17/12/2024
420
Các bài suy niệm Chúa Nhật IV Mùa Vọng – C



















Các bài suy niệm Chúa Nhật 4 Mùa Vọng C

Lời Chúa: Mk 5,1-4; Dt 10,5-10; Lc 1,39-45

MỤC LỤC

  1. Vội vã lên đường. 5
  2. Thân mẫu Chúa đến với tôi 8
  3. Niềm vui trong Thánh Thần. 10
  4. Xin Vâng Ý Chúa. 13
  5. Maria – Mẹ Đầy Ơn Phúc. 22
  6. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng. 25
  7. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng. 29
  8. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng. 33
  9. Gặp gỡ Chúa. 36
  10. Maria dám tin. 38
  11. Con lòng Bà. 41
  12. Tâm tình thăm viếng. 43
  13. Sống đức tin như Mẹ Maria. 46
  14. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng. 50
  15. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng. 53
  16. Làm gương. 55
  17. Chờ đợi trong im lặng. 58
  18. Sống tình xót thương. 61
  19. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng. 63
  20. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng. 66
  21. Vội vã lên đường. 72
  22. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng. 75
  23. Mẹ Maria đón Chúa Cứu Thế. 80
  24. Chúa sắp đến. 83
  25. Hạnh phúc tín thác. 97
  26. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng. 103
  27. Đức Mẹ thăm viếng bà Isave. 105
  28. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng. 109
  29. Bởi đâu tôi được thế này?. 114
  30. Mẹ Maria vội vã lên đường. 118
  31. Cuộc hạnh ngộ. 123
  32. Buông súng. 127
  33. Cảm nghiệm trên đỉnh đồi 130
  34. Dấn thân. 134
  35. Chân tướng Đức Giêsu Kitô. 136
  36. Chúa viếng thăm.. 140
  37. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng. 144
  38. Niềm vui Tin Mừng. 147
  39. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng. 152
  40. Lên đường và trao ban. 155
  41. Tha nhân được chúc phúc. 157
  42. Bước theo Mẹ. 161
  43. Chia sẻ niềm vui 164
  44. Gặp gỡ: Thành sự tại nhân. 168
  45. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng. 172
  46. Chân dung Đức Maria. 175
  47. Đường lối Chúa. 180
  48. Hòm bia giao ước mới 182
  49. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng. 185
  50. Chúa tỏ mình ra. 199
  51. Thời đại hồng ân. 202
  52. Tin có Chúa ở cùng. 205
  53. Mẹ Maria. 208
  54. Chia vui sẻ buồn. 210
  55. Cùng vui với Mẹ. 212
  56. Yêu người 216
  57. Lý do nào để nhảy mừng?. 220
  58. Mong đợi trong vui mừng. 224
  59. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng. 229
  60. Mang Chúa đến với mọi người 235
  61. Phước lành Thiên Chúa. 239
  62. Chia sẻ niềm vui 244
  63. Thưa ‘vâng’ với Thiên Chúa. 248
  64. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng. 250
  65. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng. 253
  66. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng. 258
  67. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng. 265
  68. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng. 276
  69. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng. 281
  70. Này con đến. 283
  71. Mẹ Maria. 286
  72. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng. 289
  73. Hoa trái 291
  74. Tình thương. 293
  75. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng. 295
  76. Khiêm hạ mở lòng đón Chúa. 299
  77. Thánh Ý.. 304
  78. Chúa nhật 4 Mùa Vọng. 309
  79. Niềm tin. 312
  80. Chúa nhật 4 Mùa Vọng. 315
  81. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng. 318
  82. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng. 321
  83. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng. 324
  84. Chúa nhật 4 Mùa Vọng. 328
  85. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng. 331
  86. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng. 340
  87. Niềm vui của việc tin tưởng. 344
  88. Hãy đón nhận Chúa. 347
  89. Những cách viếng thăm.. 349
  90. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng. 354
  91. Thưa vâng với Thiên Chúa. 358
  92. Cuộc thăm viếng. 360
  93. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng. 367
  94. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng. 371
  95. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng. 376
  96. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng. 380
  97. Tình Yêu Nhập Thể. 386
  98. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng. 390

 

1.Vội vã lên đường

(Trích trong ‘Manna’ – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)

Suy Niệm

Bài Tin Mừng hôm nay cho ta gặp hai phụ nữ. Cả hai đang mang thai lần đầu cách diệu kỳ. Cả hai đều được Thiên Chúa đoái thương tuyển chọn.

Theo lời sứ thần, Đức Maria đi thăm bà Êlisabét. Hai bà mẹ gặp nhau tạo điều kiện cho hai thai nhi gặp nhau. Đấng Cứu độ nhân loại đi thăm vị Tiền hô của mình. Cuộc gặp gỡ thật bình thường, nhưng lại rất linh thánh, được diễn ra trong bầu khí tràn ngập Thánh Thần.

Thánh Thần vẫn luôn tác động trên Đức Maria, và làm cho thai nhi Giêsu lớn lên từng ngày. Thánh Thần đã đầy tràn Gioan từ trong lòng mẹ khiến ông nhận ra Đức Kitô và nhảy mừng chào đón. Thánh Thần bỗng chốc đến với bà Êlisabét làm bà nhận ra điều mắt thường không thấy được, đó là chuyện cô em Maria thụ thai Đấng Cứu Thế.

Maria đem đến cho Êlisabét niềm vui và sự phục vụ, nhưng chính Mẹ cũng nhận được sự đỡ nâng. Mẹ xác tín hơn về lời thiên sứ loan báo cho mình, khi Mẹ thấy quả thật bà chị hiếm muộn đã có thai. Mẹ ngỡ ngàng khi thấy mầu nhiệm kín ẩn mà Mẹ âm thầm đón nhận trong lòng tin, nay lại được Thánh Thần tỏ bày cho bà chị họ. Niềm hứng khởi và những lời chúc mừng của bà đã khiến Mẹ cất lời ngợi khen Thiên Chúa (x. Lc 1,46-55).

Cuộc đi thăm nào cũng làm tôi hiểu hơn về mình, và ý thức sâu hơn về những ơn tôi đã lãnh nhận. Maria biết mình có phúc hơn mọi phụ nữ vì Mẹ được chọn để cưu mang Đấng Mêsia. Maria biết mình diễm phúc, vì dám tin vào Lời Chúa. Cuộc gặp gỡ với bà Êlisabét giúp Maria vững tin hơn vào tính khách quan của kinh nghiệm mình được gặp Chúa.

Mầu nhiệm nhập thể là mầu nhiệm Ngôi Lời được cưu mang. Khi chấp nhận làm người, Con Thiên Chúa cần một người mẹ. Ngài được thụ thai cách lạ lùng trong lòng một trinh nữ, và Ngài đã lớn lên bình thường trong dạ mẹ. Dạ mẹ là mái nhà êm ấm đầu tiên, là Đền Thánh trước khi Con bước vào thế giới.

Khi được nuôi bằng sự sống của Mẹ Maria, Con đã thánh hóa tất cả những gì thuộc về Mẹ.

Tất cả những gì nằm trong tiến trình làm người như thụ thai, mang thai, sinh đẻ, dưỡng nuôi bú mớm… đều trở nên thánh thiêng, vì được Con Thiên Chúa đảm nhận.

Con Thiên Chúa đã từng là thai nhi trước khi chào đời, nên mỗi thai nhi đều là hình ảnh Chúa cần trân trọng. Như Gioan nhảy mừng lúc còn trong dạ mẹ, mỗi thai nhi đã biết diễn tả buồn vui, đã cần được yêu mến. Lễ Giáng Sinh đòi ta quan tâm đến các bà mẹ và thai nhi.

Hàng năm có cả triệu vụ phá thai trong nước… Kính trọng thân xác phụ nữ, tôn trọng sự sống thai nhi: đó là Tin Mừng Giáng Sinh cho khắp thế giới.

Gợi Ý Chia Sẻ

Các nhà nghiên cứu xã hội phỏng đoán có tối thiểu khoảng 2 triệu người phá thai mỗi năm trong cả nước. Bạn có biết những nguy hiểm về thể xác và tinh thần cho các bà mẹ phá thai không?

Các tệ nạn xã hội gia tăng dẫn đến đại dịch AIDS. Bạn nghĩ gì về chuyện buôn bán thân xác phụ nữ? Có cách nào giải quyết không?

Cầu Nguyện

Lạy Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, xin gìn giữ nơi con quả tim của trẻ thơ tinh tuyền và trong ngần như dòng suối.

Xin ban cho con quả tim đơn sơ, mau quên những nỗi buồn phiền. Một quả tim hào hiệp dám hiến thân, dịu dàng để cảm thông. Một quả tim trung thành và quảng đại, không quên ơn, không báo oán.

Xin tạo cho con quả tim hiền từ và khiêm tốn, yêu mà không mong được yêu lại, hân hoan xóa mình đi để Con của Mẹ có chỗ trong lòng người khác. Một quả tim vĩ đại và bất khuất, không khép lại trước những vô ơn, không chán nản trước người lạnh nhạt. Một quả tim khắc khoải lo tìm vinh danh Chúa Giêsu Kitô, quả tim mang vết thương vì yêu Ngài, vết thương chỉ lành khi được sống với Ngài trên trời. Amen.

 

2.     Thân mẫu Chúa đến với tôi

(Trích trong ‘Manna’ – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)

Suy Niệm

Trong Chúa Nhật cuối cùng của mùa Vọng, Hội Thánh mời gọi chúng ta suy niệm về cuộc gặp gỡ giữa hai người mẹ: Chị Maria và bà Êlisabét, giữa hai thai nhi: Đức Giêsu và Gioan Tẩy Giả.

Một cuộc gặp gỡ chan chứa niềm vui. Niềm vui của chị Maria với bước chân vội vã băng qua những vùng đồi núi trập trùng xứ Giuđê. Chị không đi một mình trên đường xa, vì chị tin có một mầm sống đang lớn lên trong chị. Chị chỉ mong cho mau đến nhà bà Êlisabét để phục vụ bà trong những ngày gần sinh nở. Niềm vui bất ngờ của bà chị họ sau lời chào của Maria. Bà ngây ngất trước hồng ân mà cô em mình đã nhận được. Bà tràn ngập hạnh phúc vì được Thân Mẫu Chúa đến thăm. Êlisabét cảm thấy đứa con trong dạ cũng nhảy mừng. Dường như bà quên cả niềm vui riêng tư, để chỉ còn nhớ đến niềm vui cứu độ cho cả dân tộc.

Cuộc gặp gỡ diễn ra trong bầu khí của Thánh Thần. Thánh Thần vẫn tác động trên chị Maria. Thánh Thần tràn đầy bà Êlisabét. Thánh Thần đã hoạt động nơi thai nhi Gioan (Lc 1,15).

Chị Maria đem đến niềm vui cho nhà ông Dacaria vì chị mang lại Đấng ban Tin Mừng cứu độ. Chị đem đến sự phục vụ khiêm hạ và chị cưu mang Đấng đến để phục vụ.

Khi được trở nên nữ tỳ của Thiên Chúa, chị Maria đã sống như nữ tỳ của con người. Chị có phúc vì chị được chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế, chị còn có phúc vì chị đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người nói với chị.

Chúng ta chiêm ngắm Đức Giêsu đang lớn dần trong lòng mẹ. Ngài tăng trưởng như mọi người. Những nhịp đập đầu tiên của trái tim nhỏ bé, những nét riêng tư đầu tiên của khuôn mặt. Con Thiên Chúa đã mang quả tim và khuôn mặt người phàm.

Từ khi Ngôi Lời được cưu mang trong dạ mẹ, không ai có quyền khinh rẻ một thai nhi, vì mỗi thai nhi đều mang khuôn mặt của Con Thiên Chúa; không ai được coi thường người phụ nữ, vì Thiên Chúa đã muốn Con mình được một trinh nữ sinh ra.

Gợi Ý Chia Sẻ

Đức Maria đi phục vụ bà Êlisabét, theo ý bạn, đâu là những đặc tính của một người phục vụ tốt?

Nhiều quốc gia chấp nhận cho phá thai. Bạn nghĩ gì về sự kiện đó?

Cầu Nguyện

Lạy Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, xin gìn giữ nơi con quả tim của trẻ thơ tinh tuyền và trong ngần như dòng suối.

Xin ban cho con quả tim đơn sơ, mau quên những nỗi buồn phiền. Một quả tim hào hiệp dám hiến thân, dịu dàng để cảm thông. Một quả tim trung thành và quảng đại. không quên ơn, không báo oán.

Xin tạo cho con quả tim hiền từ và khiêm tốn. yêu mà không mong được yêu lại, hân hoan xóa mình đi để Con của Mẹ có chỗ trong lòng người khác. Một quả tim vĩ đại và bất khuất, không khép lại trước những vô ơn, không chán nản trước người lạnh nhạt. Một quả tim khắc khoải lo tìm vinh danh Chúa Giêsu Kitô, quả tim mang vết thương vì yêu Ngài, vết thương chỉ lành khi được sống với Ngài trên trời. Amen.

 

3.     Niềm vui trong Thánh Thần

(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)

Bài Tin Mừng hôm nay chứa chan niềm vui. Bà Elizabeth vui mừng vì được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm. Đức Maria vui mừng vì được Thiên Chúa đoái thương. Thánh Gioan Baotixita vui mừng vì được tha tội ngay từ khi còn trong lòng mẹ. Những niềm vui ấy hoà chung, biến buổi gặp gỡ thành một lễ hội vui mừng tạ ơn Thiên Chúa. Nguồn gốc của những niềm vui ấy là ơn Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần đã giúp chuẩn bị các tâm hồn đón nhận niềm vui ơn cứu chuộc. Ta thấy được ơn Chúa Thánh Thần qua những dấu hiệu sau đây.

Dấu hiệu thứ nhất: ơn khiêm nhường.

Tâm hồn có Chúa Thánh Thần sẽ trở nên khiêm nhường. Khiêm nhường vì biết thân phận mình hèn yếu, bé nhỏ, tội lỗi. Khiêm nhường vì biết tất cả những ơn nhận được không phải do công trạng của mình nhưng là do lòng thương xót của Chúa. Vì thế, khi nhận được tin làm mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria đã xưng mình là “nữ tỳ của Thiên Chúa”. Bà Elizabeth khiêm nhường tự hỏi: “Bởi đâu tôi được phúc đón tiếp Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm tôi”. Và Đức Maria đã trả lời bằng một bài ca khiêm nhường ngợi khen Thiên Chúa vì tình yêu thương đã đoái thương đến phận hèn nữ tỳ của Chúa.

Dấu hiệu thứ hai: ơn bác ái.

Thánh Thần là tình yêu. Đến đâu là đốt lên lửa bác ái ở đấy, Ngài đã rợp bóng trên Đức Maria và lập tức Đức Maria được tràn đầy lòng bác ái, đã nghĩ đến bà chị họ. Đức Maria không nghĩ phải nghỉ ngơi tĩnh dưỡng và chuẩn bị cho bản thân trong thời kỳ sinh nở sắp tới, nhưng đã nghĩ phải ra đi giúp bà chị họ neo đơn, yếu mệt. Đây là một lòng bác ái mạnh mẽ, nên Đức Maria vội vã lên đường ngay, không chần chừ, không tính toán. Lòng bác ái không chỉ hướng về những người thân trong gia tộc mà còn mở rộng ra cho cả dân tộc, cả đồng loại. Nên trong bài Magnificat, Đức Maria đã nhớ đến công ơn tổ tiên và nhớ đến cả dân tộc.

Dấu hiệu thứ ba: ơn quên mình.

Được ơn Chúa Thánh Thần tác động, tâm hồn sẽ quên bản thân mình. Trước hết quên mình để hoàn toàn vâng theo thánh ý Thiên Chúa. Đức Maria đã hoàn toàn quên mình khi thưa với thiên thần: “Này tôi là nữ tỳ của Thiên Chúa, tôi xin vâng như lời thiên sứ truyền”. Không những quên mình cho thánh ý Chúa, Đức Maria còn quên mình vì tha nhân. Ngài quên mình cũng đang mang thai, cần được nghỉ ngơi, cần được chuẩn bị, chỉ nghĩ đến bà chị họ thai nghén ốm yếu, nên đã bỏ nhà ra đi thăm viếng. Ngài quên mình là khách mời trong tiệc cưới Cana, nên đã xuống bếp giúp đỡ việc bếp núc, và hoà vào cả nỗi lo của chủ nhà thiếu rượu. Ngài quên mình nên đã theo Đức Giêsu và can đảm đứng dưới chân thập giá, cùng chịu đau đớn nhục nhã với Con.

Dấu hiệu thứ tư: ơn phục vụ.

Lòng bác ái, sự khiêm nhường và sự quên mình được kết tinh ở cao điểm phục vụ. Tâm hồn được Chúa Thánh Thần tác động sẽ tìm phục vụ như tìm niềm vui, niềm hạnh phúc. Vì thế Đức Maria không quản thân phận là Mẹ Thiên Chúa đã đến phục vụ cho bà Elizabeth. Đức Maria cũng không nề hà mình đang thời kỳ thai nghén đã vui vẻ phục vụ người họ hàng cần sự giúp đỡ. Là Mẹ Thiên Chúa, Đức Maria đã tự nguyện trở nên tôi tớ để phục vụ con người. Đó chính là kết tinh của ơn Chúa Thánh Thần.

Với tất cả những đặc điểm của ơn Chúa Thánh Thần, cuộc gặp gỡ giữa Đức Maria và bà Elizabeth, cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và Thánh Gioan Baotixita còn trong bào thai đã trở thành cuộc gặp gỡ của niềm vui: niềm vui ơn cứu độ. Nhờ những chuẩn bị của Chúa Thánh Thần, hai người mẹ và hai bào thai đã họp thành cộng đoàn biết đón nhận và trao tặng ơn cứu độ. Đã tập họp thành Nước Thiên Chúa, đã là cộng đoàn đầu tiên đón nhận được ơn cứu độ, tiên báo cho Giáo Hội và Nước Thiên Chúa.

Chỉ còn vỏn vẹn mấy ngày nữa là đến lễ Giáng Sinh, ta hãy noi gương Đức Maria, nài xin Chúa Thánh Thần biến đổi tâm hồn ta nên xứng đáng đón nhận Chúa Cứu Thế. Ta hãy xin Đức Maria dạy ta biết sống theo ơn Chúa Thánh Thần trong khiêm nhường, bác ái, quên mình và phục vụ, để ta được niềm vui đón nhận ơn cứu độ.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

  1. Có những dấu chỉ nào cho thấy ơn Chúa Thánh Thần?
  2. Nhờ đâu cuộc gặp gỡ giữa Đức Maria và bà Elizabeth tràn đầy niềm vui?
  3. Những cuộc viếng thăm gặp gỡ của bạn có đem lại niềm vui cho người khác và cho chính bạn không?

 

4.     Xin Vâng Ý Chúa

(Suy niệm của Đức Cố Giám Mục Bathôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)

Chúa nhật I mùa Vọng báo tin ngày Chúa đến. Chúa nhật II cho thấy Gioan đến dọn đường. Chúa nhật III nói về niềm vui nổi lên vì Chúa đến gần. Còn Chúa nhật IV mùa Vọng hôm nay, chúng ta biết nói gì khi thấy Mẹ Chúa đến viếng thăm? Chắc chắn Phụng vụ, muốn chúng ta gọi Chúa nhật này là Chúa nhật của Ðức Mẹ. Và các bài Kinh Thánh hôm nay, sâu xa đều vẫn muốn nói về Người. Chúng ta nhìn thấy hình ảnh bài Tin Mừng; Và trong bài Thánh thư nói đến tâm tình của Chúa Kitô khi nhập thể chúng ta có thể thấy chính lòng của Ðức Mẹ.

Và điều này đúng, nghĩa là nếu tâm tình của Chúa Giêsu cũng là tâm lý của Ðức Mẹ thì Chúa nhật hôm nay của Ðức Mẹ cũng là Chúa nhật của chính Ðức Giêsu Kitô, chúng ta thấy cả hai đấng. Chúng ta thấy Ðức Mẹ mang Chúa Giêsu và Chúa Giêsu ở nơi Ðức Mẹ. Chúng ta thấy Chúa Giêsu đang đến với chúng ta nơi Ðức Mẹ, khiến chúng ta trong đời sống chờ ngày Chúa đến, phải biết mến yêu Ðức Maria và bắt chước Người.

  1. Một Người Nữ Thụ Thai

Bài sách Mica hôm nay rất thời danh. Nó được coi như lời tiên tri rất sáng sủa về Ðức Giêsu Kitô cứu thế. Nó nói Người xuất thân từ Belem, sinh bởi một người nữ “đồng trinh” và mang uy quyền của Thiên Chúa. Nhưng đọc ở thời Cựu ước, ý nghĩa của nó không rõ rệt như thế đâu.

Trước hết, ở thời xưa không chắc nhiều người đã để ý đến lời tiên tri này. Chính Mica cũng là một nhân vật ít được chú trọng. Ông là một tiên tri nhỏ, sống ở thế kỷ thứ VIII trước Chúa Giêsu Giáng Sinh. Ông hoạt động ở Giuđa, tức là miền Nam. Và chắc ông cũng chỉ tuyên sấm chung chung như mọi ngôn sứ khác. Ðại khái ông tố giác đời sống tội lỗi ở Giêrusalem, tiên báo hình phạt sẽ đến, nhưng khuyên nhủ tin cậy vào thời Phục hưng. Tác phẩm của ông chia làm ba phần rõ rệt như thế, nên người ta có lý để nghĩ rằng nó đã được một bàn tay nào sắp đặt, chứ khi ông rao giảng các tư tưởng không cách nhau như vậy đâu. Nhất là khi nhìn vào đoạn văn trích đọc hôm nay, người ta tưởng đã có một nhà thần học, sống sau ông rất nhiều và đã đào sâu tư tưởng của ông mới có thể viết ra được những lời tiên tri giá trị như vậy. Dù sao chúng ta cũng rất mừng được một bản văn như thế. Và khi đem đọc nó dưới ánh sáng của Tân ước, chúng ta càng thấm thía ý nghĩa của chính tên tác giả. Là vì trong tiếng Do Thái, Mica có nghĩa là: Ai như Thiên Chúa? Ðọc sách Mica, chúng ta sẽ thấy không ai như Thiên Chúa chúng ta. Người thật lạ lùng và công việc của Người thật kỳ diệu.

Quả vậy, ai có thể nghĩ như người? Ðang khi Israen đang bị chà đạp dưới gót giày của các đế quốc khổng lồ, Người tuyên sấm sẽ cứu đoàn dân nhỏ bé của Người. Người sẽ chọn một mục tử để chăn dắt, không những các chiên của Israen mà cả thế giới cũng chỉ là chiên của Người. Ý tưởng Ðấng Thiên Sai cứu thế sẽ là một mục tử, là một ý tưởng rất phổ thông trong sách Cựu Ước. Người ta còn được biết Người thuộc dòng dõi Ðavít nữa. Có lẽ góp hai quan niệm ấy lại, tác giả bài sách Mica hôm nay đã dám bạo viết rằng:

Phần ngươi hỡi Bêlem Ephrata nhỏ bé nhất trong hàng các bộ tộc Giuđa.

Chính tự nơi ngươi sẽ xuất hiện cho Ta, vị có định mệnh thống lĩnh Israen.

Nhà tiên tri đã được linh ứng để thấy trước việc Ðấng Thiên Sai sẽ xuất thân từ Bêlem, một làng rất nhỏ trong đất Giuđa, hay vì theo lời giao ước Ngài thuộc dòng Ðavít và sẽ là mục tử, nên ở đây nhà tiên tri muốn diễn tả Ngài như một Ðavít mới thật sự và do đó phải xuất từ Bêlem cũng như sẽ phải là một mục tử, như sẽ viết sau này?

Dù sao ý tưởng tác giả muốn nhấn mạnh ở đây không phải là chính Bêlem cho rằng tính cách nhỏ bé nhất của nơi này. Ông muốn nói rằng xét theo lai lịch xác thịt, Ðấng Cứu Thế không có gì đáng kể, nhưng như lời viết sau đây: Nguồn gốc của Ngài lên tới những ngày thuở xưa. Ngài là Con Người mầu nhiệm. Ngài có vẻ sinh ra từ một nơi tối tăm, không có danh tiếng gì; nhưng thật sự Ngài đã hiện diện từ xa xưa, từ thời có những lời hứa đầu tiên và trước cả đó nữa. Ðề cập đến Ngài như vậy Mica còn tỏ ra đáng phục hơn là khi ông nói Ðấng thống lĩnh Israen sẽ xuất thân từ Bêlem. Biết quê hương một người đâu quan trọng bằng biết bản chất con người ấy?

Thế mà Mica không dừng lại ở điểm này. Những lời ông viết tiếp đã được giải thích nhiều cách.

Thông thường thì người ta hiểu rằng: Chúa còn bỏ rơi dân Người cho đến ngày một người nữ sẽ sinh con và khi ấy con cái Israen sẽ được đoàn tụ. Tức là ở trên nhà tiên tri đã nói đến quê quán Ðấng Thiên Sai, giờ đây ông bàn đến thời đại Ngài ra đời cũng như dòng họ của Ngài. Ngài sẽ sinh ra sau thời gian Chúa thử thách dân Người và việc Ngài đản sinh là dấu Chúa đã đoái thương, muốn cứu lại dân và cho họ về đoàn tụ. Còn ai sẽ sinh ra Ngài? Isaia đã nói về một trinh nữ sẽ thụ thai và sinh một con trai. Lời tiên tri ấy mầu nhiệm đến nỗi đã ám ảnh tâm trí mọi người. Mica ở đấy chỉ lặp lại… Nhưng dường như ông nghĩ rằng người nữ sinh con kia không là ai khác chính dân Chúa, và chính số dân sót còn lại sau thử thách, số dân nghèo đạo đức còn lại sau nhiều phấn đấu cam go. Ðấng Thiên Sai sẽ sinh ra từ dòng dõi những người này. Ngài sẽ là mục tử dùng sức mạnh và quyền năng của Thiên Chúa để cai trị cả thế giới và ban hòa bình cho muôn dân.

Và như vậy, ở đây chúng ta lại thấy tính cách mầu nhiệm nghịch thường của con người Ðấng Thiên Sai. Ngài sẽ sinh ra từ dòng dõi khó nghèo, nhưng sức mạnh và quyền lực Ngài có lại là của Thiên Chúa.

Do đó toàn bài sách Mica hôm nay đã nói về Ðấng Thiên Sai cứu thế. Tác giả nhấn mạnh đến con người mầu nhiệm của Ngài. Bề ngoài Ngài nghèo khó hèn mọn nhưng thật sự Ngài cao cả quyền uy. Ðấng cứu độ là Thiên Chúa ở trong dân khó nghèo…

Tuy nhiên chúng ta cũng được phép đọc câu “Một người nữ sẽ sinh con” và dừng lại để nghĩ đến Ðức Mẹ. Người cũng bình dị nhưng cao cả vì Người sẽ sinh Ðấng thống lĩnh nhà Israen. Và Ðức Mẹ cũng chính là Dân Chúa, là bông hoa kết tinh của Cựu Ước và là gương mẫu của Hội Thánh ngày nay bắt chước. Chúng ta hiểu lời tiên tri ấy về Người, thì cũng phải hiểu về Hội Thánh và về chính chúng ta, như Mica đã làm cho thế gian thấy Chúa cứu thế đến cứu đời. Và chúng ta sẽ làm được việc ấy nếu biết chiêm ngưỡng Ðức Mẹ và bắt chước Người. Do đó chúng ta hãy nhìn Người trong bài Tin Mừng hôm nay.

  1. Bà Là Mẹ Thiên Chúa

Chúng ta hết thảy đều biết: Buổi đầu khi các Tông đồ khởi sự truyền giáo, các ngài đã rao giảng về Ðức Giêsu cho người ta, theo một dàn bài rõ rệt, tức là khởi sự từ ngày Người chịu Gioan rửa cho tới khi Người chịu chết – sống lại – lên trời – và sai Thánh Thần xuống. Nhưng bên cạnh công thức huấn giáo Tông đồ ấy, dần dà đã có những câu chuyện truyền tai nhau về thời thơ ấu và niên thiếu của Ðức Giêsu. Thánh Luca, khi viết tác phẩm Tin Mừng, đã nhặt một số các câu chuyện này và đem viết thành những chương đầu tiên. Người chẳng làm công việc này nếu những câu chuyện kia không ăn khớp với những chương sau trình bày giáo huấn chính thức của các tông đồ. Nói cách khác, Người đã quan niệm những chương nói về cuộc đời niên thiếu của Chúa phải như tiền đề dẫn vào những chương nói về cuộc đời công khai của Ngài. Do đó chúng ta có thể tìm thấy mầm mống những chương sau đã nằm nơi những chương đầu tiên rồi. Và chúng ta chỉ hiểu được những chương này dưới ánh sáng của mầu nhiệm Chúa Kitô sẽ phát huy trong việc Ngài tử nạn phục sinh.

Ðoạn văn hôm nay nằm trong những chương đầu tiên này. Tác giả Luca thuật những chuyện về Ðức Giêsu với những chuyện về Gioan Tẩy Giả để làm nổi bật sự mật thiết cũng như sự khác biệt giữa vị tiền hô và vị cứu thế, giữa Cựu Ước và Tân Ước, giữa luật pháp và ân sủng. Ở đây chúng ta thấy Ðức Maria đi thăm bà Isave.

Người lên đường sau ngày được sứ thần truyền tin. Nên cuộc viếng thăm ngày hôm nay gắn liền với sự việc ngày hôm trước. Theo như Kinh Thánh luôn cho biết, Thiên Chúa nói sao là có vậy. Thế mà sứ thần đã bảo Ðức Maria thụ thai Con Thiên Chúa để Ngài sẽ được gọi là Giêsu tức là cứu thế. Ðồng thời sứ thần cũng loan tin bà Isave đã thụ thai trong tuổi già được 6 tháng rồi. Có cái gì ở giữa hai sự việc này đây? Maria cứ lên đường và sẽ biết. Người đon đả ra đi là vì lẽ đó. Vậy khi Người vừa vào nhà và chào bà Isave, thì lập tức bà này đã lớn tiếng kêu lên: “Trong nữ giới có Người là diễm phúc. Và đáng chúc tụng thay hoa quả lòng Người”. Làm sao Isave có thể nói lên được những lời ấy; và nếu bà không giải thích thì ai mà hiểu được? Hơn nữa bà còn nói về Maira là Mẹ Thiên Chúa tôi đến với tôi. Làm sao bà biết được Maria đã cưu mang Chúa Cứu Thế? Nỗi vui của bà quả thật là niềm vui cứu độ mà các tiên tri đã từng hứa cho thiếu nữ Giêrusalem; và Mica đã loan báo sẽ xảy đến cho Bêlem nhỏ nhất trong xứ Giuđa. Chúng ta hãy nghe và giải thích: “Vì này thoạt tiếng Người chào vừa đến tai tôi, thì hài nhi trong dạ tôi nhảy mừng”.

Như vậy Gioan đã bắt đầu đóng vai trò “tiền hô của ông”. Ngay từ trong bụng mẹ, Gioan đã báo tin Chúa đến. Nhờ sự vui mừng của ông, mẹ ông đã được chỉ cho biết ân sủng đã đến trong con người Ðức Maria. Và nhờ việc ông nhảy mừng chúng ta thấy rõ Lời Chúa phán với Ðức Maria đã công hiệu. Chúa nói là Chúa làm. Ngài sẽ được gọi là Giêsu vì Ngài đã cứu thế. Ngài đã cho Gioan được sự vui mừng cứu độ. Và Gioan đã được chia sẻ niềm vui ấy; để rồi Ðức Maria không thể nào dấu được nữa những ơn cao cả Người đã được và đang mang trong mình.

Do đó, câu chuyện đi viếng hôm nay là để xác nhận việc Con thiên Chúa đã đến để cứu đời. Vị tiền hô còn nằm trong dạ mẹ đã loan báo điều ấy. Và Mẹ Chúa hôm nay xuất hiện là để chúng ta biết ơn cứu độ đã gần.

Thiên Chúa đã không dùng những hành vi và khung cảnh thật nhỏ mọn để bày tỏ quyền năng cao cả của Người đó sao? Nếu Bêlem nhỏ bé nhất trong hàng các bộ tộc Giuđa, như lời sách Mica viết, thì câu chuyện thăm viếng xảy đến trong nhà bà Isave ở một làng không tên tuổi nào đó lại còn nhỏ bé hơn nữa. Nhưng tất cả những gì có vẻ nhỏ bé trong câu chuyện lại đều hết sức lớn lao. Nhờ sự nhảy mừng của Gioan trong bụng mẹ, chúng ta được biết chúc tụng hoa quả của lòng Người. Tác giả thư Hipri là một trong những người sớm biết làm công việc này. Chúng ta hãy nghe lời ông trong đoạn trích hôm nay.

  1. Bà Ðã Thưa: Xin Vâng Ý Chúa

Tác giả muốn diễn tả tâm trạng của Chúa Kitô “lúc vào trần gian”, tức là lúc nhập thể cứu đời. Do đó, đoạn văn này hợp với Phụng vụ hôm nay, vì bài Tin Mừng cũng vừa nói đến “Hoa quả của lòng Ðức Trinh Nữ”.

Nhưng làm sao tác giả có thể biết được cảm nghĩ của Chúa khi nhập thể? Ông chỉ có thể tìm thấy những ý nghĩ ấy trong chính cuộc đời trần gian của Người. Thế mà khi còn tại thế và trong lúc giảng dạy, Chúa Giêsu vẫn không ngớt nhấn mạnh rằng: Ngài đến không để làm theo ý mình nhưng để thi hành ý của Chúa Cha. Và tất cả các sách Tân Ước đều khẳng định cuộc khổ nạn cứu thế của Chúa Kitô là một sự vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá.

Do đó tác giả thư Hipri có lý để viết về Chúa Kitô lúc vào trần gian rằng: Người nói: Này con đến để thi hành ý muốn của Chúa. Tác giả có vẻ muốn căn cứ vào lời trong một cuốn sách đã viết về Ngài. Nhưng cuốn sách nói đây không phải là một cuốn sách nào đó trong bộ Kinh Thánh mà là toàn bộ Kinh Thánh, kể từ “Môsê cho đến hết các tiên tri”, như lời Chúa Phục sinh nói với hai môn đệ trên đường Emmaus và với các tông đồ.

Nhưng điều đáng để ý ở đây là mạch văn của tất cả đoạn thư này. Tác giả đang nói rằng tất cả các lễ dâng đạo cũ đều không có sức tẩy rửa tâm hồn và làm đẹp lòng Thiên Chúa, vì lẽ “các điều ấy được hiến dâng chiếu theo lề luật”. Bấy giờ, lúc vào trần gian, Chúa Kitô đã nói: Này con đến để thi hành ý muốn Chúa. Chính trong ý muốn ấy, tức là trong thánh ý của Thiên Chúa mà chúng ta đã được tác thành, nhờ việc tự nguyện hiến thân vâng lời của Chúa Kitô.

Nói cách khác, ơn cứu độ chúng ta nằm nơi thánh ý Chúa đã xót thương thí ban Con Một của Người cho chúng ta và sự vâng lời của Chúa Con đã hiến thân như ý Chúa Cha đã định. Và nơi đang thực hiện những điều này là chính lòng Trinh Nữ Maria, người mà bà Isave hôm nay đã nhận ra là “kẻ đã tin rằng viên thành sẽ đến cho mọi điều Chúa truyền phán dạy cho Người!” Với câu này, rõ ràng tác giả Luca có ý gợi lại thái độ và lời “xin vâng” của Ðức Maria khi được thiên thần đến truyền tin.

Và như vậy, chúng ta có thể hiểu cả ba bài đọc Thánh Kinh hôm nay về Ðức Maria cũng như về Chúa Giêsu, về Ðức Maria cưu mang Ðức Giêsu cứu thế trong thân phận nhỏ bé và vâng lời, và về Chúa Giêsu đang đến với chúng ta nơi cung lòng Ðức Trinh Nữ cũng trong thái độ nhỏ bé và vâng lời. Phải chăng phụng vụ chẳng muốn cho chúng ta nghĩ rằng khó nghèo và vâng lời là môi trường và điều kiện để ơn cứu độ của Chúa thể hiện? Và gần đến lễ Giáng sinh, cũng như để chuẩn bị ngày Chúa đến trong vinh quang, thái độ của chúng ta há chẳng phải là khiêm nhường trước mặt Chúa và tuân giữ các giới răn của Người? Việc nhìn nhận tội lỗi của mình rồi đến với Chúa trong tòa cáo giải là cách dọn mình để đón nhận ơn Chúa Giáng Sinh. Cũng như khiêm cung thi hành các đỏi hỏi của Tin Mừng trong đời sống là con đường chắc chắn nhất làm cho ơn cứu độ của Chúa tỏ hiện một cách vinh quang.

Thánh lễ này cho chúng ta được tiếp xúc với Chúa trong mầu nhiệm cứu thế, là mầu nhiệm thật cao cả nhưng diễn ra trong khung cảnh đơn sơ khó nghèo biết bao! Ước chi chúng ta được niềm tin như tiên tri Mica để khẳng định có ơn cứu độ. Niềm tin ấy sẽ giúp chúng ta được như Ðức Maria, đón nhận Chúa Cứu Thế vào lòng. Rồi như Người, chúng ta sẽ khiêm tốn ra về để đến với anh em. Chúa sẽ làm cho anh em biết ơn Người cứu độ nếu niềm tin của chúng ta được thể hiện trong đời sống phục vụ khiêm tốn.

 

5.     Maria – Mẹ Đầy Ơn Phúc

(Suy niệm của Dã Quỳ)

Gần đến ngày Đại Lễ Giáng Sinh, Giáo Hội cho chúng ta chiêm ngắm chân dung của Mẹ Maria với những bước chân vội vã vượt qua núi đồi đến viếng thăm người chị họ. Mẹ đã đem đến cho bà Elisabeth một hạnh phúc trào tràn mà bà rất đỗi ngạc nhiên. Hạnh phúc đó là sự hiện diện tràn đầy niềm vui của Chúa mà Đức Mẹ cưu mang trong chính cung lòng mình. Là một sự kỳ diệu của tình yêu!

Trong cuộc đối thoại với thiên thần, để trấn an và minh chứng quyền năng của Thiên Chúa, thiên thần đã cho Mẹ biết tin người chị họ son sẻ đang mang thai. Mẹ vội vã đi thăm để chia sẻ niềm vui với bà Elisabeht và để giúp đỡ chị họ trong lúc tuổi già. Khi mà lời Mẹ Maria chào vang lên nơi tai bà Elisabeth, hài nhi trong dạ bà nhảy mừng và được đầy Thánh Thần như đã được thiên thần loan báo “Và ngay khi còn trong lòng mẹ, em đã đầy Thánh Thần.” (Lc 1,5) Hài nhi Gioan đã thấy và tiên báo bình minh của thời đại mới ló dạng qua niềm hoan hỉ của mình chứ không qua những từ ngữ, Ngài vui mừng khi nhận biết sự hiện diện của Đấng mà muôn dân trông đợi và kết thúc thời ngóng chờ. Tràn đầy Thần Khí của ngôn sứ, bà Elisabeth cũng có khả năng để đọc được một cách đầy đủ ý nghĩa của những gì đang diễn ra trong cung lòng bà; bà nhận biết chắc chắn rằng Đức Maria là người có phúc và hoa trái mà Mẹ đang cưu mang là Đấng được Thiên Chúa chúc phúc. Bà cũng tuyên xưng rằng người họ hàng của bà là thân mẫu Chúa của bà.

Mẹ được chúc phúc vì Mẹ đã được tuyển chọn giữa muôn người phụ nữ và qua muôn thế hệ, Thiên Chúa đã chọn Mẹ làm Mẹ Đấng Cứu Thế. “Kính mừng Maria đầy ơn phúc” là lời sứ thần đã chào Mẹ trong ngày truyền tin và chúng ta cũng ca khen Mẹ, cầu nguyện với Mẹ qua lời này để tạ ơn Chúa đã ban cho chúng ta một người mẹ tuyệt vời. Mẹ đã được Thiên Chúa yêu thương bởi lòng kính sợ Chúa và tâm tình khiêm nhường thẳm sâu như lời ca Magnificat mà Mẹ đã tung hô Chúa “Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới…Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người…và Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.” (Lc 1,48.50.52) Để được chúc lành và đầy tràn ơn phúc của Chúa, ta hãy noi gương Mẹ, hết lòng tin tưởng yêu mến Chúa, mở lòng đón nhận Thánh Ý Chúa và phụng thờ Chúa suốt cả đời ta.

Mẹ được chúc phúc vì Mẹ có Chúa ở cùng. Mẹ đã hiến trọn cuộc đời và chương trình riêng để cộng tác vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Cung lòng Mẹ trở nên đền thờ cho Chúa ngự. Mẹ đã cưu mang, dưỡng nuôi Con Thiên Chúa trong chính cung lòng mình và Mẹ được gọi là thân mẫu Chúa Giê-su. Đấng được chúc phúc và là nguồn mạch mọi ơn phúc đang ngự trong lòng Mẹ nên trong Mẹ sẽ luôn dư tràn mọi phúc lành. Mẹ không giữ phúc lành ấy cho riêng mình nhưng đã mang đến cho mọi người để những ai gặp Mẹ cũng được Chúa chúc phúc. Mẹ đã chia sẻ niềm vui, niềm hy vọng đến tận gia đình Giacaria nơi miền núi xa xôi. Noi gương của Mẹ, chúng ta hãy dọn tâm lòng để tiếp tục là nơi Thiên Chúa ngự và cuộc đời ta luôn có Chúa hiện diện. Ta cũng hãy tiếp nối sứ mạng của Mẹ đem niềm vui chia sẻ cho anh em vì “Niềm vui chia sẻ niềm vui lớn”, và phục vụ tha nhân bằng chính những ân huệ Chúa ban cho mình. Hãy an ủi những người cô đơn, giúp đỡ những người nghèo, người không nơi nương tựa và cộng tác đắc lực thực hiện ý định của Chúa cho mình và cho thế giới.

Mẹ được chúc phúc vì đã tin. Mẹ tin những gì Chúa đã nói với Mẹ qua lời thiên sứ và một lòng tín thác vào kế hoạch của Chúa cho cuộc đời Mẹ. Mẹ tin vào tình yêu Thiên Chúa, Đấng đã dựng nên Mẹ và nắm trọn chủ quyền quá khứ, hiện tại và tương lai đời Mẹ, và Mẹ tin vào lòng trung tín vững bền của Chúa. Vì tin, Mẹ đã thưa Xin Vâng và Ngôi Hai Thiên Chúa đã xuống thế làm người và từ đó, kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện cách trọn vẹn như lời ngôn sứ Isaia đã tiên báo thuở xưa “Này đây trinh nữ sẽ thụ thai, sinh hạ con trai và đặt tên con trẻ là Emmanuel.” (Is 7,14) Mẹ được gọi là Mẹ của những kẻ tin. Với thời gian cuối của Mùa Vọng, chúng ta hãy đón nhận mẫu gương của Mẹ khi biết hăng hái thưa xin vâng với thánh ý của Thiên Chúa cách tin tưởng và sẵn sàng dâng cuộc đời chúng ta để thực hiện những phương cách cứu độ trong thế giới hôm nay.

Lạy Mẹ Maria, chúng con ca mừng Mẹ đầy ơn phúc. Mẹ được Thiên Chúa yêu thương chúc phúc và ở cùng. Trong Mẹ luôn đầy tràn ân sủng và niềm vui. Ân sủng thúc đẩy Mẹ tin tưởng vào Chúa và quảng đại dấn thân phục vụ. Niềm vui giúp Mẹ đủ sức mạnh vượt núi đồi để sẻ chia, giúp đỡ chị họ. Xin Mẹ cầu bầu cho chúng con cũng được Chúa yêu, chăm sóc và ban tràn đầy niềm vui giúp chúng con biết sống như Mẹ để tâm hồn chúng con xứng đáng trở nên hang đá ấm cho Chúa ngự. Amen.

 

6.     Chúa Nhật 4 Mùa Vọng

CHIA SẺ LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA CHO MỌI NGƯỜI

(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)

Càng đến lễ Giáng Sinh thì khuôn mặt Đức Mẹ càng nổi bậc vì Mẹ đóng vai trò quan trọng trong mầu nhiệm nhập thể. Cụ thể, Tin Mừng hôm nay nói đến việc Mẹ Maria đi thăm chị Elizabét. Tại sao Mẹ đi thăm bà ấy? Có người cho rằng Sứ thần truyền cô Maria sẽ thụ thai đang khi cô không biết đến người đàn ông là chuyện mơ hồ. Rồi Sứ thần còn cho biết bà chị họ của cô Maria là Elizabét đã có thai trong khi già nua, những chuyện đó khó tin thật nên Mẹ quyết định lên đường vừa thăm chị vừa xem sự thể có đúng không? Nếu đúng thì chuyện mình cũng đúng. Nghĩ như vậy thì tội nghiệp cho Đức Mẹ, Mẹ đâu có hồ nghi như chúng ta! Mẹ cũng không đi thăm bà chị để khoe rằng tôi được làm mẹ Đức Chúa Trời. Trái lại, Mẹ tin vững vàng và sắt son vào Chúa từ lâu rồi, cho nên bà Elizabét khen ngợi Đức Mẹ rằng: “Em thật có phúc vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người nói với em”.

Cô Maria là một cô thôn nữ xinh đẹp như bao thiếu nữ trong làng. Cô mơ ước có được một tấm chồng, sinh con và gia đình hạnh phúc. Thế mà, Thiên Chúa đến mời gọi Cô dấn thân vào một cuộc sống mới, đó là tham dự vào công trình đem ơn cứu độ, là Lòng Thương Xót Chúa đến cho mọi người. Qủa thế, Mẹ Maria đã tin vào Lời Chúa và để cho Lời Chúa thay đổi cuộc đời mình theo chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Mẹ chấp nhận lên đường mang Chúa đến cho con người trong tin yêu và phó thác. Khi nghe tin bà chị có thai trong lúc tuổi già, Mẹ đi để chia sẻ lòng thương xót Chúa, tình nguyện phục vụ và chăm sóc bà chị thân yêu của mình. Cho nên, khi mẹ đến với bà Elizabét, thì Gioan trong bụng bà nhảy mừng. Vì sao mừng? Vì Đức Mẹ chính là hòm bia Thiên Chúa và cung lòng Mẹ đang cưu mang chính Thiên Chúa làm người, Chúa Giêsu Kitô. Mà Chúa Giêsu chính là dung nhan Lòng Thương Xót của Thiên Chúa là niềm vui cho nhân loại mà hôm nay Mẹ Maria đã thông chia nhân loại già nau, cằn cổi, héo hon như lòng bà Elizabét và Gioan đại diện nhân loại mới nhảy mừng trước ơn cứu độ, là Lòng Thương Xót của Thiên Chúa.

Hôm nay là Chúa nhật cuối cùng của Mùa vọng, Lời Chúa mời gọi chúng ta chiêm ngắm cuộc thăm viếng hồng phúc chứa chan ơn cứu độ của Mẹ Maria, để rồi mỗi người hãy tiếp tục đem nguồn vui là Lòng Thương Xót Chúa đến cho những người chúng ta gặp gỡ hằng ngày trong cuộc sống. Nhưng làm sao chúng ta có được niềm vui và Lòng Thương Xót của Thiên Chúa như Mẹ. Bài đọc hai trả lời rằng hãy vâng nghe và thực thi ý Chúa. Bất cứ ai sống và vâng nghe Lời Chúa đều có thể ngợi khen Thiên Chúa như Mẹ: thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Giờ đây, chỉ còn vấn đề là chúng ta có hăng hái lên đường mang Đấng cứu độ, Lòng Thương Xót của Chúa và tinh thần phục vụ yêu thương đến cho mọi người không? Chúng ta có tha thiết gì với niềm khát khao hạnh phúc của người khác không? Chúng ta mau mắn giúp đỡ những người cần chúng ta giúp đỡ tinh thần cũng như vật chất không?

Kính thưa quý ông bà, anh chị em, vì yêu thương, Mẹ Maria đã không quản ngại hy sinh gian khổ, cực nhọc lặn lội suốt 3-4 ngày đi bộ chỉ mong đem Lòng Thương Xót của Chúa và niềm vui đến cho gia đình bà chị họ và cho cả nhân loại. Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người tùy khả năng của mình biết hy sinh tinh thần vật chất đem niềm vui ơn cứu độ Chúa đến với toàn thể nhân loại này. Chúng ta đang đi vào những ngày thánh của Năm Thánh Lòng Thương Xót. Để Năm Thánh này đat hiệu quả tốt nhất, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi: hãy mở mắt và mở cõi lòng mình ra cho tất cả những ai đang sống tại những vùng rìa khác nhau của kiếp hiện sinh, những người nghèo khổ, những người bị cướp đi phẩm giá của họ và các bệnh nhân. Chúng ta được mời gọi chữa trị những vết thương ấy, hầu xoa dịu những vết thương ấy bằng dầu ủi an, băng bó những vết thương ấy bằng Lòng Thương Xót, và chữa lành những vết thương ấy bằng tình liên đới và sự kính trọng (số 15§1). Hãy làm việc bác ái đối với tha nhân cả thể xác và tinh thần theo theo lời dạy của Chúa Giê-su: cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, khuyên bảo, dạy dỗ, an ủi… (x. Mt 25, 31-45) (số 15§2). Và Đức Thánh Cha quả quyết họ là hiện thân của Chúa Giê-su, vì thế chúng ta phải nhận ra, đụng chạm và giúp đỡ họ một cách chu đáo (số 15§3).

Đặc biệt trong Thư chung Năm Phúc âm hóa xã hội, Hội Đồng Giám mục Việt nam mời gọi hãy sống, loan báo, làm chứng và chia sẻ Lòng Thương Xót nơi xã hội mình sống. Cụ thể, mỗi gia đình biết hy sinh một chút thời gian để cùng nhau đọc kinh sáng tối để Chúa xót thương từng người trong gia đình đồng thời làm sáng danh Chúa. Mỗi người biết hy sinh một chút tiền tiêu, một chút công sức để giúp đỡ người nghèo, những người cô thế cô thân. Còn các bạn trẻ hãy hy sinh một ít thời gian quý báu đi học giáo lý, tập hát, giúp lễ hay làm việc gì đó trong nhà thờ để ca tụng, ngợi khen và tôn vinh Chúa. Các em thiếu nhi hãy biết hy sinh quảng đại phục vụ gia đình và mọi người bằng những việc rất nhỏ như quét nhà, giúp mẹ nấu ăn rửa chén, cầm tay giúp bà già qua đường, cho người ăn xin, người khuyết tật một nụ cười thay vì khinh chê, chọc nghẹo. Vâng, chỉ những hy sinh như thế mới có giá trị thật sự để chuẩn bị tâm hồn đón Chúa Giêsu sắp giáng sinh cứu độ chúng ta và cũng sẵn sàng sẻ chia tin vui cứu độ cho người khác như Mẹ Maria hôm nay.

Hôm nay, Mẹ Maria dạy chúng ta một bài học đáng giá: Hãy mang Chúa và Lòng Thương Xót đến với mọi người, chứ đừng mang hận thù, đừng mang những suy nghĩ đen tối, những nghi kỵ đến với nhau. Chúng ta hãy bắt chước Mẹ để yêu thương và chia sẻ tình yêu thương xót với mọi người. Hãy cưu mang Chúa Giêsu trong tâm hồn, để như Mẹ, ta cũng có thể mang một tâm hồn tràn ngập sự sống của Chúa Giêsu và Lòng Thương Xót của Ngài hầu mang chính Chúa Giêsu đến với anh chị em xung quanh, nhờ đó, mọi người sẽ chứa chan niềm vui, chứa chan ơn thánh, chứa chan niềm hạnh phúc và thương xót nhau. Amen.

 

7.     Chúa Nhật 4 Mùa Vọng

(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)

Đồng Hành và Chia Sẻ

ƠN CỨU ĐỘ CỦA CHÚA cho mọi người

Càng đến lễ Giáng Sinh thì khuôn mặt Đức Mẹ càng nổi bậc vì Mẹ đóng vai trò quan trọng trong mầu nhiệm nhập thể. Cụ thể, Tin Mừng hôm nay nói đến việc Mẹ Maria đi thăm chị Elizabét. Tại sao Mẹ đi thăm bà ấy? Có người cho rằng Sứ thần truyền cô Maria sẽ thụ thai đang khi cô không biết đến người đàn ông, cô Maria nghi ngờ chuyện thụ thai này. Rồi Sứ thần còn cho biết bà chị họ của cô Maria là Elizabét đã có thai trong khi già nua, chuyện này khó tin thật nên Mẹ quyết định lên đường vừa thăm chị vừa xem sự thể có đúng không? Nếu đúng thì chuyện mình cũng đúng. Nghĩ như vậy thì tội nghiệp cho Đức Mẹ, Mẹ đâu có hồ nghi như chúng ta! Mẹ cũng không đi thăm bà chị để khoe rằng tôi được làm Mẹ Đức Chúa Trời. Trái lại, Mẹ tin vững vàng và sắt son vào Chúa từ lâu rồi, cho nên bà Elizabét đã khen ngợi Đức Mẹ rằng: “Em thật có phúc vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người nói với em”.

Cô Maria là một cô thôn nữ xinh đẹp như bao thiếu nữ trong làng. Cô mơ ước có được một tấm chồng, sinh con và gia đình hạnh phúc. Thế mà, Thiên Chúa đến mời gọi Cô dấn thân vào một cuộc sống mới, đó là tham dự vào công trình đem ơn cứu độ của Chúa đến cho mọi người. Qủa thế, Mẹ Maria đã tin vào Lời Chúa và để cho Lời Chúa thay đổi cuộc đời mình theo chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Mẹ chấp nhận lên đường mang Chúa đến cho con người trong tin yêu và phó thác. Khi nghe tin bà chị có thai trong lúc tuổi già, Mẹ đi để chia sẻ ơn Chúa, tình nguyện phục vụ và chăm sóc bà chị thân yêu của mình. Cho nên, khi mẹ đến với bà Elizabét, thì Gioan trong bụng bà nhảy mừng. Vì sao mừng? Vì Đức Mẹ chính là hòm bia Thiên Chúa và cung lòng Mẹ đang cưu mang chính Thiên Chúa làm người, Chúa Giêsu Kitô. Mà Chúa Giêsu chính là ơn cứu độ của Thiên Chúa là niềm vui cho nhân loại mà hôm nay Mẹ Maria đã thông chia cho nhân loại già nau, cằn cổi, héo hon như lòng bà Elizabét và Gioan đại diện nhân loại mới nhảy mừng trước ơn cứu độ của Thiên Chúa.

Hôm nay là Chúa nhật cuối cùng của Mùa vọng, Lời Chúa mời gọi chúng ta chiêm ngắm cuộc thăm viếng hồng phúc chứa chan ơn cứu độ của Mẹ Maria, để rồi mỗi người hãy tiếp tục đem niềm vui ơn cứu độ của Chúa đến cho những người chúng ta gặp gỡ hằng ngày trong cuộc sống. Nhưng làm sao chúng ta có được niềm vui ơn cứu độ của Thiên Chúa như Mẹ Maria. Bài đọc hai trả lời rằng hãy vâng nghe và thực thi ý Chúa. Bất cứ ai sống và vâng nghe Lời Chúa đều có thể ngợi khen Thiên Chúa như Mẹ: thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Giờ đây, chỉ còn vấn đề là chúng ta có hăng hái lên đường mang Đấng cứu độ và tinh thần phục vụ yêu thương của Ngài đến cho mọi người không? Chúng ta có tha thiết gì với niềm khát khao hạnh phúc của người khác không, có sẵn sàng đồng hành với họ trong cuộc sống? Chúng ta mau mắn giúp đỡ những người cần chúng ta giúp đỡ tinh thần cũng như vật chất không?

Kính thưa quý ông bà, anh chị em, vì yêu thương, Mẹ Maria đã không quản ngại hy sinh gian khổ, cực nhọc lặn lội suốt 3-4 ngày đi bộ chỉ mong đem niềm vui ơn cứu độ đến cho gia đình bà chị họ và cho cả nhân loại. Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người tùy khả năng của mình biết hy sinh tinh thần vật chất đem niềm vui ơn cứu độ Chúa đến với mọi người đang sống chúng quanh chúng ta. Chúng ta đang đi vào những ngày tháng của năm phụng vụ, với mục tiêu là đồng hành với các gia đình khó khăn. Để đạt hiệu quả tốt nhất của việc đồng hành này, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi: hãy mở mắt và mở cõi lòng mình ra cho tất cả những ai đang sống tại những vùng rìa khác nhau của kiếp hiện sinh, những người nghèo khổ, những người bị cướp đi phẩm giá của họ và các bệnh nhân. Chúng ta được mời gọi chữa trị những vết thương ấy, hầu xoa dịu những vết thương ấy bằng dầu ủi an, băng bó những vết thương ấy bằng lòng thương xót, và chữa lành những vết thương ấy bằng tình liên đới và sự kính trọng (số 15§1). Hãy làm việc bác ái đối với tha nhân cả thể xác và tinh thần theo theo lời dạy của Chúa Giê-su: cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, khuyên bảo, dạy dỗ, an ủi… (x. Mt 25, 31-45) (số 15§2).

