cha và của Chúa Giêsu đã nói lên ý nghĩa của cây thập giá.
Vì thế, đối với các tín hữu Ki tô thập giá là khí cụ để giải phóng, để cứu rỗi, chứ không phải là dụng cụ để hành khổ. Thập giá là dấu chỉ của Vinh Quang, chứ không phải là thanh gỗ tượng trưng cho sự nhục nhã.
Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con biết:
1/ Chấp nhận thập giá trong cuộc sống, đó là chấp nhận anh chị em xung quanh con, bỏ hận thù ra khỏi tâm hồn, chấp nhận cuộc chiến thắng chống lại bạo động, chống lại sự chia rẽ, chống lại tội lỗi, và đó là chống lại mọi mầm mống của sự chết chóc.
2/ Chấp nhận thập giá của Đức Kitô, là chấp nhận tình thương, chấp nhận ánh sáng trong tăm tối, chấp nhận tha thứ khi gặp hận thù, chấp nhận hy vọng khi gặp thất bại khổ đau. Và khi đón nhận thập giá của đau khổ, của mất mát, của vất vả… đó là chúng ta hy vọng thấy được sự vinh quang mà khi ta vác thập giá mình đi với Chúa: sự vinh quang vĩnh cửu.
Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa đã dùng cây thập giá để cứu độ nhân loại, xin chiếu dọi vào chúng con ánh sáng, để từ những khó khăn và đau khổ trong cuộc sống, chúng con nhận ra niềm hy vọng vĩnh hằng. Xin cho chúng con đừng có tham vọng từ bỏ thập giá bổn phận của chính mình, nhưng xin Chúa thêm sức mạnh để chúng con có thể vác Thập giá của mình theo chân Chúa để chúng con cũng được vinh quang với Chúa trong ngày sau hết. Amen.
37. Suy tôn Thánh Giá
(Suy niệm của Trọng Hương)
* LỊCH SỬ
Lễ Suy Tôn Thánh Giá hôm nay bắt nguồn từ Giêrusalem.
Ngày 03.09.335 người ta long trọng cung hiến đại thánh đường ANASTASIS do hoàng đế Constantin ra lệnh cho xây trên mồ của Chúa Giêsu. Ngày 13.09 cũng là ngày kỷ niệm tìm được Thánh Giá thật. Ngày 14.09, một ngày sau cuộc thánh hiến thánh đường mới để cho dân chúng lần đầu tiên đến tôn thờ, kính viếng.
Sau này, người ta liên kết thánh lễ này với việc hoàng đế Heraclius chiếm lại được thánh giá thật vào năm 628; trong một trận chiến, người Ba Tư theo Hồi Giáo đã chiến thắng và lấy đi cây Thánh Giá này. Hera clius phải chiến đấu cật lực để đem Thánh Giá trả về chỗ cũ. (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)
- Hạt giống…
Bài Tin Mừng nói đến con rắn đồng thời sa mạc. Con rắn đồng ấy là hình ảnh tiên trưng cho chính Chúa Giêsu là Đấng sẽ được treo lên Thập giá. Ai tin vào Ngài và ngước nhìn lên Ngài thì sẽ được cứu độ.
Ý tưởng chính của Lời Chúa hôm nay là: tội lỗi của con người – lòng nhân từ của Thiên Chúa – Thiên Chúa dùng những phương tiện (mà cao quý nhất là chính Chúa Giêsu) để tha thứ và cứu độ loài người.
B…. nẩy mầm.
- Chúa Giêsu mời Nicôđêmô và chúng ta nhìn lên Thánh giá. Nhìn lên Thánh giá, chúng ta sẽ thấy gì? Thấy tội lỗi của chúng ta; thấy tình thương tha thứ bao la của Thiên Chúa; và nếu cái nhìn của chúng ta thấm đượm lòng sám hối, tin tưởng và mến yêu thì chúng ta sẽ được ơn cứu độ.
- Hình con rắn đồng đã được loài người dùng làm biểu tượng cho ngành Dược. Ngày xưa trong sa mạc, con rắn đồng đã cứu dân Israel khỏi chết thì ngày nay các dược phẩm cũng cứu loài người khỏi nhiều thứ bệnh tật. Nhưng con rắn đồng ngày xưa và những dược phẩm ngày nay cũng chỉ là một chút bóng mờ của chính Chúa Giêsu trên thập giá. Chính Chúa Giêsu trên thập giá mới là linh dược chữa trị mọi thứ bệnh tật và cái chết của linh hồn. Khi ta bệnh, ta tìm thuốc uống. Khi linh hồn ta bệnh, ta có tìm đến thập giá Chúa Giêsu không?
- Kỹ sư Frank Denton được giao nhiệm vụ thiết kế những bộ y phục đặc biệt cho những nhà phi hành vũ trụ. Một trong những phần quan trọng nhất của mỗi bộ y phục này là một ống dây cung cấp dưỡng khí cho các nhà phi hành. Khi thiết kế xong ông đặt tên cho 2 bộ y phục của 2 phi hành gia ấy, một là J 3.16 và bộ kia là J 3,17. Đó chính là 2 câu trong bài Tin Mừng hôm nay: Ga 3,16 là “Thiên Chúa yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời”. Còn Ga 3,17 là “Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Ngài mà được cứu độ”. Ý của nhà thiết kế này là cầu mong cho cuộc du hành vũ trụ của các phi hành gia được an toàn nhờ sự che chở của Chúa: cũng như những bộ y phục đặc biệt cung cấp dưỡng khí rất cần thiết để giúp các nhà phi hành có thể đi từ vệ tinh mẹ đến vệ tinh con thế nào, thì Chúa Giêsu cũng rất quan trọng và cần thiết để giúp mỗi người chúng ta đi từ đất lên đến trời (Kể theo Mark Link, Sunday homilies, Year B).
- “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16)
Đã nhiều lần con ngước nhìn Thập giá, để rồi thấy hiện diện một Tình yêu. Nhưng tận sâu thẳm tâm hồn, vẫn chẳng cảm nhận Tình yêu ấy dành cho con, vì chưa nhận ra tình yêu ấy chính là bao giọt mồ hôi của cha, sự dịu hiền chăm sóc của mẹ, mối quan tâm của thầy của bạn, và tình thương của bao người xung quanh.
Lạy Chúa là Đấng yêu thương, xin cho con biết mỗi nghĩa cử yêu thương con làm đều có giá trị thánh hóa con và mọi người, để tiếp tục qua con, mọi người nhận ra Tình yêu Chúa (Hosanna)
38. Thánh Giá là biểu tượng của Tình Yêu
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II Nói Thánh Giá Là Biểu Tượng Của Tình Yêu.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nói, trong một thế giới càng ngày càng bị trần tục hóa, thì điều quan trọng là các tín hữu biết nhìn thánh giá như là nguồn ân phúc và cứu độ.
Ngài nói, “đối với con người, bị dày vò bởi sự nghi ngờ và tội lỗi, thánh giá tỏ lộ rằng, Thiên Chúa qúa yêu thế gian đến nổi ban Con một của Ngài, để mọi người tin vào Ngài sẽ không bị hủy diệt nhưng được sống đời đời.” Tắt một lời, “Thánh giá là biểu tượng cao nhất của tình yêu.”
Đức Thánh Cha đã giải thích như thế khi gặp gỡ với hàng ngàn khách hành hương tại sân trước nhà nghỉ mát của ngài tại Castel Gandolfo, trước khi đọc kinh Truyền Tin Trưa Chúa Nhật 15/09/2002.
Ngài quả quyết Thánh Giá là biểu tượng chính yếu của Kitô giáo. Bất cứ nơi nào Tin mừng được gieo trồng, thì Thánh giá luôn ở đó, để nói lên sự hiện diện của người Kitô.
“Trong các ngôi thánh đường, tại các bệnh viện và các trường học, tại các nghĩa trang – thánh giá đã trở nên dấu hiệu của một nền văn hóa biết múc lấy chân lý và tự do, tin tưởng và hi vọng, từ sứ điệp của Chúa Kitô.”
Ngài nói, “trong thế giới cận đại bị ghi dấu bởi sự trần tục, thì điều cần thiết hơn nữa là tín hữu phải chú ý đến dấu hiệu trung tâm nầy của Mạc khải và đón nhận ý nghĩa đích thực của nó.”
Đức Thánh Cha nhấn mạnh, “trong việc công bố thánh giá Chúa Kitô, Giáo hội trình bày cho thế giới, ý nghĩa cuối cùng và trọn vẹn của từng cuộc sống cũng như của toàn thể lịch sử nhân loại.”
Ngài nói, “những người trẻ Kitô giáo đang hãnh diện mang thánh giá qua mọi nẻo đường trên thế giới. Trong năm qua, Thánh Giá giới trẻ đã được mang đi trên khắp mọi nẻo đường đất nước Canada và Thánh giá cũng đã được rước đến trung tâm mậu dịch thế giơí tại New York, một nơi đã hoàn toàn bị sụp đổ do các cuộc tấn công của ngày 11/09/2001. Giờ đây Thánh giá cũng sẽ được mang đến khắp mọi nẻo đường của nước Đức trước khi ngày đại hội giới trẻ được khai mạc tại Cologne vào năm 2005.”
Đức Thánh Cha kết thúc bài huấn đức của ngài bằng việc trao phó cho Đức trinh nữ “giơí trẻ và gia đình, các quốc gia và toàn thể nhân loại” đặc biệt “các bệnh nhân và những người đang đau khổ, các nạn nhân vô tội của bất công và bạo động” và “các người Kitô đang bị đàn áp vì đức tin của họ.” Xin cho thánh giá vinh quang của chúa Kitô là bảo đảm cho niềm hi vọng, sự cứu thoát và bình an, cho tất cả mọi người.
39. Mầu Nhiệm Thập Giá
(Suy niệm của Lm. Inhaxiô Trần Ngà)
Vào năm 856, các nhà khảo cổ đã thực hiện một cuộc khám phá đầy thú vị ở Balatin tại thành phố Roma. Khi đào bới những lớp đất bao phủ một trại lính cổ, trên bức vách một bức tường, họ nhìn thấy một cây thập giá được một người lính nào đó dùng đinh hay mũi dao khắc vụng về vào tường. Bên cạnh là hình một chàng thanh niên giơ tay chào kính cây thánh giá. Trên cây thánh giá có vẽ hình một người nhưng đầu người ấy lại là hình một con lừa. Dưới hai hình vẽ người ta thấy có viết một hàng chữ: “Alex Saminốt thờ lạy Chúa của hắn”.
Các nhà khảo cổ cho rằng có thể bức vẽ đã được thực hiện vào những năm 123-126. Nhưng nếu sự chuẩn đoán về niên hiệu này là đúng thì đây có lẽ là hình vẽ thánh giá cổ nhất, nhưng lại là hình vẽ thánh giá bị nhạo báng chê cười: “Nếu Thiên Chúa đã chết trên thập giá, thì đây là hành động yếu hèn khờ dại như hành động của một con lừa và cả những người thờ lạy Thiên Chúa trên thập giá cũng thế”.
Vào năm 1870, các nhà khảo cổ học lại tìm được câu trả lời mà họ nghĩ là của chàng thanh niên có niềm tin Kitô giáo mang tên là Alex Saminốt. Ở một trụ bằng đá dựng hình “thần Marc” tức là vị “thần chiến tranh”, người ta thấy được khắc vào đó dòng chữ: “Alex Saminốt vẫn vững tin”.
***
Hình ảnh Thiên Chúa chết treo trên thập giá là một hình ảnh khủng khiếp yếu đuối dại khờ, nhưng thánh Phaolô đã biện hộ cho hành động có thể được gọi là điên rồ của Thiên Chúa như sau: “Tiếng nói của thập giá đối với những kẻ hư hỏng là điên dại, còn đối với những người được cứu rỗi thì là sức mạnh của Thiên Chúa”.
Thật vậy, người Do Thái đòi hỏi phép lạ, người Hy lạp tìm kiếm sự khôn ngoan còn chúng tôi thì giảng về Đức Kitô chịu đóng đinh vào thập giá. Người Do Thái cho đó là điều xấu xa, còn các người ngoại giáo cho là dại dột. Xong đối với kẻ được Thiên Chúa tuyển chọn thì Đức Kitô chịu đóng đinh là sức mạnh và là sự khôn ngoan của Thiên Chúa.
Một Đấng bị đóng đinh cùng với hai tên trộm, hòa với bao tiếng chửi rủa la ó của đám đông lại là sức mạnh và là sự khôn ngoan của Thiên Chúa, quả là nghịch lý đối với sự hiểu biết của loài người! Nơi Thập giá đó cũng tiềm tàng bao sức mạnh cho mỗi người tìm đến khi gặp những sự đau khổ thất bại, nhục nhã trong cuộc sống, quả là khó hiểu! Hôm nay thứ sáu Tuần Thánh, kỷ niệm ngày Chúa bị treo lên làm giá chuộc cho muôn loài, mời gọi tất cả chúng ta hãy thinh lặng để ngước nhìn lên Thập giá bị treo trên cao, chúng ta cùng suy nghĩ về Thập giá của Chúa Kitô, thập giá của hai tên trộm cùng bị đóng đinh với Ngài và suy nghĩ lại thập giá của chính mình đang cưu mang trong cuộc sống. Trên đồi Golgotha năm ấy không phải chỉ có bóng của một cây thập giá duy nhất vậy đâu là thập giá và đâu là thánh giá? Thánh giá nào mang ý nghĩa cứu chuộc và thập giá nào đè bẹp con người xuống dưới sức nặng của thanh gỗ vô tri? Tôi đang vác thánh giá hay thập giá? Trên thập giá tôi đang vác đó có hình bóng của Con Một Thiên Chúa hay không?
***
Lạy Chúa Giêsu bị đóng đinh, xin giúp chúng con hiểu được Mầu Nhiệm Thập Giá mà chúng con chỉ thích chiêm ngắm hơn là dơ tay đón nhận, xin giúp chúng con biết sống Mầu Nhiệm Thập Giá mỗi ngày trong mỗi biến cố lớn nhỏ, buồn vui cuộc sống.
Lạy Chúa trong cuộc sống có biết bao câu hỏi mà không có câu trả lời: “Tại sao người bị thất nghiệp lại là tôi mà không phải là anh?” “Tại sao tôi bị ung thư khi tuổi đời còn quá trẻ mà không phải là chị?”, “Tại sao con tôi chết mà không phải là một đứa trẻ nào khác?”, “Tại sao người thất bại lại là tôi?”, “Là tôi, tại sao là tôi mà không phải là anh hay là một ai khác?” Tại sao? Tại sao? Xin giúp chúng con như Alex Saminốt xưa dám mạnh dạn tuyên xưng “tôi vẫn vững tin” trước những vấn nạn, đau thương, thất bại trong cuộc sống. Tôi vẫn vững tin vào tình thương của Thiên Chúa, tôi vẫn vững tin vào Mầu Nhiệm Thập Giá ngày thứ sáu hôm nay sẽ kéo tôi lên theo với Ngài. Lạy Cha, con vẫn luôn vững tin vào Cha. Amen.
40. Nhìn đúng cách
Alexander Solzhenisyn kể về thời gian đen tối của đời ông, khi mọi hy vọng như biến mất. Là một tù nhân trong trại tù Nga, ông làm việc nặng nhọc 12 giờ mỗi ngày. Ông lại thiếu dinh dưỡng nên bị bệnh trầm trọng. Thực ra, bác sĩ đã tiên đoán cái chết của ông. Một trưa nọ, ông đang xúc cát giữa trời nắng, ông ngã gục xuống. Ông nghĩ rằng lính gác sẽ đến đánh ông chết cho xong. Ông không thiết sống, không thể sống nữa.
Ngay lúc đó, một tù nhân người Công Giáo chạy nhanh tới Alex. Với chiếc gậy đang chống, anh bạn vẽ hình Thánh Giá trên cát, chỉ cho Alex xem rồi vội xoá đi trước khi lính gác nhìn thấy. Lập tức, Alex cảm thấy một tia hy vọng trong lòng. Ông đã lấy hết sức để cố gắng trải qua ngày cực khổ đó và nhiều tháng tiếp sau. Alex đã được cứu thoát trong ngày đó nhờ nhìn vào cây Thánh Giá của Chúa Giêsu. Sự nhắc nhớ chớp nhoáng về tình yêu của Chúa đã đem lại sức mạnh để tiếp tục kiên trì.
Trong bài đọc I, Dân Israel cảm thấu sự nóng bỏng của cát dưới chân và của khí thở, nên họ kêu trách Chúa và Mai Sen. Sách Dân Số kể: “Mệt mỏi vì cuộc hành trình, họ phàn nàn vì đưa họ ra khỏi Ai Cập.” Sau khi dân bị phạt, bị rắn độc cắn, Chúa bảo Mai Sen làm con rắn đồng treo lên cột. Ai bị rắn cắn nhìn lên rắn đồng thì được khỏi.
Từ cổ xưa, hình con rắn treo đã nên biểu tượng cho ngành thuốc. Thời xưa, nọc rắn dùng trong y thuật. Thật sự, nọc rắn có thể chữa bệnh hay giết chết.
Rắn treo trên cột trong Cựu Ước là tượng trưng cho Thánh Giá trong Tân Ước. Thánh Giá cũng có thể cứu sống hay đánh bại, tùy theo cách thế chúng ta nhìn. Như trong trường hợp của Alex, ông có thể nhìn hình thánh giá tượng trưng cho những cực khổ mà ông hầu như không mang nổi. Hoặc ông nhìn đó như dấu hiệu tình yêu của Chúa.
Không cần cố gắng bao nhiêu chúng ta cũng thấy nhan nhản thánh giá trong đời sống, như thời tiết quá nóng hay lạnh, mưa hay nắng, thân xác yếu mệt, mất tiền của, mất việc làm, mất người thân… Chúng ta có thể nhìn những đau khổ theo tự nhiên hay nhìn với con mắt đức tin. Lo nghĩ theo tự nhiên sẽ đưa chúng ta đến chán nản, thất vọng, quên sinh. Nhìn những thánh giá theo đức tin sẽ được Chúa ban ơn giải thoát.
Làm sao để nhìn theo đức tin? Chúng ta hãy nhớ đến Thánh Giá Chúa Giêsu trên đồi Can Vê. Hãy suy tưởng những hình khổ đó có nghĩa gì đối với Chúa. Con đường thương khó là cả một sụp đổ của những gì muốn làm, là sự thiện Ngài muốn thực hiện dường như bị chà đạp bởi đầu óc ngang ngạnh, thiển cận của con người, là sự bất lực đầu hàng trước quyền lực sự dữ.
Mặc dù thế, Thánh Giá Chúa lại là chiến thắng. Lòng nhân từ của Chúa không thể bị đánh trẹo bởi sự dữ. Dù tội lỗi lớn lao đến đâu, lòng thương xót của Chúa vẫn tha thứ. Dù mây mù có dầy đặc tăm tối đến đâu, mặt trời vẫn chiếu sáng. Chúa Giêsu đã trải qua đêm tăm tối nhất để chúng ta cố gắng làm gì có thể trong những lúc thử thách và cuối cùng công chính sẽ chiến thắng. Không phải chỉ có Thánh Giá Chúa mới chiến thắng, cả những thánh giá của chúng ta cũng là cơ hội để chiến thắng.
Nếu thiếu đức tin, những thánh giá đó trở nên nặng nề, khó có thể mang được và dần dần nó sẽ đánh quỵ chúng ta. Với đức tin, chúng ta sẽ nhìn thánh giá như dấu chứng tình yêu, tình yêu Chúa đối với chúng ta và tình yêu chúng ta đối với Chúa. Chúa Giêsu đã chia sẻ kiếp người đau khổ để chiến thắng và đem lại sức mạnh cho chúng ta. Phần chúng ta, chúng ta trải qua những đau khổ để theo Chúa.
41. Suy tôn Thánh Giá
NHỮNG NGƯỜI ĐI NGANG QUA THẬP GIÁ
Có một lần, sở giao thông Pháp đã dàn cảnh một tai nạn lưu thông để trắc nghiệm phản ứng của những người đi đường. Tai nạn diễn ra thật rùng rợn tại một khúc đường nhộn nhịp. Chỉ trong khoảng một giờ, có đến 168 chiếc xe chạy qua, nhưng chỉ có 48 người dừng lại hỏi han và tìm cách giúp đỡ. Còn những người khác thì cứ phớt tỉnh chạy qua, tới cuối đường bị cảnh sát chặn lại hỏi, và họ đã ngang nhiên trả lời: tôi có thấy gì đâu.
Hai ngàn năm trước, cũng đã diễn ra một cảnh tượng như thế, nhưng không phải là dàn cảnh mà là chuyện thật. Đức Kitô bị đóng đinh trên thập giá. Thế mà cả lý hình và dân chúng vẫn thản nhiên. Bọn lý hình thì chơi trò bốc thăm để chia phần xống áo. Còn dân chúng, Thánh Kinh gọi họ là những kẻ đi ngang qua. Họ lạnh lùng trước một cảnh tượng vô cùng bi thảm và hết sức quan trọng của lịch sử. Giây phút cao điểm của tình yêu Thiên Chúa. Thế nhưng mà cảnh tượng này vẫn thường xảy ra trong thời đại hiện nay nơi những người tự xưng là Kitô hữu, họ vẫn thản nhiên đi ngang qua thập giá. Bởi vì theo họ, thập giá chỉ dành cho những góc nhà thờ, những giờ kinh nguyện sốt sắng. Họ không nhận ra rằng người bị đóng đinh chính là tác giả sự sống và định mệnh của chúng ta được gắn liền với thập giá. Họ không hiểu được lời Kinh Thánh: Ngài đã nộp mình chịu chết vì tôi. Ngài đã chết thay cho tôi. Họ không tin rằng Kitô giáo đã đang và sẽ còn là một tôn giáo của thập giá. Và như vậy, họ vẫn thản nhiên đi ngang qua thập giá.
Tệ hơn nữa, như Kinh Thánh đã ghi lại, họ còn lắc đầu chế nhạo: Nếu ngươi là Con Thiên Chúa thì hãy xuống khỏi thập giá đi. Đã qua rồi cái thời đại vàng son khi Chúa Giêsu đối đáp khôn ngoan, làm câm miệng những kẻ bắt bẻ Ngài. Đã qua rồi những làn sóng người tuốn đến để xin Ngài chữa bệnh: Nó đã cứu được người khác mà không cứu được mình sao? Chúa Giêsu bị bắt và bị dẫn đi như một tên tội phạm. Ngài đã bị đóng đinh và đang quằn quại rên xiết như một kẻ bất lực hoàn toàn. Giờ đây, những kẻ thù ghét Ngài tha hồ lên mặt xỉa xói.
Nhưng Chúa Giêsu đâu có bất lực, Philipphê có lần đòi sai lửa trời xuống thiêu rụi cả một làng xứ Samaria. Phêrô đã có lúc hăng máu chém đứt tai tên đầy tớ vị thượng tế, và Chúa Giêsu đã chẳng nói với ông: Con không tin là Chúa Cha sẽ lập tức phái 12 cơ binh thiên thần đến cứu giúp Thầy nếu Thầy xin sao. Nhưng đây là giờ cứu độ, giờ chuộc lại tội lỗi thế gian. Chính là giờ phút này mà Ngài đã đến trong thế gian…
Giữa lúc thiên hạ coi Ngài là yếu nhược nhất thì lại là lúc Ngài quyền năng nhất, giờ phút vinh thắng của Ngài đã điểm. Suốt 33 năm cuộc đời Ngài chỉ nhằm vào giây phút này. Toàn bộ chương trình mà Thiên Chúa đã ươm mơ cũng chỉ nhằm vào giây phút này. Toàn thể lịch sử nhân loại củng chỉ trông vào giây phút này mà thôi. Chúng ta bực mình khó chịu khi thấy đôi tay toàn năng nâng đỡ cả vũ trụ phải chịu đóng đinh. Đôi chân mà trái đất đã làm bệ phải chịu đóng đinh. Chúng ta không muốn Giáo Hội bị các thế lực trần gian bách hại chế giễu, chúng ta không muốn linh mục, tu sĩ và giáo dân bị tra tấn và giam cầm, nhà thờ bị đóng cửa…
Quả thực, chúng ta còn giữ thái độ nóng nảy của Philatô và Phêrô ngày xưa. Chúng ta cố tình nhắm mắt không muốn nhìn cảnh tượng Chúa Giêsu trên thập giá, và chúng ta chỉ muốn thản nhiên đi ngang qua thập giá. Hơn thế nữa, ngày hôm nay Đức Kitô vẫn còn chịu đóng đinh nơi khổ giá những con người bất hạnh, nghèo túng và bệnh tật. Thế nhưng, chúng ta đã có thái độ nào trước những khổ đau của họ, dửng dưng bỏ đi, hay là tích cực giúp đỡ…
42. Suy tôn Thánh Giá
(Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long, OFM.)
NƠI THẬP GIÁ, CHÚA CHA NÓI VỚI CHÚNG TA MỌI SỰ
- Ngữ cảnh
Chỉ Tin Mừng IV nói đến Nicôđêmô, một thành viên quan trọng trong Phái Pharisêu – rất có thể cũng là một thành viên của Thượng Hội Đồng -. Ông đã tận dụng bóng đêm để đến gặp Đức Giêsu, có thể cũng vì đêm là thời gian yên tĩnh và an bình. Ông đại diện cho người Israel, với trái tim vẫn còn tinh trong, đang đi tìm ánh sáng và xác tín rằng vị Rabbi đến từ Nadarét, “một vị tôn sư được Thiên Chúa sai đến”, có thể chỉ cho ông thấy ánh sáng.
Ông đã đến và ra đi trong đêm, và chúng ta vẫn tự hỏi là từ cuộc đối thoại với Đức Giêsu, ông đã khám phá ra điều gì, vì tác giả Gioan không nói.
Chúng ta sẽ lại gặp ông giữa các thượng tế tại Giêrusalem đang tranh luận với nhau xem có thể loại trừ Đức Giêsu cách nào. Nicôđêmô im lặng lắng nghe rồi đã gây chuyện với họ: “Lề Luật của chúng ta có cho phép kết án ai, trước khi nghe người ấy và biết người ấy làm gì không?”. Nhưng họ đã mỉa mai ông: “Ông cứ nghiên cứu, rồi sẽ thấy: không một ngôn sứ nào xuất thân từ Galilê cả” (Ga 7,51-52). Nicôđêmô thật quá chân thành và lương thiện để làm thành viên của một nhóm xảo trá!
Chúng ta gặp lại ông lần cuối cùng với Giôxếp Arimathê: họ tẩm liệm thi hài Đức Giêsu bằng dầu thơm, bọc bằng khăn liệm rồi đặt vào trong mộ (Ga 19,39-40).
- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Đức Giêsu nhắc lại quá khứ (3,14-15);
2) Đức Giêsu đưa vào Tin Mừng hôm nay (3,16-17).
- Vài điểm chú giải
– Như ông Môsê đã giương cao con rắn (14): Câu này nhắc đến Ds 21,9tt.
– ai tin vào Người thì được sống muôn đời (15): Câu này tương ứng với Ds 21,8: “Ai nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống”.
– Thiên Chúa yêu thế gian (16): Động từ agapan ở thì quá khứ aorist (êgapêsen) nhắm diễn tả hành vi yêu thương tuyệt đỉnh của Thiên Chúa. Có thể nói ở đây chúng ta có mộtví dụ tuyệt hảo về động từ agapan được diễn tả ra thành hành động, bởi vì c. 16 nói đến tình yêu Thiên Chúa được bày tỏ ra trong cuộc Nhập Thể và cái chết của Chúa Con.
– đã ban (16): Động từ didonai, “cho; ban [tặng]”, không chỉ nhắm đến cuộc Nhập Thể (Thiên Chúa gửi Con vào trần gian; c. 17), nhưng nhắm đến cả cuộc đóng đinh (trao nộp cho chết: “giương cao” trong cc. 14-15). Như thế, động từ này tương tự với paradidonai, “trao nộp”, ở Rm 8,32; Gl 2,20; và didonai ở Gl 1,4.
– Thiên Chúa sai Con (17): Động từ apostellein này song song với “ban” ở c. 16. Khi nói về Đấng Bảo Trợ, cũng có cặp động từ này, “sai” và “ban” ở 14,16.26. Tác giả Gioan dùng hai động từ có nghĩa là “sai phái” có vẻ không phân biệt: pempein (26 lần) và apostellein (18 lần).
– Con (17): Từ “Con” ở dạng tuyệt đối (không có túc từ đi theo) trong TM IV thì hầu như song song với cụm từ “Con Người” theo truyền thống Nhất Lãm.
– không phải để lên án thế gian (17): Câu này xác định mục tiêu của sứ mạng Chúa Con đảm nhận khi được gửi vào trần gian: không phải để lên án, nhưng để cứu độ (x. Ga 4,42; 1 Ga 4,14). Thế nhưng ở 9,39, Đức Giêsu lại khẳng định: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử”. Điều duy nhất Thiên Chúa muốn, đó là cứu độ thế gian; nhưng biến cố Con của Ngài đến cũng nhất thiết đưa loài người đến chỗ phải lấy quyết định; quyết định trọng yếu nhất của đời người, là gắn bó với Con Một Thiên Chúa (c. 18) bằng đức tin, hoặc ngược lại, từ chối tin vào Người.
– được cứu độ (17): So sánh với c. 16, ta hiểu “được cứu độ” ở đây có nghĩa là “được sống muôn đời” (x. 1 Ga 4,14; Ga 12,47).
- Ý nghĩa của bản văn
* Đức Giêsu nhắc lại quá khứ (14-15)
Đức Giêsu nhắc lại cho Nicôđêmô một biến cố đã xảy ra trong cuộc Xuất Hành, biến cố này Người biết rất rõ, vì là “vị tôn sư được Thiên Chúa sai đến”: con rắn đồng Môsê đã đúc và giương cao trong sa mạc (x. Ds 21,4-9), và Người bình luận tích đó rằng tích đó tượng trưng cho những gì sắp xảy ra cho Người. Con Người sắp được giương cao trên thập giá để tất cả những ai nhìn lên Người thì sẽ được cứu.
Nicôđêmô đã không hiểu điều Đức Giêsu ám chỉ khi Người nói “ông cần được sinh lại bởi trên”, bây giờ lại càng ngỡ ngàng khi nghe nói đến việc “giương cao Con Người”. Ông ngạc nhiên và có lẽ cũng buồn nữa. Ông im lặng lắng nghe, chứ không biết hỏi thế nào nữa. Ông chưa được soi sáng bởi ánh sáng Phục Sinh, nên những gì ông đang được nghe lúc này là mầu nhiệm không sao dò thấu đối với ông. Ông chưa hiểu được rằng “Tin vào Đấng được giương cao” có nghĩa là đưa mắt nhìn lên “Đấng Chịu đóng đinh”, là Chúa Kitô bị đóng đinh trên thập giá, và dựa vào Người mà đo lường mọi quyết định của ông, để cho Người hướng dẫn các quyết định của ông. “Đưa mắt nhìn lên Đấng Chịu đóng đinh” chính là coi Người là biểu tượng của ơn cứu độ, là nguồn mạch đưa tới sự sống. “Đưa mắt nhìn lên Đấng Chịu đóng đinh” như thế cũng có nghĩa là phải từ bỏ nhiều thứ, hy sinh nhiều chuyện. Tác giả TM IV nói rằng một ngày nào đó người ta “sẽ nhìn lên Đấng họ đã dâm thâu” (Ga 19,37). Vào ngày đó, Nước Thiên Chúa sẽ được thiết lập trên trần gian.
* Đức Giêsu đưa vào Tin Mừng hôm nay (16-17)
Trong phần thứ hai, Đức Giêsu nói về Tin Mừng của ngày hôm nay: Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, Người đến không phải để lên án thế gian, nhưng để cứu thế gian. Thiên Chúa chọn con người, Thiên Chúa đứng về phía con người.
Đây là một câu nói có sức trấn an, một mạc khải phải làm cho lòng chúng ta tràn ngập niềm vui và cậy trông. Tuy nhiên, mạc khải này có thể bị phi bác bởi nhiều bản văn Tin Mừng khác cho thấy Thiên Chúa và Đức Giêsu như là những thẩm phán nghiêm khắc (x. Mt13,31-42; 25,31-46…), nếu không được giải thích đúng đắn. Mt dùng các hình ảnh giới thiệu Thiên Chúa như là thẩm phán là để nhắc các độc giả nhớ rằng phải nghiêm túc quan tâm đến đời sống. Tuy nhiên, hình ảnh này cần được bổ túc bởi hình ảnh “án xử của Thiên Chúa” trong TM IV.
Đời sống của chúng ta sẽ được mở dần ra cho tới cùng, bởi ánh sáng của Thiên Chúa, và ánh sáng này sẽ cho thấy thời gian chúng ta đã sống thể theo “án xử của Người” và thời gian chúng ta đã phung phí vì đã sống theo “án xử của loài người”. Nhưng “án xử” này không chỉ kết luận đơn giản bằng một lời tuyên án là có tội hay vô tội. Điều này không ích lợi gì. Án xử chúng ta cần nhất, án xử sẽ cứu chúng ta, đó là án xử Thiên Chúa đi qua hôm nay, một án xử sẽ ngăn cản chúng ta phí mất đời sống chúng ta. TM IV nhấn mạnh trên án xử này.
Tác giả không bao giờ nói đến “phán xét chung [cuối cùng]” và không bao giờ bảo rằng Thiên Chúa sẽ kết án chúng ta (c. 17) bởi vì Thiên Chúa chỉ muốn cho chúng ta được cứu độ. Ở xa hơn, ngài nhắc lại một lời nói khác của Đức Giêsu: “Ai nghe những lời tôi nói mà không tuân giữ, thì không phải chính tôi xét xử người ấy, vì tôi đến không phải để xét xử thế gian, nhưng để cứu thế gian” (Ga 12,47).
+ Kết luận
Chính cái nhìn chúng ta nhận ra nơi bản văn (Thiên Chúa muốn cho chúng ta được cứu độ) giúp chúng ta hiểu lời đọc trong Kinh Tin Kính: “Người sẽ đến để phán xét”. Người đến từ đâu? Từ cây thánh giá, từ Phục Sinh: Cây thánh giá lật ngược các giá trị của chúng ta, và giúp chúng ta có thể lật ngược thất bại thành chiến thắng, nô lệ thành quyền bính, nghèo khó thành giàu có, mất mát thành lời lãi, thấp hèn thành vinh quang, tử vong thành tái sinh. Cây thập giá phải là chuẩn mực giúp chúng ta đo lường thành công hay thất bại trong cuộc đời. Chính án xử của Đức Giêsu Chịu đóng đinh sẽ nói lên sự thật về lịch sử loài người. Chỉ duy án xử này của Người mà chúng ta phải “sợ hãi”.
Bài Tin Mừng này mời gọi chúng ta chiêm ngưỡng vị Thiên Chúa trên thập giá và thúc bách chúng ta đi đến một câu đáp trả bằng tình yêu.
- Gợi ý suy niệm
- Chúng ta đọc trong Tin Mừng Gioan rằng Thiên Chúa mạc khải vinh quang lớn lao nhất của Ngài ra khi Con của Ngài được giương cao trên thập giá. Điều này sẽ gây ngạc nhiên cho những ai đã nghĩ rằng vinh quang của Thiên Chúa trước tiên và tốt nhất phải được mạc khải ra qua các phép lạ, quyền lực vô biên của Ngài. Trên Núi Sọ, Chúa Cha đã nói cho chúng ta cách rõ ràng nhất Ngài yêu thương chúng ta đến độ nào. Núi Sọ cất đi mọi tấm khăn có thể ngăn cản chúng ta thấy được gương mặt của Thiên Chúa.
- Nói đến tình yêu là nói đến sự quan tâm, sự thông dự, sự ân cần, chăm sóc, nỗ lực, vận dụng mọi sự. Tình yêu muốn điều hay điều tốt cho người mình thương. Người ấy không dửng dưng với con đường và định mệnh của người yêu, nhưng ra sức làm cho người kia được sống trong niềm vui và sự viên mãn. Đối với Thiên Chúa thì sao? Phải chăng Ngài đã tạo thành thế giới rồi bỏ mặc nó? Ngài có quan tâm đến chúng ta và đến định mệnh chúng ta không? Ngài có để ý xem chúng ta thế nào và chúng ta đi đến đâu không? Thiên Chúa đã tạo thành chúng ta, đã quan tâm đến số phận của chúng ta, đã ban Người Con Một để chúng ta được sống viên mãn ngay từ bây giờ. Chúng ta có giá đối với Thiên Chúa đến mức Ngài sẵn sàng hy sinh Con vì chúng ta (x. Rm 8,32).
- Sau cuộc tạo dựng, sau Lề Luật, các Ngôn sứ và tất cả những hình thái ân cần săn sóc khác, Người Con là tiếng nói cuối cùng và ân huệ có giá trị tối cao được Chúa Cha ban cho chúng ta. Người Con sẽ quan tâm đến chúng ta riêng tư từng người, sẽ chỉ cho chúng ta từng người biết con đường đưa tới ơn cứu độ, sẽ đưa ta đến chỗ hiệp thông với Người và đi đến cuộc sống muôn đời. Đức Giêsu, Đấng chịu đóng đinh, không phải là mộttư tưởng hay là mộtlý thuyết, một giả thuyết hay mộtchuyện tưởng tượng, nhưng là mộtthực tại lịch sử đích thực. Từ đó, chúng ta cũng phải nhìn nhận rằng tình yêu của Thiên Chúa cũng hết sức hiện thực.
Chúng ta suy ngẫm một đoạn bài giảng của thánh Antôn Pađôva: “Chúa Cha đã gửi Con của Ngài đến với chúng ta, là “ân ban tuyệt vời, ân ban hoàn hảo” (Ga 1,17). Ân ban tuyệt vời, không gì có thể vượt qua; ân ban hoàn hảo, ta không thể thêm gì vào nữa. Chúa Kitô là ân ban tuyệt vời bởi vì Đấng mà Chúa Cha ban cho chúng ta như thế là Con Ngài, tối cao, vĩnh cửu như Ngài. Chúa Kitô là ân ban hoàn hảo; như thánh Phaolô đã nói, “Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta?” (Rm 8,32)… Ngài đã ban cho chúng ta Đấng là “đầu Hội Thánh” (Ep 5,23). Ngài đã không thể nào ban thêm gì nữa cho chúng ta. Chúa Kitô là ân ban hoàn hảo bởi vì, khi ban Người cho chúng ta, Chúa Cha đã nhờ Người mà đưa mọi sự tới mức hoàn hảo”.
43. Suy tôn Thánh Giá
(Chú giải và gợi ý suy niệm của Inhaxiô Hồ Thông)
Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su áp dụng bản văn Ds 21: 4-9 cho chính mình: “Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy…”
SUY TÔN THÁNH GIÁ
Đây là ngày lễ mâu thuẫn nhất trong các ngày lễ Ki-tô giáo: thập giá, dấu chỉ của sự ô nhục nhất, hình ảnh ghê tỡm nhất, dụng cụ dã man và phi nhân nhất, đã trở thành biểu hiệu của sự khải hoàn và vinh quang. Con Thiên Chúa đã chấp nhận chịu khổ nạn để biến đổi đau khổ thành sự hòa giải giữa trời với đất, và sự chết thành con đường dẫn đến sự sống đời đời.
Ds 21: 4-9
Vì dân Ít-ra-en trách cứ Thiên Chúa và ông Mô-sê, Thiên Chúa trừng phạt dân bằng cách cho rắn độc đến cắn chết họ. Dân chúng sám hối và cầu xin Chúa tha thứ. Thiên Chúa tha thứ bằng cách truyền cho ông Mô-sê: “Ngươi hãy làm một con rắn và treo lên một cây cột. Tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống”.
Tv 78 (77): 1-2, 34-38
Những câu trích dẫn của Tv 78 (77) có chủ ý diễn tả tâm tình phụng vụ của ngày lễ Suy Tôn Thánh Giá này. Thiên Chúa biểu lộ tấm lòng phụ tử của Người đối với dân Người. Khi dân lỗi phạm, Thiên Chúa trừng phạt dân; nhưng “Người vẫn xót thương, tha thứ, không tiêu diệt, nén giận đã bao lần, chẳng khơi bùng nộ khí”.
Pl 2: 6-11
Thánh Phao-lô mời gọi chúng ta suy niệm mầu nhiệm tự hạ và tôn vinh của Đức Ki-tô trong bài thánh thi ca ngợi Đức Ki-tô. Đây là lời chứng đáng chú ý của Giáo Hội tiên khởi.
Ga 3: 13-17
Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su áp dụng bản văn Ds 21: 4-9 cho chính mình:“Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời”.
BÀI ĐỌC I (Ds 21: 4-9)
Sách Dân Số, tiếp theo sau sách Xuất Hành và sách Lê-vi, lấy lại và bổ túc những yếu tố chuyện kể cũng như những yếu tố lề luật của hai sách trước. Sách mang tên Dân Số là do việc kiểm tra dân số của mười hai chi tộc Ít-ra-en, theo lệnh của ông Mô-sê trước khi xuất hành ra khỏi núi thánh Xi-nai.
- Bối cảnh:
Giai thoại con rắn đồng thuộc vào giai đoạn sau cùng của cuộc hành trình dài lâu trong sa mạc. Sau một thời gian tạm nghỉ ở ốc đảo Ca-đê trong sa mạc, họ lại tiếp tục cuộc hành trình hướng về phía bắc Pa-lét-tin. Họ phải chịu đói chịu khát và chán ngấy bánh man-na:“Tại sao lại đưa chúng tôi ra khỏi Ai-cập, để chúng tôi chết trong sa mạc, một nơi chẳng có bánh ăn, chẳng có nước uống? Chúng tôi đã chán ngấy thứ đồ ăn vô vị này” (Ds 21: 5). Trước đây, họ đã hoan hĩ đón nhận bánh man-na, nhưng gần cuối cuộc hành trình, họ khao khát được nếm những thức ăn đa dạng hơn, vì thế họ đã kêu trách Thiên Chúa và ông Mô-sê.
- Thiên Chúa trừng phạt dân:
Trình tự tái diễn đều đặn trong suốt cuộc hành trình trong sa mạc đó là: dân Ít-ra-en cằn nhằn gây sự và tỏ thái độ ngờ vực, vì thế Thiên Chúa trừng phạt dân. Dân hối hận ăn năn và cầu xin ông Mô-sê cầu bầu cho họ. Sau cùng Thiên Chúa tha thứ. Tuy nhiên, cơn thịnh nộ của Thiên Chúa còn triệt để hơn: không một người Ít-ra-en nào thuộc thế hệ ra khỏi Ai-cập sẽ được đặt chân vào Đất Hứa, vì thế hệ này nghi ngờ Thiên Chúa.
Ở giai thoại được kể hôm nay, dân chúng trách cứ Đức Chúa lẫn ông Mô-sê, vị trung gian của Ngài, vì thế Thiên Chúa phạt dân bằng cách cho rắn độc đến hại dân: “Chúng cắn họ, khiến nhiều người Ít-ra-en phải chết”.
- Lời cầu bầu của ông Mô-sê:
Trước tai ương, dân chúng ăn năn và xin ông Mô-sê cầu thay cho mình. Một lần nữa, ông Mô-sê cầu xin Thiên Chúa tha thứ cho dân của Ngài. Sách Dân Số ghi lại nhiều lời cầu thay nguyện giúp của ông Mô-sê thật cảm động. Đức Chúa động lòng và tha thứ cho dân. Trong trường hợp này, Đức Chúa bảo ông Mô-sê: “Ngươi hãy làm một con rắn và treo lên một cây cột. Tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống” (Ds 21: 8).
- Con rắn đồng:
“Lấy độc trị độc” là một phương thức chữa trị rất cổ xưa. Mặt khác, việc cúng tế con rắn như một vị thần linh rất phổ biến giữa các dân tộc thời xưa. Việc thờ phượng này do việc nọc độc của vài con rắn trở nên phương thuốc hiệu nghiệm trong việc điều trị nhiều chứng bệnh. Ở Hy-lạp, thần Esculape được gọi thần dược, mà biểu tượng của thần là một con rắn quấn quanh một chiếc đủa. Trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, có một bức tượng con rắn đồng được truyền tụng là con rắn đồng do ông Mô-sê đúc trong sa mạc và được tôn thờ mãi cho đến thời vua Khít-ki-gia (716-687 trước Công Nguyên) mới thôi (2V 18: 4).
Ông Mô-sê sử dụng tín ngưỡng dân gian nhưng đưa vào đây một viễn tượng tôn giáo thờ Đức Chúa (Giáo Hội Ki-tô hóa các nghi thức ngoại giáo cũng theo cách thức như vậy). Chính Thiên Chúa cho dân một phương thế cứu chữa và đòi hỏi dân một hành vi đức tin vào Ngài. Tác giả sách Khôn Ngoan đã chú giải giai thoại này theo cùng một chiều hướng như vậy: “Họ phải chịu hành hạ ít lâu như là chịu một lời cảnh cáo; rồi họ được một dấu hiệu cứu thoát nhắc họ nhớ đến luật Ngài truyền. Vì bất cứ ai ngước trông lên đều được cứu, không phải do bởi vật họ nhìn, nhưng là do chính Ngài, Đấng cứu độ muôn người hết thảy” (Kn 16: 6-7).
Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su áp dụng hình ảnh này vào chính Ngài: “Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời”.
THÁNH VỊNH 78 (77): 1-2, 34-38
Toàn bộ thánh vịnh 78 (77) là một “thánh vịnh lịch sử”, thuật chuyện dân Ít-ra-en từ thời lưu đày cho đến triều đại vua Đa-vít. Thánh vịnh này nhằm mục đích giáo huấn về lòng trung thành và biện minh cho việc Thiên Chúa loại bỏ nền phụng tự trong vương quốc miền Bắc (c. 67) và chọn lựa Giu-đa làm nơi Ngài ngự (cc. 68-69). Thánh vịnh này cốt là một dẫn nhập mang tính giáo huấn (cc. 1-11) được theo sau bởi hai bài trình thuật song song về lịch sử cứu độ (cc. 12-31 và cc. 43-55), mỗi bài trình thuật đều dẫn đến hậu quả của nó (cc. 32-42 và cc. 56-72).
Đoạn trích của Tv 78 (77) trong ngày lễ Suy Tôn Thánh Giá hôm nay được cấu trúc như sau:
- Mời gọi dân chúng lắng nghe giáo huấn của mình (cc. 1-2):
- “Dân tôi hỡi, này nghe tôi dạy bảo, lắng tai đón nhận lời lẽ miệng tôi”: Câu mở đầu này mang tính giáo huấn gợi nhớ những thánh vịnh minh triết (x. Tv 49: 2-5). 2. “Mở miệng ra, tôi sẽ nói đôi lời huấn dụ, công bố điều huyền bí thuở xưa”: Thuật ngữ “huấn dụ” được dịch từ tiếng Híp-ri “ma-sal” có một phạm vi ngữ nghĩa rộng lớn hơn thuật ngữ “dụ ngôn”. Ở đây, thuật ngữ huấn dụ này có nghĩa “giáo huấn”. Thánh Mát-thêu trích dẫn câu này khi quy chiếu đến giáo huấn của Đức Giê-su (Mt 13: 35).
B.Tấm lòng của Thiên Chúa đối với dân Ngài (cc. 34-38):
- Trừng phạt ngỏ hầu dân tỉnh ngộ (cc. 34-35)
3.4. “Khi Chúa giết họ, họ mới đi tìm Chúa, mới trở lại và mau mắn kiếm Người”: Diễn tả theo cùng một ý tưởng ở Tl 2: 10-19. 35. “Mới nhớ rằng Thiên Chúa là núi đá họ ẩn thân, Thiên Chúa Tối Cao là Đấng cứu chuộc họ”: “Núi đá” là một thuật ngữ Kinh Thánh thường hằng chỉ ra Đức Chúa là Đấng bảo vệ và cứu độ (x. Đnl 32: 15, 18, 37; 1Sm 2: 2; Tv 62: 7-8; 73: 26; I s 26: 4; 44: 8; vân vân). Hai câu 34-35 này muốn nói rằng khi dân lỗi phạm, Thiên Chúa trừng phạt dân, nhưng không nhằm làm nguôi cơn tức giận của Ngài cho bằng giúp cho dân Ngài nhận ra rằng chỉ duy ở nơi Ngài dân mới gặp thấy nơi trú ẩn vững chắc và là nguồn mạch cứu độ.
- Sự tương phản giữa sự bất trung của dân Ngài và tấm lòng xót thương của Thiên Chúa (cc. 36-38).
- “Miệng họ phỉnh phờ Chúa, lưỡi họ lừa dối Người”: Mô tả sự phản trắc của dân Chúa trong lời nói. 37. “Còn lòng dạ chẳng chút gì gắn bó, chẳng trung thành giữ giao ước của Người”: Mô tả sự bất trung của dân Chúa trong lòng cũng như hành động. 38. “Nhưng Người vẫn xót thương, thứ tha, không tiêu diệt, nén giận đã bao lần, chẳng khơi bùng nộ khí”: Mô tả lòng xót thương bao la của Chúa đối với những lỗi phạm của dân Ngài (x. Ds 14: 18-19; Đnl 4: 31; Xh 34: 6-7; Tv 103: 8-9; vân vân). Rõ ràng, qua ba câu này, tác giả có chủ ý nhấn mạnh sự tương phản giữa sự phản trắc và bất trung của dân Ngài trong lời nói, trong lòng cũng như hành động (cc. 36-37) và tấm lòng xót thương vô hạn của Thiên Chúa đối với những lỗi phạm của dân Ngài (c. 37).
Toàn bộ đoạn trích dẫn của Tv 78 (77) này ăn khớp với bầu khí Phụng Vụ của ngày lễ Suy Tôn Thánh Giá. Những gì Thánh Vịnh mô tả về tấm lòng xót thương và hay tha thứ của Thiên Chúa đối với dân Ngài rất phù hợp với Bài Đọc I (Ds 21: 4-9) và Tin Mừng hôm nay (Ga 3: 13-17).
BÀI ĐỌC II (Pl 2: 6-11)
Đoạn thư thánh Phao-lô gởi tín hữu Phi-líp-phê này là một thánh thi bằng văn xuôi có nhịp điệu, gồm sáu khổ thơ. Ba khổ thơ đầu vạch lại ba giai đoạn tự nguyện hạ mình của Đức Ki-tô, trong khi ba khổ thơ còn lại nói về ba giai đoạn tôn vinh của Ngài.
Người ta không khỏi ngạc nhiên khi gặp thấy ở nơi cung giọng nồng nàn nhưng thân quen, những dòng thơ khôn sánh này, như nguồn cảm hứng tuôn trào một mạch từ ngòi bút. Người ta không biết phải chăng thánh Phao-lô là tác giả hay chỉ là người trích dẫn. Bài thánh thi này, bằng Hy ngữ, được phô diễn hết sức văn chương. Tuy nhiên, các nhà chuyên môn phát hiện ở nơi bài thánh thi này những ảnh hưởng của ngôn ngữ A-ram. Phải chăng có một bản văn bằng tiếng A-ram trước bản văn Hy ngữ này? Nếu vậy, chúng ta đang đứng trước một bài thánh thi phụng vụ của Giáo Hội tiên khởi. Dù thế nào, chúng ta có ở đây một chứng liệu rất quý, một trong những bản văn rất cổ xưa về thần học Đức Ki-tô; nhất là nó mang đến một lời chứng có giá trị đầu tiên về đức tin tiên khởi vào cuộc sống tiền hữu của Chúa Giê-su, trước cả Tựa Ngôn của thánh Gioan.
- Ba giai đoạn tự hạ của Đức Ki-tô:
1- Đức Giê-su, vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng không nhất quyết đòi cho mình được ngang hàng với Thiên Chúa.
2- Ngài tự hủy mình ra hư không và mặc lấy thân phận thấp hèn, nên giống phàm nhân, nghĩa là chia sẻ tất cả mọi chiều kích mỏng dòn yếu đuối của thân phận chúng ta, ngoại trừ tội lỗi.
3- Ngài lại còn hạ mình đến nỗi bằng lòng chịu chết ô nhục trên thập giá.
- Ba giai đoạn tôn vinh của Đức Ki-tô:
1- Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài và ban tặng cho Ngài danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu.
Chữ “danh hiệu” được hiểu theo nghĩa tuyệt đối: “Danh khả danh phi thường Danh”, nghĩa là danh hiệu này chỉ dành riêng cho một mình Đức Ki-tô. Quả thật, đây là danh của“Đức Chúa”, mà theo truyền thống Do thái dành riêng để chỉ tên khôn tả của Thiên Chúa, vì thế Danh hiệu này “trổi vượt trên muôn vàn danh hiệu”.
2- Muôn loài muôn vật phải phụng thờ Ngài.