Cho nên, trong Thư mục vụ 2018-2019, Hội Đồng Giám mục Việt nam mời gọi toàn thể dân Chúa rằng theo gương Chúa Giêsu, chúng ta được mời gọi chăm sóc mục vụ cho các gia đình, nhất là những gia đình gặp khó khăn. Trong tình hình hiện nay, chúng tôi xin anh chị em lưu tâm đến trước hết là các gia đình di dân: ngày nay vì hoàn cảnh kinh tế, rất nhiều gia đình phải rời bỏ làng quê để tìm kế sinh nhai trong những thành phố lớn. Chỉ một số ít thành công, còn đa số gặp nhiều khó khăn trong việc làm ăn, sinh hoạt gia đình, giáo dục con cái. Về mặt đức tin, họ cũng gặp khó khăn trong việc hội nhập cộng đoàn giáo xứ mới. Vì thế, chúng ta phải mở rộng vòng tay đón tiếp, để các gia đình di dân cảm nhận cộng đoàn giáo xứ là nhà của họ, nơi đó đức tin được nuôi dưỡng, lòng mến được vun trồng, và hy vọng được triển nở giữa những khó khăn thử thách. Kế đến là những cặp hôn nhân khác đạo: trong những gia đình này, có những khó khăn riêng do việc vợ chồng không cùng niềm tin tôn giáo, ảnh hưởng đến việc giữ đạo của người Công giáo cũng như việc giáo dục con cái trong gia đình. Vì thế, chúng ta cần đồng hành và nâng đỡ họ, nhất là giúp người phối ngẫu Công giáo trong đời sống đức tin, để họ có thể làm chứng cho Tin Mừng và giới thiệu Chúa Giêsu cho mọi người trong gia đình, gia tộc và lối xóm. Cuối cùng là những gia đình bị đổ vỡ: dựa vào giáo huấn của Chúa, Hội Thánh luôn mong muốn các đôi vợ chồng chung thủy với nhau đến trọn đời. Tuy vậy, trong thực tế, nhiều cặp hôn nhân rơi vào tình trạng mâu thuẫn không thể hòa giải và dẫn tới đổ vỡ. Một số người Công giáo rơi vào tình trạng này vì hoàn cảnh chứ không hoàn toàn do lỗi riêng của họ. Vì thế, thay vì lên án và loại trừ, chúng ta cần cảm thông và giúp đỡ họ nơi cộng đoàn đức tin cũng như trong đời sống hằng ngày. Đối với những người đã li dị và tái hôn, họ vẫn được Hội Thánh yêu thương và quan tâm chăm sóc với tình mẫu tử.

Vâng, chỉ những hy sinh đồng hành như thế mới có giá trị thật sự để chuẩn bị tâm hồn đón Chúa Giêsu sắp giáng sinh cứu độ chúng ta và cũng sẵn sàng đồng hành, sẻ chia tin vui cứu độ cho người khác, nhất là những người đang đau khổ và khó khăn như Mẹ Maria hôm nay. Chúng ta hãy bắt chước Mẹ để yêu thương, đông hành và chia sẻ tình yêu cứu độ của Chúa với mọi người, nhất là các gia đình đang gặp khó khăn trong giáo xứ chúng ta. Hãy cưu mang Chúa Giêsu trong tâm hồn, để như Mẹ, ta cũng có thể mang một tâm hồn tràn ngập sự sống của Chúa Giêsu và ơn cứu độ của Ngài đến với anh chị em xung quanh, nhờ đó, mọi người sẽ chứa chan niềm vui, chứa chan ơn thánh, chứa chan niềm hạnh phúc trong cuộc sống này. Amen.

 

8.     Chúa Nhật 4 Mùa Vọng

MẸ MARIA – NHÀ THỪA SAI ĐẶC BIỆT

(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)

Tin Mừng Lc 1:39-45 Lời Chúa hôm nay tường thuật việc Đức Maria lên đường thăm viếng bà Êlisabeth. Đây là một cuộc thăm viếng mang tính sứ vụ: Đức Maria tràn ngập niềm vui, bởi vì ngay tại cung lòng của Mẹ, một Đấng Cứu Độ mà toàn dân mong chờ đang ở đó.

Trong những ngày này, niềm vui chuẩn bị mừng đại lễ Giáng Sinh đang tràn ngập trên thế giới. Niềm vui ấy vượt ra khỏi không gian và thời gian. Vượt lên trên những khoảng cách tôn giáo, tín ngưỡng, giai cấp, thành thị hay thôn quê.

Nhiều người cũng không ngừng trao tặng cho nhau những quà tặng, cánh thiệp, để biểu lộ niềm vui!

Phụng vụ Lời Chúa hôm nay tường thuật việc Đức Maria lên đường thăm viếng bà Êlisabeth. Đây là một cuộc thăm viếng mang tính sứ vụ: Đức Maria tràn ngập niềm vui, bởi vì ngay tại cung lòng của Mẹ, một Đấng Cứu Độ mà toàn dân mong chờ đang ở đó.

Niềm vui ấy dẫn Mẹ đến thái độ tôn thờ, yêu mến. Tuy nhiên, không thể chỉ giữ lại niềm vui ấy cho riêng mình, nhưng Mẹ đã ra đi và đem niềm vui đó chia sẻ cho người khác.

Khi lên đường đến thăm chị họ của mình là bà Elizabeth, Mẹ không chỉ đến chia sẻ niềm vui bằng lời nói xã giao, mà bằng chính nội dung Tin Mừng, đó là mang Chúa Giêsu đến cho chị của mình.

Để thực hiện được điều đó, Mẹ đã chấp nhận gian khổ, hy sinh, băng rừng vượt núi, đến thăm bà chị họ của mình: “Ngày ấy, Maria chỗi dậy, vội vã ra đi tiến lên miền núi, đến một thành xứ Giuđêa. Bà vào nhà ông Dacaria và chào bà Êlisabeth”; Mẹ đã ra đi, chấp nhận gian khổ vì tình yêu, vì tinh thần phục vụ, vì thế, Mẹ sẵn lòng: “Ở lại với bà Êlisabeth độ ba tháng” để phục vụ người chị đã cao niên. Đây quả là một hình ảnh đẹp của người thừa sai. Mẹ xứng đáng được gọi là người có phúc! (x. Lc 1, 43).

Hình ảnh Đức Maria viếng thăm bà Elizabeth còn diễn tả thật rõ nét hình ảnh Hòm Bia Thiên Chúa trong Cựu Ước.

Nếu xưa kia, Hòm Bia Thiên Chúa ngự lại 3 tháng tại nhà ông Ôveđ Êđom, thì giờ đây, ngay tại cung lòng Mẹ Maria, Mẹ cũng đang mang trong mình Hòm Bia Thiên Chúa là chính Đức Giêsu, và Mẹ cũng lưu lại 3 tháng tại nhà bà Elizabeth.

Nếu xưa kia, khi Hòm Bia Thiên Chúa lưu lại tại nhà ông Ôveđ Êđom và đã ban cho gia đình ông nhiều ơn phúc, thì giờ đây, Mẹ Maria cũng mang tin vui và bình an của Chúa đến cho gia đình ông Dacaria rất nhiều. Việc trẻ Gioan nhảy mừng nơi cung lòng bà Elizabeth đã chứng minh điều đó. Trong tâm hồn Mẹ có Chúa, và Mẹ đã không muốn giữ Chúa lại cho riêng mình. Mẹ đã chia sẻ niềm vui ấy với người khác. Chấp nhận gian khổ, hy sinh vì tinh thần phục vụ.

Như vậy, Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta hãy noi gương Mẹ Maria: khi đã có Chúa trong tâm hồn, thì hãy mau mắn lên đường đem Chúa đến cho người khác. Hãy loan báo Tin Mừng, mang tin bình an, tin hy vọng, tin hạnh phúc đến với mọi người, dẫu có gặp những trở ngại trông gai.

Mong thay, trong những ngày cận kề đón mừng Ngôi Hai Giáng Sinh, chúng ta hãy gạt bỏ những rào cản như: hận thù, chia rẽ, kiêu ngạo, ghét ghen, dối gian, bất an, hầu cho tâm hồn được thanh thoát, thánh thiện và trong sạch để xứng đáng đón Chúa ngự đến. Đồng thời, noi gương Mẹ Maria, khi tâm hồn đã có Chúa, chúng ta sẵn sàng vượt qua mọi gian khó hiểm nguy và lên đường đem Chúa đến cho người khác.

Khi ta làm được như thế, Chúa Hài Nhi sẽ lớn lên trong tâm hồn chúng ta qua những cử chỉ yêu thương và phục vụ hằng ngày.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con sắp rước Chúa ngự vào trong tâm hồn chúng con qua Bí tích Thánh Thể, xin Chúa thanh tẩy tâm hồn chúng con, để tâm hồn chúng con xứng đáng được Chúa ngự đến như xưa Chúa đã ngự xuống trong cung lòng Mẹ Maria. Xin cho chúng con luôn biết mang Chúa đến cho người khác và sẵn sàng hy sinh phục vụ vì hạnh phúc của tha nhân, hầu cho mọi người cảm nhận được niềm vui, bình an và hạnh phúc khi có Chúa ở cùng và sống với họ. Lạy Đấng “Emmanuel”, xin ngự đến. Amen.

 

9.     Gặp gỡ Chúa

Trong đêm khuya, người đàn ông đứng một mình trên đỉnh đồi heo hút. Đó là một đêm tuyệt đẹp. Bầu trời đầy sao. Tâm hồn ông thật thanh thản và bình an. Ông cảm nhận được rằng cuộc đời là một ơn huệ. Và ông đã cho biết: Chính trong đêm hôm ấy trên đỉnh đồi cao, ông đã bắt đầu tin vào Thiên Chúa. Các nhà tâm lý học thường gọi cảm nghiệm trên đây là “khoảng khắc cao điểm”. Đó là lúc mà chỉ trong thoáng chốc, chúng ta nhận ra một thế giới mới vô cùng to lớn và xinh đẹp. Từ đó, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay.

Thực vậy, Phúc Âm đã ghi lại: Vừa nghe lời Maria chào, thì hài nhi trong bụng bà Isave liền nhảy mừng. Một đứa bé đạp trong bụng mẹ là điều rất bình thường. Thế nhưng, khi kẻ lại chi tiết này, hẳn thánh Luca muốn coi đó như là một cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa Giêsu, cũng như một chào đón mà Gioan muốn dành cho Ngài.

Trong Phúc Âm, chúng ta cũng ghi nhận được những khoảng khắc cao điểm như thế. Chẳng hạn như sau mẻ lưới lạ lùng, Phêrô đã quỳ xuống và thưa lên cùng Chúa: Lạy thầy xin hãy tránh xa con, vì con chỉ là một kẻ tội lỗi. Nói cách khác, Phêrô đã cảm nghiệm được sự tốt lành thánh thiện của Chúa. Lần khác, sau khi Chúa Giêsu biến hình trên đỉnh Tabôrê, thì từ đám mây có tiếng phán: Này là Con ta yêu dấu, đẹp long Ta mọi đàng. Các con hãy vâng theo lời Ngài. Khi nghe thế, ba môn đệ thân tín liền sấp mặt xuống đất, lòng vô cùng sợ hãi. Hay nói cách khác, trong phút giây ngắn ngủi ấy, các ông đã cảm nghiệm được chiều kích thẳm sâu của Chúa Giêsu.

Ngày nay, nhiều người vẫn được Chúa ban cho những khoảng khắc cao điểm như thế. Chẳng hạn như Paul Nagai. Ông đã cảm nghiệm được sự sống vĩnh cửu qua cái nhìn của người mẹ trong cơn hấp hối. Chẳng hạn như Paul Claudel đã cảm nghiệm được tình thương của Thiên Chúa qua tiếng hát trong buổi kinh chiều của ngày lễ Giáng sinh. Chẳng hạn như Phanxicô Xaviê đã cảm nghiệm được giá trị của linh hồn qua lời nhắc bảo của Ignatio: Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn, thì nào có ích lợi chi?

Cảm nghiệm về Đức Kitô thì không máy móc nào có thể chế tạo được. Không chiếc vi tính nào có thể lập trình, cũng không thể cứ muốn là được. Vì đây là một quà tặng Ngài trao ban. Chúng ta cần phải mở rộng cõi lòng để lãnh nhận.

Và Mùa Vọng chính là thời gian thuận tiện để chúng ta thự hiện việc làm này. Đây là lúc chúng ta phải tự chấn chỉnh lấy mình, để chào đón Đức Kitô trong cuộc đời chúng ta. Nếu chúng ta biết mở rộng cõi lòng cho Ngài, thì ngày diễm phúc ấy sẽ đến và lúc đó chúng ta sẽ thực sự cảm nghiệm được niềm hạnh phúc, sự bình an và tình yêu thương mà Ngài sẽ đem đến khi viếng thăm chúng ta.

 

10. Maria dám tin

(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’ – Thiên Phúc)

Một doanh nhân giàu có ở Mỹ có sáng kiến ngộ nghĩnh để thử lòng người: ông cho in rất nhiều bích chương và dán khắp nơi trong thành phố nơi ông đang ở. Ðại khái nội dung của bích chương loan báo: Bất cứ ai mắc nợ, nếu đến văn phòng của ông ngày đó, tháng đó từ 9g đến 12g đều được ông giúp đỡ để trả nợ. Dĩ nhiên, mọi người đều bàn tán về lời mời gọi này, nhưng đa số đã xem đây là một trò đùa.

Ðúng ngày hẹn, doanh nhân ngồi trong văn phòng của mình. Hai giờ trôi qua mà không thấy người nào đến. Mãi tới 11 giờ mới có một người đàn ông rụt rè đến… Doanh nhân ký cho ông một ngân phiếu để trả hết nợ. Gần 12 giờ một vài người nữa cũng đến. Và dĩ nhiên họ cũng được giúp đỡ tận tình. Còn tất cả những người khác khi hiểu được lời mời gọi của doanh nhân thì đã muộn.

***

Lời hứa của doanh nhân trong câu chuyện trên đây quá lớn, nên đa số đã không tin. Chính vì không tin nên họ đã bỏ lỡ một cơ hội ngàn vàng. Ðức Maria, trái lại, Mẹ đã dám tin vào lời Chúa hứa nên Mẹ đã được tràn đầy ân phúc. Bà Êlisabét nói: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1,4 5).

Tin là để cho Chúa thay đổi hướng đi của cuộc đời mình.

Tin là để cho chương trình cứu độ của Người đảo lộn chương trình sống của chúng ta.

Tin là chấp nhận lên đường, làm một cuộc hành trình mạo hiểm với Chúa.

Trước khi thưa lời “Xin Vâng”, Ðức Maria đã có chương trình của Mẹ là sẽ sống đời đôi bạn với thánh Giuse (Lc 1,27). Và qua lời “Xin Vâng” Mẹ đã chấp nhận hoàn toàn để cho Thiên Chúa thay đổi hướng đi cuộc đời mình, để cho Người đảo lộn chương trình sống, và cùng Người bước vào một cuộc mạo hiểm với trọn niềm tin yêu phó thác.

Mẹ ra đi mà không biết mình đi đâu, chỉ biết ra đi theo sự hướng dẫn của Chúa.

Mẹ đã đi từ bước phiêu lưu này đến cuộc phiêu lưu khác: Từ việc hạ sinh Con Thiên Chúa cách đơn nghèo, cho đến khi lạc mất con trong đền thánh; từ những lời cứng cỏi của con ở Cana và Caphanaum cho đến khi gặp con dưới chân thập giá.

Mẹ đã “Suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2,19) vì những kỷ niệm ấy quả là khó hiểu dưới con mắt loài người.

Mẹ xứng đáng là Mẹ Ðấng Cứu thế vì mẹ đã dám tin vào lời Chúa và để Chúa thay đổi cuộc đời mình theo chương trình cứu độ của Người.

Mẹ thật diễm phúc vì Mẹ đã chấp nhận lên đường làm một cuộc phiêu lưu với Chúa trong tin yêu và phó thác: “Xin Chúa làm cho tôi như lời Ngài nói” (Lc 1,38).

Chính vì Mẹ diễm phúc mà lòng Mẹ đã là mái ấm đầu tiên, là Ðền Thánh cho Con Thiên Chúa ngự trước khi bước vào cuộc đời.

Chính vì Mẹ là Ðền Thánh nên đấng Thánh trong lòng Mẹ đã thánh hoá Gioan trong cuộc hạnh ngộ đầy linh thánh.

Chính vì cuộc hạnh ngộ đầy linh thánh giữa Mẹ và bà chị họ, mà Thánh Thần đã linh ứng cho bà nhận ra điều mắt thường không thể thấy, đó là chuyện cô em Maria thụ thai Ðấng Cứu Thế.

Chính vì niềm hứng khởi và những lời chúc mừng của Êlisabét đã khiến Mẹ cảm nhận thật sâu xa hồng ân cao cả, và lời ngợi ca Thiên Chúa đã vỡ oà trên bờ môi hạnh phúc trong lời kinh Magnificat (x. Lc 1,46-54).

Vâng, chính cuộc sống tin yêu và phó thác của Mẹ đã tuôn chảy dòng sông của ân phúc, cuộc sống ấy đang toả hương thơm cửa thiên đàng.

***

Lạy Chúa, Chúa đã đoái thương tuyển chọn Ðức Ma ria và bà Êlisabét, đã cho các ngài mang thai cách diệu kỳ, để hạ sinh Ðấng Cứu Thế và vị Tiền Hô của Người.

Xin cho chúng con biết noi gương Mẹ: Tin vào lời Chúa và chương trình cứu độ của Người. Xin cho chúng con biết ngoan ngoãn để Chúa hướng dẫn cuộc đời chúng con với trọn niềm tin tưởng mến yêu. Amen.

 

11. Con lòng Bà

Trong một buổi chia sẻ Lời Chúa giữa các bà mẹ, sau khi nghe đọc đoạn Tin Mừng chiều hôm nay, thì một bà đã đặt câu hỏi: Khi mang thai, có chị nào biết rõ con mình sẽ ra sao hay không? Dĩ nhiên không phải chỉ biết nó là trai hay gái, mà còn phải biết khi khôn lớn, nó sẽ như thế nào? Tất cả đều mỉm cười và lắc đầu không thể nào biết rõ được tương lai của đứa bé. Họ chỉ cầu mong cho nó được khoẻ mạnh và nên người.

Thực vậy, không một bà mẹ nào lại biết chắc con mình ngày mai sẽ ra sao ngoại trừ Đức Maria. Chỉ còn một vài ngày nữa là Người Con của Mẹ sẽ được sinh ra và cùng với Mẹ chúng ta đi thăm người chị họ là bà Elisabeth. Chính bà chị họ này cũng biết người con ấy như thế nào, khi bà nói cùng Mẹ: Bởi đâu tôi được diễm phúc là Mẹ cua Chúa tôi đến viếng thăm. Và ngày cả Gioan trong lòng bà Elisabeth cũng hay biết vì Gioan đã nhảy mừng hớn hở.

Chúng ta hẳn còn nhớ câu chuyện truyền tin được đọc trong ngày lễ Vô Nhiễm. Thiên thần nói với Đức Maria rằng Ngài sẽ là Mẹ Thiên Chúa. Và Con của Mẹ là Đấng cao trọng. Người sẽ là Con Thiên Chúa, sẽ là một vị vua và nước của Ngài sẽ trường tồn. Và như thế, hẳn Mẹ đã biết được Người Con của Mẹ sẽ như thế nào? Vậy tại sao Giáo Hội lại đặt bài Tin Mừng này vào Chúa nhật thứ IV, Chúa nhật cuối cùng của mùa Vọng, gần kề với lễ Giáng Sinh?

Lý do thật tự nhiên và đơn giản. Bởi vì đã gần tới giờ của Mẹ và chúng ta, những người con của Mẹ, cùng chia sẻ niềm vui mừng và hy vọng với Mẹ. Mẹ đã biết Người Con của Mẹ sẽ ra sao.

Chúng ta cũng thế, nhờ đức tin, chúng ta cũng biết Ngài là ai và Ngài sẽ đến viếng thăm chúng ta một cách đặc biệt trong đêm giáng sinh. Chúng ta biết Ngài là Thiên Chúa, mặc dầu Ngài chỉ là một hài nhi bé nhỏ và yếu đuối. Chúng ta biết Ngài là Đấng thánh thiện tuyệt vời, mặc dầu bên ngoài Ngài giống như chúng ta mọi đàng. Ngài là Thiên Chúa thật và là người thật. Cùng với Mẹ Maria chúng ta biết Ngài là Đấng cao trọng. Cao trọng trong tình yêu, cao trọng trong hành động cũng như trong lời nói. Ngài như một bông sen trổi vượt trên đám bùn nhơ. Ngài là Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu chuộccứu chuộc của chúng ta. Mẹ Maria biết Người Con của Mẹ là ai và chúng ta cũng biết như thế.

Sự hiểu biết này sẽ giúp chúng ta hân hoan chia sẻ niềm vui mừng và hy vọng với Mẹ. Bởi vì ngày sinh nhật của Đức Kitô sẽ đem lại cho chúng ta sự an bình và hạnh phúc.

 

12. Tâm tình thăm viếng

(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm – ViKiNi)

Vừa được tin bà chị họ Êlisabét, hiếm hoi già cả sắp được Chúa ban cho một cậu ấm, Đức Maria sẵn có đức thương người, đã không quản ngại đường xa dặm thẳm, vội vã lên đường đi thăm giúp đỡ gia đình bà chị neo đơn ở một thành phố trên miền núi Giuda. Suốt cuộc hành trình lội bộ hơn 150 cây số, gian nan, nguy hiểm, vất vả, cực nhọc, Đức Maria vẫn không ngớt ca tụng, cảm tạ Chúa đã thương đoái đến mình và bà chị son sẻ. Đức Maria vừa thăm viếng, vừa giúp đỡ,vừa đem niềm vui ơn phúc vô cùng của Đấng Cứu thế đến cho gia đình.

Thoạt nghe lời Đức Maria chào, bà Êlisabét đã nhận ra ngay những ơn lạ lùng đổ xuống trên bà và con bà. Bà đã được đầy ơn Thánh thần nhận ra Maria là mẹ Thiên Chúa. Bà đã lớn tiếng ca ngợi Maria: “Em là người có phúc nhất trong giới phụ nữ và người con em cưu mang cũng thật có phúc. Bởi đâu tôi được mẹ Thiên Chúa viếng thăm tôi… Em thật diễm phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói cho em biết”.

Mẹ được đầy Thánh thần, con được nhảy mừng trong lòng Mẹ vì được phúc gặp Đấng Cứu thế trong lòng Maria. Bởi đâu gia đình bà Êlisabét được đầy ơn phúc? Thưa bởi đức tin mạnh mẽ và đức ái nhiệt thành của Đức Maria như lời bà Êlisabét nói: “Vì em đã tin lời Chúa”.

Đức Maria là gương mẫu đức tin mạnh mẽ: Không bao giờ Maria dám mơ tưởng mình là Mẹ Đấng Cứu thế vì Ngài thấy rõ thân phận mình chỉ là nữ tỳ hèn mọn, đã đính hôn với một bác thợ mộc lao động cực khổ ở một làng quê mùa vô danh. Thế mà: “Phận nữ tỳ hèn mọn lại được Thiên Chúa đoái thương tới” (Lc. 1,48). Khi biết đó là ý Thiên Chúa, Đức Maria đã tin và dám xin: “Này tôi là nữ tỳ của Chúa, xin vâng như lời sứ thần nói”. Lời xin vâng thật khiêm tốn, luôn luôn chỉ coi mình là nữ tỳ, là tôi tớ, không dám nhận là Mẹ Đấng cao cả. Vâng ý Chúa không dễ dàng gì làm Mẹ Thiên Chúa, không như các thanh nữ Do Thái mơ tưởng được địa vị cao sang làm hoàng thái hậu muôn nước. Maria biết rõ Đấng Cứu thế, mà các tiên tri đã loan báo, là người tôi tớ đau khổ, là con chiên bị sát tế, như Bài đọc II nói: Đức Giêsu Kitô đã dâng mình làm lễ tế. Một lễ tế hy sinh vô cùng đau đớn. Với đức tin mạnh mẽ, Đức Maria đã sẵn sàng hiệp thông sát tế đó và sẵn sàng chờ đợi những lưỡi gươm sắc đâm thâu qua trái tim Mẹ như đâm thâu qua Trái tim Con để tỏ lòng thương yêu nhân loại vô bờ.

Đức Maria là gương mẫu đức ái nhiệt thành:

“Maria vội vã lên đường” nói lên sự nhiệt tình của Đức Maria đi thăm viếng, chia vui sẻ buồn, giúp đỡ gia đình bà chị đang bối rối vì mang nặng đẻ đau. Dù phải đi bộ bốn, năm ngày đường xa xôi hiểm trở cũng không ngăn cản nổi gót liễu yếu đào tơ đầy lòng thương mến của Đức Mẹ. Thánh Luca còn viết: “Maria đã lưu lại ba tháng rồi trở về nhà mình”, chứng tỏ Maria giúp đỡ gia đình như một tôi tớ, không quản ngại bất cứ một công việc nặng nhọc hèn hạ nào. Mẹ của Đấng Cứu Thế đã thi hành phận sự một tôi tớ của Thiên Chúa và loài người trong mọi nơi mọi lúc, một tôi tớ đem nguồn vui vô biên của Thánh Thần đến cho gia đình; một tôi tớ mang Đấng Cứu Thế xuống cho con trẻ được khỏi tội và nhảy mừng trong lòng mẹ, để cậu sinh ra “càng lớn lên, tinh thần càng vững mạnh … để chuẩn bị đến ngày ra mắt dân Israel” (Lc. 1, 80).

Thánh Luca nói lên lòng bác ái nhiệt thành và đức tin mạnh mẽ của Đức Mẹ để làm gương cho các tín hữu thời Giáo hội sơ khai mà lo truyền giáo: Họ phải sống đức tin mạnh mẽ và thi hành bác ái nhiệt thành để đem Đấng Cứu thế đến cho muôn dân được đầy niềm vui của Thánh Thần và được nhảy mừng trong ơn cứu độ. Cuộc thăm viếng của Đức Mẹ tiên báo cuộc thăm viếng của Ngôi Hai xuống thế làm người để viếng thăm nhân loại, vừa là gương mẫu cho mọi cuộc thăm viếng của những người con Đức Mẹ.

Noi gương Đức Mẹ, Đức Giáo Hoàng Gioan 23, lần đầu tiên, một vị Giáo Hoàng rời khỏi Rôma, đến thăm Giáo Chủ Anathagoras của Giáo hội Đông phương, một Giáo hội đã ly khai Giáo hội Công giáo từ lâu đời. Cuộc thăm viếng của Đức Giáo Hoàng đã biểu lộ tình bạn chí thiết với Đức Giáo Chủ và nhìn nhận Giáo hội Đông phương cùng một chi thể của Đức Kitô, hợp nhất trong Chúa Thánh Thần. Từ hai ngàn năm nay, noi gương cuộc viếng thăm của Đức Mẹ và Chúa Giáng sinh, bao nhiêu cuộc viếng thăm hồng phúc như thế đã loan truyền Tin mừng đi khắp năm châu bốn bể.

Lạy Mẹ Maria, xin cho mỗi người chúng con biết nối tiếp những cuộc viếng thăm hồng phúc chan chứa ơn cứu độ đó, để đem nguồn vui Thánh Thần và ơn bình an của Chúa Giáng Sinh đến cho mọi gia đình trên quê hương thân yêu của chúng con. Amen.

 

13. Sống đức tin như Mẹ Maria

Trong cuộc sống, ai trong chúng ta cũng đã hơn một lần thăm viếng người khác. Và cũng được người khác viếng thăm. Mỗi lần thăm viếng là một dịp để chúng ta chia sẻ với nhau về niềm vui hay nỗi buồn của cuộc sống. Như thế, trong từng cuộc thăm viếng, chúng ta muốn thể hiện tình yêu và sự quan tâm dành cho nhau.

Phụng vụ hôm nay trình bày cho chúng ta sự gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người qua sự gặp gỡ hữu hình giữa Chúa Giêsu trong lòng Đức Trinh Nữ Maria và Gioan Tẩy Giả trong lòng bà Elisabeth. Thật vậy, nhận được tin người chị họ là Elizabeth, tuy đã già và mang tiếng là son sẻ, nhưng đã cưu mang được 6 tháng, Mẹ quyết định đi thăm gia đình người chị họ. Mẹ Maria đã vội vã lên đường. Mẹ sẵn sàng cho cuộc thăm viếng. Mẹ đã lên đường để chia sẻ niềm vui với gia đình bà chị họ, Mẹ chia sẻ niềm vui vì có Chúa ngự trong lòng mình. Đồng thời Mẹ cũng muốn san sẻ sự vất vả của người lớn tuổi đang cưu mang. Vì thế, sau khi được truyền tin, Mẹ vội vã lên đường thực hiện một cuộc hành trình dài theo các chuyên gia chú giải nói nó có thể lên đến 150 cây số. Một đoạn đường không mấy ít ỏi và đây không là chuyến đi dễ dàng! Làm sao tránh khỏi những nguy hiểm, vất vả và mệt nhọc. Nhưng chính tình yêu đã thúc bách Mẹ lên đường. Tình yêu làm cho Mẹ quên mình, quên những hiểm nguy vất vả để chỉ quan tâm đến người khác. Sau đó, Mẹ đã ở lại nhà bà Elizabeth trong một thời gian ba tháng. Như thế, Mẹ Maria đã thể hiện một tình yêu cao độ: dâng hiến chính mình để Thiên Chúa tự do thực hiện chương trình cứu chuộc của Ngài: “Này tôi là nữ tỳ của Chúa, xin hãy làm cho tôi như lời sứ thần truyền” (Lc 1, 38) và Mẹ đã viếng thăm gia đình người chị họ bằng trái tim đầy tình yêu thương bác ái, ra đi cách vội vã, nhanh chóng, không do dự, không tính toán so đo, cứ ra đi trong phó thác. Do đó, Mẹ Maria luôn sẵn sàng đối với Chúa, Mẹ cũng luôn sẵn sàng đối với tha nhân. Mẹ đã ra đi để phục vụ bà chị họ của mình vì Mẹ thấy ý Chúa trong đó. Hơn nữa, Mẹ thấy đó là nhiệm vụ của mình. Là Mẹ Chúa Cứu Thế, Mẹ có nhiệm vụ phải đem Chúa cho kẻ khác. Lại nữa, Mẹ cảm nghiệm rằng, lòng mình khi được mang Chúa thì hạnh phúc biết bao, bình an biết mấy và phấn khởi dường nào. Mẹ đến, Mẹ đã làm cho cả gia đình Bà Elizabeth sung sướng. Bà Elizabeth phải thốt lên: “Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm tôi. Vì này, tai tôi vừa nhge lời em chào, Hài Nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi” (Lc 1, 43 – 44). Đó chính là niềm vui và sự bình an đích thực mà Mẹ đã đem đến.

Tình yêu thể hiện qua cuộc thăm viếng bất ngờ hôm nay không chỉ dành riêng cho Đức Mẹ mà dành cho hết thảy mọi người. Qua Đức Maria, Thiên Chúa Tình Yêu đi vào trần gian, đem ơn cứu độ cho con người mà cuộc viếng thăm của Đức Maria dành cho bà Elizabeth là bước khởi đầu. Mẹ Maria thăm gia đình bà chị để chia sẻ niềm vui mà Thiên Chúa dành cho bà Elizabeth và gia đình Dacaria. Mẹ đến với bà chị họ cũng để chia sẻ ân huệ tình yêu lớn lao mà mình vừa nhận được và để thể hiện tình yêu của Mẹ dành cho gia đình bà chị họ.

Tình yêu đích thực đòi hỏi cần được biểu lộ ra bên ngoài chứ không giữ kín cho riêng mình. Cách thể hiện tình yêu đẹp nhất làm cho tình yêu sinh động là: quan tâm, chăm sóc, tìm cách gặp gỡ để tạo nên niềm vui, góp phần xây dựng hạnh phúc cho mình và cho tha nhân. Chúng ta hãy bắt chước Mẹ, bắt chước tâm tình này của Mẹ, không đợi người khác yêu cầu mà hãy biết khiêm nhường quên mình để nhận ra nhu cầu và sẵn sàng đến với tha nhân.

Bên cạnh đó, thăm viếng không chỉ là cách biểu lộ tình người, tình thương, nói lên sự quan tâm mà còn là dịp chúng ta đem Chúa đến với tha nhân. Mang Chúa đến cho tha nhân không có nghĩa chúng ta nói thật nhiều, nói thật hay về Chúa cho họ nghe. Chính sự hiện diện của Mẹ là một lời chứng hoàn hảo về sự hiện diện của Chúa vì chính Mẹ mang chúa trong lòng mình. Tương tự như vậy, để có thể đem Chúa đến với người khác chúng ta cần có Chúa trong mình. Muốn Chúa luôn hiện diện trong ta đòi hỏi chúng ta phải có một đời sống thân tình với Chúa. Qua kinh nguyện, Thánh lễ, hiệp lễ và qua cuộc sống thì sự hiện diện của chúng ta mới có thể giúp người khác nhận ra sự hiện diện của Chúa. Nên khi nhận ra Chúa, gặp được Chúa, tha nhân sẽ dễ dàng mở lòng để Chúa Thánh Thần thánh hoá và biến đổi họ nên tốt lành thánh thiện hơn.

Chúng ta hãy bắt chước Mẹ Maria. Trước hết chúng ta hãy thể hiện tình người với nhau bằng việc thăm viếng, quan tâm đến nhu cầu của tha nhân nhất là những người đang cần đến chúng ta. Hãy bắt chước Mẹ Maria quên mình và khiêm nhường phục vụ tha nhân. Hy sinh thời gian, đôi khi là vật chất để làm cho cuộc sống này thêm niềm vui, niềm hạnh phúc.

Hãy cưu mang Đức Giêsu trong tâm hồn để như Mẹ ta có thể mang một tâm hồn tràn ngập Chúa đến với tha nhân. Hơn nữa, chúng ta hãy cố gắng dàn xếp tất cả những gì làm mình phiền muộn, khó chịu để có tâm hồn vui tươi, an bình mừng lễ Chúa Giáng Sinh. Ngoài ra chúng ta sẽ cố gắng là niềm vui của tất cả mọi người nhất là niềm vui sâu xa nơi tâm hồn, chúng ta cố gắng chia sẻ thời giờ, sức lực với người khác, nhất là phục vụ người khác. Cố gắng chia sẻ nụ cười với người khác và cố gắng ủi an, nâng đỡ người khác.

Lạy Mẹ Maria, cám ơn Mẹ đã để lại cho chúng con một mẫu gương tuyệt vời về sự vâng phục thánh ý Chúa và một tinh thần bác ái quên mình vì tha nhân. Chính tình yêu đã thúc đẩy Mẹ làm được những việc cao cả đó, Xin Mẹ đoái thương giúp chúng con bắt chước Mẹ, sống đức tin là vâng theo thánh ý Chúa và sống đượm tình bác ái với tha nhân, quan tâm giúp đỡ họ, giúp họ thêm niềm vui, tìm gặp sự bình an và nhất là gặp gỡ được chính Chúa tình thương. Amen.

 

14. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng

TRỞ NÊN NHỮNG EM-MA-NU-EN MỚI

(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)

Khi đang lâm bệnh ngặt nghèo, thập tử nhất sinh hay đang cơn hấp hối mà có người thân yêu ở kề bên chia sẻ cảm thông thì đó là niềm an ủi lớn lao không gì sánh được. Khi gặp cô đơn sầu não không kẻ đoái hoài mà có một người bạn chân tình hiện diện bên cạnh thì không gì quý báu hơn. Trong những trường hợp đó, người ta mới cảm nhận được nhu cầu có người thân sống-với mình hay hiện-diện-bên-cạnh mình cần thiết xiết bao!

Vì thế, Đức Cha Gaillot, một giám mục Pháp, đã nhận định rất xác đáng rằng:

“Sống quảng đại thì tốt, nhưng sống-với tốt hơn;

việc từ thiện là cần thiết, nhưng hiện-diện-bên-cạnh cần thiết hơn.”

Như thế, chấp nhận sống-với tha nhân, hiện-diện-bên-cạnh tha nhân thì tốt hơn mọi hình thức trao ban giúp đỡ khác.

Thiên Chúa là Người Cha nhân lành rất yêu thương nhân loại nên Người muốn sống với, muốn hiện diện bên cạnh nhân loại mãi mãi không cùng. Chính vì thế, Thiên Chúa tự xưng mình là Em-ma-nu-en, nghĩa là Thiên Chúa hằng ở cùng chúng ta. (Is 7, 14. Mt 1, 23)

Vì muốn ở cùng nhân loại nên Ngôi Hai Thiên Chúa đã vượt qua khoảng cách vô tận giữa trời và đất để đến ở với loài người.

Vì muốn ở cùng nhân loại nên Chúa Giêsu đã sống kiếp phàm nhân suốt ba mươi ba năm để chia sẻ mọi vui, buồn, sướng, khổ của phận người.

Vì muốn ở cùng nhân loại nên dù đã sống lại và lên trời vinh hiển, Chúa Giêsu vẫn không rời xa các môn đệ. Người nói với họ:

“Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20).

“Thầy đi để dọn chỗ cho các con… Thầy sẽ trở lại để đem các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu, các con cũng sẽ ở đó.” (Mt 14,3)

Vì mong muốn ở lại mãi với các môn đệ, nên Chúa Giêsu khấn nguyện với Chúa Cha: “Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con” (Mt 17,24)

Thế rồi Chúa Giêsu lập nên Bí Tích Thánh Thể để không những ở với, ở cùng, hiện diện bên cạnh mà còn ở trong chúng ta và nên một với chúng ta.

Vì biết rằng nhu cầu được thăm viếng, được sống với, được hiện diện bên cạnh là rất cần thiết nên khi hay tin người chị họ cao niên của mình được Chúa đoái thương cho cưu mang quý tử, Đức Maria đã không quản ngại thân gái dặm trường, sẵn sàng băng rừng vượt núi tiến lên miền sơn cước để chúc mừng, để phục vụ và nhất là để sống với, để hiện diện bên cạnh người chị họ cao niên suốt cả ba tháng trời.

Về sau nầy, khi tâm hồn các môn đệ hoang mang xao xuyến sau biến cố Chúa Giêsu về trời, Mẹ Maria tiếp tục hiện diện bên các môn đệ, củng cố niềm tin đang chao đảo của các ngài.

Và rồi trong suốt dòng lịch sử Hội Thánh, Giáo Hội phải nhiều phen trải qua gian lao sóng gió, Mẹ Maria luôn có mặt trong những thời điểm khó khăn đen tối, để hiện diện và đồng hành với đoàn con cái trong lúc gian nan, để ủi an khích lệ họ trong cảnh u sầu.

“Sống quảng đại thì tốt, nhưng sống-với tốt hơn.

Việc từ thiện là cần thiết, hiện-diện-bên-cạnh, cần thiết hơn.”

Hôm nay, noi gương Chúa Giêsu là Emmanuen, Đấng luôn ở với loài người để cùng chia sẻ ngọt bùi, noi gương Mẹ Maria là Đấng luôn ở cùng nhân loại để che chở ủi an họ trong những lúc gian truân khốn khó, chúng ta hãy trở nên những Emmanuen khác, để viếng thăm, an ủi, để sống-với, để hiện-diện-bên-cạnh những người đang gặp hoàn cảnh đau thương.

 

15. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng

“Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này” (Lc 1,43)

Đức Maria được Phúc Âm Chúa nhật IV Mùa vọng là một người đầy ơn phúc, Mẹ được chúc phúc và mang hạnh phúc đến cho người khác. Có phúc vì cưu mang Đấng Cưú Thế, có Chúa Kitô ngự trị trong tâm hồn của mình. Mẹ Maria thật sự được diễm phúc như lời chào của sứ thần Gapriel trong ngày truyền tin và hôm nay là lời khẳng định của bà Elisabeth. Cái phúc của Mẹ đã có ngay từ đầu công trình cứu chuộc của Thiên Chúa, Thiên Chúa đã gìn giữ và bao bọc Mẹ trong ân phúc của Ngài. Từ nguồn ân phúc đó Mẹ đã mang đến cho người khác. Trước tiên là cho người chị họ của mình, bà Elisabeth và đặc biệt là Gioan còn đang ở trong lòng bà Elisabeth, người mà Thiên Chúa đã chọn để dọn dường, Tiền Hô cho Đấng Cứu Thế. Elisabeth và Gioan là những người hạnh phúc khi được đón nhận chính Đấng Cứu Thế qua Mẹ Maria.

Mọi người chúng ta trong ngày hôm thì sao? Chúng ta có như bà Elisabeth nhận ra và cảm nghiệm được ân phúc lớn lao mà Thiên Chúa ban cho chúng ta? Đấng Cứu Thế mà mọi người đợi trông ở gần kề bên chúng ta, Đức Giêsu Kitô đang hiện trong mỗi tâm hồn chúng ta, ở xung quanh và hoạt động trong thế giới này. Những con người sống động đã được ân phúc của Chúa như Mẹ Maria, Gioan và cụ thể là bà Elisabeth, họ thật sự hạnh phúc và niềm vui trong cuộc đời của mình, khi họ nhận Đức Giêsu Kitô đang đến và ở với họ.

Chúng ta có thể hiểu được niềm vui sướng của bà Elisabeth, niềm vui của bà liên tục và lớn lao. Từ một phụ nữ son sẻ nay lại được cưu mang vị Tiền Hô cho Đấng Cứu Thế. Bà không thể ngờ mình có được niềm vui như vậy sao bao năm chờ đợi gần như tuyệt vọng nay lại được toại nguyện nhưng đây cũng chỉ là niềm vui cá nhân của bà. Niềm vui lớn lao hơn là bà được chính Mẹ Đấng Cứu Thế và Đấng Cứu Thế lại viếng thăm mình. Có lẻ suốt một đời cậy trông, tin tưởng và thờ phượng Thiên Chúa hôm nay hạnh phúc và niềm vui như vậy đã đủ cho bà.

Đời sống đạo của mỗi người chúng ta cũng vậy Chúa và Mẹ luôn đến với chúng ta từng giờ từng phút, chúng ta phải biết nhận ra điều đó, có như vậy hạnh phúc và niềm vui luôn có trong đời sống đạo của chúng ta.

 

16. Làm gương

(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)

Có một câu chuyện kể rằng: tại Na Uy, một chiều đông, tuyết rơi nặng từng hạt. Một người đàn ông say rượu lảo đảo bước đi trên tuyết. Cậu con trai 10 tuổi của ông sau khi ngồi chờ cha mình ngoài quán rượu cũng lẽo đẽo theo cha về nhà. Cậu đặt bàn chân nhỏ bé của mình lên những dấu chân hằn sâu trên tuyết mà cha cậu để lại, những bước chân ngả nghiêng, chao đảo. Bất chợt người đàn ông quay lại, nhìn thấy con mình bước thấp bước cao, dáng vẻ như một người say rượu, ông gắt gỏng hỏi nó với giọng lè nhè:

– Mày đi kiểu gì vậy?

Cậu bé trả lời:

– Dạ, con đang đi theo bước chân của cha!

Quả thực. sự gương mẫu thật hệ trọng trong việc giáo dục. Có những bước chân vô tình tưởng chừng như chẳng liên hệ gì đến ai, nhưng vẫn để lại cho đời những dấu vết chẳng phai mờ. Có những bậc làm cha, làm mẹ đã thật ngạc nhiên qua cách ứng xử của con cái sao giống hệt như mình: giận dữ, hống hách, lười biếng giống như là bản sao của chính mình. Có những người đã từng quát lên trong cay đắng “sao con lại hành xử như vậy?”. Và dường như nó cũng đang thầm nói lại rằng:”con đang bước theo bước chân của cha mẹ!”

Giống như con suối tưởng như vô tình, cứ uốn mình theo dòng chảy của thời gian. Vậy mà nó vẫn còn để lại dấu vết chẳng phai mờ trên mặt địa cầu bao la rộng lớn. Đời người cho dẫu chỉ là phù hoa, kiếp nhân sinh cho dẫu có vắn vỏi hay lặng lẽ trôi qua vẫn để lại những dấu vết chẳng phai mờ nơi trần gian. Vì vậy mà Nguyễn công Trữ mới bảo rằng:

“Người trồng cây hạnh người chơi

Ta trồng cây phúc để đời về sau”

Hôm nay, Giáo hội cho chúng ta chiêm ngắm một bước chân thật đẹp của tình người. Một bước chân của yêu thương không phai mờ qua mọi thời gian. Một bước chân tràn ngập tình yêu thương để có thể băng đồi, lội suối, vượt qua mọi thác gềnh, chẳng sợ gian nan của Mẹ Maria. Một bước chân vồn vã bước đi trong bác ái yêu thương, trong dấn thân phục vụ. Một bước chân có sức mạnh phá tan mọi băng giá của con tim để sưởi ấm tình người. Một bước chân thăm viếng thắm đượm tình Chúa, tình người đến nỗi bà Elisebeth đã nghẹn lời thốt lên: “Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa tôi viếng thăm”. Một bước chân nở hoa bác ái, yêu thương trên hành trình Mẹ đã đi qua.

Mẹ Maria đã chẳng để lại cho đời những giáo thuyết cao siêu, những lời hay ý đẹp. Mẹ chỉ để lại cho đời một tấm gương sáng ngời của bác ái, vị tha, của xin vâng và phó thác. Cuộc sống của Mẹ là trang sử thật đẹp để lại cho trần gian. Một cuộc sống tử bỏ ý riêng để phục vụ cho chương trình Thiên Chúa. Một cuộc sống chỉ lo chu toàn thánh ý Chúa. Cho dẫu lời xin vâng là chén đắng, là khổ đau nhưng Mẹ đã làm tất cả vì chỉ mong cho ý Chúa được thực hiên, cho nhân trần được hưởng nguồn ơn cứu độ.

Ước mong mỗi người chúng ta hãy sống một đời yêu thương để mang lại cho đời những dấu tích của hiệp nhất và bình an. Tình yêu sẽ giúp con người vượt qua những nhỏ nhen, ích kỷ để chiến thắng bản thân, để mang lại an bình, tươi vui và hạnh phúc cho người mình yêu. Không có tình yêu, cuộc sống giống như giòng suối khô cạn. Không sự sống. Không sinh khí và hiển nhiên cũng không còn nguồn sống cho nhau. Cuộc đời cần có tính yêu thì sự sống mới được chăm sóc, được bảo vệ. Cuộc đời cần có tình yêu thì sự sống mới sung mãn và ngập tràn niềm vui.

Ở đâu đó vẫn còn nạn phá thai, nạn bạo hành gia đình là vì thiếu tình yêu. Ở đâu đó vẫn còn tranh chấp, còn chiến tranh, còn hận thù là vì thiếu tình yêu giữa con người với nhau. Ở đâu đó vẫn còn nghi kỵ, kết án, hiểu lầm, ghen tương là vì giòng chảy tình yêu đã khô cạn.

Ước mong mùa giáng sinh cùng với những đèn sao lấp lánh nơi hang đá, mỗi người chúng ta hãy thắp lên cho giòng đời những cây nến sáng của yêu thương, của lòng trắc ẩn trước nỗi khổ của tha nhân, của dấn thân phục vụ để xoa dịu nỗi đau cho anh em. Nguyện xin Mẹ Maria cùng đồng hành với chúng ta trên những bước chân của yêu thương đang đi tới với anh em trong yêu thương và phục vụ. Amen.

 

17. Chờ đợi trong im lặng

(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)

Dòng chảy cuộc đời luôn đòi chúng ta phải chờ đợi. Chờ đợi trong mọi nơi và trong mọi hoàn cảnh. Chờ đợi là điều hiển nhiên trong cuộc sống. Mỗi ngày ta vẫn thấy:

Hàng ngàn người chờ đèn xanh để bước tới. Hàng ngàn người chờ xe buýt để bước lên.  Chờ đợi là sẵn sàng kẻo chậm chân là lỡ nhịp.

Có những cha mẹ chờ đợi trong thời gian dài để cầu mong cho đứa con ngỗ nghịch biết nhìn lại và yêu mến cha mẹ nhiều hơn. Đây là sự chờ đợi đầy hy vọng của tình yêu luôn mong điều kỳ diệu đến cho người mình yêu.

Có những bà vợ chờ đợi chồng quay trở về với gia đình khi chồng đi dưới những ánh đèn màu, những tiếng nhạc xập xình. Dù là phải chờ đợi trong từng phút giây xót xa, giận hờn, ghen tuông… Đây là sự Chờ đợi tin cậy, dù đau xót!

Có câu chuyện kể rằng: Cô bé 18 tuổi, giống như các thanh niên ngày nay – thích nổi loạn, thích sống ra ngoài sự kiểm soát của cha mẹ.

Thế là cô quyết tâm bỏ nhà đi. Nhưng dòng đời đã đẩy đưa cô từ thất bại này đến thất bại khác. Cô bị ruồng bỏ vì nghèo đói. Cô đã phải làm gái đứng đường, đem thân xác, hình hài mình ra làm thứ để mua bán, đổi chác.

Năm tháng cứ thế trôi qua, cô già đi và bị dòng đời đẩy đưa vào tận cùng khốn khó. Có những ngày đói khổ phải tìm tới quán cơm xã hội để kiếm chút lót dạ.

Và một lần đi đến xin cơm xã hội cô nhìn thấy tấm bảng nhỏ ghi ở cửa: “Mẹ vẫn yêu con… Hãy về nhà đi con!”. Cô nhìn tấm hình mẹ đang bế cô ngày nào. Đúng là mẹ đang tìm cô. Đứng trước tấm hình, cô bật khóc.

Cô quyết định đi về nhà dầu phải đi bộ hàng chục cây số. Về đến nhà trời tảng sáng, cô sợ hãi khép nép không biết sẽ phải nói ra sao. Khẽ gõ cửa, cô thấy cửa không khoá. Cô nghĩ chắc có trộm vào nhà.

Lo lắng cho sự an toàn của mẹ mình, cô chạy vội lên buồng ngủ của bà và thấy bà vẫn đang ngủ yên. Cô đánh thức mẹ dậy:

– Mẹ ơi, con đây! Con đây! Con đã về nhà rồi!

Không tin vào đôi mắt mình, bà mẹ lau nước mắt rồi hai mẹ con ôm chầm lấy nhau. Cô nói với mẹ:

– Mẹ à, con lo quá. Thấy cửa không khoá, con cứ nghĩ nhà có trộm!

Bà mẹ nhìn con âu yếm:

– Không phải đâu con à! Từ khi con đi, cửa nhà mình chưa bao giờ khoá. Mẹ sợ lúc nào đó con trở về mà mẹ không có ở đây để mở cửa cho con!

Và cô gái lại gục đầu vào lòng mẹ, bật khóc!

Nhìn vào xã hội hiện nay, biết bao gia đình đang rơi vào cảnh đổ vỡ hoang tàn. Phải chăng thiếu vắng những người vợ, những bà mẹ biết kiên nhẫn chờ đợi trong sự im lặng của tình thương và hy vọng.

Phụng vụ hôm nay cho chúng ta nhìn ngắm Mẹ Maria như mẫu gương chờ đợi. Chờ đợi của Mẹ là chờ đợi của hy vọng, của tin tưởng vào tình thương quyền năng của Chúa. Thế nên, Mẹ luôn có thái độ chờ đợi trong im lặng để suy niệm và cầu nguyện tìm ra ý Chúa. Bắt đầu từ sự im lặng nơi máng cỏ Belem, rồi trải qua ba mươi năm âm thầm tại Nazarét, rồi ba năm lặng lẽ theo dõi bước chân truyền giáo của con, và cuối cùng im lặng đau khổ dưới chân thập giá.

Trong năm mục vụ đồng hành với gia đình khó khăn, chúng ta hãy xin Mẹ Maria mang Chúa Hài Nhi đến trên những ngôi nhà đang  sống trong sự im lặng của thất vọng, của khổ đau đầy nước mắt trong bệnh tật, nghèo đói và tha hương… Xin cho họ biết suy niệm và cầu nguyện trong niềm tin tuởng vào Chúa như Mẹ để dầu cuộc đời có đẩy đưa biết bao sóng gió vẫn bình an và tin tưởng vào quyền năng Chúa như Mẹ. Và ước gì niềm vui giáng sinh “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” sẽ mang lại cho cuộc đời chúng ta trọn vẹn niềm vui khi mang Chúa đến cho tha nhân qua đời sống yêu thương và phục vụ như Mẹ đã mang Chúa đến cho Giacaria năm xưa. Amen.

 

18. Sống tình xót thương

(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)

Một lần ngồi chờ xe bên lề đường. Chợt nhìn thấy một bà cụ mù lòa ăn xin đi đến. Tôi nghe rõ nỗi cô đơn của tiếng gậy khua lóc cóc của sáng sớm tinh sương. Tôi nghe rõ sự mệt nhọc của tiếng hát ê a khi bà cụ mù lòa ăn xin đi ngang. Động lòng trắc ẩn tôi đặt tờ giấy bạc vào bàn tay run rẩy của bà, lòng tôi nhẹ bớt đi nỗi cảm thông thương mến. Nhưng điều lạ thường là tôi vẫn cứ nghe hoài tiếng gậy khua lóc cóc… như đòi hỏi tôi điều khó khăn hơn lòng thương hại bình thường, là phải sống nhiệt tình hơn, quảng đại hơn…

Xem ra cho người đói ăn chưa đủ mà con phải dấn thân để xóa đi cái đói, cái nghèo nơi tha nhân. Xem ra an ủi người thất vọng chưa đủ mà còn phải giúp họ đứng lên tự tin xây dựng lại cuộc đời. Xem ra nói lời yêu thương chưa đủ mà còn phải sống công bằng, bác ái, sẻ chia với nhau.

Cuộc đời sẽ đẹp biết bao nếu con người biết động lòng trắc ẩn với nhau. Cuộc đời sẽ không còn người thất vọng bị bỏ rơi, bị loại ra khỏi xã hội nếu con người biết bao bọc và chia sẻ cho nhau. Đáng tiếc, cuộc sống quá tất bật bởi cơm áo gạo tiền khiến con người dễ lãng quên nhau, đôi khi cố tình bỏ rơi nhau. Cuộc đời vẫn còn đó tiếng khóc của tủi hờn cô đơn vì thiếu sự quan tâm nâng đỡ của anh em.

Thiên Chúa luôn động lòng trắc ẩn với con người. Lòng trắc ẩn đã thôi thúc Ngài tìm muôn ngàn cách để thể hiện tình yêu với con người. Lòng trắc ẩn của Chúa thể hiện qua cái nhìn xót xa khi Adam – Eva phạm tội. Lòng trắc ẩn ấy đã khiến Ngài hứa ban Đấng cứu độ để chuộc lại lỗi lầm của Adam. Lòng trắc ẩn ấy được tỏ bày một cách trọn vẹn khi Ngôi Hai xuống thế làm người và ở cùng chúng ta. Chính Con Thiên Chúa khi làm người đã sống hết mình vì con người. Ngài đã tận hiến chính mình để cho nhân loại được sống dồi dào ơn phúc.

Ky-tô giáo là đạo yêu thương. Tình yêu thương không dừng lại ở đầu môi chóp lưỡi. Tình yêu ấy luôn đòi hỏi phải làm điều gì đó cho tha nhân. Thấy anh em đói thì đâu cần chờ van xin! Thấy anh em té thì đâu cần chờ van nài! Thấy cảnh cùng khổ thì đâu có thể đứng nhìn một cách thương hại mà phải làm điều gì đó xoa dịu nỗi đau cho anh em.

Điều này Mẹ Maria đã sống và làm gương cho chúng ta. Mẹ đã vất vả vượt dặm đường xa để đến phục vụ chị họ mang thai trong lúc tuổi già. Mẹ còn lưu lại đó suốt 3 tháng âm thầm phục vụ. Mẹ đã sống tin mừng một cách cụ thể qua lòng thương xót với anh em. Chính lòng thương xót ấy mà Mẹ còn nài xin Chúa làm phép lạ hóa nước thành rượu cho tiệc cưới Cana trọn vẹn niềm vui.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã vội vã lên đường đến giúp bà Êlidabét trong những ngày bà mang thai và chuẩn bị sinh nở. Xin giúp con mở rộng vòng tay và tấm lòng cho những người đang cần con giúp đỡ. Xin giúp con đừng bàng quan đứng nhìn sự khổ đau của tha nhân mà luôn hăng hái dấn thân để làm sáng danh Chúa qua việc phục vụ của chúng con. Amen.

 

19. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng

MẸ MARIA, MỘT TRÁI TIM YÊU THƯƠNG

(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)

Có một gia đình nọ: Chưa đến ngày sinh nhật, còn đến khoảng hai, ba tháng, vợ đã lo nghĩ đến sinh nhật của chồng, con. Rồi chồng lo sinh nhật của vợ con, và con lo ngày mừng tuổi cho ba mẹ. Duy chỉ một người, không ai lo đến – ông nội già yếu. Và cho đến một ngày – ngày ông nội mất.

Chồng hỏi vợ: Sinh nhật ông ngày nào?

Vợ hỏi lại chồng: Ngày nào là ngày sinh của ông?

Con cái hỏi cha mẹ: Ông sinh ngày tháng nào?

Vậy là cả con, dâu, cháu, chắt phải đi tìm ngày sinh cha ông trong chứng minh nhân dân đề làm bia mộ cho ông.

Đó là ngày sinh nhật đầu tiên và cuối cùng của ông.

Đôi khi trong cuộc sống, chúng ta vẫn vô tình lãng quên nhau. Quên nhau không phải là không có dịp gần nhau, nhìn thấy nhau, nhưng là thiếu sự quan tâm chia sẻ với nhau. Sống bên nhau nhưng vẫn thờ ơ, dửng dưng. Sống bên nhau nhưng vẫn như người xa lạ. Không quan tâm, không chia sẻ, không hỏi han nhau.

Có những đôi vợ chồng sống bên nhau mà vợ mang thai, chồng đau yếu mà cũng chẳng hề hay biết.

Có những người cha, người mẹ chẳng bao giờ quan tâm hỏi han sự học hành, quan hệ bạn bè của con cái chỉ tới khi con phạm pháp lúc đó mới hay thì đã quá muộn.

Có những người con chỉ biết xài tiền cha mẹ nhưng đâu hiểu được những giọt mồ hôi, những cay đắng của đồng tiền vẫn gắn liền với chữ “bạc”.

Chính vì thế, dòng đời vẫn còn đó những mảnh đời cô đơn, thất vọng vì thiếu sự quan tâm, chăm sóc của anh em. Dòng đời vẫn còn đó những con người đang sống trong tủi nhục ngay giữa những người thân của mình. Dòng đời vẫn còn đó những phận người bị loại bỏ ngay trong mái nhà của mình.

Cuộc sống cần tình yêu, cần sự chia sẻ của tha nhân như cơ thể cần không khí để thở, để sống khoẻ mạnh hơn. Cuộc sống không có tình yêu là hoả ngục, là đoạ đầy của kiếp người chúng ta.

Lời Chúa hôm nay cho chúng ta chiêm ngắm một tấm lòng đầy nhân ái nơi Mẹ Maria. Mẹ đã yêu, đã sống vì tình yêu. Một tình yêu không dừng lại ở đầu môi chóp lưỡi mà thể hiện qua tấm lòng luôn nhạy cảm trước nhu cầu tha thân. Không cần họ van xin. Không cần họ lên tiếng. Tấm lòng nhân ái nơi Mẹ đã hiểu được việc gì cần làm và nên làm. Mẹ Maria khi nghe tin chị họ mình là bà Elizabet mang thai khi tuổi đã già. Mẹ hiểu vợ chồng già cần sự giúp đỡ. Mẹ cảm thông trước những khó khăn của gia đình Giacaria. Mẹ đã đi bước trước để đến đồng hành và giúp đỡ họ.

Vâng, Mẹ đã mang niềm vui đến cho gia đình Giacaria bằng tình yêu nhạy cảm của Mẹ. Mẹ còn mang đến cho gia đình Giacaria tròn đầy niềm vui khi mang Đấng Cứu Thế viếng thăm gia đình họ. Chính vì thế, gia đình Giacaria đã tràn đầy niềm vui. Bà Elizabet đã bộc lộ niềm vui khi thốt lên: “Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa viếng thăm tôi”.

Là người ky-tô hữu chúng ta cũng luôn có Chúa ở cùng. Ngài cũng cần đôi chân của chúng ta để mang Ngài đến viếng thăm những mảnh đời bất hạnh lầm than. Ngài cũng cần đôi tay của chúng ta để xoa dịu những thương đau cho nhân thế. Ngài cũng cần môi miệng của chúng ta để nói những lời cảm thông chia sẻ đến với tha nhân. Và Ngài cũng rất cần trái tim đầy yêu thương của chúng ta để chạnh lòng thương xót anh em.

Ước gì niềm vui giáng sinh của chúng ta là niềm vui “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” sẽ mang lại cho cuộc đời chúng ta trọn vẹn niềm vui khi mang Chúa đến cho tha nhân qua đời sống yêu thương và phục vụ của chúng ta. Nguyện xin cho mỗi bước chân của chúng ta luôn nở hoa bác ái và yêu thương trên mọi nẻo đường. Amen.

 

20. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng

(Suy niệm của Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng)

Tin Mừng Lc 1:39-45 Tin mừng trình thuật lại cuọc viếng thăm bà chị họ Elisabet của Đức Trinh Nữ Maria, một cuộc thăm viếng bề ngoài có vẻ bình thường nhưng bên trong lại là cả một cuộc thăm viếng của Thiên Chúa dành cho dân Người.

  1. Tìm Hiểu Lời Chúa: Lc 1: 39-45

Tin mừng trình thuật lại cuộc viếng thăm bà chị họ Elisabet của Đức Trinh Nữ Maria, một cuộc thăm viếng bề ngoài có vẻ bình thường nhưng bên trong lại là cả một cuộc thăm viếng của Thiên Chúa dành cho dân Người.

  1. Được Thánh Thần thúc đẩy, Đức Maria lên đường đến ngôi làng miền núi, thuộc xứ Giuđêa, theo truyền thống đồng hóa với làng Ain-karin. Ngài đến để thăm viếng và phục vụ người chị họ Elisabet.
  2. Cuộc gặp gỡ của hai người phụ nữ như là một sự mở đầu của Tin Mừng: Còn ở trong lòng mẹ nhưng Đức Giêsu đã thánh hóa người anh em họ Gioan, người đã nhẩy mừng lên trong lòng mẹ khi gặp Chúa. Việc hài nhi nhẩy mừng trong lòng mẹ tiên báo số phận tương lai của con trẻ. Việc gặp gỡ giữa hai người mẹ thực ra là cuộc gặp gỡ giữa hai con trẻ. Gioan Tẩy Giả đã nhận lấy Chúa Thánh Thần ngay từ khi còn trong bụng mẹ như đã được loan báo ở Lc1, 15.
  3. Noi gương Đức Maria mang Đức Kitô đến cho tha nhân trong đức ái đích thực. Chúng ta hãy sống như Mẹ, trầm lặng thanh thoát để Chúa Thánh Thần hoạt động trong chúng ta như đã hoạt động trong Mẹ.
  4. Gợi Ý Sống Lời Chúa
  5. Từ việc Đức Maria thăm viếng đến sứ mạng loan báo Tin Mừng của Kitô hữu: Khi được tin bà chị họ Elisabet, mang thai trong lúc đã lớn tuổi, Đức Mẹ lên đường viếng thăm bà và ở lại chăm sóc cho bà. Sự thăm viếng của Đức Maria nhìm bề ngoài có vẻ là chuyện thường tình. Có gì lạ khi một người bà con nghe người thân của mình có tin vui đến hỏi thăm. Cũng có gì lạ khi một người em gái đến giúp chị mình trong lúc mang thai. Việc thăm viếng giúp đỡ của Đức Maria rất là tự nhiên, là bình thường chẳng có gì đáng nói, đáng ca ngợi nếu như ẩn sâu trong cuộc thăm viếng này không phải là cuộc thăm viếng của chính Chúa Giêsu, Đấng đang là một thai nhi trong cung lòng Trinh Nữ Maria. Điều quan trọng của cuộc thăm viếng này không phải ở tình cảm tự nhiên giữa người với người; không phải ở sự giúp đỡ phải đạo của anh chị em trong họ hàng mà chính là cuộc gặp gỡ thăm viếng của hai hài nhi Giêsu và Gioan cả hai đang ở trong lòng mẹ. Điều này cho thấy Thiên Chúa đã thực hiện lời hứa của Ngài, Ngài sẽ đến viếng thăm dân Ngài. Đức Maria thực hiện cuộc thăm viếng để đưa Đức Giêsu đến gặp và thánh hoá Gioan tẩy Giả. Đức Maria vội vã đưa Chúa đến cho người khác, đó cũng là bổn phận của người Kitô hữu. Trong cuộc sống của mình, mỗi Kitô hữu đều có sứ mạng loan báo Tin Mừng, nghĩa là đưa Chúa đến cho người khác. Mọi cuộc gặp gỡ tiếp xúc của người Kitô hữu nhìn bên ngoài cũng bình thường như những cuộc thăm viếng gặp gỡ khác, thế nhưng, bên trong lại hoàn toàn không phải như thế mà chính là làm cho những người gặp mình được gặp Chúa.

Trong bối cảnh của những ngày cuối cùng mùa vọng, Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người Kitô hữu hãy chuẩn bị tâm hồn cho những cuộc viếng thăm của Thiên Chúa qua kinh nguyện, qua thánh lễ và qua sự gặp gỡ với anh chị em chung quanh. Đồng thời mỗi người cũng phải ý thức sứ mạng đứa Chúa đến với mọi người.

  1. Kitô hữu đồng hành và theo gương Đức Maria đến với anh chị em của mình: Đức Maria không chỉ đến thăm mà còn ở lại phục vụ bà chị họ cho đến khi Gioan chào đời. Tự nhận là ‘Tôi tớ của Thiên Chúa’, cũng muốn làm tôi tớ mọi người. Không nghĩ đến phẩm chức cao quí làm Mẹ Thiên Chúa, Mẹ đã phục vụ. Mẹ quả thật là mẹ của Đấng đã đến để phục vụ chứ không phải để được phục vụ. Chúa Giêsu đến để phục vụ, Mẹ Người cũng chọn sống con đường phục vụ. Mỗi Kitô hữu ngày nay cũng đi vào con đường phục vụ của Chúa và Mẹ Maria. Cách này cách khác, ở bất cứ cương vị nào, mọi Kitô hữu đều có chung một sứ mạng đó là sứ mạng loan báo Tin Mừng cho tha nhân. Loan báo không phải bằng lời nói suông mà bằng chính cuộc sống phục vụ của mình. Trong cuộc sống phải cho người khác thấy được sự hiện diện của Chúa Giêsu trong chúng ta và chúng ta đưa Người tới với người khác bằng lối sống vui đời phục vụ. Như Đức Maria đã phục vụ bà Elisabét, mỗi người Kitô hữu cũng hết lòng quan tâm phục vụ anh chị em chung quanh với tất cả khả năng của mình. Phục vụ một cách cụ thể, đúng đắn. Nhất là đến phục vụ những anh chị em nghèo khổ, bệnh hoạn, già cả neo đơn … Đức Maria là Mẹ Chúa Giêsu, Đấng làm tôi tớ cho mọi người cũng là tôi tớ mọi người, chúng ta những Kitô hữu là môn đệ Chúa Giêsu, là con của Mẹ cũng phải sống cuộc đời tôi tớ như thế. Nói cách khác, cuộc đời Kitô hữu là cuộc đời đồng hành với Chúa Giêsu, với MẹMaria lên đường đến phục vụ anh chị em mình.

Trong tâm tình của người tôi tớ phục vụ tha nhân, mỗi người Kitô hữu trong mùa vọng này khi chiêm ngưỡng những vẻ đẹp lộng lẫy của đèn hoa, khi lắng nghe những cung giọng trần bổng quyến rũ của những bài Thánh ca Giáng sinh bất hủ trong ngày lễ Noel thì hãy nhớ rằng: niềm vui Giáng sinh, lễ hội huy hoàng náo nhiệt của ngày Noel chỉ có gía trị nhờ sự khiêm nhu tự hạ trở nên tơi tớ phục vụ mọi người của Đức Giêsu Kitô.

  1. Kitô hữu, người Hướng dẫn viên Du lịch của Chúa: Ngày nay, ngành công nghiệp du lịch ngày một phát triển, để có thể thu hút du khách cần phải có các chương trình hấp dẫn, các điểm du lịch hấp dẫn và không thể không có những hướng dẫn viên du lịch khéo léo, nhanh nhẹn và nhất là am hiểu nhiều về các danh lam thắng cảnh … Mỗi khi đi du lịch thật thú vị và gia tăng thêm được nhiều sự hiểu biết và yêu mến đối với các nơi tham quan, nghỉ ngơi nếu như được hướng dẫn bởi các hướng dẫn viên có trình độ, thạo công việc và mến khách. Nhìn vào Đức Maria qua biến cố thăm viếng bà Elisabet, Mẹ cũng như một người hướng dẫn Chúa đến gặp mẹ con bà Elisabet. Đặc biệt, sau cuộc gặp gỡ Gioan Tẩy Giả đã được tràn đầy Thánh Thần, đã Thiên Chúa tuyển chọn trao trách nhiệm giới thiệu về Chúa Giêsu, Đấng cứu thế cho dân chúng, chuẩn bị dân chúng tiếp đón Người. Hình ảnh của Đức Maria và của Gioan cũng khiến chúng ta liên tưởng đến hình ảnh của người hướng dẫn viên du lịch đưa khách đến gặp gỡ những nơi tham quan. Đức Maria đưa Chúa đến viếng thăm gia đình Giacaria; Gioan đưa Chúa đến viếng thăm dân người; mỗi Kitô hữu cũng sẽ là những hướng dẫn viên du lịch đưa Chúa đến với mọi người và đưa mọi người gặp gỡ Thiên Chúa. Như người hướng dẫn viên du lịch cần thông thạo, mến khách như thế nào, thì người Kitô hữu, hướng dẫn viên cũng cần phải thông thạo về Chúa, về con người; cũng cần phải có lòng mến Chúa yêu người mới có thể giới thiệu về Thiên Chúa một cách rõ ràng cho người khác.

Điều này đòi hỏi mỗi người phải thực sự gắn bó với Thiên Chúa trong cầu nguyện, trong việc sống và thực thi Lời Ngài để biết Ngài rõ hơn, để yêu Ngài nhiều hơn, đồng thời, cũng phải am hiểu về thế giới, về anh chị em chung quanh để có thể yêu thương hiện diện, đồng hành cùng họ và có cách thế phù hợp để loan báo Tin Mừng.

III. Lời Cầu Chung

* Lời Mở: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa đã yêu thương viếng thăm và ban ơn cứu độ cho chúng ta là dân của Ngài. Trong tâm tình cảm mến chúng ta cùng dâng lời cầu xin.

  1. Hội Thánh có sứ mạng đưa Chúa đến cho con người và xã hội hôm nay trong bổn phận truyền giáo. Chúng ta cùng cầu nguyện cho Hội Thánh luôn hết lòng chu toàn sứ mạng này, và nhất là, xin cho Hội Thánh luôn là nơi thể hiện trọn vẹn, cụ thể tình yêu của Thiên Chúa dành cho mọi người.
  2. Qua Đức Maria, Thiên Chúa đã ân cần đến với mọi người để yêu thương và phục vụ. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo Quốc gia, các vị lãnh đạo tinh thần cũng như tôn giáo luôn biết đến với dân, tìm hiểu dân, gần gũi với dân để hết lòng phục vụ nhân dân.
  3. Mỗi người Kitô hữu đều là những người đưa Chúa đến với người khác. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong chúng ta luôn có đời sống gắn bó với Chúa, yêu mến Chúa và luôn hăng hái giới thiệu về Chúa cho người bên cạnh bằng đời sống yêu thương và khiêm nhường phục vụ như Đức Maria.

* Kết Nguyện: Lạy Chúa, Chúa không ngừng hiện diện và đồng hành với chúng con trong cuộc sống hiện tại. Xin Chúa soi sáng cho chúng con luôn cảm nghiệm được sự hiện diện đầy yêu thương của Chúa giữa chúng con để ái nấy can đảm tiến bước trong mọi gian nan thử thách; để mọi người tìm được niềm an vui. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.

 

21. Vội vã lên đường

Càng gần đến ngày lễ Giáng Sinh của Đức Giêsu, khuôn mặt của Đức Maria càng nổi bật lên. Quả thật, vai trò của Mẹ Maria trong chương trình cứu chuộc nhân loại quả thật là quá lớn lao và quan trọng. Không ai có thể phủ nhận được điều này. Lời nói “xin vâng” của Mẹ đã mang lại cho nhân loại ánh sáng và niềm hy vọng vĩnh cửu là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.

Tin mừng hôm nay thuật lại việc Mẹ Maria vội vã lên đường đi thăm bà chị họ Êlisabeth của mình. Tại sao Mẹ lại vỗi vã đi như thế ngay sao khi nghe thiên thần Gabriel báo tin? Có người cho rằng: “Mẹ đi để xác định thông tin xem thiên thần nói thế mà không biết sự thật ra sao?”. Nói như thế là không đúng cho Đức Mẹ, vì Mẹ đã thưa “xin vâng” với tất cả những gì Sứ thần đã báo tin cho Mẹ. Mẹ trở thành người có phúc vì Mẹ tin những gì Chúa đã hứa cùng Mẹ: “Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng, lời Chúa hứa cùng Bà sẽ được thực hiện” (Lc1, 46). Cho nên, không có chuyện Đức Mẹ nghi ngờ lời Sứ thần Gabriel nói bao giờ. Có người lại cho rằng: “Mẹ đi thăm bà Elisabeth để khoe mình được diễm phúc làm Mẹ Thiên Chúa”. Chắc cũng không phải thế đâu! Vì Mẹ là con người thích sống âm thầm, luôn xưng mình là “nữ tỳ của Chúa”. Mẹ không thích mình được người ta tôn vinh bao giờ!

Vì thế, việc Mẹ vội vã đi thăm bà Êlisabeth chỉ là cuộc viếng thăm thông thường của con người trong cuộc sống mà thôi. Có đặc biệt chăng thì đây là cuộc gặp gỡ thân tình của hai người chị em có cùng niềm tin và cùng cưu mang niềm hy vọng… Đức Maria biết rằng: người chị của mình mang thai trong lúc tuổi già như thế rất cần được sự chia sẻ, giúp đỡ… Nhưng sự gặp gỡ ấy lại biến thành một cuộc hội ngộ của tình yêu, của bình an và hạnh phúc dành cho những người luôn biết sống tin tưởng vào Thiên Chúa. Bà Êlisabeth mừng rỡ vì được Mẹ Thiên Chúa viếng thăm, Gioan tẩy giả trong bụng bà cũng nhảy mừng vì nhận ra được ân sủng lớn lao là được gặp gỡ Đức Giêsu và Mẹ của Người. Mẹ Maria mang Chúa đến cho gia đình bà Êlisabeth để làm cho gia đình này được chan hoà niềm vui và ân phúc. Thật vậy, nơi đâu có Chúa ngự trị, nơi đó có bình an và hạnh phúc!

Câu chuyện Đức Maria đi thăm bà Êlisabeth nhắc ta nhớ đến một câu chuyện rất cảm động trong Cựu Ước. Khi Vua Đavit rước Hòm Bia Giao ước (nơi lưu giữ 10 Điều răn của Chúa) về thành Giêrusalem, thì ông mừng vui quá mức nên nhảy nhót trước Hòm Bia Chúa như một đứa trẻ con. Nhưng rồi Hòm Bia ấy chưa được đem về Giêrusalem ngay mà được chuyển đến nhà của ông Ôved-Êđom. Và trong thời gian ba tháng lưu lại nơi đây, gia đình của Eved-Êđom đã đón nhận không biết bao nhiêu là phúc lành của Thiên Chúa. Đức Maria cũng chính là Hòm Bia của Giao ước mới, vì Mẹ đã cưu mang chính Chúa Giêsu là nguồn gốc mọi ơn sủng nơi cung lòng Mẹ. Chính Mẹ đã đón nhận ân phúc bởi trời và Mẹ sẽ chuyển cầu lại cho chúng ta.

Ngày nay, chúng ta cũng được mời gọi tiếp tục làm công việc của Mẹ Maria là mang Chúa đến cho người khác. Mỗi khi Rước Chúa Giêsu Thánh Thể vào lòng, thì tâm hồn chúng ta cũng tràn ngập Chúa. Chúng ta cũng trở thành người “cưu mang” Chúa trong lòng mình. Vì thế, chúng ta cần phải sinh Chúa ra cho đời. Chúng ta có trách nhiệm phải giới thiệu Chúa cho người khác bằng chính cuộc sống của mình, một cuộc sống vui tươi, thân ái và đầy hy vọng. Đây là một sứ mạng nặng nề nhưng cũng thật cao quí mà Chúa và Giáo hội ưu ái dành cho chúng ta.

Noi gương Mẹ, ta hãy đến với người khác bằng tấm chân tình, muốn chia sẻ những gánh nặng cho nhau, muốn giúp nhau trong những chuyện cần thiết, muốn mang niềm vui và hạnh phúc người mình gặp gỡ…Cụ thể, trong Mùa Giáng Sinh này, chúng ta hãy tìm đến với với một hai gia đình túng nghèo nào đó; hãy tặng quà cho một hai đứa trẻ mồ côi, bệnh tật nào đó… để động viên, an ủi và chia sẻ phận người với họ. Có như thế, niềm vui mừng Chúa Giáng Sinh mới thật sự có ý nghĩa và trở thành ngày hồng ân cho chúng ta. Amen.

 

22. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng

CHUẨN BỊ LỄ GIÁNG SINH VỚI MẸ MARIA

(Suy niệm của Lm. Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc)

Tin Mừng Lc 1:39-45 Toàn dân Chúa có thể nhận ra mình nơi Đức Trinh Nữ Maria, Người được làm Mẹ Chúa Cứu Thế. Chúng ta luôn có thể chuẩn bị lễ Giáng Sinh trong thái độ phục vụ anh em như Mẹ Maria.

Nhân vật quan trọng bao giờ cũng đến sau cùng, Đức Trinh Nữ Maria, người phụ nữ được chọn làm Mẹ sinh ra Chúa Cứu Thế, hôm nay mới chính thức xuất hiện vào Chúa Nhật cuối cùng của mùa vọng Giáng Sinh. Mẹ xuất hiện trong khung cảnh một cuộc đi thăm viếng và phục vụ bà Êlisabeth, một phụ nữ son sẻ lại được làm mẹ sinh ra Gioan Tẩy Giả, Tiền Hô của Chúa Cứu Thế. Một cuộc gặp gỡ giữa hai người mẹ và cũng là một cuộc chào đón giữa hai người con trong cung lòng hai người mẹ.

Trong dịp này, Mẹ Maria đã tỏ ra như gương mẫu cho chúng ta noi theo để chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh.

Để mừng lễ Giáng Sinh với Mẹ Maria, chúng ta phải có tâm tình của Mẹ: tâm tình đầu tiên của Mẹ là sẵn sàng đối với Chúa. Tin mừng trình bày Mẹ Maria qua một khung cảnh cảm động. Một thiếu nữ đã đính hôn vừa có thai, lên đường thực hiện một cuộc hành trình dài đến 150 cây số và ở lại nhà bà Êlizabeth trong một thời gian 3 tháng. Một thiếu nữ mới lên 17, 18 tuổi, chưa bao giờ ra khỏi nhà mẹ mình, đã vội vã ra đi tiến lên miền núi theo một tiếng gọi thiêng liêng thì thầm trong lòng.

Ngay từ đầu, trong buổi Truyền Tin, Mẹ Maria đã tỏ ra sẵn sàng rồi: Thiên sứ báo tin Maria sẽ sinh con, Maria bối rối vì mình không biết đến đàn ông. Nhưng Thiên Sứ lại nói, Maria sẽ cưu mang bởi quyền năng Chúa Thánh Thần. Thiên sứ nhắc đến trường hợp của bà Êlizabeth, tuy đã già cả và có tiếng là son sẻ, nhưng đã cưu mang được 6 tháng. Và Thiên sứ kết thúc: “Không có sự gì mà Thiên Chúa không làm được”. Đức Maria liền thưa: “Này tôi là nữ tỳ của Chúa. Tôi xin vâng như lời Thiên sứ truyền”. Maria luôn tỏ ra sẵn sàng, khi đã biết được ý muốn của Chúa.

Chính sự sẵn sàng đó, Bà Êlizabeth đã nhận ra khi Maria bước vào nhà mình: “Em thật diễm phúc, vì đã tin rằng: Chúa sẽ thực hiện những gì Ngài đã nói cho em biết”. Vì vậy, chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh đối với chúng ta hôm nay là phải coi trọng lời Chúa như Mẹ Maria, điều mà cách đây 30 năm sau chính Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Phúc cho ai nghe Lời Chúa mà đem ra thực hành”.

Mẹ Maria sẵn sàng vâng theo ý Chúa với niềm tin tưởng và đơn sơ. Chính đức tin là động cơ thúc đẩy các hoạt động của Mẹ. Chúng ta đọc được ở chương 2 của Tin Mừng theo Thánh Luca, hai điểm rất đơn sơ, bề ngoài xem ra không quan trọng, nhưng thật sự đầy ý nghĩa. Đó là khi các mục đồng từ hang đá Bêlem ra về, họ đã thuật lại khắp nơi những biến cố của đêm Chúa Giáng Sinh, và tất cả những ai nghe đều kinh ngạc về các điều mục đồng đã thuật lại. “Còn Maria thì giữ kỹ những điều ấy và luôn suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2,18-19). Cũng ở cuối chương 2 này, khi Đức Mẹ gặp được Chúa Giêsu trong Đền Thánh sau mấy ngày lạc mất con, Thánh sử Luca cũng ghi: “Rồi Chúa Giêsu đã theo hai ông bà trở về Nazareth. Ngài luôn vâng phục hai ông bà. Còn Mẹ Ngài thì giữ kỹ các điều ấy trong lòng” (Lc 2,51).

Cả hai lần đó, Thánh Luca lưu ý chúng ta rằng: Mẹ Maria không những chỉ lo thân xác Chúa Giêsu Hài Đồng mà Mẹ cũng muốn hiến trọn cuộc đời của mình, lòng trí của mình cho việc phục vụ con Thiên Chúa làm người. Mỗi lời nói, mỗi sự việc, mỗi cảm nghĩ, Mẹ đã gói ghém cẩn thận và chôn giấu trong trí lòng Mẹ. Mỗi một phép lạ, lời chào của Thiên sứ, của Bà Êlizabeth, biến cố đêm Giáng Sinh, những lời nói của mục đồng, của các Đạo sĩ, những lời tiên tri của Simêon, của Anna, những tiếng bập bẹ đầu tiên của Chúa Giêsu, mỗi cái nhìn của Ngài, mỗi hành động của Ngài, tất cả ngần ấy thứ Mẹ suy đi nghĩ lại và cẩn thận gìn giữ giữa kho tàng thiêng liêng của Mẹ.

Không những Mẹ Maria luôn vâng theo ý Chúa với niềm tin tưởng mà còn vâng theo ý Chúa một cách đơn sơ. Bởi vì, có nhiều người cũng vâng nghe ý Chúa với niềm tin tưởng nhưng nhiều khi vì miễn cưỡng, vì bất đắc dĩ, không hòa đồng ý mình với ý Chúa. Tin Mừng nói: Mẹ Maria ra đi vội vã, nhanh chóng, không do dự, không tính toán so đo, cứ ra đi trong phó thác. Vâng theo ý Chúa khi ý Chúa ăn hợp với ý ta thì dễ, nhưng khi ý Chúa trái hẳn với ý ta mà ta vui vẻ đón nhận, khi ấy mới quí, và chứng tỏ lòng yêu mến đích thực của chúng ta.

Mẹ Maria luôn sẵn sàng đối với Chúa, Mẹ cũng luôn sẵn sàng đối với tha nhân. Mẹ đã đi phục vụ bà chị họ của mình, không chút do dự, vì Mẹ thấy ý Chúa trong đó. Hơn nữa, Mẹ thấy đó là nhiệm vụ của mình. Là Mẹ Chúa Cứu Thế, Mẹ có nhiệm vụ phải đem Chúa cho kẻ khác. Lại nữa, Mẹ cảm nghiệm rằng, lòng mình khi được mang Chúa thì hạnh phúc biết mấy, bằng an biết mấy, phấn khởi biết mấy. Ước chi bao nhiêu người khác cũng được Chúa đem lại niềm vui và hạnh phúc như mình. Nghĩ như vậy, Mẹ vội vàng lên đường. Chúa không để cho Mẹ phải thất vọng. Mẹ đến, Mẹ đã làm cho cả gia đình Bà Êlizabeth sung sướng. Bà Êlizabeth phải thốt lên: “Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm tôi. Vì này, tai tôi vừa nghe lời em chào, Hài Nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi”.

Anh chị em thân mến,

Toàn dân Chúa có thể nhận ra mình nơi Đức Trinh Nữ Maria, Người được làm Mẹ Chúa Cứu Thế. Chúng ta luôn có thể chuẩn bị lễ Giáng Sinh trong thái độ phục vụ anh em như Mẹ Maria.

Gương Mẹ sẵn sàng nghe tiếng Chúa gọi, tiếng tha nhân mời, phải được chúng ta noi theo. Chúa gọi chúng ta qua tiếng mời gọi của tha nhân. Tiếng tha nhân gọi ta là tiếng Chúa mời gọi. Chúng ta vui vẻ thưa “vâng” với Chúa và sẵn sàng trả lời “có” với tha nhân, không lâm bẩm kêu ca khi gặp điều trái ý, không từ chối, lãng tránh bất cứ ai cần đến.

Chúng ta cũng thưa “vâng” với Chúa trong đức tin, khi gặp những hoàn cảnh chúng ta tưởng là phi lý, cứ thưa “vâng”, vì đó là con đường chắc chắn hoàn thành sứ mạng. Chúng ta cũng thưa “vâng” với Chúa trong đức tin, để noi gương Mẹ bước vào lịch sử cứu độ, kết hiệp mật thiết với mầu nhiệm Chúa Kitô đã chết và sống lại, để cứu độ loài người. Phúc cho ai ngày càng bớt tự tin để thêm tin Chúa, bớt tự ái để thêm bác ái yêu người.

Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu kể cho chúng ta một mẫu chuyện nhỏ: Lúc ấy, Têrêxa còn nhỏ. Nghe đọc chuyện thương khó của Chúa Giêsu, Têrêxa cảm động, nước mắt tràn mi. Têrêxa cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa thương con quá, còn con chưa làm được gì để đền đáp cả. Con phải qua xứ truyền giáo xa xôi và con sẽ chết tử vì đạo ở đó như các vị truyền giáo. Cầu nguyện xong, Têrêxa bỏ nhà và chạy ra đường. Cứ chạy, chạy mãi, quyết sẵn sàng chết mà… Bỗng một cậu bé trai cùng tuổi chặn Têrêxa lại và hỏi: “Cô tên gì?”. Têrêxa ngập ngừng trả lời: “Tôi là Têrêxa của Giêsu Hài Đồng”. “Còn cậu, cậu tên gì?” – Tôi hả? Tôi là Giêsu Hài Đồng của Têrêxa. Cậu bé liền biến mất.

Thưa anh chị em,

Với viễn ảnh một Chúa Giêsu Hài Đồng sắp đến trong máng cỏ từ phía bên kia, thì từ phía bên này chúng ta đã sẵn sàng tiến bước để đi đón Ngài chưa? Chỉ còn một tuần nữa thôi. Chuẩn bị “dầu đèn” sẵn sàng đi, để hôm đó, đèn chúng ta rực sáng và không còn lo thiếu dầu. Ôi! Đêm Giáng Sinh này, chàng rể Giêsu sẽ mỉm cười với chúng ta, và sẽ đưa tay ra nắm lấy bàn tay chúng ta, để chúng ta lại nối vòng tay lớn cho mọi người anh em trên thế giới. Trên con đường đến với Ngài, chúng ta sẽ mời gọi tất cả mọi người kết đoàn với chúng ta, để cùng với chúng ta dâng lên tấm lòng yêu mến như một món quà Noel cho Chúa Giêsu Hài Đồng.

Lạy Mẹ Maria, mẫu gương chuẩn bị Lễ Giáng Sinh, xin cầu cho chúng con. Amen.

 

23. Mẹ Maria đón Chúa Cứu Thế

(Suy niệm của Cố Lm. Hồng Phúc)

Chỉ còn mấy hôm nữa là đến Lễ Giáng sinh. Chúng ta hãy chuẩn bị tâm hồn và thể xác để đón mừng Chúa. Chúa chỉ đi vào lịch sử có một lần, nhưng Chúa còn đến trong tâm hồn chúng ta nhất là trong những kỷ niệm này.

Thánh Phaolô nói: Ngài đến sinh ra bởi một người Nữ (Gal. 4, 4). Nhân vật nêu gương cho chúng ta hơn cả trong việc chuẩn bị đón ngày Chúa đến là Đức Mẹ, người Nữ diễm phúc được tuyển chọn làm Mẹ Thiên Chúa. Loài người không lên được với Thiên Chúa thì Thiên Chúa đã xuống với nhân loại. Trời và đất đã gặp nhau trong cung lòng Trinh nữ. Mẹ đã trở nên Hòm bia thánh mang ơn cứu độ cho nhà Israen. Luca viết: “Maria chổi dậy, vội vả ra đi tiến lên miền núi” đến thăm bà chị họ Isave. Mẹ đến mang tình bác ái, giúp đỡ một người đang cần sự giúp đỡ. Mẹ đến mang ơn cứu độ cho Gioan mà cuộc đời sẽ mật thiết liên hệ với con Mẹ.

Gioan đã nhảy mừng trong lòng mẹ như cảm động nhận ra Đấng đến với mình. Thiên thần đã loan báo: “Từ trong lòng mẹ, trẻ ấy sẽ được đầy Thánh Thần” (Lc. 1, 15). Con hân hoan thì Mẹ cũng vui mừng vì được “Mẹ Thiên Chúa” đến viếng thăm. Hai chị em ôm chầm lấy nhau, như “song lộc triều nguyên” dâng lời cảm tạ.

Và Maria nói: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa và thần trí tôi hoan hỉ trong Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ tôi” – Magnificat (Lc. 1, 46-56).

Tất cả sự cao trọng của Mẹ, như lời Bà Chị nói, là “đã tin rằng lời Chúa phán sẽ được thực hiện”. Mẹ sống nội tâm, luôn luôn đón nhận Lời Chúa, mau mắn thi hành trong tinh thần đức Tin và phó thác. Đó là bài học cho chúng ta khi suy niệm đoạn Phúc âm “Thăm viếng” này.

Đức Mẹ và Thánh Giuse đang ở Nagiaret, một làng bé nhỏ miền Bắc Do-thái. Mẹ mong chờ ngày con sinh ra như các bà mẹ mong chờ con, nhưng Mẹ càng mong chờ và Mẹ biết rằng con đến là ơn cứu độ đến với nhân loại. Mẹ sống hoàn toàn phó thác và trông cậy vì Mẹ biết rằng 800 năm về trước, nhà tiên tri Michê (trong bài đọc I) đã tiên báo Đấng Cứu Thế sẽ sinh hạ ở Bêlem, một thị trấn miền Nam cách đó đến 4, 5 ngày đàng. Nhưng, việc Chúa thì Chúa lo. Và Chúa đã dùng một ông vua chọc trời khuấy nước, ra một sắc lệnh kiểm kê dân số, một sắc lệnh có tính cách phô trương nhưng ngầm thực hiện ý nhiệm của Thiên Chúa.

Giuse và Đức Mẹ thuộc chi họ Đavit quê ở Bêlem nên phải về đó khai sổ bộ. Thế là hai ông bà lên đường. Có lẽ Giuse kiếm được con lừa và ngồi trên lưng lừa do Giuse hướng dẫn, Mẹ ra đi, cà tật cà tang, hướng về Giêrusalem. Đường dài 150 cây số.

Mỗi khi có dịp về xứ Giuđêa, mọi người Do-thái đạo đức đều ghé qua Giêrusalem kính viếng Đền thờ. Hai ông bà hẳn cũng đã làm như vậy, rồi trực chỉ Bêlem cách thủ đô 8 cây số về phía Nam.

Trời đã về chiều. Luca viết: “không có chổ cho hai ông bà trong quán trọ” (2, 7). Quán trọ ở đây theo tập tục Do-thái, là một khu vườn có giếng nước trong có căn nhà lộ thiên cho du khách nghèo ngủ qua đêm. Giuse thấy không tiện để Đức Mẹ trong quán công cộng vào một lúc quan trọng nhất của đời người đàn bà, nên đã tìm về những hang đá tự nhiên ở ngoại ô, nơi có các mục đồng hay lùa chiên vào nghỉ đêm.

“Trong lúc đang ở đó thì Maria sinh hạ con trai đầu lòng. Bà bọc con trẻ trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ” (2, 6). Mẹ làm lấy mọi tác động, vì Mẹ cưu mang con nhiệm lạ thì cũng sinh con mà không tổn thương sự khiết trinh, cũng như ngày kia, Con Mẹ sẽ ra khỏi mồ đóng ấn niêm phong. Rồi Mẹ đặt con nằm trong máng cỏ gối quì thờ lạy, làm cái việc xa xưa nay chưa ai từng làm là thờ lạy Con. Vì “Mẹ sinh ra Con nhưng Con là Cứu Chúa của Mẹ”. (Thánh Ephrem).

Lạy Chúa, xin đến lại trong tâm hồn con, để con được đón Chúa bằng bàn tay dịu hiền, bằng trái tim nồng cháy của Mẹ.

 

24. Chúa sắp đến

(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)

  1. Dẫn vào Thánh lễ

Anh chị em thân mến

Chỉ còn khoảng một tuần nữa thôi, chúng ta sẽ cử hành lễ mừng sinh nhật Chúa Giêsu. Chúa sẵn sàng đến với những ai nhận thức mình cần Ngài. Vậy bây giờ chúng ta hãy tới gần Ngài, mang theo tất cả những sự nghèo nàn thiêng liêng, những thương tích và những tội lỗi của chúng ta.

  1. Gợi ý sám hối

Lạy Chúa, chúng con là những người yếu đuối hèn hạ. Xin Chúa thương xót chúng con.

Lạy Chúa, chúng con đầy dẫy tội lỗi. Xin Chúa thương xót chúng con.

Lạy Chúa, chúng con khổ sở nhiều mặt. Xin Chúa thương xót chúng con.

III. Lời Chúa

  1. Bài đọc I (Mk 5,1-4)

Ngôn sứ Mikha cho biết trước một số nét về Ðấng cứu thế sẽ đến:

Ngài không xuất thân từ thủ đô Giêrusalem hay một thành phố lớn, nhưng từ một thị trấn nhỏ bé khiêm nhường là Bêlem.

Mặc dù vậy, Ngài có sứ mạng thống lãnh Israel.

Quyền lực Ngài sẽ trải rộng ra đến tận cùng trái đất, chính Ngài sẽ đem lại hòa bình.

  1. Ðáp ca (Tv 89)

Bối cảnh của Thánh vịnh này là đất nước Do Thái đang chia rẻ thành hai, Israel ở phía Bắc và Giuđa ở phía Nam. Như vậy là đoàn chiên Chúa bị phân tán, và vườn nho Chúa cũng tan hoang.

Tác giả Thánh vịnh hình dung Ðấng Messia là một mục tử, khi Ngài đến Ngài sẽ quy tụ các chiên về thành một đoàn duy nhất; và như một người chủ vườn trở lại thăm nom và chăm sóc vườn nho cũ.

  1. Tin Mừng (Lc 1,39-45)

Bài Tin Mừng hôm nay cho biết về Mẹ Ðấng cứu thế sắp sinh ra.

Thánh Luca cố ý viết câu chuyện này giống với chuyện Ðavít mang Hòm Bia về Giêrusalem (2.Sm 6), để nói rằng Ðức Maria chính là Hòm Bia Tân Ước. Sau đây là các chi tiết:

  1. Hòm Bia tiến về hướng Giêrusalem, ghé nhà của ông Ôbed-Êdom. Maria đi từ Nagiarét theo hướng Giêrusalem, ghé nhà Êlisabét.
  2. Ðavít đã “kêu lên” rằng: làm sao Hòm Bia của Chúa đến nhà tôi được. Êlisabét cũng “kêu lên”: làm sao mà mẹ của Chúa tôi đến nhà tôi.
  3. Nhờ Hòm Bia ghé ở nhà Ôbed-Êdom mà ông này được Thiên Chúa ban phúc. Ðức Maria ghé nhà Êlisabét khiến gia đình bà (kể cả thai nhi) được phúc.
  4. Hòm Bia ở nhà Obed-Êđom 3 tháng; Ðức Maria cũng ở nhà Êlisabét 3 tháng (xem câu 56)
  5. Bài đọc II (Dt 10,5-10)

Tác giả thư Do thái thì hình dung Ðấng Messia là một vị Thượng Tế và Chức thượng tế của Ngài trổi vượt chức thượng tế Cựu Ước:

Lễ tế Ngài sẽ dâng lên không phải là lễ toàn thiêu hay lễ xá tội của Cựu Ước, mà là chính thân thể Ngài và việc thực thi thánh ý Thiên Chúa.

Lễ tế ấy không cần phải dâng lên nhiều lần, mà một lần duy nhất có giá trị vĩnh cửu.

  1. Gợi ý giảng
  2. Ðức Mẹ và Lễ Giáng Sinh

Lời Chúa ngày Chúa nhật cuối Mùa Vọng luôn đề cao Ðức Mẹ. Trong Chúa nhật thứ IV năm nay, Ðức Mẹ được mô tả là “người phụ nữ sinh con” (bài đọc I). Còn bài Tin Mừng thì tường thuật việc Người đi thăm viếng Bà Êlisabét. Cũng như con của mình, Ðức mẹ là người “đến để thực thi ý Chúa” (bài đọc II). Gương Ðức Mẹ có thể giúp chúng ta biết cách chuẩn bị Lễ Giáng sinh.

a/ Ðức Mẹ luôn tin vào Lời Chúa, như nhận xét của Bà Êlisabét: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Ngài đã nói với em”. Chuẩn bị Lễ Giáng Sinh là quan tâm đọc Lời Chúa và tin vào Lời ấy.

b/ Ðức Mẹ luôn vâng theo ý Chúa: Trong biến cố Truyền tin, Người đã thưa với Thiên thần “Này tôi là tôi tớ Chúa, xin vâng”. Chuẩn bị lễ Giáng sinh là tỉnh táo nhận ra ý Chúa đối với mình và cố gắng vâng theo.

c/ Ðức mẹ sẵn sàng giúp đỡ người khác: dù đường xá xa xôi, Ðức Mẹ không ngại và đến thăm để giúp đỡ Bà Êlisabét. Chuẩn bị lễ Giáng sinh là quan tâm đến người khác và sẵn sàng giúp đỡ họ.

  1. Thăm viếng

a/ Viếng thăm là một hành động biểu lộ tình thương

Vừa nghe sứ thần truyền tin cho biết bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng, Maria liền vội vã lên đường đến thăm bà. Bà Ê-li-sa-bét sống ở miền núi, chắc chắn cuộc hành trình của Maria lên miền núi để thăm người bà con không tránh được mệt nhọc, vất vả.

Chắc chắn việc Ðức Maria đến thăm bà Ê-li-sa-bét là do sự thúc đẩy của yêu thương. Ngài không đến thăm thì bà Ê-li-sa-bét chẳng trách Ngài được, lý do là bà ấy đâu biết rằng Ngài biết bà mang thai. Vả lại chính Ngài cũng đang mang thai, mà đường xá lại xa xôi. Chính tình thương đã thúc đẩy Ngài đi, vì Ngài rất giàu tình thương. Và cũng chính vì giàu tình thương mà Ngài xứng đáng làm Mẹ của Chúa Giêsu, là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa.

Tình yêu đòi hỏi phải biểu lộ ra, chứ không giữ kín bên trong. Một tình yêu giữ kín, không được biểu lộ thành hành động, không phải là một tình yêu đích thực. Tương tự như lời thánh Giacôbê: “Ðức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2, 26). Cũng vậy, tình yêu không việc làm, không được biểu lộ là tình yêu chết. Tình yêu phải được biểu lộ ra thành sự quan tâm, chăm sóc, năng tìm cách gặp gỡ người thân, làm cho người thân trở nên tốt đẹp, hạnh phúc hơn. Câu tục ngữ “Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo, thất bát sông cũng lội, cửu thập đèo cũng qua” có nghĩa như thế!

Tình yêu đích thực đòi hỏi phải năng gặp nhau, nhất là những lúc người mình yêu có chuyện vui hoặc buồn. Ðức Phật nói: “Yêu mà không được ở gần nhau thì sẽ đau khổ”. Tục ngữ có câu: “Nhất nhật bất kiến như tam thu hề!”. Vì thế, đi thăm viếng nhau là đòi hỏi của tình yêu đích thực, là biểu lộ sự quan tâm đến nhau. Vì thế, chúng ta hãy năng thăm viếng những người chúng ta yêu mến. Mà đã là người Kitô hữu, tất nhiên chúng ta có rất nhiều người mình phải yêu mến, nhất là những người lâm cảnh đau khổ, túng thiếu, những người lâm vào thế kẹt, những người cần chúng ta tới thăm viếng hơn cả. Ðến thăm nhau là một cách tuyệt vời để biểu lộ tính gia đình, tình huynh đệ, tình yêu thương của Kitô giáo.

b/ Ðến thăm để đem Chúa đến cho người mình thương

Khi Ðức Maria đến thăm bà Ê-li-sa-bét, thì Ngài cũng đem Chúa đến cho bà ấy. Nhờ Ðức Maria mang Chúa đến, nên không chỉ bà Ê-li-sa-bét vui mừng, mà hài nhi trong bụng Bà cũng vui mừng theo, đến nỗi phải “nhảy lên” trong bụng mẹ. Và chắc chắn cũng chính vì Ðức Maria mang Chúa đến, mà niềm vui của bà Ê-li-sa-bét và hài nhi mới tăng lên một cách lạ thường như thế. Sự hiện diện của Ðức Maria cùng với bào thai Giêsu còn biến đổi hai mẹ con bà Ê-li-sa-bét, khiến hai người được tràn đầy Thánh Thần, và nhận ra được sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Ðức Maria, đồng thời tin vào Thiên Chúa vững mạnh hơn.

Ðến thăm không chỉ là một phương cách biểu lộ tình yêu, nói lên sự quan tâm, mà còn là một dịp thuận lợi để đem Chúa đến cho người mình thăm viếng. Nhờ ta đem Chúa đến, mà niềm vui của người được thăm tăng lên gấp bội, và họ nhận lãnh được Thánh Thần nhờ sự hiện diện của Chúa do ta mang đến. Chính Thánh Thần của Chúa trong ta sẽ thánh hóa, biến đổi họ nên tốt lành, thánh thiện, chứ không phải ta.

Ðem Chúa đến cho người mình thăm viếng, không có nghĩa là mình nói thật nhiều thật hay về Chúa cho họ nghe. Rất nhiều người nói về Chúa rất nhiều rất hay, nhưng thật sự không mang Chúa trong mình. Chúa là tình thương, mình chỉ mang Chúa đến cho họ, khi chính mình yêu thương họ thật sự, bằng một tình yêu chân thực. Ðức Maria có nói gì về Chúa với bà Ê-li-sa-bét đâu! Mình chỉ mang Chúa đến cho họ, khi mình đến với họ với ý muốn làm hiện thân của Chúa.

c/ Hãy là hiện thân của Chúa khi đi thăm viếng

Thiên Chúa vì yêu thương nhân loại vô cùng, nên Ngài đã đến với con người trong lịch sử, cách đây 2000 năm, để cứu độ và đem hạnh phúc đến cho mọi người, cho từng người. Khi còn tại thế, Ngài đã đến thăm nhiều người, săn sóc nhiều người, cải hóa nhiều người, biểu lộ tình yêu thương cho nhiều người. Nhưng vì nhập thể làm người, Ngài bị giới hạn trong không gian và thời gian, Ngài chỉ sống tại thế có 33 năm, chỉ quanh quẩn trong đất nước Do Thái, và chỉ có thể tiếp xúc được với một số rất ít người. Nhưng tình yêu vô biên phổ quát của Ngài khiến Ngài muốn tiếp xúc với tất cả mọi người trên trần gian, để phục vụ, săn sóc họ, từng người một. Ngài không thể làm điều đó bằng chính thân xác của Ngài. Vì thế, Ngài muốn nhờ chính chúng ta làm điều ấy. Ngài muốn trở thành chính bản thân chúng ta để làm những công việc ấy, và chúng ta có thể giúp Ngài được toại nguyện ý đó.

Ngài muốn dùng chính bản thân chúng ta để thăm viếng những người chúng ta quen biết, yêu thương. Ngài muốn an ủi, vỗ về, khuyến khích, khuyên lơn, cảnh tỉnh họ bằng miệng lưỡi của ta. Ngài muốn săn sóc, làm việc phục vụ họ bằng chính bàn tay của ta. Ngài muốn yêu thương họ bằng chính trái tim của ta. Ngài muốn quan tâm tới họ bằng chính tâm trí của ta. Qua ta, Ngài muốn biểu lộ tình thương vô biên của Ngài cho họ. Muốn thế, Ngài mong muốn ta trở thành hiện thân của yêu thương, thứ yêu thương bằng hành động chứ không phải chỉ bằng lời nói. Ta có là hiện thân của tình thương, thì ta mới trở nên hiện thân của Ngài. Và chính lúc ấy, ý muốn của Ngài là yêu thương phục vụ họ mới được thỏa mãn hoàn toàn.

Vấn đề là ta có muốn trở nên hiện thân của Ngài hay không. Ngài không bao giờ muốn ép buộc ta, thúc bách ta, nhưng luôn luôn mời gọi ta. Ta có nghe thấy tiếng Ngài mời gọi không? Nếu có, hãy đáp lại lời mời ấy một cách quảng đại. Ðó là cách chứng tỏ cụ thể nhất rằng ta yêu mến Ngài. Yêu mến Ngài thì phải yêu thương giống như Ngài, chứ không phải yêu Ngài bằng cách dâng lên Ngài thật nhiều thánh lễ, đọc thật nhiều kinh kệ, và quỳ hàng giờ trước nhà tạm. Nếu ta yêu Ngài thật sự, thì hãy yêu Ngài, phục vụ Ngài trong những người anh chị em gần gũi ta.

Ngài đã chẳng từng nói: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! Lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ những ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Ðấng ngự trên trời mới được vào mà thôi!” (Mt 7,21). Mà ý muốn của Thiên Chúa là: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34). Về việc dâng quá nhiều lễ tế, đọc kinh kệ quá nhiều mà thiếu lòng yêu thương nhau, Thiên Chúa đã dùng miệng ngôn sứ Isaia để nói lên sự chán ngấy của Ngài: “Ngần ấy hy lễ của các ngươi, đối với Ta nào nghĩa lý gì? Lễ toàn thiêu chiên cừu, mỡ bò mập, Ta đã ngấy (…) Thôi đừng đem những lễ vật vô ích ấy đến nữa. Ta ghê tởm khói hương, ta chịu không nổi những ngày đầu tháng, những ngày sabát, ngày đại lễ, không chịu nổi những người cứ phạm tội ác rồi lại cứ lễ lạc linh đình (…) Khi các ngươi dang tay cầu nguyện, Ta bịt mắt không nhìn, vì tay các ngươi đầy những máu…” (Is 1,11-15; xem bài đọc 2 được nêu ở trên). Chỉ có tình yêu đích thực mới làm Chúa hài lòng!

***

Lạy Chúa, xin giúp con trở thành hiện thân của Chúa để giúp Chúa phục vụ mọi người qua chính bản thân của con. Xin cho con biết quan tâm đến niềm vui, nỗi khổ, và nhu cầu của từng người sống chung quanh con. Xin giúp con biết hy sinh thì giờ cho dù rất quí báu của con để năng đến gặp gỡ họ, thăm viếng họ, hầu nhờ đó thông cảm được những nỗi vui buồn và nhu cầu của họ. Xin giúp con biết sẵn sàng chia vui sẻ buồn và tìm mọi cách để thỏa mãn những nhu cầu chính đáng của họ. Amen. (Nguyễn chính Kết)

  1. Maria dám tin

Một doanh nhân giàu có ở Mỹ có sáng kiến ngộ nghĩnh để thử lòng người: ông cho in rất nhiều bích chương và dán khắp nơi trong thành phố nơi ông đang ở. Ðại khái nội dung của bích chương loan báo: Bất cứ ai mắc nợ, nếu đến văn phòng của ông ngày đó, tháng đó từ 9g đến 12g đều được ông giúp đỡ để trả nợ. Dĩ nhiên, mọi người đều bàn tán về lời mời gọi này, nhưng đa số đã xem đây là một trò đùa.

Ðúng ngày hẹn, doanh nhân ngồi trong văn phòng của mình. Hai giờ trôi qua mà không thấy người nào đến. Mãi tới 11 giờ mới có một người đàn ông rụt rè đến… Doanh nhân ký cho ông một ngân phiếu để trả hết nợ. Gần 12 giờ một vài người nữa cũng đến. Và dĩ nhiên họ cũng được giúp đỡ tận tình. Còn tất cả những người khác khi hiểu được lời mời gọi của doanh nhân thì đã muộn.

Lời hứa của doanh nhân trong câu chuyện trên đây quá lớn, nên đa số đã không tin. Chính vì không tin nên họ đã bỏ lỡ một cơ hội ngàn vàng. Ðức Maria, trái lại, Mẹ đã dám tin vào lời Chúa hứa nên Mẹ đã được tràn đầy ân phúc. Bà Êlisabét nói: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1,4 5).

Tin là để cho Chúa thay đổi hướng đi của cuộc đời mình.

Tin là để cho chương trình cứu độ của Người đảo lộn chương trình sống của chúng ta.

Tin là chấp nhận lên đường, làm một cuộc hành trình mạo hiểm với Chúa.

Trước khi thưa lời “Xin Vâng”, Ðức Maria đã có chương trình của Mẹ là sẽ sống đời đôi bạn với thánh Giuse (Lc 1,27). Và qua lời “Xin Vâng” Mẹ đã chấp nhận hoàn toàn để cho Thiên Chúa thay đổi hướng đi cuộc đời mình, để cho Người đảo lộn chương trình sống, và cùng Người bước vào một cuộc mạo hiểm với trọn niềm tin yêu phó thác.

Mẹ ra đi mà không biết mình đi đâu, chỉ biết ra đi theo sự hướng dẫn của Chúa.

Mẹ đã đi từ bước phiêu lưu này đến cuộc phiêu lưu khác: Từ việc hạ sinh Con Thiên Chúa cách đơn nghèo, cho đến khi lạc mất con trong đền thánh; từ những lời cứng cỏi của con ở Cana và Caphanaum cho đến khi gặp con dưới chân thập giá.

Mẹ đã “Suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2,19) vì những kỷ niệm ấy quả là khó hiểu dưới con mắt loài người.

Mẹ xứng đáng là Mẹ Ðấng Cứu thế vì mẹ đã dám tin vào lời Chúa và để Chúa thay đổi cuộc đời mình theo chương trình cứu độ của Người.

Mẹ thật diễm phúc vì Mẹ đã chấp nhận lên đường làm một cuộc phiêu lưu với Chúa trong tin yêu và phó thác: “Xin Chúa làm cho tôi như lời Ngài nói” (Lc 1,38).

Chính vì Mẹ diễm phúc mà lòng Mẹ đã là mái ấm đầu tiên, là Ðền Thánh cho Con Thiên Chúa ngự trước khi bước vào cuộc đời.

Chính vì Mẹ là Ðền Thánh nên đấng Thánh trong lòng Mẹ đã thánh hoá Gioan trong cuộc hạnh ngộ đầy linh thánh.

Chính vì cuộc hạnh ngộ đầy linh thánh giữa Mẹ và bà chị họ, mà Thánh Thần đã linh ứng cho bà nhận ra điều mắt thường không thể thấy, đó là chuyện cô em Maria thụ thai Ðấng Cứu Thế.

Chính vì niềm hứng khởi và những lời chúc mừng của Êlisabét đã khiến Mẹ cảm nhận thật sâu xa hồng ân cao cả, và lời ngợi ca Thiên Chúa đã vỡ oà trên bờ môi hạnh phúc trong lời kinh Magnificat (x. Lc 1,46-54).

Vâng, chính cuộc sống tin yêu và phó thác của Mẹ đã tuôn chảy dòng sông của ân phúc, cuộc sống ấy đang toả hương thơm cửa thiên đàng.

Lạy Chúa, Chúa đã đoái thương tuyển chọn Ðức Ma ria và bà Êlisabét, đã cho các ngài mang thai cách diệu kỳ, để hạ sinh Ðấng Cứu Thế và vị Tiền Hô của Người.

Xin cho chúng con biết noi gương Mẹ: Tin vào lời Chúa và chương trình cứu độ của Người. Xin cho chúng con biết ngoan ngoãn để Chúa hướng dẫn cuộc đời chúng con với trọn niềm tin tưởng mến yêu. Amen. (Thiên Phúc)

  1. “Em có phúc vì đã tin”

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Bà Êlisabét nói với Ðức Maria: “Em có phúc vì đã tin”. Tin và hạnh phúc, đó là hai điều liên hệ chặt chẽ với nhau, một liên hệ nhân quả. Chúng ta có thể tìm thấy rất nhiều bằng chứng trong các sách Tin Mừng:

– “Chúa Giêsu nói với viên đại đội trưởng rằng: Ông cứ về đi. Ông tin thế nào thì được như vậy. Và ngay giờ đó, người đầy tớ được khỏi bệnh” (Mt 8,13)

– Chúa Giêsu quay lại nói với người đàn bà bị băng huyết: “Này con, cứ yên tâm, lòng tin của con đã cứu chữa con”. Và ngay từ giờ ấy, bà được cứu chữa (Mt 9,22)

– Chúa Giêsu nói với hai người mù đi theo Ngài “Các anh có tin là tôi làm được điều ấy không?” Họ đáp “Thưa Ngài chúng tôi tin”. Bấy giờ Ngài sờ vào mắt họ và nói “Các anh tin thế nào thì được như vậy”. Mắt họ liền mở ra. (Mt 9,28-29)

Chúng ta có thể nói chủ đề chính của Tin Mừng là hạnh phúc cho những kẻ tin. Tất cả những lời Chúa Giêsu giảng dạy là nhằm khơi lên đức tin trong lòng người nghe. Tuy nhiên, chỉ tin thôi thì chưa đủ mà còn phải làm theo như mình tin. Người ta nói ma quỷ cũng tin Chúa đó, nhưng nó không làm theo ý Chúa.