“Để vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất, và trong cõi âm ty, muôn vật phải bái quỳ”. Không phải vì tên gọi của Ngài là Giê-su, vì tên gọi này vào thời ấy khá phổ biến, đó là lý do tại sao tên gọi này thường được đám đông xác định thêm: “ông Giê-su thành Na-da-rét”; nhưng đúng hơn vì danh Giê-su đồng nhất với danh Đức Chúa như khổ thơ trước chỉ cho thấy.
“Cả trên trời dưới đất, và trong cõi âm ty, muôn vật phải bái quỳ”: Câu này muốn nói rằng không chỉ con người có bổn phận phải tôn thờ Ngài, nhưng tất cả cả muôn loài thọ tạo đều phải tôn thờ Ngài. Đây là đề tài chúng ta sẽ gặp lại ở sách Khải Huyền: “Tôi lại nghe mọi loài thụ tạo trên trời, dưới đất, trong lòng đất, ngoài biển khơi và vạn vật ở các nơi đó, tất cả đều tung hô: “Xin kính dâng Đấng ngự trên ngai và Con Chiên lời chức tụng cùng danh dự, vinh quang và quyền năng đến muôn thuở muôn đời!” (Kh 5: 13).
3- Sau cùng, Thiên Chúa ban cho Đức Giê-su quyền tối thượng hoàn vũ qua tước vị“Chúa”: “Để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: ‘Đức Giê-su Ki-tô là Chúa’”. Vì thế, những người Ki-tô hữu tiên khởi đã không ngần ngại ban tặng cho Đức Giê-su tước vị mà Cựu Ước dành riêng cho chỉ một mình Đức Chúa. Đây là lời tuyên tín đặc trưng của Giáo Hội tiên khởi trên đó thánh Phao-lô nhấn mạnh nhiều lần Thần Tính của Đức Giê-su trong các thư của mình, cũng như thánh Lu-ca trong sách Công Vụ.
Xin ghi nhận cuối cùng, bài thánh thi định rõ “để tôn vinh Chúa Cha”. Đây cũng là một nét thần học xứng đáng nhấn mạnh: siêu tôn Đức Giê-su đồng nghĩa tôn vinh Chúa Cha. Phụng Vụ Ki-tô giáo sẽ theo đường hướng này: mọi lời chúc tụng dâng lên Đức Ki-tô đều là tôn vinh Chúa Cha.
- Noi theo Mẫu Gương của Đức Ki-tô:
Thánh Phao-lô rất yêu quý các tin hữu Phi-líp-phê mà thánh nhân đã sáng lập vào năm 49-50 và đây là cộng đoàn Ki-tô hữu đầu tiên trên đất Châu Âu. Phi-líp-phê là một thành phố quan trọng thuộc miền Ma-kê-đô-ni-a; thành phố này được đặt tên theo tên vua Phi-líp-phê, cha của đại đế A-lệ-xan-đê. Khi viết cho các tín hữu Phi-líp-phê, thánh nhân đang sống trong cảnh giam cầm. Thánh nhân ước mong các tín hữu Phi-líp-phê thân yêu của ngài biết đồng tâm nhất trí với nhau, nhất là khiêm hạ tận đáy lòng. Vì thế, thánh nhân đưa ra cho họ mẫu gương của Đức Ki-tô.
TIN MỪNG (Ga 3: 13-17)
Lễ Suy Tôn Thánh Giá rất hòa điệu với thần học cứu độ của thánh Gioan. Trong bốn thánh ký, thánh Gioan là thánh ký duy nhất liên kết ý tưởng vinh quang của Thiên Chúa với hình ảnh của Đấng chịu đóng đinh. Đối với thánh Gioan, Thánh Giá không đơn giản là những đau khổ và sỉ nhục, nhưng là dấu chỉ khải hoàn của Thiên Chúa; Đức Giê-su được tôn vinh khởi sự trên đồi Can-vê.
Vì thế, vào ngày lễ hôm nay, Phụng Vụ đề nghị cho chúng ta suy niêm một bản văn Tin Mừng Gioan, bản văn gợi lên cảnh tượng Thánh Giá vinh quang.
- Ngữ cảnh:
Đoạn Tin Mừng này được trích từ cuộc đối thoại của Đức Giê-su với ông Ni-cô-đê-mô, một người Pha-ri-sêu vị vọng. Ông đến gặp Đức Giê-su ban đêm, sau này ông sẽ bày tỏ thái độ thiện cảm của mình đối với Ngài cách kín đáo(7: 48-52) và cuối cùng sẽ công khai tỏ ra mình là môn đệ của Đức Giê-su khi dự phần vào việc mai táng Ngài (19: 34).
Tuy nhiên, phần cuối của cuộc chuyện trò (3: 11-21), trong đó bản văn Tin Mừng được trích dẫn hôm nay, không còn hình thức đối thoại. Quả thật, trong suốt phần cuối này, chúng ta không còn gặp thấy hai đại từ số ít: “tôi” và “ông” trong phần đối thoại trước đó, nhưng thay vào đó là hai đại từ số nhiều: “chúng tôi” và “các ông”. Có lẽ ông Ni-cô-đê-mô vẫn còn có mặt ở đó, nhưng không còn tham dự vào cuộc đối thoại nữa. Người đọc có ấn tượng rằng chính ở bên kia ông Ni-cô-đê-mô, một nhân vật có thế giá của Do thái giáo, Chúa Giê-su mở ra một viễn cảnh của cuộc đối thoại giữa Ki-tô giáo và Do thái giáo vào thời Giáo Hội sau này.
- Thánh giá, tự hạ và tôn vinh:
“Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống”. Trong Tin Mừng Gioan, đây là lần đầu tiên Chúa Giê-su tự nhận cho mình tước hiệu “Con Người”. Tước hiệu này gợi lên thị kiến của ngôn sứ Đa-ni-en trong đó một nhân vật được gọi “Con Người” vừa thuộc về thiên giới, siêu việt, vừa dự phần vào nhân tính (Đn 7: 13-14). Trong đoạn Tin Mừng này, tư tưởng được khai triển giống như bài thánh thi ca ngợi Đức Ki-tô trong thư gởi tín hữu Phi-líp-phê: từ cuộc sống tiền hữu của Chúa Giê-su bên cạnh Chúa Cha đến việc hạ mình của Ngài trong biến cố Nhập Thể, và sau cùng Ngài được Chúa Cha tôn vinh trên trời.
- Thánh Giá, dấu chỉ của ơn cứu độ:
“Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy”. Trong câu này, thánh Gioan có chủ ý dùng một động từ “giương cao” mặc lấy hai nét nghĩa: vừa theo nghĩa đen “đưa cao lên”, vừa theo nghĩa bóng “chúc tụng, tôn vinh”. Chúng ta cũng gặp thấy như vậy ở nơi hai lời công bố của Chúa Giê-su: “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (12: 32-33) và “Khi các ngươi giương cao Con Người lên, bấy giờ các ngươi sẽ biết là Tôi Hằng Hữu”(8: 28). Nếu con rắn đồng đã là dấu chỉ cứu chữa hữu hiệu đối với dân Do thái, thì Con Người được giương cao lên trên thập giá còn hiệu nghiệm biết là ngần nào: “Để ai tin vào Người thì được sống muôn đời”.
- Thánh Giá mặc khải tình yêu Thiên Chúa:
“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một”. Thánh Gioan lấy lại cùng những từ ngữ trong thư thứ nhất của mình. Đây là ý tưởng rất tâm đắc đối với thánh Gioan, vị thánh ký duy nhất ban tặng cho Đức Giê-su tước hiệu “Con Một”. Tước hiệu này có lẽ ám chỉ người con một của ông Áp-ra-ham là I-xa-ác, người con mà ông Áp-ra-ham đã dẫn lên núi cao để hiến tế cho Thiên Chúa. Tuy nhiên, trong phần kết của câu chuyện này, Thiên Chúa chứng thực tấm lòng nhất mực trung tín của ông Áp-ra-ham đối với Ngài: “Bởi vì ngươi đã làm điều đó, đã không tiếc con của ngươi, con một của người” (St 22: 15) nên đã tha chết cho I-xa-ác bằng cách thế vào một con cừu đực bị mắc sừng trong bụi cây (St 22: 13). Chắc hẳn thánh Phao-lô đã suy niệm sâu xa cuộc Tử Nạn của Đức Giê-su trong ánh sáng của câu chuyện này khi thánh nhân viết cho tín hữu Rô-ma: “Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta” (Rm 8: 32).
Ân ban tận mức này của Chúa Cha là lời chứng xúc động nhất về tình yêu của Ngài đối với nhân loại. Tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại không gì khác hơn là muốn mọi người được cứu độ để được sống đời đời: “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ”. Sau này, cũng chính thánh Gioan trong mối xúc cảm dâng trào đã viết: “Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1Ga 4: 10). Thánh Giáo Phụ I-rê-nê cũng đã suy niệm sâu xa tình yêu Thiên Chúa như vậy: “Vinh quang của Thiên Chúa là con người được sống”. Chúa Giê-su trên thập giá không là một Thẩm Phán, nhưng là Đấng Cứu Độ. Giờ thập giá là giờ mà tấm lòng thương yêu tha thứ của Thiên Chúa trổi lên khúc ca khải hoàn. Đây là giờ vinh quang tột bậc của tình yêu Thiên Chúa rực rỡ hơn bao giờ hết đối với nhân loại.
44. Suy tôn Thánh Giá
(Chú giải mục vụ của Alain Marchabour)
Câu 13: Chúa Giêsu là Đấng mặc khải duy nhất
Câu này quá rõ ràng, xác quyết rằng sự hiểu biết duy nhất đích thực về Thiên Chúa là sự hiểu biết do Đấng từ trời xuống, Con Người. Cựu Ước thường gợi nhớ niềm mơ ước có được sự hiểu biết trực tiếp về Thiên Chúa: “Ai lên trời rồi lại xuống?” (Cn 34,4). Tác giả sách Khôn Ngoan tự hỏi: “Việc trên trời ai phát minh được” (9,16-18).
Chúa Giêsu là Đấng mặc khải mà ông Nicôđêmô (và qua ông, dân Do thái) đã không nhận biết (x. 1,18; 6,46; 14,7-9). Từ yêu sách này, Chúa Giêsu và qua Người, các Kitô hữu, không những chống lại những người Do thái đương thời, cả đến những người thân cận như ông Nicôđêmô, mà còn chống lại những người ngộ đạo tự hào đưa ra một sự hiểu biết các mầu nhiệm của ta ngoài Chúa Giêsu.
Câu 14-17: Nội dung mặc khải của Chúa Giêsu
Để tạo uy tín cho lời nói của mình, trước hết Chúa Giêsu đặt nó vào trong lịch sử Israel. Sự mới mẻ mà Người mang đến, cần phải là sự hoàn tất mọi điều Kinh Thánh. Con rắn được giương cao trong sa mạc, theo sách Dân Số 21,4-9, đã giải thoát các người Do thái bất trung khỏi phải chết. Từ giai thoại bí nhiệm này, chúng ta nên lưu ý những điểm có thể làm sáng tỏ điều mặc khải tiếp sau:
- a) Con rắn được giương cao, giống như con người sẽ được treo lên thập giá. Có sự giống nhau từng chữ.
- b) Sự chết đe dọa dân tộc là do sự cứng lòng tin. Dân Do thái được cứu độ không phải bằng một nghi thức phù phép, mà bằng một nghi thức đầy ý nghĩa tượng trưng, đó là đức tin vào Thiên Chúa. Tác giả sách Khôn Ngoan đã hiểu rất rõ điều đó: “Ai nhìn lên (con rắn) sẽ được thoát, không phải nhờ xem điềm lạ đó mà được khỏi, nhưng tại nhờ vào Ngài là Cứu Chúa muôn loài” (16,7). Quả thật, ơn cứu độ do Thiên Chúa mà có.
- c) Hiểu rộng hơn, việc tham chiếu với đoạn nói về con rắn bằng đồng kết nối sự giáng thế của Chúa Giêsu với những biến cố Xuất hành. Chúa Giêsu là một Môsê mới, và chắc chắn đối với Thánh sử, Người còn hơn thế nữa.
Con Người
sẽ phải được giương cao
để ai tin vào Người
thì được sống muôn đời
Quả thật Thiên Chúa
yêu thế gian
đến nỗi đã ban Con Một
để ai tin vào Con của Người
thì khỏi phải chết,
nhưng được sống muôn đời
Câu này tóm gọn mặc khải; ở đây chúng ta đang đứng trước những “chuyện trên trời” được nói đến ở câu 12. Nên lưu ý đến kết cấu Do thái song song: cách phân chia câu cú có thể giúp nhận ra những thành phần của câu tương ứng với nhau: “Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy”; hoàn cảnh và các tác nhân cụ thể gây nên cái chết của Chúa Giêsu không được phơi bày ở đây. Thánh sử chỉ giữ lại sự “nhất thiết” (phải) ăn rễ sâu trong ý định của Thiên Chúa. Việc dùng thì thụ động tiếp sau đó có thể là một cách hành văn để tránh phải dùng đến từ “Thiên Chúa”. Kết cấu bản văn chứng tỏ sự song song giữa Thiên Chúa yêu thương và Người được giương cao. Từ câu này chúng ta nhận ra bản tóm lược sự mặc khải, chúng ta thử dẫn ra những điểm sau đây:
a/ Trong Tin Mừng Gioan, sự nâng lên tương ứng với việc treo lên thập giá (x. 2,28; 12,31-34). Tại sao việc bị treo lên thập giá, “điều ô nhục đối với người Do thái, sự điên rồ đối với dân ngoại” (1Cl 1,23) lại là tuyệt đỉnh mặc khải nơi Gioan (x. 19,31-37)?
b/ Điều đó bởi vì thập giá là nơi phơi bày tình yêu của Thiên Chúa. Từ này xuất hiện ở đây lần đầu tiên trong Tin Mừng Gioan. Đặc biệt nó sẽ được lặp lại trong phần thứ hai của Tin Mừng. “Thiên Chúa đã yêu đến nỗi đã ban Con mình”: cả hai động từ đều được dùng ở thì quá khứ vô định, một sắc thái của thì động từ không dùng trong tiếng Pháp, chỉ định một thời điểm rõ ràng và chính xác (hội nhập vào bước đường lịch sử của Chúa Giêsu và kết thúc trên thập giá). Chính nhờ ân huệ này của Thiên Chúa mà Gioan có thể nói đến tình yêu. Đó là tình yêu hiển thị (1Ga 4,10). Việc nhập thể chính là sự biểu lộ tình yêu mà đỉnh cao là thập giá.
c/ Thập giá không phải là nguồn ơn cứu độ ở khía cạnh một của lễ đền tội đẫm máu. Chính bởi vì nó là cách diễn tả cao cả nhất của tình yêu Thiên Chúa, cho nên nó là nguồn sự sống cho các tín hữu. Chúng ta không nên nhìn thập giá như nơi Thiên Chúa trút cơn thịnh nộ, nơi Chúa Con bị Chúa Cha từ bỏ để cứu độ chuộc tội lỗi loài người. Nơi đây Chúa Con và Chúa Cha thông hiệp cùng một tình yêu dành cho nhân loại. Prométhée chịu hình phạt của chúa tể trên chính tảng đá mà chúa tể đã xử phạt mình vì đã mang lửa cho loài người. Và ca đoàn lý giải các nguyên do hình phạt bằng những lời lẽ này: “Đó là kẻ thù của Zeus, kẻ đã chấp nhận sự căm hờn của mọi thần linh vì đã quá yêu loài người”. Trong Tin Mừng của Gioan, tình yêu loài người được Thiên Chúa Cha và Con cùng chia sẻ.
d/ Cho dù ông Nicôđêmô đã biến mất cách lạ lùng, thì cũng một chủ đề đó kết nối phần thứ hai của bài trần thuật với phần bài mà ông có mặt: ông này, ngờ vực, đã không muốn tin rằng một người đã già có thể sinh ra lần thứ hai. Ở đây chúng ta biết rằng Con Thiên Chúa trên thập giá có năng lực làm cho những ai tin vào Người được sống muôn đời.
45. Suy tôn Thánh Giá
(Suy Niệm của JKN.)
Dùng chính đau khổ và sự chết để giải thoát khỏi đau khổ và sự chết
Câu hỏi gợi ý:
- Đức Giêsu nói Ngài từ “trời” xuống. Vậy “trời” ở đây là gì? Có phải là không gian bao la với hàng tỷ tỷ tinh tú không?
- “Con Người phải được giương cao” nghĩa là gì? Đức Giêsu đã dùng cách gì để cứu con người khỏi đau khổ và đem lại hạnh phúc cho họ? Nếu Ngài dùng cách ấy, thì đó có phải là cách tối ưu và hữu hiệu nhất không?
Suy tư gợi ý:
- “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Đấng từ trời xuống”
Chữ “trời” xuất hiện rất nhiều lần trong tất cả các sách Kinh Thánh. Nó chỉ một thực tại căn bản của tôn giáo, của đời sống tâm linh. Nhưng “trời” là gì? – Bình thường, người ta hay nghĩ trời là không gian bao la vô tận, trong đó chứa hàng tỷ tỷ tinh tú hay thiên thể như mặt trời, trái đất, trăng sao. Nghĩ như vậy thì hoàn toàn không sai, vì đó là nghĩa chính, nghĩa đen, nghĩa vật chất của chữ “trời”. Nhưng “trời” thường được nói đến trong Kinh Thánh không có ý nghĩa vật chất như vậy. Chữ “trời” với ý nghĩa vật chất chỉ là dấu chỉ, là hình ảnh tượng trưng cho một cảnh giới tâm linh tuy vô hình đối với con mắt vật chất của con người, nhưng lại có thật, thậm chí còn thật hơn cả thế giới vật chất này nữa. Thế giới vật chất này tuy kéo dài hàng tỉ năm, nhưng vẫn là một cái gì hữu hạn cả về không gian lẫn thời gian: trải rộng trong một khoảng không gian nào đó nhất định, có thời điểm sinh ra và có thời điểm bị tiêu diệt. Khi đã bị tiêu diệt, thì sự hiện hữu của nó chỉ tương tự như một hình bóng, một giấc mơ thoảng qua, tương tự như hiện nay ta nghĩ về sự hiện hữu của những ngôi sao đã tắt, hay những nền văn minh cổ đại mà người ta khám phá được những di tích của chúng dưới lòng đất. Chúng hiện hữu mà có vẻ như không hiện hữu, chẳng khác bao nhiêu so với những giấc mơ trong đêm!
Cảnh giới tâm linh là cảnh giới của Thiên Chúa, của các thiên thần, mà những người có đời sống tâm linh phát triển có thể cảm nghiệm được phần nào, chẳng hạn các nhà thần bí như Phaolô (x. 2Cr 12,2), Gioan Thánh Giá, Têrêxa Avila, Meister Eckhart, hay các Kitô hữu thánh thiện khác. Đó là cảnh giới của sự sống vĩnh cửu mà thánh Phaolô mô tả: “Điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, đó lại là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai mến yêu Người” (1Cr 2,9). Người bình thường không hề có một kinh nghiệm nào về cảnh giới này, cũng chẳng có thể tưởng tượng ra được, vì nó vượt ra khỏi tất cả mọi khả năng tưởng tượng của con người, tương tự như một người mù bẩm sinh không thể có một quan niệm hay tưởng tượng nào đúng đắn về màu sắc và ánh sáng. Cảnh giới này tồn tại muôn đời, nó hoàn toàn không liên quan gì với không gian hay thời gian mà chúng ta thường quan niệm. Nói theo triết lý Ấn Độ, nó nhỏ đến nỗi một hạt bụi cũng đủ chứa nó trọn vẹn, nhưng nó cũng lớn đến nỗi cả vũ trụ bao la này cũng không chứa nổi nó. Đức Giêsu “về trời” hay “thăng thiên” là trở về với cảnh giới tâm linh này, nơi Ngài đã từ đó mà đến.
Cảnh giới tâm linh sâu thẳm và vô tận này không ở đâu xa, nó hiện diện ngay trong tâm hồn chúng ta, nhưng nếu không có đời sống tâm linh sâu xa, chúng ta chẳng hề cảm nghiệm được. Ba Ngôi Thiên Chúa, Đức Giêsu hiện diện thật sự trong cảnh giới này. Theo lời Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay, thì Ngài là người duy nhất đã từ cảnh giới tâm linh này đến với con người. Và Ngài đến trần gian này là để giúp chúng ta khám phá, thưởng nếm và dẫn chúng ta vào sống trong cảnh giới tâm linh bất diệt này. Chỉ khi nào khám phá và thưởng nếm cảnh giới tâm linh này, con người mới giải thoát được mọi đau khổ, mới cảm nghiệm được thế nào là hạnh phúc chân thật, thứ hạnh phúc không ai có thể lấy mất được.
- “Con Người phải được giương cao…”
Để giúp con người đi vào đời sống tâm linh, là đời sống của Thiên Chúa, hay sự sống đời đời, thì Đức Giêsu phải “được giương cao”, tương tự như con rắn đồng ở trong sa mạc thời Môsê, khi được giương cao lên, ai bị rắn cắn mà nhìn lên đó thì được chữa lành. Hình ảnh con rắn đồng được giương cao quả là đầy ý nghĩa. Tình trạng bị rắn cắn đau đớn và có thể chết người tượng trưng cho sự đau khổ tột cùng của con người. Thiên Chúa đã lấy ngay hình con rắn để trị bệnh rắn cắn, nghĩa là lấy chính đau khổ để diệt đau khổ: đó là một hình thức “dĩ độc trị độc”. Khi con rắn “được giương cao” thì nó trị được sự đau đớn do rắn cắn, điều đó có nghĩa là khi người ta hiểu được giá trị của đau khổ, khiến họ tự nguyện chấp nhận đau khổ, thì sự chấp nhận đó có thể tiêu diệt được đau khổ, chẳng những cho mình, mà cho cả người khác. Việc con rắn “được giương cao”, theo cách hiểu truyền thống, là hình ảnh Đức Giêsu bị treo lên cao khỏi mặt đất, hay bị treo trên thập giá, nghĩa là Ngài đã tự nguyện chấp nhận sự đau khổ cùng tột của con người. Nhờ đó, Ngài đem lại ơn cứu độ hay sự giải thoát khỏi đau khổ cho tất cả những ai tin vào Ngài.
Đây là một bài học về một định luật trong cuộc sống: Đau khổ của con người có thể được hóa giải bằng chính việc vui lòng hay tự nguyện chấp nhận tất cả những đau khổ xảy đến với mình. Thật vậy, khi ta không còn sợ hãi đau khổ, mà sẵn sàng vui vẻ đón nhận khi nó đến với mình, thì nó bỗng mất đi hoặc bớt đi khả năng gây đau khổ. Trái lại, càng sợ đau khổ, càng muốn tránh né nó, thì nó lại càng tăng khả năng gây khổ hơn. Chính vì thế, kinh nghiệm dân gian về định luật này được tóm lại trong câu: “Ghét của nào, Trời trao của nấy”: càng ghét đau khổ, thì càng hấp dẫn đau khổ đến với mình. Về hạnh phúc cũng có phần tương tự như vậy. Càng quan tâm tới hạnh phúc của mình, càng khao khát tìm hạnh phúc, thì hạnh phúc dường như càng xa khỏi tầm tay của mình. Càng không nghĩ tới nó, không quan tâm tới nó, thì dường như nó càng dễ đến gần mình hơn, và vào trong tầm tay của mình.
Đau khổ và hạnh phúc là cái gì liên quan rất mật thiết với “cái tôi” của ta. Càng coi “cái tôi” của mình là quan trọng, càng quan tâm hay chú ý tới nó, thì càng nhạy cảm với đau khổ, càng dễ đau khổ, càng thấy bị “mất mình”, “vong thân”. Trái lại, càng coi “cái tôi” của mình không là gì cả, càng ít quan tâm tới nó, thì càng dễ cảm nhận được hạnh phúc. Đây quả là một nghịch lý của sự sống. Càng sống ích kỷ, càng chỉ nghĩ đến mình, ta càng đánh mất mình, càng thấy cuộc đời là vô nghĩa, và càng đau khổ. Trái lại, càng quên mình, nhất là càng sống vị tha, ta càng thấy cuộc sống có ý nghĩa và hạnh phúc. Đức Giêsu có nói về nghịch lý này: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Ga 12,25). Còn thánh Phanxicô Khó Khăn thì nói: “Chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân” (Kinh Hòa Bình).
Vui lòng hay tự nguyện chấp nhận đau khổ, mất mát, thiệt thòi, nhục nhã là một hình thức xả kỷ, quên mình, “tự hủy”, đó là một hình thức “được giương cao”, “được treo lên”. Đây chính là con đường dẫn đến giải thoát mà Đức Giêsu đã chỉ cho chúng ta, và Ngài đã làm gương cho chúng ta: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,6-8). Như vậy, Ngài đã lấy chính đau khổ của mình để diệt đau khổ cho nhân loại, lấy sự tự hạ mình để nâng con người lên, lấy cái chết của mình để đem lại sự sống cho con người. Thánh Phêrô viết: “Vì Người mang vào mình những vết thương mà anh em được chữa lành” (1Pr 2,24). Đó là cách Ngài diệt đau khổ và đem lại hạnh phúc cho chúng ta.
- “… để ai tin vào Người thì được sống muôn đời”
Bài Tin Mừng viết: “Con Người phải được giương cao, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời”. “Được giương cao” ở đây có nghĩa là “được treo lên”, là tự nguyện chịu đau khổ và chết. Ngài đau khổ để con người hạnh phúc. Ngài chết để con người được sống. Nhưng thực ra, con người vẫn đang đau khổ và vẫn chết về mặt tâm linh. Con người chỉ hưởng được ích lợi của sự đau khổ và sự chết của Ngài khi họ tin vào Ngài. Tin vào Ngài nghĩa là gì? Chắc chắn không phải chỉ là sự tuyên bố chấp nhận Ngài là Con Thiên Chúa hay là Đấng Cứu Độ, mà là một thái độ sống chứng tỏ mình chấp nhận điều ấy. Tin rằng Ngài đã đau khổ và đã chết để đem lại ơn cứu độ hay hạnh phúc và sự sống cho nhân loại, nghĩa là tin rằng cách Ngài làm là cách tốt nhất để đem lại hạnh phúc và sự sống cho mình và mọi người. Nếu thật sự tin như thế, ta sẽ áp dụng cách đó vào trong đời sống của mình, nghĩa là sẵn sàng chấp nhận mọi đau khổ xảy đến, sống xả kỷ, quên mình, để nhờ đó chẳng những chính ta được hạnh phúc và còn đem lại hạnh phúc cho người khác nữa. Đó cũng chính là cách để đi vào cảnh giới tâm linh vĩnh cửu, vào sự sống đời đời mà Thiên Chúa đã hứa cho những ai yêu mến Ngài.
Cầu nguyện
Lạy Cha, Đức Giêsu đã dùng đau khổ để giải phóng nhân loại khỏi đau khổ, đã quên đi hạnh phúc của chính bản thân để đem lại hạnh phúc cho mọi người. Nếu Ngài đã dùng cách đó, ắt đó phải là cách tối ưu và khôn ngoan nhất để giải thoát khỏi đau khổ và đem lại hạnh phúc. Do đó, nếu con tin Đức Giêsu, ắt con cũng phải bắt chước Ngài sử dụng cách đó để tự giải thoát khỏi đau khổ và tìm đến hạnh phúc, đời này cũng như đời sau.
46. Bài học của Thánh Giá
(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
- LỊCH SỬ
Chúng ta hết thảy đều biết, hôm Đức Giêsu chịu chết trên Thập giá, chỉ có mấy bạn hữu nghĩa thiết của Người đứng gần. Họ là những người yếu đuối nghèo khó. Chẳng ai biết phải làm gì! May có các ông Giuse và Nicôđêmô đi xin Philatô cho phép hạ xác Chúa xuống và đem an táng trong huyệt. Còn thập giá của Người thì chẳng ai để ý đến.
Sau ngày Phục sinh, các môn đệ cũng bận bịu với việc Chúa sống lại. Mừng quá cho nên các ngài cũng chẳng ai còn để ý tới cây Thánh Giá của Chúa Giêsu.
Rồi sau đó với ơn trợ giúp của Thánh Thần, họ bắt đầu đi rao giảng ở mọi nơi. Điều mà người ta quan tâm đến nhất trong thời kỳ này là xây dựng các giáo đoàn và lo nhớ lại giáo huấn cũng như cuộc đời của Chúa Giêsu còn những di vật và kỷ niệm vật chất của Ngài, thì không ai để ý.
Mãi cho đến khi có nhiều người ở xa Đất Thánh đã tòng giáo và muốn hành hương đến những nơi Chúa đã sinh sống, thì lúc đó việc thu lượm những di vật kỷ niệm về Chúa mới trở thành một cuộc săn tìm. Chính trong hoàn cảnh này mà người ta đã đi tìm cây Thập Giá mà Chúa đã vác và đã nằm trên đó khi bị đóng đinh.
Và ngay lập tức hình cụ ấy đã trở thành vật Thánh; thập giá trở thành Thánh Giá, và người ta suy tôn kính mến.
Lễ hôm nay muốn nhắc lại kỷ niệm này. Hội Thánh thúc giục con cái đến với Thánh Giá, bắt chước các tín hữu khi mới tìm lại được cây gỗ trên đó Chúa Giêsu đã bị đóng đinh, để khám phá lại những giá trị quí giá cao cả của cây Thánh giá.
- BÀI HỌC
- Có thể nói bài học đẹp nhất mà cây Thánh Giá dạy cho chúng ta đó là bài học về lòng yêu thương.
Thường thì khi muốn biết được một ai đó là người như thế nào thì người ta có thể căn cứ vào những lời nói cuối cùng của người đó ma đánh giá. Bởi vì trước khi chết, thường thì người ta chỉ nói những gì mình tha thiết nhất, chỉ nói những lời xuất phát từ tận đáy lòng. Nếu đúng như vậy, chúng ta hãy tìm hiểu những lời cuối cùng của Đức Giêsu trước lúc tắt hơi trên Thập Giá, chúng ta sẽ hiểu rõ con người của Đức Giêsu hơn.
Triết gia Sénèque nói về tâm lý của những người bị xử tử như sau: thường là họ chửi rủa: chửi rủa những kẻ đang giết mình, chửi rủa những kẻ đứng xem, có người còn nguyền rủa thân phận xấu số của mình, nguyền rủa ngày mình sinh ra, nguyền rủa chính người mẹ đã sinh ra mình. Bởi thế, như văn hào Cicéron cho biết thêm, trong những cuộc xử tử ở đế quốc Rôma, khi thấy tên tử tội nào hung dữ, người ta thường cắt lưỡi hắn trước, để khỏi phải nghe những tiếng chửi rủa. Và trong cuộc xử tử chiều thứ sáu tuần thánh ấy, chúng ta cũng đã thấy có một tên trộm bị đóng đinh chung với Đức Giêsu chửi rủa lung tung, chửi cả Đức Giêsu là người chẳng thù oán gì với hắn.
Chiều hôm đó, có lẽ mọi người cũng đang chờ nghe những lời chửi rủa của Đức Giêsu: những tên lý hình chờ, vì họ là những người đang trực tiếp hành hình Ngài. Các tư tế và biệt phái chờ, vì họ là những kẻ đầu xỏ vận động kết án xử tử Ngài. Dân chúng đứng phía dưới thập giá chờ vì họ đoán rằng Ngài rất tức giận họ bởi họ đã từng chịu ơn rất nhiều của Ngài mà bây giờ quay ra chống lại Ngài. Tất cả mọi người đều chờ, họ sẵn sàng nghe chửi rủa. Họ tin. Chắc rằng cái tên Giêsu ấy, cái người đã từng rao giảng rằng: Hãy thương yêu kẻ thù… Hãy làm ơn cho kẻ ghen ghét mình” giờ đây sắp nổi khùng, sẽ quên hết những giáo huấn Tin Mừng kia mà thay vào đó bằng những lời chửi rủa thậm tệ.
Thế nhưng khi Đức Giêsu lên tiếng, thì ai nấy đều ngạc nhiên sửng sờ. Không phải những lời chửi rủa, mà là những câu dịu dàng yêu thương. Câu thứ nhất: “Lạy Cha, xin Cha tha cho họ (Lc 23,34); câu thứ hai “Tôi hứa thật với anh, ngay hôm nay anh sẽ được lên nơi vui vẻ cùng tôi” (Lc 23,43); và câu nói thứ ba: “Thưa Bà này là con Bà” (Ga 19,26).
Ngoài giọng điệu dịu dàng và nội dung chan chứa lời yêu thương, thì khôg có gì hết.
Tình thương đó dành cho ai? Trước hết là cho kẻ thù, kế đến cho người tội lỗi, và thứ ba là cho kẻ thánh thiện. Con người là đức Giêsu là như thế.
- Bài học thứ hai.
Sự chiến thắng của cây Thập Giá.
Năm 1825 một trận bão lớn đã xảy ra tại thành phố Macao, nhà thờ Chánh tòa nguy nga nhìn xuống hải cảng được người Bồ Đào Nha xây cất đã bị trận bão làm đổ nát hoang tàn. Tuy nhiên, như một phép lạ, mặt tiền của ngôi thánh đường vẫn còn nguyên vẹn và cây Thánh Giá bằng đồng vẫn còn đứng vững. Khi ông John Browin toàn quyền Hồng Kông đến thăm viếng cảnh tượng, ông phải sửng sốt khi nhận ra điều đó. Tối hôm ấy, ông đã ghi lại những dòng sau đây: “Tôi được vinh dự trông thấy Thập Giá Chúa Kitô, Thập Giá vẫn đứng vững qua mọi đỗ vỡ của thời gian. Tất cả ánh sáng của lịch sử đều qui tụ nơi Thập Giá vinh quang”.
Đã gần hai ngàn năm qua, kể từ khi lính Rôma cưỡng bách Chúa Giêsu vác Thập giá đi xuyên qua những con đường chật hẹp ở Giêrusalem; cũng như khi Ngài bị vấp ngã, làm họ phải cưỡng bách một người qua đường vác đỡ Thánh Giá với Ngài, giúp Ngài tiến tới một nơi gọi là Núi sọ, thì từ lúc đó Thập Giá đã trở thành biểu tượng của một tôn giáo có hơn một tỷ rưỡi tín đồ: có mặt trên 220 xứ sở và lãnh thổ trên khắp mặt đất này.
Dựa theo những dữ kiện được ghi lại trong sách Tin Mừng, Bác sĩ Wiham Eswori tại bệnh viện Midio bên Hoa kỳ đã nghiên cứu về hình phạt Thập giá. Cuộc nghiên cứu đã cho ông thấy rằng người Rôma không phải là người đã phát minh ra hình phạt Thập giá đầu tiên. Thật ra tử hình Thập Giá đã được người Assiry đã dùng vào thế kỷ VII trước Công nguyên, nhưng người Rôma đã có công hoàn thiện nó để nó trở thành một hình thức tra tấn xử tử có sức tạo ra một cái chết chậm rãi đớn đau nhất. Thập giá chỉ dành để xử tử những người nô lệ ngoại quốc và những người dám chống lại đế quốc cũng như những người phạm trọng tội nơi các miền đất mà những người Roma cai trị. Luật Rôma thường bảo vệ những người công dân của họ khỏi bị hình phạt Thập giá.
Nạn nhân bị đóng đinh treo trên Thập giá thường chết vì nghẹt thở. Đây hẳn phải là cách xử tử dã man nhất trong nhân loại.
Thế nhưng, thật là kỳ diệu! Khi Chúa Giêsu nằm trên cây Thập Giá thì Ngài đã biến Thập giá thành biểu tượng tình yêu của Ngài đối với nhân loại.
Khi đón nhận Thập giá ấy, Chúa Giêsu đón nhận ý của Thiên Chúa Cha để thể hiện tình yêu của Người dành cho loài người. Chỉ có tình yêu mới có thể lý giải được ý nghĩa của sự hy sinh và hy sinh cho đến cùng dành cho con người.
Như vậy suy tôn Thập giá không có nghĩa là đề cao một hình phạt hay vui thỏa một cách bệnh hoạn ở nơi những trong khổ đau Chúa phải chịu, mà chính là ca ngợi tình yêu của Đấng đã hy sinh vì người mình yêu. Nơi Thập giá không những tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện một cách trọn vẹn, mà nơi Thập giá chân lý về con người còn được tỏ bày một cách trong sáng nhất để rồi chính từ trên Thập giá mà Chúa đã đi đến chiến thắng oai hùng nhất. “Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16,33)
Thập giá là chân lý của chúng ta, Thập giá là lẽ khôn ngoan của chúng ta, Thập giá là lẽ sống của chúng ta, Thập giá là sức mạnh của chúng ta. Nguyện xin Chúa hướng dẫn chúng ta đi trên con đường Thập giá của Ngài. Amen.
47. Ích lợi của Thập Giá
(Suy niệm của Br. BM Thiện Mỹ)
Indira đến gặp đạo sĩ Makia và ngỏ lời:
– Xin Ngài hãy chỉ cho tôi một thần linh để tôn thờ và một tôn giáo để sống theo.
Đạo sĩ Makia liền đưa anh đến một tòa nhà rộng lớn, nơi đó mỗi vị thần được dành cho một gian phòng riêng. Dừng chân đầu tiên trước tượng thần Bátda, đạo sĩ giới thiệu:
– Đây là vị thần sẽ cất hết mọi đau khổ khỏi thế giới.
Nhưng Indira lắc đầu và xin được sang phòng khác. Trước vị thần thứ hai, Makia giới thiệu:
– Đây là nữ thần Sophia có bí quyết giúp con người tránh được đau khổ.
Nhưng Indira cũng lại xin đạo sĩ đi nơi khác. Cuối cùng hai người đến trước một vị thần bị treo trên thập giá. Indira tò mò hỏi:
– Vị thần này là ai mà bị treo trên thập tự giá như thế?
Đạo sĩ chậm rãi trả lời:
– Đây là thần của những người Kitô.
Với xúc động lộ trên mặt, Indira xin đạo sị giải thích thêm về những gì cần phải làm để trở thành môn đệ của Đấng chịu treo trên thập tự. Đạo sĩ ngạc nhiên hỏi:
– Này anh Indira, anh làm tôi thắc mắc. Hai vị thần anh gặp trước, một vị đề nghị giúp tránh đau khổ, thế mà anh không thích vị nào. Tại sao anh lại thích và muốn làm đồ đệ của vị chết nhục nhã trên thập tự như thế!
Indira giải thích:
– Hứa làm mất đi đau khổ trên trần gian là hứa suông, vì người ta không thể nào cất đi được đau khổ. Và dậy con người tránh đau khổ là dạy con người sống thấp hèn, và người ta cũng không cách nào tránh đau khổ được. Nhưng nhìn vào vị thần của người Kitô chấp nhận đau khổ trên thập tự, tôi hiểu được ý nghĩa của đau khổ và chấp nhận nó. Rồi một khi người ta hiểu và chấp nhận đau khổ thì niềm vui và an hòa sẽ trổ sinh trên thế giới này. Đó là lý do tôi bị thu hút bởi Đấng chịu treo trên thập tự kia và muốn làm môn đệ ngài… (Trích “Món quà Giáng Sinh”).
Thánh giá lúc nào cũng xảy ra trên thế giới: Theo tin tức báo chí Việt Nam, hiện nay châu âu nắng nóng đến khinh người, nhiệt độ tăng vọt ở một số nước. Chẳng hạn tại thành phố Roth, bang Bavaria nước Đức là 40,40 C; thành phố Turin nước Ý là 41,6 0C; và ở Tây Ban Nha có nơi nóng đến 480C; lửa bốc cháy 54.000 hecta rừng, nhiều dòng sông khô cạn. Với mọi biện pháp giải nhiệt ở tư gia, nơi công cộng có mạch nước phun, các hồ bơi, dòng sông, bãi tắm biển v.v. thế mà riêng tại nước Pháp nhiệt độ nóng bức đã thiêu đốt chết khoảng trên mười ngàn người.
Tiếp đến là cuộc chiến ở Afganistan và Iraq vẫn còn nhiều xung đột. Cuộc đảo chánh của quân nổi dậy ở Liberia đầy căng thẳng. Mới đây lại xảy ra cuộc khủng bố tại khách sạn Marriot với 33 tầng lầu ở khu trung tâm thủ đô Jakarta nước Indonesia. Chuyện xung đột về vũ khí hạt nhân ở Triều Tiên. Cuộc chiến liên tục giữa Israel với Palestine và các nước lân cận.
Ngoài ra còn có đau khổ giai giẳng về bệnh tật: Bệnh phong hủi có từ nhiều nghìn năm để lại cũng như những bệnh mà y tế thế giới đang phải bó tay và lây lan khủng khiếp như bệnh Aids, bệnh Sars v.v.
Ôi! Thánh Giá là Thánh Giá, cho đến bao giờ mới kể hết được những đau khổ trên đời. Những Thánh Giá trên mới chỉ là tổng quát bên ngoài, còn nhiều Thánh Giá khác do ác tâm con người gây nên như: gian tham, trộm cắp, giết người, hiềm thù, chia rẽ, ghét ghen, trai gái, thuốc xái… gây nên hỗn loạn trong xã hội. Nói tóm lại Thánh Giá luôn gắn liền với cuộc sống con người.
Hôm nay là ngày lễ suy tôn Thánh Giá, chúng ta hãy ngắm nhìn lên gương Chúa Giêsu. Ngài không trốn tránh Thập Giá. Ngài xuống trần gian không phải để lên án thế gian, bắt thế gian vác Thập Tự Giá đúng như việc đền tội mà thế gian phải chịu do án phạt của tội nguyên tổ. Ngài xuống trần gian để cứu độ con người, hình ảnh Thập Giá giải thoát con người khỏi tội lỗi đã được loan báo trước từ thời cựu ước khi ông Moisen làm một con rắn bằng đồng và treo lên cây cột, hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng đó thì được cứu sống. Còn chính Ngài sẽ bị tan nát như sách tiên tri Isaia đoạn 53 mô tả về Ngài để gánh lấy tội trần gian. “Qủa vậy Thiên Chúa sai con của Người đến thế gian để thế gian nhờ con của Người mà được cứu độ” (cf. Jn.3,17). Do đó tất cả những sướng vui ở đời này Ngài đã không hưởng dụng, ngược lại Ngài chuốc lấy đau khổ trong cuộc sống: Sinh ra trong mùa giá rét, vác Thánh Giá trong mùa nóng bức. Ngài biến đổi Thánh Giá ở đời này thành của lễ đền tội và ơn tha thứ. Đây là chiến thắng của tình yêu thương thế gian, một tình yêu vượt trên mọi tình yêu, Ngài đã yêu thương đến cùng, Ngài yêu thương tha thiết nhất lúc chịu đóng đinh và trút hơi thở cuối cùng trên Thánh Giá.
Là môn đệ Chúa Giêsu, chúng ta cũng phải luôn bước theo chân Ngài lên đỉnh đồi Canvê, trên đồi cao đó có Đức Mẹ là người đã thông phần đau khổ cách da diết nhất, vì chính Mẹ đã sinh ra người con vác Thập Tự đẫm máu. Mẹ đã được gọi vào nhiệm cuộc thông phần khổ nạn của Chúa Giêsu như lời ông Simeon đã nói về Mẹ: “Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn Bà” (Luc. 2,35). Theo gương Mẹ Đồng Công Cứu Chuộc, chúng ta cũng phải biến đổi Thánh Giá ở đời này thành những hiệu quả của ơn cứu chuộc mà Chúa Giêsu đã lập. Như giọt nước biến tan trong rượu nho, chúng ta cũng hợp những hy sinh của ta với đau khổ của Chúa Giêsu, làm thành của lễ dâng lên Thiên Chúa Cha, để sinh ích cho linh hồn mình và cho muôn ngàn vạn triệu các linh hồn khác trên thế giới.
48. Thánh Giá: Cây Phúc Trường Sinh
(Suy niệm của Lm. Luy Hữu Độ)
Có một cây tre cao lớn, xanh tươi được trồng trong vườn. Ông chủ vườn rất thích cây tre đó nên chăm chút nó hơn mọi thứ hoa cảnh khác. Năm đó gặp mùa hạn hán, mưa xuống qúa ít, trời lại nóng nực làm cho hoa cảnh trong vườn ông chủ héo khô dần đi. Rất đau lòng ông chủ đến bên cây tre mà tâm sự với nó. Cây tre ngậm ngùi thông cảm với ông chủ rồi nó nói: “Bây giờ chỉ còn một cách là ông đốn tôi xuống, xẻ đôi tôi ra làm thành máng để ông chuyển nước từ bể dự trữ của ông mà tưới cho các hoa cảnh khác kẻo chúng chết hết.” Ông chủ nghĩ đó là cách hay nhất nhưng ông lại tiếc rẻ cây tre mà bao năm ông chăm chút nó. Cây tre biết ông chủ thương mình nhưng nó mạnh dạn nói: “Ông hãy làm ngay đi, tôi bằng lòng chịu đốn xuống, chịu xẻ ra để cho các cây khác được sống. Dù tôi có chết đi nhưng các hoa cảnh khác được sống thì tôi cũng vui lắm rồi.”
Gương hy sinh của cây tre trên nhắc nhở cho chúng ta gương hy sinh tuyệt vời của Chúa Giêsu. Ngài chấp nhận chết đi để muôn người được sống.
Đối với phong tục của người Rôma thì không có án tử nào đáng khinh bỉ, đáng sợ hãi cho bằng án tử bị đóng đinh trên thập giá. Bọn lính đóng đinh đoán được sự căm phẫn và đau khổ của tội phạm trên thập giá vì thế họ thường cắt lưỡi tội phạm để chúng khỏi nguyền rủa bọn lính và không nói lộng ngôn tới các vị thần. Tuy nhiên bọn lính đó lại rất ngạc nhiên khi chứng kiến “tội phạm” Giêsu, tuy hấp hối đau đớn trên thập giá nhưng Chúa Giêsu đã không tức tối nguyền rủa họ mà lại xin tha thứ cho họ. Không nói lộng ngôn tới Thiên Chúa mà lại khiêm nhường phó linh hồn trong tay Thiên Chúa. Không trả thù họ mà lại ban ơn cho họ, khi nước và máu từ Trái Tim Chúa vọt ra đã chữa lành một con mắt hư của tên lính cầm đòng đâm ngực Chúa.
Hôm nay Giáo Hội suy tôn Thánh Giá bởi vì Chúa Kitô đã dùng Thánh Giá mà cứu chuộc nhân loại. Bởi vì khi xưa cây trái cấm đem cho con người cái chết thì hôm nay cây Thánh Giá đem cho con người sự sống. Bởi vì khi xưa cây trái cấm đuổi ông bà nguyên tổ ra khỏi địa đàng thì hôm nay cây Thánh Giá mời gọi con cháu ông bà vào Thiên Đàng. Và bởi vì trên chiến trường đánh bại kẻ thù người ta dùng cây kiếm, cây súng thì hôm nay tại chiến trường đánh bại satan và tội lỗi Chúa Giêsu dùng cây Thánh Giá.
Như vậy khi đề cao Thánh Giá là chúng ta nhìn nhận những ích lợi của Thánh Giá. Khi suy tôn Thánh Giá là chúng ta xin Chúa cho mình học được bài học: chấp nhận Thánh Giá Chúa gửi đến.
Đau khổ hay thập giá là một phần thông thường của cuộc đời vì nó gắn liền với số phận bất toàn, giới hạn của con người. Thêm vào đó, vì chúng ta có tội nên cần có Thánh Giá để giúp chúng ta: đền tội – bớt dính bén vào thế gian – và tiến tới gần Chúa.
Đời sống không thiếu vắng thập giá nhưng hãy tin chắc một điều là những thập giá đó Chúa đã cân nhắc trước khi gửi đến cho mình. Nói Chúa cân nhắc có nghĩa là thập giá đó: vừa với sức mỗi người – Chúa ban đủ ơn thánh để chúng ta chấp nhận – và nhằm ích lợi cho chúng ta, ích lợi hồn hơn ích lợi xác, ích lợi đoàn thể hơn ích lợi cá nhân, ích lợi đời đời hơn ích lợi tạm thời.
Bài học thập giá không dễ học, chẳng có trường đại học nào dám dậy. Chỉ có trường Giêsu ra điều kiện rõ ràng với môn đồ: “Ai muốn theo Ta phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta.” (Mc 8:34)
Hãy cố sắm cho gia đình mình một Tượng Chịu Nạn đễ mỗi lần gặp đau khổ chúng ta biết nhìn lên và cầu xin: “Lạy Chúa Giêsu xin giúp con biết vác Thánh Giá này cho nên vì yêu mến Chúa.” Và chúng ta có quyền tin tưởng rằng Thánh Giá sẽ là Cây Phúc Trường Sinh cho mình và cho nhiều người khác.
49. Nỗi ô nhục của Thập Giá
(Suy niệm của Jean Galot – Nguồn: ‘Đấng chiến thắng nhờ đau khổ’)
Khổ hình Thập giá mang tính chất ô nhục, cũng như khúc dạo đầu của nó là cuộc đánh đòn. Nó được áp đặt riêng cho các nô lệ; công dân Roma không phải chịu hình khổ này. Vả lại, hình khổ này tạo nên một cảnh tượng ghê rợn, vì tội nhân chết trong đau đớn quằn quại, bị cơn khát xâu xé và thân xác chịu treo trên khổ giá, làm mồi cho bầy cẩu thú và lũ kên kên. Như vậy, người ta mới hiểu tại sao sao những tín hữu đầu tiên đã tránh không trình bày cảnh Đức Kitô trên Thập giá; có lẽ hình ảnh này gợi lại cho họ những kỷ niệm buồn chán hoặc khủng khiếp; việc diễn vẽ lại hình tượng một người chịu đóng đinh, xem ra hạ giá Chúa Cứu Thế. Họ vẫn còn mang ấn tượng về khổ hình nhục nhã của thầy Chí Thánh. Như thế đủ rõ Chúa Giêsu và cả các kẻ chứng kiến cái chết của Người cảm thấy nhục nhã đến đâu. Theo thánh ý Cha, để cứu nhân loại khỏi tội lỗi, Con Thiên Chúa phải xuống đến tận đáy sự khổ cực và nhục nhã nhân loại, và Người phải xuất hiện như kẻ rốt hết trong nhân loại, kẻ đáng khinh bỉ nhất, khi Người chấm dứt cuộc đời trần gian. Cần phải có như vậy để tình yêu Đấng chịu cực hình tăng lên đến cực độ.
Hai tên cướp bị đóng đanh một trật với Người hoàn tất bức tranh ô nhục. Mọi sự hùa tập với nhau, để đặt Chúa Giêsu vào hàng những kẻ gian ác. Cha đã sắp đặt mọi hoàn cảnh để cái chết của Con Ngài hoàn toàn chìm ngập trong nhục nhã: Thay vì mặc lấy vẻ uy nghiêm của cảnh đơn độc vắng lạnh nào đó, cái chết của Chúa lại được đóng khung trong cái chết của phường trộm cướp. Người ta nhận thấy ý hướng của Mầu nhiệm Nhập thể cứu chuộc trong từng chi tiết như thế: Chúa Giêsu đã trào lộn cái chết của Người với cái chết loài người cũng như Người đã hòa lẫn đời sống của Người với đời sống của họ. Một cách đặc biệt hơn, Người hội nhập cái chết của Người với cái chết của các tội nhân: “Là bạn của những kẻ tội lỗi”, Người trung thành với họ cho đến cùng, đến độ chết như họ và với họ.
Sự nhục nhã của thập giá chính là dội lại trên Đức Kitô sự nhục nhã của tội lỗi. Tất cả sự ố danh mà kẻ tội lỗi đáng chịu đã đổ xuống trên Đấng đáng nhận mọi lời tụng ca và vinh dự. Và vì sự nhục nhã này được đón nhận với tình yêu, nên nó đã trở thành cao cả xứng đáng tuyệt vời. Chúa Giêsu đã biến thập giá hung ác và hạ giá thành dấu hiệu huy hoàng, thành biểu tượng của một đau khổ đầy vẻ vang và nâng cao.
50. Suy tôn Thánh Giá
THẬP GIÁ, BIỂU TƯỢNG VÀ BẢO CHỨNG CỦA TÌNH YÊU
(Suy niệm của Herbert Mc Kayes OP, Sr Maria Bolding OSB. – Nguồn: ‘Qua Thập Giá tới vinh quang’)
Vấn đề khó khăn nhất đối với niềm tin tôn giáo, đó là sự hiện diện của biết bao nỗi đâu khổ ở khắp mọi nơi trên thế giới. Làm sao chúng ta có thể tiếp tục tin vào Thiên Chúa Tình yêu, Đấng tạo thành vũ trụ, khi mà con người chúng ta phải chịu đựng biết bao gian nan. Hoạn nan, biết bao nhiêu thiên tai như bão tố, hạn hán, đói khát, bệnh tật… là nguyên nhân cái chết của bao triệu người? Tại Phi Châu có biết bao ngàn trẻ em chết vì bệnh tiêu chảy, chết vì đói ăn. Tại sao Thiên Chúa là Đấng giàu lòng nhân từ thương xót lại để cho những chuyện đau lòng ấy xảy ra? Làm sao con người còn có thể yêu mến và đặt hết tin tưởng vào một vị Thiên Chúa như vậy?