Ðức tin không biến cuộc sống của ta thành dễ dàng. Ngược lại là đàng khác, vì tin đòi hỏi chúng ta phải chiến đấu, phải kiên trì.

Ðức Maria được chúc phúc vì Người không chỉ tin mà còn hành động theo điều Người tin. Ngay sau khi được Thiên sứ viếng thăm, Người đã vội vàng đi thăm viếng Bà Êlisabét. Qua đó, chúng ta thấy rằng sống đạo không phải chỉ là tin suông mà còn phải thể hiện đức tin bằng việc làm.

Lễ Giáng sinh có thể giúp ích chúng ta rất nhiều trong đức tin, vì dù sao trong dịp này chúng ta cũng thấy Chúa gần gũi với mình hơn những lúc khác. Nhưng cốt lõi của sứ điệp Giáng sinh là Con Thiên Chúa đã nhập thể trong một đứa trẻ nghèo nàn yếu ớt. Trong lễ Giáng sinh đầu tiên, có những người đã tin vào điều ấy, và cũng có những người không tin. Nhưng chỉ những người tin mới được chúc phúc. (FM)

  1. Chúa Giáng sinh mang lại gì mới?

Người ta thích những điều mới. Một món hàng mới xuất hiện trên thị trường, người ta đổ xô đi mua. Một thời gian sau, món đồ ấy không còn mới nữa, người ta nhàm chán. Thế là nhà sản xuất phải nghĩ ra cái khác mới hơn. Hiện tượng này cho thấy 2 điều: một là khuynh hướng thích cái mới thúc đẩy sự tiến bộ; hai là cái gì mới rồi cũng sẽ cũ đi.

Có cái gì vẫn luôn luôn mới chứ không bao giờ cũ không? Nếu có cái đó thì cái đó mới là cái thực sự mới.

Ðó chính là cái mà Chúa Giáng sinh mang lại. Ðó là tình yêu hiến dâng. Chúa đến trong lòng Ðức mẹ. Lòng Ðức Mẹ đổi mới. Ðức Mẹ lập tức mang điều mới mẻ đó trao ban cho Bà Êlisabét.

Trong số những điều mới mẻ trên thế giới và trong Giáo Hội, những cái vẫn còn mới và tồn tại mãi qua dòng thời gian chính là những thứ giúp phát triển tình yêu và sự dâng hiến. Chúa Giêsu giáng sinh là người đầu tiên mang điều mới mẻ ấy cho nhân loại.

  1. Lời nguyện Mùa Vọng

Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến

Xin hãy bước vào những yếu đuối của chúng con

Xin hãy bước vào những nỗi sợ hãi của chúng con

Xin hãy bước vào những lo lắng của chúng con

Xin hãy bước vào những thất bại của chúng con

Xin hãy bước vào những chia rẻ của chúng con

Xin hãy bước vào những buồn phiền của chúng con

Xin hãy bước vào những cô đơn của chúng con

Xin hãy bước vào những bóng tối của chúng con

Xin hãy bước vào những hoài nghi của chúng con

Xin hãy bước vào những thất vọng của chúng con

Xin hãy bước vào những nghèo hèn của chúng con

Xin hãy bước vào cuộc tìm kiếm của chúng con

Xin hãy bước vào những niềm vui và hy vọng của chúng con

Xin hãy bước vào cuộc hấp hối của chúng con.

Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến

  1. Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế: Anh chị em thân mến, thật hạnh phúc cho những ai biết tin tưởng vào Thiên Chúa là Ðấng toàn năng và là Cha nhân ái. Trong niềm hân hoan vì Ngôi Hai Thiên Chúa sắp ngự đến, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:

  1. Hội thánh cần những mục tử tài đức và thánh thiện để hướng dẫn Dân Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban cho Hội thánh / luôn có nhiều mục tử như lòng ước mong.
  2. Cùng với Ðức Trinh Nữ Maria / nhiều sứ giả của tình thương đã vội vã lên đường / đem niềm vui cho những người sầu khổ / đem ủi ban cho những ai đang gặp bế tắc trong cuộc sống / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa giữ gìn những anh chị em đang dấn thân phục vụ tha nhân / luôn được an lành.
  3. Hiện nay / có rất nhiều bạn trẻ đang tích cực cộng tác với các vị mục tử / trong việc dạy giáo lý cho các em thiếu nhi / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các giáo lý viên / tìm được niềm vui trong công việc cao quý này.
  4. Ðức tin không việc làm là đức tin chết / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết thể hiện niềm tin sống động của mình / bằng việc luôn vâng theo thánh ý Chúa / hết lòng phó thác và tận tụy phục vụ như Ðức Maria.

Chủ tế: Lạy Chúa, ngày xưa Ðức Trinh Nữ Maria đã vội vã lên đường mang Chúa Giêsu đến cho người khác; ngày nay, xin Chúa cho chúng con cũng biết noi gương Người mà nhiệt tình đem Chúa đến cho anh chị em chúng con, bằng chính đời sống thấm nhuần tinh thần Tám Mối Phúc thật của chúng con. Chúng con cầu xin

  1. Trong Thánh Lễ

– Trước kinh Lạy Cha: Chúa Cha đã yêu thương chúng ta đến nỗi sai Con Một của Ngài sinh xuống trần gian để sống với chúng ta và cứu chuộc chúng ta. Chúng ta hãy dâng lên Ngài tâm tình tạ ơn sốt mến.

VII. Giải tán

Còn vài ngày nữa là đến lễ Giáng sinh. Anh Chị Em hãy tích cực chuẩn bị đón Chúa, bằng cách cầu nguyện nhiều hơn và sống bác ái với tha nhân hơn trong mùa giáng sinh.

 

25. Hạnh phúc tín thác

(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)

Ngôn ngữ nào cũng có dạng chủ động và thụ động. Về thể thụ động, Việt ngữ rất độc đáo vì có thể diễn tả hai dạng – tích cực hoặc tiêu cực. Điều gì tốt thì nói là “được”, điều gì xấu thì nói là “bị”. Ví dụ: được thưởng hoặc bị phạt, được khen hoặc bị chê,… chứ không ai nói ngược lại (bị thưởng, bị khen; được phạt, được chê). Ngoại ngữ không thể diễn tả rõ nét “thụ động” như Việt ngữ.

Trong đời thường, ai biết tin và dám tin là người can đảm, không ảo tưởng, đặc biệt là vấn đề đức tin. Đó là một dạng hạnh phúc mà người đời khó hiểu hoặc không thể hiểu nổi, thậm chí còn bị coi là ngu xuẩn. Chúa Giêsu dạy chúng ta đừng nhẹ dạ cả tin vào bất cứ phàm nhân nào mà hãy vững tin vào Ngài: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Ngài”.

Đức tin trừu tượng mà cụ thể: “Đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2:26). Thánh Don Bosco nói rằng “chính đức tin hoàn thành tất cả mọi sự”. Vâng, đức tin rất quan trọng. Thánh tiến sĩ Thomas Aquino lý luận: “Công hiệu của năng lực cầu nguyện đến từ đức ái, nhưng năng lực để cầu nguyện cho được hiệu quả là do đức tin và đức cậy”. Còn Thánh tiến sĩ Teresa Avila kết luận: “Tất cả tội lỗi đều do thiếu đức tin mà ra”.

Ngày xưa, phát ngôn viên Mi-kha đã tin tưởng công bố lời của Thiên Chúa: “Hỡi Bê-lem Ép-ra-tha, ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giu-đa, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh Ít-ra-en.

Nguồn gốc của Người có từ thời trước, từ thuở xa xưa. Vì thế, Đức Chúa sẽ bỏ mặc Ít-ra-en cho đến thời một phụ nữ sinh con. Bấy giờ những anh em sống sót của người con đó sẽ trở về với con cái Ít-ra-en” (Mk 5:1-2). Thiên tài và nhân tài có thể xuất thân từ một nơi không vị vọng, bình thường. Đừng tưởng nhân tài là con nhà giàu, con cha cháu ông, hoặc ở nơi đô hội. Không, thậm chí còn ngược lại. Xưa nay đã cho chúng ta thấy rõ điều đó. Tài năng có thể lóe lên bất cứ lúc nào hoặc bất cứ nơi nào. Hiển nhiên nhất là từ Bê-lem, nơi có thể coi là “khỉ ho, cò gáy”, vậy mà lại là nơi xuất hiện Đấng Cứu Thế.

Đấng đó là người như thế nào? Ngôn sứ Mi-kha cho biết: “Người sẽ dựa vào quyền lực Đức Chúa, vào uy danh Đức Chúa, Thiên Chúa của Người mà đứng lên chăn dắt họ. Họ sẽ được an cư lạc nghiệp, vì bấy giờ quyền lực Người sẽ trải rộng ra đến tận cùng cõi đất” (Mk 5:3-5). Vô cùng kỳ diệu, quá đỗi lạ lùng!

Danh Ngài vượt trên mọi danh hiệu, đến nỗi khi nghe đến Tôn Danh Ngài, mọi loài đều nể phục, ngay cả ma quỷ cũng phải khiếp run. Những người tin vào Tôn Danh Ngài thì chân thành cầu nguyện: “Lạy Mục Tử nhà Ít-ra-en, Ngài là Đấng chăn giữ nhà Giuse như chăn giữ chiên cừu, xin hãy lắng tai nghe! Ngài là Đấng ngự trên các thần hộ giá, xin giãi sáng hiển linh cho dòng dõi Ép-ra-im, Ben-gia-min và Mơ-na-se được thấy. Xin khơi dậy uy dũng của Ngài, đến cùng chúng con và thương cứu độ” (Tv 80:2-3). Ngài đã đến, đang đến, và sẽ đến, đến để giao hòa đất với trời, đến để cứu nhân độ thế.

Không chỉ trong Mùa Vọng, mà suốt cả cuộc đời này, chúng ta luôn ngưỡng vọng và khẩn khoản nài xin Ngài ghé mắt thương xót – đặc biệt là trong Năm Thánh Lòng Thương Xót này (từ 8-12-2015 tới 20-11-2016): “Lạy Chúa Tể càn khôn, xin trở lại, tự cõi trời, xin ngó xuống mà xem, xin Ngài thăm nom vườn nho cũ, bảo vệ cây tay hữu Chúa đã trồng, và chồi non được Ngài ban sức mạnh” (Tv 80:15-16).

Xin sẽ được, tìm sẽ thấy, gõ sẽ mở (Mt 7:7; Lc 11:9), Chúa Giêsu đã hứa chắc như vậy. Vấn đề còn lại là chúng ta phải kiên trì mà tin tưởng khẩn cầu, đồng thời phải quyết tâm thành tín với Thiên Chúa: “Xin giơ tay bênh vực Đấng đang ngồi bên hữu là con người được Chúa ban sức mạnh. Chúng con nguyền chẳng xa Chúa nữa đâu, cúi xin Ngài ban cho được sống, để chúng con xưng tụng danh Ngài” (Tv 80:18-19).

Thiên Chúa là Thánh Phụ giàu lòng thương xót, thích tha thứ chứ không muốn trừng phạt. Nếu bị phạt là tại người đó cố chấp mà thôi. Lòng thương xót của Thiên Chúa lớn hơn mọi tội lỗi của cả thế gian này kia mà, thế thì chẳng có tôi gì mà Ngài không tha, điều kiện đơn giản là “chân thành sám hối”. Chỉ cần một lời van xin là Ngài tha tất tần tật. Bằng chứng là trên Đồi Can-vê, ngay trong cơn hấp hối, Chúa Giêsu đã tha thứ mọi tội lỗi cho gã Dismas – một tướng cướp “khét tiếng” nhưng chợt hóa “tốt lành” (Lc 23:43). Cả đời anh ta cướp bóc, coi trời bằng vung, cuối cùng gã Dismas “cướp” được cả Lòng Chúa Thương Xót và “cướp” luôn cả Nước Trời. Anh ta thực sự khôn ngoan vì biết tín thác vào Lòng Chúa Thương Xót. Tình Chúa bao la, vô biên và kỳ diệu là thế đấy. Nếu Thiên Chúa chấp tội, không một phàm nhân nào được cứu độ. Vì thế, đừng bao giờ mất niềm tin vào Lòng Chúa Thương Xót!

Thánh Phaolô phân tích: “Khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con” (Dt 10:5-7). Thiên Chúa có mọi sự, Ngài không cần gì cả, Ngài chỉ muốn chúng ta “xin vâng” trong mọi sự – vui hoặc buồn, sướng hoặc khổ, vừa ý hoặc trái ý – để “ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Thế thôi!

Thánh Phaolô giải thích chi tiết: “Trước hết, Đức Kitô nói: Hy lễ và hiến tế, lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa đã chẳng ưa, chẳng thích, mà đó chính là những thứ của lễ được dâng tiến theo Lề Luật truyền. Rồi Người nói: Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài. Thế là Người bãi bỏ các lễ tế cũ mà thiết lập lễ tế mới. Theo ý đó, chúng ta được thánh hoá nhờ Đức Giêsu Kitô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ” (Dt 10:8-10).

Chúa Giêsu luôn thể hiện phong cách “khác người”, luôn sống “ngược đời”, nhưng luôn rạch ròi: Tỉnh Táo, Thật Thà, Thẳng Thắn. Người ta không đủ hiểu Ngài nên đôi khi bị “sốc”, khó chấp nhận. Các tư tế, kinh sư, thông luật, nhóm Sa-đốc và Pha-ri-sêu đều là những hạng người như vậy. Còn chúng ta thì sao? Khó nói hay không dám trả lời?

Trình thuật Lc 1:39-45 ngắn gọn, nhấn mạnh đến lòng tin của Đức Maria. Điều đó cho chúng ta biết chắc rằng lòng tin (tín thác) là niềm hạnh phúc lớn lao và cần thiết. Thật vậy, Chúa Giêsu đã có lần xác định với Tông Đồ Tô-ma: “Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20:29).

Thánh sử Luca cho biết: Hồi ấy, sau khi được Sứ Thần Gáp-ri-en truyền tin và báo tin người chị cũng vừa thụ thai cách lạ lùng, Cô Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa. Cô vào nhà Anh Dacaria và chào hỏi Chị Êlisabét. Chị Êlisabét vừa nghe tiếng Cô Em Maria chào thì đứa con trong bụng nhảy lên, và Chị được đầy tràn Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng và nói: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã TIN rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1:42-45).

Đức Maria mau mắn trong mọi trường hợp và thể hiện rõ nét qua trạng từ “vội vã”. Đức Maria NGHE Thiên Sứ nói và TIN ngay, và rồi ĐI ngay. Không đắn đo, không tính toán, dù đường sá xa xôi, thời đó khó đi chứ không như ngày nay. Đức Maria đi thăm Người Chị không chỉ để chia vui mà chính là để giúp đỡ Người Chị, vì cùng là phận nữ nhi, Đức Maria biết các thai phụ gặp nhiều khó khăn, cực nhọc đủ thứ, rất cần người khác giúp đỡ trong thai kỳ, nhất là những ngày cuối thai kỳ.

Hài Nhi Gioan “gặp” Thánh Nhi Giêsu qua bụng mẹ mà vẫn không thể trì hoãn niềm hạnh phúc, thế nên Hài Nhi Gioan đã nhảy mừng trong lòng mẹ. Chị Êlisabét, mẹ của Cậu Bé Gioan, cũng không thể không bày tỏ niềm hạnh phúc ngay khi vừa gặp mặt Cô Em, vì Cô Em vừa trở nên Mẹ của Thiên Chúa. Hạnh phúc vô cùng lớn lao!

Chị Êlisabét thật diễm phúc vì được làm Mẹ của “người mở đường” cho Đấng Cứu Thế, và được coi là “người cao trọng hơn mọi người đã lọt lòng mẹ” (Mt 11:11; Lc 7:28). Nhưng Cô Em Maria còn diễm phúc hơn vì được làm Mẹ của Thiên Vương Kitô, Đấng đem bình an và công lý đến cho nhân loại. Đức Maria diễm phúc vì có lòng tin tuyệt đối vào Thiên Chúa, nhờ tín thác tuyệt đối mà Đức Maria mau mắn và sẵn sàng xin vâng theo Thánh Ý Thiên Chúa quan phòng và tiền định.

Lạy Thiên Chúa, thật hạnh phúc và vui mừng biết bao vì Đấng Thiên Sai sắp sửa đến giải thoát nhân loại khỏi ách tội lỗi, khỏi vòng kim cô của ma quỷ, đồng thời chia sẻ thân phận con người với chúng con, dạy chúng con cách thực thi lòng thương xót và biết đường lên Trời. Xin giúp chúng con biết thương xót như Chúa Cha nhân từ, dám sống “khác người” và chia sẻ mọi sự với tha nhân. Xin Thánh Mẫu Thiên Chúa giúp chúng con biết tuân phục và tín thác tuyệt đối vào Thiên Chúa. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.

 

26. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng

ÐƯỢC DIỄM PHÚC VÌ BIẾT CỘNG TÁC VỚI THIÊN CHÚA

Quan niệm thông thường ở đời, người có phúc là người có nhiều tiền, có nhiều của cải, được nhiều người thương mến và kính trọng…Dầu vậy, những điều phúc này có giới hạn và có thời gian của nó. Vì những điều phúc này chỉ với cái nhìn của con người.

Cùng với Giáo Hội chúng ta bước sang Chúa nhật cuối cùng của Mùa vọng năm nay. Lời Chúa trong Tin mừng hôm nay giới thiệu cho chúng ta một mẫu người có phúc theo cái nhìn của Thiên Chúa – cái nhìn của đức tin.”Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.” (Lc 1, 45). Ðây là lời chào của Bà Isave với Ðức Maria. Chắc chắn, nhờ sự soi sáng của Chúa Thánh Thần nên Bà Isave mới thốt lên được lời chào đầy ý nghĩa đức tin này.

Ðức Maria là người giữ vai trò quan trọng không thể thiếu được trong lịch sử cứu độ. Bởi Mẹ đã hết lòng quảng đại trong tin tưởng để cộng tác với Thiên Chúa trong việc đem ơn cứu độ đến cho toàn thể nhân loại. Do đó, Mẹ quả thật là người diễm phúc không chỉ giữa những người phụ nữ và giữa hết mọi người.

Thiên Chúa có dư khả năng để cứu độ con người nhưng Người không bao giờ thực hiện một mình. Ngài luôn cần có sự cộng tác của con người. Dù rằng sự cộng tác ấy rất nhỏ nhoi chẳng mấy xứng đáng. Cho nên Thánh Augustino đã nói một câu bất hủ: “Ðể sinh ra con thì Chúa không cần hỏi ý kiến của con. Nhưng để cứu độ con Chúa cần phải hỏi ý kiến của con”

Không còn bao lâu nữa cùng với toàn thể Giáo Hội chúng ta mừng Ðại Lễ Giáng Sinh – tưởng niệm việc Con Thiên Chúa xuống thế làm người đem ơn cứu chuộc đến cho nhân loại. Nhờ sự cộng tác tích cực của Ðức Maria mà Con Thiên Chúa đã được sinh ra. Mỗi người chúng ta cũng được kêu mời cộng tác với Thiên Chúa để Hài Nhi Giêsu được sinh ra trong lòng mình cũng như trong gia đình và trong họ đạo chúng ta. Có Chúa Giêsu ở trong và ở với ta thì điều phúc ấy mới bền vững và chắc chắn.

 

27. Đức Mẹ thăm viếng bà Isave

(Suy niệm của Lm. Alfonso)

Tin Mừng Lc 1:39-45 “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc! Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm tôi?”

Đặt chân tới Hà Nội, chúng ta nghe câu quen thuộc: “Đến Hà Nội không vội được đâu”, đó là văn hóa điềm đạm, từ tốn từ trong cách nói năng, trong từng cử chỉ của người miền Bắc Việt Nam.

Thế nhưng, đoạn Tin Mừng hôm nay thuật lại tâm thế nhanh nhảu đến cử chỉ “vội vã” của Đức Maria, một thiếu nữ miền quê Nazaréth phương bắc Israel khi đón nhận Tin Mừng. Vị Sứ thần của Chúa vừa loan báo Tin vui rằng Đức Maria sẽ cưu mang Đấng Cứu Thế, và gia đình Isave người chị họ vừa hiếm muộn lại cao niên, ở cách xa cả 150 cây số, nay cũng chuẩn bị sanh một em bé là Gioan sẽ đi mở đường cho Đấng Cứu Thế. Nghe tin ấy xong, Maria thu xếp lên đường ngay đến giúp người chị họ trong thời kỳ sanh nở. Đây không đơn thuần là một sự di chuyển về địa lý nhưng là một dấu chỉ. Lời Chúa đã thúc đẩy thôn nữ Maria không chút trì hoãn lên đường dẫu cho chặng đường xa xôi, việc đi bộ cực kỳ khó khăn, đường đi một mình cũng không ngăn bước chân người thi hành sứ vụ loan báo Tin Vui.

Là một y sĩ, thánh sử Luca đã lưu ý đến chi tiết “vừa nghe tiếng Maria chào, thì đứa con trong bụng bà Isave nhảy lên vui sướng”. Bất cứ phụ nữ nào đã làm mẹ cũng đều có giây phút khó quên, khi thai nhi biểu hiện dấu hiệu đầu tiên về sự hiện diện của mình bằng cách cựa quậy. Nhưng chúng ta cũng đừng giải thiêng việc đó đơn thuần là một hiện tượng sinh học. Nhớ lại lời Kinh Thánh đoạn sách tiên tri Giêrêmia: “Có lời Đức Chúa phán với tôi rằng ‘Trước khi cho ngươi hành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi; trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hoá ngươi, Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân’.” (Gr 1,5). Vâng, Chúa cũng đã thánh hóa để con trẻ Gioan bắt đầu vai trò của mình là tiên tri và nhân chứng cho Chúa Giêsu Kitô ngay từ lúc còn trong bụng mẹ.

Với lời ca ngợi Đức Maria: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc! Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm tôi?”, bà Isave đã gián tiếp ngợi khen kỳ công của Thiên Chúa cùng những hoạch định của Ngài khi chuẩn bị cho Con Chúa ra đời. Thiên Chúa đã chọn cung lòng một người nữ và thánh hóa để Đức Maria có thể đảm đương vai trò làm mẹ Đấng Cứu Thế. Đức Maria còn có phúc hơn nữa vì đã tin Chúa thực hiện được mọi sự. Vậy chuyện Đức Maria cưu mang Con Thiên Chúa mà vẫn đồng trinh do bởi không phải từ một nam nhân mà do từ quyền phép Chúa Thánh Thần ban xuống là chuyện khả dĩ. Đương nhiên với quyền năng của Chúa thì Ngài làm được mọi sự.

Thiên Chúa là Đấng Toàn năng và chỉ có Thiên Chúa mới là Đấng ban ơn Cứu chuộc. Dẫu vậy, Ngài vẫn để chỗ cho con người tự do cộng tác phần mình vào để sinh ơn cứu chuộc cho chính mình và cho mọi người. Với Đức Maria, đó là thái độ sẵn sàng để Chúa hoạt động nơi mình; với con trẻ Gioan, đó là việc mừng vui khi được Đức Maria đem Chúa đến viếng thăm; với bà Isave, đó là ánh mắt nhận ra những ơn phúc Chúa không ngừng ban cho con người, và chính Ngài cũng đang hiện diện giữa họ. Họ là những người đã mở lòng mình ra để đón Chúa.

Chúng ta đang sống trong những ngày cuối cùng của Mùa Vọng 2018. Thánh sử Luca đã giúp chúng ta đã đi ngược dòng thời gian. Vào Chúa nhật thứ I Mùa Vọng, ngài mời gọi chúng ta “ngẩng đầu lên” vì Chúa Kitô vinh quang đang “ngự đến” trên đám mây trời vào ngày Cánh Chung. Chúa nhật thứ II và III Mùa Vọng, thánh sử cho chúng ta quay lại thời gian cách đây 2000 năm về trước, vào thời rao giảng của Gioan Tẩy giả, chuẩn bị cho sứ vụ công khai của Đức Giêsu Kitô Nazaréth. Và hôm nay, Chúa nhật thứ IV, chúng ta mời đi ngược lên 30 năm nữa, tới thời mà Chúa Giêsu mới chỉ là một phôi thai trong lòng Đức trinh nữ Maria để cảm nghiệm Tin Vui của Chúa đến cho nhân trần như lời Chúa hứa với tổ tiên con người.

Đến lượt mỗi chúng ta cũng được mời gọi nhìn nhận ơn Chúa và cộng tác phần mình để ơn cứu chuộc đến được cho bản thân, đến được các thành viên trong gia đình, như Đức Maria đem Tin Mừng trước tiên đến cho người bà con, rồi mới rộng khắp mọi người. Mùa Vọng năm nay đang dần khép lại và sẽ không còn mùa Vọng năm 2018 nào nữa. Vậy chúng ta đã có một quyết tâm nho nhỏ gì cho mình khi sống Mùa Vọng này như là món quà mừng sinh nhật Chúa? Nhanh kẻo muộn, muộn còn hơn không!

Còn ít ngày nữa là tới lễ Chúa Giáng Sinh. Đường phố nhộn nhịp, nhất là các cửa hiệu tưng bừng khuyến mãi, các gian hàng trang trí cho có không khí Noël thực ra là đua nhau quảng cáo mà chẳng biết chuẩn bị mừng lễ ai giáng sinh. Và lắm khi người đông dạo phố cũng chẳng quan tâm ý nghĩa của ngày trọng đại mà chỉ xem như là một dịp lễ hội cuối năm. Còn chúng ta, những Kitô hữu, hãy dành ít phút thinh lặng nội tâm, để cùng với Đức Maria suy niệm mầu nhiệm Ngôi Hai xuống thế làm người, và nhìn lại xem mình đã chuẩn bị tâm hồn mình thế nào để đón Chúa. Tâm thế của người đang hăm hở đợi chờ một người sẽ làm cho niềm vui vỡ òa khi gặp được người đó; niềm vui của người đón chờ Chúa nhận ra đó là một tin quan trọng và tốt lành mà người đó đang mong đợi Chúa đến xóa tội trần gian, thì họ sẽ nên háo hức, nhanh nhảu chia sẻ để niềm vui được nhân đôi.

Lạy Chúa, xin cho con đừng mải mê chuẩn bị bên ngoài mua sắm đón lễ Noel mà thôi mà còn chuẩn bị tâm hồn mình đơn sơ, chân thành và sẵn sàng mở rộng lòng mình làm thành máng cỏ cho Chúa ngự vào đêm Giáng sinh. Amen.

 

28. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng

ĐỨC MARIA GƯƠNG MẪU CỦA NIỀM TIN

Mẹ Têrêsa Calcutta kể lại: Một hôm Mẹ đến thăm một nhà thương Anh Quốc rất tối tân, khung cảnh và các phòng ốc của nhà thương khang trang sáng sủa, trang bị đủ mọi thứ máy móc cùng tiện nghi vô cùng tối tân, tương xứng với số tiền phải trả. Ngoài ra các y tá và nhân viên làm việc trong nhà thương đều nhã nhặn, nhưng Mẹ nhận thấy một điều kỳ lạ và hỏi vị bác sĩ trưởng đang hướng dẫn Mẹ đi thăm nhà thương:

– Thưa bác sĩ, tại sao các người bệnh nhân cứ mỗi lần thấy ai vào là họ cùng đồng loạt quay nhìn về phía cửa vậy?

Câu trả lời của viên y sĩ giám đốc nhà thương rất đơn sơ nhưng thoáng vẻ buồn:

– Dạ thưa, là vì họ luôn luôn chờ đợi một ai đó trong số bà con thân thuộc đến thăm họ nhưng chẳng có ai đến thăm họ bao giờ.

Ngay từ thời khai sinh, Giáo hội đã luôn luôn khuyến khích tín hữu viếng thăm những người già cả, bệnh tật, ốm yếu, các tù nhân, người nghèo khó và tất cả những ai cần sự trợ giúp, an ủi và nâng đỡ, nghĩa là Giáo hội thôi thúc tín hữu thực thi Tin Mừng yêu thương của Chúa Giêsu và nhìn ra gương mặt của Ngài nơi các anh chị em đau khổ và bị bỏ rơi.

Các bài đọc trong Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta suy tư về con đường nghèo khó, tầm thương và bé nhỏ mà Thiên Chúa đã dùng để đến với nhân loại và các hệ lụy của sự lựa chọn ấy. Chương (5,1-4) sách ngôn sứ Malakia là một lời sấm thuộc loại lời sấm cứu thế, được thánh sử Matthêu nhắc lại trong bài Tin Mừng hôm nay.

Sở dĩ Jérusalem đã không chu toàn sứ mệnh này vì các tội lỗi và bất trung nó đã vấp phạm, khiến cho nó không có khả năng thực hiện nhiệm vụ ấy. Do đó, Thiên Chúa đã chọn một nơi khác xa xôi, bé nhỏ và hẻo lánh không ai ngờ tới. Đó là làng quê Bethlem, trước đây gọi là Ephata. Đấng Cứu Thế và dòng tộc của Ngài sẽ bắt nguồn từ đó chứ không phải tại thủ đô Jérusalem hay là một thành phố lớn ở Bethlem. Thiên Chúa chọn gia đình ông Jessé, cha của David và là ông tổ của thánh Joseph bạn với Đức Trinh Nữ Maria, Người được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế.

Như thế, Chúa Giêsu Kitô xuất hiện trong dòng lịch sử nhân loại tại làng quê bé nhỏ. Bethlem này cách xa khung cảnh huy hoàng vĩ đại của các thành phố lớn thuộc các đế quốc vùng Trung Đông. Ngài đã bước vào gia đình nhân loại như một trẻ thơ bé bỏng yếu đuối, trong một gia đình thường dân khác.

Tuy nhiên trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa không có gì là tình cờ cả, các lựa chọn ngược đời ấy của Thiên Chúa như: làng quê Bethlem, cuộc sống khiêm tốn, điều kiện lúc bé bỏng, sự mỏng dòn yếu đuối của con người đều tham dự vào sự cao cả và quyền năng vô cùng của Thiên Chúa, bởi vì Đấng xuất thân từ đó sẽ thống trị mọi dân nước và cai trị với chính uy quyền của Thiên Chúa toàn năng và sẽ đem lại an bình cho nhân loại. Kiểu cách lựa chọn ngược đời và các nẻo đường lạ lùng Thiên Chúa dùng để thực hiện chương trình cứu độ lại càng nổi bật hơn trong trình thuật Tin Mừng theo thánh Luca (Lc 1,39-48).

Maria một thiếu nữ vô danh, con của một gia đình làng quê Nazareth được Thiên Chúa lựa chọn làm người cưu mang Đấng Cứu Thế, Con của Ngài. Phước lành Thiên Chúa ban cho toàn thể nhân loại. Trong dòng lịch sử thế giới và lịch sử nhân loại, Thiên Chúa đã ban cho con người không biết bao nhiêu là phước lành, nhưng phước lành cao quí và trọng đại nhất là Ngài đã ban chính Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế cho nhân loại.

Lời chào của bà Elizabeth khi thấy Trinh Nữ Maria đến thăm mình và lời kinh chúc tụng của Trinh Nữ Maria đều khen đến cách thế Thiên Chúa lựa chọn con đường dẫn Ngài đến cuộc gặp gỡ cứu độ loài người. Con đường bé nhỏ nghèo nàn, khiêm tốn và kín nhiệm. Nhiều người không chịu được ý tưởng Con Thiên Chúa phải nhập thể làm người trong lòng một phụ nữ, và mở mắt chào đời từ cung lòng của một bà mẹ. Do đó, câu chào của bà Elizabeth: “Em ơi, Em thật có phúc hơn mọi người phụ nữ và Giêsu con em được chúc phúc” khiến cho họ khó chịu.

Nhưng đây là một sự thật, một sự thật lịch sử minh chứng cho thấy tất cả cái nghiêm trọng của biến cố Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa đã nhập thể làm người và sinh ra từ cung lòng của một người đàn bà trong gia đình nhân loại. Hoa trái tuyệt diệu ấy, Người Con ấy đã do hoạt động và quyền năng của Chúa Thánh Thần nên đã được cưu mang trong cung lòng của Trinh Nữ Maria.

Nhưng cũng như bất cứ bào thai nào khác, con người được sinh ra trên trần gian đều gắn liền với thịt xác, máu huyết của bà mẹ. Và để nhập thể làm người, Con Thiên Chúa đã cần đến cung lòng của một bà mẹ. Trinh Nữ Maria đã không tiếp nhận Ngôi Lời trong linh hồn mình. mà đã tiếp nhận Ngài trong chính thân xác mình, trong chính cung lòng của mình. Và Chúa Giêsu hoa trái tuyệt diệu của ơn cứu rỗi ấy đã trở thành một bào thai, nhận chịu mọi luật lệ tâm sinh vật lý của một bào thai. Thân hình, lớn lên, phát triển trong thời gian, giãy dụa đợi chờ trong lòng Mẹ, được Mẹ nuôi nấng bằng chính máu huyết của Bà như bất cứ một thai nhi nào khác. Sự kiện Con Thiên Chúa nhập thể làm người lớn lên từ từ ấy tỏ hiện rõ ràng qua hình ảnh cụ thể tròn trịa của bụng mẹ mình ngày càng lớn lên trong thời gian.

Hoa trái gợi lên trong tâm trí chúng ta hình ảnh thực phẩm để hưởng nếm, để ăn, bồi bổ và nuôi sống. Hoa trái phát sinh từ sự sống và diễn tả sự sống, nó có nhiệm vụ dưỡng nuôi sự sống và không thể có sự sống mà không có hoa trái.

Sự kiện Chúa Giêsu là hoa trái, là bào thai, là sự sống lớn lên trong cung lòng Mẹ Maria, chứng minh Thiên Chúa không phải là một lý thuyết, một tư tưởng hay một giả thuyết. Thiên Chúa cũng không phải là một luận lý mà Ngài là một hoa trái Thiên Chúa ban để dưỡng nuôi, để cứu thế giới này khỏi chết đói. Mẹ Maria đã không nói nhiều mà chỉ im lặng sống cuộc đời bé nhỏ, thầm lặng, ẩn dật, cưu mang Chúa Giêsu trong lòng rồi hiến dâng Ngài cho chúng ta. Sự phong phú không cần lời, ánh sáng không cần lời nói và sự sống với hơi thở và nhịp đập của con tim chính là sứ điệp. Khi tâm hồn càng trống rỗng khô cằn bao nhiêu thì con người càng nhiều người và gây nhiều tiếng động bấy nhiêu.

Kitô hữu là người mang Chúa Kitô trong tâm hồn, nhưng chúng ta chỉ có thể cưu mang Chúa Kitô phong chức và hữu hiệu như Mẹ Maria khi chúng ta biết sống khiêm tốn bé nhỏ, yêu thích chọn lựa con đường và kiểu cách sống bé nhỏ của Thiên Chúa như một tôi tớ, như người khiêm hạ. Kiểu cách chọn lựa con đường gặp gỡ và cứu rỗi nhân loại trên đây cũng được nêu bật trong thư gởi giáo đoàn Do Thái hay diễn từ về chức linh mục của Chúa Giêsu.

Biến cố Chúa Giêsu Con Thiên Chúa Nhập Thể làm người là một biến cố trọng yếu và là trung tâm điểm của lịch sử cứu độ, bởi vì nó mở cửa ra một kỷ nguyên mới, nó vượt xa quan niệm cũ của Do Thái giáo để liên hệ giữa Thiên Chúa và thế giới, giữa con người và Thiên Chúa. Do Thái giáo đóng khung các liên hệ này trong đền thánh, trong việc dâng cúng các lễ vật và tuân giữ luật lệ, mặc dầu các sinh hoạt này đã có nhiệm vụ và vai trò rất ít quan trọng trong lịch sử cuộc sống tinh thần của dân tộc Israel, Chúa cũng không thể trao ban ơn cứu độ cho con người. Nếu muốn được ơn cứu độ, con người phải tìm trở về với chương trình mà Thiên Chúa đã có đối với nó ngay từ thời tạo dựng, nghĩa là trước khi con người phạm tội.

Cần phải nhận biết Thiên Chúa và thánh ý Ngài, và lấy đó làm trung tâm lịch sử đời mình và lịch sử cứu rỗi. Cần phải qui hướng cuộc sống của mình theo chương trình và ý muốn của Thiên Chúa và hoán cải trở về với Ngài. Thái độ sống này đòi buộc chúng ta không được tách khỏi cuộc sống lòng tin ra khỏi các sinh hoạt thường ngày. Bởi vì chúng ta không chỉ là Kitô hữu khi cử hành các nghi lễ phụng vụ mà thôi, nhưng là trong suốt ngày sống, trong mọi công việc khác nhau. Tách rời cuộc sống lòng tin khỏi các sinh hoạt và cung cách hành xử thường ngày là chúng ta khước từ việc tin nhận biến cố Nhập Thể của Chúa Giêsu. Bởi vì khi Nhập Thể, Chúa Giêsu chấp nhận qui hướng toàn cuộc sống của Ngài theo thánh ý của Thiên Chúa Cha: “Này Con xin đến để thực thi ý Cha”. Và Chúa Giêsu đã sống mọi giây phút đời mình dưới ánh sáng chương trình của Thiên Chúa. Như vậy, khi biết noi gương Chúa Giêsu sống tinh thần nhập thể trọn vẹn ấy, là chúng ta đón nhận sứ điệp Giáng Sinh đúng đắn và trọn vẹn nhất vậy.

 

29. Bởi đâu tôi được thế này?

(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)

Câu chuyện trong đoạn Tin Mừng hôm nay tường thuật việc Đức Maria đi thăm người chị họ của mình là bà Êlisabet để chia vui với chị, vì nghe biết chị được một hồng ân quý báu là có con trong lúc tuổi già. Đối với người Do Thái, có chồng mà không có con là dấu hiệu bị Thiên Chúa ruồng bỏ. Bà Êlisabet là một người đạo đức không ai trách được, nhưng lại không được vinh dự sinh con, Thiên Chúa có ruồng bỏ bà không? Như mẹ của tiên tri Samuen, bà khóc đêm khóc ngày vì bà không có con. Dù được chồng cưng chiều, nhưng không ai làm cho bà nguôi nỗi buồn ray rứt bà. Bà đã cầu khẩn ngày đêm, và một ngày kia, khi bà cầu nguyện ở Đền thờ, Chúa cho bà được toại nguyện và đứa con bà sinh ra sau này, đã trở thành vị tiên tri của Chúa đó là Samuen.

Bà Êlisabet cũng vậy. Chắc bà đã khẩn cầu suốt năm này qua năm kia, nhưng đến giờ của Chúa, Chúa đã cho bà một đứa con trai. Niềm vui của bà đã được trọn vẹn. Chương trình của Chúa luôn bất ngờ. Đứa con lạ lùng kia đã trở nên người dọn đường cho Chúa, “hơn cả tiên tri”.

Thánh Luca đã vẽ lên một bức tranh đầy ánh sáng và niềm vui. Niềm vui đó đến từ một nguồn duy nhất là Thánh Thần.

Maria vội vã lên đường đi thăm người chị họ. Tại sao lại vội vã như thế? Vì niềm vui đang trào dâng trong tâm hồn Mẹ, niềm vui cảm tạ cho người chị họ lâu năm son sẻ. Chúa đã cất đi sự nhục nhã của bà. Cuộc gặp gỡ giữa hai bà mẹ mang một ý nghĩa rất sâu đậm.

Bà Êlisabet, khi nghe Maria chào đã lớn tiếng reo mừng: “Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm?” Thánh Luca chú thích, bà được đầy tràn Thánh Thần. Chúng ta cần ghi nhận rõ điều này.

Chính Thánh Thần đã mang lại niềm vui cứu độ. Cuộc gặp gỡ giữa hai bà mẹ này là khởi điểm của niềm vui cứu độ. Gioan trong bụng mẹ là người đầu tiên được hưởng niềm vui đó: “Vừa nghe lời em chào, đứa bé trong bụng đã nhảy mừng vui sướng”.

Cuộc gặp gỡ tràn ngập niềm vui, không phải niềm vui ào ạt ồn ào của thế gian, mà là một niềm vui từ con tim âm thầm sâu lắng.

Niềm vui trần thế của chúng ta mong manh, ngắn ngủi. Có những niềm vui chấm dứt để lại dư vị đắng cay, nặng nề, những nuối tiếc vu vơ, nhạt nhẽo.

Chỉ có trong Thánh Thần, niềm vui của chúng ta mới trọn vẹn.

Bà Êlisasbet đã nhận được niềm vui đó, một niềm vui nhẹ nhàng thanh thoát và bền vững. Gioan trong lòng mẹ đã nhảy mừng… trong Thánh Thần, và theo truyền thống xa xưa của Giáo hội, Gioan đã được khỏi vết nhơ nguyên tội. Gioan, trong dạ mẹ đã diễn tả niềm vui của mình bằng ngôn ngữ riêng của thai nhi.

Niềm vui của Mẹ Maria âm thầm nhưng sâu đậm. Niềm vui của Mẹ toát ra từ một quả tim đầy yêu thương và khiêm tốn. Mẹ không nghĩ rằng Mẹ là Mẹ Thiên Chúa mà chỉ biết thân phận mình là nữ tỳ khiêm hạ của Chúa thôi: “Tôi là nữ tỳ của Thiên Chúa, xin Chúa cứ thực hiện nơi tôi những gì Ngài muốn”.

Hãy cầu xin cho niềm vui cứu độ Chúa mang đến ngập tràn tâm hồn chúng ta, để chúng ta vội vã lên miền núi của tình thương, đến với những người đang cần đến, đảm nhiệm nỗi đau và những khó khăn của họ.

  • Để chúng ta sống mãi trong tâm tình biết ơn và phó thác,
  • Để chúng ta dám hiên ngang loan báo trong hân hoan, những hồng ân của Chúa cho tất cả những tâm hồn thiện chí và cả những người không còn muốn nghe tin vui cứu độ,
  • Để như Mẹ, chúng ta vững tin vào tình yêu và những lời Chúa hứa,
  • Để chúng ta sẵn sàng vâng nghe lời Chúa, cho Nước Tình Yêu Chúa càng lan rộng trong thế giới u ám hận thù của thời đại hôm nay.

Thiên Chúa đang tìm kiếm những tâm hồn thành thật, sẵn sàng lên đường loan truyền tin vui cứu độ. Chúng ta hãy là những người luôn nói “xin vâng”.

Thế giới hôm nay vẫn luôn là một thách đố cho những người thành tín. Chúng ta bị bao vây tư bề bởi bao nhiêu vấn đề… không lúc nào ngơi, nhưng tiếng nói yêu thương của Chúa vẫn luôn vang dội: Thiên Chúa yêu thương con người đến nỗi ban Con Một mình cho nhân loại.

Ngài sắp đến. Ngài đến như mọi người chúng ta, qua một người phụ nữ. Ngài cắm lều giữa chúng ta. Ngài là Thiên Chúa Tình Yêu, là Thiên Chúa Cứu Độ chứ không là một nhà độc tài, tàn ác. Ngài đến mang thân phận nhỏ bé và tay không, tự trao mình cho loài người hung ác.

Hãy đón tiếp Ngài bằng tình yêu nhỏ hèn và khiêm tốn.

Qua tiếng nói của bà Êlisabet, chúng ta hãy cùng Mẹ Maria tạ ơn Chúa và đón tiếp Con của Chúa Cha vừa trao ban cho Mẹ. Đó là quà tặng vô giá mà chúng ta vừa lãnh nhận qua Mẹ Maria. Hãy chuẩn bị tâm hồn thật chu đáo để hồng ân tuyệt vời này mang lại hiệu quả dồi dào cho chúng ta và cho mọi người.

Này Ngài đến, nhỏ bé hơn bao giờ hết. Hôm nay, Ngài nhỏ bé nhưng Ngài vẫn là Con Thiên Chúa. Ngài đến như một hồng ân cho nhân loại, nhưng có mấy người biết đón tiếp Ngài? Có bao nhiêu người nhận ra được Ngài là nguồn phúc bất tận cho mọi người? Chúng ta có phúc, vì như Mẹ Maria, chúng ta đã tin, chúng ta tin vào tình yêu luôn tràn đầy của Thiên Chúa, chúng ta tin rằng những gì Chúa hứa từ xa xưa sẽ được thực hiện.

Này Chúa đến. Không bao lâu nữa, hãy cùng với Mẹ đón tiếp Ngài với tất cả lòng mến yêu chân thành. Ngài nhỏ bé hơn hết, nhưng lại cao cả hơn hết. Ngài cao cả trong sự tự hiến của Ngài, nuôi dưỡng mọi người và giúp mọi người tiến xa vào quên mình và yêu thương.

Chúng ta hãy vui mừng đón tiếp Ngài qua hình thức tấm bánh và từ từ tự biến mình thành tấm bánh bẻ ra cho muôn người.

 

30. Mẹ Maria vội vã lên đường

(Suy niệm của AM. Trần Bình An)

Vào thời Cha thánh Piô thành Pietrelcina (1887-1969) còn sống, một thanh niên Mỹ đến gặp Cha. Đó là anh William Martin, tục danh là Bill, sau này trở thành tu sĩ Cappuccino với tên dòng là Giuseppe Pio. Lúc ấy là 2 giờ chiều. Anh đứng nơi hành lang với Cha Piô chờ đợi tháp tùng Cha xuống Phòng Thánh, để Cha ngồi tòa giải tội cho các tín hữu Công Giáo, tuốn đến từ khắp muôn phương.

Cha Piô giữ thinh lặng đắm chìm trong suy tư chiêm ngắm và không hề bị khuấy động bởi những gì diễn ra chung quanh. Anh Bill cũng thế.. Anh trầm lắng trong ý nghĩ riêng tư. Hay nói đúng hơn, anh đang hồi tưởng những chặng đường trải qua.

Năm ấy anh Bill từ Brooklyn của thành phố New York bên Hoa Kỳ, đến Ý để học về nghệ thuật diễn xuất trữ-tình-ca. Một hôm anh có dịp đến thành phố San Giovanni Rotondo và trọ nơi đan viện các tu sĩ Cappuccini. Đây là tu viện Cha thánh Piô đang sống. Theo chương trình anh Bill sẽ dừng lại tu viện trong vài ngày. Nào ngờ khuôn mặt thánh thiện dịu hiền của vị tu sĩ Cappuccinô mang tên Piô, lôi cuốn quyến rũ anh. Từ đó anh thường xuyên ghé tu viện. Rồi nhận thấy các tu sĩ Cappuccini người Ý phải khó nhọc, bận rộn với các thư từ tới tấp, đến từ năm châu bốn biển, với đủ mọi ngôn ngữ khác nhau, anh Bill ra tay phụ giúp. Anh phụ trách các thư từ viết bằng Anh ngữ.

Trong bầu khí đượm đầy tính chất thiêng liêng, anh Bill bắt đầu hướng đến siêu việt. Anh không còn cảm thấy thu hút bởi việc học hành, đến độ quên mất mục đích, tại sao anh có mặt trên đất Ý. Anh xin Cha phụ trách nhà trọ cho phép anh tham dự vào các sinh hoạt của tu viện, để có chút kinh nghiệm về cuộc sống tu trì. Sau vài tháng sống thử, các Bề Trên chấp nhận anh vào số các tập tu và anh khoác áo tu sinh. Chính trong chiếc áo tu sinh, mà hôm ấy anh Bill đứng cạnh Cha thánh Piô. Trong thinh lặng, anh hồi tưởng chặng đường đưa anh đến cuộc thay đổi hôm nay. Anh nhớ lại lời Linh Mục Giải Tội, Cha Clemente thành Postiglione, nói với anh trong lần gặp vừa qua: “Sau ơn thánh bí tích Rửa Tội thì Ơn Gọi vào đời sống thánh hiến là Ơn Thánh cao cả nhất mà THIÊN CHÚA ban cho một thọ sinh.” Anh thắc mắc tự nhủ: “Vậy ai đã có thể cầu bầu cùng Chúa ban cho mình Ơn Gọi trọng đại dường này?”

Tâm trí anh muốn tìm kiếm vị ân nhân để có thể nói lời tri ân. Phải chăng là Đức Nữ Trinh Rất Thánh MARIA? Bởi vì Ông Ngoại, ngay khi anh còn bé, đã giao phó anh cho các Nữ Tu Kín của Đan Viện gần nhà anh, để Các Chị cầu nguyện cho anh. Hay là Cha Piô đứng cạnh anh đây, chính Cha cầu nguyện cho nét lôi cuốn của Cha nơi anh trở thành hiện thực? Vừa khi anh William Martin nghĩ như thế, tức khắc anh thấy Cha Piô ngừng ngay việc lần hạt Mân Côi và quay sang anh. Cha nhìn anh và chỉ nói vỏn vẹn: “Đức Bà!”

Với câu nói này, Cha Piô muốn khẳng định với anh Bill hai điều chắc chắn. Thứ nhất, Cha được Chúa Thánh Linh ban ánh sáng để có thể đọc những điều kín ẩn, trong nội tâm của những anh chị em, đang sống chung quanh Cha. Thứ hai, Cha muốn xác quyết rằng: “Chính Đức Nữ Trinh Rất Thánh MARIA là Đấng Trung Gian ân thánh!” (Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt,” Il Settimanale di Padre Pio”)

Chúa Thánh Linh đã soi sáng cho Cha thánh Piô biết chính Đức Mẹ Maria đã chủ động đến với William Martin, dẫn chàng can đảm bỏ lại mọi sự thế gian, tiến lên dâng hiến cuộc đời cho Chúa. Hôm nay Chúa nhật 4 Mùa Vọng, Tin Mừng tường thuật Mẹ Maria cũng chủ động đến thăm bà Isave. Cả hai người đều tràn đầy ơn Chúa Thánh Linh trong niềm vui mừng và hy vọng.

Ra đi

Chúa Thánh Linh đã ngự xuống Mẹ Maria, hướng dẫn cuộc đời Mẹ dấn thân vào việc Đồng Công Cứu Chuộc của Thiên Chúa. Mẹ không còn sống ẩn mình bình lặng, êm ả, nương thân kín đáo chốn quê quen thuộc, mà hăng hái cất bước, ra đi theo tiếng gọi.

“Maria chỗi dậy, vội vã ra đi tiến lên miền núi, đến một thành xứ Giuđêa. Bà vào nhà ông Dacaria và chào bà Isave.“ Với Chúa Thánh Linh, Mẹ chỗi dậy thoát ra khỏi nếp sinh hoạt thường nhật bình dị trong gia đình, thoát khỏi những ràng buộc vật chất lẫn tinh thần, mà can đảm đổi mới cuộc đời. Mẹ sẵn sàng bước vào cuộc phiêu lưu tràn đầy hy vọng, nhưng lắm chông gai, thử thách và đau khổ, mà sau này ông Simeôn, người công chính tràn đầy Chúa Thánh Linh, đã tiên báo: “Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà.” ( Lc 2, 35)

Ra đi còn là từ bỏ mình, bỏ lại tiện nghi, nhu cầu, ham muốn, đam mê, cũng như ý riêng, để vâng theo Thánh Ý Chúa, hiến dâng toàn thể thân xác và tâm hồn cho Chúa và cho tha nhân. Đến với bà chị họ xa lắc xa lơ, năm thì mười hoạ mới gặp, chẳng phải dễ dàng và đơn giản. Mẹ chẳng quản ngại đường xá xa xôi, cách trở, nguy cơ bắt cóc, cướp bóc, khủng bố, chết chóc. Mẹ vẫn cứ vội vã ra đi, không hề do dự, không cân nhắc, cũng chẳng cần trang bị thiệt bị, nai nịt tận răng như lính đặc nhiệm, vì Mẹ được tràn đầy Chúa Thánh Linh, còn lo lắng chi. “Vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi, Người đã đoái thương nhìn tới phận nữ tỳ hèn mọn.” ( Lc 1, 47-48)

Phó thác hoàn toàn, một mình Mẹ cấp tốc lên đường khi nghe sứ thần Gabriel báo tin vui bà chị Isave mang thai được sáu tháng. Con đường từ Nazareth đến nhà bà Isave ở Ain Carim, gần Giêrusalem, khoảng 150 cây số vời vợi không làm Mẹ chùn chân.

“Đi, đi, đi mãi, đi quyết liệt, đi không nhượng bộ, cũng như không ai đi với người lui. Không nhược bộ cho xác thịt. Không nhượng bộ cho lười biếng. Không nhượng bộ cho ích kỷ.” ( Đường Hy Vọng, số 12 &13)

Phục vụ

Mẹ ra đi chẳng phải để tìm kiếm lợi danh, hay công bố, khoe khoang, kiêu hãnh được hồng ân làm Mẹ Thiên Chúa, mà để âm thầm, yêu thương phục vụ, phản ảnh sứ vụ phục vụ cao cả của Con Mẹ, đang được Mẹ cưu mang. Mẹ đã thực hiện trung thành Lời Chúa: “Ta đến không phải để được phục vụ nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người.” ( Mt 20, 28)

Phục vụ quan trọng nhất là đem Chúa đến tha nhân, chia sẻ với người khác hồng ân Chúa Thánh Linh. “Và khi bà Isave nghe lời chào của Maria, thì hài nhi nhảy mừng trong lòng bà, và bà Isave được đầy Chúa Thánh Thần.” Mẹ Maria đem Đức Giêsu đến thăm mẹ con ông Gioan Tiền Hô, khiến hài nhi Gioan vui sướng mừng rỡ và bà Isave được thánh hoá, hân hoan tràn đầy Chúa Thánh Linh.

“Chúng ta cũng phải bắt chước Mẹ Maria như thế, nếu chúng ta muốn trở nên một cộng sự viên thực sự của Chúa Giêsu. Chúng ta phải đón nhận Chúa Giêsu, chúng ta phải đón nhận tình yêu thương và sự thiện hảo của Ngài, và lòng chúng ta phải cháy lên một sự khao khát, muốn đem Chúa Giêsu trao ban cho người khác.” ( Lm Phêrô Trần Công Thuận dịch, Tâm hồn tràn ngập niềm vui, José Luis Gonzales Balado, Mother Teresa)

Từ tấm gương Đức Mẹ Maria ra đi phục vụ, đem Chúa đến tha nhân, cũng như dẫn dắt, mời gọi tha nhân trở về với Chúa. “Đức Giáo Hoàng Phanxicô có khái niệm chủ yếu một Giáo hội “đi ra”, một Giáo hội làm “sứ mệnh” phải tập trung vào sứ điệp chính yếu của Phúc Âm, và đây phải là cánh đồng để chiến đấu. Đó là ý nghĩa của Năm Lòng Thương Xót mà Đức Phanxicô khai mạc ở Rôma ngày 8 tháng 12-2015, ngài nhắm rõ ràng, đối với giáo hữu là sự trở lại với Chúa Kitô, đối với những ai chưa biết Chúa Kitô, thì phải có “lòng thương xót”. (Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch, Theo Đức Phanxicô Giáo hội đã nói quá nhiều về đạo đức, Jean-Marie Guénois, lefigaro.fr)

Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết chỗi dậy mỗi ngày, rũ bỏ những cám dỗ xác thịt, thế gian, luôn tỉnh thức ăn năn, sám hối, canh tân, đổi mới, để sẵn sàng chào đón Chúa ngự đến, như bà Isave đã chuẩn bị tâm hồn trong sạch, để long trọng tiếp rước Mẹ Maria và Con Mẹ đến thăm viếng.

Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ luôn nhắc nhủ chúng con noi theo Mẹ, biết khiêm nhường, sẵn sàng “Xin Vâng”, chân thành đón rước Chúa và đưa Chúa đến với tha nhân. Amen.

 

31. Cuộc hạnh ngộ

(Suy niệm của AM Trần Bình An)

Cha Jerome Pattyn mới hơn 70 tuổi, nhưng vì sức khỏe yếu kém, Cha xin về hưu sớm. Từ đó Cha dâng hiến cuộc đời còn lại để thăm viếng các bệnh nhân ở nhà thương Stella Maris ở Makassar, Indonesia.

Cha nói: “Tôi thích công tác tông đồ này. Nó giúp tôi cảm thấy hữu ích vì còn làm cái gì đó cho tha nhân. Các người bệnh mong chờ tôi đến an ủi họ. Lời cầu nguyện củng cố Đức Tin và giúp các bệnh nhân sẵn sàng chấp nhận bệnh tật. Lời cầu nguyện còn trao ban sức mạnh và nâng đỡ tâm lý khiến việc chữa trị được hữu hiệu và nhanh chóng.”

Một hôm, Cha Jerome gặp một bệnh nhân Hồi giáo sùng đạo. Anh ta bị ”đứng tim”. Anh để ý thấy người bệnh Công Giáo cùng phòng, được chữa trị ”khẩn trương”, đã mau chóng bình phục, sau khi được Cha Jerome thường xuyên viếng thăm. Cha cầu nguyện và cùng bệnh nhân Công Giáo cầu nguyện chung. Anh Hồi giáo nhờ người mời Cha Jerome đến thăm và cầu nguyện cho mình. Khi Cha Jerome giải thích với anh rằng người bệnh kia là tín hữu Công Giáo, anh nói:

“Không sao hết! Chỉ có một THIÊN CHÚA duy nhất cho hết mọi người: Hồi giáo, Công Giáo và các tôn giáo khác. Tôi nhận thấy THIÊN CHÚA nhậm lời quí vị cầu xin. Vậy xin ngài cũng cầu nguyện cho tôi với, hầu tôi được khỏi bệnh.”Dĩ nhiên, Cha Jerome sốt sắng cầu nguyện cho anh. Và người bệnh Hồi giáo đó được khỏi bệnh thật. Anh hết sức tri ân.

Cha Jerome cho biết chính phong trào Canh Tân trong Thánh Linh gợi ý khiến Cha dành thời giờ thăm viếng bệnh nhân và cầu nguyện cho họ. Mỗi khi đến nhà thương, Cha thân mật bắt tay chào thăm tất cả từ các bác sĩ, y tá đến các nhân viên thiện nguyện và các bệnh nhân. Cha quen biết mọi người và ai ai cũng quý mến Cha. Trung bình mỗi ngày Cha Jerome viếng thăm khoảng 60 bệnh nhân. Vì thế Cha không thể ở lại lâu với từng người, trừ những người đang hấp hối hoặc lâm vào cảnh tuyệt vọng… Quả thật, Cha Jerome Pattyn mang niềm HY VỌNG, lòng TIN TƯỞNG, sự NHẪN NHỤC đến cho các bệnh nhân. Cha thoa dịu đau khổ và gieo rắc NIỀM VUI cho mọi người, không trừ ai. (”Chronica CICM” n.5, Juin/2003, trang 145-148, Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt)

Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Mẹ Maria đi thăm bà Êlisabet, đã có thai được 6 tháng, dù đã cao niên, như bà Xara, vợ ông Abraham.

Vâng Phục và Chia sẻ

Trong cuộc đời, ai cũng đều có nhu cầu được chia sẻ niềm vui, cũng như nỗi buồn. Niềm vui sẽ được nhân lên và nỗi buồn sẽ vơi đi. Như Cha Jerome Pattyn đã ân cần chia sẻ nỗi đau đớn của các bệnh nhân, khiến họ được an ủi, có thể mau mắn vượt qua bạo bệnh.

Mẹ Maria khi hay tin Bà Êlisabet dù đã cao niên mà vẫn được thọ thai, nhờ quyền năng Thiên Chúa, liền vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu đa, để chia vui với bà. (Lc 2, 39). Theo các nhà chú giải, thì nơi đó là một trong mười hạt của miền Giuđê, có thể là A- in Carim, cách Giêrusalem 6km về phía Tây.

Không quản đường xa vất vả, dốc đá cheo leo, nắng nóng nghiệt ngã, nguy hiểm thú dữ, hay cướp bóc rình rập, Mẹ vẫn can đảm và hăng hái dấn thân đi thăm bà Êlisabet, vâng phục theo Thánh Ý Thiên Chúa, qua Sứ thần bày tỏ. Mặt khác, Mẹ bày tỏ lòng khiêm cung, lẫn thái độ kính cẩn, hiếu đễ với bà chị họ cao niên.

Chúc Tụng và Ngợi Khen

Được tràn đầy Thánh Thần khi thụ thai, Mẹ Maria đến thăm chào hỏi bà chị Êlisabet, cùng chia sẻ Thánh Thần: Bà Êlisabet vừa nghe bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được tràn đầy Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng và nói rằng:” Em được chúc phúc hơn mọi người nữ, và người con em cũng được chúc phúc.” (Lc 2, 41-42)

Lời chúc tụng của bà Êlisabet đã trở nên phần đầu Kinh Kính Mừng, ngợi khen Đức Mẹ, mà ngày nay chúng ta vẫn thường lập lại lời chào cao quý, đầy ý nghĩa và sâu sắc đó.

Thánh Gioan Tiền Hô còn đang trong bụng, đã thể hiện vai trò ngôn sứ, bằng cách hân hoan, vui sướng, nhảy lên chào đón Chúa Giêsu, cũng đang còn ẩn mình trong lòng dạ Mẹ Maria. Còn bà Êlisabet tạm thời làm phát ngôn viên thay cho con, là ông Gioan Tiên Hô. Bà thay thế ông Gioan chúc tụng Đức Maria và Chúa Hài Đồng Giêsu

Cảm tạ và Tri Ân

Trong tâm tình cảm tạ và tri ân, bà Êlisabet đã cất tiếng biểu lộ lòng biết ơn vô hạn, khi được diễm phúc Đức Thánh Mẫu và Chúa Giêsu đến chia vui, cùng thăm viếng. Nhờ tràn đầy Thánh Thần, bà Êlisabet mới có thể nhận ra Chúa của mình, đang ở trong cung lòng Đức Thánh Mẫu, Đức Maria Mẹ Thiên Chúa.

“Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.”(Lc 2, 43 –45)

Trái ngược với lòng nghi ngờ của ông Dacaria, khi được Sứ Thần báo tin sắp có con, Mẹ Maria đã hoàn toàn Tin Tưởng và Vâng Phục, ngay khi Sứ Thần Gabriel loan báo được cưu mang Đấng Cứu Thế. Do vậy, bà Êlisabet đã hết lòng ngợi khen Đức Mẹ Maria, đã làm đẹp lòng Chúa. Cũng như biết ơn Mẹ đến viếng thăm. Một vinh dự đặc biệt, một cảm nhận tri ân sâu sắc vô cùng.

Bà Êlisabet được Mẹ Thiên Chúa đến thăm, mà đã hoan hỉ sung sướng đến thế. Trong khi các Kitô hữu bây giờ còn có cơ hội vinh dự gấp bội, đó là được hân hạnh rước Mình Máu Chúa ngự vào lòng hằng ngày. Một cuộc hạnh ngộ quý giá biết chưng nào! Ôi hạnh phúc nào hơn?

“Tông đồ bằng tiếp xúc”: “Phải chăng tâm hồn chúng tôi sốt mến khi nói chuyện với Người dọc đường?” Con không nghĩ rằng, mỗi cuộc tiếp xúc là một công tác Tông đồ sao? (Đường Hy Vọng, số 323)

Lạy Chúa Giêsu dấu yêu, xin cho con luôn biết hiệp thông cùng Bà Êlisabet ngợi khen, chúc tụng và cảm tạ tri ân Thiên Chúa, mỗi khi con được đón rước Chúa Thánh Thể vào lòng.

Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ dẫn dắt con đến cùng Chúa Giêsu hàng ngày, hàng giờ, hàng phút, để con luôn luôn được sống trong hồng ân cứu độ. Amen.

 

32. Buông súng

(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)

Hội bảo vệ quyền lợi người yêu súng và những người mê súng lí luận họ cần nó để phòng thân và bảo vệ mình. Lí luận nghe hợp lí và êm tai nhưng thực tế cho thấy khác xa những gì lí luận. Bởi vì không phải lúc nào con người cũng tự chủ được chính mình, nhất là khi nóng giận, quá buồn hay cô đơn. Đó là chưa kể đến những người đầu óc không bình thường hay sống trong tâm trạng thù hằn.

Vụ thảm hại trẻ em vô tội mới đây xảy ra tại Newtown, Connecticut, bên Hoa Kì cho thấy rõ những hiểm nguy của việc giữ vũ khí trong tay. Hai mươi bốn vụ thảm sát đẫm máu xảy ra trong vòng bảy năm qua. Điều nghịch lí là khi một số người tranh đấu cho quyền giữ và xử dụng vũ khí cá nhân được tôn trọng thì quyền lợi người khác bị xâm phạm, nhất là trẻ em. Không phải quyền lợi các em bị hại mà là sinh mạng, sự sống của con người.

Người lớn có nhiệm vụ bảo vệ trẻ nhỏ khỏi hiểm nguy, giúp chúng sống an toàn trong nhà cũng như ngoài đường. Luật cho phép cầm giữ và xử dụng vũ khí làm tổn thương đến nhiệm vụ bảo vệ các em. Để bảo vệ người vô tội khỏi bị chết oan, việc buông súng là cần thiết. Muốn buông súng việc đầu tiên cần làm là từ bỏ một phần tư lợi, í riêng, quyền lợi riêng của cá nhân, từ bỏ luận điệu có quyền hay được quyền làm điều đó. Từ bỏ ít tư lợi cá nhân để đại chúng được nhiều điều lợi là điều tốt lành, nên làm và đáng khuyến khích. Ích lợi này không mới lạ gì vì trong Kinh Thánh có nhiều tấm gương sáng chói, được đề cao, trở thành ngày lễ kính quan trọng trong Giáo Hội. Khi đám đông hỏi ông Gioan họ phải làm gì, ông kêu gọi họ đặt lợi ích chung trên tư lợi. Gioan không phải chỉ kêu gọi người khác làm điều đó mà bản thân ông thực hành trước lời kêu gọi kia. Ông vui lòng từ bỏ mọi sự để phục vụ dân Chúa.

Tôi là tiếng người hô trong hoang địa, hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi Gn 1,23

Đó là niềm vui của Thầy, niềm vui ấy bây giờ đã trọn vẹn. Người phải nổi bật lên, còn Thầy phải lu mờ đi Gn 3,30

Mấy ai vui khi thấy kẻ đến sau nổi bật lên, còn mình từ từ chìm vào quên lãng. Đức Kitô cũng mang tâm tình ấy khi Ngài tuyên bố Ngài đến không phải để làm theo í riêng mà làm theo í Đấng sai Ngài đến

Vì tôi tự trời mà xuống, không phải để làm theo í tôi, nhưng để làm theo í Đấng đã sai tôi. Mà í của Đấng đã sai tôi là tất cả những kẻ Người đã ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết Gn 6,38

Đức trinh nữ Maria cũng từ bỏ í riêng để thực thi í Chúa khi thưa xin vâng cùng Thiên Thần.

Vâng tôi đây là nữ tì của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói Lc 1,38

Đức Trinh Nữ được gọi là người có phước vì Ngài từ bỏ tự lợi để công lợi được thể hiện

Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, vì người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc Lc 1,42

Từ bỏ tư lợi cho công lợi được lợi hơn là điều tốt lành vì nó mang phúc lợi cho nhiều người. Thánh Gioan Tẩy Giả, Đức Trinh Nữ và Đức Kitô đều từ bỏ í riêng, tư lợi để í Chúa được thể hiện qua cuộc đời mỗi người và những từ bỏ này trở thành lịch sử ơn cứu độ. Đức Kitô từ bỏ í riêng để í Chúa Cha được thực hiện. Ngài chọn xuống thế, sinh trong chuồng bò vách tan, cửa trống và sống giữa những kẻ nghèo nhất trong số những kẻ nghèo. Chính việc từ bỏ í riêng này làm lên lịch sử của ngày lễ Kính trong mùa Giáng Sinh. Không có việc từ bỏ sẽ chẳng có Giáng Sinh.

 

33. Cảm nghiệm trên đỉnh đồi

(Suy niệm của Lm. Mark Link, SJ.)

Chủ đề: “Mùa vọng là thời gian tự chấn chỉnh lấy mình để chờ Chúa đến bằng cuộc sống tín trung hiện tại đồng thời vẫn hướng vọng về cuộc sống tương lai.”

William James, nhà tâm lý học lừng danh thế giới, có kể lại câu chuyện có thực sau đây trong tác phẩm nhan đề “Varieties of Religious Experience” (những cảm nghiệm tôn giáo)

Một đêm nọ có người đàn ông đứng một mình trên đỉnh đồi heo hút. Đó là một đêm tuyệt đẹp, bầu trời đầy sao, tình yêu chan hoà muôn trái tim và bình an phủ xuống mọi tâm hồn. Đang khi đứng đó, bỗng ông thấy lòng tràn ngập niềm vui giống như ông đang lắng nghe bản hoà tấu tuyệt vời trong đó mọi nốt nhạc đan quyện vào nhau khiến tâm hồn ông đột nhiên bị xúc động. Thế rồi ông có cảm giác một người nào đó đang cùng hiện diện trên đỉnh đồi với ông. Sự hiện diện của vị này càng lúc càng mãnh liệt đến nỗi ông cảm thấy sự hiện diện ấy còn rõ rệt hơn chính sự hiện diện của ông nữa. Về sau, ông thổ lộ “chính trên đỉnh đồi vào đêm hôm ấy, tôi bắt đầu tin vào Chúa”.

Các nhà tâm lý học thường gọi cảm nghiệm trên là “khoảng khắc cao điểm”. Đó chính là lúc mà chỉ trong phút chốc chúng ta chợt nhận ra một thế giới vô cùng vĩ đại hơn, xinh đẹp hơn và còn thực hơn thế giới chúng ta hiện sống. Kinh nghiệm trên đỉnh đồi của người đàn ông nọ giúp ta hiểu rõ hơn câu chuyện trong Phúc Âm hôm nay, đặc bịêt giúp ta thấy rõ hơn lời bà Elizabeth nói với Đức Maria “Vừa nghe em chào là con trong bụng chị liền nhảy mừng lên!” Một đứa bé quậy trong bụng mẹ là điều rất bình thường, vì thế khi Luca kể lại câu chuyện này, chắc chắn ông muốn nhấn mạnh đến điều gì khác lạ hơn. Ông muốn ám chỉ cử động kia như là lời chào đón Chúa Giêsu đang hiện diện nơi cung lòng Đức Maria nghĩa là thai nhi trong bụng bà Elizabeth cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa Giêsu nên đã mừng rỡ nhảy lên. Điều này báo trước những điều sẽ xảy ra thường xuyên về sau trong cuộc đời Chúa Giêsu, tức là quyền năng của Ngài sẽ tác động mãnh liệt trên dân chúng. Hai ví dụ sau đây sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn.

Trước mắt là câu chuyện xảy ra trên biển Galilê lúc Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ của Ngài. Simon Phêrô và Anrê sau một đêm đánh cá trở về thì gặp Chúa Giêsu bước đến thuyền họ và truyền cho thuyền ra khơi thả lưới. Simon liền đáp: “Thưa Thầy, chúng ta đã vất vả suốt đêm mà chẳng bắt được gì nhưng vâng lời Thầy con sẽ thả lưới”… Thế rồi sau khi thả lưới xong, họ đã bắt được vô số cá đến nỗi lưới muốn rách…Thấy thế, Simon Phêrô vội quỳ sụp xuống thưa với Đức Giêsu: “Lạy Chúa, xin hãy tránh xa con vì con là một kẻ tội lỗi” (Lc 5: 5-6,8). Nói cách khác, ngay phút giây ngắn ngủi ấy, lần đầu tiên Phêrô cảm nhận được sự thánh thiện của Chúa Giêsu.

Câu chuyện thứ hai xảy ra vào một ngày Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện. Ngài dẫn theo Phêrô, Giacôbê và Gioan. Bỗng nhiên khuôn mặt Ngài sáng chói như mặt trời và một cụm mây phủ rợp trên Ngài. Thánh sử Matthêu mô tả sự kiện xảy ra tiếp sau đó. “Từ trong đám mây có tiếng phán ra: Đây là Con Ta rất yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng, hãy nghe lời Ngài”. Khi các môn đệ nghe thế họ liền sấp mình xuống đất, lòng vô cùng sợ hãi (Mt 17: 5-6). Trong phút chốc ngắn ngủi ấy Phêrô, Giacôbê và Gioan cảm nghiệm được lần đầu tên chiều kích thâm sâu của Chúa Giêsu. Họ sẽ không bao giờ quên được phút giây đó.

Nhiều năm về sau, thánh Phêrô nhắc lại Kinh nghiệm này như sau: “Chúng tôi đã chứng kiến tận mắt vẻ oai nghi của Ngài, đã nghe thấy tiếng từ trời phán ra khi chúng tôi được ở cùng Ngài trên núi thánh” (2 Pr 1: 16,18)

Ngày nay vẫn có nhiều người cảm nhận được Kinh nghiệm của Gioan Tẩy giả khi còn trong bụng bà Elizabeth, Kinh nghiệm của thánh Phêrô trên bãi biển và Kinh nghiệm của ba thánh tông đồ trên núi. Trong quyển tự thuật nhan đề “The Seven Storey Mountain” (Ngọn núi bảy tầng) Thomas Merton, một tác gỉa vĩ đại từng là người trở lại đạo Công giáo, đã mô tả kinh nghiệm của ông về Chúa Giêsu vào những năm cuối thời niên thiếu của mình.

Sau khi tốt nghiệp Trung học, Thomas một mình đi du lịch quanh Âu Châu. Trong những chuyến đi này, chàng trai khám phá ra những ngôi giáo đường hùng vĩ của Âu Châu với những pho tượng gây cảm hứng và những cửa sổ muôn màu. Thomas ghi lại: “khám phá này thật diệu kỳ… tôi bắt đầu lui tới các nhà thờ … lần đầu tiên trong đời tôi khám phá ra đôi điều về Đấng mà mọi người gọi là Đức Kitô, và quan trọng hơn nữa, tôi bắt đầu cảm nghiệm được chính Đức Kitô đang hiện diện trong các ngôi nhà thờ ấy”.

Cảm nghiệm về Đức Kitô hiện diện không máy móc nào có thể chế tạo được, không một máy tính nào có thể lập chương trình được, và cũng không thể cứ ước muốn là được, chẳng ai có thể tạo ra cảm nghiệm này được ngoài Đức Kitô. Vì đây chính là quà Ngài ban tặng. Chúng ta chỉ việc mở rộng lòng ra lãnh nhận và Mùa vọng nhằm giúp chúng ta làm việc này. Đây là lúc chính chúng ta phải tự chấn chỉnh lấy mình để đón chào Chúa Giêsu đến trong đời sống chúng ta. Có lẽ chúng ta chưa bao giờ có được cảm nghiệm mãnh liệt giống như thánh Gioan tẩy giả khi còn trong bụng mẹ, hay cảm nghiệm giống như thánh Phêrô trên bờ biển, hay cảm nghiệm của ba tông đồ trên ngọn núi, hoặc cảm nghiệm của Merton trong các giáo đường Châu âu. Nhưng chúng ta cũng biết chắc rằng nếu chúng ta tự chấn nhỉnh mình để chờ đón Chúa Giêsu, nếu chúng ta biết tiếp tục mở rộng tâm hồn ra cho Ngài, thì ngày diễm phúc ấy sẽ đến, lúc đó chúng ta sẽ thực sự cảm nghiệm được sự hiện diện của Ngài. Đó chẳng phải là một cảm nghiệm mơ hồ, chóng qua mà là một cảm nghiệm gặp gỡ tận mặt trên cõi trời. Và khi cảm nghiệm gặp tận mặt này xảy ra, chúng ta cũng sẽ thấu hiểu được chân lý sống động từng được thánh Phaolô ghi nhận “Thiên Chúa đã chuẩn bị cho những ai yêu mến Ngài những điều mắt chưa hề thấy, tai chừa hề nghe, tâm hồn chưa hề cảm nhận. Đó chính là những điều Ngài đã mặc khải cho chúng ta qua Thánh Linh của Ngài” (Lc 2: 9-10).

 

34. Dấn thân

Chúa nhật III Mùa vọng, lời Chúa giới thiệu cho chúng ta chân dung Gioan Tiền Hô với lời mời gọi tha thiết hãy thay đổi. Hôm nay, Chúa Nhật IV, Giáo hội mời gọi chúng ta hướng về Mẹ Maria với sứ điệp phụng vụ: Hãy dấn thân.

Bước chân đời thường

Tôi quan sát một người nông dân ra đồng để thăm ruộng lúa. Tôi bắt gặp một người ra siêu thị mua thức ăn cho bửa cơm của gia đình. Tôi gặp anh công nhân đến xưởng hằng ngày. Tôi cũng thường thấy rất nhiều khuôn mặt thân quen hằng ngày đi qua con phố trước nhà; đó là các em học sinh dến trường để trao dồi tri thức. Tất cả đều đi trong vội vả, họ đi một cách vô ý thức vì bước chân đã trở thành quán tính. Họ đi để hoàn tất phận vụ của cuộc đời mình. Tôi hiểu, nhưng tôi tự hỏi lòng mình. Trong những bước chân vội vã ấy, có được bao nhiêu bước chân đang tiến về phía trước vì lòng nhân ái?

Bước chân tin Mừng.

Đoạn Tin Mừng hôm nay, ai trong chúng ta cũng nhận ra bước chân của Đức Maria, bước chân của đức ái. Chúng ta cùng xem lại hành trình của Mẹ: Một hành trình dài của một người nữ có thể xem là chân yếu tay mềm, mà lại đang mang thai nữa. Mẹ phải đi trên con đường đồi núi, một quãng đường xa. Chắc chắn là rất khó nhọc, nhưng mẹ đi rất vội vàng, tình trạng xem ra cấp thiết. Thánh Luca muốn gửi cho cúng ta một thông điệp: Chúa đến, hãy đón nhận Chúa và cất bước lên đường vì nhu cầu của tha nhân. Chăm chú nhìn đôi chân của Mẹ, tôi đã thấy Mẹ bước ra khỏi Tin Mừng để đến với con người, phục vụ cho con người. Còn chúng ta, chúng ta đang sống giữa cuộc đời, chúng ta có dám lên đường vì ích lợi của người khác?

Bước chân của Kitô hữu.

Hôm nay, lúc này tôi đang tham dự thánh lễ chúa Nhật thứ IV Mùa Vọng. Như Đức Maria tôi được nhận một biến cố truyền tin quan trọng trong đời. Lời Chúa là sứ điệp truyền tin. Rước Chúa vào lòng là đón nhận Ngôi Lời nhập thể. Chúa đến với tôi, muốn tôi thực hiện một sứ vụ giống như Mẹ. Chúa không muốn tôi giữ Chúa cách kiên cố trong cõi lòng mình. Từ nơi tôi Chúa muốn đến với người mẹ già mà tôi bất kính, người phối ngẫu mà tôi không còn có thể yêu thương, người hàng xóm mà tôi vừa gây một mối bất hoà, người nghèo khổ mà tôi lạnh nhạt, hửng hờ. Chúa muốn tôi giống Mẹ Maria bước chân ra khỏi những trang sách Tin Mừng, ra khỏi nhà thờ sau khi tham dự thánh lễ Chúa Nhật để đến với tha nhân, dấn thân trong việc bác ái.

Thánh Luca cho ta hay sau lời chào của Bà Elizbeth, Mẹ Maria hân hoan trong lòng, cất lời Magnificat ca tụng Thiên Chúa. Hãy theo gương Mẹ, hãy làm một việc bác ái cụ thể nào đó một cách có ý thức. Tôi chắc rằng bạn cũng sẽ nhận được niềm vui thiêng liêng tuyệt vời.

Chúc bạn có được một màu Giáng Sinh với nhiều niềm vui: vui trong chúa và vui với tha nhân.

 

35. Chân tướng Đức Giêsu Kitô

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)

Sách tiên tri Mikha nhắc đến Bêlem vì nơi đây sẽ sinh Đấng thống trị Israel, và nguồn gốc người có từ nguyên thủy tự muôn đời. Tin Mừng Luca cho thấy bà Isave khi được Đức Maria đến thăm đã thốt lên: “bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm”. Những lời trên liệu có thể áp dụng cho Đức Giêsu, và có giúp người ta hiểu Đức Giêsu là ai không?

  1. Đức Giêsu là Giêsu Nazarét, con ông Giuse, con bà Maria

Với những người ở Bêlem, thánh Giuse và Đức Maria là những người bình thường như bao người nhà quê nghèo khác. Chính vì thế, họ không đối xử với Đức Maria và thánh Giuse một cách đặc biệt: hai ngài đã phải ra chuồng chiên cừu trú ngụ qua đêm. Đức Giêsu đã được sinh ra trong chuồng chiên cừu. Với họ, chả có gì đặc biệt khi cặp vợ chồng nghèo Giuse Maria trở về quê và không có chỗ trú ngụ.

Không biết đêm hôm ấy, đêm Đức Giêsu được sinh ra, trời có sáng hơn mọi đêm không? Có ai trằn trọc mất ngủ vì một lý do “không biết” nào không? Hay tất cả vẫn cứ bình thường, vẫn là một ngày như mọi ngày? Biến cố Đức Giêsu được giáng sinh, có lẽ đặc biệt có ý nghĩa đối với Đức Maria và thánh Giuse, và sau đó đối với một số mục đồng đã tin lời sứ thần; còn với tất cả những người khác, có lẽ tất cả đã như thường.

Khi Đức Giêsu đi rao giảng, và đã làm được một số điều đặc biệt, người ta cũng vẫn xác nhận Ngài là “Giêsu con bà Maria” (Mc.6, 3), “Giêsu con ông Giuse” (Lc.4, 22). Các người bị thần ô uế ám thì gọi Ngài bằng “Giêsu Nazarét” (Lc.4, 34). Với các tông đồ và những chị phụ nữ hôm biến cố Đức Giêsu bị treo thập giá, Ngài cũng chỉ là một người công chính bị nạn! Với những biệt phái tư tế kinh sư, Ngài cũng chỉ là một đối thủ cần loại trừ, và họ đã thành công ở biến cố Đức Giêsu bị treo thập giá. Với những người không là Kitô hữu hiện nay, có lẽ Đức Giêsu cũng chỉ là con người đặc biệt hơn một người bình thường chút xíu; nhưng cũng chỉ là vậy, Ngài cũng chỉ là một người như bao người khác.

  1. Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa nhập thể

“Bởi đâu tôi được thân mẫu Chúa tôi tới viếng thăm!” (Lc.1, 43). Từ ngữ “thân mẫu Chúa tôi”, theo bản dịch của nhóm Phụng Vụ Các Giờ Kinh, khác với từ ngữ “Mẹ Thiên Chúa” như trong sách bài đọc dịch. “Anh em gọi Thầy là Thầy là Chúa là đúng rồi… vậy nếu Thầy là Thầy là Chúa mà còn rửa chân cho anh em thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau” (Ga.13, 13-14). Từ ngữ “Chúa” ở đây có thể chỉ đơn thuần được hiểu như một người làm chủ, người đứng đầu (Thiên Chủ, Thiên Chúa).

Kitô hữu đã hiểu Đức Giêsu là “Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng thật bởi ánh sáng thật, được sinh ra mà không phải tạo thành, đồng bản tính với Đức Chúa Cha; nhờ Người mà muôn vật được tạo thành” (Nicea năm 325); và nhờ đó hiểu Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa (Ephêsô năm 431). Đi với khẳng định này công đồng Nicea đã kết án “hạ phục thuyết” của Arius chủ trương rằng Đức Giêsu thấp kém hơn Thiên Chúa.

Kitô hữu hiểu Đức Giêsu là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, nhưng vẫn tin “chỉ có một Thiên Chúa”. Thiên Chúa là Đấng duy nhất. Cái khác nhau là ba ngôi vị. Kitô hữu cố gắng tránh hiểu ba ngôi như là ba Thiên Chúa. Nơi con người, ba người (ngôi vị) khác nhau nhưng vẫn cùng một bản tính người; còn nơi Thiên Chúa, ba ngôi không phải là ba Thiên Chúa nhưng chỉ là một Thiên Chúa.

III. Đức Giêsu là ai?

“Người ta bảo Con Người là ai?… Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” (Mt.16, 13) Thánh Phêrô đã trả lời: “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống”. Cả với câu này, người ta vẫn giải thích chữ Đức Kitô theo nghĩa rất bình thường: Môsê, Đavít, Kyrô … cũng đều là đức Kitô cả. “Con Thiên Chúa” cũng có thể được hiểu theo nghĩa rất bình thường: các thiên thần, các người công chính,… cũng có thể được gọi là con Thiên Chúa. Chỉ với câu này, người ta không buộc phải hiểu Đức Giêsu là Con đồng bản tính với Thiên Chúa. Khi người ta hiểu Đức Giêsu nhận mình là Con đồng bản tính với Thiên Chúa, ngang hàng với Thiên Chúa, thì Ngài phải chết vì đó là tội vô cùng lớn: phạm thượng: là người mà cho mình là Thiên Chúa (Ga.10, 33).

Nhờ những đối kháng dẫn Đức Giêsu tới cái chết, người ta mới hiểu rằng Đức Giêsu ý thức mình là Thiên Chúa, và người ta cũng hiểu Ngài khẳng định như vậy, nên người ta có đủ lý do để kết án Ngài mà không cần phải “cáo gian” nữa! “Máu nó sẽ đổ trên đầu chúng tôi và trên con cháu chúng tôi” (Mt.27, 25); nếu không ý thức rõ tội của Đức Giêsu, thì người Do Thái không dám nói những lời như thế. “Chúng tôi có luật, mà chiếu theo luật thì nó phải chết, vì nó là người mà dám xưng mình là Con Thiên Chúa” (Ga.19, 7). Từ ngữ “Con Thiên Chúa” ở đây phải được hiểu là Con “đồng bản tính” vì nếu không, đâu có đủ lý do để kết án tử hình Đức Giêsu. Nếu một người công chính được gọi là con Thiên Chúa, thì tội của Đức Giêsu đâu có là gì mà phải kết án tử hình Ngài.

Đức Giêsu là Đấng ngang hàng với Thiên Chúa, Đấng “ngự bên hữu Đấng quyền năng và đến trên mây trời” (Mc.14, 62). Người Do Thái kết án tử hình Đức Giêsu thật là chính đáng, vì Đức Giêsu đã nhận mình ngang hàng với Thiên Chúa. Nhờ lời của Đức Giêsu, và nhờ án tử hình được công nghị Do Thái tuyên cho Đức Giêsu, giúp Kitô hữu thấy rõ chân tướng của Đức Giêsu. Ngài là Thiên Chúa, là Con đồng bản tính với Thiên Chúa. Ngài đúng là Lời Thiên Chúa, là Ngôi Hai Thiên Chúa. Khẳng định của các công đồng Nicea và Êphêsô đã phản ánh đúng đắn niềm tin của Kitô hữu sơ khai, cũng như phản ánh đúng ý thức của Đức Giêsu về chính Ngài.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

  1. Sứ điệp Đức Giêsu mang lại cho thế gian trong ngày lễ Giáng Sinh là gì?
  2. Có sự liên hệ nào đó giữa sự bình an trong tâm hồn con người, sự an bình của xã hội và nền hòa bình trên thế giới không?
  3. Chỉ dựa vào Kinh Thánh, bạn có thể “chứng minh” Đức Giêsu là Thiên Chúa không?

 

36. Chúa viếng thăm

(Suy niệm của Lm. Jb Nguyễn Minh Phương, C.Ss.R)

Lễ Giáng Sinh đã đến gần, người đời như muốn làm cho biến cố hồng phúc cứu độ này thành một thứ lễ hội với đủ thứ trang trí và hoạt động náo nhiệt, rộn ràng…

Không như cách thức thế gian, người tín hữu háo hức chờ đợi và hướng đến đêm hồng phúc bằng thái độ đức tin được hướng dẫn bởi lời Chúa thuật lại cuộc viếng thăm của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a dành cho gia đình bà chị họ Ê-li-sa-bét.

Thoạt nghe thì đây là cuộc viếng thăm giữa hai chị em, giữa hai bà mẹ đang mang thai, nhưng sâu xa thì đây là cuộc Thiên Chúa viếng thăm dân của Người.

  1. CHÚA CHA

Số là bà Ê-li-sa-bét từng mang tiếng là hiếm hoi. Bà đã đến tuổi cao niên mà chẳng có được một mụn con. Thế nhưng trong lần vào đền thờ để lo việc tế tự theo phiên của nhóm mình, ông Gia-ca-ri-a, chồng của bà đã được sứ thần Gáp-ri-en báo tin sau thời gian phục vụ ở đền trở thờ về ông và bà sẽ có con; và hiện nay bà Ê-li-sa-bét đang cưu mang thánh Gio-an Tẩy Giả (x. Lc1, 5-25).

Phần Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, một thiếu nữ không hề biết đến chuyện vợ chồng, nhưng do quyền năng của Chúa Thánh Thần, Đức Trinh Nữ cũng đang cưu mang Người Con vĩ đại. Người là: Con Đấng Tối Cao, là Đấng Thánh, là Con Thiên Chúa, sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến vô cùng vô tận (x. Lc 1, 30-35).

Cả hai người phụ nữ đều nhận được sự can thiệp kỳ diệu của Thiên Chúa và đã bày tỏ lòng tin:

– Được cưu mang thánh Gio-an Tẩy Giả, bà Ê-li-sa-bét cảm nhận chính Thiên Chúa đã viếng tăm cuộc đời của bà, đã thương giải thoát bà khỏi nỗi hổ nhục bà phải chịu trước mặt mọi người (x. Lc 1, 25).

– Được cưu mang Con Thiên Chúa nhập thể làm người, Trinh Nữ Ma-ri-a đã thưa vâng và dâng lời chúc tụng Thiên Chúa đã làm Chúa Người những điều cao cả (x.Lc 1, 46-55).

Như vậy, cuộc gặp gỡ giữa hai bà mẹ đang mang thai là dấu chứng quyền năng Thiên Chúa viếng thăm và can thiệp trên con người “đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1, 37).

  1. CHÚA THÁNH THẦN

Hai người mẹ tràn đầy ân sủng và tìm đến nhau. Cùng với sự hiện diện của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a là sự hiện diện của Chúa Thánh Thần.

Chúa Thánh Thần đã ban niềm vui, sự hân hoan sốt sắng lạ thường cho gia đình bà Ê-li-sa-bét:

– ban tình yêu để bà vui vẻ đón tiếp Thân Mẫu Thiên Chúa.

– soi sáng cho bà nhận biết ân huệ của người em họ và hồng ân nơi Người Con của Đức Trinh Nữ “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc” (Lc 1, 42),

– thúc đẩy để bà thốt lên lời chân thành “bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” (Lc 1, 43).

– hướng dẫn để bà xác tín phẩm chức của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a là “Thân Mẫu Chúa” (Lc 1, 43).

– tràn ngập trên người con của bà tuy mới chỉ là một thai nhi nhưng đã “nhảy lên vui sướng” (Lc 1, 43)..

Chúa Thánh Thần đã dẫn dắt gia đình bà E-li-sa-bét nhận biết chương trình của Thiên Chúa ” không ai biết được những gì nơi Thiên Chúa, nếu không phải Thần Khí của Thiên Chúa” (1 Cr 2, 11). Trong chương trình ấy, con người gặp gỡ Đấng Cứu Thế.

III. CHÚA GIÊ-SU

Thân mẫu Thiên Chúa đã viếng thăm người chị họ đang mang thai người con trai sẽ được đặt tên là Gio-an. Cùng đồng hành với Đức Trinh Nữ là người con đang được cưu mang trong dạ Ngài sẽ được đặt tên là Giê-su.

Gio-an nghĩa là được Thiên Chúa thương, được Thiên Chúa cứu.

Giê-su nghĩa là Đấng Cứu Thế.

Vậy, bên ngoài là cuộc gặp gỡ của hai người mẹ, nhưng sâu xa là cuộc gặp của hai người con. Đấng Cứu Thế gặp gỡ con người được Chúa thương. Đấng Cứu Thế hạ mình thẳm sâu nương nhờ trong lòng người mẹ nhân loại để con người được Chúa xót thương “nhảy lên vui sướng” (Lc 1, 43).

Thực thi thánh ý Chúa Cha (x. Dt 10, 7), Chúa Giê-su Cứu Thế đã viếng thăm dân của Chúa. Người sẽ dựa vào uy lực và uy danh Đức Chúa, đem lại hòa bình (x. Mk 5, 3- 4) giải thoát dân Người khỏi quyền lực của sự dữ, khỏi sự chết, khỏi mọi nỗi ô nhục mà đưa vào vương quốc vĩnh cửu vô biên, đầy tràn sự thật và sự sống, đầy tràn ân sủng và thánh thiện, đầy tràn tình thương công lý và bình an… hầu hưởng niềm vui hạnh phúc, niềm vui được cứu độ.

Lễ Giáng Sinh đã đến gần, người thế gian đang chờ đợi một lễ hội; người tín hữu xác tín về Thiên Chúa viếng thăm cứu độ dân của Người trong sự cộng tác của một nhân vật tuyệt vời: Đức Trinh Nữ Ma-ri-a.

Nhờ Mẹ, người tín hữu thấm sâu chương trình của Thiên Chúa Ba Ngôi. Chúa Cha quyền năng, với Người “không có gì là không thể làm được”. Chúa Thánh Thần sẽ soi dẫn cho con người nhận biết Thiên Chúa. Trong hành trình ấy, con người gặp gỡ Chúa Giê-su Con Thiên Chúa làm người để cứu độ con người thoát khỏi tội lỗi và sự chết.

Nguyện xin ân sủng của Chúa Giê-su Ki-tô Chúa chúng ta, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng chúng ta.

Niềm vui giáng sinh là vậy!

 

37. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng

Trong Mùa Vọng, Giáo Hội mời gọi chúng ta chiêm ngắm những gương mẫu sống đức tin, đón chờ Chúa đến và sống niềm trông chờ đó, đó là Gioan Tiền Hô và Đức Maria,…Trong Chúa nhật thứ tư này, Giáo hội mời chúng ta chiêm ngắm và học hỏi sứ điệp sống yêu thương nơi Đức Mẹ

Sau biến cố truyền tin, được biết về chị họ Ysave son sẻ mà đang cưu mang Gioan Tiền Hô, Mẹ Maria mau mắn lên đường thăm chị họ. Mẹ không nghi ngờ lời sứ thần, cũng không phải để kiểm chứng lời sứ thần. Mẹ ra đi trong niềm vui, trong niềm tin tưởng, niềm phấn khởi lạc quan. Hơn nữa, Mẹ không ngại khó khăn đường xa đến thăm chị vì Mẹ muốn đến chung vui với chị họ, Vả lại Mẹ còn biết người chị họ cần sự giúp đỡ trong thời gian này. Thái độ mau mắn, không quản ngại đường xa của Mẹ Maria giúp chúng ta nhìn ra tâm hồn bác ái bén nhạy nơi Mẹ trước những nhu cầu của người khác. Mẹ đã thể hiện tình yêu bằng việc ra đi trong thái độ mau mắn. Sự hiện diện của Mẹ không chỉ hạn hẹp trong những giúp đỡ phần xác nhưng còn mang lại hoa trái thiêng liêng: Chị họ Isave ngập tràn niềm vui trong Thánh Thần. Còn trẻ Gioan thì nhảy mừng vui ngay trong lòng mẹ: Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm…Tâm hồn bác ái bao la của Mẹ, thật xứng đáng là ngai tòa cho Con Thiên Chúa ngự đến.

Khi nhìn lại mẫu gương quảng đại của Mẹ Maria, chúng ta rút ra cho mình những bài học.

Thứ nhất do chúng ta chưa yêu người đủ. Chưa yêu tha nhân thì không thể đến với tha nhân. Trong điều kiện ngày nay, chúng ta có thể đi được nhiều nơi, gặp gỡ được nhiều người, nhưng chúng ta còn ngại đến với tha nhân. Có biết bao nhiều người đang nghèo đói… chung quanh chúng ta. Vì chúng ta chưa chịu đến với họ do chúng ta chưa nhận ra sự nghèo khổ của cõi lòng mình nên không dám tiếp xúc, đến gần những người nghèo khổ chung quanh chúng ta, họ đói rách, thiếu ăn, thiếu mặc hay ngay cả những người đang đói khát niềm tin, chân lý, sự thiện,…để biết góp phần từng giải quyết những bế tắc của anh em và đem lại cho những người chúng ta gặp gỡ niềm tin tưởng và niềm hy vọng để vui sống.

Thứ hai chúng ta chưa yêu người cho đủ. Bởi vì yêu là liễu lĩnh, không tính toán, là quên mình phục vụ anh em để tình yêu được triển nở, được có cơ hội thăng tiến. Từ đó chúng ta có đủ can đảm để biết mạnh dạn yêu thương, sẳn sàng tha thứ và biết chấp nhận sự thiệt thòi vì mình muốn cho đi, mình muốn tha nhân được lợi ích của sự hy sinh và trao ban.

Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta có biết bao cơ hội để đón nhận và trao ban. Khi chúng ta tra ban tình yêu,cử chỉ bác ái, yêu thương hay hành động giúp đỡ tha nhân, nghĩ tốt, nói tốt cho người khác là chúng ta đón nhận chính nó, đón nhận chính điều chúng ta trao ban. Thiên Chúa mãi mãi vẫn ở bên trên, xa lạ đối với chính mình bởi vì chính chúng ta chưa thể hiện tình yêu thương và như thế chúng ta cũng chẳng cảm nhận được sự yêu thương.

Lạy Chúa, đã bao mùa vọng đến và qua đi nhưng lòng chúng con vẫn thấy lạnh lẽo. Thực ra trong quỹ đạo yêu thương của Chúa không ai bị loại trừ vì Con Thiên Chúa đến làm người để chúng con được trở nên người hơn, nên con cái của Chúa trong sự yêu thương và biết hành động bác ái, biết quảng đại và can đảm dấn thân sống cho tình yêu để sống hạnh phúc.

Xin cho chúng con biết noi gương Đức Maria, đong đầy tâm hồn bằng sự thánh thiện, ân sủng, biết mở lòng đến với người khác như Mẹ. Chỉ như thế, con đường của tâm hồn chúng con mới xứng đáng cho Chúa ngự đến trong mùa Giáng Sinh này, đem cho chúng ta nguồn bình an, hạnh phúc thật sự.

 

38. Niềm vui Tin Mừng

(Suy niệm của Lm. GB. Trần Văn Hào)

Chia sẻ Niềm vui của Tin mừng

Gần ngày lễ Giáng sinh người ta thường viết những cánh thiệp để gửi trao cho nhau những lời cầu chúc tốt đẹp nhất. Chúng ta chúc nhau một mùa Giáng sinh vui tươi và an lành. Lễ Chúa Giáng sinh là ngày lễ của hoan vui và niềm vui đó cần được chia sẻ. Hình ảnh Đức Maria đến thăm bà chị họ Elizabeth mà Giáo hội gợi lên trong phụng vụ hôm nay phác họa cho chúng ta khuôn mẫu này. Mẹ đã được Đức Giêsu đến ẩn cư trong cung lòng và nếm cảm niềm vui sâu xa khi thuộc trọn về Chúa. Sau đó Mẹ lại ‘hối hả lên đường’ để chia sẻ niềm vui ấy với bà chị họ. Niềm vui nơi những tâm hồn được Chúa chiếm ngự cần được sẻ chia.

Niềm vui của Tin mừng – Gaudium Evangelii

Đức Giêsu đi vào trần gian, là niềm vui Tin mừng lớn nhất được trao ban cho nhân loại. Mẹ là người đầu tiên đã nếm trải niềm vui đó. Vì vậy, vừa khi gặp mặt người thân, Đức Maria đã thốt lên: “ Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng trong Chúa Đấng cứu chuộc tôi”. Niềm vui sâu tận Mẹ đã trải nghiệm phát xuất từ một tâm hồn để cho Thánh Thần tác động và sống theo sự chỉ dẫn của Thần Khí. Nói cách khác, sau lời thưa xin vâng, Mẹ đã thoát vượt mọi sợ hãi, hoàn toàn quy thuận thánh ý Thiên Chúa và đắc thủ được niềm vui của Tin mừng cách trọn vẹn khi mang chở Đấng Cứu thế trong cung lòng mình. Vì thế Giáo hội chọn đoạn thư Do thái trong phụng vụ hôm nay (bài đọc 2) để quảng diễn ý tưởng này. Tác giả thư Do Thái nói về sự vâng phục của Đức Giêsu khi đi vào trần gian, và đó là nguyên mẫu cho thái độ khiêm tốn của Đức Maria, cũng như sự tuân phục nơi chúng ta. “Bấy giờ con thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài” (Dt 10, 6). Đức Giêsu đã đến trần gian để công bố cho chúng ta Tin mừng của ơn cứu độ và Ngài cũng chính là Tin mừng được hiến ban cho nhân loại.

Trong Tông huấn Evangelii Gaudium, Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc nhở chúng ta về tâm điểm của Tin mừng, đó là rao giảng về niềm vui khi được Thiên Chúa thương xót (x. số 34-36). Có lẽ Đức Thánh Cha cũng muốn mời gọi chúng ta học nơi thái độ nội tâm của Mẹ, bởi vì Đức Maria là người đầu tiên nếm cảm niềm vui của lòng thương xót này: “ Đấng Toàn năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn. Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Ngài”. Mẹ đã sở đắc được niềm vui của Tin mừng là chính Đức Giêsu. Chìa khóa để có được niềm vui ấy là Mẹ đã biết khiêm tốn trải lòng mình ra để Thánh Thần phủ ngập và hoàn toàn quy thuận theo đường lối của Thiên Chúa.

Càng khiêm tốn, con người càng đạt đến sự toàn hảo. Kiêu căng, tự mãn sẽ nảy sinh ghen ghét và đố kỵ. Cha Thomas Merton đã định nghĩa: “Hỏa ngục là nơi tập trung sự ghen ghét”. Nơi đó dành cho Luxiphe và bè lũ của nó vì nó đã kiêu căng chống lại Thiên Chúa. Ngược lại, Thiên Đàng đã bắt đầu khai mở nơi tâm hồn Đức Maria vì Mẹ đã hoàn toàn khiêm tốn ẩn náu dưới bàn tay uy quyền của Thiên Chúa và nếm cảm lòng thương xót của Ngài.

Chia sẻ niềm vui và loan báo Tin mừng.

Niềm vui chân thật như một dòng chảy bất tận. Nó không thể bị quây kín và nhốt chặt lại. Niềm vui cần phải được chia sẻ và trao ban. Điều đó chúng ta thấy thật rõ nét nơi Đức Maria. Chúng ta đừng hời hợt xem việc Đức Maria đến thăm bà Elizabeth chỉ như một nghĩa cử thông thường theo tình cảm huyết nhục tự nhiên. Trước hết và trên hết, Mẹ đem Chúa Giêsu là căn nguyên niềm vui đến chung chia với mọi người. Thánh Luca không phải vô tình đã mở đầu trình thuật bằng câu: “Đức Maria hối hả, vội vã lên miền sơn cước”. Mẹ vội vã và háo hức muốn sẻ chia niềm vui ngập tràn nơi tâm hồn mình. Đó cũng là một hình ảnh tuyệt hảo để chúng ta suy nghiệm và thực thi sứ vụ loan báo Tin mừng trong cuộc sống hôm nay. Trong Tông huấn Niềm vui của Tin mừng, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi các tín hữu phải cảm thấu một cách sâu xa niềm vui như thế và Ngài cũng nhắc nhở Hội thánh phải ‘đi ra’ để làm lan tỏa niềm vui này (số 46-49). Ngài viết “ Tôi thà có một Hội thánh bị bầm dập mang thương tích và nhơ nhuốc vì đi ra ngoài đường, hơn là một Hội thánh ốm yếu vì bị giam hãm và bấu víu vào sự an toàn của mình”. Cũng vậy Đức Maria đã can đảm và liều lĩnh ‘đi ra ngoài’, tiến lên miền núi để đến với người chị họ. Mẹ không ngại bị bầm dập vì đường xa cách trở, vì đồi núi cheo leo. Mẹ còn hối hả vội vã, như thể sợ tuột mất niềm vui muốn được sẻ chia. Những từ ngữ trong trình thuật của Thánh Luca mà chúng ta nghe hôm nay đều mang chở một tính cấp thiết và khẩn trương, vì việc chia sẻ niềm vui và loan báo Tin mừng là một sứ mệnh khẩn thiết mà chúng ta phải thực thi mỗi ngày, theo gương Đức Maria.

Những ai sống ơn gọi thánh hiến, đều biết rằng thánh hiến và tông đồ luôn gắn kết chặt chẽ với nhau. Những ai thánh hiến trọn vẹn cho Chúa, tất sẽ làm bùng cháy ngọn lửa tông đồ nơi tâm hồn mình. Thánh hiến càng sâu xa, ngọn lửa tông đồ càng mạnh mẽ. Việc tông đồ không có nghĩa là phải giảng thật hay, phải phát động nhiều công việc từ thiện, phải khéo léo tổ chức những sinh hoạt xã hội đa dạng. Tất cả sẽ trở nên vô nghĩa nếu những công việc đó không xuất phát từ lòng mến, từ tâm hồn được thánh hiến và thuộc trọn về Chúa. Chúng ta nhớ lại lời dạy của thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi giáo đoàn Côrinthô. Ngài viết “ Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và các thiên thần mà không có lòng mến, thì tôi cũng chỉ như thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri, biết những điều bí mật và mọi lẽ cao siêu, hay có được đức tin đến chuyển núi dời non mà không có đức mến, thì cũng chẳng là gì. Giả như tôi đem hết tài sản của tôi để bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt mà không có lòng mến, thì chẳng ích lợi gì cho tôi” (1 Cr 13, 1-3). Phải gắn kết mật thiết với Chúa chúng ta mới có thể thực hành việc tông đồ, vì Thiên Chúa chính là tình yêu, là ‘Đức Mến’ tuyệt đối để chúng ta quy hướng về.

Chúng ta hãy học nơi Đức Maria. Mẹ không ồn ào náo động, không tổ chức những cuộc lễ hoành tráng với cờ xí, kèn trống tưng bừng. Mẹ không mở lớp dạy giáo lý cách rầm rộ, không sinh hoạt trong các đoàn thể, cũng chẳng bao giờ đi làm công tác từ thiện để xóa đói giảm nghèo, bởi vì Mẹ chỉ là một cô thôn nữ bình dị, đơn sơ, cũng chẳng học thức hay tài cán cao sang. Nhưng Mẹ hoàn toàn để cho Thiên Chúa hướng dẫn đời mình. Một việc làm xem ra rất bình thường Mẹ đã thực hiện mà không ai biết đến, là đi thăm người chị họ nơi miền núi cao, không kèn không trống và hoàn toàn âm thầm lặng lẽ. Nhưng chính Đức Maria đã trở thành nguyên mẫu cho chúng ta trong việc chia sẻ niềm vui và loan báo Tin mừng đến cho mọi người.

Kết luận

Chân phước Philip Rinaldi đã nói: “Thiên Chúa luôn khởi đầu những công trình vĩ đại từ những con người bé nhỏ và ngang qua những công việc rất khiêm hạ”. Điều đó rất đúng khi chúng ta chiêm ngắm dung mạo của Đức Maria được mô tả trong phụng vụ hôm nay. Một nhà tu đức đã nói: “Chắp tay lại thì rất tốt, nhưng ngửa tay ra vẫn tốt hơn”. Mẹ Maria đã chắp tay lại để thưa lời xin vâng, và ngày hôm nay, Mẹ tiếp tục mở tay ra để đem niềm vui của Tin mừng đến cho người khác. Đó là hình mẫu cho chúng ta trong những ngày gần sát lễ Giáng sinh để chúng ta học nơi Ngài cách thái mừng đại lễ thật sốt sắng và ý nghĩa.

 

39. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng

CỘNG TÁC VÀO CHƯƠNG TRÌNH CỦA THIÊN CHÚA

Một linh mục được giáo dân mời dự tiệc tại nhà.

Trong suốt bữa tiệc, ngoài tiếng nói cười của khách, linh mục thắc mắc mãi vì có tiếng nước chảy róc rách trong nhà đâu đó. Vì là lần đầu đến nhà này, nên ngài không biết nước đó từ đâu chảy, hay là hồ nước trong nhà bị thủng…

Sau cùng, không thể giữ thắc mắc mãi, ngài hỏi người giúp bàn. Và người này lịch sự đáp: cách đây khoảng 40 năm, khi người ta đào móng xây nhà này, tình cờ họ khám phá mạch nước ngầm, và đó là tiếng nước chảy từ mạch nước.

Nghe nói thế, vị linh mục ngẫm nghĩ: chính nhờ mạch nước đó mà gia đình giáo dân này khá giả và ngoan đạo. (x. LMTV, Minh Họa Lời Chúa, Tập 1, tr. 63)

Nhờ mạch nước ngầm đó mà gia đình này giáo dân được sung túc. Ðiều đó làm chúng ta nghĩ ngay đến lời sứ thần chào Đức Maria khi truyền tin: kính chào Bà, Bà đầy ơn sủng, Thiên Chúa ở cùng Bà.

Mẹ Maria đón nhận đầy tràn ân sủng của Thiên Chúa, Mẹ là mạch suối bắt nguồn từ Thiên Chúa đem lại niềm vui và hạnh phúc cho những ai năng chạy đến với Mẹ để Mẹ dẫn đưa đến cùng Chúa. Vì hồng phúc, và niềm vui thánh thiện Chúa ban trong tâm hồn Mẹ mà Mẹ vui mừng, muốn được chia sẻ, muốn cao rao danh Chúa cho người khác. Vì lòng kính mến Chúa và yêu thương tha nhân tràn đầy mà Mẹ đã đến với bà Isave để giúp đỡ bà trong những ngày thai nghén.

Ðiều này cho thấy, những ai kính mến Chúa, biết mở lòng ra đón Chúa, biết cộng tác với chương trình yêu thương của Thiên Chúa thì cũng biết yêu thương tha nhân và sẵn sàng phục vụ cho lợi ích của tha nhân trong tâm tình yêu mến Chúa.

Rõ ràng, Ðức Mẹ đem Chúa đến thăm gia đình bà Isave là đem nguồn hạnh phúc đến cho gia đình Isave, khi đó, bà Isave được đầy tràn ơn Chúa Thánh Thần đã kêu lớn tiếng, ca khen Ðức Maria mà cũng là lời chúc tụng Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Nhờ Mẹ Maria đem Chúa đến gia đình Isave mà gia đình bà càng được chúc phúc hơn, thánh Gioan Tẩy Giả có lẽ được ơn đặc biệt ngay lúc đó nên biết nhảy mừng Ðấng Cứu Thế lúc còn trong dạ Mẹ. Chính Mẹ là mạch suối nước đem đến niềm vui thánh thiện cho gia đình Giacaria, để rồi khi nhận được hồng ân của Thiên Chúa ban qua Mẹ Maria, gia đình Giacaria biết hy sinh cho Chúa, sẵn sàng dâng đứa con duy nhất của mình cho chương trình của Thiên Chúa. Chính thánh Gioan Tẩy Giả khi lớn lên đã vào tu trong hoang địa, ăn châu chấu và uống mật ong rừng, để rồi khi đến thời Chúa định thì xuất thế, rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn, chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để chuẩn bị tâm hồn đón Chúa Giêsu Cứu Thế ngự đến.

Thánh Gioan Tẩy Giả đã biết đáp trả hồng ân Chúa ban cho mình và đã làm chứng cho Chúa tới cùng: chịu chết vì chân lý và nêu gương yêu kính Chúa cho mọi người.

Hôm nay, mỗi người chúng ta cũng được ban đầy hồng ân qua Bí Tích: Rửa Tội, Thêm Sức, Giải Tội… và được rước Chúa vào nhà thường xuyên, chúng ta có biết nhảy mừng đón Chúa như thánh Gioan Tẩy Giả, có biết đem Chúa đến cho mọi người xung quanh để họ cũng được niềm vui, cũng nhận được sự phục vụ của chúng ta. Nhờ vậy, họ nhận ra tình thương Chúa, được chia sẻ cùng một niềm tin với chúng ta và được phần phúc Chúa đã hứa ban cho tất cả những ai tin giữ lời Người.

Xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết bắt chước Ðức Mẹ đem Chúa đến cho mọi người và biết phục vụ mọi người theo ơn soi dẫn của Chúa Thánh Thần. Amen.

 

40. Lên đường và trao ban

(Suy niệm của Lm. JP. Quốc Toản, CRM)

Tuần cuối của Mùa Vọng này Lời Chúa mời gọi chúng ta chú trọng và khám phá ý nghĩa trung thực của Giáng Sinh: Emmanuen – Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Tiên tri Mica thách thức chúng ta cậy trông vào Thiên Chúa, đặc biệt là trong những lúc thất vọng và buồn chán. Tin Mừng kêu mời chúng ta luôn tin tưởng vào Thiên Chúa như Mẹ Maria, hầu chúng ta có thể mang Ngôi Lời Nhập Thể, chính là Chúa Giêsu thành Nagiarét, đến cho mọi người và trở nên dấu hiệu sự hiện diện của Thiên Chúa đến cho nhau.

Giáng Sinh đã trở thành một đại lễ của gia đình. Khoảng thời gian này nhiều người, trong đó có lẽ có chúng ta, đang trên đường hoặc sẽ lên đường trở về họp mặt với gia đình và họ hàng. Giáng Sinh là một đại lễ mang lại niềm vui qua việc gặp lại những người thân yêu và là dịp trao đổi quà cáp.