Dĩ nhiên cũng có một vài điều tốt lành đã được phát sinh từ những thảm trạng đó. Lương tâm của thế giới đã bị đánh động và nhiều người hảo tâm cũng như nhiều hội từ thiện đã quan tâm đến và đã tận tình giúp đỡ. Nhưng ngay cả trong trường hợp này, chúng ta cũng không có thể nói rằng Thiên Chúa đã để cho bao người phải chết đói là vì muốn giúp chúng ta có dịp để làm việc thiện, hoặc muốn giúp chúng ta lớn lên và trưởng thành trong đức ái. Ai trong chúng ta lại chẳng mong muốn cho các trẻ em được sống! Nói một cách cụ thể và điển hình hơn: Một người kia có một anh bạn chẳng may vừa bị trượt té gãy chân. Người ấy đến an ủi bạn và nói rằng: “Đây là ý Chúa muốn giúp anh tập nhân đức nhẫn nại trong điều kiện gặp thử thách đó thôi!”. Thiết nghĩa bệnh nhân nọ sẽ không làm bạn với người kia được lâu dài!
Vậy chúng ta phải nói như thế nào?
Trong thư gởi cho giáo đoàn Côlôsê, thánh Phaolô Tông đồ đã viết: “Hiện nay, tôi vui sướng trong những đau khổ tôi phải chịu vì anh em. Tôi bổ khuyết nơi thân xác tôi những gì còn thiếu sót trong cuộc thương khó của Đức Kitô, để Hội thánh là thân xác của Ngài được nhờ (Cl 1,24). Người Kitô hữu chúng ta đâu cần phải nói điều gì khác hơn là vấn đề này.
Chính Thiên Chúa, trong Đức Kitô, đã chia sẻ tất cả những đau khổ của con người. Nhưng thánh Phaolô còn đi xa hơn thế nữa khi khẳng định rằng ngài đã chia sẻ và làm hoàn tất nơi thân xác ngài những đau khổ của Đức Kitô. Đó là các đau khổ mà Đức Kitô và những môn đệ của Ngài phải gánh chịu cho đến ngày thế giới kết liễu. Ở đây chúng ta cần để ý tới một khía cạnh khác nữa, đó là bản chất của tình yêu nên mới khổ. Nếu chúng ta yêu một em bé bất hạnh thì chúng ta chỉ thực sự yêu em khi chúng ta lãnh nhận sự bất hạnh của em bé trong chính bản thân mình. Nếu điều này là đung khi nói về tình yêu của một con người đối với một người khác, thì điều này sẽ còn chính xác biết bao khi nói về Tình yêu bao la của bản thân Người tất cả gánh nặng đau khổ của toàn thể nhân loại. Thập giá là biểu tượng quyết định và hùng hồn nhất, đồng thời cũng là bảo chứng của Tình yêu bao la đó. Trong tình yêu nhân loại nghèo nàn, một tình yêu cũng hơi giống với Tình yêu của Thiên Chúa một chút, chúng ta đến để chia sẻ đầy đủ hơn với trái tim bị thương tích của Thiên Chúa.
Thánh Phaolô, trong thư gởi cho giáo đoàn Rô ma, đã viết một điều thật hay và thật sâu sắc: “Chúng ta biết rằng mọi sự đều chung sức để đem lại phúc lợi cho những kẻ kính mến Thiên Chúa” (Rm 8,28). Điều này không có nghĩa là bất cứ việc gì xảy đến đều mang lại sự tốt đẹp, vì thực ra, cũng có nhiều việc đã xảy ra chẳng đem lại chút tốt đẹp nào. Câu nói này của thánh Phaolô có nghĩa là trong rất cả những đau khổ mà con người phải chịu, Thiên Chúa luôn hiện diện và từ đó, Người đã rút tỉa ra một vài điều tốt lành. Người hành động như thế nhờ những việc làm của những kẻ yêu mến Người. Thiên Chúa hiện diện bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu trong thế giới đau khổ này và không nhưng người đã mang lấy đau khổ mà còn ảnh hưởng sâu đậm trên đau khổ ấy. Người còn thúc đẩy chúng ta phải làm một điều gì đó – làm điều chúng ta có thể làm – có ảnh hưởng trên sự đau khổ này.
Thiên Chúa hoàn tất công việc của Người ở trần gian này không phải bằng chách giật dây những hình nộm, nhưng bằng sự cộng tác của chúng ta, những con người sống động. Trong mọi sự, Người mưu cầu lợi ích cho tất cả những ai yêu mến Người. Không phải Người đã gởi đến những điều không may, những tai ương, những nỗi bất hạnh, như bệnh hoạn tật nguyền, đau khổ, tai nạn… là để mội người chúng ta có dịp thi hành, nhưng thực ra vì những mục đích nào đó mà chúng ta không thể nắm vững được, những tai họa này đã làm thành một phần của cuộc sống con người. Tuy nhiên, từ những điều không may này, Thiên Chúa vẫn luôn tìm cách đem lại cho chúng ta một vài điều gì đó thật tốt lành và Người đã thực hiện điều này xuyên qua những hành động của những người cố gắng tiếp tay cộng tác với Người.
Ở đây, chúng ta cần nhấn mạnh đến những lời thách đố của Đức Giêsu: “Nếu ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Ta. Vì chưng, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai đành mất mạng sống mình vì Ta thì sẽ được sống” (Mt 16, 24-25). Tất cả chúng ta, ai ai cũng muốn được người khác đánh giá cao, muốn được mọi người biết đến và quý trọng. Nhưng nếu chúng ta cố gắng tạo cho mình có được điều đó, chúng ta thườn gặp phải những phản ứng nghịch lại. Nếu chúng ta tự đặt mình vào trung tâm sân khấu, thì chẳng mấy chốc sẽ chẳng còn một khán thính giả nào! Mặt khác, có những cơ hội mà chúng ta có thể quên mình đi, có thể hành động một cách nhã nhặn, lịch sự, hoặc có thể cư sử một cách khiêm tốn và bác ái. Chính những lúc đó, chúng ta khám phá ra cuộc sống vĩnh cửu là Tình yêu bao la và vĩnh cửu của Thiên Chúa. Như thế, sức mạnh thập giá, cách sống từ bỏ, quên mình, cả đến những sự việc tiêu cực nhiều khi xem ra nghịch lý ấy lại có thể đem lại cho chúng ta niềm hạnh phúc, sự thỏa mãn, bình an, tình yêu và sự sống.
Vậy, câu trả lời Kitô giáo cho vấn đề đau khổ không phải là một mảnh triết lý, nhưng là một ước muốn giúp đỡ thực hành. Chẳng hạn khi chúng ta có làm người bạn đang lầm cảnh đau khổ, hoặc khi một tai họa lớn lao xảy ra ở một nơi ai đó, chúng ta tự hỏi:
bây giờ tôi phải làm gì đây?
Tôi có thể làm được gì?
Chúa muốn tôi phải làm gì?
Và chỉ khi nào chúng ta biết cộng tác thật đắc lực với Thiên Chúa trong công cuộc đem lại sự phúc lợi xuất phát từ sự dữ, khi ấy chúng ta mới khám phá ra cuộc sống thật.
Lạy Cha, chúng con cám đội ơn Cha vì cuộc sống chiến thắng được mặc khải trong Chúa Con là Đức Giêsu Kitô và chính nhờ Chúa Thánh Thần mà chúng con được chia sẻ cuốc sống ấy. chúng con cầu xin, nhờ Thánh Linh của Đức Kitô trong chúng con, cho chúng con tìm được sức mạnh để làm việc và để chịu đụng những nghịch cảnh. Như thế, chúng con cảm nghiệm được quyền lực của sự Phục Sinh của Đức Kitô, nhờ vào đó, cuộc đời của chúng con sẽ được thêm phong phú và sẽ gặt hái được nhiều hoa trái.
Lạy Chúa là Cha chúng con ở trên trời, xin nhìn đến chúng con bằng đôi mắt tình thương, xin nhìn đến những đau khổ mà con cái Cha đang phải chịu đựng, nhưng khổ đau của những người vô tội, của những kẻ tật nguyền và của những kẻ u sầu. Xin làm cho tất cả những khổ đau này mang lại cho chúng con nhiều hoa trái tốt lành, nhờ công nghiệp của Đấng đã vì quá yêu chúng con mà phải chịu khổ nạn và chịu đóng đinh trên thập giá. Người là Đức Kit ô, Con Thiên Chúa, Chúa chúng con.
Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa đã dạy chúng con vác thập giá mình mỗi ngày. Chúng con mang đến cho Chúa thập giá của cuộc đời chúng con, những thập gái mà chúng con cảm thấy khó chấp nhận, hoặc nặng nề khó vác. Xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng con và cho tất cả những ai đang bị cám dỗ sống trong chua xót và thất vọng.
Lạy Chúa, Chúa đã thương ban cho chúng con được vinh dự có sự tự do, xin giúp chúng con biêt sử dụng cách đúng đắn sự tự do ấy, dù gặp điều lành hay điều chẳng lành, đồng thời, xin Chúa cứu chúng con khỏi sự tự lừa dối mình, sự nhú nhát và sự trốn tránh trách nhiệm.
Xin cho mỗi người chúng con tìm thấy trong cuộc sống mình dấu hiệu cứu độ của Tình yêu Chúa đối với chúng con, một ân huệ cao vời mà Chúa đã ban cho chúng con, nhờ thập giá của Đức Giêsu Kitô, Con Chúa, Chúa chúng con. Amen.
51. Từ Thập Giá tới vinh quang
(Suy niệm của Lm. Minh Vận)
Phi trường quốc tế Pennsylvania là một trong những phi trường rộng lớn và đầy đủ nhất trong các phi trường tại Hoa Kỳ. Cách phi trường vài giây đồng hồ bay là một ngôi Thánh Đường, nằm ở cuối một trong những phi đạo nhộn nhịp nhất. Vì sợ tháp chuông có thể gây nguy hiểm cho máy bay mỗi lần đáp xuống phi đạo, nên kiến trúc sư đã phải hội ý với Cha Xứ và toàn thể giáo dân, xây một Thánh Giá lớn và thắp điện Neon theo hình Thánh Giá chiếu sáng đêm ngày. Từ ngày đó, cứ mỗi lần máy bay đáp xuống phi đạo, các phi công đều nhắm vào Thánh Giá như một tiêu chuẩn chắc chắn và bảo đảm nhất.
Nơi nào có Đạo Công Giáo, có người Kitô Hữu, nơi đó có Thánh Giá. Thánh Giá đã trở thành dấu chỉ của tình yêu, của hy vọng và của sự sống, vì: “Vinh quang của chúng ta chính là Thập Giá Chúa Kitô”.
- BA NỖI THỐNG KHỔ CỦA CHÚA KITÔ
Hôm nay theo niên lịch Phụng Vụ, chúng ta cùng với Giáo Hội dâng Thánh Lễ suy tôn Thánh Giá Chúa. Thánh Giá chính là tiêu biểu tột đỉnh của lòng Chúa yêu thương chúng ta, vì trên Thánh Giá, Chúa đã hoàn tất Lễ Hy Sinh đền tạ phép công bình Thiên Chúa, lập nên giá Ơn Cứu Độ cho chúng ta, như chính lời Chúa đã quả quyết: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người, đã hiến mạng sống mình vì người mình yêu” (Jn 15:13). Vì yêu thương chúng ta, Chúa đã lãnh nhận mọi nỗi thống khổ và cái chết ô nhục, để chúng ta khỏi án chết muôn đời, được tái sinh làm con Chúa và được thừa hưởng hạnh phúc vĩnh cửu Chúa hứa ban chúng ta trên Quê Trời.
Chiêm ngắm những thống khổ Chúa chịu, chúng ta thấy hiện lên ba hình thức sau đây:
- Thống khổ tinh thần: Trước hết, Chúa phải chịu nỗi thống khổ về tinh thần. Tại vườn Cây Dầu, Chúa đã trải qua cơn hấp hối mướt mồ hôi máu, khi nghĩ đến chén đau thương cuộc tử nạn Ngài phải uống, công nghiệp Ơn Cứu Độ của Ngài trở nên vô ích cho muôn linh hồn, biết bao môn đệ chạy trốn thoát thân, kẻ ăn cùng mâm, ngồi cùng bàn giơ gót đạp Ngài, với biết bao tội lỗi của nhân loại trong mọi thời đại xúc phạm đến Ngài, không tin nhận Ngài là Đấng Thiên Sai và hưởng nhờ tình yêu thương của Ngài dành cho họ. Trong cơn đau đớn này, Ngài đã phải thốt lên: “Lạy Cha, chớ gì con không uống chén này!” (Mt 26:39) Tất cả chúng ta cũng đã nhiều lần cảm nghiệm được nỗi thống khổ tinh thần này, khi chúng ta bị người thân yêu bỏ rơi, kẻ chịu ơn quay mặt bội phản, người thiết nghĩa hiểu lầm…. Trong giờ phút đau thương ấy, chúng ta chỉ còn một nguồn an ủi duy nhất là Chúa Giêsu, Đấng đã từng chịu đau đớn như thế trước chúng ta nếu chúng ta tin cậy ở Ngài. Để chúng ta được can đảm như Chúa khi thưa với Chúa Cha: “Xin theo ý Cha, đừng cứ ý Con” (Mt 26:39)
- Thống Khổ Thể Xác: Thứ đến, Chúa phải chịu nỗi thống khổ nơi thân xác. Thân xác Chúa là một thân xác rất nhậy cảm, vì chỉ do duy một khí huyết trinh khiết Đức Mẹ, Chúa Thánh Linh đã tác tạo nên thân xác Chúa Kitô do quyền toàn năng của Ngài. Giờ đây, Con Thiên Chúa cao cả đã phải chịu bao đòn vọt, tàn bạo, đầu bị gai nhọn đâm thâu óc não, bị căng thây đóng đánh vào thập giá, chịu chết cách ô nhục vì yêu thương chúng ta.
Đã hơn một lần, những nỗi đau đớn nơi thân xác do bệnh tật gây nên, do thời tiết nóng lạnh, do thiên tai bão lụt, do kẻ thù khủng bố… Trong những lúc đau đớn sầu buồn đó, chúng ta hãy tưởng nghĩ đến Chúa, chính Chúa cũng đã chịu những đau thương với thân xác như chúng ta cách vui lòng vì yêu thương, để nêu gương mẫu giúp chúng ta biết lãnh nhận vì lòng yêu mến Ngài; đồng thời, tin tưởng rằng Chúa đang hiện diện bên cạnh, để trở nên nguồn sức mạnh cho chúng ta.
- Thống Khổ Tâm Linh: Cuối cùng, Chúa đã phải chịu nỗi thống khổ tâm linh. Có thể nói, không nỗi thống khổ nào làm Chúa phải đau lòng cách thống thiết hơn, vì khi bị treo trên thập giá, Chúa bị bỏ rơi cô quạnh một mình, không kẻ thân yêu nâng đỡ, không người săn sóc an ủi; kẻ đi người lại buông lời khinh thị, chế diễu, lộng ngôn, xúc phạm, nguyền rủa, thách thức: “Kẻ đã cứu người khác mà không cứu mình được! Nếu là Đấng Kitô Con Thiên Chúa, hãy xuống khỏi thập giá đi để chúng ta thấy mà tin”. Cả hai kẻ trộm cướp cùng chịu đóng đinh thập giá với Ngài cũng khinh miệt Ngài. Trước nỗi đau thương thống thiết cô quạnh đó, Ngài đã phải thốt lên trong cơn buồn thảm: “Lạy Cha Con! Lạy Cha Con! Nhân sao Cha bỏ Con!” (Mt 27:46)
Ai trong chúng ta mà trong cuộc sống, lại đã không phải trải qua những lúc sầu buồn khắc khoải tâm linh như Chúa; đã nhiều lần cảm thấy như chính Chúa cũng ruồng bỏ chúng ta, khai trừ chúng ta. Muôn vàn cám dỗ, thử thách, bị quên lãng, bị chống đối, bị hiểu lầm dồn giập ập tới, khiến chúng ta phải đau thương đến tuyệt vọng. Trong những trường hợp ấy, chúng ta cần can đảm nhìn lên Chúa, bắt chước Chúa đang hấp hối trên Thánh Giá với thái độ và tâm tình tuyệt đối tín thác thuần phục thưa với Chúa: “Lạy Cha, Con xin phó thác linh hồn con trong tay Cha” (Lc 23:46). Chính thái độ tuyệt đối tín thác này, sẽ giúp chúng ta vui sống và sống hạnh phúc giữa mọi nghịch cảnh, mọi thử thách, mọi đau thương.
- MỘT PHẢN CHIẾU SÁNG NGỜI
Trong thời đệ nhị thế chiến, Cha Titô Brandsma, viện trưởng viện đại học tại Hòa Lan, bị nhóm quân đội Đức Quốc Xã bắt giam giữ tại trại tập trung ở Dachau. Nơi đây ngài bị biệt giam và nhốt trong một cũi chó cũ kỹ. Bọn lính muốn mua vui bằng cách bắt ngài phải sủa lên như con chó, mỗi lần khi thấy chúng đi ngang qua. Cuối cùng, ngài đã phải chết vì bị tra tấn quá dã man.
Nhóm quân lính Đức Quốc Xã kia, đâu có ngờ rằng, trong cơn thử thách, vị Linh Mục ấy vốn tiếp tục viết nhật ký xen giữa những dòng chữ in trong cuốn sách kinh cũ kỹ của Ngài. Ngài kể lại rằng: Sở dĩ ngài có thể chịu đựng được những nỗi thống khổ như thế là vì ngài đã chiêm ngắm mẫu gương thống khổ của Chúa Kitô, Đấng đã từng phải chịu như thế trước ngài, như một mẫu gương để ngài noi theo bắt chước, giúp ngài đủ sức mạnh chấp nhận được tất cả vì lòng yêu mến Chúa.
Trong một bài thơ, Cha Titô Brandsma đã ngỏ tâm tình gởi Chúa Giêsu như sau: “Sẽ không có nỗi thống khổ nào làm cho con ngã quỵ được, bởi con luôn nhìn thấy đôi mắt đầy đau khổ của Chúa. Con đường cô độc Chúa từng bước qua, đã giúp con chịu đựng nỗi cay đắng một cách khôn ngoan… Tình yêu của Chúa đã biến màn đêm tối tăm trong con thành nguồn ánh sáng rực rỡ. Lạy Chúa Giêsu, xin hãy ở lại với con luôn, chỉ cần Chúa ở lại với con thôi. Nếu khi đưa đôi tay ra, con cảm thấy Chúa đang ở bên con, con sẽ chẳng còn sợ hãy chi” (Klian Healy, Walking with God: Cùng bước đi với Chúa!)
Kết luận
Chính vì yêu thương chúng ta, Chúa đã tự nguyện lãnh nhận mọi nỗi thống khổ, để nên giá Ơn Cứu Độ cho toàn thể nhân loại và cho riêng mỗi người chúng ta.
Đây là sứ điệp Chúa truyền lại cho chúng ta rao giảng: “Qua Thập Giá Tới Vinh Quang” (Per Crucem ad Lucem). Hạt lúa miến cần phải chôn vùi dưới lòng đất, phải chịu mục nát đi mới phát sinh mầm sống và đơm bông kết hạt, Chúa Kitô đã phải trải qua cuộc khổ nạn đau thương và cái chết ô nhục trên Thập Giá, mới đạt tới sự phục sinh vinh hiển, đem lại cho chúng ta Ơn Cứu Độ và Ơn Thánh Hóa tâm hồn.
Đây là mẫu gương Chúa để lại cho chúng ta noi theo, hầu trở nên sức mạnh nâng đỡ, nên niềm an ủi và hy vọng, nên nguồn yêu thương và hạnh phúc cho chúng ta.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết nhìn lên Thánh Giá Chúa như ngọn hải đăng của cuộc đời chúng con, để mỗi khi lạc lõng giữa dòng đời, mỗi khi gặp thất vọng chán nản, chúng con tìm lại được sức mạnh và niềm cậy trông. Xin ban cho chúng con sức mạnh, không phải của bạo lực, nhưng của lòng khoan dung tha thứ, để chúng con luôn trở nên chứng tá cho tình yêu thương nhân hậu của Chúa.
52. Thập giá là chìa khóa
Cơ sở chính của Liên Hiệp Quốc là một tòa nhà bằng kính, nghiêng mình trên một giòng sông. Tại đây, đại biểu của các quốc gia trên thế giới thường xuyên gặp gỡ nhau. Nhiều người trong số họ là những Kitô hữu, hay ít nữa cũng có một niềm tin vào Đấng Tối cao.
Cũng tại đây, có một căn phòng mà việc trang trí tốn kém hơn năm ngàn đôla. Thế nhưng, vì sợ va chạm, nên không ai dám gọi đó là nhà nguyện, mà gọi đó là nơi tĩnh tâm. Không một bàn thờ, không một cây nến, không một biểu tượng tôn giáo được trưng bày. Thường xuyên chỉ có một bình bông và một luồng ánh sáng. Ngoài những công nhân lo quét dọn và thay bông thì dường như không một ai bước vào căn phòng này.
Như chúng ta đã biết, đại biểu của các quốc gia đến đây để bàn tới hạnh phúc của nhân loại, thu xếp để có được những giải pháp đảm bảo cho nền hòa bình thế giới. Thế nhưng chỉ có một chiếc chìa khóa có thể mở được cánh cửa dẫn tới kỷ nguyên hòa bình và hạnh phúc, đó là Đức Kitô và thập giá của Ngài, mà người ta đã quên không đặt vào căn phòng tĩnh tâm ấy. Họ hy vọng thành công ở bước thứ hai, trước khi đặt chân vào bước thứ nhất, việc họ làm chẳng khác gì đặt cái cầy trước con trâu vậy.
Con người thời nay đang đứng trước một khung cửa khép kín, mà lại không có chìa khóa để mở, cho dù biết rằng sau khung cửa ấy sẽ tìm thấy được lời giải đáp thỏa đáng cho những vấn đề đang làm cho chúng ta băn khoăn và lo nghĩ.
Hitler, Staline, Mouselini, một thời đã khuấy động, họ muốn đem lại hạnh phúc cho thế giới. Nhưng chiếc chìa khóa của họ lại là chiếc chìa khóa dổm, nên khung cửa vẫn đóng chặt và họ thì chìm vào quên lãng.
Chỉ có một chiếc chìa khóa duy nhất là Đức Kitô Phục sinh mới mở được khung cửa bình an và hạnh phúc. Ngài là Thiên Chúa, đã làm người và chịu chết trên thập giá để cứu độ chúng ta. Để xác tín như vậy, cần phải có một đức tin kiên vững.
Ngày nay người ta đã đem đến thật nhiều những chìa khóa dổm. Danh từ có thể khác nhau nhưng tựu trung vẫn chỉ là một. Nào là sách vở, truyền thanh và tuyền hình. Nào là thể thao, âm nhạc và những phương tiện giải trí. Nào là lạc thú, danh vọng, tiền bạc và những tiện nghi vật chất. Con người nhận ra những thứ đó không đủ và không thể đem lại bình an hạnh phúc.
Đức Kitô Phục sinh là chìa khóa duy nhất, ngoài Ngài ra, không có một giải pháp nào khác. Ngài đòi hỏi nơi chúng ta một sự tuyệt đối: Ai không ở với Ta là chống lại Ta, ai không thu tích cùng Ta là phá hại Ta. Điều đó có nghĩa Đức Kitô là trung tâm mà mọi sự phải hướng tới. Ngài là chân lý, là Thầy dạy của muôn dân, bước theo Ngài sẽ không còn mò mẫm trong đêm tối. Hành động với Ngài sẽ không bao giờ bị thất bại.
Và hơn nữa, nếu chúng ta chấp nhận gian khổ và thập giá với Ngài thì gian khổ chúng ta chịu sẽ là đường lên tới vinh quang và thập giá chúng ta mang sẽ là đường dẫn tới Phục sinh.
53. Thập giá vinh quang
(Suy niệm của Mai Thi – hoidongxitothanhgia)
Thập giá Đức Kitô không phải là một vật vô hồn, vô nghĩa, một thảm bại không hơn không kém… nhưng Cây Trường Sinh đó chất chứa một nội dung vô cùng phong phú: một mầu nhiệm của sự thinh lặng, bằng chứng tình yêu cho đến cùng và là chiến thắng vinh quang của Thiên Chúa đối với sự chết cũng như tội ác của con người.
Đối diện với thập giá Đức Giêsu Kitô, không chỉ chúng ta “im tiếng đi mà cung kính” mà chúng ta còn bị lôi cuốn bởi sự thinh lặng của chính thập giá chúng ta chiêm ngắm. Thập giá Đức Kitô không phải là một vật vô hồn, vô nghĩa, một thảm bại không hơn không kém… nhưng “Cây Trường Sinh đó” chất chứa một nội dung vô cùng phong phú: một mầu nhiệm của sự thinh lặng, bằng chứng tình yêu cho đến cùng và là chiến thắng vinh quang của Thiên Chúa đối với sự chết cũng như tội ác của con người.
Thập giá: mầu nhiệm của sự thinh lặng.
Suốt cuộc hành hình: bị tra tấn, vác thập giá, chịu đóng đinh và cho đến lúc chết trên thập giá, Đức Giêsu hầu như im lặng. Ngoài 7 lời ngắn gọn cuối cùng rút ra từ các sách Tin mừng, chúng ta không biết thêm câu nói nào khác của Đức Giêsu. Vậy sự im lặng của Ngài hẳn có lý do, có ý nghĩa….
– Thứ nhất, sự thinh lặng của Đức Giêsu là tiếng vâng tuyệt đối trong kế hoạch cứu độ của Chúa Cha.
Mặc dù bị xử oan, chịu đau đớn trong thân xác, mặc dù đau khổ tủi nhục vì bị mắng nhiếc phỉ nhổ, bị môn đệ bội phản và cô đơn nhưng… Đức Giêsu vẫn không một tiếng than trách, kêu la. Phải chăng Đức Giêsu chẳng còn nghe, hay vô cảm trước tiếng la ó, lời thách thức hay khiêu khích của nhóm người đã đóng đinh Ngài? “Hắn cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình. Hắn là Vua Israel! Hắn cứ xuống khỏi thập giá ngay bây giờ đi, chúng ta tin hắn liền! (Mt 27, 42).
– Thứ hai, sự im lặng của thập giá Đức Giêsu cũng là một loại ngôn ngữ. Nơi Thập giá, Thiên Chúa nói tất cả, Ngài nói bằng sự im lặng. Sự thinh lặng của Thập giá diễn tả sự kết hợp khắng khít, sâu đậm giữa Đức Giêsu với Cha.
Với sự thinh lặng của thập giá, chúng ta cũng được mời gọi đọc ra sứ điệp của Đức Giêsu đối với chúng ta. Quả thật, trong thinh lặng, chúng ta mới dễ dàng sống con người thật của mình và cảm nhận được cái nhìn yêu thương trìu mến của Thiên Chúa nơi dung mạo của Đức Giêsu. Và chỉ trong cái nhìn ấy, chúng ta mới nghe được chính tiếng nói yêu thương của Thiên Chúa.
Thập giá Đức Giêsu: tình yêu đến cùng.
Trong thinh lặng của thập giá, sự hùng biện của tình yêu sống động của Thiên Chúa lên tiếng (x. Phụng vụ các giờ kinh, giờ Kinh Sách Thứ Bảy Tuần Thánh): “Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hi sinh mạng sống cho bạn hữu”.
Thánh Gioan tông đồ đã tóm tắt nội dung cốt lõi của đạo Kitô giáo trong một câu thật ngắn gọn nhưng vô cùng quan trọng: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để những ai tin vào Con của Ngài thì không phải chết nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16).
Thiên Chúa yêu chúng ta và tình yêu đó không bao giờ ngưng hay suy giảm. Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta là tình yêu nhưng không, vô biên giới và cho đến cùng. Tình yêu đó thể hiện trọn vẹn nơi thập giá Đức Giêsu Kitô.
Thập giá Đức Giêsu không chỉ mạc khải về tội lỗi của con người, mà còn tỏa chiếu ánh sáng của Tình yêu. Cái chêt của Chúa Giêsu trên thập giá là biểu lộ của một tình yêu tha thứ cho đến cùng. Thập giá của Đức Kitô nói cho nhân loại biết rằng, Thập giá là lời đáp trả của Thiên Chúa đối với sự dữ của thế gian, đó cũng là dấu chỉ của tình yêu, của lòng từ bi và tha thứ. Xét dưới góc độ đó, thập giá Đức Giêsu không phải là thất bại, trái lại là một chiến thắng vinh quang.
Vinh quang của thập giá.
Cái chết của Đức Giêsu trên thập giá xét theo người đời là một thảm bại, một sự ngu dại, một cớ vấp phạm… nhưng “thập giá đã nở hoa”. Đức tin Kitô giáo dạy chúng ta, chính qua cây thập giá, Thiên Chúa đã chiến thắng. Vinh quang đã thuộc về Thiên Chúa và ơn cứu độ đã hoàn thành đúng như lời Ngài đã hứa trước: “Khi nào Ta được treo lên, Ta sẽ kéo mọi sự lên cùng Ta”. Sự chiến thắng của thập giá cũng không theo cách hiểu của người ta mà là chiến thắng sự chết và chiến thắng tội lỗi.
Đối với những kẻ tin, thập giá mới có lý do hiện hữu. Thánh Phaolô đã chẳng xác định: “những gì thế gian cho là điên dại, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan, và những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh; những gì thế gian cho là hèn mạt không đáng kể, là không có, thì Thiên Chúa đã chọn để huỷ diệt những gì hiện có, hầu không một phàm nhân nào dám tự phụ trước mặt Ngài” (1Cr 1,27-29).
Tóm lại: vinh quang của Thiên Chúa là thập giá, giây phút huy hoàng và thành công nhất là lúc Ngài giương cao lên và giơ đôi tay ôm trọn nhân loại. Khi treo lên cây thập tự, Đức Giêsu không chỉ còn là “vua dân Dothái” nhưng là vua của tất cả vũ trụ và nhân loại cho đến muôn đời. Ngài làm tất cả vì chúng ta, cho chúng ta và để cứu độ chúng ta. Lời yêu thương và hành vi trao ban tình yêu cho đến cùng của Ngài vẫn trào trào trong đời chúng ta nhưng đôi khi được thể hiện qua mầu nhiệm của sự thinh lặng. Vì thế chúng ta khiêm tốn xin Chúa giúp chúng ta “đọc” ra thánh ý Thiên Chúa mỗi khi chiêm ngắm Thập giá Đức Kitô.
54. Suy tôn Thánh Giá
(Chú giải của William Barclay)
CON NGƯỜI PHẢI ĐƯỢC GIƯƠNG CAO (Ga 3,14-15)
Đến đây, Gioan quay về với câu chuyện lạ lùng của Cựu Ước đã được kể lại trong Dân Số 21,4-9. Trên hành trình qua hoang địa, dân Israel lẩm bẩm than phiền và tiếc rẻ việc bỏ xứ Ai Cập ra đi. Để trừng phạt, Chúa cho tai họa rắn độc đến cắn họ chết. Dân chúng ăn năn và kêu xin Đức Chúa thương xót, nên Ngài dạy Môsê làm một con rắn bằng đồng, treo lên cao, hễ ai nhìn lên con rắn ấy thì được chữa lành và thoát chết. Câu chuyện đã gây ấn tượng sâu đậm trong dân Israel. Họ kể lại rằng về sau con rắn bằng đồng đó đã trở thành thần tượng. Dưới thời Khitkigia, đã phải hủy vì dân chúng thờ lạy nó (2V 18,4). Dân Do Thái có phần bối rối về biến cố ấy, vì họ bị cấm tuyệt đối trong việc làm các tượng. Pharisêu giải thích như sau: “Không phải con rắn đã ban sự sống. Khi Môsê treo con rắn lên thì người Israel nhìn và tin Đấng đã truyền lệnh cho Môsê làm như thế. Chính Chúa đã chữa lành cho họ”. Quyền phép chữa lành không ở trong con rắn. Con rắn chỉ là một dấu hiệu, một biểu tượng, chỉ cho người ta hướng tư tưởng mình về Chúa, và khi họ nghĩ đến Ngài thì được chữa lành.
Gioan dùng câu chuyện này như môt loại dụ ngôn về Chúa Giêsu.Ông nói: “Con rắn bị treo lên, người ta nhìn nó, tư tưởng họ hướng về Chúa, do quyền phép của Chúa, Đấng họ tin cậy thì họ được lành bệnh. Chúa Giêsu cũng phải bị treo lên như thế, để khi loài người hướng tư tưởng về Ngài, tin Ngài, thì cũng được sự sống đời đời”.
Một điểm gợi ý rất lạ ở đây. Động từ treo lên là hupsoun. Từ này được dùng cho Chúa Giêsu theo hai nghĩa. Nó được dùng cho việc Chúa bị treo trên thập giá; và nó cũng được dùng cho việc Chúa được cất lên đểvào vinh hiển lúc Ngài về trời. Nó được dùng chỉ thập giá trong Ga 8,28; 12,32, và được dùng chỉ Chúa Giêsu lên trời vinh quang trong Công Vụ 2,33; 5,31; Pl 2,9. Có hai lần Ngài được đưa lên vào cõi vinh quang; cả hai liên hệ với nhau bất khả phân ly. Điều này không thể xảy ra mà không có điều kia. Với Chúa Giêsu, thập giá là con đường tiến đến vinh quang. Nếu Ngài khước từ thập giá, tránh né, tìm cách để thoát khỏi đó –là việc Ngài có thể làm thật dễ dàng nếu muốn- thì Ngài đã không thể bước vào cõi vinh quang. Với chúng ta cũng vậy, chúng ta có thể chọn con đường dễ đi, có thể khước từ thập giá mà mỗi Kitô hữu được gọi phải vác, nếu thế, chúng ta sẽ mất phần vinh hiển. Đó là một trong những định luật bất biến của đời sống: không có thập giá thì không có triều thiên.
Trong câu 15 chúng ta gặp lại hai thành ngữ mà không thể rút tỉa hết ý nghĩa trong đó, vì cả hai vượt xa những gì chúng ta có thể khám phá được. Nhưng chúng ta phải cố gắng lãnh hội ít nhất là một phần trong ý nghĩa của chúng.
- Thứ nhất là tin Chúa Giêsu. Mệnh đề này có ít nhất ba nghĩa:
- Hết lòng tin Thiên Chúa vốn đúng như điều Chúa Giêsu tuyên bố. Chúa yêu thương chúng ta, lo lắng chăm sóc mỗi người, Ngài chẳng mong gì hơn là tha tội cho chúng ta. Chúa là tình yêu. Không phải dễ cho người Do Thái tin như vậy. Họ nhìn vào Chúa của luật, áp đặt các luật lệ Ngài trên dân chúng để trừng phạt khi họ vi phạm. Nên dân Do Thái nhìn Chúa như một vị Thẩm Phán, và loài người là tội nhân trước tòa án của Ngài. Họ nhìn Chúa như một Chúa hay đòi hỏi sinh tế và của lễ. Muốn ra mắt Chúa, loài người phải trả giá mà Chúa đã định. Thật khó cho họ nghĩ là Chúa không phải là một quan tòa chuyên tìm cách trừng phạt. Một ông cai chỉ chờ tìm cách vồ lấy công nhân, mà Ngài là người Cha tha thiết trông chờ đứa con đi hoang trở về nhà. Chúa Giêsu đã phải trả giá bằng đời sống và sự chết của Ngài để công bố cho loài người biết điều đó. Và chúng ta không thể trở thành Kitô hữu nếu chưa hết lòng tin như vậy.
- Làm thế nào chúng ta biết chắc Chúa Giêsu hiểu rất rõ những gì Ngài nói? Có gì bảo đảm Phúc Âm kỳ diệu ấy là thật? Đến đây chúng ta đụng đến tín điều thứ hai. Chúng ta phải tin Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, là tâm trí của Thiên Chúa, biết rất rõ Chúa Cha, thân cận mật thiết với Chúa Cha, vốn là một với Chúa Cha, đến mức Ngài có thể nói cho chúng ta biết chân lý tuyệt đối về Chúa Cha. Chúng ta phải tin chắc Chúa Giêsu biết rõ những gì Ngài nói, Ngài đã nói cho chúng ta biết sự thật về Chúa Cha, vì tâm trí của Chúa Cha vốn ở trong Ngài.
- Nhưng lòng tin còn một yếu tố thứ ba nữa. Chúng ta tin Chúa là Cha yêu thương, vì chúng ta tin Chúa Giêsu là con của Chúa Cha, vì thế những gì Ngài nói về Chúa Cha đều đúng thật. Đến yếu tố thứ ba, chúng ta phải đặt mọi sự trên cơ sở những gì Chúa Giêsu nói là đúng thật. Chúng ta phải làm theo tất cả những gì Ngài chỉ dạy. Khi Ngài dạy, chúng ta phải đặt mình, không chút do dự, vào lòng nhân từ của Thiên Chúa, thì chúng ta làm theo như vậy. Chúng ta phải tin lời của Ngài. Mỗi hành vi, cử chỉ nhỏ nhất trong đời sống đều phải được thực hiện trong sự vâng lời Ngài không chút nghi ngờ.
Như vậy, niềm tin có ba yếu tố: tin Chúa là Cha yêu thương của chúng ta; Chúa Giêsu là Con Chúa Cha, do đó Ngài cũng nói cho chúng ta biết sự thật về Chúa Cha và đời sống; và vâng phục Chúa Giêsu cách vững vàng không chút nghi ngờ.
- Mệnh đề quan trọng thứ hai là sự sống đời đời.
Chúng ta đã học biết sự sống đời đời là chính sự sống của Chúa, hãy đặt vấn đề: “Nếu được sự sống đời đời, cụ thể là chúng ta được gì?”. Được sự sống đời đời thì đời sống sẽ như thế nào? Khi hưởng sự sống đời đời thì mọi mối liên hệ trong đời sống đều được bao phủ bằng sự bình an.
- Sự sống đời đời cho chúng ta sự bình an với Chúa, chúng ta không còn sợ sệt như trước mặt một vị vua độc tài, hay tìm cách lẩn tránh một quan tòa nghiêm khắc, nhưng chúng ta được ở trong nhà với Cha mình.
- Sự sống đời đời là an hòa với mọi người. Nếu chúng ta được tha thứ, chúng ta phải biết tha thứ, nó khiến ta có thể nhìn người khác như Chúa nhìn họ, có thể hòa hợp với mọi người thành một đại gia đình sống trong thương yêu.
- Sự sống đời đời cho chúng ta sự an hòa với đời sống. Nếu Chúa là Cha, thì Ngài điều hành mọi sự để tất cả trở thành tốt lành. Lessing thường nói, nếu được hỏi con Nhân sư (Sphin, con vật đầu người mình sư tử, theo truyền thuyết Ai Cập, thông suốt mọi sự) một câu thì ông sẽ hỏi nó, “Vũ trụ này có phải là một vũ trụ thiên thần không?” Khi chúng ta tin Chúa là Cha, thì phải tin bàn tay của người cha chẳng bao giờ làm con cái mình nhỏ lệ cách không cần thiết. Chúng ta có thể không hiểu rõ về cuộc đời, nhưng chúng ta sẽ không còn oán tránh nó nữa.
- Sự sống đời đời khiến chúng ta an hòa với chính mình. Nói cho cùng, con người sợ chính mình hơn bất cứ gì khác. Ta biết sự yếu đuối của mình, biết sức mạnh của những cơn cám dỗ, biết các công việc và những đòi hỏi của đời sống mình. Ta biết mình vẫn đương đầu với mọi điều đó nhưng có Chúa ở cùng. Không phải là ta sống nữa, nhưng là Chúa Cứu Thế sống trong ta, trong đời mình có sự bình an được thiết lập bằng sức mạnh.
- Sự sống đời đời khiến ta biết chắc sự bình an sâu xa nhất của thế gian chỉ là cái bóng của sự bình an tuyệt vời sắp đến. Nó cho ta một hy vọng, một mục đích để tiến tới đời sống kỳ diệu quang vinh trên đất này, và đồng thời một đời sống tốt đẹp vô cùng ở tương lai.
TÌNH YÊU CỦA THIÊN CHÚA (Ga 3,16)
Tất cả các vĩ nhân đều có những đoạn văn riêng mình ưa thích. Đoạn văn trên đây là “Bản Văn Của Mọi Người”. Đây chính là Phúc Âm cho tất cả những tấm lòng đơn sơ. Bản văn này nói với chúng ta một số điều quan trọng.
- Nguồn gốc và khởi đầu của cứu rỗi là từ Thiên Chúa. Đôi khi Kitô giáo đã được trình bày như là chúng ta phải đến thuyết phục Chúa để xin Chúa chấp thuận hòa giải với chúng ta, như là Chúa phải được thuyết phục mới bằng lòng tha tội cho chúng ta. Có khi người ta vẽ ra một bức tranh về Thiên Chúa nghiêm khắc, giận dữ, không dung thứ và khư khư nắm chặt lề luật. Nhiều khi người ta trình bày thông điệp Kitô giáo như là Chúa Giêsu đã làm một điều gì đó thay đổi thái độ của Thiên Chúa đối với loài người, từ xử phạt ra tha thứ. Nhưng câu Kinh Thánh trên cho chúng ta biết rằng mọi sự là do Chúa khởi đầu. Chính Chúa đã sai Con Ngài đến thế gian vì Ngài yêu thương nhân loại. Đằng sau mọi sự đó là tình thương của Chúa.
- Nguồn mạch chính của bản chất Chúa là tình yêu. Thật dễ nghĩ về Chúa như Ngài đang nhìn vào nhân loại vô tâm, không vâng lời, phản loạn, và phán rằng: “Ta sẽ đánh gục chúng, kỷ luật chúng, trừng trị, xử phạt và giáng tai họa cho đến chừng nào chúng chịu hồi tâm”. Thật dễ nghĩ về Chúa như Ngài đang tìm cách đàn áp loài người để thỏa mãn quyền hành của Ngài, để hoàn toàn chế phục vũ trụ. Nhưng bản văn phi thường này cho chúng ta thấy Thiên Chúa đang hành động, không phải vì chính Ngài, mà vì chúng ta. Ngài không hành động để thỏa mãn ước muốn cầm quyền của Ngài, để giầy đạp vũ trụ dưới gót chân, nhưng là nhằm thỏa mãn tình yêu của Ngài. Ngài không phải là vị bạo chúa độc tài, đối xử với mọi người như thần dân, bắt phải tuân phục vô điều kiện. Ngài là người Cha không thể vui, cho đến khi những đứa con hoang đàng của mình trở về. Ngài không đàn áp loài người khiến họ phải đầu phục, Ngài trông mong và dịu dàng kêu gọi họ trở lại với tình thương của Ngài.
- Chiều rộng của tình yêu Chúa là cả thế gian.
Ở đây không phải là một quốc gia, không phải chỉ những người tốt lành, thánh thiện, không phải chỉ những người biết yêu mến Ngài, nhưng toàn thể nhân loại. Toàn thể những người khó yêu và chẳng có gì đáng yêu, người cô đơn chẳng được ai yêu, người yêu mến Chúa lẫn người chối bỏ tình yêu của Ngài, người chẳng bao giờ suy nghĩ đến Ngài cùng người yên nghỉ trong tình yêu của Ngài, tất cả đều được bao gồm trong tình yêu bao la, bao hàm tất cả của Thiên Chúa. Thánh Augustinô đã nói: “Chúa yêu mỗi người chúng ta dường như chỉ có một mình ta để Ngài yêu mà thôi”.
55. Suy tôn Thánh Giá
(Chú giải của Noel Quesson)
Trong trí óc của chúng ta, Thánh Giá liên kết với ngày Thứ Sáu Tuần Thánh. Và ngày Thứ Sáu Tuần Thánh vẫn còn là dịp để suy niệm về sự “đau khổ” là cuộc khổ nạn, cho dù Tin Mừng của Thánh Gioan với bài tường thuật ngày hôm đó thật ra đã nhấn mạnh đến “cường quyền ” của Đức Giêsu. Một truyền thống Phụng vụ lâu đời đã muốn cử hành lễ Suy tôn Thành Giá, cây Thập Giá Vinh quang, từ ngày 14 tháng chín năm 335 lúc hoàng đế Constantin vùa mới trở lại đạo. Và vợ vua, thánh nữ Hélène, cho xây dựng Vương cung Thánh đường Anastasis (tiếng Hy- lạp nghĩa là Phục sinh) tại Giêrusalem, trên địa điểm đồi Gôn- gô-tha và Mộ thánh. Lúc đó ngày lễ Suy tôn Thánh Giá mau chóng trở thành lòng sùng kính của đại chúng ở Phương Đông và từ thế kỷ thứ V chuyển sang Phương Tây.
Lời cầu nguyện trong ngày lễ này, không quên những khổ đau của thập giá, nhưng làm nổi lên giá trị của vinh quang thập giá “cây cao quý hơn mọi cây, là biểu hiệu vinh dự được chọn để mang Đấng Cứu Thế”.
* Ôi Thánh giá cao quý hơn cây bá hương, nơi sự sống của thế gian bị đóng đinh.
* Trên ngươi, Đức Kitô đã chiến thắng, sự chết của Người tiêu diệt sự chết.
* Lạy Cứu Chúa Giêsu, vinh quang thuộc về Chúa, thánh giá của Chúa, đem lại cho chúng con sự sống.
Thánh ca ngày hôm đó, do Venance Fortunat, vị Giám mục tương lai của thành Tours soạn năm 568, lần đầu tiên được hát ngày 19 tháng 11 năm đó trong một đám rước do Thánh Grêgôri thành Tours dẫn đầu cũng tán dương khía cạnh vinh quang của thánh giá.
Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống
Đoạn văn này rút ra từ diễn từ bài nói với ông Nicôđêmô. Người ta nhớ rằng Nicôđêmô một thân hào Pharisêu, thầy dạy Luật đã đến gặp Đức Giêsu ban đêm khung cảnh ban đêm này thấm đẫm một bầu khí mầu nhiệm. Thật vậy tất cả chúng ta đều ở trong đêm tối trước mặt Thiên Chúa. Như Nicôđêmô, tất cả chúng ta đều là những người “mò mẫm đi tìm trong đêm tối”. Ở đây, Đức Giêsu mạc khải rằng những chuyện trên trời chỉ người nào từ trời xuống mới biết được Thập giá là một phần của các thực tại thánh thiêng và chỉ có thể hiểu được trọn vẹïn bởi “Đấng từ trời xuống”.
Chúng ta hãy ở trong tình trạng sẵn sàng để lắng nghe sự mạc khải sẽ được bày tỏ cho chúng ta trong đêm tối.
Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc
Tin Mừng thường dùng những kỷ niệm của Kinh Thánh. Giai thoại “con rắn bằng đồng” rất nổi tiếng. Trong cuộc xuất hành trong sa mạc Sinai, những người Do Thái đã bị những con rắn có vết cắn cháy bỏng tấn công (Ds 21, 6-9). Nọc độc của chúng làm chết người. Môsê đã cho treo một con rắn bằng đồng trên một cây gậy cắm ở giữa trại. Cây gậy rắn thần ấy là hình ảnh thần thoại mà các thầy thuốc tiếp tục dùng làm huy hiệu, và họ thường gắn vào xe họ. Con rắn bằng đồng này là “Rắn chữa lành”: “Vì bất cứ ai ngước trông lên đều được cứu, không phải do bởi vật họ nhìn, nhưng là do chính Ngài, Đấng cứu độ muôn dân hết thảy” (Kn 16,7). Chúng ta thấy rằng theo cách giải thích này của sách Khôn Ngoan, thì điều chính yếu không phải là một cử chỉ ma thuật, và như thể tự động, mặc dù bề ngoài là thế. Cái nhìn ngước lên con rắn bằng đồng không tự nó cứu sống, như thể đó là một cử chỉ phù thủy hướng về một thứ bùa ngải. Quả thực, cách giải thích của các giáo trưởng cho rằng cách cụ thể ấy là dấu chỉ của đức tin, đó là hành động quay về với Thiên Chúa Đấng cứu chữa!
Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy
Như thể đến lượt mình, chúng ta được mời gọi người trông lên thánh giá, để được chữa lành. Chúng ta phải dám nhìn vào Đấng chịu đóng đinh, Đấng được giương cao trên đời và trên thập giá.
Có khi nào tôi nhìn thẳng vào ảnh chuộc tội để cầu nguyện không?
Và như thế, hôm nay chúng ta được đưa vào mầu nhiệm đặc biệt của vinh quang thập giá. Gioan thánh sử đã chọn từ “giương lên” (uspathènai trong tiếng Hy Lạp) một cách có chủ ý, để đồng thời nói rằng Đức Giêsu được thập giá đưa lên khỏi mặt đất về mặt thể chất nhưng còn được đưa lên một cách mầu nhiệm trong vinh quang của thánh giá. Tin Mừng của Gioan sẽ dùng cách chính xác cùng một từ để nói với chúng ta rằng Đức Giêsu được đưa lên bên hình của Chúa Cha, bởi sự sống lại và lên trời (Ga 3,16; 8,28; 12, 32- 34). Buổi chiều thứ sáu ấy, Thánh Gioan là người duy nhất trong các tông đồ còn dám đứng lại dưới chân thánh giá. Ngài đã không bao giờ quên được hình ảnh đó từ lúc được ánh sáng Phục sinh chiếu rọi. Từ đó, trong suốt 70 năm, ngài đã suy niệm về thánh giá và ngài đã mang lại cho chúng ta kết quả suy niệm ấy bằng cách đặt nó vào chính miệng của Đức Giêsu, bởi một phương thức cổ điển trong thời cổ đại.
Đối với Gioan, Thánh Giá và Phục sinh là cùng một mầu nhiệm được diễn tả bằng một từ duy nhất này: Đức Giêsu đã được nâng lên khỏi mặt đất! Đối với Ngài “chịu đóng đinh” tương đương với “được suy tôn”. Đối với Gioan, sự thăng thiên được cất lên bắt đầu từ ngày thứ Sáu tuần Thánh. Thật vậy nếu sự sống lại của Đức Giêsu như một chữ ký của Thiên Chúa trên mọi công việc của Đức Giêsu, thì sự sống lại không phải là một sự biện minh “sau đó”. Lễ Phục sinh không đến để xóa bỏ Thánh giá, như thể Thánh giá đã là Vinh quang của Thiên Chúa. “Giờ đây Con Người được tôn vinh” (Gioan 13,31), Đức Giêsu đã nói ngay khi tiến trình Cứu nạn mới bắt đầu bởi sự phản bội của Giuđa. “Phần tôi một khi giương cao khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi”.
Vậy NGÀY HÔM NAY, chúng tôi được mời gọi ngước mắt nhìn lên Đấng đã được “giương cao”. Một người HyLạp có văn hóa chỉ có thể nhìn trong thập giá của Đức Giêsu một sự điên rồ dã man, một công dân La Mã chỉ nhìn thấy ở đó hình phạt cho dân nô lệ, một người Do Thái chỉ nhìn thấy ở đó một nguyền rủa của Chúa. Nhưng đối với Thánh Phaolô, đó chính là sự “khôn ngoan của Thiên Chúa” (1Cr 1,23). Cái chết tự nguyện của Đức Giêsu rõ ràng là một cái chết vì yêu chứ không phải là do phạm tội sát nhân. Thánh giá của Đức Giêsu là đỉnh cao của đời sống yêu thương. Tình yêu mến của Chúa Con đối với Cha Người. Tình yêu thương huynh đệ phổ quát với các anh em tội lỗi.
Là đỉnh cao của sự đau đớn nơi con người, Thánh giá cũng là đỉnh cao của sự Mạc khải của Thiên Chúa. Thánh giá là lễ hiển linh của Ba ngôi! Ý nghĩa sâu nhất của Thánh giá là phải tìm hiểu trong chính hữu thể của Thiên Chúa: “Ai thấy Thầy là thấy Cha Thầy”. Thánh giá mạc khải cho chúng ta Thiên Chúa là ai: hành động thuần túy của tình yêu, sự hiến thân thuần túy. Hành động tình yêu tối cao này mà chúng ta gọi là một tình yêu điên rồ thì hoàn toàn và mãi mãi “tự nhiên” đối với Con của Chúa Cha. Thật ra Thánh giá chỉ là sự diễn tả cụ thể điều mà Ngôi Lời không ngừng thực hiện từ muôn thuở: Hiến dâng mình cho Đấng Khác (tha thứ tuyệt đối) không giữ lại điều gì lại cho chính mình.
Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một
Vâng, tình yêu tột cùng ấy đã đốt cháy trái tim của con người ấy, Đức Giêsu, và làm cho Người chết vì tình yêu tình yêu này chính là dấu chỉ của một tình yêu tột cùng khác, tình yêu của Chúa Cha, Đấng cũng yêu thương bằng một tình yêu điên rồ đến nỗi đã ban Con Một của Người. Như thế, nghịch lý của Thánh giá đã được khám phá: Vốn là dấu chỉ của ô nhục, Thánh giá trở thành dấu chỉ của vinh quang. Trong đức tin, thế giới này mà sự ác, sự chết, sự phi lý thống trị trở thành một thế giới “được Thiên Chúa yêu thương”. Thánh giá dựng lên ở Giê-ru-sa-lem. Và ở trung tâm của mọi đời sống Kitô hữu không ngừng cao rao rằng cả điều phi lý không còn là phi lý nữa, trong ánh sáng tăm tối của Thiên Chúa. Nếu chúng ta chấp nhận cách nhìn của Thiên Chúa, những đau khổ của chúng ta có thể thay đổi dấu chỉ”: Từ tiêu cực chúng có thể trở thành tích cực trong Đức Giêsu.
Để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời
Chấp nhận cái nhìn của Thiên Chúa chính là “tin”. Đức tin cho chúng ta là một cái nhìn mới về mọi sự, đặc biệt về tội lỗi, sự chết và sự ác. Thế giới này đối với chúng ta đôi khi có vẻ quá xấu xa với nhtlng thù hận, áp bức, những thói ích kỷ của nó, thế mà Thiên Chúa yêu thương nó! Không, Người không yêu sự ác này, nhưng bởi vì Người biết nó chưa hoàn tất. Người đã tạo dựng thế giới này để “dẫn đưa nó về sự hoàn thiện”. Một ngày kia, sẽ không còn nước mắt, khóc than, tang tóc” (Khải Huyền 21,4). Nhưng không có một sự suy luận thuần túy nào dẫn chúng ta đến kết luận đó. Duy chỉ đức tin cho chúng ta đi trước thời gian và nhìn thấy điều không thể thấy (Dt 11,1) khi “chiếm hữu được điều mà chúng ta hy vọng”.
Phải, đời sống vĩnh cửu đã bắt đầu đối với những ai tin. Nhớ đến điều đó há chẳng quan trọng sao, khi người ta đương đầu với những đau khổ triền miên và không thể chữa lành được.
Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ
Thiên Chúa là Đấng Hằng sống đích thực. Bên trên sự phi lý của sự chết. Người ban cho chúng ta sự sống của chính Người. Đó là sứ điệp chính yếu của toàn bộ Tin Mừng. Thiên Chúa muốn cứu tất cả mọi người. Thiên Chúa muốn cứu toàn thể thế gian. Người đã làm tất cả vì điều đó. Sứ mạng của Đức Giêsu là của Thánh Giá của Người, là dấu chỉ chiến thắng, vinh quang. Lạy Cứu Chúa Giêsu, vinh quang thuộc về Chúa, Thánh giá. Chúa ban cho chúng con sự sống.
Đây là cây sự sống, nơi Ađam mới hiến dâng máu Người để quy tụ mọi người trong một Nhiệm Thể duy nhất. Đây là cây sự sống nơi Đấng Chí ái của Chúa Cha mở những cánh cửa của Nước Thiên Chúa cho nhân loại. Đây là cây sự sống nơi Đấng vô tội bị nhục mạ gánh hết tội lỗi của chúng ta, để giao hòa đất với trời.
56. Suy tôn Thánh Giá
(Chú giải của Fiches Dominicales)
THIÊN CHÚA ĐÃ YÊU THẾ GIAN ĐẾN NỖI ĐÃ BAN CON MỘT, ĐỂ AI TIN VÀO CON CỦA NGƯỜI…
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
- Tình yêu nhưng không của Thiên Chúa
Trong khi bầu khí căng thẳng do việc Chúa đuổi quân buôn bán ra khỏi đền thờ gây ra chưa lắng dịu, thì ông Nicôđêmô, một kỳ mục trong dân tìm gặp Đức Giêsu. ông đến vào lúc đêm tối, nhằm giữ kín sự việc, nhưng dưới ngòi bút của Gioan nó mang một ý nghĩa tượng trưng: phải chăng Nicôđêmô đang ở trong bóng tối tim đến ánh sáng?
Cuộc đối thoại mở đầu với đề tài phải tái sinh. Đức Giêsu tuyên bố: “Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bới nước và Thần Khí” (3, 5).
Rồi từ câu 11 trở đi, cuộc đối thoại biến thành độc thoại. Đức Giêsu bắt đầu giảng dạy bằng cách kể lại những biến cố trong lịch sử dân Israel. Người nhắc đến biến cố bí ẩn trong sách Xuất Hành: con rắn đồng được treo lên làm dấu hiệu, chẳng những được hoàn tất, mà còn bị vượt lên trên trong biến cố khổ nạn, cái chết, phục sinh và lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa của Người.
* Ngày xưa, thời xuất hành trong hoang địa, con cái Israel vì kêu trách và thiếu tin tưởng vào Thiên Chúa, nên đã bị rắn độc tràn ra cắn chết nhiều người. Sách Dân Số thuật lại (21,4- 9): bấy giờ ông Môsê treo một con rắn đồng lên cao: hễ ai nhìn lên con rắn đồng vòi lòng tin thi được thoát chết. Sách Khôn Ngoan giải thích (để tránh lối giải thích ma thuật): “Hễ ai nhìn lên thì được cứu vớt cứu không phải do vật được nhìn, mà do Chúa, Đấng Cứu Độ của mọi người” (Kn 1 6,7).
* Dấu chỉ giờ đây nhường chỗ cho thực tại mà nó ám chỉ, đó là sự hiện diện của Đức Giêsu, Môsê mới, là Lời hằng sống ban sự sống của Thiên Chúa. Bị treo lên”, Đức Giêsu cũng sẽ bị treo lên bởi những kẻ đóng đinh Người vào thập giá; Người sẽ được nâng lên bởi Chúa Cha, Đấng đón nhận Người vào hưởng vinh quang với Thiên Chúa (8,28-30). Và cũng như xưa, hễ ai nhìn lên con rắn đồng thì được sống, ngày nay hễ ai nhìn lên “Con người” bị đóng đinh và ” phục sinh thì được Người ban cho sự sống đời đời.
* Nguồn gốc của hành vi cứu độ này không cần tìm đâu xa, nó ở ngay trong tình thương điên dại của Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô đối với thế gian. X. Léon- dufour diễn tả: “Ở trọng tâm của tất cả mọi sự và đặc biệt của vai trò Con Người và của con đường đi đến thập giá, ta thấy Thiên Chúa yêu thương thế gian. Lời xác quyết nêu bật Thiên Chúa và tình thương của Người như thực tại tuyệt đối. Tình thương đi trước mọi sự, cũng như trong Lời Mở Đầu, ánh sáng thần linh của Ngôi Lời soi chiếu mọi người trong bóng tối. Thiên Chúa thương yêu chỉ có một ý định là ban ơn cứu độ và sự sống (Lecture de L’evangile selon Jean, cuốn 1, Seuil, trang 305-306).
Như thế, ở đây, thập giá được trình bày như địa điểm mạc khải tình thương của Thiên Chúa, một biểu lộ tối hậu là nguồn mạch sự sống.
- Mời gọi ta đáp trả
Đến đây coi như Nicôđêmô biến mất. Đức Giêsu xem như đối thoại với một nhóm thính giả, chính là chúng ta ngày nay:
Tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa tỏ bày qua Đức Giêsu Con Ngài, luôn kêu mời sự đáp lại của con người có tự do. Và nó đòi một lời đáp ngay lúc này, đối diện với Đức Giêsu, Đấng Chúa Cha sai đến, Đấng mặc khải tình yêu của Thiên Chúa Cha. Bởi vì ngay bây giờ, cuộc xét xử đang được thực hiện:
Hoặc từ khước Thiên Chúa, đóng cửa không đón tiếp, mù quáng không muốn nhận ánh sáng, chìm đắm trong tối tăm và bị luận phạt. Hoặc cởi mở đón nhận ánh sáng, đón nhận sự cứu độ của Thiên Chúa, và như thế tất cả đều thay đổi, vì mọi hoạt động của ta sẽ được nhìn nhận như những hoạt động của Thiên Chúa, và trở nên dấu chỉ sự hiện diện của Người.
- Léon Dufour giải thích thêm: “trong những câu chúng ta vừa đọc, thái độ lựa chọn hay từ chối đều thể hiện trong lời đáp trả của con người trước Đấng Thiên Chúa sai đến. Một đặc điểm quan trọng khác là: sự sống vĩnh cửu và luận phạt đời đời không chỉ được thi hành vào ngày thế mạt, nó được thực hiện ngay trong giây phút hiện tại, ngay khi gặp gỡ Đức Giêsu. Tin vào Đức Giêsu, lập tức được sống, trái lời, từ khước tin Chúa, con người tự ý chọn lựa cái chết (vĩnh viễn), mà Thánh Kinh thường ám chỉ bằng câu “bị xét xử”. (Sđd, trang 308-309).
BÀI ĐỌC THÊM
- “Cái nhìn cứu sống”
(G. Bessière, trong “Dieu si proche” năm B, DDB, trang 42-43).
Đem câu chuyện con rắn đồng so sánh với Đức Giêsu, kể cũng hơi lạ thường! Câu chuyện lạ thường này có ý nghĩa gì đây? Truyền thống Thánh Kinh có thuật rằng, trong cuộc Xuất hành, khi dân Do thái bị đói, bị khát đã kêu trách Thiên Chúa và ông Môsê. Họ đã phải chịu hình phạt: những con rắn lửa bò ra gieo chết chóc cho dân. Nhưng rồi Thiên Chúa đã xót thương. Người truyền cho ông Môsê treo con rắn bằng đồng lên cột cao: “Ai nhìn lên con rắn đồng sẽ được cứu sống” (Ds 21, 8)
Ở đây sự so sánh nằm ở từ “treo lên”, Đức Giêsu bị treo lên cây thập giá, cũng như con rắn đồng bị treo lên trước toàn dân. Và ở từ “sống”. Ai bị rắn độc cắn trong hoang địa, nếu nhìn lên con rắn đồng sẽ được cứu sống; những ai tìm kiếm sự sống vĩnh cửu, sẽ tìm thấy trong Đức Giêsu, nếu kẻ ấy “tin” Đức Giêsu ban sự sống, và Ngài ban cách sung mãn. Không phải sự sống nhân tính, mà “sự sống vĩnh cửu”. Bởi đâu có ân huệ vô biên thoả mãn mọi ước muốn như vậy: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi Người đã ban chính Con duy nhất của Người”. Nguồn gốc không thể diễn tả đó, chính là tình thương phát xuất từ mầu nhiệm cao siêu mãnh liệt đối với muôn loài muôn vật.
Viễn tượng thật hết sức lạc quan. Có người chủ trương rằng Đấng Thiên Sai sẽ đến tiêu diệt những kẻ ô nhơ, tội lỗi. Đức Giêsu lại bày tỏ thái độ chống lại chủ trương tàn bạo này.
Thiên Chúa không sai Con của Người đến để phán xét, nhưng “để nhờ Người mà thế gian được cứu sống”.
Nếu có ai cố tình giam hãm mình trong sự dữ, hay trong bóng tối, thì không phải Chúa luận phạt, mà chính họ đã chọn bóng tối cho mình.
Phải chăng như vậy là nói rằng những người ngoài Kitô giáo, nghĩa là không gắn bó với Đức Giêsu, đều bị mất phần rỗi? Thánh Gioan nhìn nhận rằng sự gặp gỡ Thiên Chúa còn sâu xa hơn; nó được thể hiện trong sự thành tâm, trong giá trị của các hành động và trong sự mở rộng tâm hồn ra với người khác. Thánh sử đề cập cuộc tranh luận này khi viết: “Phàm ai thực thi chân lý, thì đến với ánh sáng”
- Một cuộc sống được nâng niu và bao bọc bằng một tình thương vô điều kiện
(Thư mục vụ của Hội Đồng Giám Mục Pháp “Thư gởi những người công giáo Pháp”, Cerf, trang 55-56).
Sau hết, tin vào ơn cứu độ của Thiên Chúa làm thay đổi cách thế hoạch định cả cuộc sống trần thế, và khiến ta hiểu khác đi lịch sử của ta trong thế giới này, và cả cách hoàn tất lịch sử đó nữa. Bởi vì “cho dầu sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 8,38-39).
Mặc dầu chúng ta chia sẻ những ưu tư của thế giới này, chúng ta vẫn tin rằng cuộc sống con người như được nâng niu và bao bọc bằng một tình thương vô điều kiện, mà không gì làm thay đổi được và rằng ân sủng của Thiên Chúa hằng theo dõi và sẽ còn theo dõi trong mọi hoàn cảnh của lịch sử chúng ta. Và chúng ta cũng hy vọng rằng cái chết, đôi khi là cái chết tàn bạo, không chấm dứt số phận chúng ta, bởi vì Chúa hứa cho ta sống lại và sống vĩnh cửu.
Đứng trước những nỗi sợ hãi của thời đại chúng ta, chúng ta không thể im lặng về kết cục của số phận con người, dưới ánh sáng của Tình Thương. Giao ước của Thiên Chúa sẽ được thực hiện trong thế giới mới, thế giới đã được biến đổi, mà chúng ta mong đợi. Niềm hy vọng này luôn nâng đỡ những người (nam cũng như nữ) đang đấu tranh chống lại sự chết và những quyền lực của sự chết, những người dám hiến dâng sự sống mình vì tình yêu Đức Giêsu Kitô.
57. Đường Hội Thánh đi là Đường Thánh Giá
Khi người ta cố gắng loại trừ Thiên Chúa ra khỏi xã hội thì rõ ràng có một hiện tượng trái ngược: bóng Thánh Giá xuất hiện nhiều hơn ở mọi nơi và mọi lúc. Lòng người lúc ấy thấy gắn bó với Chúa đặc biệt. Ngay cả trên TV, trong phim truyện, nhân vật đeo Thánh Giá nhiều hơn và cảnh nhà thờ cũng được chiếu thường xuyên hơn. Dấu Thánh giá là dấu của khổ nạn nhưng cũng là dấu của vinh quang và niềm hy vọng.
Hàng tuần Hội Thánh kính cuộc Khổ nạn của Chúa Giêsu vào ngày thứ sáu. Hàng năm có Mùa Chay, Tuần Thánh và nhất là ngày Thứ Sáu Thánh để dân Chúa tôn vinh mầu nhiệm đau khổ của Người. Nhưng một cách đặc biệt, giữa tháng 9, Hội Thánh có một ngày Lễ tôn vinh Thánh Giá Chúa Giêsu (14/9) và ngày hôm sau, Hội Thánh kính những nỗi thống khổ của Mẹ, Đấng Đồng Công cứu chuộc loài người. Như thế, mầu nhiệm Thánh Giá rất quan trọng trong đời sống Hội Thánh.
Đau khổ đi theo con người như một định mệnh. Định mệnh này chính con người gây ra khi tự mình bứt ra khỏi vòng tự do và hạnh phúc nơi Thiên Chúa, để chọn một cái độc lập giả tạo. Độc lập khỏi Thiên Chúa chính là lao vào vòng nô lệ cho tội. Đây là định lý chính xác hơn cả định lý toán học. Thiên Chúa là bầu khí quyển. Đòi thoát ra khỏi bầu khí quyển ấy ư? Con người tự mình nộp mạng cho tử thần. Mầu nhiệm Thánh giá kéo con người ra khỏi định mệnh ấy.
Mới đây có một bạn sinh viên trường Bách Khoa gửi tôi tin nhắn: “Bạn bè hỏi em là theo đạo Chúa được cái gì, sao con người vẫn khổ vậy, Chúa đâu?” Câu hỏi này chẳng phải là mới. Đọc lại Thánh Vịnh, chúng ta bắt gặp lời dân ngoại cười nhạo dân Chúa: “Chúa chúng nó ở đâu?” (TV 123). Còn bây giờ, người ta cũng lặp lại câu hỏi đó mà lại thêm những lời báng bổ. Khi nghĩ đến những chuyện này, tôi vẫn tự hỏi hoá ra chẳng lẽ thiên hạ mấy ngàn năm không thể văn minh hơn? Nhưng nghĩ thì nghĩ vậy thôi, chứ câu trả lời cho các vấn nạn muôn thuở chỉ có thể tìm thấy nơi Thánh Giá Đức Kytô.
Con Thiên Chúa vác Thánh giá lên đồi Canvê. Mẹ thánh của Người đau khổ cùng cực bên cạnh Người không chỉ trên đường Canvê mà là từ ngày Mẹ thưa Xin Vâng. Bé Samuel nhà chúng tôi chưa đi học, mới tập đánh vần A, B, C, nhưng khi chúng tôi hỏi viết tên Mẹ Maria thế nào, Samuel đánh vần ngay: X-I-N V-A-N-G. Hoá ra bé nhìn ảnh Mẹ dưới chân Thánh Giá và ngày nào cũng thấy từ Xin Vâng và nghĩ đó là tên gọi của Mẹ. Thế mà lại hoàn toàn chính xác.
Vậy thì Hội Thánh là thân mình mầu nhiệm của Đức Kytô và là con cái của Mẹ Đồng Công, thì không thể nào đi con đường khác ngoài con đường khổ giá. Nhưng đường khổ giá là con đường nào? Ngày còn học phổ thông, chúng tôi bị cô giáo nạt bắt phải thuộc “thơ” của anh thợ thơ Tố Hữu: “Chuông đạo hát vô tư, Chuông khuyên, lời uỷ mị: Con, nhận khổ đời con, Để nhẹ thoát linh hồn, Thiên đàng trong nhẫn nhục, Oán thù là địa ngục. Cười vui theo gió quên”. (Tôi mới tra lại trên Internet chứ “thơ” này tôi đã quên từ cái lúc chưa kịp nhớ!) Nếu đường Thánh giá là đường “nhẫn nhục”, “cười vui theo gió quên” thì hẳn Hội Thánh là tập hợp những con người ngu dại, ít học, không muốn tìm hạnh phúc!
Vậy đường Thánh giá mà Hội Thánh đi theo khác hẳn kiểu người đời lầm tưởng: là chịu đựng, là cắn răng với cái khổ, là lầm lũi bước đi mặc đời lầm than. Không, đường Thánh giá là con đường tuy khổ nhưng đẹp, tuy gian nan nhưng vinh quang. Tại sao thế?
Khi Đức Giêsu chấp nhận đường khổ giá, thì Người chỉ có một mục đích. Mục đích này đã được Đức Thánh Cha Benedicto tái khẳng định trong Thông Điệp “Thiên Chúa là Tình Yêu” rằng “Chúa Giêsu là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa”, và cái chết của Chúa Giêsu là “dạng thức cao nhất của Tình Yêu”. Vậy đường Thánh Giá là đường tình yêu.
Khổ nạn và cái chết của Đức Giêsu không phải là cùng đích của mầu nhiệm Cứu độ, mà chính sự Phục Sinh vinh hiển của Người mới là trung tâm và cùng đích. Do đó, đường Thánh Giá là đường hy vọng.
Chúng ta khi suy ngắm con đường Chúa đi cũng cảm nghiệm được rằng đường Thánh Giá là đường phục vụ. Sứ mạng và bản chất của Hội Thánh là ra đi loan báo Tin Mừng Tình Yêu và hy vọng, thì hệ quả tất nhiên là phục vụ.
Chính vì yêu thương, hy vọng và phục vụ mà Hội Thánh đi con đường Thánh giá, chứ không phải vì không hiểu biết hay vì yếu kém. Và khi đi trên con đường ấy, Hội Thánh mang sứ mạng đi tìm công lý, bình an và cứu độ, cũng như Đức Kytô đi đường Thánh giá là để trả lại những giá trị ấy cho cõi nhân sinh. Như vậy, Hội Thánh không chấp nhận bất cứ hình thức thoả hiệp nào với cỏ dại bên vệ đường để tìm dễ dãi mà quên nhìn về phía trước nơi có ánh bình minh của ơn cứu độ.
Hội Thánh cũng không chấp nhận những bất công và để cho con cái mình mất mát thua thiệt. Chấp nhận Thánh giá với Đức Kytô là thái độ can đảm, biết làm chứng cho ánh sáng và công lý, chứ không hế là nhẫn nhục vô ích và vô lý. Chúa Giêsu nói: “Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác thánh giá hàng ngày mà theo Ta”. Vác thánh giá không phải là cắn răng chịu đựng, mà trước hết là can đảm sống trọn kiếp người với những vui buồn, thành công và thử thách. Vác thánh giá là ôm ấp niềm hy vọng, là chọn lựa vinh quang, là ra đi phục vụ trong yêu thương. Chúng ta nhớ lại Lời Chúa Giêsu: “Nước Trời chỉ dành cho người có sức mạnh”. Mà sức mạnh ấy từ đâu đến nếu không phải từ nơi Thánh giá ơn Cứu độ?
Lạy Mẹ Đồng công cứu chuộc loài người, xin Mẹ nâng đỡ chúng con, để chúng con vững tin và bước theo Chúa Giêsu, gắn bó với Người với niềm tin và tình yêu không gì lay chuyển được.
58. Suy tôn Thánh Giá
(Suy niệm của Antôn Hoàng Văn Phúc, OP.)
Ý NGHĨA CỦA VIỆC SUY TÔN THÁNH GIÁ CHÚA
Nếu chữ Vạn được xem như là biểu tượng của Phật giáo, thì Thánh Giá chính là biểu tượng của Kitô giáo. Vì sao? Ắt hẳn đó không phải vì vẻ đẹp của biểu tượng này, cũng không phải vì sự đơn giản của nó, nhưng chính vì Đấng nằm trên cây gỗ đó đã dang rộng vòng tay để cứu chuộc nhân loại khỏi mọi tội lỗi. Nói cách khác, vì giờ đây “Thánh Giá trở thành biểu tượng của chính Đức Kitô”.
Như vậy, chính nhờ Đức Kitô mà cây Thánh Giá đã trở nên một biểu tượng linh thánh và là một phương dược linh nghiệm cho người Kitô hữu, như Công Đồng Vatican II đã nói “Nhờ Chúa Kitô, Thiên Chúa đã hoàn toàn nguôi lòng để chúng ta được giao hoà với Ngài và cho chúng ta được phụng thờ Ngài một cách hoàn bị.” Nói như thế để thấy được rằng Thánh Giá là một cái gì đó rất thiêng liêng và quan trọng đối với người Kitô hữu vì sự quy hướng về Đức Kitô. Để biểu thị sự thiêng liêng và tầm quan trọng của Thánh Giá, Hội Thánh không ngừng nhắc nhở con cái mình trân trọng và yêu mến Thánh Giá, đặc biệt qua các nghi thức Phụng vụ. Cụ thể Giáo Hội dành ngày 14 tháng 9 hàng năm để cử hành Thánh lễ Suy tôn Thánh Giá và cách riêng cử hành nghi thức suy tôn Thánh Giá vào chiều Thứ Sáu Tuần Thánh. Vậy suy tôn Thánh Giá là gì và có ý nghĩa như thế nào?
Theo tác giả Dom Robert Le Gall, suy tôn Thánh Giá là “việc tôn kính Thánh Giá, khí cụ đem lại ơn cứu độ và tôn vinh Đức Kitô”. Bên cạnh đó, Ban Từ vựng Công Giáo trực thuộc Uỷ ban Giáo lý Đức tin của Hội đồng Giám mục Việt Nam cũng đưa ra một định nghĩa xem ra đầy đủ và chính xác hơn “Suy tôn Thánh Giá là nghi thức thờ lạy và hôn kính Thánh Giá vào chiều thứ Sáu Tuần Thánh nhằm tưởng niệm cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu.” Như vậy, với định nghĩa này ít nhiều chúng ta cũng đã hiểu được ý nghĩa của việc suy tôn Thánh Giá.
Thực thế, việc suy tôn Thánh Giá không đơn thuần chỉ là một nghi thức Phụng vụ được Giáo Hội cử hành hàng năm vào ngày 14/9 hay chiều thứ Sáu Tuần Thánh, nhưng ẩn sâu trong đó là cả một ý nghĩa thánh. Quả thật, trong ngày lễ suy tôn Thánh Giá, ca nhập lễ được cất lên như sau “Chúng ta phải hãnh diện về Thập Giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Nơi Người, ta được giải thoát, được sống và được sống lại. Chính Người giải thoát và cứu độ ta.” Như vậy, việc suy tôn Thánh Giá là một sự hãnh diện và là một lời tuyên xưng của người Kitô hữu vào Thánh Giá. Hãnh diện và tuyên xưng vào Thánh Giá vì giờ đây Thánh Giá là “một sự khẳng định về cuộc chiến thắng của Đức Giêsu Kitô”. Cuộc chiến thắng mà Ngài đã dành được trước quyền lực sự dữ.
Nếu như hình phạt đóng đinh vào thập giá là dấu chấm hết cho một sự sống, cho một tình yêu thì giờ đây Đức Giêsu đảo ngược hoàn toàn giá trị ấy. Ngài biến cây thập giá khổ hình thành cây mang lại sự sống. Ngài biến cây thập giá hận thù thành cây mang lại tình yêu vĩnh cửu. Thế nên Thánh Giá đã trở thành dấu chỉ của tình yêu và sự sống. Thánh Giá trở thành biểu tượng của Tình Yêu cứu độ. Như vậy suy tôn Thánh Giá còn có ý nghĩa là suy tôn một tình yêu mà Thiên Chúa đã dành cho con người qua Đức Giêsu Kitô.
Với cái chết của Đức Giêsu trên Thánh Giá, loài người giờ đây được giao hoà với Thiên Chúa. Với cách hiểu này, một cách nào đó chúng ta có thể nói nếu không có cái chết của Đức Giêsu thì loài người vẫn đang mãi xa cách Thiên Chúa, chưa được giao hoà với Người. Như vậy việc suy tôn Thánh Giá là một hành động nói lên lòng biết ơn của chúng ta đối với Chúa Giêsu, vì Ngài đã chịu chết và đã mở cho ta con đường dẫn tới sự sống đời đời. Không những thế hành động suy tôn Thánh Giá còn là một sự biểu lộ niềm tin của chúng ta vào Chúa Giêsu Kitô, và cũng là dịp để bày tỏ mối thân tình, sự khăng khít của ta với Ngài.
Đức Giêsu đã dùng cây Thánh Giá để kéo nhân loại lên với Thiên Chúa, như lời Ngài nói “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi.” Như vậy, nếu năm xưa nhờ cây Thánh Giá, Chúa Giêsu đã kéo mọi người lên với Thiên Chúa thì nay suy tôn Thánh Giá như là hành động để quy tụ mọi người tản mác khắp nơi về dưới chân Thánh Giá trong cùng một niềm tin vào sự phục sinh của Ngài.
Bên cạnh đó, lời tuyên bố của chủ sự và lời đáp của cộng đoàn trong nghi thức Suy Tôn Thánh Giá vào chiều thứ Sáu Tuần Thánh: “Đây là cây Thánh Giá, nơi treo Đấng Cứu Độ trần gian” – “Chúng ta hãy đến thờ lạy” cũng cho ta một ý nghĩa thâm sâu về việc suy tôn Thánh Giá. Lời tuyên bố của chủ sự “Đây là cây” như muốn nói lên sự đau đớn tàn bạo và là một hình phạt ghê sợ nhất cho kẻ trọng tội. Qua đó, việc suy tôn Thánh Giá nhằm cho mọi người thấy một cách công khai, rõ ràng rằng Đức Giêsu đã chấp nhận chịu những đớn đau và hình phạt dù rằng Ngài không phạm tội gì. Thế nhưng, Giáo Hội không dừng lại ở đó. Giáo Hội muốn mọi người thấy rằng cây gỗ, “nơi treo Đấng Cứu Độ trần gian” giờ đây đã trở thành biểu tượng chiến thắng, biểu tượng cứu độ. Giáo Hội như muốn nhấn mạnh thêm ý nghĩa chiến thắng khi mời gọi mọi người: “Chúng ta hãy đến thờ lạy”.
Trên đây là ý nghĩa của việc suy tôn Thánh Giá. Có thể với nhiều người, việc tôn thờ Thánh Giá là một việc làm ngu xuẩn và điên rồ, như thánh Phaolô đã từng nói về người Do thái và dân ngoại.
Trái lại, với người Kitô hữu, đó lại là một hành động thánh, một hành động diễn tả đức tin. Và với người Kitô hữu, thiết nghĩ cuộc sống chỉ thực sự ý nghĩa khi hành động thánh này không bị giới hạn chỉ trong ngày lễ Suy Tôn Thánh Giá hay trong ngày Thứ Sáu Tuần Thánh nhưng được cử hành liên tục trong suốt cuộc đời.
59. Luận phạt hay cứu độ?
(Suy niệm của Lm. Hiền Lâm)
Triết học cổ đại Hi-lạp, đặc biệt Socrate, Platon và Aristote, thường sử dụng lối văn đối thoại để chuyển tải tư tưởng. Tin Mừng Gioan cũng từng sử dụng lối văn đối thoại này, khi kể lại cuộc trò chuyện giữa Chúa Giêsu và ông Nicôđêmô, hầu chuyển tải ý nghĩa về ơn cứu độ.
“Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ”. Sứ mạng thiên sai của Chúa Giêsu đến là để dùng thập giá mà cứu chuộc thế gian:
* Phải bị “giương cao lên”.
Điều Chúa Giêsu mặc khải thật rõ ràng: “Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời”.
Có lẽ đây là nét độc đáo nhất chỉ gặp thấy nơi Tin Mừng thứ IV, con đường linh đạo này có một mức độ quyết liệt hơn, vì trong khi 3 Tin Mừng Nhất Lãm nói đến việc muốn đạt đến Ơn Cứu Độ phải vác lấy thập giá, còn đối với Tin Mừng thứ IV đòi phải được “giương cao lên” nghĩa là không chỉ vác mà còn phải bị treo lên, chịu đóng đinh vào khổ giá.
Khác với ba lần nơi các Tin Mừng Nhất Lãm tiên báo cái chết một cách rõ ràng là Chúa Giêsu sẽ lên Giêrusalem chịu khổ nạn, thì Tin Mừng Thứ IV cũng tiên báo ba lần với cách nói: “Con Người được “giương cao lên” (x.Ga 3,14; 8,28; 12,32).
Con Người được giương cao lên, nghĩa là Chúa Giêsu sẽ phải bị treo lên trên thập giá, để nhờ công ơn Cứu Chuộc qua khổ giá, mà Người nâng mọi người lên cao khỏi thế gian, nâng cao lên cõi Trời với Người.
Theo chiều ngang, với cách nói nơi Tin Mừng Nhất Lãm rằng ai muốn theo Chúa thì hãy bỏ mình, vác thập giá mà theo. Còn theo chiều dọc, Tin Mừng Thứ IV lại nói theo chiều đi lên, không chỉ vác mà còn phải được treo lên, nghĩa là phải cùng đóng đinh chính mình vào thập giá như Chúa Giêsu.
Như vậy, dù “đi theo” hay “treo lên”, thì Kitô hữu cũng chung một phương thế duy nhất là phải qua thập giá mới đạt đến Ơn Cứu Độ.
* Luận phạt hay cứu độ?
Trong cách nhìn nhân loại, ai trong chúng ta nếu chỉ có một đứa con trai duy nhất, thì chúng ta sẽ coi nó như là tất cả của đời mình, của cả cuộc sống mình, của cả giống nòi mình, nên chúng ta sẽ hết sức cung phụng nâng niu, bằng mọi giá phải bảo vệ nó, và chỉ chấp nhận san sẻ khi cho đứa con xây dựng gia đình với một người con gái để duy trì dòng tộc.
Trong mầu nhiệm Thiên Chúa: Chúa Cha đã đản sinh ra Chúa Con, và Chúa Con là đứa Con Duy Nhất của Chúa Cha từ đời đời. Vì yêu thương con người, Chúa Cha đã cho đứa Con Duy Nhất của mình đến với thế gian. Trong ý nghĩa này, chúng ta có thể hiểu được “văn Chương Gioan” coi Chúa Giêsu như là Tân Lang và Giáo Hội là hiền thê của Người, bởi Chúa Giê-su qua công trình cứu chuộc đã cưới “cô dâu nhân loại” về cho Thiên Chúa Cha.
Nhân loại là con Thiên Chúa theo nghĩa sáng tạo, chứ không theo tử hệ đản sinh như Chúa Con. Nhân loại đó đã ra hư hỏng, nên Chúa Cha đã sai Con mình đến để cứu chứ không phải đến để phạt.
“Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ”. Thật vậy, sứ mạng thiên sai của Chúa Giêsu đến là để dùng thập giá mà cứu chuộc thế gian. Đó là niềm hy vọng lớn lao của nhân loại.
Trong Tin Mừng Gioan, ngay từ đầu đã nhắc tới “Đấng xoá tội trần gian” (Ga 1,29). Trần gian hay thế gian được nói tới ở đây có thể là toàn thể tạo thành, mà tạo thành thì tốt bởi vì là công trình của Thiên Chúa. Nhưng trọng tâm của công trình này là con người – đã trót đặt mình dưới ảnh hưởng của Satan (x.Ga 8,34.44); nghĩa là một sự xuống cấp sa đoạ, con người chịu ảnh hưởng của cái xấu, cái tội, bị cái xấu lợi dụng và làm biến dạng đi. Do đó mà Thiên Chúa “sai Con của Người đến để thế gian được cứu độ”.
Con đường cứu độ của Con Thiên Chúa là thập giá, nên ai muốn được cứu độ thì cũng phải chấp nhận “được treo lên” trên thập giá với Chúa Giêsu. Thế nhưng, giống như hai người con, một người lo làm việc vì yêu thương bố, một người bất đắc dĩ phải làm cho bố vì sợ bố đánh, kết quả là một người đạt được niềm vui nhẹ nhàng còn người kia cảm thấy nặng nề chán nản. Cũng thế, khi đón nhận thánh giá Chúa vì niềm tin vào Ơn Cứu Độ thì thánh giá sẽ trở nên nhẹ nhàng và con người vui vẻ vác đi theo Chúa; ngược lại, nếu ai vác thánh giá vì sợ luận phạt thì thánh giá sẽ nên nặng nề và tuyệt vọng.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa được sai đến thế gian là để cứu độ thế gian chứ không phải lên án thế gian, xin cũng sai chúng con đến với mọi người, đem đến cho họ sự cứu vớt, chứ không phải đến để lên án đồng loại. Xin cho chúng con biết chấp nhận được “giương cao lên”, là chấp nhận đóng con người tội lỗi của mình vào thập giá Chúa, để sau khi chết đi cho tội lỗi, chúng con được trở nên con người mới. Amen.
60. Lễ Suy Tôn Thánh Giá
(Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi)
Ý nghĩa của đau khổ được lồng trong hình ảnh rất quen thuộc đối với Kitô hữu, đó là thánh giá. Tuy nhiên ý nghĩa nguyên thủy của Thánh giá là ý nghĩa cứu độ, theo đó Giáo Hội dành một lễ đặc biệt để ta có thể suy tôn sự cao trọng của thập giá Chúa Kitô. Chính Chúa Giêsu đã cho ta thấy ý nghĩa cứu độ này khi Người phán: “Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3:14-15). Thêm vào đó, suy niệm của thánh Phao-lô giúp ta hiểu rõ hơn kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.
- Câu truyện cứu sống trong sa mạc (bài đọc Ds 21:4b-9)
Mặc dù dân Ít-ra-en được cứu thoát khỏi ách nô lệ Ai-cập và hành trình về Đất hứa, họ vẫn không hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa, kêu trách Người và vị lãnh đạo là ông Mô- sê về đời sống cực khổ trong sa mạc. Để cảnh tỉnh họ, Chúa để cho rắn độc cắn nhiều người phải chết. Sợ hãi trước cái chết, họ lại chạy đến xin ông Mô-sê khẩn cầu Chúa cứu họ. Theo lệnh Chúa, ông làm một con rắn bằng đồng, treo lên cao ở giữa trại để bất cứ ai bị rắn cắn chỉ cần nhìn lên nó sẽ được Chúa cứu khỏi chết.
Câu truyện lịch sử này gợi lại cho ta lịch sử cứu độ Thiên Chúa thực hiện qua Chúa Giêsu Kitô. Thiên Chúa truyền cho ông Mô-sê làm một con rắn bằng đồng rồi “treo lên một cây cột. Tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống”. Đã từ lâu, biểu tượng của y khoa là một con rắn được treo trên cây cột khiến ta liên tưởng đến câu truyện ông Mô-sê treo con rắn đồng lên cột cao để chữa lành những người bị rắn độc cắn. Con rắn và cây cột trong sa mạc chỉ là một biểu tượng giúp gợi lên lòng tin vào Chúa nơi dân Ít-ra-en. Khi người ta nhìn lên đó và có lòng tin vào Chúa thì Người sẽ cứu họ khỏi cái chết do nọc độc của rắn lửa. Đó là câu truyện con rắn đồng trong sa mạc. Chúa Giêsu đã lấy câu truyện ấy để áp dụng cho chính mình. Người dùng hình ảnh ấy để so sánh với sứ mệnh cứu độ Người sẽ hoàn tất: “Con Người cũng phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đởi”.
Sau khi được Thiên Chúa tạo dựng, con người đã không vâng phục Thiên Chúa. Họ để cho con rắn Xa-tan quỷ quyệt đánh lừa, nhả vào con người họ nọc độc của nó là tội lỗi và gây nên cái chết thể xác cũng như phần hồn (Rm 5:12; 1 Cr 15:55). Từ đó, thế giới trở thành một sa mạc và toàn thể nhân loại đều bị nhuốm nọc độc của Xa-tan, nên phải chịu đau khổ và phải chết vĩnh viễn nếu không được cứu chữa. Tuy nhiên Thiên Chúa có kế hoạch để cứu độ nhân loại. Người có thể treo lên một con rắn đồng khác. Nhưng như thế con người khó nhận ra được tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa. Do đó, Người đã chọn một cách thức quả thực nhiệm mầu, là sai chính Con Một Người xuống trần gian, để Con Một Người được giương lên cao cho ai nấy nhận biết Chúa yêu thương nhân loại đến mức nào (Ga 3:16).
Cây cột do ông Mô-sê dựng trong sa mạc chỉ để “giương cao” con rắn lên cho mọi người nhìn thấy. Còn cây thập giá để “giương cao” Chúa Kitô lên mang ý nghĩa sâu xa hơn vô cùng. Nó gắn liên với sự đau đớn và nhục nhã Chúa Kitô phải chịu. Nó thay thế cho cây biết lành biết dữ trong vườn địa đàng và nảy sinh hoa quả cứu độ cho loài người.
- Thập giá là thước đo sự vâng phục của Chúa Kitô (Pl 2:6-11)
Suy niệm về kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, thánh Phaolô đã đặc biệt đề cao vai trò của Chúa Kitô, nhất là việc Người trút bỏ vinh quang Thiên Chúa đến làm người giữa nhân loại. Với lời lẽ của đoạn thư đã trở thành bài thánh thi của Giáo Hội sơ khai, thánh Phao-lô khai triển sự vâng phục của Chúa Kitô qua từng hành vi diễn tả con đường Thiên Chúa đến cứu độ nhân loại. Trước hết là hành vi Chúa Kitô
trút bỏ địa vị và vinh quang Thiên Chúa để xuống thế làm người. “Sống như người trần thế”, Chúa Kitô đã sống đời hoàn toàn vâng phục Thiên Chúa. Mức độ vâng phục ở đây là Người “bằng lòng chịu chết”. Tuy nhiên vẫn chưa có thể đo lường được cao độ vâng phục của Chúa Kitô bằng duy cái chết mà thôi. Do đó, thánh Phao-lô đã nói thêm về cái chết ấy phải như thế nào để cho ta thấy Chúa Kitô đã vâng phục một cách hoàn toàn tuyệt đối. Thời ấy, không có cái chết nào nhục nhã hơn cái chết bị đóng đinh vào thập giá, là “điều ô nhục không thể chấp nhận đối với người Do-thái” (1 Cr 1:23). Vậy mà Chúa Kitô đã vui lòng chịu chết với một cái chết chẳng có người Do-thái nào muốn chết như thế. Thập giá đã xác định cái chết của Chúa Giêsu, không phải cái chết bình thường, nhưng cái chết ô nhục nhất. Cho nên chính thập giá đã chứng tỏ sự vâng phục của Chúa Kitô là vâng phục tuyệt đối và có khả năng đền bù tội bất tuân của A-đam xưa. Hơn nữa, hiệu quả của sự vâng phục tuyệt đối này cũng được minh chứng do việc Chúa Cha đã siêu tôn Đức Giêsu Kitô: “Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người…”
Nếu thực sự hiểu được thập giá là mức độ đo lường sự vâng phục của Chúa Kitô, thì ta hãy trở về với chính mình để xét lại sự vâng phục của ta đối với Thiên Chúa. Đời ta quả thực có quá nhiều thập giá, nhưng lấy thập giá để xét xem mình có thực sự vâng phục Chúa trong mọi sự hay không thì ít khi nào, trái lại thường là những lúc ta dễ dàng kêu trách Chúa như dân Ít-ra-en xưa.
- “Để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3:13-17)
Chúa Kitô đã được “giương cao” trong thế giới sa mạc này không phải chỉ như một biến cố lịch sử, nhưng như nguồn ơn cứu độ. Thánh giá gắn liền với cuộc đời và sứ mệnh cứu độ của Chúa Giêsu, từ khi sinh ra tại Bê-lem cho đến lúc tắt thở trên đồi Sọ. Thánh giá là điểm kết thúc cuộc Thương khó của Người, nhưng cũng là điểm khởi đầu cho một cuộc Tạo Dựng Mới. “Rồi Người gục đầu xuống và trao Thần Khí” (Ga 19:30). “Lúc khởi đầu” cuộc sáng tạo, Thần Khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước mênh mang (St 1:2). Giờ đây, “Lúc khởi đầu” cuộc Sáng Tạo Mới, Chúa Kitô “trao ban Thần Khí” để sản sinh một nhân loại mới gồm những người được kêu gọi, cứu chuộc và dự phần gia nghiệp Thiên Chúa.
Thập giá Chúa Kitô là dấu chỉ cứu độ. Nhưng nhận ra Đấng cứu độ là bước ta phải tiến tới, vì nếu không, thập giá sẽ là dấu chỉ vô nghĩa giống như bao người đeo thánh giá như một món trang sức mà không biết đến ý nghĩa cứu độ. Nói khác đi, thánh giá phải đưa ta tới Chúa Kitô, Đấng bị đóng đinh trên thập giá. Mục đích của thánh giá là giúp ta tin vào Chúa Kitô để được sống muôn đời. Thánh giá trở thành con đường đưa ta đến sự sống muôn đời. Trên đường ấy, ta được Chúa Kitô, người Hướng đạo và đồng hành, cùng đi với ta, cùng chia sẻ khổ đau với ta. Trên đường ấy, ta được mời gọi “trở nên đồng hình đồng dạng” với Chúa Kitô (Pl 3:10). “Tin vào Người” đòi hỏi ta phải “chịu đóng đinh” với Người. Thánh Phao-lô đã giảng giải về việc đóng đinh này. Ngài viết cho tín hữu Ga-lát: “Nhờ thập giá Người, thế gian đã bị đóng đinh vào thập giá đối với tôi, và tôi đối với thế gian” (Gl 6:14). Những lời này cho ta thấy hai chiều kích của đời sống Kitô hữu. Thập giá Chúa Kitô đòi hỏi ta trước hết phải “đóng đinh thế gian vào thập giá”, nghĩa là phải bỏ đi những gì thuộc về thế gian, tội lỗi và ma quỷ. Ngược lại, trong chiều kích tích cực, ta phải “đóng đinh chính mình” vào thập giá Chúa Kitô, để được kết hiệp với Chúa Kitô, sống theo giáo lý và gương mẫu của Người, nhất là sống trong sự vâng phục Thiên Chúa như con cái Người, trở nên tạo vật mới do ơn cứu độ Chúa Kitô chịu đóng đinh đem lại (Gl 6:15).
- Sống Lời Chúa
Chúa Kitô chịu đóng đinh trên thập giá có lẽ là hình ảnh ta gặp thấy nhiều nhất, trong nhà thờ, trong phòng ngủ tại tư gia, trên tường, trên ngực… Thánh giá quá quen thuộc đến độ ta dễ dàng quên mất ý nghĩa đích thực của nó là ơn cứu độ. Giáo Hội suy tôn Thánh giá là vì muốn nhắc nhở ta hãy suy niệm ý nghĩa cao cả của nó. Nhưng hơn thế nữa, ta được mời gọi hãy đến với Đấng đã dùng Thánh giá để cứu chuộc muôn người, hãy “cùng chịu đóng đinh với Đức Kitô vào thập giá”, hãy “sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2:19-20).
Suy nghĩ: Tôi hiểu ý nghĩa của Thánh giá như thế nào? Tôi có thường suy nghĩ về mục đích của Thánh giá là để cứu độ tôi không? Nếu thế, tôi có cảm tạ Chúa về sức mạnh của thánh giá và thấy mình được hãnh diện chung phần thánh giá với Chúa Kitô không? Những thí dụ cụ thể nào trong cuộc sống nói lên việc tôi kết hiệp với Chúa Kitô chịu đóng đinh?
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã muốn cho Con Một Chúa chịu khổ hình thập giá để cứu chuộc loài người. Xin cho chúng con mai sau được hưởng nhờ quả phúc cây thập giá, mà ngày nay chúng con vẫn một lòng yêu mến suy tôn. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen. (Lời nguyện Nhập lễ, Lễ Suy tôn Thánh Giá).
61. Suy Tôn Thánh Giá
LẠY CHÚA, CHÚNG CON TÔN THỜ THÁNH GIÁ CHÚA
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Phụng vụ Giáo hội hàng năm, dành ngày 14 tháng 9 để mời gọi con cái mình cử hành lễ Suy Tôn Thánh Giá Chúa Giêsu với niềm vui vì được ơn cứu độ. Ngày này, Thánh Giá được trình bày không phải dưới khía cạnh khổ đau, hay nặng nề thiết yếu của cuộc sống cần phải vác theo Đức Kitô, nhưng dưới khía cạnh vinh quang, như cái cớ để những người tin vào Chúa Giêsu tự hào và không có khóc lóc.
Cử Hành Với Niềm Vui
Thánh Giá, một khí cụ man rợ và khủng khiếp nhất trong lịch sử nhân loại người Do thái dùng làm hình khổ để đóng đanh Chúa Giêsu, nhưng Người đã biến nó thành phương thế để cứu độ thế gian. Từ đó, Thánh Giá trở nên Niềm Hy Vọng độc nhất trong Vinh Quang toàn thắng của Đức Kitô, ban tặng cho con ngươi hồng ân tha thứ và mọi phúc lành. Vì thế, “chúng ta phải hãnh diện về thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Nơi Người, ta được giải thoát, được sống và được sống lại; chính Người giải thoát và cứu độ ta” (Ca nhập lễ).
Điều này được phản ánh trong các bài đọc. Thánh Phaolô coi Thánh Giá là động lực lớn lao để “tán dương” Chúa Giêsu: “Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu” (Pl 2, 8-11). Còn theo thánh Gioan thì Thánh Giá như là khí cụ để cứu độ con người: “Cũng như Môsê treo con rắn nơi hoang địa thế nào, thì Con Người cũng phải bị treo lên như vậy, để những ai tin vào Người, thì không bị tiêu diệt muôn đời” (Ga 3, 14). Nên hôm nay Giáo hội cử hành lễ suy tôn Thánh Giá với niềm vui vì được ơn cứu độ.
Nhìn ngắm Thánh Giá, chúng ta sẽ khám phá ra câu chuyện của tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại nói chung và cách riêng mỗi người chúng ta.
Câu chuyện tình yêu
Khi suy tôn Thánh Giá, Giáo hội, Hiền Thê yêu dấu nhìn lên Thánh Giá nơi treo Chúa Giêsu vị Phu Quân của mình, chân tay đanh nhọn đâm thâu, cạnh sườn lưỡi đòng đâm thủng, máu cùng nước chảy ra làm cho Giáo hội nhớ đến ngày mình được sinh ra từ cạnh sườn Chúa với tất cả tình yêu, lúc Chúa ngủ trên Thánh Giá. Bởi theo thánh Ambrosiô, lúc Ađam đang ngủ Thiên Chúa đã lấy xương sườn của ông để tạo dựng Evà thế nào, thì lúc Chúa Giêsu chết nằm trên Thánh Giá, Giáo hội cũng được sinh ra từ Trái Tim bị đâm thủng của Chúa Giêsu như vậy, và Giáo hội tưởng nhớ đến tình yêu dâng trào ấy.
Thật không thể hiểu nổi Thiên Chúa yêu thương chúng ta biết chừng nào: “Yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một” (Ga 3,16), mặc dù biết trước Con mình sẽ bị đóng đinh, được giương lên cao khỏi đất như “Con Rắn Đồng” trong sa mạc. Thật là một sự hy sinh lạ lùng, không thể nào hiểu thấu, mà thánh Phaolô phải diễn tả bằng một cách khác để bổ sung: “Thiên Chúa đã không tha cho chính Con Một của mình, nhưng phó nộp Người vì chúng ta hết thảy.” (Rm 8,32). Người đã yêu chúng ta bằng tình yêu vô bờ bến, tình yêu thương xót và thứ tha, khi “sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ con của Người mà được cứu độ” (Ga 3,17).
Đây chính là câu chuyện về ơn cứu độ của chúng ta, câu chuyện tình của Chúa Cha, chuyện tình của Chúa Con, câu chuyện của Thánh Giá. Giảng trong Thánh lễ sáng thứ ba ngày 15/03/2016, tại nguyện đường Thánh Marta, Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Nếu muốn biết ‘câu chuyện tình’ mà Thiên Chúa dành cho nhân loại, chúng ta phải ngắm nhìn Thánh Giá, nơi ấy có một vị Thiên Chúa đã hoàn toàn ‘trút bỏ vinh quang’, sẵn sàng bị ‘vấy bẩn’ bởi tội lỗi con người để cứu con người khỏi chết. Vị Thiên Chúa ấy sẽ hủy diệt vĩnh viễn cái tên xấu xa đích thực của sự dữ mà Sách Khải huyền gọi là ‘con rắn xưa’. Tội lỗi là việc làm của Satan. Nhưng Đức Giêsu đã chiến thắng Satan. Ngài đã tự hạ mình xuống, trở thành hiện thân của tội để nâng con người lên“. Mầu nhiệm Thánh Giá diễn tả tình yêu vô bờ bến, tình yêu không thể nào mô tả được của Thiên Chúa đối với nhân loại.
Trong lịch sử cứu độ, con rắn được nhắc đến lần đâu tiên trong Sách Sáng Thế và lần cuối cùng là trong Sách Khải Huyền. Rắn là loài vật mà theo Kinh Thánh mang một biểu tượng mạnh mẽ của sự nguyền rủa, của tội lỗi (x.St 2,) và một cách mầu nhiệm cũng là biểu tượng của sự cứu chuộc. Trong hành trình sa mạc. Dân chúng không muốn đi trong cảnh lương thực ít ỏi như thế nữa. Họ kêu trách Thiên Chúa và ông Môsê. Chúa cho rắn bò ra làm hại những kẻ cứng lòng không tin, để gieo rắc sự sợ hãi và cái chết cho đến khi dân chúng biết chạy đến nài xin Môsê sự tha thứ. Thiên Chúa lại truyền cho Môsê đúc một con rắn đồng treo lên cây gỗ, để tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống. Thật là mầu nhiệm, mầu nhiệm ở chỗ: Khi dân hối hận, Thiên Chúa không giết chết các con rắn, nhưng Ngài để chúng đó. Nếu có con rắn nào làm hại dân chúng, chỉ cần họ nhìn lên con rắn đồng thì sẽ được cứu. Giương cao con rắn lên.
Con rắn tượng trưng cho tội lỗi. Con rắn giết hại người ta nhưng nó cũng chữa lành. Và đó chính là mầu nhiệm của Đức Kitô. Thánh Phaolô nói: “Đức Giêsu là Đấng chẳng biết tội là gì, thì Thiên Chúa lại biến Người thành hiện thân của tội.” Như vậy cách nào đó, Đức Giêsu chính là con rắn được giương cao lên. Bài đọc I ngày lễ chất chứa cái nhìn có tính tiên tri: Chúa Giêsu như là hình ảnh con rắn,” hiện thân của tội lỗi”, đã được giương cao lên để cứu độ con người. (x. Trích bài giảng lễ thứ ba n 15/03/2016, tại nguyện đường Thánh Marta, Đức Thánh Cha Phanxicô).