Tin Mừng hôm nay ghi lại việc Đức Mẹ viếng thăm bà dì Êlisabét và niềm vui đã diễn ra giữa hai người. Mẹ Maria có một bí mật nóng bỏng muốn bật mí và chia sẻ cho một người hiểu được Mẹ. Sứ thần đã cho Mẹ biết là Êlisabét cũng đã đón nhận một đặc ân kỳ diệu từ Thiên Chúa, đó là bà đã thụ thai trong tuổi già. Bà là người hiểu được những gì đã xảy ra cho mình. Mẹ Maria cũng biết rằng Êlisabét, đang mang thai trong tuổi già, cần có một người thông hiểu và giúp đỡ. Vì thế, Mẹ đã mang đến cho Êlisabét sự chúc phúc của người con trong lòng Mẹ. Ngoài ra, Mẹ cũng đích thân phục vụ Êlisabét trong lúc bà cần nhất. Mẹ đã ở lại với Êlisabét ba tháng, thời gian Êlisabét cần sự giúp đỡ cho đến khi sinh con. Sau đó Mẹ mới nghĩ đến việc trở về nhà mình.

Mẹ Maria và bà Êlisabét đã dọn mình và mong đợi để đón nhận món quà cao cả là Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa và là Đấng Cứu Độ nhân loại. Trong ba tuần qua chúng ta cũng đã dọn mình và mong đợi. Chúng ta mong đợi Đấng Cứu Thế tái sinh trong tâm trí  và  tâm  hồn  của nhân loại. Mong đợi có thể mang lại sự chán nản. Tuy  nhiên, ngày mong  chờ  càng  gần thì sự phấn khởi càng trào dâng. Hãy để sự phấn khởi đó trở thành những  hành  động vui vẻ và bác ái trong những  ngày  lễ  đang chờ đợi chúng ta.

Xin Mẹ Maria giúp chúng ta biết sống thế nào để qua chúng ta, Chúa Kitô có thể mang một thân xác mới; qua chúng ta, Chúa Kitô có thể trở nên hiện thực cho mọi người; và qua chúng ta, Chúa Kitô có thể thắp sáng cuộc sống của những người bần cùng với ngọn nến hy vọng. Xã hội vẫn còn những Êlisabét cần đến sự thăm viếng của chúng ta. Vì vậy, trong khi chờ đợi Chúa đến, như Mẹ Maria, chúng ta cùng nhau đến với tha nhân và trao ban cho họ niềm vui và an bình. Được thế thì Lễ Giáng Sinh không chỉ đơn giản là một dịp họp mặt chia sẻ niềm vui trong gia đình nhỏ bé của mình, nhưng còn là dịp để chúng ta thì hành bác ái với những ai đang cần sự giúp đỡ của chúng ta.

 

41. Tha nhân được chúc phúc

(Suy niệm của Lm. Barnaba Lê An Phong)

Người môn đệ Chúa với khoé nhìn “tha nhân là người được Chúa chúc phúc”

Tuần thứ IV Mùa vọng, chúng ta chiêm ngắm Khuôn mặt Mẹ Maria và những tâm tình nhân hậu của Mẹ với người khác, qua tường thuật Tin mừng của Thánh Luca về việc Mẹ đi thăm bà Elisabeth.

Cuộc sống của chúng ta là những cuộc gặp gỡ nhiều người, nhiều nơi, nhiều lúc, nhiều sắc thái và nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau. Cuộc gặp gỡ của Maria và Elisabeth khá đặc biệt, theo lời tường thuật của Luca. Họ là hai người phụ nữ – lớp người thuộc vào hạng không mấy quan trọng trong xã hội thời đó. Một điều đặc biệt hơn nữa, nếu chúng ta nhìn dưới góc độ văn hóa, tôn giáo và xã hội: Maria, cô thiếu nữ chưa làm đám cưới (dù đã đính hôn, nhưng Giuse chưa rước cô về nhà để chung sống), chưa sống chung mà đã mang thai (có thể bị gán cho tội “không đứng đắn”, phạm tội ngoại tình và sẽ bị ném đá). Bà Elisabeth, người phụ nữ đã già mà chẳng sinh con; người đàn bà son sẻ, hiếm muộn có thể bị gán cho số phận không may mắn, bị sỉ nhục và “bị chúc dữ” (xem St 29,31; 1Sm 1, 10; Is 4,1; Lv 20,20-21; 2Sm 6, 23).

Dưới mắt người đời thời đó, và theo khóe nhìn tôn giáo và văn hóa Do thái giáo, ít nhất là chúng ta có thể “giả định”, hai phụ nữ này chẳng có gì để đem ra ca tụng. Hơn thế, ta phải nói đến chuyện một người sẽ bị đem ra ném đá và người kia có thể được gọi là “kẻ bị Thiên Chúa chúc dữ”. Điểm đáng nói nữa là chuyện hai người phụ nữ khi gặp gỡ, họ còn chào và gọi nhau là “đầy ơn phúc”, “được chúc phúc”. Họ muốn “tung hô nhau” hay tự “xông hương” cho nhau chăng? Họ thật sự “có phúc” không, và “phúc’ của họ là gì, từ đâu mà có?

Họa hay phúc, ta có thể đánh giá rất chủ quan và có thể bị sai lệch. Có thể mọi sự sẽ xảy ra như chuyện “Tái ông thất mã”, và cuộc sống xem ra là là một chuỗi dài của chuyện “phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí”…

Từ câu chuyện của Maria và Elisabeth, chúng ta có thể nói rằng chỉ có ai là “người trong cuộc” mới có thể hiểu được mối phúc mà hai người phụ nữ này có được. Đó là điều kỳ diệu mà Thiên Chúa muốn làm, hay nói cách khác, là chuyện Thiên Chúa can thiệpcách đặc biệt vào cuộc đời của họ. Maria và Elisabeth chính là “những người trong cuộc”, là những người bị “dính vào chuyện của Thiên Chúa”. Và từ đó, thái độ của hai người phụ nữ ấy càng đặc biệt hơn khi họ biết nhìn ra hạnh phúc thật nơi những điều mà người thế gian cho là bất hạnh. Thật thế, chúng ta có thể kể ra những điểm sau:

1) Cả hai người phụ nữ nhận ra thân phận bé mọn của mình; họ “biết mình” bằng sự khiêm tốn chứ không vì tự ti, mặc cảm. Bởi thế họ mới có thể reo lên Linh hồn tôi ca ngợi Đức Chúa, tâm trí tôi hớn hở vui mừng.

2) Họ hiểu rằng ngay chính nơi sự cùng khốn của mình, Thiên Chúa đã làm những điều cao trọng. Từ đó họ tuyên xưng rằng Người là Đấng Quyền năng vàdanh Người chí thánh chí tôn, là Đấng trung tín và giàu lòng yêu thương – Chúa hằng “thương xót những ai kính sợ Người”.

3) Họ tin rằng những điều cao trọng đã và đang xảy ra cho mình không phải do ý muốn riêng đạt được hay đó là phần thưởng xứng hợp với công trạng của mình, nhưng là do Thánh ý Thiên Chúa và lời giao ước tình yêu của Người với nhân loại, qua dân Israel, với cha ông của họ từ thưở trước.

4) Họ không bận tâm quá nhiều đến chuyện xầm xì của thế gian về những bất hạnh của riêng mình cho bằng phó thác tất cảmọi sự vào tình yêu thương, lòngtrung tínvàsự công minh của Thiên Chúa từ đời nọ trải qua đời kia.

Mẹ Maria và bà Elisabeth đã nhìn nhau và nhận ra nơi mỗi người hồng ân của Thiên Chúa, rồi gọi nhau bằng tên gọi của những “người được chúc phúc” hay là “người có phúc”. Còn chúng ta? Khóe nhìn nào mà chúng ta có được khi hướng tới tha nhân?

Hãy nhìn thực tế cuộc sống bên ngoài cộng đoàn chúng ta: Khắp nơi đầy dẫy những chuyện ghen ghét, lọc lừa. Người ta đánh giá nhau dựa vào những gì bên ngoài hay ở “bề nổi”. Nhiều bạn trẻ đã không dám nhìn vào người khác, vì một cái nhìn bị cho là “đểu” có thể là nguyên nhân vô duyên nhất gây nên cái chết oan khiên của một mạng người. Sự đố kị, cạnh tranh, chèn ép có mặt ở khắp nơi… Có lẽ khi con người lấy tiền tài, vật chất và vẻ hào nhoáng bên ngoài làm thước đo các giá trị và là mục đích tối thượng thì người ta sẽ nhìn tha nhân với một khóe nhìn tiêu cực: “Tha nhân là địa ngục của tôi”, nói như triết gia Jean Paul Sartre. Và cứ theo kiểu như vậy, người đứng trước mặt tôi luôn là “nguy cơ”, chính là “tai họa” và là “đầu mối của mọi rắc rối” cho tôi! Từ đó, trong các mối tương quan nhân vị, sự lựa chọn bắt buộc sẽ nhằm vào việc triệt thoái hay hạ bệ lẫn nhau. Khi ta không còn khả năng nhìn ra được điều tốt lành nơi người khác, thì ta chẳng còn biết yêu thương hay trân trọng ai cả.

Quay lại nhìn cuộc sống hằng ngày bên trong mỗi cộng đoàn ki tô hữu, chúng ta có thể thấy thêm điều gì? Thưa, đó là sự đố kị, tiếng xầm xì, lời trách cứ, chuyện chê bai cách công khai hay ngấm ngầm và việc xúc phạm đến nhau, sự tự tôn, sự tự ty, óc bè phái,…Tất cả chính là thuốc độc làm hao mòn, gặm nhấm các phần tử và tàn hại thân xác mầu nhiệm của Chúa Kitô. Bên trong các cộng đoàn kitô hữu còn có cả căn bệnh tính toán, so đo thiệt hơn hoặc kiểu hành xử theo chiều hướng khác của bệnh dửng dưng, vô cảm; của lối sống cá nhân ích kỷ và thiếu trách nhiệm. Đây là điều mà trước đây Thánh Phaolo đã nhắc nhở các tín hữu trong các cộng đoàn của ngài, và giờ đây, vẫn còn là một thực tế mà mỗi chúng ta có thể trải nghiệm.

Như Mẹ Maria, mỗi chúng ta có thể làm gì? Hãy học biết cách sống khiêm cung và biết đón nhận cuộc sống như một tặng ân vô giá, là hồng ân được hiệp thông vào Đấng yêu thương và cũng chính là Cùng Đích cao trọng mà mỗi chúng ta khao khát đạt đến.

Như Mẹ Maria, ta hãy biết vui mừng vì được Chúa yêu thương, biết tạ ơn vì được Chúa gọi mời cộng tác với Ngài.

Như Mẹ Maria, chúng ta hãy nhìn anh chị em của mình bằng ánh mắt khiêm cung và trái tim rộng mở, biết cảm thông và bao dung hơn khi đón nhận người khác, để nhờ đó ta có thể đọc ra dấu chỉ tình yêu và hồng ân mà Thiên Chúa trao ban cho mỗi người và nơi mọi người; như chính Người “đã cho mặt trời chiếu sáng trên người lành cũng như trên kẻ dữ” (Mt 5, 45).

Bước vào những ngày cuối của Mùa Vọng, chúng ta hãy chuẩn bị cùng Mẹ lên đường mang Chúa đến cho người khác như mang một qua tặng quý giá của tình yêu thương, niềm cảm thông lớn lao hơn cả cho mọi người giữa thế giới mà tình người đang có nguy cơ bị hoang mạc hoá.

 

42. Bước theo Mẹ

Người ta thường nói mùa vọng là mùa của Đức Trinh Nữ Maria điều đó thật chí lý. Nếu Gioan Baotixita và Isaia gương mẫu cho ta trong mùa vọng thì Đức Maria sẽ là gương mẫu tuyệt hảo hơn nữa. Mẹ không chỉ là người dọn đường mà còn là một nhân vật cần thiết cho việc nhập thể theo chương trình của Thiên Chúa an bài. Ta có thể nói được rằng, Giáo Hội tìm thấy nơi Đức Maria thái độ thiêng liêng để cử hành và sống các mầu nhiệm, đặc biệt là mầu nhiệm nhập thể. Vì Đức Maria là mẫu gương biết lắng nghe Lời Chúa và rao giảng lời Người.

  1. Lắng nghe lời Chúa với niềm tin mãnh liệt

Có thể tóm lại cuộc đời Đức Mẹ với hai chữ “Fiat”. Nhưng để đạt được hai chữ này cách trọn vẹn, đòi hỏi nơi Đức Maria niềm tin mãnh liệt. Tương tự thời Cựu Ước tổ phụ Áp-ra-ham muốn có một dân tộc đông như sao trên trời, như cát bãi biển, có miền đất hứa làm gia nghiệp thì cũng phải có niềm tin. Đức tin là điều kiện cần, vì nó vừa là khởi điểm vừa là con đường đưa Đức Maria tới địa vị làm Mẹ Thiên Chúa, bởi vì theo lời thánh Augustinô”Đấng mà Mẹ Maria sinh hạ trong đức tin, cũng là Đấng Ngài cưu mang trong đức tin nữa”. Với một niềm tin sâu xa Mẹ đã đáp lại lời sứ thần Gabriel rằng “Đây tôi là nữ tỳ của Chúa xin làm cho tôi như lời sứ thần đã nói”. Thế là từ đấy người nữ tỳ Maria hiển nhiên trở thành Mẹ Thiên Chúa. Nếu nhìn thân sâu hơn, ta thấy Đức Maria đã cưu mang Chúa bằng đức tin nơi tâm hồn trước khi cưu mang thân xác Ngài trong lòng dạ mình bởi quyền năng Chúa Thánh Thần. Chính vì đức tin đó mà Mẹ được gọi là diễm phúc “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”. Như vậy nhờ đức tin, Maria đã đóng vai trò chủ động và chứng nhân trong cuộc nhập thể. Hơn nữa, Đức Maria còn ghi sâu những việc xảy ra để suy niệm trong lòng. Mùa vọng là mùa trông chờ Chúa đến, thì Đức Maria là gương mẫu tuyệt vời, Mẹ đã tiếp nhận Chúa, tin tưởng và phó thác. Ước gì mỗi người chúng ta cũng có tấm trạng như Đức Maria trong mùa vọng này, và tin nhận những lời Chúa hứa đã và đang thực hiện ngay trong đời của mình.

  1. Con người truyền giáo

Việc Mẹ Maria lên đường thăm người chị họ là điều rất tự nhiên, và cũng muốn giúp đỡ người chị họ trong lúc sinh nở là điều bình thường. Nhưng đàng sau cái bình thường đó là cả một sự phi thường, một sáng kiến và quyết định cá nhân có sự hướng dẫn của Thánh Thần. Chỉ cần một lời tiên báo của Sứ Thần cộng với ơn thánh đã thúc đẩy Mẹ đem Chúa đến cho người khác. Đặc biệt bài phúc âm nói đến hai từ “vội vã” để nói lên một hành động cấp bách và dứt khoát. Một khi đã ưng thuận Thánh Ý Chúa, vâng theo tiếng gọi của Ngài, thì không được chậm trễ và nặng nề, nhưng vui vẻ và lạnh lẹ. Qua Bí Tích Rửa Tội mỗi người chúng ta cũng có trách nhiệm đem Chúa đến cho người khác. Con đường truyền giáo cần những con người nhiệt thành, với những bước chân nhanh nhẹn và một tinh thần cởi mở, dầu trên con đường có nhiều khó khăn.

Việc Mẹ là một thiếu nữ trẻ tự ý làm một cuộc hành trình dài 3 ngày đường, rồi còn ở lại đó mấy tháng trời xa nhà, hẳn phải là một cái gì đó gây kinh ngạc cho người Do Thái thời đó, và có thể bị coi là quá đáng. Nhưng Đức Maria đã bất chấp tất cả, những cái nhìn phàm trần đó một khi đã muốn thực hiện Thánh Ý Chúa. Ngày nay những cái nhìn khó chịu, những lời nói mỉa mai, những hành động khiu khích…. Cũng nhan nhãn nhằm chống đối những con người truyền giáo. Vì thế chúng ta hãy học theo mẫu gương Mẹ Maria chấp nhận tất cả, cũng như Mẹ ngày xưa cũng phải chịu rất nhiều đau khổ khi chấp nhận thi hành Thánh Ý Chúa. Vì khi bước theo Chúa chính là chấp nhận vác thánh giá với Người. Mỗi người đều được Chúa mời gọi và đều được Chúa ban cho Thánh Giá, tùy vào hoàn cảnh tùy vào khả năng. Nhưng điều quan trọng là phải biết thưa “Xin vâng” và thì hành với tinh thần “Vội vã” lên đường như Đức Maria hôm nay, để cùng đem Chúa đến cho người khác trong Mùa vọng này.

Lạy Chúa, ngày nay có rất nhiều người chỉ biết hưởng thụ, mà không biết phục vụ, chỉ nhận mà không biết cho. Xin cho mỗi người chúng con biết rằng mình đã nhận rất nhiều nơi Chúa. Đặc biệt là chính Chúa để chúng con cũng biết đem Chúa đến cho người khác. Amen.

 

43. Chia sẻ niềm vui

(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng OP)

Chúng ta đang sống trong Mùa Vọng, mùa chuẩn bị mừng lễ Chúa Giêsu giáng sinh. Trong Mùa Vọng, có ba nhân vật nổi bật luôn được nhắc đến, đó là ngôn sứ I-sai-a loan báo Đấng Thiên sai sẽ đến. Đó là thánh Gio-an Tiền Hô, người mở đường và dọn đường cho Đấng Thiên Sai đến. Nhân Vật quan trọng thứ ba là Đức Maria, qua Mẹ, Đấng Thiên sai đã đến trần gian, và nhờ Mẹ, ơn cứu rỗi bắt đầu được thực hiện. Vì thế, trong suốt Mùa Vọng, chúng ta được nghe đọc những lời loan báo của I-sai-a, được nhận biết cuộc đời và sứ mạng của Gio-an Tiền Hô, và hôm nay, bài Tin Mừng trình bày cho chúng ta chân dung Đức Mẹ qua việc Mẹ đi thăm viếng bà chị họ Ê-li-sa-bét, chúng ta quen gọi theo ảnh hưởng của các cố Tây Ban Nha là bà I-sa-ve.

Khi sứ thần Gáp-ri-en đến báo tin cho Đức Mẹ biết: Đức Mẹ rất có phúc vì đã được Thiên Chúa chọn làm mẹ Con Thiên Chúa. Và để bảo đảm cho lời truyền tin này, sứ thần đã đưa ra một bằng chứng về quyền năng của Thiên Chúa: “Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng, vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”. Khi được sứ thần cho biết như thế, sau đó ít ngày, Đức Mẹ đã đi thăm bà Ê-li-sa-bét và ở lại giúp đỡ ba tháng. Những lý do nào đã thúc đẩy Mẹ Maria đi thăm bà Ê-li-sa-bét?

Lý do đơn giản trước nhất là Đức Mẹ đã coi những lời sứ thần báo tin về bà chị họ là một lời mời thăm viếng, hỏi thăm. Thứ hai, có thể Đức Mẹ đi để kiểm điểm, xem xét dấu chứng mà sứ thần đã đưa ra, đó là việc bà Ê-li-sa-bét có thai có đúng không? Tuy nhiên, làm thế không có nghĩa là Đức Mẹ hồ nghi lời sứ thần truyền tin cho mình. Bởi vì Đức Mẹ đã thưa: “Xin vâng”, tức là Đức Mẹ đã tin rồi. Thứ ba, có thể Đức Mẹ ra đi để chia sẻ niềm vui và có dịp cùng bà chị họ chúc tụng Thiên Chúa, vì cả hai đều được hưởng đặc ân Thiên Chúa. Lý do thứ tư, lý do chính, là lòng bác ái, yêu thương của Đức Mẹ. Lòng tốt, bác ái, giúp đỡ, chia sẻ… đã thúc bách Đức Mẹ lên đường. Bởi vì gia đình bà Ê-li-sa-bét neo đơn, cả hai ông bà đã già yếu, cần sự giúp đỡ trong những tháng cuối cùng thai nghén và trong thời gian sinh hạ.

Mẹ Maria đi thăm gia đình Da-ca-ri-a là để chia sẻ một niềm vui trong gia tộc, Mẹ đã quên mình ra đi đem niềm vui cho người khác. Vì thế, có thể nói Mẹ ra đi truyền giáo. Đức Mẹ đã là một nhà truyền giáo đầu tiên, là đem Đấng Cứu thế đến cho bà chị họ và riêng cho Gio-an Tiền Hô. Vì thế, thai nhi Gio-an nhảy mừng trong lòng mẹ. Tóm lại, Mẹ đã đem lại niềm vui cho gia đình bà chị họ và cũng tạo thêm cho Mẹ niềm vui.

Đức Mẹ đã quên mình ra đi, đem niềm vui cho người khác. Đó cũng là bổn phận của chúng ta. Chúng ta sống với nhau, chúng ta hãy là một ánh bình minh gieo vui nắng ấm tình thương, đức tin, hy vọng cho những người chung quanh, nhất là những người đang gặp u buồn tăm tối. Phải biết vui với người vui, khóc với người khóc. Xin Chúa cho chúng ta, bất cứ đi đâu, đến đâu, gặp ai, họ đều nhận được nơi chúng ta niềm vui.

Trong việc đi thăm và ở lại ba tháng giúp đỡ gia đình bà Ê-li-sa-bét, chúng ta thấy có năm đặc tính trong đức bác ái của Đức Mẹ: Thứ nhất, Mẹ để ý đến nhu cầu của người bà con, để ý đến hoàn cảnh gia đình bà Ê-li-sa-bét cần sự thăm hỏi, giúp đỡ. Thứ hai, dù là chỗ họ hàng, mà chỉ là họ hàng xa, không bó buộc theo phong tục thăm viếng, giúp đỡ, nhưng Mẹ đã nhận trách nhiệm ấy cho mình. Bởi vì bác ái thì không phân biệt xa hay gần, thân hay sơ. Thứ ba, Mẹ không quản ngại đường sá xa xôi, nguy hiểm và vất vả. “Đường đi khó không khó vì ngăn sống cách núi, nhưng khó vì lòng người ngại núi e sông”. Đường đi có thể khó khăn, nguy hiểm, nhưng nếu vì bác ái, vì lòng người đã quyết thì khó khăn đến đâu cũng không quản ngại. Đức Mẹ là người đã có tấm lòng như thế. Thứ tư, Mẹ kiên tâm giúp đỡ suốt ba tháng trời. Đó là bác ái cụ thể nhất. Bởi vì yêu thương bằng lời nói thì có thể bị coi là đầu môi chót lưỡi. Bác ái yêu thương trong lòng thì thiêng liêng vô hình, không cảm nhận được. Nên giúp đỡ, chia sẻ cụ thể là bằng chứng lòng yêu thương rõ ràng nhất. Đức Mẹ đã làm như thế. Thứ năm, Mẹ mang Chúa đến cho gia đình bà Ê-li-sa-bét. Mẹ đã đem Đấng Cứu Thế đến cho bà chị họ, nhất là cho Gio-an Tiền Hô, nên Gio-an đã nhảy mừng trong lòng mẹ. Mẹ đã đem ơn Chúa đến cho người khác.

Đây cũng là bài học Đức Mẹ dạy chúng ta. Vì thế, khi suy niệm mầu nhiệm thăm viếng này, Giáo Hội bảo chúng ta hãy học gương yêu người của Đức Mẹ. Chung quanh chúng ta hay gia đình họ hàng chúng ta có rất nhiều dịp đòi chúng ta phải thăm viếng, giúp đỡ. Chúng ta đừng bao giờ giả điếc làm ngơ hay giả mù không thấy để rồi khép kín lòng chúng ta lại trước những người đang cần chúng ta thăm viếng, an ủi, giúp đỡ. Tóm lại, chúng ta hãy sống với nhau bằng tình người chứ đừng vì lý lẽ này hay lý do nọ, vì bác ái yêu thương thì không có giới hạn hay bất cứ một phân biệt nào.

Thiên Chúa rất hài lòng khi thấy chúng ta sống tình liên đới với nhau. Biết chia sẻ những hồng ân Ngài ban cho chúng ta. Ngài muốn chúng ta biết chia sẻ và thông cảm với nhau một cách tươi vui, với tâm hồn biết ơn, với ý định thành thật ngay chính, không hậu ý lợi dụng. Ngài không muốn chúng ta chia sẻ vì những hậu ý đen tối, chẳng hạn như để thỏa mãn cái tôi tự tôn hay tính khoe khoang, phô trương, kiêu ngạo của chúng ta. Thánh Phao-lô đã dạy: “Mỗi người trong anh em hãy cho đi, hãy chia sẻ với nhau tùy theo ý định tốt lành của lòng mình. Không cau có, không tính toán, không miễn cưỡng, vì khi chúng ta vui mừng trao ban thì Thiên Chúa mới nhận lời”.

Chúng ta không có đủ khả năng hay điều kiện để đáp ứng mọi nhu cầu của anh chị em chung quanh. Nhưng gần bên chúng ta lúc nào cũng có những người cần đến những trợ giúp nho nhỏ của chúng ta: Những nụ cười cảm thông, những lời nói khuyến khích, những lời hỏi thăm chân tình…đó là những điều ở trong tầm tay của chúng ta. Có những người không cần chúng ta chia sẻ giúp đỡ về tiền bạc vật chất, chỉ cần chúng ta chia sẻ những niềm vui nho nhỏ trên đây.

 

44. Gặp gỡ: Thành sự tại nhân

(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

Gặp gỡ là cùng có mặt tại một không gian, là sự giáp mặt, tiếp xúc giữa những người thân quen hay cùng có một mối liên hệ nào đó. Vào Chúa Nhật IV Mùa Vọng C này giáo hội khi dọn cho chúng ta bàn tiệc Lời Chúa, đặc biệt qua bài Tin mừng, muốn giới thiệu hai cuộc gặp gỡ. Một là giữa hai chị em Isave và Maria và hai là giữa Thai Nhi Giêsu với bà Isave và Thai nhi Gioan Tẩy giả. Đã nói đến sự gặp gỡ thì hàm ý có những hiệu quả tốt đẹp phát sinh. Qua cuộc gặp gỡ giữa hai bà mẹ cũng như hai thai nhi trên, hiệu quả tốt đẹp đã xảy ra. Bà Isave đầy ân sủng Thánh Thần, xác nhận sự diễm phúc của cô em Maria cũng như nói lên hồng ân mà trẻ bé Gioan Baotixita trong dạ của bà đang hưởng nhận. Chúng ta đừng quên cuộc gặp gỡ ấy cũng đem niềm vui cho cả nhà Giacaria, vì nay đã có người góp sức cho việc hạ sinh trẻ Gioan. Điều này được hé lộ khi Tin mừng tường thuật rằng Maria ở lại với gia đình Giacaria – Isave độ ba tháng mới trở về nhà mình (Lc 1,56).

“Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ. Vô duyên đối diện bất tương phùng”. Câu đối của người xưa nhấn mạnh đến cái duyên, tức là phần số đã được trời sắp đặt, chuẩn bị, an bài từ trước, như là nguyên nhân chính làm nên sự gặp gỡ hay không gặp gỡ. Theo viễn kiến này, thì người ta cũng có thể nói như người xưa: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên” hoặc như tác giả Thánh Vịnh: “Ví như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công” (Tv 126,1). Thế nhưng dưới cái nhìn của mạc khải thời Tân Ước, thì phải chăng chúng ta cũng có thể nói ngược lại: Mưu sự tại thiên, thành sự tại nhân.

Mưu sự tại thiên: Thiên Chúa đã yêu thương, chọn gọi loài người từ ngàn xưa để ban cho con người hạnh phúc vĩnh cửu là thông phần sự sống với Người trong Con Một của Người là Đức Kitô. Thánh Phaolô đã trình bày ý định nhệm mầu này bằng bản thánh ca: “…Trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã chọn ta trước khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người. Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử, nhờ Đức Giêsu Kitô, để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân sủng Người ban tặng cho ta trong Thánh Tử yêu dấu. Trong Thánh Tử, nhờ máu Thánh Tử đổ ra, chúng ta được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi, theo lượng ân sủng rất phong phú của Người…”(Eph 1,3-14).

Thánh ý của Thiên Chúa là ban cho thế gian chính Con Một dấu yêu, trong một thân xác cụ thể, làm dấu chỉ và làm phương thế cho sự gặp gỡ giữa Thiên Chúa với con người. Tác giả thư gửi tín hữu Do Thái đã nói: “Khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con” (Dt 10,5-7). Khi ban Người Con Một vào trần gian, Thiên Chúa muốn mạc khải cho biết nguồn gốc đích thực của mọi loài, cách riêng loài người chúng ta chính là Người, vị Thiên Chúa duy nhất đầy quyền năng đáng tôn thờ và cũng là người Cha đầy lòng thương xót đáng mến yêu trên hết mọi sự, đồng thời qua đó, mạc khải cho chúng ta biết mình là anh chị em với nhau, bất phân màu da, sắc tộc, ngôn ngữ…(x.Mt 5,9; 43-48). Nói một cách không sợ sai lầm rằng chúng ta đã biết một trong những nội hàm của “mưu sự tại thiên”: Đó là Thiên Chúa muốn mọi người gặp gỡ Người để được hạnh phúc và gặp gỡ nhau để sống tình huynh đệ.

Thành sự tại nhân: Chúng ta vốn quen với câu nói của thánh giáo phụ Âugustinô: “Thiên Chúa dựng nên tôi không cần có tôi, nhưng Người không thể cứu tôi mà không cần có tôi”. Thánh giáo phụ vừa nói lên quyền năng cao cả của Thiên Chúa, vừa nói lên đường lối của Người, Đấng là Tình Yêu (x.1Ga 4,8). Thiên Chúa đã thương ban cho loài người, hình ảnh của Người, có lý trí và ý chí tự do. Đây là hệ lụy tất yêu của tình yêu. Tình yêu đòi hỏi có sự ý thức và tự nguyện. Có thể dễ bị hiểu lầm là kiêu ngạo khi đề cao vai trò của nhân loại, thế nhưng đó là một cách thế hành động của Thiên Chúa. Dù rằng đầy quyền năng và không có sự gì là không thể, nhưng Thiên Chúa lại muốn có sự tự do cộng tác của con người trong việc thi ân, cứu độ con người.

Để chuẩn bị một dân tuyển lựa, Thiên Chúa không bắt ép, nhưng mời gọi Abraham, một người chăn nuôi súc vật đã khá cao niên lên đường (x. St 12,1-5). Để cho Ngôi Lời Nhập thể cứu đời, Thiên Chúa không ra chỉ thị mà lại ngỏ ý, đề nghị Maria, một thiếu nữ thôn dã cộng tác (x. Lc 1,26-38). Khi công khai rao giảng tin mừng Chúa Giêsu thường lặp đi lặp lại câu nói: “Ai có tai để nghe thì hãy nghe!” (Mt 11,15).

Điều gì cần có nơi phía loài người để thánh ý Thiên Chúa được thành sự? Chúng ta có thể nhận ra đó là lòng thành và sự khiêm nhu trong một tâm hồn đầy lửa mến, khát khao sự thiện. Để cho thánh ý Thiên Chúa được thành hiện thực, nghĩa là có sự gặp gỡ thực sự giữa Thiên Chúa với con người, giữa con người với nhau, thì phía con người không thể thiếu:

– Một sự hướng thiện trong tình mến: Biết bao cuộc họp mặt giữa người với người, giữa vị đại diện quốc gia này với quốc gia kia mà vẫn chưa trở thành sự gặp gỡ, nghĩa là chưa mang lại kết quả. Trong nhiều lý do rất có thể có lý do là một trong hai phía chưa thực sự có tình yêu thương nhau hoặc chưa thực sự hướng thiện, nghĩa là tìm kiếm điều tốt trong chân lý.

– Một tấm lòng thành đầy sự khiêm nhu: Khi sinh thời, cách riêng trong quảng đời rao giảng công khai, Chúa Giêsu đã tiếp xúc rất nhiều người nhưng vẫn có đó không ít người chưa gặp gỡ Người mà trong số đó có nhiều người biệt phái, luật sĩ. Lý do chính yếu mà tin mừng tường thuật, đó là vì họ thiếu lòng thành và sự khiêm hạ. Họ là những người có tai mà không nghe, đúng hơn là không thèm nghe; có mắt mà không thấy, đúng hơn là không muốn thấy. Làm sao có sự gặp gỡ khi một phía cố tình bịt tai, che mắt?

Trở lại với hai bà mẹ đang mang thai, một trẻ, một già là Isave và Maria. Tình yêu của của hai bà mẹ dành cho Thiên Chúa, cho con người đã quá rõ. Một người tuy như là bất hạnh trước người đời vì son sẻ mà vẫn kiên trung trong sự công chính trước mặt Thiên Chúa và không ai chê trách được điều gì (x.Lc 1,6), một người thì tràn trề ân sủng (x.Lc 1,28), và cả hai đều đầy ơn Thánh Thần (x.Lc 1,35; 41). Lòng thành và sự khiêm hạ của Maria đã rõ nét qua lời thưa xin vâng và lời ca Magnificat: “Chúa đã đoái thương phận hèn tớ nữ…”(x.Lc 1,48). Bà Isave đã nhìn nhận tất cả là ơn Chúa “khi Người đã thương cất nỗi hổ nhục bà phải chịu trước mặt người đời” (Lc 1,25).

Thiên Chúa không chỉ muốn mà còn tìm mọi cách để gặp gỡ con người, đồng thời giúp con người gặp gỡ nhau. Thế nhưng trong vấn đề này, chúng ta có thể nói rằng “mưu sự tại thiên mà thành sự tại nhân” vậy.

 

45. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng

Anh chị em thân mến.

Nước Việt Nam chúng ta nằm trong một vùng mà năm nào cũng chịu ảnh hưởng gió mùa hơi khắc nghiệt, chính vì thế nên năm nào cũng có những trận bão lụt, khiến cho người người phải vất vã khó khăn hơn. Như vừa qua, cơn bão đã ghé thăm miền trung của chúng ta, cơn bão bất ngờ gây thiệt hại rất nhiều về tài sản và người, khiến cho cả thế giới phải động lòng, tìm mọi phương cách để giúp đỡ những người đang trong hoàn cảnh khó khăn. Chúng ta thử suy nghĩ: Nếu người cho mà không có người nhận, thì việc làm của họ sẽ trở nên vô ích. Còn người cho, mà thấy người nhận thật sự cần thiết và đang trong tình trạng chờ đợi, thì việc làm đó mới là một việc làm có ích lợi thật sự, và mang đầy đủ ý nghĩa của nó. Việc làm này mang lại niềm vui cho cả hai bên, người cho lẫn kẻ nhận: vì người cho thấy mình đang thực hiện một việc làm có ý nghĩa và mang lại lợi ích cho bao nhiêu người đang cần thiết và chờ đợi. Còn người nhận thì vì tình trạng đang thiếu thốn, đang chờ đợi có người giúp đỡ, để vượt qua được tình trạng khó khăn hiện tại mà mình đang bất lực. Một việc làm mà đem lại niềm vui cho cả hai bên: người cho lẫn kẻ nhận.

Mẹ Maria đã nhận ra điều đó, nhận ra được niềm vui Thiên Chúa mang đến cho mình, đồng thời cũng nhận ra được nhu cầu của người khác đang cần đến niềm vui mà Mẹ đang tận hưởng, nên Mẹ không thể ngồi yên. Mẹ vội vã lên đường đáp ứng nhu cầu cho người khác đang cần đến. Việc phục vụ sẽ gặp nhiều trở ngại khó khăn về hoàn cảnh, địa hình. Nhưng Mẹ vượt qua tất cả, cho dù sức lực yếu đuối, Mẹ cũng vượt qua đồi núi, địa hình hiểm trở, để mang niềm vui cho người cần đến. Người cần cũng biết đón nhận, nên niềm vui được nhân đôi. Chúng ta thấy bà Elisabeth vui mừng vì nhận ra được niềm vui mà bà đang cần thiết và chờ đợi. Bà cũng không thể lặng thinh, bà đã cảm tạ Thiên Chúa, cảm tạ người mang niềm vui bất ngờ đến cho mình. Đó là cách bà biểu lộ niềm vui đón nhận hồng ân của Thiên Chúa.

Biết bao người đã từng lãnh nhận, không phải một lần, mà rất nhiều lần những ân huệ của Thiên Chúa, nhưng vẫn không có được niềm vui, vẫn không tỏ lộ một cử chỉ cảm tạ nào, vẫn không bằng lòng với những gì mình đã nhận được. Cũng có rất nhiều người không bao giờ biết bước chân ra đi, không bao giờ biết mang những gì mình có để tạo niềm vui cho mình và cho người khác. Chính vì thế họ luôn lo sợ, khó chịu và không bao giờ bằng lòng với cuộc sống, vì họ chỉ biết lo cho mình mà không bao giờ dám nhìn thấy nhu cầu của bao người chung quanh, chính vì thế không bao giờ họ có niềm vui. Không muốn cho người khác niềm vui, đó cũng chính là không biết chờ đợi và đón nhận niềm vui.

Còn chúng ta, những người đang ngồi đây, những người đang lắng nghe, những người đang nhìn thấy những diễn biến của thời đại. Nhưng không biết chúng ta có nghe và thấy được những gì cần thiết hay không? Chúng ta có thấy được nhu cầu của bao người chung quanh, chúng ta có thấy được sự chờ đợi mỏi mòn của những người đang thống khổ để đáp ứng không?

Họ đang chờ đợi chúng ta mở rộng lòng nhân ái để đến với họ và nói lên những lời yêu thương, những lời tha thứ. Họ đang chờ đợi ánh mắt dịu hiền hòa nhã, để họ có được niềm vui trong cuộc sống. Họ đang chờ đợi chúng ta mở rộng đôi tay để cho họ những gì cần thiết. Họ cũng đang chờ đợi những bước chân đi tới của chúng ta, để ban cho họ niềm vui, đồng thời chúng ta cũng nhận được niềm vui, vì thấy mình làm một việc có ý nghĩa. Nếu chúng ta thấy và đáp ứng được những nhu cầu như thế cho những người chung quanh. Đó là chúng ta đã học được bài học của Mẹ Maria là biết đem niềm vui đến cho người khác. Đồng thời chúng ta cũng học được bài học biết ơn, cảm tạ vì biết đón nhận Hồng Ân Thiên Chúa mà bà Elisabeth đã làm. Thiên Chúa đã đem Hồng Ân đến cho ta rất nhiều, nhưng chúng ta nhận ra được bao nhiêu lần, để biết nói lên lời cảm tạ tri ân. Những lần nhận được niềm vui bất ngờ, những lần may mắn, đời sống hằng ngày được nhiều điều tốt đẹp, những người chung quanh yêu mến giúp đỡ. Đó là những lần Chúa thăm viếng và mang niềm vui đến cho chúng ta.

Xin Chúa cho chúng ta luôn sáng suốt, nhìn thấy nhu cầu của người chung quanh, để biết đáp ứng và đem niềm vui cho người khác, đồng thời cũng nhận ra được niềm vui mà Thiên Chúa ban cho.

 

46. Chân dung Đức Maria

(Suy niệm của Lm. Phêrô Phan Văn Lợi)

Dịp lễ Giáng sinh, một nữ sinh nội trú kia xin mẹ cô một chiếc gương lớn và đẹp. Bà mẹ gởi đến cho cô một bức ảnh tuyệt xinh của Đức Trinh Nữ. Bức ảnh được đóng khung kỹ càng và có ghi dòng chữ như sau: “Đây sẽ là tấm gương soi của con mỗi ngày!” Món quà này gây ấn tượng mạnh lên thiếu nữ. Và từ đó, cứ mỗi buổi tối, cô quỳ xuống trước bức ảnh Đức Mẹ và hỏi: “Má ơi, hôm nay con có làm vui lòng Má không? Con đã noi gương Má ở điểm nào?”

Câu chuyện Tin Mừng hôm nay, cũng ở ngưỡng cửa ngày Giáng sinh, phác họa cho chúng ta chân dung của Đức Maria cũng để chúng ta soi vào. Khuôn mặt của Thân Mẫu Chúa hiện lên trên nền của một ngôi làng vô danh thuộc “miền núi Giuđa”, được truyền thống Kitô giáo đồng hóa với làng Ain Karim (suối nước của vườn nho), cách Giêrusalem vài kilômét. Và người vẽ khuôn mặt đó chính là bà Elisabét. Qua những lời ca của bà, đã hiện lên chân dung có thể nói là chính xác và sống động nhất về Mẹ. Chúng ta sẽ dừng lại trên những lời này. Rồi cũng tại đây, chúng ta sẽ thấy tâm hồn Mẹ qua bài ca tuyệt diệu của Mẹ, bài ca ngợi khen vị Thiên Chúa của những kẻ nghèo khó, rốt cùng, hèn mọn, bị áp bức.

  1. Hạnh phúc vì được chúc lành

Những lời của Elisabét nói cho đúng chẳng phải là một bài ca, tuy nhiên vẫn chứa đựng một đoạn thánh thi xây dựng trên một lời chúc tụng và một mối phúc: “Em được chúc tụng hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng đáng chúc tụng… Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em!”. Đây là một thánh thi mini, rất mạnh mẽ sống động; đàng khác, nó còn mang tính “tiên tri”: Luca đã nhấn mạnh rằng khi thốt lên nó, Elisabét “được đầy Thánh Thần”, Đấng từng tác động các ngôn sứ trong lời loan báo của họ.

Bài ca khai mở với lời “chúc tụng” mà sau đó đã được đưa vào kinh Kính mừng. Lấy lại một kiểu nói dùng trong Cựu Ước cho những phụ nữ vĩ đại như Đêbôra và Giuđitha, Êlisabét biểu dương chức làm mẹ thần linh của Maria như dấu chỉ cao nhất của việc Thiên Chúa “chúc lành”, nghĩa là hiện diện và hành động giữa chúng ta cũng như bên trong lịch sử chúng ta. Đối với Thánh Kinh, phúc lành được bày tỏ đặc biệt trong sự sống và sức sinh sản; nơi Đức Maria đã xuất hiện Sự Sống tuyệt hảo xóa bỏ sự cằn cỗi và chết chóc. Mẹ quả là một phúc lành của trời cao!

Bài ca của Elisabét tiếp tục với một chuyển động thứ hai, cũng là chúc tụng, nhưng dưới dạng câu hỏi, một câu hỏi long trọng, có lối ám chỉ rất mãnh liệt đối với người hiểu biết Cựu Ước: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” Tư tưởng này gợi nhớ một đoạn Kinh Thánh thời danh liên quan đến việc việc chuyển hòm bia giao ước về Giêrusalem, thủ đô mới của Đavít: “Hòm bia Đức Chúa đến với tôi thế nào được?” (2Sm 6,9). Vậy việc Đức Maria viếng thăm được trình bày như hòm bia mới của Đức Chúa đến. Và như hòm bia ở nhà ông Ôvết Êđôm đã mang lại phúc lành cho nhà ông (x. 2Sm 6,11-12), Đức Maria cũng là phúc lành mang đến cho ngôi nhà nhân loại và cho ai đón nhận Mẹ vào nhà mình.

Tước hiệu Đức Maria nhận từ Êlisabét -“Thân Mẫu Chúa”- rõ ràng là tước hiệu cao nhất và đúng nhất, như sẽ được tuyên bố trong Công đồng Êphêsô năm 431. Thánh Ambrôsiô đã viết: “Đức Maria không phải là Thiên Chúa trong đền thờ nhưng là đền thờ của Thiên Chúa”. Chính vì thế truyền thống Kitô giáo sẽ biểu dương Mẹ như là “Sion mới” và “Hòm bia Giao ước mới” (“Đức Bà như Hòm bia Thiên Chúa vậy”. Kinh cầu).

  1. Hạnh phúc vì được tin Chúa

Cuối cùng, bài ca của bà Êlisabét nói lên một “mối phúc”, mối phúc đầu tiên của Tin Mừng: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em!”. Đây là tiếng kêu sẽ trở thành dây dẫn (sợi chỉ đỏ) của cả một thông điệp về Đức Maria của Đức Gioan-Phaolô II: Mẹ Đấng Cứu Thế. Quả thế, trong thông điệp này, Đức Thánh Cha có viết: “Trong câu Em thật có phúc vì đã tin được bà Êlisabét thốt lên, chúng ta gần như có thể tìm thấy một chìa khóa mở cho chúng ta thấy thực tại thâm sâu của Đức Trinh Nữ”.

Đức Maria là tín hữu tuyệt hảo, khác với ông Dacaria cứng lòng, cha của vị Tẩy giả. Việc mang thai Hài nhi là do tác động của Thánh Thần, bởi đó vượt quá các quy luật sinh lý đơn giản của máu thịt và phải được hiểu cùng đón nhận trong đức tin, kể cả từ phía Đức Maria. Quả thế, đối với Luca, Mẹ sẽ trở thành biểu tượng của đức tin vì “hằng ghi nhớ mọi sự ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng”. Đức Maria kết hợp nơi mình hai mối phúc mà thoạt nhìn có vẻ tách biệt nhau, hai mối phúc mà một ngày kia sẽ lại vang dội trong đời Đức Giêsu. Lúc ấy, một phụ nữ trong đám đông đã kêu lên: “Phúc thay bà mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm!”. Và Đức Giêsu đã đáp lại: “Đúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11,27-28). Trong Đức Maria cả hai mối phúc này đan vào nhau vì Mẹ sinh Đức Kitô cách thể lý, sau khi mang trong dạ, nhưng cũng đón nhận Người trong đức tin như là sự hiện diện của Thiên Chúa và là Lời thiện hảo của Thiên Chúa.

Đức tin vào những chuyện phi thường vừa xảy ra (Mẹ mang thai cách mầu nhiệm, bà chị họ mang thai cách lạ lùng) khiến một niềm vui to lớn tràn ngập Mẹ, thúc đẩy Mẹ, niềm vui được tin, niềm vui được đi vào thời cứu độ và được làm người khai mở thời này: “Tôi là nữ tỳ của Chúa”.

Như đã bừng sáng niềm vui được chúc phúc, cuộc Thăm viếng cũng bừng sáng niềm vui được tin. Bà Êlisabét tới tấp thốt lên những tiếng hân hoan vui mừng như đã thấy. Rồi Đức Maria sẽ dùng kinh Magnificat, bài ca hân hoan của mình để đáp lại.

Niềm vui rất đặc biệt ấy của đức tin, Luca cho thấy bắt nguồn từ đâu: Thần Khí. Thần Khí đã đến trên Đức Maria, ngập tràn bà Êlisabét, và vào dịp Hiện xuống, sẽ đổ đầy các Tông đồ. Người ngập tràn chúng ta khi chúng ta tin và công bố Đức Giêsu là Chúa, nghĩa là Đấng Mêsia, Đấng Cứu Thế, nhưng là Đấng Mêsia mà chẳng có người Do thái nào đã có thể tưởng tượng: Con Thiên Chúa, được Người ban tặng cho chúng ta.

Đức tin và niềm vui của chúng ta tùy thuộc sức mạnh của xác tín này. Chúng ta sa lầy trong nhiều chuyện phụ thuộc, chúng ta tranh luận giữa kitô hữu với nhau vì những chi tiết thay vì cảm nghiệm tới cùng và lan truyền điều chủ yếu, mạc khải kỳ diệu: Hài nhi sắp sinh bởi Đức Maria là Con Thiên Chúa. Một bài ca khác sẽ bật lên sau bài Magnificat: đó là bài Benedictus: “Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa Israen, đã viếng thăm cứu chuộc dân Người” (Lc 1,68).

Thiên Chúa thân hành viếng thăm chúng ta! Có lắm điều phải tin: cuộc Phục sinh của Đức Giêsu, sự hiện diện của Người trong Thánh Thể, việc tha thứ tội lỗi, chiến thắng cuối cùng của sự sống trên đau khổ và sự chết… Nhưng chúng ta sẽ tin dễ dàng và vững chắc vào tất cả những điều đó nếu bám rễ trong điều khó nhất: tin Thiên Chúa đã đến trên con đường chúng ta: “Chúng tôi đã thấy các bước chân của Thiên Chúa bắt gặp các bước chân của loài người”.

Để Người đến bắt chuyện với chúng ta, phải có Đức Maria đã. Không gì có thể khiến chúng ta sùng kính Mẹ hơn là thấy Mẹ hạnh phúc vì được tin và được ban tặng Hài nhi, một hạnh phúc lớn tới độ đã khiến bao niềm vui bùng vỡ. Quả vậy, nói về Đức Maria, Công đồng Vatican II đã có thành ngữ tuyệt vời này: “Mẹ đã đem Sự Sống đến cho thế gian” (Hc Giáo Hội 53). Chính cái đó đã khiến đứa con của bà Êlisabét nhảy mừng, và chính cái đó cũng khiến chúng ta nhảy mừng trước Đức Maria: Mẹ là sự Viếng thăm của Thiên Chúa, Mẹ đem đến cho chúng ta Sự Sống, vốn đã trở nên cho chúng ta sự sống của một con người.

Nếu việc tin vào điều đó khiến chúng ta hân hoan, thì chớ che khuất nỗi hân hoan này. Chớ gì trong những lần thăm viếng, khi mà sự tiếp xúc có thể thực hiện với một mức độ sâu xa nào đó, ai đó sẽ nhảy mừng khi nghe chúng ta, hay có lẽ chỉ khi nhìn chúng ta: “Lúc bạn giã từ ai sau một lần thăm viếng, làm sao để lại một cái gì đó của Thiên Chúa trong lòng họ” (Mẹ Têrêxa). Một cái gì đó của Thiên Chúa vì chúng ta thực sự sống theo tinh thần của Người chứ không phải tinh thần thế gian.

 

47. Đường lối Chúa.

Trong Kinh Thánh, có lần qua môi miệng các tiên tri, Chúa đã phán: Tư tưởng và đường nẻo của Ta không phải tư tưởng và đường lối của các ngươi. Như trời cao hơn đất bao nhiêu thì tư tưởng và đường lối của Ta cũng sẽ cao hơn tư tưởng và đường lối của các ngươi bấy nhiêu.

Trải qua dòng lịch sử, Ngài đã thực hiện đúng như thế. Đọc lại Cựu Ước chúng ta thấy, Đavít chỉ là một trẻ nhỏ đi chăn chiên tại Bêlem, thế nhưng Chúa đã chọn và đặt Đavít lên làm vua, chiến thắng được đạo quân hùng mạnh của Goliat và dẫn đưa dân Do Thái tới một thời đại hoàng kim.

Trường hợp của tiên tri Giêrêmia cũng vậy. Lúc bấy giờ ông mới chỉ là một em nhỏ còn nói cà lăm, thế nhưng Chúa đã chọn ông làm tiên tri để chuyển đạt thánh ý của Ngài cho toàn dân Do Thái.

Qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, Chúa cũng đã hành động như vậy. Trước mặt người đời thì Đức Maria và bà Isave là hai người không có hy vọng sinh con. Đức Maria thì khấn giữ mình đồng trinh. Còn bà Isave thì vừa son sẻ, lại vừa cao niên. Quan niệm dân Do Thái cũng giống như quan niệm của người Việt Nam ngày xưa, coi sự kiện đông con nhiều cháu là một phúc lành do trời trao ban vì thế trong những dịp đầu xuân năm mới, chúng ta thường cầu chúc cho nhau: đa tử đa tôn đa phú quý, đông con nhiều cháu và giàu sang. Bởi đó son sẻ và đồng trinh sẽ bị người đời cười chê, vì phải chăng đó là dấu bị Chúa chúc dữ? Phải chăng đó là dấu chỉ tương đường với sự chết bởi vì nếu chết là hết sống, thì son sẻ và đồng trinh là hết chuyển thông dòng sự sống.

Thế nhưng Thiên Chúa đã chọn những người bất hạnh và yếu kém như thế để làm những việc trọng đại. Đức Maria thì được chọn làm Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Đấng Cứu Thế. Còn bà Elisabeth thì được chọn làm mẹ Gioan, vị tiền hô dọn đường và giới thiệu Đấng Cứu Thế cho muôn người.

Tuy nhiên đường lối của Chúa là một chuyện, sự kêu mời của Chúa là một chuyện, điều quan trọng là chúng ta có biết cộng tác với Chúa hay không. Trong chiều hướng này, thánh Augustinô đã nói: Khi tạo dựng nên chúng ta Chúa không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng để cứu chuộc chúng ta, Ngài cần chúng ta ưng thuận và cộng tác với Ngài.

Bởi đó mặc dù chúng ta là những kẻ hèn kém và yếu đuối, nhưng nếu chúng ta biết xin vâng như Mẹ Maria và biết cộng tác với ơn Chúa như và Isave, Chúa cũng sẽ làm cho chúng ta những việc kỳ diện, đó là biến chúng ta trở nên người đem Chúa đến cho muôn dân.

 

48. Hòm bia giao ước mới

Bà Isave nói: “Em là người có phúc nhất trong giới phụ nữ, và con em đang cưu mang cũng thật hạnh phúc. Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa đến viếng thăm?” (Lc 3, 10)

Vua David khi chiếm được thành Giêrusalem, đã sai người đi rước Hòm Bia Giao Ước về trên một cổ xe do bò kéo. Khi tới sân lúa, bò trược chân, Hòm Bia bị nghiêng. Ông Utda vội đưa tay đỡ lấy, bị phạt chết vì ông không phải là tư tế. David nghe tin, sợ không dám đem Hòm Bia về Giêrusalem, mà phải gởi lại ở nhà Obed Êdom. Chúa đã chúc phúc cho ông và cả nhà. Hòm Bia đã ở lại đây ba tháng (2 Sam 6, 10). Câu chuyện bài Tin Mừng chúa nhật hôm nay, cũng là câu chuyện gần như song song với chuyện trên. Kính mời anh chị em cùng suy niệm.

  1. Hai câu chuyện này cho ta thấy có những nét song song khá rõ rệt:
  2. Cả Hòm Bia Giao Ước và Mẹ Maria, đều tiến về Giêrusalem.
  3. Hòm Bia đã lưu lại tại nhà ông Obed Êdom trong ba tháng. Mẹ Maria cũng ở lại nhà Bà Isave ba tháng để giúp đỡ gia đình này.
  4. Ông Obed vả cả nhà được chúc phúc. Nhà Bà Isave cũng thế: ông Zacaria hết câm khi thánh Gioan sinh ra – thánh Gioan nhảy mừng trong bụng mẹ và được khỏi tội tổ tông khi nghe lời Mẹ Maria chào – Bà Isave được tràn đầy hạnh phúc. Rõ ràng, thánh Luca muốn so sánh Mẹ Maria như là Hòm Bia giao Ước mới.
  5. Hòm Bia giao Ước mới: Thánh Luca muốn nói Mẹ Maria chính là Hòm Bia mới mang Chúa Giêsu đến trong nhà Bà Isave, vì thế cả nhà nầy được chúc phúc. Mẹ Maria nếu muốn mang Chúa đến cho gia đình Bà Isave, chính vì Mẹ có Chúa ở trong mình; điều này chính là điểm căn bản Hội thánh muôn nói cho chúng ta trong chúa nhật thứ IV Mùa Vọng, chúa nhật cận kề lễ Giáng Sinh. Nói một cách khác, kinh thánh muốn xác nhận cho chúng ta; Mẹ Maria chính là Hòm Bia Giao Ước mới, đã cưu mang Con Thiên Chúa trong mình, đã sinh ra Đấng Cứu thế, Mẹ chính là Mẹ Thiên Chúa, Đấng đồng công cứu chuộc trong công trình rổi nhân loại. Đồng thời, kinh thánh cũng muốn nói: Mẹ Maria khi đi thăm Bà Isave, đã đem Chúa đến cho gia đình này; mà Chúa Giêsu, Con Mẹ, chính là nguồn ơn phúc, nên hiển nhiên gia đình này được chúc phúc. Thực ra, khi Mẹ thưa lời: ” Xin vâng”, đó chính là Mẹ đã sẵn sàng mang Chúa Giêsu trong mình, đồng thời Mẹ cũng sẵn sàng mang Chúa đến không chỉ cho gia đình Bà Isave, mà còn cho cả nhân loại nữa…
  6. Gợi ý sống và chia sẻ:
  7. Qua câu chuyện hôm nay cho ta thấy, Mẹ Maria và Chúa Giêsu, mỗi khi đến đâu, đều cũng là đem hạnh phúc đến cho nơi đó. Mẹ đến thăm Bà Isave, đã đem đem lại hạnh phúc cho thánh Gioan, nhờ đó ông khỏi tội tổ tông ngay trong bụng mẹ. Chúa Giêsu và Mẹ Maria là thế, còn phần chúng ta thì sao? Mỗi lần ta đến với người khác, có phài là một lần ta đem Chúa đến với họ không?
  8. Mẹ Maria ở lại với Bà Isave độ 3 tháng, để giúp đở. Chúa Giêsu cũng nói:”Ta đến là để phục vụ, chứ không phải để được phục vụ…” Mẹ Maria và Chúa Giêsu đã sống phục vụ như thế. Còn ta thì sao? Ta có đến là để phục vụ người khác không?
  9. Chúa Giêsu đã có mặt trong lần Mẹ Maria đi thăm Bà Isave. Chúa cũng có mặt trong lễ giáng sinh năm nay. Ngài cũng có mặt trong các Bí tích mỗi khi ta lãnh nhận, khi ta rước lễ, khi ta mở tâm hồn mình ra đón Ngài. Thực ra, ta có gặp được Chúa trong cuộc sống của ta chưa?

 

49. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng

CUỘC VIẾNG THĂM CỦA ĐỨC MARIA

(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. DẪN NHẬP

Chúng ta bắt đầu bước vào tuần lễ thứ 4 của Mùa Vọng, được coi là thời gian chót của Mùa Vọng. Trong các Chúa nhật trước, tiên tri Isaia đã loan báo cho dân chúng về Đấng Thiên sai, tiếp đến thánh Gioan Tẩy giả thúc giục mọi người hãy sám hối để được ơn tha tội trong khi đón chờ, đồng thời mách bảo cho mọi người cách thức dọn đường cho Chúa đến.