Lạy Chúa Giêsu Kitô, chúng con tôn thờ Thánh Giá Chúa, vì Chúa đã dùng Thánh Giá mà cứu chuộc trần gian. Amen.
62. Suy tôn Thánh Giá
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
LÀM THẾ NÀO ĐỂ VIỆC SUY TÔN THÁNH GIÁ TRỞ NÊN HỮU HIỆU?
Người Công Giáo tôn thờ Thánh Giá, điều đó mọi người đều biết. Thập tự là biểu hiệu (logo) của Thiên Chúa giáo, cũng như chữ Phạn của Phật giáo, trăng lưỡi liềm của Hồi giáo, hay búa liềm của Cộng Sản. Những biểu tượng này được những người theo tôn giáo hay học thuyết đó quí trọng và đề cao, điều đó cũng là lẽ thường tình. Thế nhưng người Công Giáo suy tôn Thánh Giá, tôn thờ Thánh Giá, chắc hẳn không chỉ đơn thuần là tôn thờ một biểu tượng, càng không phải tôn thờ đau khổ và chết chóc, cũng chẳng phải tôn thờ một báu vật gợi nhớ một kỷ niệm xa xưa. Thập giá, mà họ thành kính gọi là Thánh Giá, là tất cả đối với họ, nói lên trọn vẹn niềm tin của họ và là niềm hy vọng duy nhất họ có. Tại sao vậy?
Suy tôn Thánh Giá: Kitô hữu suy tôn mạc khải vĩ đại nhất mà Thiên Chúa có thể vén lên cho trần gian. Đúng là toàn bộ cuộc sống của Đức Giê-su nơi dương thế là để nói lên có một điều mà nhân loại chưa từng bao giờ được nghe biết: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một…” Tuy nhiên thập giá còn nói lên một điều khác còn sâu xa hơn nhiều: Thiên Chúa yêu tới độ đã chết cho chính nhân loại tội lỗi; “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15:13), “Họa may có ai dám chết vì một người lương thiện chăng… Thế mà Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi, đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5:7-8). Suy tôn Thánh Giá là suy tôn một tình yêu vĩ đại. Người Do Thái lẽ ra đã phải ghi nhớ đến muôn đời hình ảnh con rắn đồng treo trên cây gậy, nói lên tình yêu trung thành của Đức Chúa Gia-vê đối với dân riêng, ngay cả khi họ bất trung và phản nghịch (không may là điều này đã bị họ lãng quên không biết từ đời nào rồi), thì người Công Giáo sẽ không ngừng đề cao Thánh Giá là vì vậy.
Suy tôn Thánh Giá: Kitô hữu suy tôn ơn cứu độ và niềm hy vọng của mình. Nơi Thánh Giá, họ hiểu ơn cứu độ được Thiên Chúa ban nhưng không cho con người, chứ không do bất kỳ công nghiệp nào của họ. Người suy tôn Thánh Giá đầu tiên và trọn vẹn nhất là thân mẫu Maria đứng chết lặng dưới chân thập giá, người thứ hai (theo truyền thuyết lâu đời của Giáo Hội) chính là Maria Mác-da-la ôm lấy chân thập giá… Sau đó là các môn đệ Gioan và Phêrô v.v…; mỗi người một kiểu, họ đều biểu dương thập giá như nguồn ơn cứu độ và niềm hy vọng duy nhất của mình. Họ suy tôn Thánh Giá trong cảm nhận con người thấp hèn và tội lỗi, và chính thập giá lúc đó làm cho niềm hy vọng của họ bừng sáng lên.
Suy tôn Thánh Giá: Kitô hữu suy tôn một nếp sống hoàn toàn mới: yêu thương nhau… yêu thương tới cả kẻ thù (Lc 6:27-35) yêu thương như Thầy đã yêu thương (Ga 13:3-35). Họ biết rằng Thập giá là con đường hoàn thiện, không phải vì thập giá làm cho họ nên tốt hơn, giảm bớt phạm tội, cho bằng vì càng vào sâu trong thập giá – hay càng suy tôn thập giá với cả tâm hồn – cõi lòng họ càng dễ biến thành nhân hậu giống Thiên Chúa. “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ”. Qua suy tôn Thánh Giá, họ đi sâu vào một Thiên Chúa tha thứ, để càng dễ tha thứ; đề cao một Thiên Chúa không lên án, để họ càng không lên án những người anh em lỗi phạm; tôn vinh một Thiên Chúa không xét đoán, để họ càng không dám xét đoán những người anh em sống quanh mình (Lc 6:36-37). Đúng là không suy tôn Thánh Giá tôi không thể đạt tới sự thánh thiện đó như đức Giê-su mong muốn.
Giáo Hội luôn coi việc suy tôn Thánh Giá và cử hành Thánh Thể là trung tâm điểm của đời Kitô hữu; và điều đó thật là chí lý. Nhưng luôn có nguy cơ là tôi có khuynh hướng hạ thấp việc suy tôn đó xuống tầm một việc đạo đức mà thôi. Suy tôn Thánh Giá là một tuyên xưng niềm tin – cậy – mến thâm sâu nhất, và cần được biểu lộ hữu hình dưới hinh thức bí tích của cử hành Thánh Thể, rồi sau đó bằng chính đời sống hiện sinh của tôi trong cuộc sống thường nhật.
Tôi có thực thâm tín điều đó không?
Lạy Chúa Kitô thập giá! Xin giúp con biết suy tôn Thánh Giá Chúa bằng cả cuộc sống mình. Con muốn suy tôn Thánh Giá như Mẹ Maria hay thánh Gioan, nhưng cũng nhiều khi con lại dễ suy tôn như Mác-đa-la hay Phêrô hơn. Dầu với biểu hiện nào đi nữa, xin cho đời con không ngừng được việc suy tôn này biến đổi từng ngày, trong việc nhận biết mạc khải tình yêu, trong niềm hy vọng đón nhận ơn cứu độ, và trong nếp sống hiền hòa với hết mọi người. Amen.
63. Suy tôn Thánh Giá
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Đô)
Có một câu chuyện dụ ngôn sau đây về một người đàn bà cứ phàn nàn, than trách Chúa vì phải vác một thập giá quá nặng. Một hôm, Chúa đưa người đó đến một cửa hàng bán các thập giá đủ cỡ để người đó chọn lựa. Người đàn bà hăm hở bước vào cửa hàng và dựng cây thập giá của mình vào tường trước cửa. Bà tự nhủ trong lòng: “Đây là chuyện cả đời người, phải hết sức cẩn thận trong việc lựa chọn.”
Sau đó, bà đi xem mọi nơi trong cửa hàng, và thử hết cây thập giá này đến cây thập giá khác, nhưng không tìm được một cây nào làm chị vừa ý vừa lòng. Cây thì quá dài, cây thì quá ngắn. Cây thì quá cong queo, cây thì quá nặng. Chị tiếp tục tìm kiếm. Cuối cùng, chị tìm được cây thập giá mà chị cho là ưng ý nhất. Chị mang đến với Chúa và nở nụ cười mãn nguyện, thưa với Chúa, “Lạy Chúa, đây chính là cây thập giá mà con hằng tìm kiếm. Con xin vác lấy.” Khi chị vừa hí hửng ra khỏi cửa hàng, thì Chúa mỉm cười nói với chị: “Ta rất vui mừng vì con đã chấp nhận cây thập giá này. Đây cũng chính là cây thập giá mà con đã vác vào và dựng ở tường của cửa hàng này.”
Ông bà anh chị em thân mến. Hôm nay cùng với Giáo hội, chúng ta mừng lễ Suy Tôn Thánh Giá Chúa Ki-tô, và được mời gọi suy niệm mầu nhiệm Thánh Giá Chúa Kitô trong đời sống đức tin của chúng ta. Trước hết, bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết Chúa Giêsu nhắc nhở và bảo ông Ni-cô-đê-mô và tất cả mọi người chúng ta phải có một niềm tin mạnh mẽ và sâu sa. Chúng ta phải tin vào chính Chúa, là Con Thiên Chúa, và phải tin một cách vững mạnh vào Thiên Chúa Cha và kế hoạch cứu độ của Ngài. Chúa Cha, vì tình thương yêu bao la và vô bờ bến, đã ban Con Một của Ngài xuống trần, để cứu chuộc nhân loại và ban cho chúng ta sự sống và hạnh phúc vĩnh cửu. Chúa Giê-su, Ngôi Hai Thiên Chúa, đã khiêm nhường và vâng lời hy sinh mạng sống chết một cách nhục nhã trên thập giá, biến cây thập giá trở thành Thánh giá ban ơn cứu độ và đời sống vĩnh cửu cho nhân loại. Chúa Giê-su đã giải thích với Ni-cô-đê-mô rằng Con Người phải được treo lên như Môi-sen đã treo rắn đồng lên trong sa mạc, để những ai tin vào chính Người thì được sự sống đời đời.
Thật vậy, bài đọc một hôm nay kể lại việc Thiên Chúa trừng phạt dân Do thái chóng quên phép lạ to lớn, Thiên Chúa cứu họ ra khỏi cảnh nô lệ ở Ai-cập, và họ đã phạm tội kêu trách Chúa và Mô-sê khi họ gặp những khó khăn trở ngại trong hoang mạc. Vì thế, Thiên Chúa đã phạt cho rắn độc cắn chết nhiều người. Nhưng sau đó, họ đã ăn năn sám hối và Thiên Chúa đã phán cùng Môi-sen: “Ngươi hãy làm một con rắn đồng và treo trên giá. Nếu ai đã bị cắn mà nhìn lên nó thì sẽ được sống.” Vâng lời Thiên Chúa, Môi-sen làm một con rắn đồng và treo lên một cái giá. Bất kỳ ai đã bị cắn mà nhìn lên rắn đồng thì được sống.
Ông bà anh chị em thân mến. Thật vậy, rắn đồng là biểu tượng của Chúa Giê-su Kitô bị đóng đinh và chết trên Thánh Giá, để tất cả những ai nhìn lên và tin vào Người thì sẽ được ơn cứu độ và có sự sống vĩnh cửu. Vì vậy, Thánh Giá Chúa Ki-tô trở nên hồng ân và dấu chứng tình yêu cao cả nhất của Thiên Chúa dành cho con người nhân loại. Chính Chúa Giê-su đã khẳng định với chúng ta, “Không có tình yêu nào cao quí hơn mối tình của người hy sinh mạng sống vì người mình yêu.” Chúng ta nhận thấy, thập giá, từ một khí cụ ghê gớm, tàn ác nhất của con người đã có thể nghĩ ra để hành hạ người khác, Chúa Giêsu đã biến nó thành Thánh Giá, dấu chứng tình yêu vâng phục của Người và cũng là hồng ân tình yêu dâng hiến cho nhân loại. Và cũng trong tình yêu này, Chúa Giê-su mời gọi tất cả chúng ta hãy vác Thánh giá của mình đi theo Chúa.
Ông bà anh chị em thân mến. Chúng ta phải ý thức và phải biết phân biệt giữa đau khổ và Thánh Giá. Là con người, tất nhiên mọi người chúng ta đều có những đau khổ phần xác và tinh thần như bệnh tật, tai nạn hay những hoàn cảnh khó khăn trong cuộc sống. Là những người có đức tin, chúng ta nhận thấy trong đời sống Ki-tô hữu của chúng ta cũng có nhiều Thánh Giá và Thánh Giá hiện diện qua nhiều cách. Thánh giá trong đời sống Ki-tô hữu là những sự hy sinh và quên mình để phục vụ Chúa và tha nhân. Thánh giá là những sự thiệt thòi và đau khổ vì đạo, vì Chúa và vì Tin mừng. Thánh Giá là tuân theo, sống hay thực hành lời Chúa dạy. Thánh Giá là có lòng bác ái và quảng đại vì yêu mến và lòng mong ước làm sáng danh Chúa. Chỉ những Thánh Giá này mới đem lại cho chúng ta và cho tha nhân ơn sủng tình yêu của Chúa và đời sống vĩnh cửu mà thôi. Khi đối diện hay gặp những Thánh Giá này, chúng ta hãy nhớ chính Chúa Giê-su cũng đã vác và chết trên Thánh giá, để đem tình yêu, ơn cứu rỗi và đời sống vĩnh cửu đến cho chúng ta và nhân loại. Tất cả chúng ta có tự do vác hay không vác Thánh Giá Chúa.
Ông bà anh chị em thân mến. Suy tôn Thánh Giá Chúa Giê-su là chúng ta suy tôn tình yêu cao vời của Chúa, cũng như cảm tạ ơn cứu độ và hạnh phúc vinh quang vĩnh cửu của Chúa cho chúng ta. Chúng ta cảm tạ Chúa vì đã ban cho chúng ta đức tin, để chúng ta can đảm và vui mừng vác Thánh Giá Chúa trong đời sống, để được kết hợp trong mầu nhiệm tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa. Trong Mầu Nhiệm ấy, cuộc sống của chúng ta không còn bị đè bẹp dưới sức nặng của đau khổ, nhưng luôn mang lấy một ý nghĩa cao cả hơn: đó là tình yêu cao vời củaThiên Chúa. Chúng ta cầu xin và luôn tin tưởng Chúa sẽ ban cho chúng ta sức mạnh và can đảm để chúng ta vác Thánh Giá Chúa trong sự bình an với một niềm tin vững chắc Thánh giá sẽ đem tới vinh quang và hạnh phúc vĩnh cửu.
64. Suy tôn Thánh Giá
(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)
NGUYÊN NHÂN VÀ Ý NGHĨA CỦA ĐAU KHỔ
Đời là thung lũng nước mắt. Đời là bể khổ. Khổ thể xác. Khổ tinh thần. Đứng trước đau khổ, người ta thường than van, tuyệt vọng và thậm chí tìm đến cái chết. Họ tự tử bằng nhiều hình thức khác nhau: thắt cổ, uống thuốc độc, nhảy lầu, nhảy cầu…Vì sao? Vì người ta không giải thích nổi về vấn đề đau khổ.
Lẽ nào con người phải bế tắc trước đau khổ hay sao? Không, chính Chúa Giêsu đã cho chúng ta câu trả lời thoả đáng. Ngài cho biết qua đau khổ mới tới vinh quang: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại”(Mc 8,31). “Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời”(Ga 3, 13-14).
Như vậy, đau khổ như là điều kiện để Chúa Giêsu bước vào vinh quang phục sinh. Đau khổ như là thành phần không thể thiếu đối với Chúa và đối với những người theo Chúa. “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo”.
Để hiểu rõ hơn về vấn đề đau khổ, nhất là để biến đau khổ thành vinh quang, trong ngày lễ Suy tôn Thánh hôm nay, chúng ta cùng nhau tìm hiểu: Nguyên nhân và ý nghĩa của đau khổ.
Nguyên nhân đau khổ:
Có nhiều nguyên nhân gây nên đau khổ, xin được đơn cử một số nguyên nhân sau đây:
Đau khổ do tội: Sau khi phạm tội, Thiên Chúa đã cho Adong biết: “Ngươi sẽ phải cực nhọc mọi ngày trong đời ngươi, mới kiếm được miếng ăn từ đất mà ra. Đất đai sẽ trổ sinh gai góc cho ngươi, ngươi sẽ ăn cỏ ngoài đồng. Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi trở về với đất, vì từ đất, ngươi đã được lấy ra. Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất” (St 3,17-19). Như vậy, phải làm việc cực nhọc và phải chết là do hậu quả của tội. Khi chọn tội con người chọn luôn sự đau khổ và cái chết.
Đau khổ do chính con người gây nên cho mình: Con người có quyền tự do chọn lựa. Có những chọn lựa đi liền với hạnh phúc, nhưng có những chọn lựa dẫn đến đau khổ. Một sự thiếu tiết độ, một tập quán xấu có thể làm ảnh hưởng đến sức khoẻ, hỏng một bộ phận, dẫn đến cái chết. Lái xe không cẩn thận, gây ra tai nạn, cắt đi một chi thể. Nghiện thuốc lá gây nên các bệnh như: rụng tóc, đục thủy tinh thể, da nhăn, giảm thính lực, sâu răng, ung thư da, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, loãng xương, bệnh tim mạch, vàng móng tay, ung thư phổi v.v. Uống rượu bia nhiều ảnh hưởng đến não bộ, cơ tim, tác hại với dạ dày, gan, ảnh hưởng đến tim mạch, huyết áp…Đó là những đau khổ do con người tự chuốc lấy cho mình.
Đau khổ do chính con người gây nên cho nhau: Con người sống là sống với. Không ai là một hòn đảo. Khi sống liên đới với nhau sẽ đem lại nhiều lợi ích, nhưng cũng có thể gây đau khổ cho nhau. Vì lòng tham và ích kỷ, không giữ đức công bằng, tình huynh đệ nên con người thường làm hại nhau: Ghen ghét, giết chóc, đàn áp, bóc lột, hận thù, bỏ vạ, cáo gian, đánh đập…chúng ta thấy rất rõ điều này trong đời sống gia đình, cộng đoàn và xã hội.
Đau khổ có thể do chính vũ trụ bất toàn: Động đất, bão lụt, hạn hán…gây ra biết bao đau khổ cho con người. Nên biết rằng: Thiên Chúa dựng nên con người với các vật khác, tất cả đều có quy luật của nó. Nếu không theo quy luật đó sẽ gây nên tai nạn, gây đau khổ cho con người. Ví dụ: Chiếc ôtô mất thăng bằng thì trúc, máy bay thì rơi, một vật không bám vứu được vào đâu thì rơi theo định luật vạn vật hấp dẫn và có thể làm bị thương người nào đi qua. Có những khuyết điểm hay những bất toàn của vũ trụ có thể gây đau khổ cho con người, nhưng chính chúng lại làm sáng tỏ sự hoàn hảo của Thiên Chúa. Và nếu so sánh thì những bất toàn và khiếm khuyết là không đáng kể đối với sự vận hành điều hoà nhịp nhàng của bộ máy vĩ đại, phức tạp và tinh vi của vũ trụ.
Ý nghĩa của đau khổ:
Đau khổ do nhiều nguyên nhân, nhưng nếu biết lợi dụng thì nó sẽ đem cho con người nhiều ý nghĩa và lợi ích khác nhau:
Đau khổ chính là điều kiện cho sự sống: Đau khổ là tiếng chuông báo hiệu nhu cầu: dạ dày không đói thì làm sao biết để ăn, không ăn sẽ chết. Đau khổ báo động cho con người biết có nguy hiểm. Ta biết các cơ quan trong cơ thể đau để chữa trị. Biết đau ruột thừa để cắt bỏ. Biết bị ung nhọt để mổ. Biết một chi thể nhiệm trùng để chữa trị, thậm chí phải loại trừ khỏi cơ thể. Gần lửa chúng ta thấy nóng để tránh. Chân dậm phải vật nhọn thấy đau để biết cứu chữa…
Đau khổ là thầy dạy bác ái: Những người không gặp đau khổ, không biết nói về đau khổ, không hiểu và thông cảm cho người đau khổ. Còn những ai đã trải qua đau khổ thường hiểu người khác hơn, nên sẵn sàng giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn. Chúng ta nghe lời chia sẻ trước khi ra đi của một bác sĩ bị ung thư sau đây: “Cảm giác khủng khiếp! Và bây giờ, với chút năng lực còn lại, tôi tìm đến các bệnh nhân ung thư khác vì tôi thật sự hiểu được họ đau đớn, chịu đựng như thế nào. Hơi muộn màng và ít ỏi! Các em có cả tương lai sáng lạn phía trước với tất cả tài năng và nhiệt huyết. Tôi thử thách các em, ngoài bệnh nhân của mình, hiểu thêm rằng có nhiều người ngoài kia đang thật sự đau đớn, thật sự khó khăn, đừng nghĩ rằng chỉ có người nghèo mới phải khổ. Điều này không đúng. Những người nghèo khó vốn sẵn không có gì, họ dễ dàng chấp nhận. Do đó, họ hạnh phúc hơn các em và tôi. Nhưng có nhiều người đang đau khổ về tâm thần, thể xác, tình cảm, vật chất…”
Đau khổ là thước đo niềm tin của con người: Thiên Chúa thường cho phép có thử thách để làm ích cho ta. Theo bản tính tự nhiên, không ai muốn đau khổ, thậm chí còn tìm cách để tránh đau khổ. Chúng ta có thể phàn nàn, kêu trách, khóc lóc khi gặp đau khổ giống như trẻ con khóc khi bác sỹ tiêm phòng. Nhưng, sau này khi lớn lên, nó hiểu bác sỹ làm thế là có lợi cho nó. Cũng vậy, thỉnh thoảng Thiên Chúa để ta gặp đau khổ, thử thách để tôi luyện ta, giúp ta có đức tin mạnh mẽ hơn. Thiên Chúa đã từng dùng đau khổ để thử thách con người. Kinh thánh cho chúng ta thấy: Thiên Chúa thử thách ông Tôbia. Thiên Chúa thử thách ông Gióp. Lịch sử Giáo hội cho chúng ta thấy: biết bao nhiêu vị thánh, nhất là các thánh Tử đạo đã chứng tỏ niềm tin của mình khi trải qua đau khổ.
Đau khổ là thầy dạy khiêm nhường: Khi con người đạt được những gì mình có. Trở nên kiêu ngạo. Tưởng rằng mình làm được mọi sự, mình vạn năng. Sự đau khổ nhắc cho con người nhận ra rằng mình chỉ là tạo vật, có giới hạn, phải chết. Nhờ đó, con người sống khiêm nhường hơn.
Đau khổ là thầy dạy sự siêu thoát: Con người thường bám vào của cải vật chất, những thứ mau qua. Sự đau khổ, bệnh tật, cái chết nhắc nhở con người sẵn sàng dứt bỏ mọi sự để đặt niềm tin tưởng vào một mình Thiên Chúa.
Đau khổ để làm vinh danh Chúa:
Khi nghe tin ông Lazarô bị đau nặng, Chúa Giêsu đã nói: “Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa: qua cơn bệnh này, Con Thiên Chúa được tôn vinh.”(Ga 11,4) Và khi người Do thái hỏi Chúa Giêsu về trường hợp anh mù từ khi mới sinh. Anh ta bị mù là do tội anh ta hay do tội của cha mẹ anh ta? Chúa Giêsu trả lời: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh.” (Ga 9, 3)
Như vậy, con người là học trò, đau khổ là thầy dạy. Đau khổ thực sự có ích cho con người biết lợi dụng nó. Đau khổ không những làm phương thế tinh luyện và thánh hoá con người mà còn để làm vinh danh Thiên Chúa.
Có một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: Có một bác tiều phu đi kiếm được một xe bò củi chất đầy, nhưng khi đi tới một khúc đường sình lội thì đôi bò khựng lại, vì xe của bác bị sụp lún xuống bùn, bác ta ngồi than vãn, rồi sực nhớ ra một vị thần và kêu xin cứu giúp. Vị thần hiện ra nói: “Thay vì ngồi than vãn thì hãy cố đẩy xem sao”, bác đứng lên cố sức đẩy, đang đẩy thì có hai thanh niên tình cờ đi qua, thương tình giúp đỡ bác, thế là xe bác vượt qua được.
Câu chuyện nhắc nhở mỗi người chúng ta rằng: Chúng ta không thể diệt trừ đau khổ, nhưng có thể góp phần làm giảm bớt đau khổ bằng sức mạnh của yêu thương, công bình, bác ái, cảm thông…Ta không thể diệt trừ được đau khổ, nhưng có thể thắng được nó bằng cách chấp nhận mọi gian khổ thử thách để góp phần vào công cuộc cứu chuộc của Chúa Kitô. “Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời”(Ga 3,14-15). Chúa còn mời gọi “Ai muốn theo Ta, hãy vác thập giá mình mà theo” (Mc 8,34). Xin Chúa ban thêm sức mạnh để chúng ta không tránh né đau khổ, nhưng đối diện với nó để biến nó thành phương thế cứu rỗi chúng ta và toàn thế giới. Amen.
65. Suy tôn Thánh Giá
(Suy niệm của AM. Trần Bình An)
THÁNH GIÁ, DẤU ẤN TÌNH YÊU KHẢI HOÀN
Vào buổi sáng thứ Năm, công an Ôn Châu cưa cây thánh giá ở nhà thờ Cứu Chuộc, các nhân chứng cho biết, họ đã dẹp đoàn biểu tình giáo dân xung quanh nhà thờ. Ngày 21. 7. 2014, hàng trăm công an đã thất bại khi gỡ bỏ thánh giá trong cuộc đối đầu với giáo dân khiến hơn 50 người bị thương. Hôm thứ Ba, công an ở thành phố Hàng Châu đã hạ cây thánh giá ở nhà thờ Hangzhou, theo một nhân viên quản lý nhà thờ cho biết.
Sau khi vụ đụng độ ở nhà thờ Cứu Chuộc vào tháng Bảy, giáo dân đã thay phiên nhau canh gác nhà thờ. Nhưng sau khi lãnh đạo nhà thờ, Zhang Zhengchuang, đạt được thỏa thuận với chính quyền địa phương thì các cơ quan chức năng lấy các chìa khóa nhà thờ và phong tỏa khu vực.
Hôm thứ Năm, không giống như trong cuộc đối đầu đẫm máu hồi tháng Bảy, nhân viên an ninh gần 200 người, bao gồm cả công an mặc thường phục, không mang vũ khí khi họ bao vây nhà thờ.
“Chúng tôi không thể đi vào nhà thờ, vì họ giữ chìa khóa,” một giáo dân chứng kiến sự việc họ gỡ bỏ thánh giá cho biết. “Vì vậy, chúng tôi chỉ tập trung bên ngoài, hát thánh ca và cầu nguyện.”
Một người giáo dân không giám nêu tên vì sợ chính quyền trả thù nói rằng hơn 200 Kitô hữu đã tụ tập bên ngoài nhà thờ Cứu Chuộc vào sáng thứ Năm.
Từ đầu năm nay, chính quyền tỉnh Chiết Giang đã thực hiện chiến dịch chống lại các công trình kiến trúc của nhà thờ. Tuy nhiên, theo một tài liệu nội bộ của chính phủ, chiến dịch được nhắm đặc biệt đến các tòa nhà và các biểu tượng Kitô giáo, trong đó có thánh giá. Nhiều nhà thờ đã nhận được lệnh sẽ bị phá hủy hoặc thông báo để gỡ bỏ thánh giá, không chỉ các nhà thờ thuộc “giáo hội thầm lặng” từ chối sự kiểm soát của chính quyền.
Trong tháng Tư, nhà thờ Sanjiang ở Ôn Châu đã bị phá bỏ, bất chấp sự phản đối từ các Kitô hữu địa phương. Trong tháng Sáu, Nhà thờ Cứu Chuộc cùng với hai chục nhà thờ Tin Lành khác ở Ôn Châu cũng đã nhận được thông báo từ chính quyền địa phương là phải gỡ bỏ thánh giá.
“Lòng tôi thực sự rất buồn khi chứng kiến cảnh này”, một Kitô hữu cũng tên là Zhang, người đi trong đoàn và canh thức qua đêm tại nhà thờ nói. Tại nơi đó, một Kitô hữu khác cũng cho biết: “Nhiều người đã khóc và cầu nguyện khi họ nhìn thấy thánh giá bị đưa xuống.” (Kiki Zhao, Sinosphere, Ucan)
Cây thập tự kết hợp vuông góc hai trục tung và hoành, dọc và ngang, chiều cao và chiều rộng. Đồng thời cây thập tự hội tụ hai chiều kích khác nhau của cuộc đời. Qua cuộc khổ nạn, chịu chết và phục sinh, Đức Giêsu thánh hóa cây thập tự trở nên Thánh Giá, biểu tượng cao quý vô ngần của Kitô giáo. Cây Thánh Giá hàm chứa biết bao ý nghĩa sâu sắc, đã trường tồn hơn hai ngàn năm và sẽ còn tiếp tục được tôn kính mãi mãi, dù đã và đang trải qua bao thách đố, bị phá hoại, trừ khử, chống báng và xúc phạm.
Giao hòa
Trục tung, chiều dọc của Thánh giá từ dưới đất hướng thẳng lên trời cao, giúp Kitô hữu luôn ý thức công cuộc cứu độ của Đức Giêsu đã từ trời cao xuống thế làm người, chịu nạn và đã Phục Sinh về trời : “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời mà xuống.” (Ga 3, 13)
Với Giao Ước Mới bằng mầu nhiệm Thánh Giá, Người tái thiết lại mối tương quan, giao hòa, liên kết giữa Thiên Chúa và con người, mà từ ngàn xưa Adam và Eva đã phá vỡ, chia cách, xa lìa. Thánh Phaolô hân hoan ngợi khen: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Nhờ thập giá Người, thế gian đã bị đóng đinh vào thập giá đối với tôi, và tôi đối với thế gian.” (Gl 6, 14)
Bằng chính máu của mình với thập giá, Đức Giêsu đã tái lập Giao Ước mới vĩnh cửu cho con người được đoàn tụ về với cội nguồn, là Thiên Chúa: “Anh em đã tới cùng vị Trung Gian giao ước mới là Đức Giêsu và được máu của Người rảy xuống, máu đó kêu thấu trời còn mạnh mẽ hơn cả máu Abel.” (Dt 12, 24)
Chí ái
Với trục hoành, chiều ngang, Đức Giêsu giang hai cánh tay ôm lấy toàn thể nhân loại, không phân biệt xấu tốt, lành dữ, thân hay thù. Người chí ái, chí nhân, ôm lấy tất cả niềm vui lẫn đau khổ của kiếp nhân sinh, lẫn hy vọng và thất vọng. “Khi nào tôi được nâng lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên cùng tôi” (Ga 12, 32).
Còn tình yêu nào quý giá hơn chết cho người mình yêu, như Đức Giêsu đã toàn tâm hiến thân: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15, 13)
Để có thể đón nhận tình yêu tuyệt vời ấy, hồng ân cứu độ, cuộc sống viên mãn, mọi người cần phải ngước mắt nhìn lên, phó thác, đặt hẳn niềm trông cậy vào Đức Giêsu.“Như ông Môi-sen đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.” (Ga 3, 14-15)
Tin vào Người, đồng nghĩa thoát khỏi sự kềm tỏa của xác thịt, thế gian và ma quỷ, người Kitô hữu tích cực thể hiện niềm tin sống động qua việc bỏ mình, vác thập giá cùng đồng hành, chịu đóng đinh thân xác với Người.“Chúng ta biết rằng, con người cũ nơi chúng ta đã bị đóng đinh vào thập giá Đức Kitô, như vậy, con người do tội lỗi thống trị đã bị hủy diệt, để chúng ta không còn làm nô lệ cho tội lỗi nữa.” (Rm 6, 6)
Chiến thắng
In hoc signo vinces, (IHS) với dấu chỉ này con sẽ chiến thắng. Khẩu hiệu của Hoàng Đế Constantine Cả đã nhận, khi ông thị kiến trên trời, vẫn là sự thật vĩnh cửu, mà không có ai bác bỏ được. Thánh Giá Đức Giêsu là chiến thắng vĩ đại vô song, chiến thắng xác thịt, chiến thắng cám dỗ ma quỷ và sự chết, vì Người khiêm tốn, trung kiên vâng theo Thánh Ý Thiên Chúa Cha, chịu chết thay cho nhân loại. “Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu” (Pl 2, 8- 9).
Người chiến thắng vẻ vang, khi gánh tội trần gian, chịu chết khổ nhục cho con người, để con người được trở nên công chính, hưởng ơn cứu độ, như Thánh Phêrô xác quyết:“Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính.” (1Pr 2, 24)
Hội Thánh được sinh ra trên Thánh Giá. Hội Thánh lớn lên bằng tiếp tục sự thương khó Chúa Giêsu đến tận thế. Con lầm lạc, nếu tin vào tiền bạc, ngoại giao, quyền thế, vận động.”(Đường Hy Vọng, số 258)
Lạy Chúa Giêsu, Người đã khải hoàn phục sinh từ cõi chết, kính xin Người thương xót, ban hồng ân cho chúng con can đảm bước theo đường Thánh Giá hàng ngày, hoàn toàn bỏ mình, đóng đinh tính xác thịt và chịu chết, hầu được phục sinh với Người mãi mãi.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã can trường đồng hành với Con Mẹ trên Via Dolorosa, Đường Thánh Giá. Khấn xin Mẹ cùng đồng hành với chúng con trên đường hy vọng. Amen.
66. Suy tôn tình yêu và sự tha thứ
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Thưa quý OBACE, hôm nay chúng ta cùng với Giáo Hội suy tôn Thánh giá Chúa Giêsu. Phải chăng Giáo hội lại dành cả một ngày lễ để tôn vinh một cây thập giá là dụng cụ hành hình ghê sợ? Thưa chắc chắn Giáo Hội không suy tôn một cây gỗ giá vô tri vô giác, cũng không suy tôn bất cứ một cây thập giá nào, mà là suy tôn Thâp Giá của Đức Giêsu Kitô. Vì trên đồi Calve năm ấy cũng là cây thập giá hành hình, nhưng những cây thập giá của hai tên trộm chẳng có giá trị gì, mà chỉ có cây Thập giá của Đức Giêsu mới đem lại ơn cứu độ cho nhân loại mà thôi. Cũng vì thế cây thập giá của Chúa Giêsu mới trở thành cây Thánh Giá, vì chính Đức Giêsu Con Thiên Chúa đã đón nhận nó và đã biến nó thành bàn thờ, thành nơi hiến tế cuộc đời mình làm của lễ cứu độ nhân loại.
Cây thập giá lúc ban đầu nó là dụng cụ hành hình của người Phênixi, sau này được người Roma sử dụng làm dụng cụ hành hình những người nô lệ bỏ trốn và những kẻ nổi loạn. Bởi vì cái chết thập giá là cái chết vô cùng kinh khủng, tử tội phải chết dần chết mòn trong đau đớn kiệt sức, cách hành hình này có sức răn đe và trấn áp những kẻ nổi loạn. Nó ghê sợ đến nỗi người Rôma có luật cấm không được sử dụng cách hành hình này cho công dân Rôma, mà chỉ áp dụng cho người không phải là công dân của họ. Còn đối với người Do Thái, hình phạt thập giá là điều hết sức kinh sợ, đến nỗi người ta cho rằng: Kẻ bị hành hình thập giá là kẻ bị Thiên Chúa nguyền rủa, là kẻ vô phúc.
Chắc chắn Thiên Chúa Cha đã không chọn cho Con mình cái chết thập giá, và Ngài cũng không thể vui khi nhìn thấy con mình bị treo trên đó, mà thập giá chính là cái ác của con người đặt lên vai Con Thiên Chúa. Nếu như mấy ngày vừa qua chúng ta xem những clip phiến quân Hồi Giáo tại Iraq cắt cổ các nhà báo người Mỹ, hoặc chúng xả súng giết hàng loạt người, chúng ta thấy hành động đó quá dã man tàn ác, thì với cái chết hành hình thập giá, nạn nhân phải chết trong đau đớn gào thét, chúng ta hình dung nó dã man ác độc biết chừng nào.
Thế nhưng quyền năng của Thiên Chúa quá tuyệt vời, từ cái ác của con người, Thiên Chúa lại chọn để biến nó thành cơ hội biểu hiện tình yêu đến cùng dành cho con người; từ một dụng cụ hành hình ghê sợ, Thiên Chúa đã biến nó thành cái giá để đem lại ơn cứu độ cho nhân loại. Vì thế khi suy tôn Thánh Giá Chúa Giêsu là chúng ta suy tôn tình yêu nhiệm màu của Thiên Chúa. Khi con người chối từ, quay lưng lại với Thiên Chúa thì cũng đồng thời con người để mình bị lệ thuộc vào ma quỷ và chịu sự chi phối của nó. Thế mà Thiên Chúa đã không bỏ rơi con người, Ngài đã chấp nhận một cuộc đánh đổi để cho Con của Ngài là Chúa Giêsu đến ở với con người. Ngài đem đến cho con người tình yêu thương thay cho hận thù, sự tha thứ thay cho oán hận, sự sống thay cho chết chóc, sự vâng phục thay cho bất tuân.
Khi đến với nhân loại, Chúa Giêsu đã muốn thể hiện tình yêu đến tột cùng của một Con đối với Cha, của một vị Thiên Chúa dành cho con người, là những kẻ Ngài yêu thương. Chúa Giêsu cũng thấy trước mưu mô của ma quỷ, nó muốn tìm mọi cách để làm nhụt chí của Ngài, nó dùng sự độc ác để làm cho Ngài bỏ cuộc. Chúa Giêsu đã thấy trước điều đó, Ngài không hề tránh né đau khổ, Ngài cũng không tự tìm đến với đau khổ và cái chết, nhưng Ngài đã biến cái chết đau khổ thập giá của Ngài thành cơ hội bày tỏ tình yêu thương và đem ơn cứu độ đến cho cả nhân loại. Câu chuyện giữa Chúa Giêsu và ông Nicôdemô cho thấy: Thiên Chúa đã thể hiện quyền năng thật tuyệt vời khi Ngài biến cây thập giá của Chúa Giêsu thành chìa khóa mở cửa trời cho nhân loại, thành bậc thang đưa con người đến với Thiên Chúa. Nếu như ngày xưa với sự bất tuân của Adam Eva đã làm cho cửa trời bị đóng lại, thì nay với sự vâng lời và lòng yêu mến, Chúa Giêsu đã dùng cây thánh giá để mở cửa trời, để bắc cầu cho tất cả những ai đi theo Ngài bước vào Nước Trời: Không ai đã lên trời ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống.
Trong câu chuyện với Nicôdemô, Chúa Giêsu cũng thấy trước về cái chết thập giá của Ngài: Như Mosê đã treo con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì sẽ được sống muôn đời. Với lời này, Chúa Giêsu đã nhắc đến một sự kiện trong quá khứ, lúc dân Israel băng qua sa mạc, họ mất kiên nhẫn khi gặp thử thách, mất niềm tin vào quyền năng của Thiên Chúa, tiếc nuối quá khứ nô lệ, họ quay lại oán trách Thiên Chúa và ông Mose. Vì thế, Chúa đã để cho rắn sa mạc bò ra cắn chết nhiều người. Lúc đó dân chúng sợ hãy chạy đến với Mose, ông đã kêu xin Chúa, Chúa đã tha thứ và cho họ một dấu hiệu: Mose làm một con rắn bằng đồng và treo lên giá, ai bị rắn cắn mà tin theo Lời Chúa, nhìn lên con rắn đồng thì sẽ được chữa lành. Chắc chắn con rắn đồng không có sức chữa lành, nhưng chính Thiên Chúa chữa lành cho dân qua việc họ phải ngẩng đầu nhìn lên con rắn, chứ không phải cúi mặt nhìn xuống. Cũng vậy, tự nó cây thập giá không có sức cứu độ, nhưng chính nhờ Đấng chấp nhận được treo trên thập giá, đã làm cho cây thập giá trở thành cây thánh giá. Hơn nữa, cây thánh Giá cũng không thể cứu độ con người, mà chỉ những ai tin và Chúa Giêsu, Đấng bị treo trên thánh giá thì mới được sự sống đời đời.
Suy tôn Thánh Giá Chúa Giêsu, chúng ta suy tôn tình yêu tha thứ của Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng quyền năng và khoan dung, Ngài có thể tha thứ cho sự ngỗ nghịch của con người chỉ bằng một lời tuyên bố tha bổng. Nhưng Thiên Chúa lại không muốn làm như thế, Ngài không muốn làm một vị quan tòa, nhưng Ngài muốn thể hiện tình thương của một người cha dành cho chúng ta là con cái Ngài. Ngài muốn tha thứ cho con người bằng trái tim của một người cha nhân hậu. Ngài đã chấp nhận đánh đổi Con ruột của mình, qua cái chết thập giá, để đón nhận chúng ta làm con cái của Ngài, từ kẻ phản bội trở thành con cái, từ kẻ ngỗ nghịch thành kẻ được yêu thương. Chúa Giêsu đã nhắc đến tình yêu của Thiên Chúa khi nhấn mạnh: Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con một, để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời.
Chúa Giêsu đã hoàn toàn vâng lời Chúa Cha, đem ơn tha thứ cho nhân loại qua con đường khổ giá của Ngài. Chính qua thánh giá, Chúa Giêsu đã cụ thể hóa tình yêu đến cùng của Thiên Chúa, yêu cho đến nỗi bằng lòng chịu chết để cho người mình yêu được sống. Để thể hiện đến cùng của sự tha thứ, Ngài đã đón nhận cây thập giá và trên thập giá Ngài đã giang rộng đôi tay để đón nhận tất cả mọi người, mọi loài mọi vật vào trong tình yêu của Ngài. Từ trên cây thánh giá Ngài đón nhận những kẻ thù ghét và muốn loại trừ Ngài, nay được trở nên anh em của Ngài. Cũng trên cây thập giá, chúa Giêsu đã cầu xin Chúa Cha tha thứ cho tất cả mọi kẻ tội lỗi, những kẻ làm điều gian ác, Ngài còn biện hộ cho chúng: Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng lầm không biết. Chính vì thế, từ đây cây thập giá không còn phải là nỗi sợ hãi, cũng không phải là thứ bị nguyên rủa nữa, mà nó đã trở thành biểu tượng tình yêu thương tha thứ của Thiên Chúa, là cờ hiệu chiến thắng của Thiên Chúa trên ác quỷ, sự sống trên sự chết, của yêu thương trên hận thù.
Mừng lễ Suy Tôn Thánh Giá Chúa Giêsu, chúng ta cùng cảm tạ, cảm nhận tình yêu và sư tha thứ của Thiên Chúa dành cho mỗi người; Đồng thời mời gọi chúng ta đừng để mình bị cắm mặt xuống đất nữa, mà hãy ngước nhìn lên Chúa Giêsu, Đấng chịu đóng đinh và hết lòng tin tưởng vào Ngài. Tin vào Ngài, là tin Ngài là Con Thiên Chúa, là chính Thiên Chúa quyền năng, tin Ngài là Đấng cứu độ, tin vào sư tha thứ của Thiên Chúa. Tin vào Ngài, đòi chúng ta bước theo lời mời gọi của Ngài: Ai muốn theo tôi, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình hăng ngày mà theo tôi.
Suy Tôn Thánh Giá Chúa, mời gọi chúng ta sống và thực hành yêu thương như Chúa: Hãy yêu như Thày đã yêu, hãy làm như Thày đã làm. Hãy dành cho nhau tình yêu thương đến nỗi dám chấp nhận hy sinh, chấp nhận quên mình vì người mình yêu. Yêu như Chúa yêu là chấp nhận cả sự thiệt thòi, chấp nhận đau khổ về phần mình để cho anh em mình được vui và hạnh phúc. Yêu như Chúa yêu là biết nghĩ đến hạnh phúc và quyền lợi của anh em trước, đừng chỉ biết nghĩ đến mình, đừng chỉ kiếm lợi cho mình. Yêu như Chúa là biết mở rộng đôi tay để đón nhận mọi người cùng với sự khác biệt, bất toàn của họ, là biết tha thứ tất cả, tha đến bảy mươi lần bảy cho những người cố tình xúc phạm làm tổn thương mình.
Chiêm ngắm Thánh Giá Chúa chúng ta được mời gọi cùng bước lên thập giá với Chúa Giêsu, biến thập giá đời mình thành cây thánh giá đem lại ơn cứu độ cho bản thân và gia đình. Hãy làm cho thánh giá của mình được luôn gắn liền với Thánh Giá của Chúa Giêsu, đừng bao giờ tách rời. Vì khi tách ra khỏi thánh giá của Chúa, chúng ta sẽ phải chịu đựng đau khổ một mình, nhưng khi gắn với Thánh giá Chúa Giêsu, Ngài sẽ chia sẽ nâng đỡ cho thánh giá cuộc đời chúng ta. Đồng thời đừng bao giờ chất thêm thập giá lên vai người khác, nhưng hãy chia sẽ và làm nhẹ bớt thánh giá của anh em, bằng ánh mắt khích lệ, bằng nụ cười cảm thông chia sẻ.
Xin cho mỗi chúng ta luôn tin tương và hãnh diện về Thánh Giá Chúa Giêsu, và học nơi Chúa Giêsu để luôn biết yêu thương và tha thứ. Amen.
67. Quyền lực của Thánh Giá
(Suy niệm của Fr. Joseph)
Thập giá là một sỉ nhục đối với người Do thái. Người Do thái thích tìm kiếm các phép lạ. Muốn họ tin thì phải cần làm phép lạ như Tin mừng đã tường thuật nhiều lần. Người ta tin Đấng Thiên Sai sẽ đến và Người sẽ dùng quyền năng dẹp tan mọi quân thù của họ và sẽ cai trị họ trong công lý đến muôn đời. Một Thiên Chúa đau khổ trên Thập giá là yếu đuối, là không uy quyền. Đó là lý do tại sao đa số những người do thái không thể châp nhận Đức Kitô cho đến ngày nay.
Thập giá là một điên rồ cho những người Hy lạp. Triết gia Platon và đa số người Hy lạp tìm kiếm sự khôn ngoan: muốn họ tin cần chỉ cho họ kiến thức làm sao tách biệt linh hồn ra khỏi thân xác, vì họ tin thân xác là ngục tù của linh hồn. Họ cho là một điên rồ vì tại sao đang khi họ tìm kiếm cách thoát khỏi thân xác thì có một Thiên Chúa lại muốn nhập thể để mang một thân xác hèn yếu của con người. Hơn nữa Người lại còn muốn chịu đau khổ bằng cuộc thương khó và cái chết tủi nhục trên Thập giá. Đó là lý do tại sao trong những thế kỷ đầu khi Kitô giáo được truyền đến các quốc gia Hy lạp, Giáo hội đã phải đương đầu với bao nhiêu lạc thuyết do những quan niệm sai lầm này đem lại liên quan đến việc Ngôi Lời Thiên Chúa trở nên người phàm.
Tóm lại, người Hy lạp không thể chấp nhận một Thiên Chúa lại muốn mang thân xác hèn hạ của con người.
Nhưng đối với các tín hữu Kitô, Thập giá là sức mạnh, tình yêu và khôn ngoan của Thiên Chúa. Các bài đọc hôm nay đã giải thích cho mọi người chúng ta sự cần thiết của đau khổ và quyền lực của cây Thập giá. Quyền lực của cây Thập giá, đó chính là sự cứu độ con người mà Đức Giêsu đã khơi lên từ đó. Đó cũng chính là Tình yêu tự huỷ của chính Chúa ban cho con người, mà con người cần bắt chước.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta phải biết tận dụng hoàn cảnh để tự kỷ luật và thanh tẩy những tính toán ươn hèn của xác thịt thì mới có hy vọng vượt qua mọi gian khổ khi phải đương đầu với chúng. Phàn nàn, kêu trách và tìm con đường dễ dãi, thì con người đi đến chỗ diệt vong.
Chúng Giêsu dạy chúng ta: vinh quang có được là nhờ sự huỷ mình ra không bằng sự khiêm nhường và vâng lời Thiên Chúa, Đấng luôn dạy bảo con người và chỉ cho con người con đường cứu độ, con đường giải thoát. Đó chính là con đường Thập giá, con đường “tự huỷ mình ra không” của Con Thiên Chúa, mà mỗi người chúng ta cần phải bắt chước.
Vậy, xin cho chúng ta luôn biết hướng nhìn lên cây thập giá trong mọi tình huống của đời sống của mình, để nhận ra tình yêu và lòng thương xót của Chúa dành cho chúng ta, nhờ đó, chúng ta cũng sẽ làm cho anh chị em của mình. Amen.
68. Suy tôn Thánh Giá
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Dũng, DCCT)
Truyện kể rằng, ngày xưa, thời thập tự chinh, anh em Kitô giáo và Hồi giáo thù nghịch, tàn sát lẫn nhau và thánh Phaxicô Assisi muốn có sự hòa giải để kết thúc các cuộc chiến tranh tương tàn giữa hai bên. Vì vậy, một ngày kia thánh nhân đến thăm vị lãnh đạo Hồi giáo để bày tỏ sự hòa giải. Tuy nhiên, vị lãnh đạo Hồi giáo muốn thử thách ngài bằng cách rải đầy các cây thập giá ở lối đi vào trong nhà để bắt ngài phải bước lên đó thì mới có chuyện đối thoại, hòa giải. Cứ tưởng thánh nhân quay gót ra về, như ai ngờ đâu ngài vẫn vui vẻ bước lên trên các cây thập giá ấy mà đi vào nhà gặp vị lãnh đạo Hồi giáo kia. Khi vào nhà, vị ấy nhắc lại cho thánh nhân biết rằng thánh nhân đã vừa giẫm đạp lên trên những cây thập giá. Thánh nhân thản nhiên trả lời: “Trên đồi Calvê xưa có tới ba cây thập giá, nhưng chỉ có một cây được gọi là THÁNH GIÁ; tôi vừa bước lên trên những khổ giá mà vào đây gặp ông, chứ tôi không giẫm đạp lên thánh giá!”
Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo hội, chúng ta mừng lễ suy tôn thánh giá Chúa. Mừng lễ này, Giáo hội không suy tôn sự đau khổ, nhưng suy tôn tình yêu và sự hiến mình của Chúa được biểu lộ nơi khổ đau thập giá. Khổ đau hay thập giá tự nó không có giá trị gì; không những thế, ta cần phải vượt lên trên nó để mà sống, để mà bước đi trên đường đời, chứ ta không được phép ưa thích khổ đau.
Nhưng thực tế, đau khổ là điều ta không thể tránh được trong trần gian, bởi lẽ trần gian này đã bị nhuốm màu đen tối của tội lỗi và sự gian ác của chúng ta. Nói cách khác, đau khổ ở trần gian luôn có là do bàn tay con người chúng ta đã dính dáng đến sự yếu hèn và tội ác. Nhưng đau khổ sẽ có giá trị cứu vớt ta nếu trong đau khổ có chất chứa tình yêu và sự hiến mình đích thực. Thật vậy, đau khổ của Chúa Giêsu trên thập giá xưa có giá trị cứu độ nhân loại bởi vì ở trong chính sự đau khổ, nhục hình mà do lòng độc ác, hận thù của con người gây nên cho Ngài, Ngài sẵn sàng đón nhận nó với một tinh thần yêu thương, tha thứ cho đến cùng. Chính lúc con người dùng nhục hình thập giá khổ đau để bôi nhọ, hạ giá Ngài, thì Ngài lấy lòng yêu thương, tha thứ để đáp lại họ. Chính lúc người ta hành hạ, nhục mạ Ngài bằng cách treo Ngài lên trên cây khổ giá, lại là lúc Ngài sẵn sàng yêu thương, tha thứ cho đến cùng bằng cách kêu xin lòng rộng lượng và tình thương xót của Thiên Chúa đổ xuống trên những kẻ đang làm khổ Ngài: “Lạy Cha, xin tha cho họ!”
Do bởi tình yêu và sự hiến mình cho đến cùng của Chúa được biểu lộ ra qua khổ đau Ngài phải chịu trên thập giá nơi đồi Calvê xưa, nên thập giá khổ đau đã trở thành THÁNH GIÁ, đã trở thành giá cứu độ chúng ta. Và vì vậy, trong bài Tin mừng hôm này, Chúa cho ta biết: “Như xưa Môsê treo con rắn nơi hoang địa thế nào, thì Con Người cũng phải bị treo lên như vậy, để những ai tin vào Người, thì không bị tiêu diệt muôn đời”.
Hôm nay, suy tôn thánh giá cứu độ của Chúa, bạn và tôi cũng được mời gọi sống yêu thương, tha thứ cho đến cùng trong chính đau khổ, thập giá mà người khác gây ra cho mình. Người khác ở đây có thể là chính chồng, vợ, hoặc con cái, hoặc những người bạn xung quanh mình. Biết đâu đấy, hôm nay có những người vợ đang phải đau khổ, đang phải vác thập giá vì lấy phải người chồng rượu chè be bét, cờ bạc phá phách tối ngày. Nhưng những người vợ đó không vì thế mà loại bỏ người chồng ra khỏi cuộc đời mình được. Trong chính hoàn cảnh như thế, người vợ được mời gọi yêu thương, tha thứ cho chồng mình đến cùng và hiệp dâng chính khổ đau mà mình đang phải chịu với hiến tế thập giá của Chúa mỗi ngày, thì rồi trong chính khổ đau, người vợ có được bình an của Chúa và rồi cũng sẽ có ngày Chúa dùng chính gương hy sinh, nhẫn nại của người vợ mà cảm hóa, thánh hóa người chồng tội lỗi. Cũng vậy, có những người cha người mẹ đang phải chịu vác thập giá khổ đau vì có những đứa con hư hỏng, tội lỗi. Nhưng nếu họ sẵn sàn yêu thương, tha thứ, đón nhận những đứa con đó cho đến cùng, thì rồi một ngày kia Chúa sẽ dùng chính gương hy sinh, nhẫn nại của họ để làm thay lòng đổi dạ những đứa con hư hỏng đó. Thập giá đời ta sẽ trổ sinh hoa trái cứu độ nếu ta biết giẫm đạp hay biết vượt lên trên đau khổ để yêu thương, tha thứ cho người khác đến cùng.
69. Vinh quang Thập Giá
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Ngày xưa, thập giá là nhục hình ghê rợn nhất dành cho các tử tội. Chúa Giêsu cũng đã phải chịu nhục hình này vì người ta liệt Ngài vào dạng tương tự “dân anh chị khét tiếng” hoặc “tội phạm nguy hiểm”. Nhưng với Đức Kitô, thế cờ bị Ngài đảo ngược, chính thập-giá-khổ-đau đó lại trở thành “đòn bẩy”, là đường tới vinh quang, là lối vào ánh sáng, là vũ khí chiến thắng. Thập giá được Ngài biến thành biểu tượng cứu độ và là phương cách giải thoát. Một Saolê đã từng bách hại “tới bến” đối với những ai yêu mến Thánh Giá, nhưng nhờ cú ngã ngựa, bị mù mắt thể lý mà lại sáng mắt tâm linh, rồi trở thành một Phaolô “không giống ai” với niềm ước mong: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô” (Gl 6:14). Việt ngữ thật kỳ diệu: THÁNH GIÁ là cái GIÁ để NÊN THÁNH. Đó là điều mà Đức Giêsu Kitô đã xác định: “Ai không vác thập giá mình mà theo Tôi thì không xứng với Tôi, không thể làm môn đệ của Tôi” (Mt 10:38; Lc 14:27).
Hơn 1.600 năm sau, ĐGM Pièrre Lambert de la Motte (1624–1679, Hội Thừa Sai Pháp) cũng hóa thành “dị nhân”, không giống ai khi ngài quyết tâm chỉ yêu mến Thánh Giá mà thôi, bằng chứng là ngài đã lập Dòng Mến Thánh Giá tại Việt Nam – bắt đầu từ Hải Phòng (Bắc Việt). Xưa cũng như nay, bất cứ ai thích Thánh Giá đều bị coi là “ngược đời” hoặc “điên loạn”. Thế nhưng Đức Kitô đã khuyến cáo chúng ta phải “mình ên vác thập giá mà theo Ngài” (x. Mt 16:24). Thật là “căng” dữ nghen! Quả thật, phải thực sự tin tưởng và can đảm mới có thể bước trên Đường Thập Giá – liên lỉ từng giây phút chứ không chỉ trong thoáng chốc, trong vài ngày hoặc vài tháng.
Thập giá là dụng cụ để xử tử phạm nhân mà người Phênixi đã dùng trước tiên, sau đó người Rôma cũng dùng, nhưng chỉ dùng hình phạt này cho kẻ nô lệ, dân bị trị, những người thấp hèn và những kẻ phạm các tội nặng nhất như trộm cướp, ít khi áp dụng cho công dân Rôma. Về thập giá, nhà hùng biện trứ danh Cicéron (Rôma) đã mô tả là “cực hình ghê rợn và độc ác nhất” (crudelissimum et teterrimum supplicium).
Theo nhiều nhà nghiên cứu Kinh Thánh, cây Thánh Giá được làm bằng gỗ tùng rất nặng, thanh dọc dài 4,5 m, thanh ngang dài 2,5 m, cả Thập Giá nặng khoảng 100 kg. Vác kéo lê thì giảm sức nặng khoảng 30 kg. Như vậy, Chúa Giêsu còn chịu sức nặng 70 kg đè trên thân xác đã yếu ớt vì đòn vọt, vác khệ nệ trên con đường dài 700 m, và Ngài đã phải ngã quỵ 3 lần. Thông thường, khoảng giữa thập giá có một miếng gỗ để tội nhân tì mông vào cho dễ đóng đinh, và đóng mỗi chân một đinh. Ngày nay các nhà kỹ thuật đã đưa miếng gỗ đó xuống làm đế đỡ chân và hai chân đóng chụm lại, đó vì tính mỹ thuật – tức là để nhìn cho “đẹp mắt” mà thôi.
Chúa Giêsu chịu hàm oan và đau khổ tột cùng trên Chặng Đàng Thánh Giá. Cuộc đời mỗi Kitô hữu cũng là Hành trình Thập Giá, có rất nhiều thứ xấu xa trong mỗi chúng ta để chúng ta phải cố gắng “chết” vì yêu mến Đức Kitô. Hành trình đó là hành trình tử đạo liên lỉ, rất cần ngước nhìn lên Chúa Giêsu bị treo trên Thánh Giá như dân Ít-ra-en xưa ngước nhìn lên conrắn đồng để được chữa lành (Ga 3:13-15).
Trình thuật Ds 21:4-9 cho biết: Từ núi Ho, họ lên đường theo đường Biển Sậy, vòng qua lãnh thổ Ê-đôm, trong cuộc hành trình qua sa mạc, dân Ít-ra-en mất kiên nhẫn. Họ kêu trách Thiên Chúa và ông Môsê: “Tại sao lại đưa chúng tôi ra khỏi đất Ai-cập, để chúng tôi chết trong sa mạc, một nơi chẳng có bánh ăn, chẳng có nước uống? Chúng tôi đã chán ngấy thứ đồ ăn vô vị này”. Vì họ cứng đầu cứng cổ, Đức Chúa cho rắn độc đến hại dân. Chúng cắn họ, khiến nhiều người Ít-ra-en phải chết.
Ngày nay, chúng ta cũng chẳng hơn gì dân Ít-ra-en xưa, thậm chí còn ngang bướng và tinh vi hơn nhiều. Ca dao Việt Nam nói: “Khi vui chẳng nhớ tới ai, Khi nóng thì cứ trái tai mà sờ”. Có lẽ chúng ta quen “xin – cho” nên cứ mở miệng cầu nguyện là xin này, xin nọ, xin tới tấp, xin đủ thứ, Chúa nghe không kịp mà vẫn bị đầy lỗ tai. Chúa cũng mệt với lũ phàm nhân lắm! Chúng xin được thì cười trừ rồi thôi, xin không được thì quay ngoắt 180 độ, đôi khi còn dám ngang nhiên trách “trời mù” nữa đấy. To gan thật!
Dân xưa ngang ngược đến nỗi bỏ Chúa, đi đúc bò vàng mà tôn thờ. Nhưng họ chịu khổ hết xiết, đành quay về với Chúa. Họ đến năn nỉ với ông Môsê: “Chúng tôi đã phạm tội, vì đã kêu trách Đức Chúa và kêu trách ông. Xin ông khẩn cầu Đức Chúa để Người xua đuổi rắn xa chúng tôi”. Ông Môsê thương tình mà khẩn cầu Thiên Chúa cho dân thoát ách tai ương. Thiên Chúa giàu lòng thương xót liền nói với ông Môsê: “Ngươi hãy làm một con rắn và treo lên một cây cột. Tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống”. Ông Môsê bèn làm một con rắn bằng đồng và treo lên một cây cột. Quả thật, hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng thì được cứu sống ngay.
Chúng ta ngày nay có nhiều loại “bò vàng” lắm, đủ cỡ và đủ kiểu. Chắc hẳn mỗi chúng ta cũng đã có kinh nghiệm “xương máu” về chuyện tôn thờ ngẫu tượng: Mê tiền, ham lợi, ưa “chảnh”, khoái chức, đòi quyền,… Đó là chưa nói đến đắm chìm trong tội lỗi đấy! Chu choa, nhiều kiểu lắm, nhiều dạng lắm, nhiều mức độ lắm! Và cuối cùng, chúng ta gặp đau khổ, đành quay về với Chúa, nhưng rồi chẳng được bao lâu, chúng ta lại như con ngựa quen đường cũ. Thế mà Thiên Chúa vẫn thương xót và tha thứ. Vô cùng may mắn cho chúng ta. Nhưng quả thật, chúng ta không thể nào hiểu nổi lòng thương xót của Ngài!
Tác giả Thánh Vịnh bày tỏ Thánh Ý Chúa từ xưa: “Dân tôi hỡi, này nghe tôi dạy bảo, lắng tai đón nhận lời lẽ miệng tôi. Mở miệng ra, tôi sẽ nói đôi lời huấn dụ, công bố điều huyền bí thuở xa xưa” (Tv 78:1-2). Thiên Chúa biết phàm nhân chúng ta là những “hạt bụi nhỏ nhoi” nhưng lại vô cùng kiêu ngạo. Tuy nhiên, Ngài vẫn yêu thương, khuyên nhủ, dỗ dành, chỉ mong chúng ta nhận biết và tôn thờ Ngài là Thiên Chúa toàn năng duy nhất.
Tuy nhiên, phàm nhân chúng ta có cái đầu cứng và đầy máu kiêu ngạo, khoái đi đường tắt hơn đi đường chính. Nhưng rồi cũng có lúc “giật mình” khi phải đương đầu với đau khổ:“Khi Chúa giết họ, họ mới đi tìm Chúa, mới trở lại và mau mắn kiếm Người, mới nhớ rằng: Thiên Chúa là núi đá họ ẩn thân, Thiên Chúa Tối Cao là Đấng cứu chuộc họ” (Tv 78:34-35).
Lúc đau khổ thì tỏ vẻ chân thành hối lỗi, nhưng lúc an bình thì lại thích nổi loạn, nói hay mà làm chẳng ra gì, Thiên Chúa biết chúng ta lọc lừa mà Ngài vẫn xót thương: “Miệng họ phỉnh phờ Chúa, lưỡi họ lừa dối Người; còn lòng dạ chẳng chút gì gắn bó, chẳng trung thành giữ giao ước của Người. Nhưng Người vẫn xót thương, thứ tha, không tiêu diệt, nén giận đã bao lần, chẳng khơi bùng nộ khí” (Tv 78:36-38). Nhưng rồi sẽ có ngày Thiên Chúa không còn dành thời gian chờ đợi chúng ta sám hối nữa. Thời đại chúng ta đang sống là thời đại cuối cùng, thời gian thương xót cuối cùng, ai không sám hối và không chân thành tín thác vào Đức Kitô thì hậu quả sẽ thê thảm đời đời!
Thánh nữ Faustina nhận định: “Mọi sự bắt đầu bằng Lòng Thương Xót của Ngài và cũng kết thúc bằng Lòng Thương Xót của Ngài. Mọi ân sủng tuôn chảy từ Lòng Thương Xót của Ngài, và những giờ khắc cuối cùng đầy tràn Lòng Thương Xót của Ngài. Đừng để ai nghi ngờ lòng nhân hậu của Thiên Chúa; mặc dù tội lỗi của con người đen tối như màn đêm, Lòng Thương Xót của Thiên Chúa vẫn mạnh hơn nỗi đau khổ của chúng ta” (Nhật Ký, số 1506).
Thánh Phaolô nói: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2:2-8). Trí tuệ và lý luận của chúng ta không thể phân tích để hiểu hết tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa, có tất cả những gì cao quý nhất, thế mà Ngài lại bỏ tất cả, thậm chí là thí mạng, để tìm kiếm và cứu chúng ta đem về cho Chúa Cha.
Thánh Phaolô kết luận: “Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: “Đức Giêsu Kitô là Chúa” (Pl 2:9-11). Ngược lại, ai không chân nhận Đức Giêsu Kitô là Thiên-Chúa-nhập-thể-làm-người thì chắc chắn không được Ngài đưa về Quê Trời vĩnh hằng: “Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa” (Ga 3:18). Thánh Gioan đã cho chúng ta biết chắc chắn có sự sống đời đời (x. 1 Ga 5:13).
Thập giá là vinh quang, là chiến thắng, chứ không là thất bại như loài người suy tưởng. Thi sĩ kiêm kịch tác gia Pièrre Corneille (1606-1684, Pháp quốc) đã có nhận xét thú vị và rất đúng: “Chiến đấu càng gian nan, khải hoàn càng vinh quang”. Thật vậy, cuộc sống cho chúng ta thấy rằng không có niềm hạnh phúc nào mà lại không có dấu vết của sự đau khổ.
Truyện “Hoàng tử và Thanh kiếm” kể thế này: Một hôm, Vua Charles V kêu hoàng tử đến và cho quyền lựa chọn. Trên bàn, nhà vua đặt một thanh kiếm và một triều thiên. Vua cha hỏi: “Con chọn cái nào?”. Chần chừ một lúc, hoàng tử cầm lấy thanh kiếm. Thấy lạ, vua cha hỏi: “Sao con lại chọn thanh kiếm?”. Hoàng tử cầm thanh kiếm chỉ vào vương miện và đáp: “Nhờ thanh kiếm này, con sẽ được triều thiên kia”. Câu chuyện ngắn gọn nhưng mang ý nghĩa thâm thúy, cho thấy rằng đau khổ luôn đi trước hạnh phúc.
Một hôm, khi đàm đạo với ông Ni-cô-đê-mô, Chúa Giêsu xác định: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống. Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3:13-15). Chính Chúa Giêsu đã xác định việc tin vào Ngài là mối phúc, vì ai tin Ngài sẽ được lên trời với Ngài.
Và rồi chính Chúa Giêsu lại tiếp tục xác định: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ” (Ga 3:16-17). Rõ ràng rồi, không còn gì khả nghi nữa. Tuy nhiên, tin Chúa Giêsu thì phải kiên trì đồng hành với Ngài hết chặng đường thập giá: Một nhánh vươn lên trời đưa chúng ta đến với Chúa Cha, qua Đức Giêsu Kitô; một nhánh đưa chúng ta đến với tha nhân, nhất là những người hèn mọn và đau khổ nhất. Không thể tách rời hai nhánh của thập giá.
Ước gì mỗi chúng ta luôn tâm niệm: THÁNH GIÁ là cái GIÁ để NÊN THÁNH.
Lạy Chúa Kitô, chúng con xin tôn vinh Thánh Giá bằng cách chấp nhận đau khổ hằng ngày để vinh danh Thiên Chúa, để cứu các linh hồn và để đền tội của chúng con. Xin cho chúng con được nên một với Ngài trong Mầu Nhiệm Thập Giá. Ngài là Đấng hằng sinh và hiển trị cùng với Chúa Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn đời. Amen.
70. Nghịch lý không trái ngược
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Chiến thắng khải hoàn của Đức Giêsu Kitô khởi đầu bằng sự thất bại trên Thập Giá. Đó là một nghịch lý mà những ai không là Kitô hữu không thể hiểu nổi. Chân phước Charles Eugène de Foucauld (1858-1916, tu sĩ người Pháp) đã cảm nhận: “Thiên Chúa chỉ ban sức mạnh của Ngài cho chúng ta khi chúng ta chấp nhận sự yếu hèn của mình”. Kỳ diệu quá!
Nghịch lý là những gì trái với quy luật tự nhiên hoặc những điều hiển nhiên được người ta công nhận là đúng. Tuy nhiên, trong triết-lý-sống của cuộc đời lại có những điều tuy là nghịch lý mà vẫn thuận chiều, không hề ngược chút nào – được gọi là “nghịch lý thuận”, và cũng có những điều là thuận lý mà vẫn nghịch chiều – được gọi là “thuận lý nghịch”.
Cuộc sống không chỉ phức tạp mà còn nhiêu khê lắm. Có khi sống cả đời mà chưa hiểu hết lý lẽ của cuộc sống. Đôi khi chúng ta vẫn cảm thấy khó hiểu với những điều thuận lý, huống chi với những điều nghịch lý.
Có thể nói rằng nghịch lý khá đa dạng, nhưng có vài dạng phổ biến được người ta công nhận:
[1] Nghịch Lý Thời Gian (cũng gọi là Nghịch Lý Du Hành Thời Gian). Đó là là sự mâu thuẫn hợp lý hoặc đối nghịch trong các lý thuyết giả định cho rằng “du hành thời gian” trở về quá khứ là điều khả thi.
[2] Nghịch Lý Bản Thể. Đó là sự tồn tại của một vật thể hay sự xuất hiện của một sự kiện bởi vì có ảnh hưởng ngược lên nó bởi các sự kiện xảy ra trong tương lai của nó.
[3] Nghịch Lý Tiền Định (còn gọi là Vòng Lặp Nhân Quả). Đó là nghịch lý du hành thời gian thường được sử dụng trong các tác phẩm khoa học viễn tưởng.
[4] Nghịch Lý Ông Nội. Đó là một sự kiện ngăn chặn một sự kiện xác định xảy ra trước đó bằng cách ảnh hưởng ngược lên sự kiện trước đó.
Triết lý là điều không dễ hiểu. Triết lý sống càng nhiêu khê và khó hiểu hơn nhiều. Có lẽ chẳng mấy ai như Thánh Phaolô, vì ngài có một ước muốn khiến chúng ta cảm thấy “nổi da gà” và “rợn tóc gáy”, hoàn toàn không giống ai: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô” (Gl 6:14). Hãnh diện về thập giá? Hãnh diện vì gặp đau khổ? Hãnh diện vì bị nhục nhã ư? Đúng là quá ngược đời!
Một vị khác có ý tưởng cũng “không giống ai” là cố giám mục Lambert de la Motte (16/1/1624 – 15/1/1679), vị thừa sai người Pháp. Ngài cũng yêu thích Thánh Giá nên mới sáng lập Dòng Mến Thánh Giá. Chắc hẳn ngài phải cảm nghiệm sâu sắc về Cuộc Khổ Nạn của Đức Kitô nên mới dám có “sở thích” kiểu đó!
Là Kitô hữu, chúng ta không xa lạ với thập giá, vì bắt đầu đủ trí khôn là chúng ta đã nghe nói tới. Thập giá là biểu tượng của sự đau khổ hoặc bất hạnh, vì đó là hình phạt tồi tệ và ghê gớm nhất thời đó, như ngày nay là án tử hình. Cuộc sống thường nhật cũng chẳng ai “mê” đau khổ, mà cố tránh như tránh quái vật hoặc ma quỷ vậy. Thế mà những người thực sự yêu mến Đức Kitô lại “khoái” đau khổ. Quá ngược đời! Với người không có niềm tin vào Đức Kitô, thậm chí có thể ngay cả một số người nhận mình là người Kitô giáo, không thể hiểu được ý nghĩa của thập giá. Họ cho đó là dại dột, là ngu xuẩn, là điên rồ, là… “bó tay chấm com”.
Sống là đấu tranh, là “tránh đâu”, và sống là phải có trách nhiệm, không thể ung dung tự tại, vô tư và vô cảm. Trách nhiệm và bổn phận là “gánh nặng” hằng ngày mà ai cũng có, mỗi người mỗi kiểu và mỗi mức độ khác nhau. Thánh Phaolô tâm sự: “Đối với tôi, rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (1 Cr 9:16). Rao giảng Tin Mừng là một trách nhiệm, kính mến Chúa và yêu thương tha nhân là bổn phận khác – nhưng vẫn song song. Chẳng có trách nhiệm và bổn phận nào dễ dàng, vì thế mà luôn phải cố gắng. Mệt lắm!
Sự tự nguyện có giá trị hơn sự miễn cưỡng. Thánh Phaolô cho biết phải “tự ý làm việc ấy thì mới đáng Thiên Chúa thưởng công; còn nếu không tự ý thì đó là một nhiệm vụ Thiên Chúa giao phó” (1 Cr 9:17). Làm vì bị bắt buộc, vì miễn cưỡng, thì cũng tốt, nhưng tự nguyện bao giờ cũng tốt hơn. Cái khó đối với chúng ta là Thiên Chúa cho chúng ta hoàn toàn tự do hành động.
Phần thưởng là gì, phần thưởng ở đâu? Thánh Phaolô minh định: “Đó là khi rao giảng Tin Mừng, tôi rao giảng không công, chẳng hưởng quyền lợi Tin Mừng dành cho tôi. Phải, tôi là một người tự do, không lệ thuộc vào ai, nhưng tôi đã trở thành NÔ LỆ của mọi người, hầu chinh phục thêm được nhiều người” (1 Cr 9:18-19). Đó là động thái hoàn toàn tự nguyện, không miễn cưỡng. Thánh nhân cho biết thêm: “Tôi đã trở nên yếu với những người yếu, để chinh phục những người yếu. Tôi đã trở nên tất cả cho mọi người, để bằng mọi cách cứu được một số người. Vì Tin Mừng, tôi làm tất cả những điều đó, để cùng được thông chia phần phúc của Tin Mừng” (1 Cr 9:22-23).
Cuộc sống của chúng ta, các Kitô hữu, cũng như “trong cuộc chạy đua trên thao trường, tất cả mọi người đều chạy, nhưng chỉ có một người đoạt giải”, vì thế mà ai cũng phải cố gắng hết sức để “chiếm cho được phần thưởng”. Không chỉ vậy, trước đó còn “phải kiêng kỵ đủ điều”. Nghề nào cũng khó, ngành nào cũng mệt, muốn “chuyên nghiệp” về lĩnh vực nào thì phải khổ luyện không ngừng.
Thực tế cuộc sống cho thấy nhiều điều tất yếu mà thú vị: Những người viết lách mà không viết thì bị “xuống tay”, các văn nghệ sĩ không khổ luyện hằng ngày thì chẳng làm được trò trống gì, các vận động viên không cố gắng khổ luyện thì đừng mong tranh tài,… Đơn giản như học sinh đi học mà không chăm chỉ luyện tập thì không thể hoàn thiện bản thân và không mong gì tươi sáng và đầy trách nhiệm như tục ngữ Việt Nam: “Ngày nay học tập, ngày mai giúp đời”. Không khổ luyện không thể hy vọng có ngày thành công và hữu ích cho đời!
Tuy nhiên, tất cả mọi hoạt động trên thế gian này chỉ là để đoạt “phần thưởng chóng hư”. Còn chúng ta, những người có niềm tin vào Đức Kitô, luôn nhắm tới một mục đích cao hơn, đó là “phần thưởng không bao giờ hư nát”, là phúc trường sinh trên Thiên Đàng – Nước Trời. Không đạt được “phần thưởng” này là chúng ta phụ Tình Chúa, làm lãng phí giá Máu Cứu Độ của Đức Kitô, là từ chối Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Thánh Phaolô xác định: “Tôi đây cũng chạy như thế, chứ không chạy mà không xác tín; tôi đấm như thế, chứ không phải đấm vào không khí. Tôi bắt thân thể phải chịu cực và phục tùng, kẻo sau khi rao giảng cho người khác, chính tôi lại bị loại” (1 Cr 9:26-27). Tất nhiên mỗi chúng ta cũng phải quyết tâm như vậy!
Chính Chúa Giêsu đã từng bảo chúng ta phải “từ bỏ mình” và “vác thập giá mình hằng ngày” (Mt 10:37-38; Mc 8:34; Lc 14:26-27), phải “qua cửa hẹp” (Mt 7:13), phải ăn chay, phải hãm mình,… Toàn những điều “làm khổ mình” thôi. Khó lắm! Chúa không “chơi khăm” chúng ta mà chỉ muốn chúng ta “nên người”. Chứ Ngài “hô biến” một cái là chúng ta vào Thiên đàng cả đám ngay, nhưng Chúa muốn chúng ta tự thân cố gắng để có thể hiểu được ý nghĩa sâu xa và giá trị của sự đau khổ, đồng thời mới xứng đáng nhận phần thưởng. Có ăn lạt mới biết thương mèo. Có khổ mới biết thương người khác.
Hằng ngày tự khổ luyện mới là thật lòng theo Chúa, chứ không thể thanh thản ngồi rung đùi theo nhịp khổ của người khác. Có chờ sung rụng thì cũng phải nhặt lấy, bỏ vô miệng, chứ chẳng bao giờ có trái sung nào có thể rơi trúng ngay miệng mình – mà có trúng ngay miệng cũng vẫn phải nhai, nuốt và tiêu hóa. Việc đơn giản thế mà vẫn… mệt, mệt mỏi lắm!
Hạnh phúc nào mà không có hy sinh, chiến đấu, cố gắng? Có gian nan mới thành nhân, có khốn mới nên khôn, có thất bại mới biết cố vươn lên: “Thất bại là mẹ thành công” (tục ngữ Việt Nam). Ông Thích Ca Mâu Ni được người ta kính trọng, được tôn là Phật, vì ông đã cảm được nỗi đau khổ qua Tứ Diệu Đế. Các vĩ nhân cũng đều là những người đã từng nếm mùi gian khổ, các chính khách được thế giới tôn vinh cũng đều là những người đã kiên trì “nằm gai nếm mật”. Thật vậy, chẳng nếm mùi gian khổ thì khó nên bậc siêu quần!
Tuy nhiên, phàm nhân chúng ta quá yếu đuối, ưa nhàn rỗi chứ không muốn “khó đến thân”. Kinh Phật có câu: “Con người là nô lệ vì chưa hủy diệt được ý tưởng về bản ngã trong nội tâm”. Cái khổ từ nội tại nhiều hơn từ ngoại tại. Khổ vây tư bề, không thể trốn thoát, vì “đời là bể khổ”. Muốn thoát khổ thì phải đi “xuyên qua” nó. Có nhiều lúc chính chúng ta tự làm khổ mình chứ không ai khác. Đời càng khổ thì chúng ta càng cần Chúa: “Mảnh hồn này khát khao mòn mỏi mong tới được khuôn viên đền vàng. Cả tấm thân con cùng là tấc dạ những hướng lên Chúa Trời hằng sống mà hớn hở reo mừng” (Tv 84:3). Ngài là Chúa Tể càn khôn, là Đức Vua, là Thiên Chúa chúng ta tôn thờ, “ngay chim sẻ còn tìm được mái ấm, cánh nhạn kia cũng làm tổ đặt con bên bàn thờ của Chúa” (Tv 84:4), thế chúng ta lại không đáng hơn chim sẻ ư?
Thật phúc thay cho người ở trong Thánh Diện và luôn được hát mừng Thiên Chúa. Nhưng muốn vậy thì phải khổ luyện, phải dám “ngược đời” như Chúa Giêsu. Nói dễ, làm khó. Ráng mãi vẫn chưa được. Phàm nhân khốn nạn vậy đó. Hứa nhiều mà chẳng giữ bao nhiêu. Trăm voi không được bát nước xáo! Do đó chúng ta phải không ngừng kêu van: “Lạy Chúa là Chúa Tể càn khôn, xin đoái nghe lời con cầu nguyện. Xin lắng tai, lạy Chúa nhà Gia-cóp. Lạy Chúa là khiên mộc chở che, xin thương xem nhìn đến gương mặt đấng Ngài đã xức dầu” (Tv 84:9-10). Nước Trời cực kỳ quý báu, không thể ví với bất kỳ thứ gì – dù quý hiếm nhất – ở thế gian này.
Tác giả Thánh Vịnh dẫn chứng: “Một ngày tại khuôn viên thánh điện quý hơn cả ngàn ngày” (Tv 84:11a). Người đời cũng nhận định: “Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại” (một ngày ở tù dài đằng đẵng như ngàn năm). Điều đó nói lên sự hạnh phúc của cuộc sống tự do. Còn tác giả Thánh Vịnh so sánh và quyế tâm: “Thà con ở cổng đền Thiên Chúa vẫn còn hơn sống trong trại ác nhân!” (Tv 84:11b).
Thiên Chúa là vầng thái dương, là thuẫn đỡ, là khiên che, và tặng ban ân huệ với vinh quang. Thế nên “ai sống đời trọn hảo, Người chẳng nỡ từ chối ơn lành” (Tv 84:12). Đó không là “dụ dỗ” hoặc “mồi chài” mà chắc chắn như vậy: “Trước khi trời đất qua đi, một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành” (Mt 5:18).
Thánh sử Luca cho biết rằng, vào một ngày đẹp trời, Đức Giêsu tỉ tê tâm sự với các môn đệ thế này: “Mù mà lại dắt mù được sao? Lẽ nào cả hai lại không sa xuống hố?” (Lc 6:39). Rồi Ngài nói thêm: “Học trò không hơn thầy, có học hết chữ cũng chỉ bằng thầy mà thôi” (Lc 6:40). Chúa Giêsu rất bình dân, Ngài thực tế mà có duyên, nghiêm chỉnh mà cũng có “máu” hài hước. Ngài đặt vấn đề: “Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới? Sao anh lại có thể nói với người anh em: ‘Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh ra’, trong khi chính mình lại không thấy cái xà trong con mắt của mình?” (Lc 6:41-42a). Lúc vui thì vui hết mình, mà lúc làm việc thì đâu ra đó. Cười cười mà “chết người” chứ chẳng chơi. Đừng thấy Chúa “nói nhẹ” mà tưởng Ngài “cho qua phà” rồi cả gan “được đằng chân, lân đằng đầu”!
Và Chúa Giêsu nói thẳng thắn: “Hỡi kẻ đạo đức giả! Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong con mắt người anh em!” (Lc 6:41-42b). Lại chuyện đạo đức giả. Thế gian không thiếu loại người này – dù mức độ khác nhau, thế nên Ngài rất ghét loại người “miệng nam mô mà bụng là bồ dao găm”.
Không sống giả nhân giả nghĩa, luôn sống trong sạch và cương trực, đó cũng là một cách “vác thập giá mình” mà theo bước Chúa Giêsu lên Can-vê. Lên đó không phải để ngắm trời, ngắm đất, hoặc hóng gió mát rồi ngâm thơ và ca hát, hoặc lên đó đốt lửa trại, mà LÊN ĐÓ ĐỂ… “CHẾT”. Chết thật chứ không chết giả!
Thập Giá là án tử, nhưng Thập Giá lại trở nên “chìa khóa” mở cánh cửa của Sự Trường Sinh. Thập Giá là nghịch lý, nhưng không hề trái ngược. Và rồi mọi đau khổ sẽ biến thành vinh quang, người chết sẽ sống lại để được trường sinh. Ai dám NGƯỢC với thế gian thì được THUẬN với Thiên Chúa. Thật là trên cả tuyệt vời!
Việt ngữ thật chí lý: THÁNH GIÁ là cái GIÁ để nên THÁNH. Chắc chắn ai cũng phải trả cái giá này mới khả dĩ vào Nước Trời vậy.
Lạy Thiên Chúa giàu Lòng Thương Xót, xin ban thêm lòng can đảm cho con để con có thể dám sống “ngược đời” như Đức Giêsu Kitô, Đấng đã đã tiên phong nêu gương, giúp con biết yêu Thánh Giá, sẵn sàng chết cho tội mình, chết vì chân lý và công lý. Con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ nhân loại. Amen.
71. Khổ thật!
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Khổ là khái niệm quan trọng của Phật giáo, là cơ sở của Tứ Diệu Đế (còn gọi là Tứ Thánh Đế, bốn chân lý cao cả, là nội dung của bài kinh Chuyển Pháp Luân: Sinh là khổ; lão là khổ; bệnh là khổ; tử là khổ). Khổ là tính chất của sự vật và được đúc kết thành câu: “Đời là bể khổ”. Khổ xuất phát từ Ái (yêu), vì yêu mà khổ. Tóm lại, mọi thứ khổ đều dính líu đến Ngũ Uẩn (sanh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ, oán tằng hội khổ, cầu bất đắc khổ, ngũ uẩn xí thạnh khổ).
Thánh Phaolô có một ước muốn làm hoàn toàn không giống ai: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô” (Gl 6:14). Ngu dại mới thích như vậy. Thật thế chăng? Có thể mà cũng không thể.
Cố giám mục Lambert de la Motte (16/1/1624-15/1/1679), vị thừa sai người Pháp, cũng đã có ý tưởng “không giống ai” nên mới sáng lập Dòng Mến Thánh Giá. Chắc hẳn ngài phải cảm nghiệm sâu sắc về Cuộc Khổ Nạn của Đức Kitô nên mới dám có “sở thích” kiểu đó!
Thập giá là biểu tượng của sự đau khổ hoặc bất hạnh, vì đó là hình phạt tồi tệ và ghê gớm nhất thời đó, như ngày nay là án tử hình. Cuộc sống thường nhật cũng chẳng ai “mê” đau khổ, mà cố tránh như tránh quái vật hoặc ma quỷ vậy. Thế mà những người thực sự yêu mến Đức Kitô lại “khoái” đau khổ. Quá ngược đời! Với người không có niềm tin vào Đức Kitô, thậm chí có thể ngay cả một số người nhận mình là người Kitô giáo, không thể hiểu được ý nghĩa của thập giá. Họ cho đó là dại dột, là ngu xuẩn, là điên rồ, là… “bó tay chấm com”.
Trách nhiệm và bổn phận là “gánh nặng” hằng ngày mà ai cũng có, mỗi người mỗi kiểu và mỗi mức độ khác nhau. Thánh Phaolô tâm sự: “Đối với tôi, rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (1 Cr 9:16). Rao giảng Tin Mừng là một trách nhiệm, kính mến Chúa và yêu thương tha nhân là bổn phận khác – nhưng vẫn song song. Chẳng có trách nhiệm và bổn phận nào dễ dàng, vì thế mà luôn phải cố gắng. Mệt lắm! Thánh Phaolô cho biết phải “tự ý làm việc ấy thì mới đáng Thiên Chúa thưởng công; còn nếu không tự ý thì đó là một nhiệm vụ Thiên Chúa giao phó” (1 Cr 9:17). Làm vì bị bắt buộc, vì miễn cưỡng, thì cũng tốt, nhưng tự nguyện bao giờ cũng tốt hơn. Cái khó đối với chúng ta là Thiên Chúa cho chúng ta hoàn toàn tự do hành động.
Vậy đâu là phần thưởng? Thánh nhân trả lời: “Đó là khi rao giảng Tin Mừng, tôi rao giảng không công, chẳng hưởng quyền lợi Tin Mừng dành cho tôi. Phải, tôi là một người tự do, không lệ thuộc vào ai, nhưng tôi đã trở thành nô lệ của mọi người, hầu chinh phục thêm được nhiều người” (1 Cr 9:18-19). Hoàn toàn tự nguyện. Thánh nhân kể: “Tôi đã trở nên yếu với những người yếu, để chinh phục những người yếu. Tôi đã trở nên tất cả cho mọi người, để bằng mọi cách cứu được một số người. Vì Tin Mừng, tôi làm tất cả những điều đó, để cùng được thông chia phần phúc của Tin Mừng” (1 Cr 9:22-23).
Cũng như “trong cuộc chạy đua trên thao trường, tất cả mọi người đều chạy, nhưng chỉ có một người đoạt giải”, vì thế mà ai cũng phải cố gắng hết sức để “chiếm cho được phần thưởng”. Không chỉ vậy, trước đó còn “phải kiêng kỵ đủ điều”. Nghề nào cũng khó, ngành nào cũng mệt, muốn “chuyên nghiệp” về lĩnh vực nào thì phải khổ luyện không ngừng. Người viết lách mà không viết thì bị “xuống tay”, các văn nghệ sĩ không khổ luyện hằng ngày thì chẳng làm được trò trống gì, các vận động viên không cố gắng khổ luyện thì đừng mong tranh tài,… Đơn giản như học sinh đi học mà không chăm chỉ luyện tập thì không thể hoàn thiện bản thân và không mong gì tươi sáng và đầy trách nhiệm như tục ngữ Việt Nam: “Ngày nay học tập, ngày mai giúp đời”.
Nhưng tất cả mọi hoạt động đó chỉ là để đoạt “phần thưởng chóng hư”. Còn chúng ta, những người Kitô giáo, có một mục đích cao hơn, đó là “phần thưởng không bao giờ hư nát”, là phúc trường sinh trên Thiên quốc. Không đạt được “phần thưởng” Nước Trời là chúng ta phụ Tình Chúa, làm lãng phí giá Máu Cứu Độ của Đức Kitô, là coi thường Lòng Chúa Thương Xót. Thánh Phaolô nói: “Vậy tôi đây cũng chạy như thế, chứ không chạy mà không xác tín; tôi đấm như thế, chứ không phải đấm vào không khí. Tôi bắt thân thể phải chịu cực và phục tùng, kẻo sau khi rao giảng cho người khác, chính tôi lại bị loại” (1 Cr 9:26-27). Chúng ta cũng phải quyết tâm vậy!
Chính Chúa Giêsu đã từng bảo chúng ta phải “từ bỏ mình” và “vác thập giá mình hằng ngày” (Mt 10:37-38; Mc 8:34; Lc 14:26-27), phải “qua cửa hẹp” (Mt 7:13), phải ăn chay, phải hãm mình,… Toàn những điều “làm khổ mình” thôi. Khó lắm! Chúa không “chơi khăm” chúng ta mà chỉ muốn chúng ta “nên người”. Chứ Ngài “hô biến” một cái là chúng ta vào Thiên đàng cả đám ngay, nhưng Chúa muốn chúng ta tự thân cố gắng để có thể hiểu được ý nghĩa sâu xa và giá trị của sự đau khổ, đồng thời mới xứng đáng nhận phần thưởng. Có ăn lạt mới biết thương mèo. Có khổ mới biết thương người khác.
Khổ luyện mình hằng ngày mới là thật lòng theo Chúa, chứ không thể ung dung tự tại. Có chờ sung rụng thì cũng phải nhặt lấy, bỏ vô miệng, chứ chẳng bao giờ có trái sung nào có thể rơi trúng ngay miệng mình – mà có trúng ngay miệng cũng vẫn phải nhai, nuốt, và tiêu hóa. Việc đơn giản thế mà vẫn… mệt!
Có gian nan mới thành nhân, có đau khổ mới nên khôn, có thất bại mới biết cố gắng vươn lên: “Thất bại là mẹ thành công” (Tục ngữ Việt Nam). Đức Phật được người ta kính trọng vì ông đã cảm được nỗi đau khổ qua Tứ Diệu Đế. Các vĩ nhân đều là những người đã từng nếm mùi gian khổ, các chính khách được thế giới tôn vinh đều là những người đã kiên trì “nằm gai nếm mật”. Thật vậy, chẳng nếm mùi gian khổ thì khó nên bậc siêu quần!
Nhưng phàm nhân chúng ta quá yếu đuối, ưa nhàn rỗi chứ không muốn “động chân, động tay”. Kinh Phật nói: “Con người là nô lệ vì chưa hủy diệt được ý tưởng về bản ngã trong nội tâm”. Đời là bể khổ. Có lúc chính chúng ta tự làm khổ mình. Đời càng khổ thì chúng ta càng cần Chúa: “Mảnh hồn này khát khao mòn mỏi mong tới được khuôn viên đền vàng. Cả tấm thân con cùng là tấc dạ những hướng lên Chúa Trời hằng sống mà hớn hở reo mừng” (Tv 84:3). Ngài là Chúa Tể càn khôn, là Đức Vua, là Thiên Chúa chúng ta tôn thờ, “ngay chim sẻ còn tìm được mái ấm, cánh nhạn kia cũng làm tổ đặt con bên bàn thờ của Chúa” (Tv 84:4), thế chúng ta lại không đáng hơn chim sẻ ư?
Phúc thay người ở trong thánh điện và luôn được hát mừng Ngài. Nhưng muốn vậy thì phải khổ luyện, phải dám “ngược đời” như Chúa Giêsu. Nói dễ, làm khó. Ráng mãi vẫn chưa được. Phàm nhân khốn nạn vậy đó. Hứa nhiều mà chẳng giữ bao nhiêu. Trăm voi không được bát nước xáo! Do đó chúng ta phải không ngừng kêu van: “Lạy Chúa là Chúa Tể càn khôn, xin đoái nghe lời con cầu nguyện. Xin lắng tai, lạy Chúa nhà Gia-cóp. Lạy Chúa là khiên mộc chở che, xin thương xem nhìn đến gương mặt đấng Ngài đã xức dầu” (Tv 84:9-10). Nước Trời cực kỳ quý báu, không thể ví với bất kỳ thứ gì. Thật vậy, “một ngày tại khuôn viên thánh điện quý hơn cả ngàn ngày” (Tv 84:11a). Người đời cũng nói: “Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại” (một ngày ở tù dài đằng đẵng như ngàn năm), nói lên sự hạnh phúc của cuộc sống tự do. Còn tác giả Thánh vịnh so sánh: “Thà con ở cổng đền Thiên Chúa vẫn còn hơn sống trong trại ác nhân!” (Tv 84:11b).
Thiên Chúa là vầng thái dương, là thuẫn đỡ, là khiên che, và tặng ban ân huệ với vinh quang. Thế nên “ai sống đời trọn hảo, Người chẳng nỡ từ chối ơn lành” (Tv 84:12). Đó không là “dụ dỗ” hoặc “mồi chài” mà chắc chắn như vậy: “Trước khi trời đất qua đi, một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành” (Mt 5:18).
Vào một ngày đẹp trời, Đức Giêsu tỉ tê tâm sự với các môn đệ thế này: “Mù mà lại dắt mù được sao? Lẽ nào cả hai lại không sa xuống hố?” (Lc 6:39). Rồi Ngài nói thêm: “Học trò không hơn thầy, có học hết chữ cũng chỉ bằng thầy mà thôi” (Lc 6:40). Chúa Giêsu rất bình dân, Ngài thực tế mà có duyên, nghiêm chỉnh mà cũng có “máu” hài hước. Ngài đặt vấn đề: “Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới? Sao anh lại có thể nói với người anh em: ‘Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh ra’, trong khi chính mình lại không thấy cái xà trong con mắt của mình?” (Lc 6:41-42a). Lúc vui thì vui hết mình, mà lúc làm việc thì đâu ra đó. Cười cười mà “chết người” chứ chẳng chơi. Đừng thấy Chúa “nói nhẹ” mà tưởng Ngài “cho qua phà” rồi cả gan “được đằng chân, lân đằng đầu”!
Chúa Giêsu nói thẳng: “Hỡi kẻ đạo đức giả! Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong con mắt người anh em!” (Lc 6:41-42b). Lại chuyện đạo đức giả. Thế gian nhiều loại người này, dù mức độ khác nhau, nên Chúa Giêsu rất ghét loại người “miệng nam mô mà bụng một bồ dao găm”.
Không sống giả nhân giả nghĩa, sống trong sạch và cương trực, đó cũng là “vác thập giá mình” mà theo bước Chúa Giêsu lên Can-vê. Lên đó không phải để ngắm trời, ngắm đất, hoặc hóng gió mát rồi ngâm thơ và ca hát, hoặc lên đó đốt lửa trại, mà lên đó để “chết”. Chết thật chứ không chết giả!
Thập Giá là cái giá thật. Khổ thật, khổ lắm, khổ tới bến, vì người ta gọi là khổ giá chứ không khổ giả. Khổ cũng có cái giá của nó, có tiền bạc hoặc vàng cũng chẳng mua được đâu. Thật chứ không đùa đâu! Chính Chúa Giêsu đã nói thẳng, không úp mở, không nói mơ hồ, không lưỡng lự: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Mc 8:35).
Nhưng rồi mọi đau khổ sẽ biến thành vinh quang, và người chết sẽ sống lại để được trường sinh. Thật là trên cả tuyệt vời!
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con đủ sức vượt qua chính mình để có thể can đảm mà sống “ngược đời” như Con Thiên Chúa, Đấng đã tiên phong nêu gương cho con học hỏi; xin dạy biết cách yêu mến và hãnh diện vì Thánh Giá mà dám chết cho tội mình, chết cho chân lý và chết để bảo vệ công lý. Khổ thật, nhưng nếu khổ thật là yêu mến Ngài, con xin vâng, lạy Ngài. Con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ nhân loại. Amen.
——————-
(*) Tứ diệu đế gồm: [1] Khổ Đế, chân lý về sự Khổ: Chân lý thứ nhất cho rằng mọi dạng tồn tại đều mang tính chất khổ não, không trọn vẹn. Sinh, lão, bệnh, tử, xa lìa điều mình ưa thích, không đạt sở nguyện, gặp gỡ với người hoặc sự vật mình không thích đều là khổ. Sâu xa hơn, bản chất của năm nhóm thân tâm, Ngũ Uẩn, là các điều kiện tạo nên cái ta, đều là khổ. [2] Tập Đế, chân lý về sự phát sinh của khổ: Nguyên nhân của khổ là sự tham ái, tìm sự thỏa mãn dục vọng, thỏa mãn được trở thành, thỏa mãn được hoại diệt. Các loại ham muốn này là gốc của Luân Hồi. [3] Diệt Đế, chân lý về diệt khổ: Một khi gốc của mọi tham ái được tận diệt thì sự khổ cũng được tận diệt. [4] Đạo Đế, chân lý về con đường dẫn đến diệt khổ: Phương pháp để đạt sự diệt khổ là con đường diệt khổ tám nhánh, gọi là “Bát Chánh Đạo”. Không thấu hiểu Tứ Diệu Đế được gọi là “Vô Minh”.
72. Suy tôn Thánh Giá
(Suy niệm của Lm. Antôn)
Có một câu chuyện dụ ngôn sau đây về một người đàn bà cứ phàn nàn, than trách Chúa vì phải vác một thập giá quá nặng. Một hôm, Chúa đưa người đó đến một cửa hàng bán các thập giá đủ cỡ để người đó chọn lựa. Người đàn bà hăm hở bước vào cửa hàng và dựng cây thập giá của mình vào tường trước cửa. Bà tự nhủ trong lòng: “Đây là chuyện cả đời người, phải hết sức cẩn thận trong việc lựa chọn.”
Sau đó, bà đi xem mọi nơi trong cửa hàng, và thử hết cây thập giá này đến cây thập giá khác, nhưng không tìm được một cây nào làm chị vừa ý vừa lòng. Cây thì quá dài, cây thì quá ngắn. Cây thì quá cong queo, cây thì quá nặng. Chị tiếp tục tìm kiếm. Cuối cùng, chị tìm được cây thập giá mà chị cho là ưng ý nhất. Chị mang đến với Chúa và nở nụ cười mãn nguyện, thưa với Chúa, “Lạy Chúa, đây chính là cây thập giá mà con hằng tìm kiếm. Con xin vác lấy.” Khi chị vừa hí hửng ra khỏi cửa hàng, thì Chúa mỉm cười nói với chị: “Ta rất vui mừng vì con đã chấp nhận cây thập giá này. Đây cũng chính là cây thập giá mà con đã vác vào và dựng ở tường của cửa hàng này.”
Ông bà anh chị em thân mến. Hôm nay cùng với Giáo hội, chúng ta mừng lễ Suy Tôn Thánh Giá Chúa Kitô, và được mời gọi suy niệm mầu nhiệm Thánh Giá Chúa Kitô trong đời sống đức tin của chúng ta. Trước hết, bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết Chúa Giêsu nhắc nhở và bảo ông Ni-cô-đê-mô và tất cả mọi người chúng ta phải có một niềm tin mạnh mẽ và sâu sa. Chúng ta phải tin vào chính Chúa, là Con Thiên Chúa, và phải tin một cách vững mạnh vào Thiên Chúa Cha và kế hoạch cứu độ của Ngài. Chúa Cha, vì tình thương yêu bao la và vô bờ bến, đã ban Con Một của Ngài xuống trần, để cứu chuộc nhân loại và ban cho chúng ta sự sống và hạnh phúc vĩnh cửu. Chúa Giê-su, Ngôi Hai Thiên Chúa, đã khiêm nhường và vâng lời hy sinh mạng sống chết một cách nhục nhã trên thập giá, biến cây thập giá trở thành Thánh giá ban ơn cứu độ và đời sống vĩnh cửu cho nhân loại. Chúa Giê-su đã giải thích với Ni-cô-đê-mô rằng Con Người phải được treo lên như Môi-sen đã treo rắn đồng lên trong sa mạc, để những ai tin vào chính Người thì được sự sống đời đời.
Thật vậy, bài đọc một hôm nay kể lại việc Thiên Chúa trừng phạt dân Do thái chóng quên phép lạ to lớn, Thiên Chúa cứu họ ra khỏi cảnh nô lệ ở Ai-cập, và họ đã phạm tội kêu trách Chúa và Mô-sê khi họ gặp những khó khăn trở ngại trong hoang mạc. Vì thế, Thiên Chúa đã phạt cho rắn độc cắn chết nhiều người. Nhưng sau đó, họ đã ăn năn sám hối và Thiên Chúa đã phán cùng Môi-sen: “Ngươi hãy làm một con rắn đồng và treo trên giá. Nếu ai đã bị cắn mà nhìn lên nó thì sẽ được sống.” Vâng lời Thiên Chúa, Môi-sen làm một con rắn đồng và treo lên một cái giá. Bất kỳ ai đã bị cắn mà nhìn lên rắn đồng thì được sống.
Ông bà anh chị em thân mến. Thật vậy, rắn đồng là biểu tượng của Chúa Giê-su Kitô bị đóng đinh và chết trên Thánh Giá, để tất cả những ai nhìn lên và tin vào Người thì sẽ được ơn cứu độ và có sự sống vĩnh cửu. Vì vậy, Thánh Giá Chúa Kitô trở nên hồng ân và dấu chứng tình yêu cao cả nhất của Thiên Chúa dành cho con người nhân loại. Chính Chúa Giê-su đã khẳng định với chúng ta, “Không có tình yêu nào cao quí hơn mối tình của người hy sinh mạng sống vì người mình yêu.” Chúng ta nhận thấy, thập giá, từ một khí cụ ghê gớm, tàn ác nhất của con người đã có thể nghĩ ra để hành hạ người khác, Chúa Giêsu đã biến nó thành Thánh Giá, dấu chứng tình yêu vâng phục của Người và cũng là hồng ân tình yêu dâng hiến cho nhân loại. Và cũng trong tình yêu này, Chúa Giê-su mời gọi tất cả chúng ta hãy vác Thánh giá của mình đi theo Chúa.
Ông bà anh chị em thân mến. Chúng ta phải ý thức và phải biết phân biệt giữa đau khổ và Thánh Giá. Là con người, tất nhiên mọi người chúng ta đều có những đau khổ phần xác và tinh thần như bệnh tật, tai nạn hay những hoàn cảnh khó khăn trong cuộc sống. Là những người có đức tin, chúng ta nhận thấy trong đời sống Kitô hữu của chúng ta cũng có nhiều Thánh Giá và Thánh Giá hiện diện qua nhiều cách. Thánh giá trong đời sống Kitô hữu là những sự hy sinh và quên mình để phục vụ Chúa và tha nhân. Thánh giá là những sự thiệt thòi và đau khổ vì đạo, vì Chúa và vì Tin mừng. Thánh Giá là tuân theo, sống hay thực hành lời Chúa dạy. Thánh Giá là có lòng bác ái và quảng đại vì yêu mến và lòng mong ước làm sáng danh Chúa. Chỉ những Thánh Giá này mới đem lại cho chúng ta và cho tha nhân ơn sủng tình yêu của Chúa và đời sống vĩnh cửu mà thôi. Khi đối diện hay gặp những Thánh Giá này, chúng ta hãy nhớ chính Chúa Giê-su cũng đã vác và chết trên Thánh giá, để đem tình yêu, ơn cứu rỗi và đời sống vĩnh cửu đến cho chúng ta và nhân loại. Tất cả chúng ta có tự do vác hay không vác Thánh Giá Chúa.
Ông bà anh chị em thân mến. Suy tôn Thánh Giá Chúa Giê-su là chúng ta suy tôn tình yêu cao vời của Chúa, cũng như cảm tạ ơn cứu độ và hạnh phúc vinh quang vĩnh cửu của Chúa cho chúng ta. Chúng ta cảm tạ Chúa vì đã ban cho chúng ta đức tin, để chúng ta can đảm và vui mừng vác Thánh Giá Chúa trong đời sống, để được kết hợp trong mầu nhiệm tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa. Trong Mầu Nhiệm ấy, cuộc sống của chúng ta không còn bị đè bẹp dưới sức nặng của đau khổ, nhưng luôn mang lấy một ý nghĩa cao cả hơn: đó là tình yêu cao vời củaThiên Chúa. Chúng ta cầu xin và luôn tin tưởng Chúa sẽ ban cho chúng ta sức mạnh và can đảm để chúng ta vác Thánh Giá Chúa trong sự bình an với một niềm tin vững chắc Thánh giá sẽ đem tới vinh quang và hạnh phúc vĩnh cửu.
73. Chiêm ngắm tình yêu
(Suy niệm của JB. Lê Đình Nam)
Đối với người đời, hình ảnh thập giá là một điều gì đó đau đớn tột cùng và một sự thất bại thê thảm. Tuy nhiên, với người Công giáo thì khác, thập giá là biểu tượng của hy sinh, của tình yêu và vinh quang.
Hôm nay Giáo hội mời gọi chúng ta cùng nhau suy tôn Thánh giá, tức là chiêm tình yêu tự hủy của Thiên Chúa dành trọn cho con người. Chính nơi thập giá ấy, ơn cứu chuộc đã đến với con người và cánh cửa trong thân phận làm con Thiên Chúa được rộng mở.