Chúa nhật thứ 4 Mùa Vọng này có thể được gọi là Chúa nhật của Đức Mẹ vì bài Tin mừng của ba năm đều nói đến Đức Mẹ. Như vậy, Giáo hội muốn nhắc nhở chúng ta nhớ đến vai trò của Đức Mẹ trong việc Chúa Cứu thế giáng sinh. Đặc biệt bài Tin mừng hôm nay nói đến việc Đức Maria đi thăm viếng bà chị họ Elizabeth để vị Tiền hô và Đấng Cứu Thế gặp nhau ngay khi còn trong bụng mẹ.

Trong tâm tình dọn lòng mừng lễ Giáng sinh, chúng ta hãy để ra thời gian vắn để suy niệm về cuộc thăm viếng của Ngài. Qua bài Tin mừng hôm nay, Đức Maria để lại cho chúng ta nhiều bài học để thực hành: Đức Maria là mẫu gương của niềm tin, của bác ái và khiêm nhường. Noi gương sáng ngời của Đức Mẹ, chúng ta hãy tập sống bác ái theo phương châm của thánh Phaolô Tông đồ đã đề ra: ”Nên mọi sự cho mọi người”(1Cr 9,19).

  1. TÌM HIỂU LỜI CHÚA

+ Bài đọc 1: Mica 5,2-5

Tiên tri Mica là người đồng thời với tiên tri Isaia và cũng là thừa kế tinh thần của Isaia. Ông loan báo cho biết Đấng Emmanuel (Is 7,14) sẽ sinh ra tại Belem (cũng gọi là Epratha), một thôn làng bé nhỏ và nghèo nàn nhưng đã trở nên quan trọng vì Thiên Chúa đã chọn thôn làng này làm quê hương của Đấng Thiên Sai (Mt 2,6). Ông còn cho biết Đấng Emmanuel này rất cao trọng, Ngài sẽ thống lĩnh Israel và đem lại cho Israel sự thống nhất và bình an trong khi dân Israel bị chia rẽ và cơ cực.

+ Bài đọc 2: Dt 10,4-10

Tác giả bức thư gửi cho Do thái mô tả Đấng Messia như một vị Thượng tế, và chức Thượng tế của Ngài trổi vượt chức thượng tế Cựu ước. Ngài đã vâng phục Đức Chúa Cha đến nỗi hy sinh mình trên thập giá. Lễ tế Ngài sẽ dâng lên không phải là lễ toàn thiêu hay là lễ xá tội của Cựu ước, mà là chính thân thể Ngài và thực thi thánh ý Thiên Chúa. Thánh vịnh 39/40 đã thể hiện sự hy sinh và vâng phục của Đức Giêsu đối với thánh ý của Thiên Chúa.

Lễ tế của Đức Giêsu trong thân phận làm người được dâng trên bàn thờ thập giá không cần phải dâng lên nhiều lần, mà một lần duy nhất có giá trị vĩnh viễn.

+ Bài Tin mừng: Lc 1,39-45

Trong bài Tin mừng hôm nay, thánh Luca cho biết hai bà mẹ đang mang thai thăm viếng và chúc tụng nhau. Maria sau khi được thụ thai bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, đã vội vã lên đường viếng thăm người chị họ Elizabeth để cho vị Tiền hô cũng nhận được Thần khí và được xức dầu làm tiên tri.

Luca có ý viết câu chuyện này giống với chuyện Đavít mang hòm bia về Giêrusalem (2Sm 6), để nói rằng Đức Maria chính là Hòm Bia Tân ước. Như Đavít ngày xưa nhảy múa trước Hòm Bia, nay Gioan nhảy mừng trước Maria, Hòm bia Giao ước mới đang mang nặng trong mình Đấng Cứu độ. Chính bà Elizabeth, khi gặp Maria, cô em họ đang mang nặng Đức Giêsu đã gọi cô là “Thân mẫu Chúa tôi” vì Maria đã hoàn toàn tin vào lời Chúa hứa.

  1. THỰC HÀNH LỜI CHÚA

Tâm tình cuộc viếng thăm.

  1. CUỘC VIẾNG THĂM CỦA ĐỨC MARIA
  2. Hai chị em gặp nhau.

Theo ý định ngàn đời của Thiên Chúa, Trinh nữ Maria đã được chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Và đặc biệt là Trinh nữ thụ thai, sinh con mà vẫn còn đồng trinh vì đây là việc làm đặc biệt của Thiên Chúa toàn năng; và cũng là một dấu hiệu để Maria tin: bà chị họ Elizabeth của cô đã thụ thai trong lúc tuổi già và đã mang thai được sáu tháng. Vừa nghe tin mừng này Maria liền vội vã lên đường đến thăm và chia vui với chị.

Bà Elizabeth ở miền núi, chắc chắn cuộc hành trình của Maria lên miền núi không tránh được mệt nhọc vất vả. Theo lời truyền tụng từ thế kỷ thứ 5, gia đình Giacaria ở triền núi, trong một thành thuộc xứ Giuđa, tên gọi Ain Karim cách Giêrusalem 7 cây số về phía tây. Đường đi từ Nazareth đến Ain Karim phải 3,4 ngày đường.

Hai chị em gặp nhau tay bắt mặt mừng, chúc tụng nhau những lời tốt đẹp, trong khi đó hai thai nhi gặp nhau trong bụng mẹ. Sự hiện diện của thai nhi Giêsu làm cho thai nhi Gioan có phản ứng lạ lùng: Thai nhi trong dạ Elizabeth nhảy mừng lên. Việc nhảy mừng của Gioan trong bụng mẹ là dấu chỉ cho bà Elizabeth nhận ra sự cao cả của thai nhi Giêsu và của Đức Maria. Chính bà Elizabeth đã nhận ra và chúc tụng Đức Maria là Mẹ Đấng Cứu thế:”Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm tôi”. Sau đó, Đức Maria ở lại nhà ông Giacaria độ ba tháng để phục vụ, đoạn trở về nhà mình.

  1. Lý do thúc đẩy cuộc viếng thăm

Thiên sứ đã củng cố niềm tin cho Maria để Ngài tin vào quyền năng của Thiên Chúa bằng cách cho biết: Bà chị họ Elizabeth đã có thai trong tuổi già được 6 tháng, bởi vì không có việc gì mà Thiên Chúa không làm được. Chắc chắn Maria không hề hồ nghi về quyền năng của Thiên Chúa trong việc sinh con của mình và tin người chị họ mang thai trong tuổi già là tín hiệu của tình yêu Thiên Chúa đối với người chị họ.

Đây là một tin vui, vì thế Maria vội vã lên đường thăm viếng và chia vui với chị. Do đó lý do cuộc thăm viếng của Đức Maria không phải là tò mò hay kiểm tra xem việc thực hư, mà là do tình thương yêu thúc đẩy. Ngài không đến thăm thì bà Elizabeth chẳng trách ngài được, lý do là bà ấy đâu biết rằng Ngài biết bà mang thai. Vả lại, chính Ngài cũng đang mang thai, mà đường xá lại xa xôi. Chính tình thương đã thúc đẩy Ngài đi vì Ngài rất giầu tình thương. Và cũng vì chính giầu tình thương mà Ngài xứng đáng làm Mẹ của Đức Giêsu, là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa.

Tình yêu đòi hỏi phải biểu lộ ra, chứ không giữ kín trong lòng. Một tình yêu giữ kín, không được biểu lộ thành hành động, không phải là tình yêu đích thực. Tương tự như lời thánh Giacôbê:”Đức tin không có việc làm là đức tin chết”(Gc 2,26). Cũng vậy, tình yêu không việc làm, không được biểu lộ là tình yêu chết. Tình yêu phải được biểu lộ ra thành sự quan tâm, chăm sóc, năng tìm cách gặp gỡ, giúp đỡ, hy sinh cho người thân, làm cho người thân trở nên tốt đẹp, hạnh phúc hơn. Câu tục ngữ:”Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo, thất bát sông cũng lội, tứ cửu tam thập lục đèo cũng qua” có nghĩa như thế.

Tình yêu đích thực đòi hỏi phải năng gặp nhau, nhất là những lúc người mình yêu có chuyện vui buồn. Đức Phật nói:”Yêu nhau mà không được ở gần nhau, mà phải xa cách nhau thì sẽ đau khổ”, ngài gọi cái khổ ấy là “Ai biệt ly khổ”. Tục ngữ có câu:”Nhất nhật bất kiến như tam thu hề” (một ngày không gặp nhau thì dài như ba năm). Do đó, đi thăm viếng nhau là đòi hỏi của tình yêu đích thực, là biểu lộ sự quan tâm đến nhau.

  1. Ảnh hưởng hỗ tương của việc thăm viếng.

Khi chúng ta thăm viếng một người nào, chúng ta tự nhận thấy là mình đang làm một việc tốt đẹp cho người đó. Đó là sự thật. Nhưng chúng ta cũng được lợi nữa. Chúng ta cũng trở nên phong phú, mặc dù chỉ là để xem cách thế người khác đương đầu với những khó khăn, hoặc những tình huống hầu như không thể giải quyết được. Thậm chí khi ở giữa người đau yếu, bạn vẫn có thể tìm thấy một tâm hồn tỏa sáng. Có thể bạn đến thăm người đó, để đem lại cho họ điều gì đó, nhưng rồi bạn lại nhận ra rằng chính mình đang nhận được. Bạn ra về với tâm hồn phấn chấn. Trong mỗi cuộc viếng thăm, có điều gì đó xẩy ra theo mức độ nào đó. Người này được vui mừng khi tiếp nhận, người kia được vui mừng khi cho đi (Flor McCarthy).

Khi thăm viếng, Maria đem đến cho ông bà Giacaria và Elizabeth niễm vui và sự phục vụ, đồng thời chính Ngài lại đón nhận được sự nâng đỡ về tinh thần: Ngài thêm xác tin về lời sứ thần khi thấy bà chị họ hiếm muộn mà giờ đã có thai. Ngài ngỡ ngàng khi thấy mầu nhiệm được làm Mẹ Đấng Thiên Sai, nay đã được Thánh Thần tỏ bày cho bà chị họ biết. Niềm hứng khởi và những lời chúc mừng của bà Elizabeth đã động viên Ngài cất lên lời Ngợi khen cảm tạ hồng ân Thiên Chúa trong Kinh ngợi khen Magnificat.

Bác sĩ Tom Dolly, một người đã hy sinh cả cuộc đời giữa chốn rừng thiêng nước độc bên Lào vào đầu thế ký này, đã nói như sau:”Không có ai nghèo đến độ không có cái gì đó để tặng cho người khác”. Một người ăn xin ư? Anh ta vẫn có thể cho chúng ta cơ hội để ta thể hiện sự chia sẻ quảng đại đối với anh. Một người tàn tật ốm đau cũng có thể mời gọi chúng ta cơ hội thuận tiện để kiên nhẫn chịu đựng sự xỉ nhục và sẵn sàng tha thứ. Phải, bất cứ ai cũng có thể đem lại cho chúng ta một cái gì đó. Vấn đề là chúng ta có biết mở rộng lòng để đón nhận quà tặng đó hay không.

  1. DƯ ÂM CUỘC VIẾNG THĂM
  2. Đức Maria, mẫu gương của niềm tin

Tin Thiên Chúa là ký thác đời mình vào tay Thiên Chúa. Là ưng thuận điều Thiên Chúa muốn. Trước khi thưa “Xin Vâng”, Đức Maria đã có chương trình của Ngài là sẽ sống đời đôi bạn với thánh Giuse (Lc 1,27). Và qua lời “Xin Vâng”, Ngài đã chấp nhận hoàn toàn để cho Thiên Chúa thay đổi hướng đi cuộc đời mình, để cho Thiên Chúa đảo lộn chương trình sống, và cùng Chúa bước vào cuộc mạo hiểm với trọn niềm tin yêu phó thác.

Đức Maria đã đi từ bước phiêu lưu này đến bước phiêu lưu khác. Hình ảnh Đức Maria trong Tân ước xuất hiện vài lần ở những mốc chính trong cuộc đời Đức Giêsu: bình tĩnh đón nhận thụ thai, hạ sinh con trong một hang đá lạnh lẽo, dâng con trong đền thánh, đem con lánh sang Ai cập, dẫn con tới tiệc cưới Cana và có mặt trong chặng đường khổ giá cuối đời của người con tội nhân. Ở đâu, Đức Maria cũng chứng tỏ một niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa.

Chính bà Elizabeth đã chúc tụng Đức Maria:”Em thật diễm phúc, vì đã tin rằng Chúa đã thực hiện những gì Người đã nói cho em biết”. Không những Đức Maria đã có niềm tin vào Lời Chúa mà còn thể hiện lòng tin đó vào việc vội vã đi viếng thăm bà Elizabeth. Đúng như lời thánh Giacôbê nói:”Đức tin không có việc làm là đức tin chết”.

Truyện: Không thể ngờ được

Một doanh nhân giầu có ở Mỹ có sáng kiến ngộ nghĩnh để thử lòng người: Ông cho in rất nhiều bích chương và dán khắp nơi trong thành phố nơi ông đang ở. Đại khái nội dung của bích chương loan báo: Bất cứ ai mắc nợ, nếu đến văn phòng của ông ngày đó, tháng đó từ 9 g đến 12 giờ đều được ông giúp đỡ để trả nợ. Dĩ nhiên, mọi người đều bàn tán lời mời gọi này, nhưng đa số đã xem đây là một trò đùa.

Đúng ngày hẹn, doanh nhân ngồi trong văn phòng của mình. Hai giờ trôi qua mà không thấy người nào đến. Mãi tới 11 g mới có một người đàn ông rụt rè đến… Doanh nhân ký cho ông một ngân phiếu để trả hết nợ. Gần 12 giờ một vài người nữa cũng đến… Và dĩ nhiên họ cũng được giúp đỡ tận tình. Còn tất cả những người khác khi hiểu được lời mời gọi của doanh nhân thì đã muộn (Thiên Phúc, Như Thầy đã yêu, C, tr 20).

Lời hứa của doanh nhân trong chuyện trên đây quá lớn, nên đa số đã không tin. Chính vì không tin nên họ đã bỏ lỡ một cơ hội ngàn vàng. Đức Maria, trái lại, Mẹ đã dám tin vào Lời Chúa hứa nên đã được tràn đầy ơn phúc. Bà Elizabeth đã nói:”Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì người đã nói với em”(Lc 1,45).

  1. Đức Maria, mẫu gương của bác ái

“Maria đã vội vã ra đi lên miền núi”: điều đó nói lên sự nhiệt tình của Đức Maria trong việc đi thăm viếng, chia vui sẻ buồn, giúp đỡ gia đình bà chị đang bối rối vì mang nặng đẻ đau. Dù phải đi bộ đến bốn, năm ngày đường xa xôi hiểm trở cũng không ngăn cản nổi gót liễu yếu đào tơ đầy lòng thương mến của Ngài.

Dầu Đức Maria có nhiều lý do để không ra đi, không tiến hành cuộc hành trình: nào là từ nay phải giữ gìn sức khỏe nhằm lợi ích cho thai nhi. Nào là đường đi xa xôi, nguy hiểm, phải ít nhất bốn năm ngày mới tới nơi. Lộ trình này có nhiều rủi ro nguy hiểm, nhất là cho thân gái. Trước những trở ngại này và thêm vào đó không có một chỉ thị nào về phía Chúa bảo phải đi, để Maria có lý để từ chối.

Những lý do trở ngại ấy không cản bước được Đức Maria. Người ta dễ dàng né tránh lời mời gọi của đức ái, nại đến những lý do ít nhiều chính đáng. Nhưng lòng quảng đại của Maria phá tan mọi chần chừ, lưỡng lự để vội vã lên đường. Đúng là tình yêu mạnh hơn sự chết.

Đó là gương mẫu về lòng mau mắn giúp đỡ, nghĩ tới người khác hơn là nghĩ tới mình. Yêu thương luôn luôn đòi hỏi từ bỏ, đòi hỏi phải hao mòn chính bản thân mình. Khi xẩy ra một việc cần giúp đỡ, có biết bao lý do nại ra để từ chối! Nếu có được lòng yêu thương như Đức Maria, chúng ta sẽ sung sướng quên mình để nghĩ đến hạnh phúc của người khác.

  1. Đức Maria, mẫu gương khiêm nhường

Khác hẳn với những thiếu nữ Do thái, Maria không bao giờ dám mơ tưởng mình là Mẹ Đấng Cứu Thế, vì Ngài thấy rõ thân phận mình chỉ là một nữ tỳ hèn mọn, đã đính hôn với một bác thợ mộc lao động cực khổ ở một làng quê vô danh. Thế mà: ”Phận nữ tỳ hèn mọn đã được Thiên Chúa đoái thương đến”. Sau khi biết đó là ý Thiên Chúa, Đức Maria đã tin và dám xin: ”Này tôi là nữ tỳ của Chúa, xin vâng như lời thiên thần nói”. Lời xin vâng thật khiêm tốn, luôn luôn chỉ coi mình là nữ tỳ, là tôi tớ, không dám nhận làm Mẹ Đấng Cao Cả.

Cũng thế, khi Đức Maria vừa được thiên sứ báo tin được chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Ngài tự nguyện đi làm tôi tớ cho bà Elizabeth. Qua lời thiên sứ, Ngài biết Thiên Chúa đã ban cho Ngài địa vị cao cả hơn người chị họ nhiều, ý thức mình được chọn trong tất cả phụ nữ Israel, một địa vị mà không một phụ nữ nào có thể sánh ví. Với ý thức đó, Ngài đã tự nguyện trong vòng ba tháng đi làm công tác của một người hầu hạ cho một người đàn bà trong lúc sinh nở, nàng đảm đang luôn công việc của một gia nhân.

Đức Maria không thuộc loại người, bắt người khác phải nhận ra địa vị cao sang của mình, và đòi phải cúi đầu kính cẩn. Đức Maria muốn bắt chước việc làm của Con mình sau này: Đức Giêsu yêu thương các môn đệ, tuy là Chúa và là Thầy mà Ngài còn “Đứng dậy, ra khỏi bàn ăn, cởi áo ngoài, lấy khăn cuốn ngang lưng, đổ nước vào chậu, lần lượt rửa chân cho các môn đệ”(Ga 13,1-3). Nàng không muốn tỏ ra là một nhân vật quan trọng, dầu ngài quan trọng nhất trong tạo vật. Không một ai có thể nhận ra trong những ngày phục vụ tại nhà Elizabeth một thiếu nữ ấy đã được Thiên Chúa ban cho một địa vị cao cả nhất. Người ta chỉ nhận thấy nơi nhà ông bà già này một gia nhân ân cần tự trọng, làm hết mọi công việc tầm thường nhất, và làm cách tự nhiên như đó là phận sự của nàng.

Truyện: Khiêm nhường hay danh dự?

Thầy Đô-đi-kê nổi tiếng thánh thiện nhất trong dòng và hay làm phép lạ. Tin đồn rằng bất cứ điều gì thầy xin đều được Chúa nhận lời.

Một hôm dân làng kéo đến xin thầy cầu nguyện cho trời mưa. Nhưng thay vì trời mưa thì lại nắng hạn lâu hơn nữa.

Một người mẹ đến xin thầy cầu nguyện cho đứa con đang đau được mau lành. Nhưng đứa con đã chết sau đó vài ngày.

Vài người khác đến xin thầy làm phép lạ cho đá thành bánh. Nhưng đá vẫn trơ ra đấy.

Sau những lần thử thách mà không được gì cả, dân làng nổi giận đuổi thầy ra khỏi phạm vi của làng, cấm không cho thầy trở lại tu viện nữa.

Thầy đành phải đi tìm một hang đá trong sườn núi để ẩn mình, rồi than thở với Chúa:

– Lạy Chúa, con không hiểu tại sao lại xẩy ra như vậy. Con cầu xin Chúa cho mưa xuống thì Chúa lại làm cho nắng hạn lâu hơn. Con xin cho đứa trẻ mau lành bệnh thì Chúa lại cho nó chết. Con xin Chúa cho dân làng bánh ăn thì Chúa cứ để những viên đá trơ trơ ra đó. Vì thế Chúa xem đây: con bị mọi người xua đuổi, coi con như một kẻ tội lỗi nhất.

Nói xong, thầy nghe có tiếng từ trời phán:

– Hỡi con, bởi vì Ta đã cho con điều con cầu xin lúc trước đó rồi.

Thầy Đi-đô-kê không còn nhớ thầy đã xin gì trước đó nữa nên mới hỏi lại:

– Nhưng lạy Chúa, con đã xin Chúa điều gì?

Tiếng lạ đáp:

– Trước đây con đã chẳng cầu xin Ta cho con được dịp sống khiêm nhường đó sao?

(D. Wahrheit, Món quà Giáng sinh, tr 108-109)

III. BÀI HỌC TỪ CUỘC THĂM VIẾNG

  1. “Nên mọi sự cho mọi người”

Trong thư gủi cho tín hữu Corintô, thánh Phaolô tông đồ đã viết:”Tôi đã trở nên mọi sự cho mọi người”(1Cr 9,19). Thánh Tông đồ chỉ có một ước vọng là đi rao giảng Tin mừng cho mọi người, không đòi hỏi đời sống vật chất mặc dầu Ngài có quyền đòi hỏi vì thợ thì đang hưởng lương”.

Ngài là con người tự do, không lệ thuộc vào ai, nhưng đã thành nô lệ cho mọi người hầu chinh phục được nhiều người. Ngài sẵn sàng trở nên người Do thái để chinh phục người Do thái. Đối với những người sống theo Lề Luật, Ngài cũng sống theo Lề Luật mặc dù không còn phải sống theo Lề Luật; còn đối với những người sống ngoài Lề Luật, Ngài cũng sống ngoài Lề Luật dù Ngài không sống ngoài luật Thiên Chúa, để chinh phục những người sống ngoài Lề Luật.

Thánh Tông đồ đã quên mình hòa nhập với mọi người để chinh phục mọi người về cho Chúa. Cuộc đời như thế chỉ là phản ảnh, rập khuôn, bắt chước cuộc đời của Đức Giêsu và Đức Maria. Vì con đường mà Chúa xuống thế làm người để truyền dạy cho nhân loại noi theo không khác gì ngoài con đường hiến thân phục vụ Thiên Chúa qua anh em, hy sinh làm tôi tớ cho mọi người vì yêu Chúa. Vậy để có thể nên giống Chúa và bắt chước gương sống của Đức Mẹ, mỗi người chúng ta phải làm gì? Hãy thực hiện phương châm:”Omnia omnibus factus sum” (x. 1Cr 9,19): nên mọi sự cho mọi người.

Trước hết “Nên mọi sự” là một nguyên tắc xả thân cao độ khi ta biết biến đời mình và những gì thuộc về mình thành hữu ích cho nhân quần xã hội vì lòng yêu mến Chúa và thương người. Do đó, một khi đã chọn con đường đi theo Đức Kitô thì người môn đệ đúng nghĩa sẽ tự nguyện hiến toàn thân bao gồm sức khỏe, thời giờ, tài năng, của cái cho mưu cầu ích chung, thành như đồ vật cho mọi người xử dụng. Muốn được như thế, tất nhiên chúng ta phải luôn có Chúa trong mình và hoàn toàn lệ thuộc vào thánh ý của Ngài.

Thứ đến là “Cho mọi người” vì khi đã nên mọi sự mà chỉ giữ lại cho riêng mình hoặc chỉ ban phát kiểu nhỏ giọt thì không thể nên giống Chúa được, mà phải trở nên như một đồ vật cho người ta xài, theo kiểu nói của Cha Antôn Chevrier, trở thành một “Homme mangé”: làm người bị người ta ăn đi, nghĩa là phải hao mòn vì người ta. Cũng thế, một người Kitô hữu thực sự theo đúng gương Thầy mình thì phải đem cuộc sống của mình cho mọi người xử dụng. Đây là một cuộc đầu tư làm ăn sáng suốt nhất và khôn ngoan nhất vì họ chỉ bỏ ra một cuộc sống tạm bợ ở đời này để đổi lấy một cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu mai sau. Hơn nữa vì yêu mến anh em mà sẵn lòng cho đi tất cả sẽ được Chúa thương yêu và thưởng công gấp bội.

Truyện: Bác sĩ Longet.

Bác sĩ Longet là một người Pháp, đã từng phục vụ ở Việt nam cách đây mấy mươi năm và cũng nổi tiếng như bác sĩ Tom Doley, người Mỹ đã phục vụ ở Đông Nam Á. Ông tận tụy săn sóc các bệnh nhân bất kể giai cấp, tôn giáo, chủng tộc, ngày lẫn đêm.

Được hỏi tại sao ông quí mến bệnh nhân như thế?

Bác sĩ Longet đáp:

– Vì tôi thấy Chúa Giêsu trong mỗi bệnh nhân.

Chính vì thế, mỗi sáng khi đi dự thánh lễ, bệnh nhân lương hay giáo, ai muốn đi ông đều chở trên xe; mỗi chiều Chúa nhật, ông lại chở các bệnh nhân đi chơi, tham quan nơi này nơi nọ. Và mỗi tối ông lần hạt chung với người Công giáo. Ít lâu sau, ông Longet trở về nước Pháp, vào chủng viện dâng mình làm Linh mục và tình nguyện sang phục vụ những người nghèo ở giáo phận Cần thơ. Nhưng tiếc thay, sau khi chịu chức xong, ông lâm trọng bệnh và qua đời trước khi tới nơi hằng mong ước (Quê Ngọc, Nên mọi sự cho mọi người, C, tr 12).

  1. Thăm viếng để chia sẻ.

Chúng ta nhận thấy trong mùa Vọng này có ba nhân vật quan trọng được nhắc tới:

– Tiên tri Isaia loan báo Đấng Thiên Sai sẽ đến (Chúa nhật I).

– Gioan Tẩy giả rao giảng sám hối để dọn đường cho Chúa đến (Chúa nhật II).

– Đức Maria là một nhân vật không thể thiếu được, vì qua Ngài, ơn cứu độ bắt đầu được thực hiện (Chúa nhật IV).

Vì thế, trong suốt Mùa Vọng, chúng ta được nghe đọc những lời loan báo của tiên tri Isaia, được nhận biết cuộc đời và sứ mạng của Gioan Tẩy giả; và hôm nay, bài Tin mừng trình bầy cho chúng ta chân dung Đức Mẹ qua việc Đức Mẹ đi thăm viếng bà Elizabeth.

Bắt chước việc làm của Đức Mẹ, chúng ta phải biết chia sẻ với những người chung quanh. Có biết bao gia đình đòi hỏi chúng ta phải thăm viếng, giúp đỡ. Chúng ta đừng bao giờ giả điếc làm ngơ hay giả mù không thấy để rồi khép kín lòng chúng ta lại trước những người cần chúng ta thăm viếng, an ủi, giúp đỡ. Thiên Chúa rất hài lòng khi thấy chúng ta sống tinh thần liên đới với nhau, biết chia sẻ những hồng ân Ngài ban cho chúng ta để luôn sống trong phương châm “Nên mọi sự cho mọi người”.

Truyện: Đức Giáo hoàng Gioan 23.

Đức Giáo hoàng Gioan 23, lần đầu tiên, một vị Giáo hoàng rời khỏi Rôma, đến thăm giáo chủ Anathagoras của Giáo hội Đông phương. Một Giáo hội đã ly khai khỏi Giáo hội Công giáo từ lâu đời. Cuộc viếng thăm của Đức Giáo hoàng đã biểu lộ tình bạn chí thiết với Đức Giáo chủ và nhìn nhận Giáo hội Đông phương cùng một chi thể với Đức Kitô, hợp nhất trong Chúa Thánh Thần. Từ hai ngàn năm nay, noi gương cuộc viếng thăm của Đức Mẹ và Chúa Giáng sinh, bao nhiêu cuộc viếng thăm hồng phúc như thế đã loan truyền Tin mừng đi khắp năm châu bốn bể.

Lạy Mẹ Maria, chính cuộc sống khó khăn đã biến chúng con thành người ích kỷ, chỉ biết nghĩ đến mình, đến gia đình mình, mà không nghĩ đến tha nhân; ai sống chết thế nào cũng mặc! Nhiều lúc con có thái độ dửng dưng và thờ ơ trước những nỗi thống khổ của tha nhân. Xin Mẹ dạy con biết noi gương Mẹ: Mở lòng đón nhận những kẻ bất hạnh, quảng đại chia sẻ cơm áo cho những người đói khát, luôn nghĩ tốt và làm tốt cho người chung quanh, sẵn sàng tha thứ vô điều kiện cho những ai xúc phạm đến mình. Xin cho con học theo Mẹ: Mau mắn đem Chúa đến cho tha nhân, giúp mọi người nhận biết và yêu mến Chúa. Xin cho con biết sống thanh sạch và luôn kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu con yêu của Mẹ, để con xứng đáng nhận được ơn cứu độ của Người trong mùa hồng phúc này (Đan Vinh).

 

50. Chúa tỏ mình ra

(Suy niệm của Lm. Damien OFM)

Cuộc viếng thăm của Đức Maria hôm nay không phải là một cuộc thăm viếng bình thường giữa chị em với nhau, vì cuộc viếng thăm nầy có một tầm quan trọng đặc biệt.

Bà Isave được đầy Chúa Thánh Thần.

ChúaThánh Thần soi sáng cho Isave nhận ra Con Thiên Chúa và Mẹ Người nơi Đức Maria đang mang thai. Như thế trong lịch sử cứu độ, đây là lần đầu tiên Chúa tỏ mình ra cho loài người qua Isave cũng như con bà là Gioan Tẩy giả mà bà đang mang thai: “Bà có phúc hơn mọi người phụ nữ và con lòng bà được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm tôi! Vì nầy tai tôi vừa nghe lời bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi”.

Vai trò của Chúa Thánh Thần trong việc Chúa tỏ mình ra với loài người là rất quan trọng. Nếu Isave không đầy Chúa Thánh Thần thì cuộc viếng thăm lần nầy cũng chỉ là một cuộc viếng thăm tầm thường, vì tình nghĩa giữa hai người chị em họ với nhau mà thôi. Nhưng đây là một cuộc viếng thăm của Ngôi Hai đã xuống thế làm người và của Mẹ Người.

Luca muốn cho thấy việc Ngôi Hai xuống thế là công việc của cả Thiên Chúa Ba Ngôi: Chúa Cha sai Con, Ngôi Con xuống thế và Chuá Thánh Thần soi sáng cho loài người biết sự hiện diện của Ngôi Hai.

Sau nầy, trong công trình cứu chuộc của Chúa Giêsu, Chúa Thánh Thần có một chỗ đứng rất quan trọng:

  • -Thần Khí Chúa xuất hiện khi Đức Kitô chịu phép rửa(Lc..3)
  • -Thần khí dẫn Đức Giê-su vào hoang địa(Lc.4,1);
  • -Thần khí Chúa ngự trên tôi(Lc.4)…

Ngày nay cũng thế, chúng ta chỉ có thể nhận ra sự hiện diện của Chúa Giêsu trong Giáo Hội, trong kẻ khác trong người nghèo, trong các biến cố…, nhờ sự soi sáng của Chúa Thánh Thần. Chúa Giêsu hứa với các Tông Đồ: “Chúa Thánh Thần sẽ cho chúng con biết mọi sự”.

Phúc cho bà là kẻ đã tin…

Lời tung hô của Isave hôm nay làm ta liên tưởng đến lời Chúa Giêsu nói về Đức Maria mẹ Người sau nầy, khi có người ngợi khen: “Phúc cho vú đã cho Thầy bú”, Chúa trả lời: “Kẻ nghe và giữ lời Thiên Chúa thì có phúc hơn”.Nhưng ai là kẻ đã nghe và giữ lời Thiên Chúa hơn Đức Maria? Đức tin của Đức Mẹ là cơ sở để cho Thiên Chúa chọn Mẹ làm Mẹ của Con Thiên Chúa. Đức Mẹ luôn tin và trông cậy vào lời của Chúa. Đức Mẹ đã cưu mang Chúa trong đức tin trước khi cưu mang Chúa trong lòng Mẹ.

Nếu nhờ đức tin của Đức Mẹ mà Con Thiên Chúa đên trong lòng Ngài cũng như đến với con người, thì hôm nay, muốn cho Chúa đến trong chúng ta, chúng ta cũng phải có một niềm tin như Đức Mẹ. Sống Mùa vọng là sống niềm tin vào lời Chúa. Và nếu Đức Mẹ được chúc phúc vì có Chúa Giêsu trong lòng thì, chúng ta hôm nay cũng thế, chúng ta chỉ có thể được Thiên Chuá chúc phúc khi chúng ta cưu mang Chúa bằng đức tin trong lòng chúng ta, và rước lấy Chúa trong Bí Tích Thánh Thể.

Đức Mẹ là gương mẫu của tinh thần Mùa Vọng trong Giáo Hội cũng như nơi mỗi người chúng ta.

Niềm vui

Thấy một linh mục lớn tuổi mà luôn luôn sống vui vẻ, có người ngạc nhiên hỏi:

– Sao cha lại có thể luôn sống vui vẻ được như thế?

Người linh mục già trả lời:

– Tôi luôn vui vẻ là bởi vì tôi nghĩ rằng, trong muôn vật muôn loài Chúa đã dựng nên, thì loài người là quí nhất, thế mà tôi lại được làm người. Đó la niềm vui thứ nhất. Người ta sinh ra đời, có nhiều người đui què, tàn tật, chết non, mà tôi đến gần 70 tuổi mà vẫn lành lặn mạnh khỏe. Đó là điều vui thứ hai. Nhiều người hiện nay phải đói khát rách rưới, thế mà tôi chưa phải nhịn đói ngày nào. Đó là niềm vui thứ ba. Bao nhiêu người thất học, dốt nát, mà tôi lại được học hành, tuy không thông thái giỏi dang gì. Đó là niềm vui thứ tư. Ơn gọi linh mục là một ơn Chúa ban cho ai tùy ý Người, không phải muốn là được, thế mà tôi lại được làm linh mục của Chúa. Đó là niềm vui thứ năm…Và nếu chịu khó suy nghĩ thì còn biết bao nhiêu niềm vui khác nữa. Làm sao mà tôi không vui được. Niềm vui lớn nhất là tôi tin Chúa thương tôi.

 

51. Thời đại hồng ân

Sau khi nguyên tổ loài người phạm tội, Thiên Chúa hứa sẽ ban Đấng Cứu Độ để giải thoát con người. Trải qua thời gian dài chuẩn bị nay đến thời viên mãn Ngôi Hai Thiên Chúa đã xuống thế làm người qua lời sứ thần Gariel truyền tin cho Mẹ Maria. Cửa Thiên Đàng đóng lại do tội con người lỗi phạm nay Thiên Chúa mở ra để đến với con người, thời kỳ lần mò đi tìm Thiên Chúa nay Thiên Chúa đã tự tỏ lộ. Một thời đại mới, thời Tân Ước, thời của Đức Giêsu Kitô.

Lời Chúa trong Phúc Âm thánh Luca hôm nay (Lc 1, 39 – 45) diễn tả lại việc Đức Mẹ Maria đi thăm bà Isave, sau lời chào của Đức Mẹ thì hài nhi trong lòng bà Isave nhảy lên vì vui sướng. Do đâu mà Mẹ Maria đi thăm bà Isave? Do đâu Gioan nhảy mừng?..

Trở lại ngày truyền tin Đức Mẹ hay biết chị họ của mình đã mang thai được sáu tháng, lại mang thai trong lúc tuổi già và son sẻ nên rất cần sự giúp đỡ. Đức Mẹ lên đường thăm chị họ của mình không phải là để xác minh lời của sứ thần truyền tin là có thật hay không nhưng cốt ý của Đức Mẹ là giúp đỡ người chị em mình trong lúc thai kỳ, Mẹ đã tin lời Sứ thần truyền tin qua lời thưa đầy tin tưởng của Mẹ: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời Sứ thần nói…..”. Đức Mẹ đã tự nguyện lên đường khi biết người chị em mình cần đến mình, Mẹ không đợi ai mời gọi hay nhờ vả, Mẹ đi bước trước (tiệc cưới Cana cũng thế). Sự lên đường của Mẹ ngoài sự gặp gỡ giúp đỡ giữa hai con người mà còn là sự gặp gỡ, giao thời giữa Cựu Ước và Tân Ước, giữa Thiên Chúa và con người. Đức Mẹ ra đi đem Chúa đến cho nhân loại qua gia đình bà Isave là đại diện, cùng với sự hân hoan của Gioan Tẩy Giả. Trong truyền thống của Giáo hội Đức Mẹ được sánh ví như hòm bia Giao Ước. Hòm bia Giao Ước xưa được cung nghinh long trọng, được thờ lạy vì sự hiện diện của Thiên Chúa, nay Đức Mẹ mang nơi mình chính Con Một Thiên Chúa. Hòm bia giao ước xưa đánh dấu sự hiện diện của Thiên Chúa giữa dân Israel, hòm bia giao ước nay đánh dấu sự hiện diện mới, sự hiện diện bằng xương thịt của Thiên Chúa giữa nhân loại. Thiên Chúa nhờ Đức Mẹ đã phá đổ quan niệm xa xưa về một Thiên Chúa trong Cựu Ước nay Thiên Chúa ở giữa nhân loại.

Sau lời chào của Đức Mẹ Gioan nhảy lên vui sướng vì là người nhận ra Đấng Cứu Độ mà muôn dân đợi trông. Vua Đavit xưa nhảy múa như đứa trẻ khi đón hòm bia giao ước từ nhà ông Ôbed Êđom về Giêrusalem thì hôm nay Gioan cũng nhảy mừng. Gioan vừa là con người của Cựu Ước vừa là con người của Tân Ước. Thời đại mới của Thiên Chúa đã hé mở, thời đại hồng ân Thiên Chúa ban chính Con của Ngài cho nhân loại. Trong thư Do thái trong bài đọc 2: “này đây Con đến để thực thi ý Ngài. Thế là Ngài bãi bỏ các lễ tế cũ mà thiết lập lễ tế mới” (Dt 10, 5 – 10) mà lễ tế mới chính là Thân Thể Đức Giêsu Kitô được hiến tế một lần cho tất cả trên đồi Sọ.

Chúng ta là những người Kitô hữu đang sống trong niềm hy vọng chờ đợi Chúa đến trong vinh quang. Chúng ta mang trong mình hình ảnh Đức Kitô, chúng ta hãy noi gương Đức Mẹ tự nguyện đem Chúa đến với anh chị em chúng ta, những người đang cần đến sự giúp đỡ của chúng ta từ vật chất cho đến tinh thần và cả lời cầu nguyện nữa. Mẹ Maria đã chẳng ngại gian khó, xa xôi để đến với bà Isave, nay chúng ta hãy hy sinh để mang Chúa đến với người khác. Mặt khác, chúng ta cũng hãy cảm tạ Thiên Chúa đã cho chúng ta được làm người, làm con cái Chúa qua cái chết và sự phục sinh của Chúa, qua bí tích Thanh Tẩy. Hãy ý thức địa vị cao cả của mình là Con Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã nói: phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gio-an Tẩy Giả. Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông…. Biết như vậy để ta vui mừng vì Thiên Chúa luôn ở với ta nếu ta biết đón nhận Ngài. Hôm nay Chúa Nhật IV mùa Vọng, mỗi người chúng ta hãy chuẩn bị sẵn sàng đón Chúa, Chúa đã đến bên ta và chắc chắn Chúa sẽ đến với những ai có lòng trông cậy.

 

52. Tin có Chúa ở cùng

(Suy niệm của Lm. Gioan M. Cao Vũ Nghi, CRM)

Trại tù Humaita ở Ba Tây là một trại tù hơi khác thường. Công việc cai quản gần bốn trăm tù nhân thay vì được trao cho các nhân viên chính phủ, thì lại do một số Kitô hữu đã tình nguyện lãnh nhận công tác phục vụ những tù nhân này. Ngoài ra, còn một điều khác thường thứ hai và đáng kể hơn. Mỗi trại tù thường có phòng biệt giam để giam giữ những tội phạm ngang bướng. Tại trại Humaita, phòng biệt giam này ngày nay chỉ có một “tội phạm.” Sau cánh cửa sắt, là một bàn thờ, với hoa tươi, một tượng Thập Giá, và một biểu ngữ: “Estamos juntos” (chúng ta cùng có nhau).

Người “tội phạm” biệt giam đây chính là Chúa Giêsu, và cây thánh giá của Người là một nhắc nhở hùng hồn cho mọi tù nhân rằng Chúa Giêsu đã chịu án tù cho mọi người và Người vẫn luôn ở đó với họ. Vì nhận ra tình Chúa yêu thương họ mà các tội phạm tại Humaita đã chấp nhận được cảnh tù đầy của họ.

Hai ngàn năm trước đây, khi Mẹ Maria đến thăm bà chị họ Isave, bà này đã chúc khen Đức Mẹ vì Đức Mẹ đã tin rằng những điều Chúa hứa sẽ được thực hiện. Đọc trong Thánh Kinh, Đức Mẹ biết Thiên Chúa hứa sẽ ban Đấng Cứu Thế cho nhân loại. Khi Tổng thần Gabrien đem tin mừng đến cho Đức Mẹ, với niềm tin vững vàng vào lời Chúa, Mẹ đã thưa lên lời xin vâng: “Này tôi là tớ nữ Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền” (Lk 1:38). Với niềm tin này của Mẹ Maria, Chúa đã nhập thể làm người để cứu nhân loại thoát khỏi gánh nặng của tội lỗi. Chúng ta đang gần kề giây phút mừng kỷ niệm ngày Chúa đến trong Đại Năm Thánh Cứu Độ. Nhưng trong khi cùng với toàn thể nhân loại hân hoan mừng ngày rất thánh này, chúng ta cần dừng lại để tự hỏi mình xem Chúa Kitô đã đến ngự trị trong lòng tôi chưa?

Đêm Giáng Sinh thường được gọi là đêm an bình. Chúa Giêsu, Vua Bình An, đã đến để ban lại cho nhân loại sự bình an hạnh phúc mà nguyên tổ đã đánh mất. Nhưng tôi đã được hưởng sự bình an đó chưa? Hay là lương tâm vẫn còn bị đè nặng bởi tội lỗi, bởi những bất công, hận thù, chia rẽ… Nếu vậy, thì ích gì cho tôi, nếu Chúa đến trần gian để ở với con người, để cứu độ con người, và để ban bình an cho mọi người, nhưng riêng tôi lại không được dự phần?

Khi có Chúa ở cùng, có thể là Chúa sẽ không cất đi mọi đau khổ chúng ta đang gặp phải trong cuộc sống. Điều Chúa hứa là Người sẽ ban cho chúng ta được sự bình an trong tâm hồn, sẽ chúc phúc, và sẽ ở bên chúng ta để phù trì chúng ta trong mọi giây phút của cuộc đời. Khi sinh ra trong cảnh bần cùng, sinh trưởng trong một gia đình nghèo khó, và sau cùng chết khổ nhục trên thập tự giá, phải chăng là Chúa muốn nói trong bất cứ cảnh huống nào của cuộc đời, Chúa luôn ở bên để chia sẻ kiếp sống làm người với chúng ta. Điều quan hệ là chúng ta có dám tin là Chúa đang hiện diện trong cuộc đời của mình không? Có dám tin là Chúa có đủ quyền năng để cứu chuộc chúng ta, và sẽ giải thoát chúng ta khỏi mọi cảnh cùng quẫn mà chúng ta đang gặp phải hay không? Nếu có được niềm tin đó, thì cũng như những tù nhân tại Humaita, cho dù chúng ta vẫn còn bị giam hãm bởi những bất công trong xã hội, những hận thù ghen ghét, chúng ta vẫn tìm được sự bình an trong tâm hồn.

Vậy trong những giây phút còn lại trước giờ phút hồng phúc của đêm nay, chúng ta hãy xin Đức Mẹ ban cho chúng ta lòng tin của Đức Mẹ. Chúng ta hãy xin Đức Mẹ chuẩn bị tâm hồn chúng ta để đón tiếp Chúa đến với tâm hồn mình. Mẹ Maria có phúc vì đã tin lời Chúa hứa ban Đấng Cứu Thế sẽ được thực hiện, và như lời Tổng thần Gabrien, Mẹ có phúc vì Mẹ có Chúa ở cùng Mẹ. Xin Mẹ ban cho chúng ta cũng có được niềm tin đó, để chúng ta cũng được tiếp rước Chúa đến với tâm hồn chúng ta. Có vậy, chúng ta mới cảm nghiệm được đêm Giáng Sinh thực sự là Đêm Bình An.

 

53. Mẹ Maria

Mẹ Têrêxa Calcutta kể lại: Ngày kia, mẹ đến thăm một nhà thương rất tối tân tại Anh quốc. Mọi căn phòng đều khang trang, sáng sủa và được trang bị đủ mọi thứ máy móc cùng với những tiện nghi, cân xứng với số tiền phải trả. Ngoài ra các y tá, nhân viên làm việc rất nhã nhặn và lịch sự.

Nhưng mẹ nhận thấy một điều kỳ lạ và hỏi vị bác sĩ đang hướng dẫn mẹ đi thăm:

– Thưa bác sĩ, tại sao các bệnh nhân, cứ mỗi lần thấy ai vào là họ cùng đồng loạt quay nhìn về phía cửa vậy?

Câu trả lời của ông bác sĩ rất đơn sơ nhưng đượm vẻ buồn buồn:

– Thưa mẹ, vì họ luôn chờ đợi một ai đó trong số bà con thân thuộc đến thăm, nhưng chẳng có ai đến thăm họ bao giờ.

Từ câu chuyện này, chúng ta đi vào nỗi chờ mong của nhân loại. Thực vậy, sau khi nguyên tổ phản bội, Thiên Chúa đã hứa ban cho con người một Đấng Cứu thế qua lời tuyên phán với Eva: Ta sẽ đặt mối thù nghịch giữa ngươi và người phụ nữ, giữa dòng dõi ngươi và dòng dõi người phụ nữ. Người phụ nữ sẽ đạp dập đầu ngươi, còn ngươi chỉ rình cắn trộm gót chân người.

Trải qua dòng thời gian, Thiên Chúa đã chọn dân Do Thái để duy trì lời hứa thuở ban đầu. Và hình ảnh Đấng Cứu thế mỗi ngày một thêm rõ nét.

Chẳng hạn tiên tri Isaia đã xác định: Một trinh nữ sẽ thụ thai sinh hạ một con trai và tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta.

Suốt dọc thời gian, nhân loại đã mò mẫm tìm kiếm Thiên Chúa. Và nhất là dân Do Thái, họ khắc khoải chờ mong Đấng Cứu thế sẽ đến để giải thoát họ, mỗi khi đất nước họ gặp phải tai ương hoạn nạn. Nỗi khắc khoải chờ mong ấy đã kết tinh thành những lời nguyện cầu tha thiết: Trời cao hãy đổ sương xuống và ngàn mây hãy mưa Đấng cứu đời.

Và khi thời gian viên mãn, Thiên Chúa đã thực hiện lời phán hứa thuở xưa bằng cách sai Con Một Ngài xuống trần để cứu độ chúng ta. Tuy nhiên, để Ngôi Lời có thể mặc lấy xác phàm và ở giữa chúng ta, Thiên Chúa đã chọn Đức Maria để cộng tác với Ngài trong việc thực hiện chương trình cứu độ mà Ngài đã ươm mơ từ muôn ngàn thuở trước.

Với lời xin vâng của Mẹ trong hoạt cảnh truyền tin, lời hứa thuở ban đầu đã trở thành sự thật. Thiên Chúa đã đến với con người để giải thoát họ khỏi án phạt của tội lỗi. Thế nhưng, trước khi đem Chúa đến cho nhân loại, thì ngày hôm nay bằng hành động thăm viếng, Mẹ Maria đã đem Chúa đến cho nhà bà Êlisabéth, khiến cho Gioan được nhảy mừng.

Mẹ đã trở thành mẫu gương lý tưởng cho người Kitô hữu, bởi vì Mẹ không phải chỉ có Chúa trong tâm hồn, mà còn đem Chúa đến cho người khác.

Noi gương Mẹ Maria, bằng những hành động bác ái yêu thương, chúng ta cũng hãy đem Chúa đến cho những người chung quanh. Đó cũng chính là sứ điệp chúng ta cần phải thực hiện trong Mùa Giáng sinh này.

 

54. Chia vui sẻ buồn

Báo tuổi trẻ cuối tuần ra ngày 22/ 10/ 2006 có đăng bài của Vũ Bình với nhan đề “Người thích làm từ thiện”. Bài này đề cập đến một người có tấm lòng nhân hậu cao cả. Đó là chị Ngụy Thị Phương Thảo. Từ một người chân lấm tay bùn, khốn khổ nhưng sau thời gian cần mẫn và gặp thời vận may vợ chồng chị đã trở nên khá giả. “Vợ chồng chị hiện đang sở hữu hàng chục miếng đất và nhà cho thuê cùng hàng chục chiếc taxi….”.

Chị Thảo là người biết mở ra cho anh chị em đồng loại. Chị sẵn sàng bỏ ra hàng chục triệu đồng để giúp đỡ bất cứ ai đang gặp khốn khổ. Cách đặc biệt, sau vụ tai nạn thương tâm của một đoàn cán bộ đi cứu trợ, chị đã không ngần ngại tặng một căn nhà trị giá hơn nửa tỉ đồng cho vợ con anh Trần Thanh Liêm. Anh này là một trong những người đã chết trong vụ tai nạn đó. Quả thật chị Thảo là một mẫu gương đáng tuyên dương.

Như thế, là người có đức tin chắc hẳn qua mẫu gương này ít nhiều gì cũng để lại trong ta nhiều suy nghĩ. Từng giờ, từng phút và từng giây ta đã nhận biết bao ơn lành từ Chúa cũng như từ nhiều người khác. Thử hỏi ta có được tinh thần biết mở ra như chị Thảo chăng? Trong các kinh Giáo hội dạy có kinh “Thương người có mười bốn mối”. Thử hỏi kinh ấy có được thấm nhuần trong ta chưa?

Tin mừng hôm nay Thánh Luca cho biết Thánh Gioan đã nhảy lên vui mừng khi được Đức Mẹ đến viếng thăm. Sự kiện đó cho thấy Đức Mẹ đã biết đem niềm vui đến cho gia đình Bà Elisabeth. Như ta biết đường đi ở xứ Do thái xưa kia không phải dễ đi mà nhiều núi non hiểm trở. Cho nên, chắc là Đức Mẹ đã phải hy sinh nhiều lắm. Thánh Luca còn cho biết: “Bà Ma-ri-a ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng, rồi trở về nhà.” (Lc 1, 56)

Khi có đức tin mạnh và trái tim nhạy cảm ta sẽ dễ dàng nhận ra được nhu cầu của anh chị em đang sống quanh ta. Có người đã nói: “Không ai giàu đến nỗi không cần đến sự giúp đỡ của người khác và không ai nghèo đến nỗi không có gì cho anh em mình.” Hãy tha thiết nài xin Chúa ban cho ta có được đức tin mạnh và trái tim nhạy cảm biết mở ra.

Đồng thời, ta cũng hãy noi gương Đức Mẹ và chị Thảo để biết sống cho anh chị em theo khả năng của mình. Bởi lẽ, niềm vui được chia sẻ được nhân đôi và nỗi buồn chia sẻ vơi một nửa. Những việc làm ấy chắc chắn sẽ là những cọng rơm ấm áp mà chúa Hài Đồng đang chờ đợi ta.

 

55. Cùng vui với Mẹ

(Suy niệm của Lm. Phạm Quốc Hưng)

Trong bài Tin Mừng của Chúa Nhật thứ tư mùa Vọng hôm nay và cũng là Chúa Nhật cuối cùng trước Lễ Giáng Sinh, Hội Thánh đặt trước mắt chúng ta hình ảnh Mẹ Maria đi thăm viếng Bà Êlizabeth mùa Vọng, như mẫu gương đức tin tuyệt hảo để chúng ta chiêm ngắm và noi theo; nhờ đó, chúng ta cũng được chia sẻ niềm vui linh thánh của Mẹ trong dịp đón mừng Đại Lễ Giáng Sinh cũng như trong suốt đời sống đức tin.

Để chúng ta có thể có tầm nhìn sâu rộng hơn về niềm vui lớn lao nơi tâm hồn Mẹ Maria, chúng ta không dừng lại ở trình thuật Đức Mẹ thăm viếng Bà Êlizabeth, nhưng ở đây chúng ta sẽ cùng học theo Chân Phước Têrêsa Calcutta chiêm ngắm và chia sẻ các niềm vui của Mẹ nơi cả năm mầu nhiệm mùa vui của Kinh Mân Côi. Theo Mẹ Têrêsa Calcutta, khi chúng ta suy ngắm các mầu nhiệm Kinh Mân Côi là lúc chúng ta cùng chiêm ngắm Chúa Giêsu với đôi mắt của Đức Mẹ và yêu mến Chúa Giêsu với trái tim của Đức Mẹ. Đó là cách thức yêu mến Chúa tuyệt hảo, vì không ai hiểu biết, yêu mến và kết hợp với Chúa Giêsu cách tuyệt hảo hơn Đức Mẹ.

Trước hết, trong trình thuật thiên thần truyền tin cho Đức Mẹ, Mẹ đã đón nhận niềm vui Thiên Chúa ban tặng cho Mẹ qua hai tiếng “Xin Vâng”. Nhờ ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần, Mẹ đã vui mừng đón nhận, tìm hiểu, yêu mến và đem hết tâm hồn và cả cuộc sống để vâng phục Thánh Ý Chúa thể hiện qua Lời Chúa do thiên thần chuyển đến cho Mẹ. Tinh thần vâng phục thánh ý Chúa của Mẹ ở đây đã làm cho Mẹ hoàn toàn nên một tinh thần với Chúa Giêsu Con Mẹ, Đấng khi nhập thể trong lòng Mẹ đã tuyên ngôn: “Chúa đã không muốn của hy tế và của lễ hiến dâng, nhưng đã tạo nên cho tôi một thể xác. Chúa không nhận của lễ toàn thiêu và của lễ đền tội. Nên tôi mới nói: Lạy Chúa, này con đến để thi hành thánh ý Chúa”, như tác giả Thư Gửi Tín Hữu Do Thái ghi nhận trong Phụng Vụ hôm nay (Dt 10:5-7).

Tinh thần vui lòng vâng phục thánh ý Chúa chính quy luật duy nhất trong đời sống của chính Chúa Giêsu và Mẹ Maria, cũng như tất cả các thánh. Đó là lý do Thánh Giêrađô Majella đã luôn sống theo tâm niệm: “Thánh ý Chúa là niềm vui của đời con, con muốn điều Chúa muốn, muốn như Chúa muốn, muốn khi Chúa muốn và muốn vì Chúa muốn.” Vì vậy, chúng ta chỉ có thể có được niềm vui linh thánh khi biết noi gương Chúa Giêsu và Mẹ Maria để hết lòng vâng phục thánh ý Chúa qua việc chuyên chăm đọc, nghe, ghi nhớ, suy niệm và thực hành Lời Chúa và giáo huấn của Hội Thánh.

Thứ hai, nơi trình thuật Đức Mẹ khi thăm viếng Bà Êlizabeth, niềm vui hay hạnh phúc của Mẹ được gói trọn trong lời chúc tụng của Bà Êlizabeth khi được chính Chúa Thánh Thần hướng dẫn: “Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện” (Lc 1:45). Mức độ hạnh phúc đích thực của chúng ta được đo lường bằng mức độ của đức tin sống bởi lòng mến nơi chúng ta. Vì vậy, tất cả cố gắng kiếm tìm hạnh phúc và niềm vui đích thực là cùng đích cuộc sống của chúng ta phải hướng tới việc gìn giữ, canh tân và phát triển lòng tin và tình yêu của chúng ta đối với Chúa. Chính nhờ đức tin sống động này mà chúng ta được kết hợp với Chúa là nguồn Chân-Thiện-Mỹ, là nguồn vui, nguồn hạnh phúc của chúng ta; nhờ đó, chúng ta sẽ được vui mừng.

Thứ ba, nơi trình thuật Giáng Sinh với hình ảnh Mẹ Maria chìm đắm trong việc chiếm ngắm thờ lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, chúng ta thấy niềm vui của Mẹ là được thờ lạy Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu, Ngôi Lời Nhập Thể do chính Mẹ sinh ra. Với đức tin sống động, chúng ta ngày nay cũng được chia sẻ niềm vui của Mẹ khi chiêm ngắm thờ lạy cùng một Chúa Giêsu thực sự hiện diện nơi Bí Tích Thánh Thể. Chúng ta chỉ có được niềm vui này khi chúng ta thực sự tin nhận Chúa Kitô và sống theo ơn Chúa Thánh Thần. Vì chính Chúa Giêsu đã tuyên bố: “những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí và sự thật” (Ga 4:23).