Chúa Giêsu đã không chỉ tự hạ mình để đến với nhân loại trong thân phận con người. Nhưng hơn thế nữa, Ngài đã tự hiến thân mình trên cây thập giá để tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa được tuôn đổ trên con người.
Thay vì thập giá là biểu tượng của sự ô nhục và thất bại thì ngang qua cái chết của Đức Giêsu, thập giá đã trở nên biểu tượng của sự chiến thắng tội lỗi và đem lại vinh quang cho con người bằng một tình yêu vô vị lợi.
Thay vì thập giá là biểu tượng của sự đau khổ và vô cảm, thì ngang qua sự hiến thân của Đức Giêsu, thập giá đã trở nên biểu tượng của sự hòa giải và tình liên đới với Thiên Chúa bằng một tình yêu khiêm hạ.
Thay vì thập giá là biểu tượng của sự hận thù và chết chóc, thì ngang qua việc hy sinh mạng sống của Đức Giêsu, thập giá đã trở nên biểu tượng của một Đức tin tinh tuyền và một tình yêu son sắt mà Thiên Chúa dành tặng cho nhân loại.
Thật thế, mỗi một người Công giáo luôn xác tín rằng, thập giá không phải là một kết thúc, nhưng là một sự bắt đầu. Thập giá không phải là sự yếu đuối nhưng là sức mạnh của tình yêu đến nỗi thí mạng sống cho người mình yêu. Và thập giá không phải là sự chết, nhưng hơn thế đó chính là sự sống mới của con người trong tư cách làm con Thiên Chúa.
Suy tôn Thánh giá là cơ hội để chúng ta chiêm ngắm tình yêu của Thiên Chúa – Người là cội nguồn của tình yêu. Đây cũng là giây phút thiết thực để mỗi chúng ta nhìn lại hành trình sống chứng nhân tình yêu của mình đối với Chúa và tha nhân.
Trong một thế giới đang mải mê tìm kiếm vật chất như hôm nay, tình yêu dường như đang trở nên khan hiếm và rẻ mạt. Khi mà mọi thứ xung quanh đang được cung cấp một cách đầy đủ và tiện nghi hơn, thì xem ra tình yêu lại đang bị thiếu hụt và xem thường một cách trầm trọng.
Tình người đang được cân đong đo đếm bằng những lợi lộc vật chất và địa vị. Tình yêu nam nữ đang được xây dựng trên trên những quy chuẩn của tiền tài và dục vọng. Do đó, sự khủng hoảng đời sống gia đình đang trở nên báo động hơn bao giờ hết. Sự thờ ơ vô cảm trở nên lối sống chung của con người thời hiện đại. Và xã hội trở nên như một chiến trường của sự tranh giành, đấu đá và chỉ biết nghĩ cho riêng mình.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến những đỗ vỡ đó chính là sự thiếu vắng tình yêu. Và cốt lõi của đó chính là sự đánh mất niềm tin vào một Thiên Chúa – Đấng đầy tình yêu thương.
Lễ Suy tôn Thánh giá mời gọi chúng ta chiêm ngắm tình yêu vô tận của Thiên Chúa. Một tình yêu tự hạ để đến và sẻ chia với thân phận con người. Một tình yêu tự nguyện để đồng hành và thấu hiểu nỗi thống khổ của phận người. Một tình yêu tự hiến để hàn gắn tình nghĩa phụ tử của Thiên Chúa với con người.
Suy tôn Thánh giá không chỉ dừng lại ở việc nhận ra tình yêu hải hà của Thiên Chúa trên cuộc đời mình, mà còn mời gọi mỗi người chúng ta sống tình yêu đó một cách triệt để và cụ thể nơi cuộc sống hằng ngày. Để ngang qua đời sống chứng nhân đó, hình ảnh một Thiên Chúa đầy tình yêu thương và giàu lòng thương xót đến được với nhân loại đang quặn mình trong đau khổ và tội lỗi.
Dẫu biết rằng dòng đời vẫn còn đó lắm vất vả gian truân, nhưng sẽ đẹp biết mấy nếu mỗi chúng ta biết dành tình thương cho nhau. Xã hội sẽ trở nên giá trị và bình yên hơn nếu mỗi chúng ta biết tôn trọng phẩm giá con người bằng tình liên đới và sẻ chia trong cuộc sống. Và tất cả điều đó sẽ được bắt đầu khi mỗi chúng ta biết nhìn lên Thập giá Đức Kitô, chiêm ngắm tình yêu Thiên Chúa và thực hành tình yêu đó mỗi ngày trong đời.
74. Thập Giá trong đời
(Suy niệm của Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
Ở đời người ta vẫn thường nói: Tu là cõi phúc – tình là giây oan. Thực ra, cuộc đời nào cũng có thập giá. Thập giá như là lẽ sống của cuộc đời. Có thập giá thoáng qua và cũng có những thập giá liên lỉ dài lâu. Có thập giá nhẹ nhàng mà mình tự nguyện vác lấy nhưng cũng có thập giá nặng nề mà mình phải gánh giùm tha nhân. Có thập giá khiến ta mệt mỏi nhưng cũng có thập giá khiến ta vui mừng.
Xem ra thập giá là tất yếu trong cuộc sống. Con người không thể trốn chạy thập giá. Và dường như chúng ta vẫn khuyên bảo nhau hãy can đảm đón nhận vì là ý Chúa, vì là điều tốt cho mình và cho tha nhân.
Tôi đã nghe người ta an ủi một người mẹ có đứa con duy nhất đang bị ung thư, với lời lẽ hết sức phó thác: “Thiên Chúa yêu thương chị lắm cho nên Ngài mới gởi Thánh Gía để thử thách chị đấy!”
Hoặc gặp một người bạn đang bị thất nghiệp, nợ nần chồng chất, vợ bệnh, con đau. Chúng ta thường khích lệ họ: “Người càng giỏi thì Chúa lại càng gởi khó khăn để mình vượt qua. Thế nên đừng sợ!”
Khuyên người thì dễ nhưng bản thân khi phải đối diện với thập giá lại không dễ dàng. Vì thập giá là đau thương, là tủi hận, nên đâu dễ đón nhận. Đón nhận thập giá là chấp nhận từ khước sự an nhàn, hạnh phúc cho bản thân để sống cho Chúa và đồng loại. Đón nhận thập giá là đón nhận sự ô nhục, và khinh khi của đồng loại.
Có lẽ chúng ta vẫn nhớ hình ảnh Thầy Chúa Giêsu vác thập giá lên đỉnh đồi Calve và chấp nhận chết treo trên cây thập giá. Quả thật Thập giá là “một ô nhục đối với người Do thái và; là điều điên rồ đối với dân ngoại giáo”(1Cr 1,23).
Thế mà Chúa Giêsu lại mời gọi chúng ta vác lấy cái ô nhục đó! Vì đối với Thiên Chúa đó là dấu chỉ của sự chiến thắng “vì qua đau khổ mới tiến tới vinh quang”. Và thập giá đối với Chúa còn có giá trị cứu độ vì “khi nào Ta bị giương cao lên, Ta sẽ kéo mọi người lên”.
Có lẽ chúng ta cũng thắc mắc: “Thiên Chúa gửi thập giá hay thử thách đến cho tôi để làm gì vậy?”. Điều này chúng ta cũng phải hỏi: “Tại sao người ta cứ phải trải qua những kỳ thi, những cuộc trắc nghiệm, khảo hạch,… rồi mới lãnh được bằng tốt nghiệp trung học, đại học, mới được công nhận là bác sĩ, giáo sư, luật sư?”
Như vậy, thập giá là nhịp cầu để cho ta tiến lên và chắc chắn sẽ trưởng thành hơn khi vượt qua thập giá. Hơn nữa, thập giá còn cho ta được thông phần vào sự thương khó của Chúa để cứu độ bản thân và anh em. Khi chúng ta đón nhận thập giá trong đời là dịp để chúng ta dâng đau khổ hầu xin Chúa tha thứ những hình phạt cho bản thân chúng ta. Và dâng hy sinh đau khổ để xin Chúa nguôi cơn thịnh nộ giáng xuống địa cầu vì tội lỗi nhân loại. Như vậy, chúng ta đón nhận thập giá là vì Chúa và vì nhân loại. Và phải có cái nhìn như vậy chúng ta mới có thể vui vẻ lạc quan ngay cả khi khốn khó tư bề.
Chúng ta thử nghĩ nếu chúng ta không vì Chúa thì làm sao chúng ta yêu mến người bên cạnh, người đồng hành luôn gây gỗ với chúng ta, có khi còn luôn thù ghét chúng ta?
Chúng ta thử nghĩ nếu chúng ta không vì Chúa thì làm sao chúng ta hy sinh chu toàn bổn phận hằng ngày để đem lại hạnh phúc cho gia đình?
Chúng ta thử nghĩ nếu chúng ta không vì Chúa thì làm sao chúng ta có thể đón nhận biết bao nghịch cảnh trái ngang đến với chúng ta như: bệnh tật, hiểu lầm, già yếu, ganh ghét, chê bai…
Mỗi người đều có thánh giá phải mang. Nhưng Chúa sẽ không bao giờ trao thánh giá vượt khả năng của chúng ta. Thế nên, chúng ta hãy tin tưởng đón nhận mọi khó khăn vì Chúa, nhất là hãy biết cậy dựa vào ơn Chúa để vượt qua.
Ước gì mỗi người chúng ta luôn tìm ra ý Chúa trong cuộc sống và đón nhận theo thánh ý cho dù có vì đó mà phải vác thập giá hằng ngày theo chân Chúa. Amen.
75. Chân dung của Lòng Thương Xót
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc)
Dân Chúa kinh nghiệm về tội của mình đối với Đức Chúa trong dòng lịch sử, và những suy tư về kinh nghiệm này đã làm cho Dân Chúa khám phá bản chất của tội. Suy tư này được trình bày bằng ngôn ngữ biểu tượng trong trình thuật St 2-3, mặc khải cho chúng ta bản chất hay yếu tính của tội, nghĩa là cái có mặt trong mọi thứ tội. Và mọi tội đều tự nó có “nọc độc” gây chết chóc cho mình và cho người khác.
Lời Chúa trong sách Dân Số và trong Tin Mừng Gioan, qua hình ảnh “Con Rắn”, sẽ đưa chúng ta đi xuyên suốt lịch sử cứu độ, khởi đi từ kinh nghiệm phạm tội trong sa mạc (Ds 21,6), trở về với thời điểm khởi đầu của sự sống (St 3), sau đó đi đến ngôi vị của Đức Kitô (Ga 3, 14) và vươn xa tới tận thời cánh chung (Kh 12, 7-10). Các trình thuật này nêu ra cho chúng ta ba câu hỏi:
– Tại sao lại là rắn?
– Tại sao Con Người cũng sẽ phải được giương cao, như con rắn đồng trong sa mạc?
– Tại sao cái nhìn có khả năng chữa lành?
- Tại sao lại là con rắn?
- Nghi ngờ Thiên Chúa
Đi trong sa mạc trong một thời gian dài, thiếu ăn thiếu uống. Đó là một thử thách rất thật và rất lớn, vì của ăn của uống là nhu cầu thiết yếu cho sự sống. Tuy nhiên, vấn đề là lòng họ hướng về đâu? Họ tìm gì khi bỏ Ai Cập ra đi theo tiếng gọi của Đức Chúa dưới sự hướng dẫn của Mô-sê? Nếu con tim của họ chỉ hướng về việc thỏa mãn những nhu cầu của mình thôi, thì tất yếu đến một lúc nào đó, họ sẽ mất kiên nhẫn. Bởi vì nhu cầu thì không có cùng tận.
Trước hết là nhu cầu của cái nhìn, họ đi theo Chúa dưới sự hướng dẫn của Môsê là nhằm để thỏa mãn cái nhìn. Vì thế, họ nhìn thấy bao dấu lạ, nhất là dấu lạ vượt qua Biển Đỏ khô chân, nhưng họ vẫn không chịu tín thác vào Đức Chúa (Tv 106). Chẳng lẽ Chúa lại phải làm cho họ dấu lạ mỗi ngày? Ngang qua một vài dấu lạ, họ được mời gọi trao ban lòng tin, lên đường và đi đến cùng. Giống như, những người cùng thời với Đức Giêsu, chứng kiến bao dấu lạ Ngài làm, và chính ngôi vị của Ngài là một dấu lạ, thế mà vẫn cứ đòi dấu lạ từ trời. Lúc Đức Giêsu chịu đóng đinh trên Thập Giá, họ vẫn đòi dấu lạ: “xuống khỏi Thập Giá đi để chúng ta thấy, chúng ta tin”. Họ cứ nghĩ là thấy thì tin, đó là ảo tưởng. Bởi vì thấy, thì thấy một lần trong một thời điểm và nơi chốn nhất định; trong khi tin là tin vào một ngôi vị, tin suốt đời ở mọi nơi mọi lúc. Tin lúc Chúa ban dấu lạ; và tin cả lúc Chúa không ban dấu lạ, như tác giả Thánh Vịnh nói: “tôi đã tin, cả khi mình đã nói: ôi nhục nhã ê chề” (Tv 116, 10). Trong thực tế cuộc sống, như mỗi người chúng ta đều có kinh nghiệm, và chính Dân được Đức Chúa tuyển chọn cũng có cùng một kinh nghiệm, những ngày không có dấu lạ gì mới là nhiều; và có những ngày, những giai đoạn đầy đau khổ và thử thách:
Tôi tự bảo: điều làm tôi đau đớn,
là Đấng tối cao chẳng còn ra tay nữa. (Tv 77, 11)
Hành trình đi theo Đức Kitô của chúng ta cũng thế, chúng ta nhận ra dấu lạ nào đó Chúa ban cho mình và chúng ta được mời gọi tin vào tình yêu trung tín của Chúa và chúng ta đáp lại suốt đời ngang qua đời sống hàng ngày, những ngày rất đỗi bình thường cũng như những ngày đầy thách đố, khó khăn. Nhưng chúng ta cũng có kinh nghiệm này: khi tin rồi, chúng ta sẽ thấy mọi sự đều lạ.
Mà ham muốn nhìn cũng chính là ham muốn ăn: đói thì Chúa cho ăn; ăn manna một hồi thì thèm thịt, Chúa cho ăn thịt chim cút; ăn chim cút một hồi, rồi thì cũng chán: “chúng tôi chán ngấy thứ đồ ăn vô vị này”. Nhất là khi chứng kiến dân ngoại, họ ăn uống cao lương mĩ vị, dân sẽ càng thèm muốn hơn nữa. Những chuyện như vậy cứ lập đi lập lại nhiều lần: điều Ngài đã làm hôm qua, Ngài sẽ làm hôm nay không? Đức Chúa có ở giữa chúng ta hay không? (Xh 17, 7) Làm sao “biết” được đây? Ham muốn của cái nhìn, ham muốn của cái bụng, ham muốn của cái biết gặp gỡ nhau. Và cuối cùng, thái độ của con người được hình thành, khi kêu trách: “Tại sao lại đưa chúng tôi ra khỏi đất Ai Cập, để chúng tôi chết trong sa mạc, một nơi chẳng có bánh ăn, chẳng có nước uống?” À ra như thế, Thiên Chúa muốn chúng ta chết, Mô-sê muốn chúng ta chết. Đó chính là thái độ “thử thách”.
Trong Kinh Thánh, câu nói “thử thách Thiên Chúa” mang một ý nghĩa đặc biệt, đó là không tin Thiên Chúa: trong sa mạc, Dân Chúa thử thách Thiên Chúa đến 10 lần, nghĩa là lúc nào cũng thử thách Thiên Chúa, cũng không tín thác nơi Thiên Chúa (Ds 14, 22: thử thách 10 lần; Tv 106, 14); và tội nguyên tổ cũng là một dạng của hành vi thử thách Thiên Chúa, nghĩa là không tin Thiên Chúa không tín thác nơi Chúa trong thực tế cuộc sống. Vì thế, yếu tính của tội nguyên tổ, nghĩa là của mọi tội, là không tin nơi Thiên Chúa, không tín thác nơi ngài trong thiếu thốn, trong gian nan khổ đau của thân phận con người. Hành vi vi phạm giới răn chỉ là hệ quả của một thái độ nội tâm, quên ơn huệ và vì thế nghi ngờ Thiên Chúa.
Như thế, tất cả mọi sự Thiên Chúa đã làm cho họ trở thành vô nghĩa, thậm chí trở thành kế hoạch giết chết. Chúng ta hãy dừng lại đây thật lâu để nghiệm được hết mức độ nghiêm trọng của những lời dân Israen thốt ra đây. Đó là chính là thái độ nghi ngờ Thiên Chúa, và tội nghi ngờ Thiên Chúa tất yếu dẫn đến những hành vi gây chết chóc, gây chết chóc cho chính mình và cho người khác. Nghi ngờ Thiên Chúa, nên họ quay ra thờ ngẫu tượng, vì ngẫu tượng có vẻ “linh” hơn; “linh” có nghĩa là có khả năng đáp ứng tốt hơn nhu cầu, phát xuất từ lòng ham muốn; ham muốn nhìn, ăn và biết của họ. Và vì nghĩ rằng mình được dẫn vào sa mạc là để bị bỏ mặc cho chết (trong khi mục đích của hành trình là Đất Hứa, nghĩa là Miền Đất Sự Sống trong Đức Chúa), nên họ nổi loạn ném đá toan giết chết Môsê (x. Xh 17).
- Con rắn
Trong trình thuật về Tội Nguyên Tổ (St 3, 1-7), lời dụ dỗ của con rắn đã làm cho bà Evà và ông Adam nghi ngờ Thiên Chúa: Thiên Chúa nói rằng, ăn trái cây đó thì chắc chắn sẽ chết, nhưng con rắn nói: “chẳng chết chóc gì đâu!” Tin vào lời con rắn, đồng nghĩa với việc cho rằng Thiên Chúa nói dối! Đó là cho rằng, Thiên Chúa lừa dối con người, vì Ngài không muốn chia sẻ sự sống của mình; đó là nghĩ rằng, Ngài tạo dựng con người để bỏ mặc con người trong sa mạc cuộc đời và nhất là cho số phận phải chết. Tin vào lời con rắn, chính là bị con rắn cắn vào người, chính là bị nó tiêm nọc độc vào người. Và hậu quả là tương quan tình yêu giữa con người với Thiên Chúa, giữa con người với con người bị phá vỡ. Hậu quả tất yếu là chết chóc, như Thiên Chúa đã báo trước: “Ngày nào ngươi ăn chắc chắn ngươi sẽ phải chếhắc chắn ngươi sẽ phải chết” (St 2, 17). Mười một chương đầu của sách Sáng Thế cho thấy rõ, Lời Chúa là chân thật.
Dựa vào trình thuật Vườn Eden, chúng ta hiểu ra rằng, rắn độc mà sách Dân Số nói đến, chính là hình ảnh diễn tả sự nguy hại chết người của thái độ nghi ngờ Thiên Chúa: kế hoạch cứu sống, khi gặp khó khăn lại bị coi là kế hoạch giết chết. Nghi ngờ Thiên Chúa, đó là để cho mình bị rắn cắn, đó là mang nọc độc vào người.
Chắc chắc chúng ta cũng có kinh nghiệm nghi ngờ Thiên Chúa, nghi ngờ ý định tốt lành của Thiên Chúa, khi cho chúng ta được làm người và sống trong một ơn gọi: Tại sao Chúa lại sinh ra con như thế này: thiếu đủ thứ, kém cỏi đủ thứ, thua thiệt đủ thứ? Sao con không như anh kia, chị nọ? Tại sao con lại ra nông nỗi này, rơi vào tình cảnh khổ sở như thế này, Chúa dẫn vào đây để làm gì? Những lúc khủng khoảng như thế, chúng ta cũng kinh nghiệm được những hậu qủa tại hại của thái độ nghi ngờ. Trong khi đó, mỗi người chúng ta, theo Tv 139, là một tuyệt tác, mà nhiều khi chúng ta lại mù quáng không nhận ra: “Chúa dựng nên con cách lạ lùng”.
- Tại sao “Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy”?
Đức Giê-su, ngay từ những lời nói đầu tiên trong đời sống công khai, trong Tin Mừng theo thánh Gioan (3, 14), đã đặt mầu nhiệm Thập Giá mà Người sẽ sống trong tương quan rất trực tiếp với hình ảnh “con rắn”, biểu tượng của Tội và Sự Dữ:
Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.
Theo lời này của chính Đức Kitô, chúng ta nên hình dung ra, hay tốt hơn là vẽ ra, một bên là “Con Rắn” bị giương cao trên cây gỗ, một bên là Đức Kitô được giương cao trên cây thập giá, thay vì là Sự Dữ, là Sa-tan, bởi vì theo luật, chỗ trên cây thập giá phải là chỗ của tử tội, của chính Tội. Như thế, Đức Kitô trong Cuộc Thương Khó, sẽ tự nguyện thế chỗ cho con rắn. Thực vậy, thánh Phaolô nói, Ngài lại tự nguyện trở nên “giống như thân xác tội lội” (Rm 8, 3); và Ngài “đồng hóa mình với tội” (2Cr 5, 21 và Gl 3, 13). Tội có bản chất là ẩn nấp, khó nắm bắt, giống như con rắn, nhưng đã phải hiện ra nguyên hình nơi thân xác nát tan của Đức Kitô: “tội để lộ chân tướng và cho thấy tất cả sức mạnh tội lỗi của nó” (Rm 7, 13). Thập Giá Đức Kitô mặc khải cho loài người chúng ta hình dạng thật của Tội. Chính vì thế mà trong Tin Mừng theo thánh Mác-cô, Đức Giê-su dạy, chứ không phải báo trước, các môn đệ về cuộc Thương Khó của Người (x. Mc 8, 31). Vì, thế, chúng ta được mời gọi nhìn lên Đức Kitô chịu đóng đinh, để nhìn thấy:
– thân thể nát tan của Người vì roi vọt, kết quả của lòng ghen ghét, của lòng ham muốn, của sự phản bội, của sự bất trung, và của những lời tố cáo, lên án vô cớ, của vụ án gian dối;
– đầu đội mạo gai của Người, tượng trưng cho những lời nhạo báng, diễu cợt trên ngôi vị;
– chân tay của Người bị đanh đâm thủng và ghim vào giá gỗ; hình ảnh này cho thấy con người đã đánh mất nhân tính, và hành động theo thú tính;
– và cạnh sườn của Người bị đâm thủng, thấu đến con tim. Sự Dữ luôn đi đôi với bạo lực; và bạo lực luôn muốn đi tới tận cùng, là hủy diệt (x. Dụ ngôn “Những tá điền sát nhân”). Nhưng đồng thời cũng ở nơi đây, trên Thập Giá, tình yêu, lòng thương xót, sự thiện, sự hiền lành và cả sự sống nữa, của Thiên Chúa cũng đi tới tận cùng!
- Tại sao cái nhìn có khả năng chữa lành?
Theo lời của Đức Chúa, Mô-sê khi đó đã treo một con rắn bằng đồng lên cột gỗ và ai nhìn lên nguyên nhân gây ra cái chết được phô bày ra đó, thì đã được chữa lành. Nếu hình phạt bị rắn độc cắn là nặng nề, cho thấy rằng, thái độ nghi ngờ và kêu trách tự nó mang nọc độc giết người, thì ơn chữa lành thật nhẹ nhàng và nhưng không: “ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống”. Cũng giống như khi người ta chữa bệnh: trước tiên phải tìm ra nguyên nhân gây bệnh; và khi tìm được, thì hoặc dùng thuốc hóa giải nó đi, hoặc phải cắt bỏ ra khỏi cơ thể.
Như Dân Chúa trong sa mạc nhìn lên con rắn đồng, chúng ta được mời gọi ngước nhìn lên Đức Kitô chịu đóng đinh: “Họ sẽ nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu” (Ga 19, 37). Nhưng thay vì bị lên án, loài người chúng ta được mời gọi nhìn lên Đấng Chịu Đinh với lòng tin để đón nhận ơn tha thứ và được chữa lành.
Ơn tha thứ. Thập Giá, chính là lời diễn tả tình yêu thương xót nhưng không và vô biên của Thiên Chúa. Vì thế, khi nhìn lên Thập Giá Đức Kitô, chúng ta được mời gọi nghiệm ra tình yêu của Thiên Chúa, một tình yêu có thể chịu đựng mọi tội lỗi của con người đến như thế.
Ơn chữa lành. Đúng là Thánh Giá mặc khải cho con người bản chất của Tội, nhưng không phải là để lên án con người, mà là để cứu sống con người. Thiên Chúa không thể tha thứ cho con người mà không đồng thời chữa lành, bằng cách làm cho con người nhìn ra hình ảnh thật sự của tội. Nghi ngờ Thiên Chúa là căn bệnh nan y, nhưng được chữa lành tận căn bằng Thập Giá: Tình yêu đi đến mức “điên rồ” đến như thế; chúng ta cũng được mời gọi yêu Chúa “điền rồ” như thế. Chữa lành khỏi hình ảnh sai lầm về Thiên Chúa. Và Thập Giá còn mặc khải cho chúng ta rằng thân phận con người không phải là một hành trình dẫn đến chỗ chết (St 3 và Ds 21). Con người muốn vươn lên bằng Thiên Chúa, nhưng Con Thiên Chúa làm người và làm người đến tận cùng (Ph 2, 5-11), để nói với chúng ta rằng, Thiên Chúa tạo dựng nên con người không phải để đầy đọa, thử thách và lên án, và thân phận con người, dù có như thế nào, là con đường dẫn đến Thiên Chúa, nguồn Sự Sống.
76. Vinh quang Thập Giá
(Suy niệm của JM. Lam Thy ĐVD.)
Cũng đã có những ý kiến trái chiều về việc suy tôn Thánh Giá, đa phần là của những người không cùng tín ngưỡng. Họ lý luận: Dù cho Đức Giê-su Thiên Chúa có thực sự chết treo trên thập giá để cứu chuộc nhân loại, thì thập giá – vì là hình cụ ác độc giết Chúa (tức là biểu trưng cho tội lỗi loài người) – cũng không thể trở nên một biểu tượng để tôn vinh, tôn thờ. Hình ảnh Chúa Giê-su chết treo trần truồng trên thập tự đáng lẽ phải dấu đi, chớ sao lại để ở những nơi công khai, nhất là trên các bàn thờ. Làm như vậy chẳng hóa ra là bêu riếu Chúa như một kẻ tội đồ sao?
Đúng là cổ nhân đã dùng thập tự giá để treo tội nhân bị xử án tử lên, lột hết quần áo nhằm phơi bày hết hình hài của họ để bêu riếu, nhục mạ. Và cũng vì thế nên ngày xưa ở Việt Nam, các cụ vẫn gọi cây thập tự treo Chúa Giê-su là cây thập ác. Ngay ở thời gian đầu của Giáo Hội tiên khởi, các Ki-tô hữu đầu tiên cũng rất xấu hổ về thập giá đến nỗi không bao giờ dùng làm biểu tượng đức tin (chớ đừng nói đến vấn đề tôn vinh, tôn thờ cây thập ác đó); vì cho rằng thập giá là giá treo cổ, là hình phạt chỉ dành cho những người xấu xa và nô lệ. Cứ kể ra nhìn vấn đề theo “con mắt thịt” của “tư tưởng loài người” (Mt 16, 23) thì đúng là như vậy; nhưng nếu chịu khó dùng nhãn quan “nhìn linh thị” (Ds 24, 16) sẽ thấy quả thật con mắt thịt của “cái vỏ bằng đất này làm linh hồn ra nặng” (Kn 9, 15).
Có lẽ lại phải nhắc lại ở đây Lời dạy của chính Đấng bị treo trên thập ác: “Tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mc 8, 33). Cũng chẳng khác hình ảnh con rắn đã được sách Sáng Thế Ký miêu tả: “Rắn là loài xảo quyệt nhất trong mọi giống vật ngoài đồng, mà ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa đã làm ra.” (St 3, 1). Nó được Xa-tan dùng làm công cụ quyến rũ Nguyên tổ phạm tội, và vì thế có thể nói rắn chính là Xa-tan, xứng đáng được nhận lời nguyền rủa của Đức Chúa: “Mi đã làm điều đó, nên mi đáng bị nguyền rủa nhất” (St 3, 14). Rắn là biểu tượng của sự ranh ma quỷ quyệt, của tội lỗi; đồng thời rắn cũng là biểu tượng của hình phạt (câu chuyện dân It-ra-en oán trách Đức Chúa và bị Người phạt bằng cách cho rắn độc cắn chết nhiều người (“Bấy giờ ĐỨC CHÚA cho rắn độc đến hại dân. Chúng cắn họ, khiến nhiều người Ít-ra-en phải chết.” – Ds 21, 6).
Tuy nhiên, rắn cũng lại là biểu tượng cứu độ (“Ông Mô-sê khẩn cầu cho dân. ĐỨC CHÚA liền nói với ông: “Ngươi hãy làm một con rắn và treo lên một cây cột. Tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống.” Ông Mô-sê bèn làm một con rắn bằng đồng và treo lên một cây cột. Và hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống.” – Ds 21, 7-9). Và liên tục cho đến ngày nay, thế giới đã dùng hình ảnh con rắn làm biểu tượng “cứu nhân độ thế” của y học: Ngành y thì lấy biểu tượng “Con rắn quấn quanh cây gậy”, ngành dược thì lấy biểu tượng “Con rắn quấn quanh cái ly thuốc”, cả 2 biểu tượng đều “tượng trưng cho sự khôn ngoan, khả năng chữa trị bệnh và kéo dài tuổi thọ” (xc “Truyền thuyết Hy Lạp về thần Esculape bổn mạng các thầy thuốc”, hoặc “Truyền thuyết về thần Hermès” – thần thoại Hy Lạp; hoặc “Truyền thuyết về thần Mecure” của người La Mã).
Chính vì “để ứng nghiệm lời Kinh Thánh”, Đức Giê-su mới ví cuộc khổ nạn thập giá của Người như hình ảnh con rắn đồng được giương cao để những ai nhìn lên thì sẽ được sống (“Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.” – Ga 3, 14-15). Điều đó cho thấy công trình cứu độ nhân loại đã được Thiên Chúa tiền định từ cái ngày mà Nguyên tổ vì “ăn trái cấm” mà sa vòng tội lỗi, bị sự chết thống trị. Chính Đấng Cứu Độ khi xuống trần thi hành sứ vụ, Người luôn luôn nói đến những việc Người làm, những Lời Người dạy đều “ứng nghiệm lời Kinh Thánh”. Nói cách khác, mầu nhiệm Đức Giê-su vâng lời Chúa Cha, xuống trần thực hiện công trình cứu độ nhân loại, tất cả diễn biến đều đã được Kinh Thánh Cựu Ước tiên báo. Như vậy thì việc Đức Giê-su chịu khổ hình thập giá hoàn toàn không phải ngẫu nhiên mà có, nhưng đã được Thiên Chúa Cha tiền định ngay từ khi Nguyên tổ phạm tội. Và để hiểu được sự kiện suy tôn Thánh Giá, thì phải hiểu rõ tại sao Đức Giê-su bị chết treo trần truồng trên thập tự.
Nếu chỉ nhìn vào hình ảnh cây thập giá treo thân xác trần truồng, bầm giập vì đòn roi của Đức Giê-su, thì sẽ thấy đó là sự điên rồ, “Thật thế, lời rao giảng về thập giá là một sự điên rồ đối với những kẻ đang trên đà hư mất, nhưng đối với chúng ta là những người được cứu độ, thì đó lại là sức mạnh của Thiên Chúa… Thật vậy, thế gian đã không dùng sự khôn ngoan mà nhận biết Thiên Chúa ở những nơi Thiên Chúa biểu lộ sự khôn ngoan của Người. Cho nên Thiên Chúa đã muốn dùng lời rao giảng điên rồ để cứu những người tin. Trong khi người Do-thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy-lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Ki-tô bị đóng đinh, điều mà người Do-thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ.” (1Cr 1, 18-23). Quả thực, kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa dành cho loài người, tuy đã quá hiển nhiên theo diễn tiến các biến cố Tin Mừng, nhưng vẫn còn là một sự huyền nhiệm mà lý trí con người không thể giải thích đầy đủ. Và vì thế vẫn rất cần sự giải đáp từ nơi Người bị coi là điên rồ đó:
Vâng, chính Đức Giê-su Thiên Chúa sẽ giải đáp vấn nạn trên (như Người đã giải thích cho ông Ni-cô-đê-mô – Ga 3, 1-21): “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ.” (Ga 3, 16-17). Thật thế, “Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Vì Người phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành.” (1Pr 2, 24). Tất cả đã minh họa cho chân lý Tình Yêu: Con Người điên rồ chết treo trên thập tự lại chính là “Đức Ki-tô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Vì cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người.” (1Cr 1, 24-25).
Không ai có thể ngờ được một dụng ý độc ác của con người lại được Thiên Chúa mạc khải thánh ý của Người: Đức Giê-su bị treo lên như vậy là Người vâng phục thánh ý Thiên Chúa Cha (cây gỗ đứng) dang rộng hai tay kéo mọi người lên (thanh gỗ ngang). Cũng giống như tấm bảng viết INRI (Giê-su Na-da-ret – vua Do thái) quân dữ đóng phía trên đầu Chúa Giê-su nhằm chế nhạo Người, thì lại cho mọi người biết chính dân Do thái đã giết Vua của dân tộc họ, nói cách khác Vua Do thái đã chết vì tội lỗi của dân mình. Rõ ràng, Thập giá Chúa Ki-tô chính là “Thông điệp mà các Ki-tô hữu mang đến cho thế giới: Chúa Giê-su, là tình yêu nhập thể, đã chết trên thập tự giá cho tội lỗi của chúng ta, nhưng Chúa Cha đã cho Ngài sống lại và đặt Ngài trở thành Chúa của sự sống và cái chết. Trong Chúa Giê-su, tình yêu đã chiến thắng hận thù, lòng thương xót lướt thắng tội lỗi, sự thiện hảo chiến thắng trên sự dữ, sự thật vượt lên trên dối trá, sự sống đánh bại sự chết.” (Sứ điệp Phục Sĩnh 2014).
Mọi sự đã rõ ràng, vinh quang Thập Giá Chúa Ki-tô là điều đương nhiên. Người Ki-tô hữu phải ý thức khi chiêm ngắm Thánh giá thì cũng chính là lúc được trực diện với hình ảnh Thiên Chúa Tình Yêu Giê-su Ki-tô đang dang rộng hai tay mời gọi mọi người hãy trở nên đồng hình đồng dạng với Người. Một cách cụ thể, Người đang muốn nói với tất cả chúng ta: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” – Mt 22, 37-39). Cây Thánh giá hình chữ thập chính là biểu tượng cho hai điều răn quan trọng nhất ấy: Cây gỗ dọc là thân mình của mỗi Ki-tô hữu đang đứng thẳng vươn tới Thiên Chúa, thanh gỗ ngang là hai cánh tay dang rộng ôm lấy anh em trong yêu thương đùm bọc nhau. Nói khác đi, Đạo (con đường) Ki-tô chỉ có 2 chiều: chiều thẳng đứng chỉ sự công minh chính trực của Thiên Chúa là điều phải vươn tới và chiều nằm ngang chỉ tình cảm thương yêu đối với tha nhân là điều phải thực hiện trong cuộc sống.
Điều đó cho thấy cây thập tự treo Chúa trên Núi Sọ năm xưa thực sự là biểu tượng của Tình Yêu mà tổ chức Hồng Thập Tự quốc tế đã lấy làm biểu tượng cho mục đích và hoạt động của mình. Vậy thì vấn đề suy tôn Thánh Giá không chỉ là kính mừng cây gỗ thật đã treo Chúa Giê-su lên mà thánh nữ Hélène đã tìm được (Vào năm 326, sau khi tìm được di sản Thánh Giá thật, thánh Hélène, mẹ của Hoàng Đế Constantin, đã cho xây cất đền thờ tại Mộ Thánh ở thành thánh Giê-ru-sa-lem và đặt cây Thánh Giá vừa tim được tại đó để mọi người kính viếng).Nhưng phải là suy tôn Tình Yêu từ Vinh Quang Thập Giá tỏa sáng nơi Cây Sự Sống như lời thánh Gio-an Tông đồ: “Khoảng giữa quảng trường và hai bên doành nước có Cây Sự Sống, đơm quả mười hai lần, tháng nào sinh quả nấy, lá cây dùng để chữa lành các dân ngoại. Phúc cho những ai đã giặt áo mình trong Máu Con Chiên, chúng sẽ được quyền trên Cây Sự Sống, và được ngang qua cổng mà vào thành. Và ai bỏ bớt Lời trong Sách Thánh, Thiên Chúa sẽ bớt phần kẻ ấy hưởng nơi Cây Sự Sống.” (Kh 22, 2.14.19).
Vậy thì còn chần chờ gì nữa mà không cất cao lời chúc tụng: “Thập giá vinh quang ngất cao trời xanh. Thập giá chứng nhân cứu độ người trần. Ơn giải thoát sức sống cao vời trên Thánh Giá chính Ngài đã dâng hiến cho trần gian. TK 1: Vinh quang của ta chính là Thập Giá Đức Kitô, cho con tôn thờ Thánh Giá suối mạch chan hòa. Để được phục sinh vinh quang cùng Thập Giá, nhận lãnh phúc ân cứu độ trong tình Cha. TK 2: Cho con thành tâm tôn thờ Thập Giá Chúa uy linh yêu thương nhân loại giang tay chết trên thập hình. Dạt dào tình thương hôm nao Người tận hiến, để cứu thoát con đưa về trong bình an.” (TCCĐ “Vinh Quang Thập Giá”). Ước được như vậy. Amen.
77. Suy tôn Thánh Giá
THÁNH GIÁ: CON ĐƯỜNG ĐỜI SỐNG KITÔ
(Suy niệm của JM. Lam Thy ĐVD.)
Trong bài giảng lễ Suy tôn Thánh Giá (14/9/2014), Đức Giáo hoàng Phanxicô đã huấn dụ: “Chúng ta thấy các bức họa đẹp đẽ về Chúa Giê-su trên thập giá, nhưng thực tế thì khác hẳn. Ngài bị giày xéo và đổ máu vì tội chúng ta. Đây là con đường mà Ngài đã đi để khuất phục con rắn. Chúng ta phải nhìn lên Thập giá Chúa Giê-su, không phải thập giá kiểu nghệ thuật, được vẽ đẹp đẽ, nhưng là thập giá thực tế. Và chúng ta phải nhìn vào con đường của Ngài, vào Thiên Chúa đã tự hủy mình, đã hạ mình để cứu chúng ta. Đó là một hành trình đòi hỏi, vào những lúc gian khó, và vào những lúc thử thách, nhưng như thế mới là cuộc sống! Đây là con đường của Kitô hữu. Nếu một Kitô hữu muốn tiến tới trên con đường đời sống Kitô, thì người đó phải ngã xuống, như Chúa Giê-su đã từng ngã xuống. Đây là con đường của khiêm nhường, đúng thế, nghĩa là người Kitô hữu phải nhận lấy sự sỉ nhục hạ mình như Chúa Giê-su đã từng. Nếu chúng ta muốn tiến tới “trên con đường đời sống Kitô”, chúng ta phải hạ mình xuống, như Chúa Giê-su đã làm trên Thánh Giá.” (nguồn: Vatican.net).
Nói “Thánh Giá là con đường đời sống Kitô”, Đức Giáo hoàng muốn nhắc nhở người Kitô hữu hãy “vác thập giá mình mà theo Đức Kitô” (Mc 8, 34), mà muốn đi theo Người thì phải biết mộ mến và tôn sùng Thánh Giá, coi đó là kim chỉ nam cho hành trình vượt qua gian lao thử thách để tiến về quê Trời vĩnh cửu. Lòng mến mộ và tôn kính Thánh Giá đã có từ lâu đời trong Giáo hội. Theo Giáo phụ Tertuliano – chuyên gia về Giáo sử – thì ngay từ thời Giáo hội sơ khai, các Kitô hữu “Bất kỳ làm một việc gì có ý nghĩa, đều làm dấu Thánh Giá.” Thậm chí người Kitô hữu còn có thói quen làm dấu Thánh Giá trên người và vật như dấu chỉ sự chúc lành. Tuy nhiên, phải đến thế kỷ thứ 4 trở đi mới có ngày lễ dành để tôn vinh Thánh Giá. Thánh giá được suy tôn do một sự kiện trong lịch sử: Vào năm 326, sau khi tìm được di sản Thánh Giá thật, thánh Hélène, mẹ của Hoàng đế Constantin, đã cho xây cất 2 đền thờ: một tại Núi Sọ Calvario và một tại Mộ Thánh ở Thánh địa Giê-ru-sa-lem. Riêng tai Mộ Thánh ở Thánh địa Giê-ru-sa-lem, Thánh nữ đặt cây Thánh Giá vừa tim được tại đó để mọi người kính viếng. Các đền thờ này được cung hiến ngày 13/9/335. Lễ suy tôn Thánh giá Chúa Giê-su được lập ra để kỷ niệm ngày cung hiến đó, và ấn định lễ kính vào ngày 14/9. (nguồn: www.giaoducconggiaohdgm.org)
Cũng theo www.giaoducconggiaohdgm.org, còn một nguồn sử liệu giá trị khác về lễ Suy tôn Thánh Giá, đó là: Năm 614, dưới thời Hoàng Đế Héraclius I, những người Ba-tư xâm chiếm Giê-ru-sa-lem đã lấy mất cây Thánh giá do thánh Hélène tìm được. Héraclius đã nung nấu ý chí kiên quyết đấu tranh để lấy lại Thánh giá. Nhà vua đã cầu nguyện và lời cầu nguyện của ngài đã được Chúa thương chấp nhận. Năm 629, vua Héraclius đã đánh bại quân Ba-tư và trở về Constantinople trong tiếng hò reo, vui mừng của toàn thể dân chúng. Đón mừng chiến thắng, mọi người đều cầm trên tay cành lá ô-liu, với những bó đuốc chói sáng, cung nghinh Thánh giá thật của Chúa đã lấy lại được. Trong bầu khí khải hoàn, mọi người hân hoan triều bái, chúc tụng, tung hô, tôn vinh Thánh Giá.
Nhà vua vui mừng phấn khởi, quyết định rước Thánh Giá vào thành thánh Giê-ru-sa-lem. Nhưng khi tiến vào thành, trước khi lên núi Sọ, nhà Vua đã như tê dại đôi chân, không thể nào bước được. Giáo trưởng Zacharie hô to: ”Tâu Đức Vua, xin Đức Vua cởi bỏ bộ y phục sang trọng ra vì nó không xứng đáng với cảnh Chúa Giê-su khó nghèo, khiêm nhượng khi vác thập giá”. Vua Héraclius I liền cởi bỏ bộ xiêm y sang trọng và khoác vào người bộ quần áo nghèo hèn. Tức thì, một phép lạ vượt ngoài sức tưởng tượng của con người đã xảy ra: Nhà vua bước đi một cách nhẹ nhàng và dễ dàng trước sự chứng kiến của toàn dân. Chưa hết, Thiên Chúa còn làm thêm nhiều phép lạ trong ngày vinh quang thập giá được tỏ hiện này, để minh chứng tình thương bao la của Thiên Chúa dành cho dân Người.
Kể từ đó, Giáo hội thiết lập thánh lễ Suy tôn Thánh Giá vào ngày 14/9 hằng năm để cho mọi người kính nhớ biến cố trọng đại này. Đó cũng chính là nghi lễ biểu dương Thánh Giá vào Thứ Sáu Tuần Thánh mà dần dần lan rộng trong Giáo Hội Đông và Tây Phương. Sau đó, Đức Giáo Hoàng Gregorio (590–604) đưa vào Phụng Vụ Roma như nghi lễ Thứ Sáu Tuần Thánh ngày nay. Chính yếu là việc biểu dương, tôn kính “Gỗ Thập giá”, với lời kêu mời long trọng: Xướng: Đây là gỗ Thánh Giá, nơi treo Đấng cứu độ trần gian (“Ecce lignum crucis in quo salus mundi pependit”). Đáp: Chúng ta hãy đến thờ lạy (“Venite adoremus”). Vì thế, khi tham dự nghi lễ Thờ lạy Thánh Giá vào Thứ Sáu Tuần Thánh, người Kitô hữu hãy nhớ đến ý chỉ chính của Phụng vụ là tôn vinh “Gỗ Thập giá”, chứ không phải Thánh Giá có hình Chúa Giê-su.
Thánh giá nguyên là một hình cụ giết người, một biểu tượng của tội ác do con người tạo ra, trông giống như chữ thập “ 十 ” (số 10), nên được gọi là “cây thập tự” hoặc “thập tự giá 十 字 架 ” (cái giá treo hình chữ thập). Dân Do-thái (đứng đầu là “các kỳ mục, kinh sư, tức là toàn thể Thượng Hội Đồng” – Mc 15, 1) đã dùng hình cụ đó để giết Đức Giê-su, vì họ đã liệt Người vào hạng người có trọng tội cần phải trừ khử: “Họ bắt đầu tố cáo Người rằng: “Chúng tôi đã phát giác ra tên này xách động dân tộc chúng tôi, và ngăn cản dân chúng nộp thuế cho hoàng đế Xê-da, lại còn xưng mình là Mê-si-a, là Vua nữa… Hắn đã xúi dân nổi loạn, đi giảng dạy khắp vùng Giu-đê, bắt đầu từ Ga-li-lê cho đến đây.” (Lc 23, 2-5). Nhưng khi Tổng trấn Phi-la-tô – vị quan có thẩm quyền xét xử vụ án – nhận thấy Đức Giê-su không có lỗi lầm gì, ông muốn thả Người, thì đám đông không chịu và đồng thanh gào lên: “Đóng đinh nó vào thập giá!” Cuối cùng, “Tổng trấn Phi-la-tô thấy đã chẳng được ích gì mà còn thêm náo động, nên lấy nước rửa tay trước mặt đám đông mà nói: “Ta vô can trong vụ đổ máu người này. Mặc các người liệu lấy!” Đám đông lại càng say máu la lớn: “Máu hắn cứ đổ xuống đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi!” (Mt 27, 23-25).
Không ai có thể ngờ được một dụng ý độc ác của con người lại được Thiên Chúa mạc khải thánh ý của Người: Đức Giê-su bị treo lên như vậy là Người vâng phục thánh ý Thiên Chúa Cha (cây gỗ đứng) dang rộng hai tay (thanh gỗ ngang) kéo mọi người lên. Cũng giống như tấm bảng viết INRI (Giê-su Na-da-ret – vua Do-thái) quân dữ đóng phía trên đầu Chúa Giê-su nhằm chế nhạo Người, thì lại cho mọi người biết chính dân Do-thái đã giết Vua của dân tộc họ, nói cách khác Vua Do-thái đã chết vì tội lỗi của dân mình. Ngoài ra, hình ảnh chữ thập cũng được con người dùng làm biểu tượng cho sự thu gom, cộng hưởng (dấu cộng: +), đầy đủ hoàn toàn (thập phần hoàn hảo); như vậy thì cũng có nghĩa là tập hợp các phần tử lại thành một mối, và nếu các phần tử đó là con người thì chẳng phải đây là dấu chỉ sự đoàn kết yêu thương nhau đó sao? Cây thập tự trở nên một dấu chỉ gom lại những kẻ tin, để quy về một mối trong yêu thương; như Lời Đức Giê-su phán: “khi nào Ta chịu đưa lên cao khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta”. Người nói thế để chỉ Người phải chết cách nào.” (Ga 12, 32)
Rõ ràng từ một biểu tượng của tội ác, cây thập tự treo Chúa trên Núi Sọ năm xưa đã trở nên biểu tượng của Tình Yêu. Gọi thập tự giá là Thánh Giá chính là vì thế. Quả nhiên cây Thánh giá hình chữ thập chính là biểu tượng cho hai điều răn quan trọng nhất mà Con Người bị treo trên thập giá đã truyền dạy: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Mt 22, 37-39). Một cách cụ thể, cây thập tự treo Chúa không những biểu hiện cụ thể hồng ân cứu độ của Thiên Chúa, mà còn bộc lộ Lời Thiên Chúa mời gọi những kẻ tin hãy trở nên như một Thập Giá Chúa Kitô: Cây gỗ dọc là thân mình của mỗi Kitô hữu đang đứng thẳng vươn tới Thiên Chúa, thanh gỗ ngang là hai cánh tay dang rộng ôm lấy anh em trong yêu thương đùm bọc nhau. Nói cách khác, Đạo (con đường) Kitô chỉ có 2 chiều: chiều thẳng đứng chỉ sự công minh chính trực của Thiên Chúa là điều phải vươn tới và chiều nằm ngang chỉ tình cảm thương yêu đối với tha nhân là điều phải thực hiện trong cuộc sống.
Từ một cây gỗ bình thường đóng thành hình chữ thập (thập tự) làm hình cụ giết người nên được gọi là “thập ác” ( 十 惡 chữ thập độc ác chứa 10 tội nặng) sau khi thấm đẫm Máu của Đấng Cứu Thế Giê-su Kitô, đã biến ra “thập thành” (十 成 mười phần hoàn hảo); trở thành “hồng thập tự” ( 紅 十 字 chữ thập màu đỏ) và trở nên một biểu tượng cứu nhân độ thế mà cả thế giới – không phân biệt sắc tộc, màu da, ngôn ngữ, tôn giáo – đều lấy làm biểu tượng cho tình yêu thương, lòng bác ái. Đó chính là tổ chức từ thiện quốc tế Hồng Thập Tự (Hồng Thập Tự hội: 紅 十 字 會; “Société de la Croix-Rouge”; “Red Cross society”; “Roseus Crux societas”).
Hai điều răn của Kitô Giáo đã liên kết chặt chẽ với nhau trở nên một điều răn quan trọng nhất: “Mến Chúa vêu người”, cũng như 2 thanh gỗ đóng hình chữ thập nhuộm đỏ máu Chúa Kitô đã trở nên một Biểu-Tượng-Tinh-Yêu: HỒNG THẬP TỰ. Vâng, quả thực là Đạo Công Giáo chỉ sống và thực hành duy nhất một điều răn bao trùm lên tất cả: MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI. Muốn “mến Chúa” (yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực), thì tiên vàn phải biết “yêu người” (yêu người như chính mình), vì chỉ có “yêu người” mới thực sự là “mến Chúa”, bởi “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25, 40).
Giáo hội thiết lập lễ Suy tôn Thánh giá nhằm 2 mục đích chủ yếu: 1- Cổ võ sự thống hối và tôn thờ Thiên Chúa; 2- Kêu gọi yêu thương, hiệp nhất. Hiểu được như vậy, người Kitô hữu phải ý thức khi suy niệm mầu nhiệm Cứu Chuộc thì hãy trực diện chiêm ngắm Thánh giá để được trực diện với chính hình ảnh Thiên Chúa Tình Yêu Giê-su Kitô đang dang rộng hai tay mời gọi mọi người hãy trở nên đồng hình đồng dạng với Người. Vâng, “Vấn đề là được biết chính Đức Kitô, nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ của Người, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người, với hy vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết.” (Pl 3, 10-11). Và từ đó, hiệp ý cùng toàn thể Giáo Hội suy tôn Thánh Giá, ngõ hầu đi vào Mầu nhiệm Tình Yêu bằng tất cả tâm tình con dân thảo kính Thiên Chúa là Cha.
Ngày hôm nay, nhìn lên Thánh Giá, người Kitô hữu đừng quên “Đức Giê-su Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.” (Pl 2, 6-8). Tội ác loài người đã sản sinh ra hình cụ giết người khủng khiếp không những chỉ để giết hại lẫn nhau mà còn đóng đinh treo Con Thiên Chúa cho đến chết. Thú tính đó vẫn chưa dừng lại, càng văn minh, con người càng sản sinh khí cụ tàn độc giết hại lẫn nhau (khủng bố, chiến tranh bằng súng đạn, bom mìn hạt nhân, vũ khí hóa học… càng ngày càng ghê gớm quá sức tưởng tượng!).
Tóm lại, hình cụ thập tự giá nhờ nhuộm đỏ Máu Thánh Chúa Kitô đã thực sự trở nên một Khí Cụ Tình Yêu, một Khí Cụ Bình An (Kinh Hòa Bình) giúp người tín hữu chống lại ba thù, để sống chan hòa yêu thương với nhau. Xin hãy suy tôn Thánh Giá bằng tất cả tâm tình tri ân, sám hối và canh tân, nguyện cầu Thiên Chúa ban thêm lòng Tin để đáp trả được tình yêu vô lượng đó, đồng thời biết Cậy nhờ vào Thần Khí Chúa giúp củng cố thêm lòng Mến vốn dĩ rất mong manh yếu kém của mình. Hãy cầu xin Thiên Chúa đoái nhìn những thảm cảnh liên tiếp xảy ra trên thế giới này, từ những thiên tai (bão lụt, động đất, sóng thần…), đến những nhân tai (chiến tranh, khủng bố, thực phẩm giết người, nạo phá thai, hủy diệt trứng, tinh trùng…), nhất là thảm kịch “huynh đệ tương tàn bằng vũ khí hóa học” diễn ra khốc liệt. Hãy tha thiết cầu xin Chúa thương ban cho thế giới một nền hòa bình chân chính vĩnh cửu. Ước được như vậy.
Và xin cùng hợp hoan: “Thập giá vinh quang ngất cao trời xanh. Thập giá chứng nhân cứu độ người trần. Ơn giải thoát sức sống cao vời trên Thánh Giá chính Ngài đã dâng hiến cho trần gian. TK 1: Vinh quang của ta chính là Thập Giá Đức Kitô, cho con tôn thờ Thánh Giá suối mạch chan hòa. Để được phục sinh vinh quang cùng Thập Giá, nhận lãnh phúc ân cứu độ trong tình Cha. TK 2: Cho con thành tâm tôn thờ Thập Giá Chúa uy linh yêu thương nhân loại dang tay chết trên thập hình. Dạt dào tình thương hôm nao Người tận hiến, để cứu thoát con đưa về trong bình an.” (TCCĐ “Thập Giá Vinh Quang”).
Ôi! “Lạy Chúa, Chúa đã muốn cho Con Một Chúa chịu khổ hình thập giá để cứu chuộc loài người. Xin cho chúng con mai sau được hưởng nhờ quả phúc cây thập giá, mà ngày nay chúng con vẫn một lòng yêu mến suy tôn. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ lễ Suy tôn Thánh Giá).
78. Suy niệm về Thánh Giá
(Suy niệm của Jorathe Nắng Tím)
Chẳng nói thì mọi người cũng biết: Thánh Giá là biểu tượng của niềm tin nơi người Kitô hữu, những người đi theo Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chết trên Thánh Giá và sống lại sau ba ngày từ cõi chết. Bên cạnh những người môn đệ này, có nhiều người không tin Đức Giêsu, nhưng không ngại đeo Thánh Giá trên mình, vì họ gặp được ở Thánh Giá nét đẹp thanh cao của tình yêu quên mình, và dấu ấn hy sinh của một tình yêu dâng hiến. Nhiều ngưòi khác chỉ mang Thánh Giá như một đồ trang sức làm đẹp.
Mặc dù Thánh Giá được nhìn dưới những lăng kính khác nhau tùy theo sự đón nhận của trái tim mỗi người, nhưng tất cả đều gặp ở Thánh Giá một biểu tượng chung của thất bại, khổ đau, chết chóc, không khác những người Do Thái đã coi Thánh Giá là “ô nhục, không thể chấp nhận”, người Hy Lạp cho là ngu xuẩn, và dân ngoại cho là điên rồ ( x. 1Cr 1,22-23)
Thực vậy, Thập giá không có gì hấp dẫn, lôi cuốn, vì đó là dụng cụ để thi hành án tử hình: tử tội chịu hình phạt đóng đinh trên thập giá cho đến khi tắt thở. Thập giá cũng chẳng có gì đáng tìm, đáng nhớ, vì trên đó chỉ có nước mắt đớn đau, và hình phạt đẫm máu, nên thập giá rất buồn, rất tủi, rất nhục, vì treo thân phận người thất bại, khổ đau, chết chóc. Và thập giá chỉ trở nênThánh Giá từ khi Đức Giêsu chịu treo trên đó, “như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3,14 -15).
Quả thực, Thánh Giá là một mầu nhiệm mà chúng ta không thể hiểu nổi. Hiểu sao nổi một Thiên Chúa lại chọn Thánh Giá để cứu độ nhân loại, trong khi Ngài toàn năng có thể chọn một cách cứu độ hoàn toàn khác, không bạo lực cực hình, không kinh hoàng đẫm máu. Hiểu thế nào được hình phạt ô nhục dành cho tử tội bị nguyền rủa, khử trừ, vì nguy hại cho xã hội loài người lại trở nên phương cách Thiên Chúa dùng để đem cho loài người ơn cứu sống. Hiểu làm sao được khi Thiên Chúa chọn cái điên rồ, ngu xuẩn đối với con người để biểu lộ sư khôn ngoan của mình (x. 1 Cr 1,17-25). Chính vì không hiểu nổi, không hiểu thấu mà Thánh Giá trở thành cớ vấp phạm cho nhiều người. Người ta vấp phạm vì không chấp nhận Thiên Chúa yếu đuối như thế; vấp phạm vì phẫn nộ trước một Thiên Chúa hoàn toàn bất lực trước bạo lực của con người; vấp phạm vì tức giận Thiên Chúa đã không dùng quyền năng Thiên Chúa của mình mà xuống khỏi Thánh Giá; vấp phạm vì trách móc Thiên Chúa đã để con người đóng đinh mình; vấp phạm vì không thể chịu nổi một Thiên Chúa câm lặng dưới mũi giầy tàn ác của con người đang chà đạp, nghiền nát sức mạnh Thiên Chúa của mình. Vì vấp phạm, người ta từ chối nhận Đức Giêsu chịu đóng đinh là Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ của họ.
Ở đây, chúng ta chỉ chiêm ngắm thái độ của Đức Giêsu trước Thánh Giá, thái độ của một Thiên Chúa trước mầu nhiệm khổ đau của con người.
- Trước đau khổ, Đức Giêsu đã yên lặng cảm thương:
Trước những người đau khổ vì bệnh tật đủ loại, Đức Giêsu đã không lý giải nguồn gốc của đau khổ, nhưng yên lặng cảm thương, chạnh lòng trắc ẩn. Ngài yên lặng trước mầu nhiệm đau khổ hơn là trình bầy một cách giáo khoa về đau khổ, hay phân tích một cách lý thuyết nguồn gốc của bất hạnh, bởi với Ngài, đau khổ là một sự dữ đang làm khổ con người mà Ngài thương mến và sự dữ ấy là do tội lỗi, nhưng tội lỗi đã vào thế gian và con người bắt buộc phải chịu hậu qủa của tội lỗi ấy. Trước tình huống chẳng đặng đừng, một tình trạng sẵn có, không thể thay đổi, thái độ yên lặng cảm thương, xót xa chạnh lòng là thái độ xứng hợp và đem lại ủi an nhất cho người đau khổ trong cuộc.
Yên lặng của Đức Giêsu không là yên lặng đồng loã, ủng hộ, nhưng là yên lặng tích cực, vì trong yên lặng, Ngài cảm thương thân phận, chạnh lòng xót xa và chân tình chia sẻ tất cả thử thách của người đau khổ. Đức Giêsu đã yên lặng tỏ lòng kính trọng niềm đau, nỗi khổ của người mình yêu, bởi đau khổ với Ngài là một mầu nhiệm.
Là mầu nhiệm, nên người ta không thể lý giải dễ dàng, cũng không thể cắt nghiã rành mạch, nên mọi ngôn từ đều bất lực trước mầu nhiệm khổ đau, mọi lý thuyết đều bó tay trước bất hạnh, chỉ có yên lặng cảm thương của “Thiên Chúa làm người” trước con người đau khổ, bất hạnh mới nói hết được giá trị và ý nghiã mầu nhiệm Thánh Giá của con người. Đức Giêsu đã luôn chạnh lòng cảm thương trong yên lặng kính trọng mầu nhiệm đau khổ ấy, mầu nhiệm mà chính Ngài đã sẵn sàng chia sẻ, dự phần, vì đó chính là Thánh Giá sinh ơn cứu độ.
- Trước Đau Khổ, Đức Giêsu đã yên lặng chấp nhận:
Nếu trước đau khổ của người khác, Đức Giêsu đã yên lặng cảm thương, chạnh lòng, thì với đau khổ của mình, Ngài đã yên lặng chấp nhận. Trong suốt cuộc tử nạn, có ai đã nghe được tiếng Ngài than thân trách phận, ngoài lời cầu xin thống thiết với Chúa Cha ở vườn Cây Dầu và trên Thánh Giá: “Lậy Cha nếu được thì xin cất chén đắng này cho con” (Mt 26,39), “Lậy Cha, sao cha nỡ bỏ con?” (Mt 27, 46 ). Đức Giêsu đã yên lặng trước toà án, yên lặng vác Thánh Giá trên đường đến nơi hành quyết, yên lặng để bị lột trần truồng, yên lặng nằm cho lý hình đóng đinh, yên lặng chịu treo trên Thánh Giá, và yên lặng trút hơi thở trong niềm tín thác tuyệt đối ở Thiên Chúa Cha.
Qủa thực, Đức Giêsu đã không mồm loa mép giải tố cáo người này, lật tẩy người kia khi bị ức hiếp, hàm oan, cũng không lên án, nguyền rủa những người nguyền rủa, lên án mình, càng không trách móc Thiên Chúa đã để đau khổ hoành hành trong thế giới. Thái độ yên lặng ấy phát xuất từ ý thức đau khổ là mầu nhiệm sinh ơn cứu rỗi, và thái độ chấp nhận đau khổ là kết qủa của tinh thần vâng phục Thánh Ý mầu nhiệm của Chúa Cha. Vì biết mình đến để hiến mạng sống cho nhân loại được sống, Đức Giêsu đã hiểu Thánh Giá mang một giá trị cứu độ, và đau khổ là cái giá Ngài phải trả để mọi người được tha tội.
Như Đức Giêsu trước khổ đau của người khác đã yên lặng cảm thương, chúng ta cũng không thể làm khác những gì Chúa đã làm, bởi trước đau khổ của anh em, tất cả những lời hoa mỹ, ngôn ngữ ngoại giao, ngôn từ đắc nhân tâm đều vô hiệu, và chỉ còn ngôn ngữ của trái tim, ngôn từ của đồng cảm, chữ nghiã của sẻ chia được biểu hiện bằng yên lặng mới có thể làm nhẹ nỗi đau, làm tan tủi nhục, và cất bỏ gánh ưu phiền nặng trĩu trong tâm can người anh em bất hạnh. Chính yên lặng cảm thương mới giúp cả ta cả người đi sâu vào mầu nhiệm đau khổ như nguồn ơn đổi mới, trở về, cứu sống. Và cũng như Đức Giêsu đã yên lặng đón nhận khổ đau của chính mình, chúng ta cũng phải với Ngài cam chịu đau khổ trong yên lặng để nhận ra mầu nhiệm cứu độ trong chính đau khổ mình chịu.
Yên lặng cảm thương người đau khổ, yên lặng đón nhận đau khổ không phải thái độ hèn nhát đầu hàng đau khổ, nhưng là thái độ của người vượt qua đau khổ vì nhìn thấy ở đau khổ Thánh Giá của Đức Giêsu với giá trị của mầu nhiệm cứu độ. Họ yên lặng vì được hiệp thông với đau khổ của Con Thiên Chúa và xác tín Thánh Giá của đời họ được tháp nhập vào Thánh Giá Cứu Độ của Thiên Chúa làm người, để rồi đau khổ được tháp nhập vào cây Thánh Giá nguồn Sống, Tình yêu và Hy Vọng ấy sẽ sinh hoa trái là Hạnh Phúc đời đời trong Nước Chúa.
Tóm lại, đau khổ của người khác hay đau khổ của chính ta đều mang giá trị cứu độ, khi hiệp thông với đau khổ của Đức Giêsu, cũng như Thánh Giá của anh em cũng như của ta đều mang lại ơn cứu độ cho ta và mọi người, nếu các Thánh Giá to nhỏ đó được đặt trong Thánh Giá nguồn ơn Cứu Độ của Đức Giêsu.
Xin Chúa cho chúng con xác tín mầu nhiệm của đau khổ, và giá trị cứu độ của Thánh Giá, để chúng con hiểu rằng có những hiểu lầm, vô ơn, kể cả hình phạt chúng con phải chịu cách bất công, sẽ trở nên ơn phúc cho chúng con và anh em chúng con, trong mầu nhiệm Thánh Giá của Chúa; có những oan sai, vu khống chúng con bị người đời áp đặt lại là ơn bình an cho người khác và cho chúng con; có những vô ơn, phản bội hằng ngày chúng con phải gánh chịu do chính những người chúng con yêu thương, đùm bọc lại cần thiết cho hạnh phúc của nhiều người, trong đó luôn có chúng con.
Và trong mầu nhiệm Thánh Giá của Đức Giêsu, xin cho Thánh Giá chúng con mang vác, kéo lê mỗi ngày được trở nên ơn cứu rỗi cho tất cả mọi người, đặc biệt những người chúng con thương mến, thân quen, nhất là những người chúng con có bổn phận thảo hiếu, đền ơn, đáp nghĩa.
79. Yêu cho đến cùng
(Suy niệm của ‘Bông hồng nhỏ’)
Gần đến ngày lễ Suy tôn Thánh Giá, lòng tôi được Chúa mời gọi cách tha thiết và mãnh liệt hơn chiêm ngắm tình yêu của Chúa trên Thánh Giá. Khi nhìn ngắm Chúa Giêsu-Kitô Chịu-Đóng-Đinh trên Thánh Giá, tôi gẫm suy về tình yêu dâng hiến đến tận cùng của Ngài. Và rồi tôi được mời gọi bước theo sát Đấng Chịu-Đóng-Đinh như lời mời gọi trong Hiến luật của Hội Dòng: “yêu Đức Giêsu-Kitô Chịu-Đóng-Đinh trên Thánh giá và yêu Thánh Giá của Người cùng sẵn lòng đón nhận thập giá của bản thân” (x.HC 5).
Thánh Giá là dấu chỉ của người Kitô hữu, là biểu tượng của Kitô giáo. Khi làm dấu Thánh Giá, người Kitô hữu tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi. Đi ngang qua một vùng đất lạ, nhìn thấy Thánh Giá trên các ngôi mộ, hay trên tháp nhà thờ, tôi vui mừng vì những con người ở đây đã được nhận biết Chúa. Tôi bước vào đời đã được làm con của Chúa. Thánh Giá vị Linh mục thánh thiện đã ghi trên trán tôi ngày tôi được rửa tội, là dấu ấn tình yêu Thiên Chúa ghi dấu trên cuộc đời tôi. Kể từ đó, cuộc đời của tôi luôn gắn liền với Thánh Giá Chúa Giêsu-Kitô.
“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban chính Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Thiên Chúa Cha đã biểu lộ tình thương vô biên của Người như thế đó. Chúa Con khi xuống thế làm người, Ngài đã hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (x.Pl 2,8). Vì lẽ đó, Thánh Giá trở nên dấu chứng tình yêu lớn nhất mà Chúa Giêsu-Kitô đã dành cho Chúa Cha và nhân loại. Còn tôi, kẻ được Thiên Chúa yêu thương cách riêng, tôi sẽ làm gì để đáp lại tình yêu cao vời của Thiên Chúa?
Điều đầu tiên là tôi phải “tin vào Con của Người”, nghĩa là tôi sẵn lòng đón nhận tất cả mọi điều đến từ Thiên Chúa và Giáo hội của Người. Mỗi ngày tôi vẫn đến với Chúa Giê-su trong Bí tích Thánh Thể để gặp gỡ và ở lại trong Người, để qua Người tôi được biết Chúa Cha là Đấng luôn thương xót tôi. Đức tin là ơn nhưng không Thiên Chúa ban tặng, tôi tin và sống niềm tin của mình. Thánh Giacôbê Tông đồ đã quả quyết: “Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết” (Gc 2,17). Khi yêu ai, người ta sẽ tin vào người ấy và đón nhận tất cả những gì đến từ người mình yêu. Tôi yêu Đức Giêsu-Kitô Chịu-Đóng-Đinh trên Thánh Giá là khi tôi dám đón nhận thập giá mình mỗi ngày. Hai điều này không tách rời nhau. Chẳng phải Chúa Giê-su cũng dạy rằng: “Ai muốn theo tôi phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mc 8,34b). Đứng trước một khó khăn, thách đố, theo lý trí tự nhiên, tôi sẽ chạy trốn. Khi phải từ bỏ ý riêng, phải đối diện với giới hạn của bản thân, tôi dễ bị rơi vào tình trạng cố chấp, xem mình luôn đúng, phủ nhận những giới hạn của mình, tự ru ngủ mình bằng sự bình an giả tạo. Chính lúc ấy, Chúa mời gọi tôi nhìn thẳng vào sự thật, hạ mình khiêm nhường để biết lắng nghe và đón nhận người khác với thái độ tôn trọng, và có trách nhiệm với chính mình. Chị Thánh Têrêsa Hài Đồng Giê-su đã sống con đường nhỏ của mình, để cho Chúa Giê-su dẫn dắt như trẻ thơ. Tôi cũng được Chúa mời gọi đi trên con đường đó để biết bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Chúa.
Điều thứ hai, đối với tôi, muốn theo sát Đấng Chịu-Đóng-Đinh, tôi phải “yêu cho đến cùng”. Tình yêu đích thực có khả năng làm cho người ta vượt ra khỏi chính mình, vượt qua khỏi mọi nghịch cảnh để yêu cho đến cùng tận. Nếu tình yêu của tôi không đủ chân thành, không nồng nàn mãnh liệt, tôi sẽ sớm bỏ cuộc. Trong tình yêu, tôi học được sự kiên nhẫn. Nhìn ngắm Chúa Giê-su trên Thánh Giá, tôi tự hỏi: Vì đâu Con Thiên Chúa lại có thể tự nguyện buông mình cho loài người, chấp nhận một bản án bất công, để rồi chết trên cây thập giá? Trên Thánh Giá, Con Thiên Chúa đã “hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân…” (x.Pl 2,7). Tất cả chỉ vì một chữ “yêu”. Yêu cho đến cùng là sẵn lòng vâng phục Thánh Ý Chúa Cha, là chấp nhận từ bỏ chính mình, là hoàn toàn phó thác đời mình cho Chúa, là “để Chúa làm tất cả những gì Chúa muốn nơi tôi”.
Tôi có thể không thích Thánh Giá, vì Thánh Giá không mang lại cho tôi sự hưng phấn, sự hài lòng tức thời, nhưng vượt xa hơn thế, tôi sẵn lòng yêu Thánh Giá. Bởi chỉ khi yêu Thánh Giá, tôi mới có khả năng cảm thông, tha thứ, đón nhận người khác, dù họ là kẻ thù nghịch với tôi. Trong thing lặng của nội tâm và trong cầu nguyện, chính Chúa Thánh Thần sẽ hướng dẫn tôi, giúp tôi yêu cho đến cùng như Chúa Giê-su.
80. Suy tôn Thánh Giá
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT.)
Cái chết của Chúa Giêsu theo con mắt người đời, nhất là đối với người Do Thái lúc đó là một sự thất bại, một sự dại dột vì trước thách thức của người Do Thái:” Nếu hắn là Ðấng Kitô, là vua Israen, hắn cứ việc bước xuống khỏi thập giá ngay bây giờ cho ta thấy rồi ta tin ” (Mc 15, 32).
Chúa Giêsu vẫn một mực im lặng. Sự lặng thinh của Chúa thật khó hiểu vì Ngài chấp nhận ý Cha để cứu chuộc nhân loại qua cái chết thập giá. Chết là lời nói cuối cùng diễn tả tình yêu tuyệt đối của Chúa đối với nhân loại, đối với thế giới, đối với mọi người. Chết mới nói lên lời:” Không có tình yêu nào cao vời cho bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu”( Ga 15, 13 ).Thập giá là hình phạt vô cùng bỉ ổi và ác độc của người Do Thái và La Mã đối với con người, đối với tội nhân.Thập giá theo nhãn giới người thường là một thất bại ê chề,một thảm họa của con người mang nhãn hiệu”tội nhân”bị kết án tử hình. Nhưng thập giá là mầu nhiệm tình thương,muôn đời con người có lòng tin vẫn suy phục tôn kính thánh giá. Thánh giá là nguồn suối tuôn trào ơn cứu độ, là cuốn sách giá trị nhất trong mọi cuốn sách vì nơi đó con người tìm được sự an bình và hạnh phúc, con người tìm được niềm vui và ơn giải thoát khỏi tội lỗi.
Nguồn gốc ngày lễ Suy Tôn Thánh Giá
Sách ghi lại rằng thánh Hélène, mẹ của vua Constantin,đã để lại một tượng thánh giá trong thành thánh Giêrusalem dưới thời hoàng đế Hérachius I.Người Ba Tư vào thời gian đó đã tiến chiếm Giêrusalem và lấy đi một phần chính của thánh giá thật mà thánh Hélène đã dâng cúng tại thành thánh Giêrusalem.Vua Hérachius I nhất quyết lấy lại thánh giá này. Vua ăn chay,cầu nguyện,kêu gọi dân chúng hối cải, ăn năn sám hối, ăn chay,cầu nguyện để xin chúa thương giúp đỡ, bảo vệ,hun đúc tinh thần quả cảm,can đảm để chiến thắng quân Ba Tư, hầu thánh giá thật được dựng lại trong thành thánh Giêrusalem. Lời cầu nguyện của vua Hérachius I và toàn dân đã được Chúa thương nhậm lời. Vua và quan quân đã đánh bại,chiến thắng quân Ba Tư và trở về Constantinople trong tiếng reo hò,hoan ca vang dội của toàn dân.Dân chúng cầm cành ô liu trong tay,và cầm những ngọn đuốc cháy sáng cung nghinh thánh giá thật đã được tái chiếm lại trong tay quân Ba Tư với niềm vui tràn trề. Hoàng đế Hérachius I sung sướng không kể xiết, muốn trở vể Giêrusalem ngay sau 14 năm thánh giá thật bị lưu lạc nơi quân Ba Tư. Nhà vua tiến vào thành thánh,nhưng trước khi bước lên núi Sọ, nhà vua không thể nào bước đi được khiến mọi người âu lo và sợ sệt. Trước sự lạ ấy,Giáo Trưởng Zacharie hô lớn:” Tâu Ðức Vua,chắc chắn phẩm phục sang trọng mà Ðức Vua đang mặc không xứng với sự khó nghèo và khiêm tốn mà Chúa Giêsu xưa đã thực hiện khi vác thập giá “.Nhà vua nghe lời vị Giáo Trưởng kêu mời và vội cởi bỏ phẩm phục sang trọng,lộng lẫy mà vua đang mặc để khoác vào người bằng bộ quần áo khó nghèo.Tức thì,vua bước đi được một cách nhẹ nhàng và dễ dàng trước sự chứng kiến của toàn dân và để chứng tỏ tình thương bao la vô biên của Chúa, Chúa đã làm vô vàn phép lạ trong ngày kỷ niệm đáng ghi nhớ đó. Giáo Hội đã lập thánh lễ suy tôn thánh giá vào ngày 14/9 hằng năm để cho mọi người kính nhớ biến cố lớn lao,lạ lùng và đáng ghi nhớ này.
Thánh giá luôn là thách đố cho con người
Chúa Giêsu đã chiến thắng ma quỉ, đã từ chối mưu kế của satan,quỉ dữ.Ngài đã ngước mắt lên trời,thưa với Chúa cha rằng:” Lạy Cha con xin phó linh hồn trong tay Cha “( Lc 23,45 ).Chúa Giêsu đã tín thác tất cả sinh mạng của Ngài trong tay Chúa Cha để Cha lo toan và định liệu. Chính Chúa Cha đã làm cho Chúa Giêsu sống lại để cai trị,điều khiển mọi sự trên trời dưới đất ( Mt 28, 18 ).Chúa Giêsu đã phục sinh để làm cho con người có sự sống mới, sự sống vĩnh cửu. Thập giá luôn là thách đố cho con người, nhưng ơn cứu độ chỉ có được nơi thập giá vì chính nơi Chúa Giêsu, ơn cứu độ chứa chan nơi Người.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết mến yêu thánh giá vì cây thánh giá mang lại ơn cứu độ cho chúng con.
Xin cho chúng con ơn can đảm để chúng con luôn làm chứng cho tình thương vô biên của Chúa.
Xin cho chúng con luôn biết giới thiệu thánh giá cho mọi người vì có kinh qua sự đau khổ thập giá như Chúa, chúng con mới được vinh quang.
81. Yêu đến quên mình
(Suy niệm của Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
Khi yêu, người ta thường đòi hỏi quá cao nơi người mình yêu. Họ đòi người yêu phải chung thủy, phải hy sinh, phải quan tâm. Đôi khi còn đòi hỏi người mình yêu phải đánh đổi cả tính mạng vì yêu.
Có một anh chàng nói với cô gái:
– Nếu mình chia tay em có buồn không?
– Đương nhiên là có
– Buồn đến mức độ nào?
– Đương nhiên là không đến mức độ có thể chết
– Vậy mình chia tay đi“!
Hóa ra tình yêu luôn phải có tính bất tử. Nếu yêu nhau mà không đạt đến mức độ sẽ chết vì thiếu người mình yêu thì chưa phải là tình yêu chân thành. Đó cũng là tình yêu mà Xuân Diệu bảo rằng: “Người đi một nửa hồn tôi chết – Một nửa hồn kia bỗng dại khờ”.
Thế nhưng, có người bảo rằng: “Không phải cứ là tình yêu thì phải vĩnh cửu, phải sống chết ở bên nhau, người ta yêu nhau là để được hạnh phúc bên nhau, chứ không phải để chết bên nhau, nếu chết vì yêu thì không những kẻ đó thật bất hạnh mà còn là kẻ ngu ngốc nhất trên đời”.
Thực ra cái chết ở đây không phải là cái chết chung, cũng không phải là liều mạng chết, mà là một tình yêu dâng hiến để vì người mình yêu có thể làm mọi sự, kể cả hy sinh tính mạng mình.
Một học sinh đã tuyên bố với bạn bè: Cuối cùng rồi cũng có người con gái dám liều mình vì tao. Cả phòng nhao nhao:
– Ai vậy mày, nhỏ nào nói nghe coi?
– Nhỏ Hồng bên lớp sử chứ ai!
– Nhỏ nói gì với mày?
– Nhỏ nói “Yêu ông ư? Tui thà nhảy lầu còn hơn”.
Cái chết nhảy lầu này không phải là cái chết vì yêu mà là cái chết chốn chạy tình yêu. Một cái chết không phải vì tình mà là sợ tình. Họ chạy chốn tình yêu chứ không tự nguyện đến với tình yêu. Chỉ có trong tình yêu người ta mới dám sống chết cho nhau. Có yêu nhau người ta mới hiến dâng mạng sống để mang lại hạnh phúc cho người mình yêu. Có yêu nhau người ta mới chẳng quản ngại khó khăn đến mức độ: “Yêu nhau mấy núi cũng trèo – Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua”.
Đây chính là tình yêu cao vời của Đức Ky-tô dành cho nhân loại. Ngài không trốn chạy khi gặp gian truân. Ngài không lùi bước khi đối đầu với hiểm nguy. Ngài đã yêu là yêu cho đến cùng, cho dù phải trả giá bằng cái chết đau thương. Chính Ngài đã đề cao tình yêu tự hiến này khi Ngài nói: “Không có tình yêu nào cao quý hơn tình yêu dám thí mạng vì bạn hữu”. Ngài đã dốc cạn đến giọt máu cuối cùng cho người mình yêu khi lưỡi đòng đâm thấu trái tim Ngài, “nước và máu chảy ra”. Ngài đã hoàn tất một đời người khi dâng hiến chính thân mình làm giá chuộc cho người mình yêu.
Thiên Chúa vẫn yêu bạn, yêu tôi. Ngài vẫn tiếp tục thi thố tình yêu của mình trên từng cuộc đời chúng ta. Giá máu cứu chuộc Ngài vẫn đổ ra để mang đến ơn giao hòa cho chúng ta. Thánh giá Ngài vẫn mang lấy tội lỗi nhân loại khi Ngài tiếp tục hiến tế chính mình trên bàn thờ để sinh ơn cứu rỗi cho loài người chúng ta.
Xem ra chúng ta đều là những con nợ ân tình của Chúa. Chúng ta nợ Chúa vì nhiều lần Chúa đã tha thứ tội lỗi cho chúng ta, nhiều lần Chúa chịu đóng đinh vì tội lỗi chúng ta. Xin cho chúng ta biết trả lại món nợ cho Chúa khi chính mình cũng chịu hiến tế hy sinh cho anh em. Xin loại bỏ nơi chúng ta tính hưởng thụ, thói ích kỷ để sống một đời yêu thương và phục vụ tha nhân. Amen.
82. Thiên Chúa yêu thế gian
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Thiên Chúa yêu con người ngay lúc con người đang còn trong tình trạng tội, nghĩa là, Ngài yêu con người ngay cả khi họ còn đang chống cưỡng Thiên Chúa. Thiên Chúa đã cho Lời Ngài nhập thể làm người, Ngài đã ban Thánh Thần thúc đẩy và mời gọi con người trở lại với Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu con người vô cùng.
- Thiên Chúa vẫn yêu thương dân Do Thái cho dù họ phản loạn bất trung
Dân Do Thái là một gương điển hình cho thấy tình yêu Thiên Chúa. Thiên Chúa đã tuyển chọn Abraham, đã mời ông bỏ quê cha đất tổ để đi đến đất Ngài chỉ cho; Ngài hứa sẽ ban cho ông có con cháu nối dòng, sẽ ban cho ông có đất sở hữu, sẽ làm cho ông trở thành mối chúc lành. Abraham đã quảng đại đáp trả lời mời của Thiên Chúa, và trở thành ông tổ của dân tộc Do Thái.
Dân Do Thái đã được Thiên Chúa thương yêu đặc biệt. Ngài đã dùng Môsê để giải phóng dân khỏi ách nô lệ bên Aicập, ban cho họ đất Canaan, cho họ những vị thẩm phán, các vua, và các tiên tri để hướng dẫn chăm sóc dân nhân danh Ngài. Thế nhưng theo sách Ký Sự (Sử Biên Niên), mọi tầng lớp dân đều phạm tội chống đối Thiên Chúa, kể cả các đầu mục, tư tế, và các tầng lớp lãnh đạo. Thiên Chúa đã sai các tiên tri như những sứ giả đặc biệt đến với dân, nhưng họ cũng chẳng nghe, nên Chúa đã để họ phải lưu đày ở Babylon.
Tuy để dân Do Thái phải lưu đày, nhưng Thiên Chúa vẫn thương dân Ngài; Ngài đã dùng vua nước Ba-Tư là Kyrô cho dân Do Thái lưu đày được trở về quê cha đất tổ của mình. Những tai họa hay đau khổ xảy đến giúp dân Do Thái nhận ra những sai trái trong hành vi tư tưởng của mình, để rồi họ trở về với Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng đã để dân Do Thái phải lưu đày, nhưng cũng là Đấng dẫn dân trở về quê hương.
- Thiên Chúa yêu ta ngay khi ta còn là tội nhân
Thường người ta chỉ yêu người đẹp, chỉ mến người tốt. Nếu ai làm điều dữ mà bị nạn, người ta nói “đáng đời nó;” hơn nữa, người ta còn đòi Thiên Chúa trả oán khi bị oan nghiệt. Tuy nhiên, tư tưởng của Thiên Chúa không giống tư tưởng và suy nghĩ của loài người. Thiên Chúa là Đấng giầu lòng từ bi; Ngài yêu thương con người vô cùng nên ngay khi con người còn là tội nhân, thì Ngài vẫn yêu thương và tìm cách cứu độ con người. Thiên Chúa luôn tìm cách giúp ta trở lại với Ngài, để ta thành người đẹp và dễ thương thật sự. Thiên Chúa là Đấng tạo dựng, và cũng là Đấng giúp ta nên đẹp và tuyệt hơn.
Thực vậy, từ khi Thiên Chúa dẫn dân ra khỏi Aicập qua Môsê, dân Do Thái nhiều lần không tin tưởng, bất tuân, và làm trái ý Thiên Chúa; chẳng hạn họ đòi nước và muốn ném đá Môsê, đòi ăn thịt giữa nơi hoang địa, thờ bò vàng khi Môsê đang cầu nguyện gặp gỡ Thiên Chúa trên núi, v.v.; tuy nhiên Thiên Chúa vẫn yêu thương tha thứ cho dân. Mỗi người chúng ta cũng đã phạm tội phản nghịch cùng Thiên Chúa, không chỉ một lần nhưng nhiều lần; tuy nhiên Thiên Chúa vẫn yêu thương, Ngài vẫn mời gọi chúng ta trở lại với Ngài, Ngài ban cho chúng ta bao nhiêu dịp để nhận ra tình yêu vô bờ bến, để chúng ta ăn năn hối lỗi trở về với Ngài.
Thiên Chúa không chấp nhất chúng ta xúc phạm đến Ngài bao nhiêu lần, và nặng nhẹ thế nào. Điều quan trọng là chúng ta trở về với Thiên Chúa. Như người Cha trong dụ ngôn người con hoang trở về, Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta tất cả những gì chúng ta đã mất. Thiên Chúa hạnh phúc khi chúng ta trở lại với Ngài. Cả trời đất đều hân hoan khi một người tội lỗi ăn năm sám hối (Lc.15, 10.7).
III. Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi…
Tình yêu Thiên Chúa đối với con người thật vô cùng. Không gì có thể sánh với tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Qua những thụ tạo hữu hình, con người nhận ra tình yêu của Thiên Chúa; nhưng với biến cố Lời Thiên Chúa nhập thể làm người, con người nhận ra tình yêu vô cùng của Thiên Chúa một cách đặc biệt và có sức thuyết phục hơn.
“Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga.3, 16). Đức Yêsu là bằng chứng tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Có thể nói, không bao giờ Thiên Chúa kết án con người. Thiên Chúa tạo dựng con người vì tình yêu, để con người được chia sẻ sự sống và hạnh phúc vĩnh cửu với Thiên Chúa. Ngài muốn con người trở lại với Ngài và được sống. Ngài không muốn con người phải trầm luân vĩnh cửu.
Thiên Chúa yêu con người, Thiên Chúa đã đang và sẽ làm tất cả để được con người. Nói theo ngôn ngữ nhân loại, Thiên Chúa đang cố gắng làm “hết sức và hết khả năng” để con người yêu Ngài. Trong tình yêu không có võ lực, không có áp bức. Chỉ có tình yêu chân thực khi sống trong sự thật và tự do. Võ lực, áp bức, gian dối không đi chung với tình yêu. Tình yêu đòi tự do và sự thật. Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng, và chắc chắn con người sẽ rung động trước tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Ai đáp trả tình yêu, thì sống và hạnh phúc trong tình yêu. Ai từ chối tình yêu, thì không hạnh phúc và không có sự sống đích thực. Chính hành vi từ chối tình yêu, làm người ta bất hạnh. Hành vi làm điều dữ, làm người đó đau khổ, và làm người khác bị ảnh hưởng.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
- Theo bạn, đâu là hành vi xấu thật sự? Khi nào người ta phạm tội?
- Bạn có nghĩ rằng đau khổ là hậu quả của tội không? Tại sao?
- Tại sao Đức Yêsu lại là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương con người?
83. Tình yêu lớn nhất
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Có rất nhiều giai thoại kể về những tượng thánh giá cổ xưa… Tại một nhà thờ bên Tây Ban Nha, có một tượng thánh giá cổ rất đặc biệt. Cánh tay trái của Chúa Giêsu vẫn còn đóng vào gỗ giá, nhưng cánh tay mặt thì rời ra và đưa lên phía trước trong tư thế ban phép lành.
Người Tây Ban Nha kể về nguồn gốc của tượng thánh giá này như sau: Một hôm có một hôm có một tội nhân đến xưng tội với vị linh mục chính xứ ngay dưới cây thánh giá này. Như thường lệ, mỗi khi giải tội cho một tội nhân có quá nhiều tội nặng, vị linh mục này thường tỏ ra rất nghiêm khắc. Ngài ra việc đền tội thật nặng cũng như ngăm đe nhiều điều. Tội nhân ra về lòng cảm thấy nhẹ nhàng. Nhưng tính nào tật nấy, không bao lâu, người đó lại sa ngã. Lần này, sau khi tội nhân xưng thú tội lỗi, vị linh mục lại đe doạ: “Đây là lần cuối cùng tôi giải tội cho anh!”
Nhiều tháng trôi qua, tội nhân lại đến quỳ dưới chân linh mục cũng bên cây thánh giá và lại xin ơn tha thứ một lần nữa. Nhưng lần này, vị linh mục đã dứt khoát. Ngài lên giọng: “Anh đừng có đùa với Chúa. Tôi không thể ban phép giải tội cho anh nữa!”. Nhưng lạ lùng thay, khi vị linh mục vừa khước từ tội nhân sám hối, thì Ngài bỗng nghe một tiếng thì thầm từ bên thánh giá. Bàn tay phải của Chúa Giêsu bỗng được rút ra khỏi thánh giá và ban phép lành cho hối nhân. Và vị linh mục nghe được tiếng thì thầm ấy nói: “Chính Ta là người đã đổ máu ra cho người này chứ không phải ngươi”.
Từ đó, bàn tay của Chúa Giêsu cứ ở mãi trong tư thế ban phép lành, như không ngừng mời gọi con người đến để ban ơn tha thứ. Du khách đến viếng, nhìn lên thánh giá đều có cảm tưởng như ánh mắt của Chúa Giêsu nhìn mình và nghe như có tiếng thì thầm: “Ta không hề kết án con”.
Anh chị em thân mến, Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lên thập giá của Đức Kitô. Nhìn lên thập giá để thấy được tình yêu bao la của Chúa. Ngài luôn tha thứ chứ không kết án. “Ta không muốn tội nhân phải chết, nhưng muốn nó bỏ đường tội lỗi, quay trở lại để được sống” (Ed 33,11). “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Ngài mà được cứu độ”. “Cũng như Môsê treo con rắn đồng trong sa mạc thế nào, thì Con Người cũng bị treo lên như vậy, để tất cả những ai tin ở Ngài sẽ không phải chết, nhưng được sống đời đời”. Thập giá đã trở thành dấu chỉ ơn cứu độ cho những ai tin vào Ngài, tương tự như con rắn đồng đã được Môsê giương cao trong sa mạc thuở xưa, để những ai bị rắn lửa cắn, nhìn lên con rắn đồng ấy đều được cứu sống.
Thánh Gioan còn nói tiếp: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”. Thiên Chúa một lần nữa lại biểu lộ tất cả tình thương của Ngài đối với chúng ta trong Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô. Tất cả bắt nguồn từ Thiên Chúa Tình Yêu. Tình yêu của Ngài không ở trên mây trên gió, nhưng được thể hiện qua hành vi “trao ban”. Điều quí nhất của Người Cha là Người Con. Thế mà Thiên Chúa đã muốn trao ban cho nhân loại chính Con Một dâú yêu của Ngài. Ngài đã cho chúng ta tất cả. Đức Giêsu chính là quà tặng lớn nhất Thiên Chúa Cha đã trao ban cho nhân loại. Việc trao ban này trước tiên được biểu lộ qua việc Ngài sai Con Người và cuối cùng qua việc nộp Con Một cho loài người treo lên thập giá. Đó là lúc Thiên Chúa trao ban Con Một của Ngài cho loài người một cách trọn vẹn nhất, dứt khoát nhất. Bởi vậy, chính lúc đó là lúc Thiên Chúa đã đặt Con của Ngài làm Đấng ban sự sống cho loài người,đểai tin vào Người Con ấy thì được sống đời đời. Vì con của Ngài đến không phải để kết án luận phạt, nhưng để cứu loài người khỏi chết và cho thông phần vào cuộc Phục Sinh vinh quang của Ngài.
Thưa anh chị em, đứng trước thập giá Đức Kitô, chúng ta phải có thái độ nào? Tin vào tình yêu Thiên Chúa hay chối từ tình yêu của Ngài? Chính thái độ đó sẽ định đoạt số phận của chúng ta. Vì thế, tin hay không tin là một chọn lựa sống chết. Mỗi người có đủ tự do tiếp nhận hay từ chối ánh sáng. Ai tin là đón nhận ánh sáng, là bước vào cõi sống. Ai không tin là từ chối ánh sáng và tự đầy đọa mình trong tăm tối, trong cõi chết. Thiên Chúa không cần kết án luận phạt nữa.
“Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài”, đó là chân lý cơ bản nhất của Kitô giáo. Tất cả cuộc đời cuả Chúa Giêsu, cái chết của Ngài trên thập giá, là ngôn ngữ Chúa muốn sử dụng để nói với chúng ta rằng Ngài yêu thương chúng ta, yêu thương đến nỗi sẵn sàng để cho Ngươì Con Một yêu quí của Ngài chết thay cho chúng ta.
Hãy nhìn lên thập giá để thấy được tình yêu bao la của Chúa. Phải, bên kia sự ác độc của tội lỗi, Chúa Giêsu chỉ muốn chúng ta nhìn thấy được tình yêu của Thiên Chúa: một tình yêu không ngừng tha thứ, một tình yêu vượt lên trên mọi tư tưởng, mọi tiêu chuẩn phán đoán, mọi khát vọng của chúng ta.
Nhìn lên thập giá Chúa Kitô không phải để thất vọng vì gánh nặng của tội lỗi, trái lại để cảm nghiệm được hồng ân bao la của Chúa, để cho tâm hồn được phấn khởi, tin yêu hơn.
Nhìn lên thập giá Chúa Kitô để cảm nghiệm được ơn tha thứ của Ngài, để chúng ta cũng biết cảm thông và tha thứ cho anh em chúng ta. Càng nhận ra được tình yêu tha thứ của Chúa, chúng ta càng được mời gọi yêu thương tha thứ cho anh em nhiều hơn. Thiên Chúa không kết án luận phạt chúng ta, sao ta lại kết án luận phạt anh em mình? “Hãy tha thứ để được Chúa tha thứ. Đừng xét đoán để khỏi bị Chúa xét đoán” (Lc 6, 36-37). Hãy yêu thương như Chúa đã yêu thương ta.
Một lần nữa, hãy ngước nhìn lên thập giá Chúa Kitô:
Hãy xem đó thì biết phép công thẳng của Chúa là thế nào! Hãy xem đó thì biết tội nặng nề gớm ghiếc là chừng nào! Hãy xem đó thì rõ biết lòng Chúa quá yêu thương ta là dường nào! (Đàng Thánh Giá, chặng 13).
84. Suy tôn Thánh Giá
(Suy niệm của Noel Quesson)
THIÊN CHÚA CỨU CHUỘC THẾ GIAN BẰNG TÌNH YÊU.
“Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một”
Huyền thoại của một nước vùng Ấn Độ có câu chuyện này: Thời xưa, đất nước còn hoang sơ, có một con thỏ tên là Pôlixa. Thỏ Pôlixa rất thương người, ai xin gì cũng cho, không từ chối bao giờ. Một hôm có một cụ già lom khom chống gậy đi tới và nói:
– Già đói lắm, suốt mùa nước lũ già không có gì ăn. Chắc già sắp chết rồi, giờ đây già chỉ thèm một miếng thịt thỏ, Pôlixa có cho già được không?
Thỏ Pôlixa nhìn ông già hom hem yếu đuối, tội nghiệp quá. Thỏ Pôlixa bảo ông:
– Được rồi, ông chờ một lát.
Pôlixa đi kiếm củi xếp thành đống rồi nổi lửa, và nói:
– Ông chờ thịt cháu chín, ông lấy mà ăn.
Rồi thỏ chụm chân nhảy vào lửa. Bỗng nhiên lửa tắt, ông già biến mất. Thì ra đó là một vị thần được Thượng đế cho phép tới thử lòng thỏ. Về sau để thưởng công, Thượng đế đã cho thỏ Pôlixa về vui đùa mãi mãi bên mặt trăng.
Đó chỉ là một chuyện huyền thoại, nhưng có ý nói tới điểm cao nhất của lòng bác ái, là sẵn sàng chết vì người khác. Đó cũng chính là ý tưởng của Đức Giêsu mà thánh Gioan đã ghi lại: “Không có tình yêu nào lớn bằng chết vì bạn hữu”.
Chúa Giêsu đã nói và Ngài đã thực hiện như thế. Chúa chết trên thập giá vì yêu ta. Chính cái chết của Chúa, hay nói khác đi, chính Tình yêu của Chúa đã đem sự sống tới cho chúng ta. Thiên Chúa yêu thương trần gian đến mức trao ban Con Một của Người. Người Con Một đó chính là Tình yêu của Thiên Chúa, đã dùng cái chết để biểu lộ tình yêu tột đỉnh đối với gian trần. Và Tình yêu đó đã đem đến cho trần gian nguồn sống.
Nhiều người thời nay tỏ ra rất bi quan: “Thế trần hư hỏng, vô phương cứu chữa…” thiếu gì lý do để buồn rầu chán nản. Một lương tâm tương đối sáng suốt nào cũng thấy vô số tệ đoan đang diễn ra khắp nơi khắp chốn: bạo lực, bất công, ích kỷ tập thể hay cá nhân, đê tiện đủ thứ, sa đọa, mất lương tâm nghề nghiệp… Người ta lợi dụng nhau, hành hạ nhau, dối trá công khai trên diễn đàn, trong ý thức hệ v,v… Chắc chắn Thiên Chúa thấy rõ những điều này. Tuy nhiên Người vẫn yêu thương trần gian. Người không chịu nổi sự tồi tệ của trần gian. Người muốn cứu vớt trần gian. Thiên Chúa tới chung sống với nhân trần. Người vẫn thấy những gì Người dựng nên là tốt đẹp.
Thiên Chúa muốn con người được sống vĩnh cửu… đó là cuộc sống từ trên ban xuống (Ga 3,3). Thiên Chúa không kết tội trần gian. Nếu trần gian bị kết tội là do tự mình mà ra. Thiên Chúa muốn giải thoát nhân loại, muốn mọi người được cứu rỗi (1Tm 2,4).
Khi con người cương quyết chối từ Thiên Chúa, họ vẫn bó buộc phải sống gần kề Thiên Chúa mà họ chối từ, đó chính là “hỏa ngục”. Và Thiên Chúa luôn tôn trọng tự do của con người. “Thiên Chúa sai Con Người giáng trần không phải để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Ngài mà được Cứu độ. Ai tin vào Ngài thì không bị luận phạt. Còn ai không tin thì đã bị luận phạt rồi”. (Ga 3,17-19).
Lạy Chúa, xin giúp chúng con thêm lòng yêu mến Chúa bằng cách thương mến phục vụ mọi người như Chúa đã yêu thương phục vụ và hy sinh Cứu chuộc chúng con.
85. Truyện con rắn đồng
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin Mừng Ga 3:14-21: Thập giá là tất cả những gì xảy đến với chúng ta mà chúng ta không muốn chấp nhận. Chỉ khi nào chấp nhận chúng ta mới có thể đi vào vinh quang với Ngài.
Con rắn đồng là biểu trưng cho Đức Giêsu bị treo trên Thánh Giá. Sách Dân số 21,4-9 kể rằng: Dân Do Thái đi từ núi Horeb về phía Biển Đỏ đi vòng quanh xứ Eđôm. Quãng đường dài này đã làm cho dân chúng kêu trách Đức Chúa và ông Môsê: “tại sao đem chúng tôi ra khỏi Ai Cập để rồi chúng tôi phải chết trong hoang địa? Không có bánh, không có nước, chúng tôi đã chán món ăn khốn nạn này lắm rồi”.
Bấy giờ Đức Chúa cho những con rắn lửa từ trong rừng bò ra cắn dân chúng, nhiều người phải chết. Dân chúng chạy đến ông Môsê, thưa với ông: “chúng tôi đã phạm tội, vì chúng tôi đã nói phạm đến Đức Giavê và đến ông, xin ông cầu với Đức Giavê cho chúng tôi để Ngài đuổi lũ rắn này xa khỏi chúng tôi”.
Ông Môsê cầu cho dân. Chúa bảo Môsê: “hãy làm một con rắn và treo trên ngọn sào, hễ ai bị rắn cắn mà nhìn vào đó thì được sống”. Môsê làm một con rắn đồng và treo lên ngọn sào. Hễ ai bị rắn cắn nhìn vào rắn đó đều được khỏi.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Gioan đã ghi lại: “như Môsê đã treo con rắn lên ở sa mạc thế nào, thì Con Người cũng phải treo lên như vậy, để tất cả những ai tin ở Người, sẽ không bị hủy diệt, nhưng được sống đời đời.”
Gioan dùng câu chuyện này như một loại dụ ngôn để chỉ về Chúa Giêsu. Ông nói: “Con rắn bị treo lên, người ta nhìn nó hướng về Chúa, do quyền phép của Chúa, Đấng họ tin cậy thì họ được lành bệnh. Chúa Giêsu cũng phải bị treo lên như thế, để khi loài người hướng về Ngài thì sẽ được sự sống đời đời”.
Một điểm gợi ý rất lạ ở đây. Động từ treo lên là hupsoun. Từ này được dùng cho Chúa Giêsu theo hai nghĩa. Một là việc Chúa bị treo lên thập giá, và hai là việc Chúa được cất lên để vào vinh hiển lúc Ngài về trời. Nó được dùng chỉ thập giá trong Ga 8,28; 12,32, và được dùng chỉ Chúa Giêsu lên trời vinh quang trong Công Vụ 2,33; 5,31; P1 2,9. Có hai lần Ngài được đưa lên, lần bị đưa lên thập giá và lần được đưa lên vào cõi vinh quang; cả hai liên hệ với nhau bất khả phân ly. Điều này không thể xảy ra mà không có điều kia. Với Chúa Giêsu, thập giá là con đường tiến đến vinh quang. Nếu Ngài khước từ thập giá, tránh né, tìm cách để thoát khỏi đó – là việc Ngài đã có thể làm thật dễ dàng nếu muốn – thì Ngài đã không thể bước vào cõi vinh quang.
Với chúng ta cũng vậy, chúng ta có thể chọn con đường dễ đi, có thể khước từ thập giá mà mỗi Kitô hữu phải vác, nếu thế, chúng ta sẽ mất phần vinh hiển. Đó là một trong những định luật bất di bất dịch của đời sống: không có thập giá thì không có triều thiên.
Anh chị em thân mến, đứng trước thập giá Đức Kitô, chúng ta phải có thái độ nào? Tin vào tình yêu Thiên Chúa hay chối từ tình yêu của Ngài? Chính thái độ của chúng ta sẽ định đoạt số phận của chúng ta. Vì thế, tin hay không tin là một chọn lựa sống chết. Mỗi người có đủ tự do tiếp nhận hay từ chối ánh sáng. Ai tin là đón nhận ánh sáng, là bước vào cõi sống. Ai không tin là từ chối ánh sáng và tự đầy đọa mình trong tăm tối, trong cõi chết. Thiên Chúa không cần kết án luận phạt nữa.
– Hãy nhìn lên thập giá để thấy được tình yêu bao la của Chúa. Phải, bên kia sự ác độc của tội lỗi, Chúa Giêsu chỉ muốn chúng ta nhìn thấy được tình yêu của Thiên Chúa: một tình yêu không ngừng tha thứ, một tình yêu vượt lên trên mọi tư tưởng, mọi tiêu chuẩn phán đoán, mọi khát vọng của con người.
– Hãy nhìn lên thập giá: đó là một sự ô nhục, nhưng chính sự ô nhục này lại mang lại vinh quang cho chúng ta.
– Hãy nhìn lên thập giá: đó là một sự chết chóc, tủi nhục và thương đau, nhưng chính sự chết chóc này lại mang sự sống cho chúng ta.
Đó là thập giá của Chúa Kitô, còn thập giá giá của chúng ta như thế nào?
– Đó chính là khi chúng ta bị chống đối và hiểu lầm,
– Đó chính là khi chúng ta bị bỏ rơi và phản bội,
– Đó chính là khi chúng ta bị thất bại và oan ức,
– Đó chính là khi chúng ta bị nhục nhã và cô đơn.
Thập giá là tất cả những gì chúng ta ước mong mà không đạt được. Thập giá là tất cả những gì chúng ta không mong muốn mà nó cứ lù lù xông vào cuộc đời chúng ta. Tóm lại, thập giá là tất cả những gì xảy đến với chúng ta mà chúng ta không muốn chấp nhận. Chỉ khi nào chấp nhận chúng ta mới có thể đi vào vinh quang với Ngài.
Nhìn lên thập giá Chúa Kitô để cảm nghiệm được ơn tha thứ của Ngài. Nhìn lên thập giá Chúa Kitô để chúng ta cũng biết cảm thông và tha thứ cho anh em chúng ta. Càng nhận ra được tình yêu tha thứ của Chúa, chúng ta càng được mời gọi yêu thương tha thứ cho anh em nhiều hơn. Thiên Chúa không kết án luận phạt chúng ta, sao ta lại kết án luận phạt anh em mình? “Hãy tha thứ để được Chúa tha thứ. Đừng xét đoán để khỏi bị Chúa xét đoán” (Lc 6, 36-37). Hãy yêu thương như Chúa đã yêu thương ta. Amen.