Thứ tư, nơi trình thuật Đức Mẹ theo luật Môsê tiến dâng Chúa Giêsu trong Đền Thờ, chúng ta thấy niềm vui của Mẹ được diễn tả qua việc Mẹ vui lòng hiến dâng Chúa Giêsu đúng theo luật Chúa. Lời ngôn sứ Simêon cho biết một lưỡi gươm sẽ đâm thâu lòng Mẹ báo trước việc Mẹ sẽ phải đón nhận nỗi thương đau vô tận khi phải hy sinh Con Một yêu quý của Mẹ làm Của Lễ Chuộc Tội cho nhân loại trên Đồi Canvê sau này. Ở đây Mẹ cho chúng ta thấy niềm vui đích thực phải là hoa trái của tình yêu đòi hỏi sự quảng đại dâng hiến và hy sinh bỏ mình trọn vẹn.

Cuối cùng, nơi trình thuật Đức Mẹ tìm lại Chúa Giêsu trong Đền Thờ sau ba ngày “mất Chúa”, niềm vui của Mẹ ở đây như báo trước niềm vui Mẹ sẽ đón nhận khi gặp Chúa Giêsu Phục Sinh sau này. Niềm vui ơn cứu độ đã được Thiên Chúa ban tặng cho nhân loại, cho những ai bền đỗ đến cùng trong niềm tin, cho những ai biết đón nhận ơn cứu độ qua việc tìm lại Chúa sau khi “mất Chúa” vì tội lỗi bằng thái độ khiêm nhường sám hối và tin vào Lòng Thương Xót Chúa. Chúng ta sẽ góp phần làm canh tân và gia tăng niềm vui này của Mẹ khi chúng ta cố gắng bền đỗ và thăng tiến trong đời sống đức tin, mỗi khi chúng ta sám hối trở về cùng Chúa sau mỗi lần lìa xa Chúa vì tội lỗi, mỗi khi chúng ta góp phần giúp anh chị em chúng ta tìm gặp Chúa hay trở về với Chúa.

Chỉ còn ít ngày nữa chúng ta sẽ cử hành Đại Lễ Giáng Sinh-Đại Lễ của Ánh Sáng đem lại Sự Sống và Niềm Vui. Chúng ta hãy cùng Đức Mẹ dọn lòng mừng lễ với tinh thần quyết tâm thực thi thánh ý Chúa qua việc chuyên chăm đọc, nghe, ghi nhớ, suy gẫm và thực hành Lời Chúa; nỗ lực sống đức tin qua việc cầu nguyện liên lỉ; khao khát tìm đến thờ lạy và kết hợp với Chúa Giêsu trong Bí Tích Thánh Thể; quảng đại trong việc thực hành việc hy sinh hãm mình và yêu thương phục vụ tha nhân; và trung tín trong bổn phận hàng ngày và thành tâm sám hối sau mỗi lần sa ngã phạm tội. Được như thế, niềm vui của mùa Giáng Sinh sắp tới sẽ thật trọn vẹn và sẽ mãi lớn lên trong cuộc đời chúng ta.

Và rồi cũng như Mẹ Maria đã đem sự hiện diện Chúa ngự trong Mẹ đến cho gia đình Thánh Gioan Tiền Hô, chúng ta sẽ trở thành những con người biết trao tặng niềm vui có Chúa cho tha nhân.

Lạy Mẹ Maria là Mẹ của tình yêu mỹ diệu và niềm vui linh thánh, xin Mẹ cho chúng con biết tìm được niềm vui linh thánh qua việc thực tâm yêu mến và thực thi thánh ý Chúa, và quên mình để mưu tìm hạnh phúc cho tha nhân. Amen.

 

56. Yêu người

(Suy niệm của Lm. Anphong Trần Đức Phương)

Trong Chúa Nhật tuần này, Bài Đọc I trích trong sách Tiên Tri Mica (5: 1-4) nói rõ về việc một Trinh Nữ sẽ sinh con là Đấng đã có từ nguyên thủy, từ muôn đời, và nơi Ngài sinh ra chính là thành phố nhỏ bé Bêlem (miền Nam nước Israel, cách thủ đô Giêrusalem 8 cây số về phía đông nam). Bài Đọc II trích trong thư Thánh Phaolô gởi tín hữu Do Thái (10: 5-10) nói đến việc Chúa Giêsu đã đến trần gian, mặc thân  xác loài người, để “thi hành thánh ý Chúa, hiến dâng mình làm của lễ cứu độ trần gian. Bài Phúc Âm theo Thánh Luca (1: 39-45) ghi lại biến cố trọng đại “Trinh Nữ Maria vội vã đi lên miền núi, đến một thành thuộc chi tộc Giuđa để thăm viếng bà chị họ Elisabeth đã thụ thai một con trai trong tuổi già và nay đã đựợc 6 tháng.”

Chúng ta đang tiến gần ngày mừng kỷ niệm lễ Chúa Giáng Sinh. Trong những ngày cuối cùng của Mùa Vọng, Giáo Hội muốn hướng lòng chúng ta về Mẹ Maria, đặc biệt biến cố “Truyền Tin” và cuộc “Thăm Viếng” bà chị họ Elizabeth.

Trong Chúa Nhật IV Mùa Vọng, Năm B, Giáo Hội hướng lòng chúng ta về bién cố “Truyền Tin” qua Bài Phúc Âm theo Thánh Luca (1: 26-38). Hôm nay, Chúa Nhật IV Mùa Vọng, Năm C, Giáo Hội dẫn chúng ta nhớ về biến cố “Thăm Viếng” bà Thánh Elizabeth, bà chị họ của Đức Mẹ, qua Bài Phúc Âm theo Thánh Luca (1: 38-45).

Trong mầu nhiệm Mân Côi “Năm Sự Vui”, điều thứ nhất chúng ta suy gẫm: “Thiên Thần truyền tin cho Đức Bà chịu thai, ta hãy xin cho được lòng khiêm nhường”; điều thứ hai, chúng ta suy gẫm: “Đức Bà đi viếng bà Thánh Isave (Elizabeth), ta hãy xin cho được lòng yêu người.”

Ngay sau khi được  diễm phúc “chịu thai bởi phép Đức Chúa Thánh Thần để sẽ hạ sinh Đấng mà muôn dân đang trông đợi,” và được Thiên Thần cho biết “bà chị họ của Trinh Nữ là Elizabeth cũng đã thụ thai trong tuổi già, tới nay đã được 6 tháng,” Đức Maria đã vội vã lên đường đi lên miền núi  để thăm viếng bà chị họ Elizabeth và ở lại giúp bà 3 tháng trong lúc chuẩn bị sinh con trong tuổi già.”

Lòng “yêu người” của mẹ Maria đã thúc đẩy Mẹ. Mẹ quên đi ngay diễm phúc thật cao cả “được làm Mẹ Chúa Cứu Thế” để lo cho người chị họ đã lớn tuổi và sắp đến ngày sinh con cần một người thân thuộc để giúp đỡ. Vì thế, Mẹ đã quên mình, không quản ngại đường bộ xa xôi, núi đồi hiểm trở. Theo địa danh thì Mẹ phải đi từ làng Nagiaret miền Galilêa ở phía Bắc đến tận miền Giuđêa ở phía Nam, đường dài cả hàng trăm cây số. Chắc chắn Mẹ đã phải đi bộ một mình, vì Mẹ đâu có phương tiện nào khác, nhất là vào thời buổi bấy giờ. Đến nơi, Mẹ khổng phải chỉ thăm qua loa rồi đi về, nhưng Mẹ đã ở lại cả 3 tháng trường để giúp bao công việc cho bà chị họ trong lúc chuẩn bị sinh con. Hơn nữa, trong dịp này, Mẹ cũng đem đến một hồng phúc thật lới lao cho gia đình bà chị họ, đến nỗi bà đã phải thốt lên: “Bởi đâu tôi được diễm phúc Mẹ Chúa tôi đến thăm tôi! Vì này, tai tôi vừa nghe lời em chào, hài nhi trong lòng tôi đã nhảy mừng…”

Tại Hoa Kỳ, ngay sau ngày Lễ “Tạ Ơn” (Thanksgiving Day), rất nhiều gia đình đã chăng đèn và trưng bày cảnh Giáng Sinh ở trong nhà cũng như trước nhà rất huy hoàng, lộng lẫy. Tại các Thánh đường, quang cảnh càng huy hoàng, trịnh trọng hơn. Mỗi năm, vào mùa này tại Hoa Kỳ, hàng tỉ cây thông Giáng Sinh đã được bán ra cho dân chúng đem về nhà và các nơi để trang trí. Các phương tiện truyền thông như truyền thanh, truyền hình, báo chí, đạo cũng như đời thường đưa các bản tin về Đại Lễ Giáng Sinh và truyền đi những bản Thánh ca Giáng Sinh rất hay.  Khi gặp gỡ, người ta thường chào nhau bằng  câu “Chúc Mừng Giáng Sinh!” (Merry Christmas!)

Tuy nhiên, Mùa Giáng Sinh cũng là mùa chia sẻ (sharing season) tình thương với nhau, đặc biệt đối với những người nghèo khổ, đau yếu, cô đơn. Các tín hữu năm nào cũng rộng rãi đóng góp tiền bạc, quà, thực phẩm để giúp đỡ những người kém may mắn tại Hoa Kỳ cũng như khắp nơi trên thế giới. Điều này nhắc nhở chúng ta noi gương lòng thương người của Mẹ Maria, để chúng ta cũng nhớ chia sẻ hạnh phúc, và niềm vui Giáng Sinh với những người chung quanh. Cũng như Mẹ Maria, Thánh Giuse và Chúa Hài Nhi phải sống trong cảnh khó nghèo, không nhà cửa chính trong đêm Chúa giáng sinh, ngày nay vẫn có biết bao người nghèo khổ, đói khát, không nhà cửa, không đủ quần áo mặc ấm trong mùa đông lạnh giá, đang trông mong sự thăm viếng và giúp đỡ của chúng ta.

Chúng ta phải làm những gì để chuẩn bị mừng Đại Lễ Chúa Giáng Sinh sắp tới? Chúng ta phải làm gì khi chúng ta chiêm ngắm Chúa Hài Nhi, Mẹ Maria và Thánh Giuse trong cảnh nghèo khó tại hang Bêlem?

Trong Mùa Vọng, đa số chúng ta đã đi dự các buổi tĩnh tâm, lãnh nhận Bí Tích Hòa Giải để chuẩn bị tâm hồn xứng đáng đón mừng Lễ Chúa Giáng Sinh, nhưng chúng ta còn có bổn phận đem Chúa đến với những người chung quanh, có khi ngay trong gia đình chúng ta, ngay trong khu xóm chúng ta đang ở, và giúp đỡ những người đang cần sự thăm viếng và giúp đỡ của chúng ta.

 Trong Thánh Lễ hôm nay, chúng ta cùng hiệp lời cầu nguyện chung, xin Chúa mở rộng tâm hồn chúng ta để đón Chúa giáng sinh vào lòng chúng ta, vào gia đình chúng ta, và noi gương thương  người của Mẹ Maria, chúng ta cũng “vội và lên đường” đem Chúa đến cho những người chung quanh chúng ta, đặc biệt cho những người nghèo khó, qua món quà tình thương trong mùa Giáng sinh này.

 

57. Lý do nào để nhảy mừng?

(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)

Ai cũng biết lễ Giáng Sinh là lễ của vui tươi, của rạng rỡ! Đã từ lâu, nhất là trong xã hội phương tây, Giáng Sinh là lễ hội của các lễ hội; nếu nói theo cách người Việt thì là Tết của các ngày tết. Chẳng thế mà ngay cả trong những xã hội vô thần không thiết gì tới việc Thiên Chúa giáng trần, thế mà người ta vẫn cứ trang hoàng mua sắm và ăn mừng. Chắc chắn là chúng ta sẽ, cùng với toàn thể nhân loại hòa mình vào niềm vui chung đó với mọi người, điều đó là thật dễ hiểu, tuy nhiên với tư cách là Ki-tô hữu, chúng ta thuộc số ít những người hiểu biết tường tận nguồn gốc và lý do của niềm vui đó. Nguồn vui có xuất xứ từ việc: một Hài Nhi nhỏ bé, một con người cụ thể đã giáng trần. Và khi Hài Nhi – Con Người đó tới thì đã đem lại niềm vui cho toàn thể nhân loại, và làm cho mọi người đều nhảy mừng. Nhưng ‘biết’ thế thôi thì chưa đủ! Câu hỏi được đặt ra là, có thật tôi và bạn, sau khi ‘biết’ Hài Nhi đến viếng thăm mình, chúng ta có thực sự muốn nhảy mừng như Gio-an ngay từ trong dạ mẹ hay không? “bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy mừng lên”.

Bên Mongolia dân chúng theo một thứ tôn giáo tự nhiên của nhóm người du mục Trung Á gọi là đạo Shaman. Trong tôn giáo đó, tương tự như Cựu Ước, thầy Sha-man đóng vai ngôn sứ sẽ chỉ cho dân biết các nơi thần thánh ngự trị, và sẽ dạy cho dân biết cách làm cho các ngài nguôi cơn thịnh nộ, không ra tay vật chết hay làm hại được mình. Mỗi khi tới gần nơi các ngài ngự – thường là một tảng đá hay một gốc cây cổ thụ nào đó, mọi người đều phải kính cẩn đi quanh ba vòng theo hướng tay phải. Cũng như nhiều tôn giáo cổ xưa khác, Sha-man quả thực là tôn giáo của sợ hãi; chính vì thế mà khi dạy giáo lý cho các sinh viên Mongolia, tôi đã cố gắng trình bày đạo Công giáo như một tôn giáo của tình thương, tôn giáo đem lại vui mừng và hy vọng. Tưởng là một công việc dễ dàng, nhưng càng dạy, tôi càng nghiệm thấy vẫn còn phảng phất đâu đó, ngay trong ‘Tin Mừng’ mà tôi đang rao giảng, một nỗi sợ hãi bàng bạc (đôi khi được biện minh bằng từ ‘kính sợ Thiên Chúa’ chăng?). Chính lúc đó tôi mới nhận ra: yếu tính thực sự của Tin Mừng phải là vui mừng trọn vẹn. Tin Mừng không chấp nhận đội trời chung với sợ hãi dưới bất cứ hình thức nào! bao lâu còn vấn vương sợ hãi, dầu là nhỏ nhất, bấy lâu vẫn chưa thực sự hiện diện Tin Mừng chân chính. Từ cửa miệng Đức Giêsu không biết bao nhiêu lần đã liên tục vang lên điệp khúc: “Đừng sợ!” để trấn an các môn đệ là gì?

Nhưng làm sao mà không sợ cho được: nếu đã phạm tội thì tôi phải sợ hình phạt hỏa ngục chứ…, nếu không hãi sợ thì người ta sẽ phạm tội bừa phứa mất thôi! Đúng vậy: sợ hãi dựa trên thưởng phạt xem ra là yếu tính của mọi tôn giáo, nền tảng của mọi nền luân lý và đạo đức xã hội, vì nhân quả là định luật căn bản tuyệt đối của trời đất và con người. Đã có nhân thì phải có quả, có thưởng thì phải có phạt, như vậy mới công bằng, mới giúp làm lành lánh dữ chứ!

Như thế Hài Nhi mà Maria mang trong dạ chắc phải có một khả năng gì đặc biệt lắm: khả năng làm cho con người nhảy mừng và chấm dứt mọi sợ hãi, khả năng đạp đổ định luật nhân quả cho tới lúc đó vẫn thống trị tuyệt đối trên toàn thể nhân loại. Sau này khi lên đường rao giảng ‘học thuyết’ của mình, Giêsu – tên của Hài Nhi đó, sẽ gọi khả năng đó là ‘Tin Mừng’ – Tin Mừng cứu độ; Tin Mừng này hệ tại ở việc tin và chấp nhận vô điều kiện tình thương tha thứ của Thiên Chúa. Chính lòng thương xót từ ái của Chúa, được thể hiện qua Thập Giá Đức Ki-tô Giêsu, sẽ trở thành định luật mới vĩ đại, đối kháng trực diện với luật nhân quả ngàn đời; “Ai tin vào Người Con ấy thì không bị kết án… và không bị luận phạt…” (Ga 3,18). Kể từ khi xuất hiện Hài Nhi, nhân loại sẽ được chia thành hai phe: một bên là những người tiếp tục sống dưới luật nhân quả, chấp nhận thưởng phạt như một định luật bất di bất dịch, kèm theo mối sợ hãi ‘tích cực?’ có khả năng thúc đẩy họ làm lành lánh dữ, còn bên kia là những ai tin và chấp nhận lòng từ nhân và tha thứ nhiệm mầu của Thiên Chúa, mà Hài Nhi Giêsu đã khai mở. Phe thứ hai này sẽ sống không như đầy tớ trong sợ hãi, nhưng trong tinh thần nghĩa tử của con cái, tuy vẫn biết bản thân mình còn đầy bất toàn và tội lỗi (xem Gl 4:7). Gio-an Tiền Hô đã là một trong các nhân vật đầu tiên được ghi danh vào nhóm thứ hai này, và vì thế ông đã nhảy mừng ngay từ lúc khởi đầu kiếp sống làm người của mình. Tương tự như thế, kể từ khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội, Ki-tô hữu chúng ta cũng đã ghi tên mình vào nhóm hai này, để vui mừng đón nhận tình yêu tha thứ, là Tin Mừng không vương chút sợ hãi; dưới lối nhìn này, truyền giáo sẽ được hiểu như một cuộc chinh phục phe nhân loại còn nằm trong sợ hãi của luật nhân quả, để đưa họ tới hưởng niềm ‘vui mừng và hy vọng’ của Tin Mừng cứu rỗi.

Vậy tôi hãy nhảy mừng trong ngày Hai Nhi giáng thế, vì đó là ngày cứu độ, ngày giải phòng trọn vẹn của chính tôi và của toàn nhân loại!

Lạy Mẹ Maria hớn hở mừng vui, xin hãy mang Hài Nhi đến viếng thăm con và làm cho con cũng được nhảy mừng. Xin cất khỏi lòng con mọi nỗi sợ hãi, như Mẹ đã từng diễn đạt: “tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, đấng cứu độ tôi; phận nữ tỳ hèn mọn Người đoái thương nhìn tới…; đời nọ tới đời kia Chúa hằng thương xót…” và xin Mẹ làm cho con trở thành một nhà truyền giáo, tức là kẻ loan truyền cho mọi người niềm vui vì biết rằng: mình được Thiên Chúa cứu độ. Amen.

 

58. Mong đợi trong vui mừng

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

Thánh Luca kể chuyện hai người phụ nữ diễm phúc đang mang thai gặp gỡ nhau. Bà Êlidabet mang thai, đó là ân huệ Chúa thương ban để bà cất đi nỗi nhục cả đời mình “Chúa đã làm cho tôi như thế đó khi Người thương cất nỗi hổ nhục tôi phải chịu trước mặt người đời” (Lc 1,25). Thời gian dài đợi chờ rất dài, nay đã thành hiện thực và bà lại bắt đầu một thời gian trông đợi khác. Bà ẩn dật, cầu nguyện, nghỉ ngơi và chuẩn bị. Đức Maria cưu mang Con Thiên Chúa bởi quyền năng Chúa Thánh Thần. Đức Maria xin vâng với lòng tin và đợi chờ trong niềm vui.

Sau khi được sứ thần truyền tin, Đức Maria có thai và đã lên đường đi thăm người chị họ. Khi gặp nhau, hai người mẹ thông tin cho nhau biết về ý nghĩa của những phép lạ xảy ra trong cuộc đời mình. Đó là thời gian hai người mẹ mang thai chia sẻ sự mong đợi trong vui mừng. Cả hai đều là nữ tỳ khiêm tốn được Thiên Chúa mời gọi tham gia vào sứ mạng cứu độ của Người. Cả hai cùng hân hoan vì những điều kỳ diệu Thiên Chúa đã thực hiện nơi họ và cả hai cùng cảm nhận niềm hạnh phúc dâng trào vì đã tin.

Câu chuyện Tin Mừng hôm nay chứa chan niềm vui. Bà Êlidabet vui mừng vì được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm. Đức Maria vui mừng vì được Thiên Chúa đoái thương. Hài nhi Gioan vui mừng vì được tha tội ngay từ khi còn trong lòng mẹ. Những niềm vui ấy hoà chung làm cho cuộc gặp gỡ trở thành một lễ hội vui mừng tạ ơn Thiên Chúa. Suối nguồn của những niềm vui ấy là ơn Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần đã giúp chuẩn bị các tâm hồn đón nhận niềm vui ơn cứu chuộc.

  1. Cuộc viếng thăm lịch sử

 Đây là cuộc gặp gỡ giữa hai người mẹ, hai người con đang được cưu mang cũng là giữa hai giao ước cũ và mới.

– Giữa hai người mẹ: Đức Maria thăm viếng đem niềm vui có Chúa cho gia đình người chị họ. Ở lại phục vụ người chị trong thời gian mang thai sinh con. Êlidabet được ơn Thánh Thần đã xưng tụng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa và đã ca tụng đức tin của Đức Mẹ.

– Giữa hai người con: Nghe lời chào của người mẹ cưu mang Đấng Cứu Thế, con trẻ Gioan trong lòng Êlidabet nhảy mừng vui sướng.

– Giữa hai giao ước: Cuộc viếng thăm của Đức Mẹ là cuộc gặp gỡ giữa hai giao ước. Thời đại mới mở ra giao ước mới. Con Thiên Chúa làm người khai mở giao ước của thời đại ân sủng và tình yêu.

  1. Cuộc viếng thăm tình yêu

Tình yêu đòi hỏi phải biểu lộ ra chứ không giữ kín bên trong. Một tình yêu giữ kín, không được biểu lộ thành hành động thì không phải là một tình yêu đích thực. Tình yêu phải được biểu lộ ra thành sự quan tâm, chăm sóc, năng tìm cách gặp gỡ, giúp đỡ, hy sinh cho người thân, làm cho người thân trở nên tốt đẹp, hạnh phúc hơn.

Tình yêu đích thực đòi hỏi phải năng gặp nhau, nhất là những lúc người mình yêu có chuyện vui buồn. Tục ngữ có câu: “Nhất nhật bất kiến như tam thu hề!” (một ngày không gặp nhau thì dài như ba năm). Do đó, đi thăm viếng nhau là đòi hỏi của tình yêu đích thực, là biểu lộ sự quan tâm đến nhau.

Đức Mẹ là mẫu gương tuyệt vời. Năng thăm viếng những người chúng ta yêu mến. Những người bệnh tật, già cả, những người nghèo khổ, đau khổ, những người khô khan thờ ơ, những gia đình rối rắm bất hoà… Họ rất cần đựơc thăm viếng. Đến thăm nhau là một phương cách tuyệt vời để biểu lộ tình huynh đệ, tình yêu thương của đạo Chúa.

  1. Niềm vui thăm viếng

Khi đến thăm bà Êlidabet, Mẹ đem Chúa đến cho người thân của mình. Nhờ Mẹ mang Chúa đến, nên không chỉ bà Êlidabet vui mừng mà hài nhi trong lòng bà cũng vui theo mà “nhảy lên” hân hoan. Nhảy mừng diễn tả niềm vui. Đây là niềm vui ơn cứu độ. Sự hiện diện của Đức Maria mang đến niềm vui và còn có sự biến đổi khiến hai mẹ con bà Êlidabet được tràn đầy Thánh Thần, và nhờ đó nhận ra được sự hiện diện của Thiên Chúa nơi  Mẹ. Gia đình Bà Êlidabet là gia đình đầu tiên được Chúa Cứu Thế viếng thăm. Đây là gia đình diễm phúc đón nhận niềm vui ơn cứu độ.

Đến thăm nhau không chỉ là một phương cách biểu lộ tình yêu, nói lên sự quan tâm, mà còn là một dịp thuận lợi để đem Chúa đến cho người mình thăm viếng. Nhờ ta đem Chúa đến mà niềm vui của người được thăm tăng lên gấp bội, và họ nhận lãnh được Thánh Thần.

Đem Chúa đến cho người mình thăm viếng, không có nghĩa là mình nói thật nhiều thật hay về Chúa cho họ nghe. Đức Maria có nói gì về Chúa với Bà Êlidabet đâu! Chúa là tình thương, ta chỉ mang Chúa đến cho tha nhân, khi chính ta thật sự yêu thương họ bằng một tình yêu chân thực. Đến với nhau bằng tình thương, bằng niềm vui là sự gặp gỡ có Chúa hiện diện rồi. Khi người ta mang hận thù oán ghét, ý nghĩ đen tối đến với nhau thì nảy sinh bất hoà chiến tranh và đau khổ. Ta chỉ mang Chúa đến cho tha nhân khi ta đến với ý muốn làm hiện thân của Chúa đối với họ, và coi họ cũng là hiện thân của Chúa đối với mình.

Thiên Chúa yêu thương nhân loại nên đã ban tặng Con Yêu Dấu là Đức Giêsu. Người đến với con người trong lịch sử, cách đây hơn hai ngàn năm. Người đem ơn cứu độ và đem hạnh phúc đến cho mọi người, cho từng người. Khi còn tại thế, Đức Giêsu đã đến thăm nhiều người, nhiều gia đình. Người quan tâm chăm sóc chữa lành những bệnh nhân. Người giảng dạy và ân cần với những người nghèo. Người cải hóa nhiều tội nhân. Người biểu lộ tình yêu thương cho mọi người. Đức Giêsu muốn chúng ta tiếp nối công việc của Người.

Một trong những vấn đề mục vụ hàng đầu của linh mục là thăm viếng giáo dân. Khi đến một giáo xứ mới, công việc đầu tiên của linh mục là đi thăm tất cả các gia đình trong giáo xứ. Như mục tử với đoàn chiên, linh mục biết tình hình chung, biết hoàn cảnh mọi gia đình trong xứ. Từ đó có kế hoạch mục vụ để mang lại hiệu quả thiết thực cho cộng đoàn.

Các tu sĩ, các hội đoàn trong giáo xứ có những thời giờ thăm viếng mục vụ. Đến với các bệnh nhân, người già cả, người nghèo, gia đình rối, gia đình bất hoà luôn được coi là việc tông đồ. Đem Chúa đến với anh chị em của mình là niềm vui và là sứ mạng của người tín hữu.

Những tuần lễ Mùa Vọng, mỗi người trong xứ đạo tiết kiệm chi tiêu để làm việc bác ái. Những phần quà ân tình chia sẻ cho các gia đình nghèo trong Đêm Giáng Sinh thật ý nghĩa, diễn tả tình yêu và sự quan tâm đến người khác.

Đức Maria viếng thăm phục vụ và đem Chúa đến với gia đình bà Êlidabet. Đó là hình ảnh tuyệt đẹp và là mẫu gương cho mọi tín hữu noi theo. Dành thời giờ quý báu để thăm nhau. Chia sẻ tình thương và đem niềm vui có Chúa cho tha nhân luôn là sứ vụ của người tín hữu.

Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết quan tâm đến niềm vui, nỗi khổ, và nhu cầu của từng người sống chung quanh chúng con. Xin giúp chúng con biết hy sinh thì giờ cho dù rất quí báu để năng đến gặp gỡ, thăm viếng nhau, hầu nhờ đó thông cảm được những nỗi vui buồn và nhu cầu của anh chị em. Xin giúp chúng con biết sẵn sàng chia vui sẻ buồn và tìm mọi cách để giúp đỡ những nhu cầu chính đáng của họ. Amen.

 

59. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng

MẸ MARIA ĐƯỢC PHÚC VÌ ĐÃ TIN

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

Tin Mừng Chúa Nhật IV Mùa Vọng luôn đề cao Đức Maria.

Mẹ luôn tin vào Lời Chúa: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Ngài đã nói với em”. Mẹ luôn vâng theo thánh ý Chúa: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên Thần truyền”. Mẹ sẵn sàng giúp đỡ người khác: viếng thăm và giúp đỡ bà Êlisabét.

Đức Thánh Cha Bênêđictô đã dâng Năm Đức Tin cho Đức Maria là “Mẹ Thiên Chúa, được tuyên xưng là ‘người diễm phúc’ vì ‘Mẹ đã tin’ (Lc 1,45)”. (Cánh Cửa Đức Tin, số 15).

“Nhờ đức tin, Mẹ Maria đã đón nhận lời thiên thần và tin nơi lời loan báo Mẹ sẽ trở thành Mẹ Thiên Chúa trong sự tuân phục tận tụy của Mẹ (x. Lc 1,38). Khi viếng thăm bà Elisabeth, Mẹ cất bài ca chúc tụng Đấng Tối Cao vì những kỳ công Chúa thực hiện nơi những người tín thác nơi Ngài (x. Lc 1,46-55). Mẹ vui mừng và hồi hộp sinh hạ Con duy nhất, mà vẫn giữ nguyên sự đồng trinh […] (x. Lc 2,6-7). Tín nhiệm nơi Thánh Giuse hôn phu, Mẹ mang Chúa Giêsu sang Ai Cập để cứu con khỏi cuộc bách hại của Hêrôđê (x. Mt 2,13-15). Với cùng đức tin Mẹ theo Chúa trong thời gian giảng đạo và ở với Chúa cho đến tận đồi Golgota (x. Ga 19,25-27). Với đức tin, Mẹ Maria niếm hưởng những thành quả đầu tiên của cuộc phục sinh của Chúa Giêsu, và cẩn giữ mọi kỷ niệm trong lòng (x. Lc 2,19.51), Mẹ thông truyền kỷ niệm ấy cho 12 Tông Đồ tụ họp với Mẹ trong Nhà Tiệc Ly để lãnh nhận Thánh Linh”. (x. Cánh Cửa Đức Tin, số 13).

Trong “Kinh Năm Đức Tin” (WHĐ), có lời cầu nguyện với Đức Mẹ:“Lạy Mẹ Maria, Mẹ được chúc phúc vì đã tin.Xin giúp chúng con luôn tin những lời Chúa dạy và Hội Thánh truyền, biết phó thác mọi sự cho tình yêu quan phòng của Chúa, biết quan tâm đến nhu cầu của mọi người anh chị em chung quanh chúng con, nhờ đó họ sẽ được nhận biết Chúa, để chính họ cũng nhận được ơn đức tin đem lại sự sống đời đời”.

Đức Maria được Thiên Chúa chúc phúc. Mẹ không chỉ tin mà còn hành động theo điều Mẹ đã tin. Vì thế, Mẹ trở nên thầy dạy về đức tin và đức ái.

  1. “Đức tin hoạt động qua đức ái”(Gl 5,6)

Khi được diễm phúc cưu mang Con Thiên Chúa trong lòng, Đức Mẹ đã hân hoan lên đường đem niềm vui đến với người chị họ cũng đang tràn đầy hạnh phúc, chia sẻ khó khăn với chị mình tuổi cao mà mang thai.Dù đường sá xa xôi, vất vả, qua miền đồi núi, Đức Maria vẫn lên đường viếng thăm và giúp đỡ. Lòng tin thúc đẩy bước chân Mẹ thực thi bác ái. “Đẹp thay trên đồi núi, bước chân người loan báo Tin mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ” (Is 52,7). Hình ảnh Đức Maria đang cưu mang Đấng Cứu Thế, băng ngàn để loan báo tin vui cũng chính là hình ảnh Isaia đã loan báo.

Cuộc viếng thăm là sự gặp gỡ giữa hai người mẹ, hai người con đang được cưu mang, giữa hai giao ước cũ và mới.

– Giữa hai người mẹ: Đức Maria thăm viếng là đem niềm vui có Chúa cho gia đình người chị họ. Ở lại phục vụ người chị trong thời gian mang thai sinh con. Êlisabét được ơn Thánh Thần đã xưng tụng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa và đã ca tụng đức tin của Đức Mẹ.

– Giữa hai người con: Nghe lời chào của người mẹ cưu mang Đấng Cứu Thế, con trẻ Gioan trong lòng mẹ Êlisabét nhảy mừng vui sướng.

– Giữa hai giao ước: Cuộc viếng thăm của Đức Mẹ là cuộc gặp gỡ giữa hai giao ước. Thời đại mới mở ra giao ước mới. Con Thiên Chúa làm người khai mở giao ước của thời đại ân sủng và tình yêu.

“Đức tin hoạt động qua đức ái”trở thành một tiêu chuẩn mới để hiểu biết và hành động, thay đổi toàn thể cuộc sống của con người (x. Rm 12,2; Cl 3,9-10; Ep 4,20-29; 2 Cr 5,17). Đức tin không có đức ái thì không sinh hoa kết quả, và đức ái mà không có đức tin thì sẽ là một tình cảm luôn bị sự nghi ngờ chi phối. Đức tin và đức ái cần nhau, đến nỗi đức này giúp đức kia đi trọn con đường của mình. Quả thật, có nhiều Kitô hữu hiến đời mình để yêu thương phục vụ những người cô đơn, bị gạt ra ngoài lề xã hội hoặc bị tẩy chay, coi họ như những người đầu tiên cần phải chú ý đến và như người quan trọng nhất cần được nâng đỡ, vì chính nơi họ phản ảnh dung nhan của Đức Kitô. (x.Cánh Cửa Đức Tin, số 14).

Đức tin đi đôi với lòng mến. Lòng mến càng nhiều đức tin càng mạnh. Khi yêu mến Chúa, chúng ta sống Lời Chúa: “ai yêu mến Thầy thì hãy giữ lời Thầy”; với trọn niềm tin:“Tất cả những gì anh em xin thì sẽ được như ý” (Mc 11,24).

  1. Đức ái là hoa trái đức tin

“Đức tin không có Đức ái thì không mang lại hoa trái. Đức ái không có đức tin thì sẽ là một thứ tình cảm không thuyết phục. Đức tin và Đức ái cần có nhau, đức này giúp đức kia thực hiện hành trình của mình.” (x.Cánh Cửa Đức Tin, số 14). “Đức Tin là Đức ái trong gốc rễ, còn Đức ái là Đức Tin mang hoa trái. Vì thế, Đức Tin khi được canh tân thì cũng làm cho Đức ái được tăng triển và ngược lại, khi Đức ái được nồng cháy thì Đức Tin cũng được củng cố. Đức Tin đem ánh sáng, Đức ái đem hơi ấm”. (x.tham luận của Đức Cha Đaminh Nguyễn Chu Trinh, tại Hội nghị Thường niên Caritas Việt Nam 2012).

Khi đến thăm bà Êlisabét, Đức Mẹ đem Chúa đến cho người thân của mình. Nhờ Mẹ mang Chúa đến, nên không chỉ bà Êlisabét vui mừng, mà hài nhi trong lòng bà cũng vui theo mà “nhảy lên” hân hoan. Nhảy mừng diễn tả niềm vui. Đây là niềm vui ơn cứu độ. Sự hiện diện của Đức Maria mang đến niềm vui và còn có sự biến đổi khiến hai mẹ con bà Êlisabét, được tràn đầy Thánh Thần, và nhờ đó nhận ra được sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Mẹ. Gia đình Bà Êlisabét là gia đình đầu tiên được Chúa Cứu Thế viếng thăm. Đây là gia đình diễm phúc đón nhận niềm vui ơn cứu độ.

Đức Mẹ là mẫu mực đức ái. Năng thăm viếng những người chúng ta yêu mến. Những người bệnh tật, già cả, những người nghèo hèn, đau khổ, những người khô khan thờ ơ, những gia đình rối rắm bất hoà… Họ rất cần đựơc thăm viếng. Đến thăm nhau là một phương cách tuyệt vời để biểu lộ tình huynh đệ, tình yêu thương của đạo Chúa.

Đến thăm nhau không chỉ là một phương cách biểu lộ tình yêu, nói lên sự quan tâm, mà còn là một dịp thuận lợi để đem Chúa đến cho người mình thăm viếng. Nhờ ta đem Chúa đến, mà niềm vui của người được thăm tăng lên gấp bội, và họ nhận lãnh được Thánh Thần nhờ sự hiện diện của Chúa do ta mang đến. Chính Thánh Thần của Chúa trong ta sẽ thánh hóa, biến đổi họ nên tốt lành, thánh thiện hơn.

Đem Chúa đến cho người mình thăm viếng, không có nghĩa là mình nói thật nhiều thật hay về Chúa cho họ nghe. Đức Maria có nói gì về Chúa với Bà Êlisabét đâu! Chúa là tình thương, ta chỉ mang Chúa đến cho tha nhân, khi chính ta thật sự yêu thương họ bằng một tình yêu chân thực. Đến với nhau bằng tình thương, bằng niềm vui là sự gặp gỡ có Chúa hiện diện rồi.

Tình yêu đòi hỏi phải thể hiện bằng việc làm.Tình yêu được biểu lộ thành sự quan tâm, chăm sóc, năng tìm cách gặp gỡ, giúp đỡ, hy sinh cho người thân, làm cho người khác trở nên tốt đẹp, hạnh phúc hơn.

Thăm viếng nhau là thể hiện tình liên đới, biết quan tâm giúp đỡ nhau.

Một trong những vấn đề mục vụ hàng đầu của linh mục là thăm viếng giáo dân. Khi đến một giáo xứ mới, công việc đầu tiên của linh mục là đi thăm tất cả các gia đình trong giáo xứ. Như mục tử với đoàn chiên, linh mục biết tình hình chung, biết hoàn cảnh mọi gia đình trong xứ. Từ đó có kế hoạch mục vụ để mang lại hiệu quả thiết thực cho cộng đoàn.

Các tu sĩ, các hội đoàn trong giáo xứ có những thời giờ thăm viếng mục vụ. Đến với các bệnh nhân, người già cả, người nghèo, gia đình rối, gia đình bất hoà luôn được coi là việc tông đồ. Đem Chúa đến với anh chị em của mình là niềm vui và là sứ mạng của người tín hữu sống đức tin.

Những tuần lễ Mùa Vọng, mỗi người trong xứ đạo tiết kiệm chi tiêu để làm việc bác ái. Những phần quà ân tình chia sẻ cho các gia đình nghèo trong Đêm Giáng Sinh thật ý nghĩa, diễn tả tình yêu và sự quan tâm đến người khác.

  1. Đức Mẹ, thầy dạy đức tin và đức ái

Đức Mẹ chính là thầy dạy đức tin và đức ái. Tin và yêu giống như đôi cánh giúp cho Mẹ bay lên rất cao, lên tới Thiên Chúa. Tin và yêu giống như chiếc chìa khóa có thể mở được cánh cửa kho tàng quý nhất. Mở được cả cánh cửa kho tàng nước trời, mở được cả tâm hồn của Thiên Chúa.

Đức Mẹ dạy chúng ta hãy tin vào quyền năng của Chúa. Như xưa tại Cana, Mẹ đã bảo các gia nhân: “Người bảo làm gì, thì các anh hãy cứ làm theo”. Hôm nay, Đức Mẹ cũng muốn nói với chúng ta: nếu Chúa đã dạy: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”, thì hãy sốt sắng tin tưởng cử hành Bí tích Thánh Thể. Hãy vững tin, vì Đấng quyền năng đã biến nước lã thành rượu ngon thì cũng quyền năng biến đổi bánh và rượu trở nên Mình Máu Thánh của Người, “Anh em biết những điều đó, nếu anh em thực hành, thì thật phúc cho anh em” (Ga 13,17).

Đức Mẹ dạy chúng ta sống và thực thi đức bác ái. Mẹ đem tình thương đến với gia đình Bà Êlisabét. Người chị họ ca khen Mẹ: “Em có phúc vì đã tin”. Đức tin đem lại hạnh phúc. Có nhiều bằng chứng trong các sách Tin Mừng:

– “Chúa Giêsu nói với viên đại đội trưởng rằng: Ông cứ về đi. Ông tin thế nào thì được như vậy. Và ngay giờ đó, người đầy tớ được khỏi bệnh” (Mt 8,13)

– Chúa Giêsu quay lại nói với người đàn bà bị băng huyết: “Này con, cứ yên tâm, lòng tin của con đã cứu chữa con”. Và ngay từ giờ ấy, bà được cứu chữa (Mt 9,22)

– Chúa Giêsu nói với hai người mù đi theo Ngài “Các anh có tin là tôi làm được điều ấy không?” Họ đáp “Thưa Ngài chúng tôi tin”. Bấy giờ Ngài sờ vào mắt họ và nói “Các anh tin thế nào thì được như vậy”. Mắt họ liền mở ra. (Mt 9,28-29)

Hạnh phúc cho những ai tin vào Thiên Chúa và thực thi đức ái trong đời sống hàng ngày. Sống đạo là sống niềm tin thể hiện qua việc làm “Đức Khôn Ngoan được chứng minh bằng hành động.”(Mt 11,19).

Đức Maria giàu tình thương nên xứng đáng làm Mẹ của Chúa Giêsu là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa. Học nơi Mẹ, bậc thầy về lòng tin và lòng mến chúng ta sẽ sống tốt lành và thánh thiện trên hành trình đức tin của đời sống.

 

60. Mang Chúa đến với mọi người

(Suy niệm của Lm. Vũ Xuân Hạnh)

Cuộc sống hàng ngày, thăm viếng nhau là chuyện hết sức bình thường. Nghe tin bên nhà ông A có chuyện không may, ông B đến nhà ông A thăm hỏi, chia sẻ niềm đau. Hoặc biết nhà bà B có tin vui, bà A đon đả chạy sang góp thêm tiếng cười, chia sẻ niềm vui. Hai người hàng xóm thăm nhau, hai người bạn thăm nhau, những người trong thân tộc máu mủ, họ hàng thăm nhau, tất cả đều là chuyện bình thường của cuộc sống.

Hôm nay Hội Thánh mời gọi chúng ta suy niệm đoạn Tin Mừng cho biết Đức Maria đi thăm bà Isave, người chị họ của Mẹ, khi nghe tin bà mang thai. Đây là một sự thăm viếng bình thường giữa hai người họ hàng của nhau. Dẫu cho Đức maria, lúc đó đã bắt đầu mang thai Chúa Giêsu, và dẫu cho bà Isave từ xưa tới nay không có con, bây giờ lại mang thai trong lúc già nua tuổi tác, thì việc Đức Maria thăm bà Isave vẫn là chuyện bình thường. Có chăng, thì chỉ niềm vui là lớn hơn mà thôi. Nhưng trong sự thăm viếng bình thường giữa hai người phụ nữ ấy, Thiên Chúa lại làm một điều khác thường đến nỗi rất lạ thường: phi thường. Vậy đâu là sự phi thường do bàn tay Thiên Chúa?

Vì đây không chỉ là một cuộc thăm viếng, gặp gỡ giữa hai người mẹ mà thôi. Nhưng trong cuộc thăm viếng giữa hai người mẹ, là một cuộc chào đón giữa hai người con, dù hai người con đó chỉ mới là bào thai trong lòng của hai người mẹ. Sự chào đón lạ thường này, đã khiến thánh Gioan Tiền Hô nhảy mừng trong lòng bà Isave, ngay sau lời chào đầu tiên mà Đức Maria dành cho bà. Đó cũng là lời chào đầu tiên của cuộc nói chuyện, Đức mẹ đã cất lên lời chào trước khi bà Isave chào Đức Mẹ.

Nhảy mừng là để diễn tả niềm vui. Bào thai trong lòng bà Isave, sau này chính là thánh Gioan Tiền Hô, đã biểu lộ niềm vui mừng bằng động tác “nhảy mừng”. Niềm vui cho gia đình của thánh Gioan lớn lắm. Vì đây không phải là niềm vui bình thường, nhưng là niềm vui ơn cứu độ. Niềm vui lớn lao đó, trước hết không chỉ vì hạnh phúc được Đức Maria đến thăm, đúng hơn, cùng với sự thăm viếng của mình, Đức Maria đã mang Chúa đến viếng thăm gia đình thánh Gioan.

Niềm vui càng lớn và ý nghĩa nhiều hơn, khi vừa nhập thể trong lòng Đức Maria, nghĩa là vừa mới xuống thế làm người, Chúa Kitô đã chọn gia đình thánh Gioan làm gia đình đầu tiên để Người thực hiện cuộc viếng thăm đầu tiên. Bởi thế, ơn cứu chuộc, lần đầu tiên đến trong trần gian, ngoài Đức Maria và gia đình thánh Gia, gia đình đầu tiên được diễm phúc đón nhận là chính gia đình của thánh Gioan. Còn hơn thế nữa, chẳng những được Chúa đến thăm, gia đình thánh Gioan còn hãnh diện vô cùng vì cùng với việc Đức Mẹ ở lại, gia đình thánh Gioan được Chúa ngự đến, hiện diện và sống cùng. Chỉ có mỗi một mình gia đình thánh Gioan là gia đình đầu tiên được diễm phúc như thế.

Thật ra bào thai không thể nhảy mừng, hơn nữa, bào thai, dù sẽ là một siêu nhân, cũng không bao giờ biết niềm vui, nỗi buồn, cũng chẳng hiểu được bất cứ một điều gì, để có thể nhảy mừng hay không nhảy mừng. Nhưng ở đây, thánh Luca khẳng định rất dứt khoát: “Hài nhi nhảy mừng trong lòng bà” (tức là hài nhi nhảy mừng trong lòng bà Isave). Như vậy, ta phải giải thích làm sao cho hiện tượng kỳ diệu này? Chắc bạn đồng ý với tôi, đây là một phép lạ: Thiên Chúa đã thực hiện phép lạ tuyệt vời. Người đã làm cho một cuộc viếng thăm bình thường, nên rất đỗi lạ thường: thai nhi có thể nhảy cẩng lên mà vẫn bình yên vô sự. Sự nhảy mừng, đồng thời là phép lạ ấy, có được là do một bào thai khác được một người mẹ khác mang trong lòng dạ mình làm nên. Người mẹ đó là Đức Maria, và bào thai mà Mẹ mang trong dạ, còn hơn cả một con người: đó là Thiên Chúa làm người. Chỉ có một Thiên Chúa và quy về Thiên Chúa, ta mới dám khẳng định đức tin của mình vào một sự kiện lạ thường như thế.

Vâng! Chỉ có Thiên Chúa mới làm nên điều kỳ diệu đến nỗi con người phải chưng hửng. Do đó, việc Đức Mẹ thăm viếng bà Isave không còn là một cuộc thăm viếng bình thường nữa, mà là một cuộc trao ban ơn cứu độ. Mẹ đã mang chính Đấng là Ơn Cứu Độ tuyệt đối đến cho gia đình bà Isave.

Mẹ đến thăm bà Isave, thì trong hành động đến thăm đó, Mẹ đã mang Chúa Giêsu đến cho gia đình bà Isave. Bởi vậy, bất cứ nơi nào người ta mang Thiên Chúa đến cho nhau, ở đó có niềm vui, có sự bình an, có ơn thánh, và sự cứu rỗi sẽ tràn ngập.

Trong cuộc thăm viếng người chị họ của mình, Mẹ Maria dạy chúng ta một bài học đáng giá: Hãy mang Chúa đến với mọi người, chứ đừng mang hận thù, đừng mang những suy nghĩ đen tối về anh chị em mà đến với nhau. Chúng ta hãy bắt chước Mẹ để yêu thương và chia sẻ tình yêu của bản thân với mọi người. Càng hướng tới lễ Giáng sinh, ta càng phải chuẩn bị tâm hồn thoát ly khỏi những gì làm cản trở mình đến với anh chị em. Hãy cưu mang Chúa Giêsu trong tâm hồn, để như Mẹ, ta cũng có thể mang một tâm hồn tràn ngập sự sống của Chúa Giêsu và mang chính Chúa Giêsu đến với anh chị em xung quanh. Nhờ đó, mọi người sẽ chứa chan niềm vui, chứa chan ơn thánh, chứa chan niềm hạnh phúc và bình an. Và để cưu mang chính Chúa Giêsu trong tâm hồn, bạn và tôi cần thường xuyên tra vấn chính mình, cần nhìn lại mình, kiểm điểm mình một cách cẩn thận, đừng làm qua lần chiếu lệ. Nhờ thái độ nội tâm ấy, ta sẽ nhận ra chỗ nào còn gồ ghề, chỗ nào là hố sâu, chỗ nào làm ta chưa thể đến với anh chị em, để rồi thành tâm sửa đổi, làm mới lại con người mình. Làm mới lại chính mình để có thể thuộc về anh em mình như thế, đó chính là biểu hiện của một tâm hồn có Chúa Kitô. Nói cách khác: đó chính là biểu hiện của một tâm hồn cưu mang Chúa.

 

61. Phước lành Thiên Chúa

(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’ – Radio Veritas Asia)

Mẹ Têrêxa Calcutta kể lại: “Một hôm, Mẹ đến thăm một nhà thương Anh quốc rất tối tân. Mẹ tả phong cảnh và các phòng ốc của nhà thương rất khang trang, sáng sủa và trang bị đủ mọi thứ máy móc cùng tiện nghi vô cùng tối tân, cân xứng với số tiền phải trả. Ngoài ra, các y tá, nhân viên làm việc trong nhà thương đều rất nhã nhặn và lịch sự. Nhưng Mẹ nhận thấy một điều lạ kỳ và hỏi một vị bác sĩ đang hướng dẫn Mẹ đi thăm nhà thương. “Thưa bác sĩ, tại sao các người bệnh cứ mỗi lần thấy ai vào là họ cùng đồng loạt quay nhìn về phía cửa vậy?”. Câu trả lời của viên giám đốc nhà thương rất đơn sơ nhưng đượm vẻ buồn: “Thưa, vì họ luôn luôn chờ đợi một ai đó trong số bà con thân thuộc đến thăm họ, nhưng chẳng có ai đến thăm họ bao giờ hết”.

Ngay từ thời sơ khai, Giáo Hội bao giờ cũng luôn luôn khuyến khích các tín hữu thăm những người già cả, bệnh tật, ốm yếu, tù nhân, nghèo khó và tất cả những ai cần trợ giúp, ủi an nâng đỡ. Nghĩa là Giáo Hội hối thúc tín hữu thực thi Tin Mừng yêu thương của Chúa Giêsu và nhìn ra khuôn mặt của Ngài nơi các anh chị em đau khổ và bị bỏ rơi này.

Các bài đọc Chúa nhật này cũng mời gọi chúng ta suy tư về con đường nghèo hèn, tầm thường bé nhỏ, mà Thiên Chúa đã dùng để đến với loài người chúng ta và các hệ lụy của sự lựa chọn ấy. Chương 5,1-4, sách tiên tri Mikêa là một lời sấm thuộc một lời sấm cứu thế được thánh sử Matthêu dùng lại và áp dụng cho Chúa Giêsu trong bối cảnh này. Lời sấm này của tiên tri Mikêa diễn tả các trái nghịch giữa sứ mạng Thiên Chúa giao phó cho Giêrusalem trong dòng lịch sử cứu độ và cái bất lực của nó. Sở dĩ Giêrusalem đã không chu toàn được sứ mạng này vì tội lỗi và bất trung nó đã vấp phạm, khiến cho nó không còn khả năng thực hiện những nhiệm vụ ấy. Do đó, Thiên Chúa đã chọn lựa một nơi chốn khác xa xôi, bé nhỏ và hẻo lánh không ai ngờ tới. Đó là làng quê Bêlem, trước đây gọi là Ephrata.

Đấng Cứu Thế và dòng tộc của Ngài sẽ bắt nguồn từ đó chớ không phải tại thủ đô Giêrusalem hay một thành phố danh tiếng nào khác vùng Trung Đông cổ. Và trong làng quê Bêlem, Thiên Chúa chọn gia đình ông Giêsê, cha của vua Đavít và là ông tổ của thánh Giuse, bạn Đức Trinh Nữ Maria, người được Thiên Chúa chọn làm Mẹ của Đức Giêsu, Đấng Cứu Thế. Như thế, Chúa Giêsu Kitô xuất hiện trong dòng lịch sử nhân loại tại làng quê bé nhỏ Bêlem này, cách xa khung cảnh huy hoàng vĩ đại của các thành phố lớn thuộc các đế quốc vùng Trung Đông. Ngài đã bước vào gia đình nhân loại như một trẻ bé bỏng, yếu đuối, trong một gia đình bình thường như hàng ngàn vạn gia đình bình thường khác. Tuy nhiên, trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa không có gì là tình cờ cả. Các lựa chọn ngược đời ấy của Thiên Chúa, là quê Bêlem khiêm tốn, điều kiện bé bỏng yếu đuối của con người đều tham dự vào sự cao cả và quyền năng vô cùng của Thiên Chúa. Bởi vì Đấng xuất thân từ đó sẽ thống trị mọi dân nước và cai trị với chính uy quyền của Thiên Chúa toàn năng và sẽ đem lại an bình cho nhân loại.

Kiểu cách lựa chọn ngược đời và các nẻo đường lạ lùng Thiên Chúa dùng để hiện thực chương trình cứu độ, càng nổi bật hơn theo bài Phúc Âm thánh Luca, 1,39-48. Maria, một thiếu nữ vô danh, con của một gia đình làng quê Nazareth được Thiên Chúa lựa chọn làm người cưu mang Đấng Cứu Thế Con của Ngài. Phước lành Thiên Chúa đổ tràn đầy trên Trinh Nữ Maria cũng là phước lành Thiên Chúa ban cho toàn thể nhân loại trong dòng lịch sử thế giới, lịch sử loài người. Thiên Chúa đã ban cho con người không biết bao nhiêu là phước lành, nhưng phước lành vĩnh viễn và cao quí trọng đại nhất là chính Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế. Lời chào của bà Isave khi thấy Trinh Nữ Maria đến thăm mình và lời kinh chúc tụng của Trinh Nữ Maria đều ngợi khen kểu cách Thiên Chúa lựa chọn con đường dẫn Ngài đến cuộc gặp gỡ cứu độ loài người, con đường bé nhỏ tầm thường khiêm tốn nghèo hèn. Nhiều người không chịu được ý tưởng Con Thiên Chúa nhập thể làm người trong lòng một phụ nữ và mở mắt chào đời từ lòng của một bà mẹ. Do đó, câu chào của bà Isave: “Em ơi, em thật có phúc hơn mọi phụ nữ và Giêsu người con của cung lòng em cũng thật là có phúc”. Nhưng đây là một sự thật, một sự thật lịch sử minh chứng cho thấy, tất cả những biến cố của Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, đã nhập thể làm người và sinh ra từ cung lòng của người đàn bà trong gia đình nhân loại, hoa trái ngọt dịu ấy, người con ấy do hoạt động và quyền năng của Đức Chúa Thánh Thần nên được cưu mang trong cung lòng của Trinh Nữ Maria. Nhưng cũng y như bất cứ bào thai nào khác của con người trần gian, nó được gắn liền thịt xác của bà mẹ và sẽ nhập thể. Con Thiên Chúa đã cần đến cung lòng của một bà mẹ. Trinh Nữ Maria đã không tiếp nhận Ngôi Lời trong linh hồn mình, mà đã tiếp nhận Ngài trong chính thân xác mình, trong cung lòng phụ nữ của mình. Và Chúa Giêsu đã chấp nhận một luật lệ tâm, sinh, vật lý của một bào thai thành hình lớn lên trong 9 tháng 10 ngày, được mẹ nuôi bằng chính máu mẹ như mọi thai nhi khác. Sự kiện lớn lên dần dần ấy tỏ ra qua hình thể tròn trịa của bụng mẹ ngày càng lớn lên. Sự kiện Giêsu là hoa trái, là bào thai lớn lên trong bụng mẹ, chứng minh Thiên Chúa không phải là một lý thuyết, một giả thuyết, mà Ngài là một hoa trái để dưỡng nuôi cứu độ thế giới này.

Mẹ Maria chỉ im lặng sống cuộc đời bé nhỏ thầm lặng ẩn dật, cưu mang Giêsu, hoa trái cứu độ rồi dâng hiến Ngài cho chúng ta. Ánh sáng không cần lời nói, sự sống hơi thở của con tim chính là sứ điệp. Khi lòng càng trống rỗng bao nhiêu thì con người càng gây nhiều tiếng động tình yêu. Kitô hữu là người cưu mang Chúa Kitô trong tâm lòng nhưng có thể mang Chúa Kitô phong phú và hữu hiệu như Mẹ Maria, khi ta biết sống khiêm tốn bé nhỏ và yêu thích con đường kiểu sống bé nhỏ của Thiên Chúa như một tôi tớ khiêm hạ.

Như đã nêu lên trong thư Do Thái diễn từ về chức linh mục của Chúa Giêsu, biến cố Chúa Giêsu nhập thể làm người là một biến cố lịch sử và là trung tâm điểm của lịch sử cứu độ. Bởi vì nó mở ra một kỷ nguyên mới, nó vượt xa quan niệm cũ của Do Thái về liên hệ giữa Thiên Chúa và thế giới, giữa con người và Thiên Chúa. Do Thái giáo đóng khung các nghi lễ này trong đền thánh, trong việc dâng cúng các lễ vật và việc tuân giữ luật lệ. Mặc dầu các sinh hoạt đã có nhiệm vụ và vai trò rất quan trọng trong lịch sử cuộc sống tinh thần của Israel, chúng cũng không thể trao ban ơn cứu độ do con người. Nếu muốn được ơn cứu độ, con người cần phải trở về với chương trình mà Thiên Chúa đã có đối với nó ngay từ thời tạo dựng. Nghĩa là trước khi con người phạm tội, cần phải nhận biết Thiên Chúa và thánh ý Ngài và lấy đó làm trung tâm lịch sử đời mình và lịch sử thế giới, cần phải quy hướng cuộc sống của mình theo chương trình và ý muốn của Thiên Chúa và hoán cải trở về với Ngài. Thái độ sống này đòi buộc chúng ta không được tách rời cuộc sống lòng tin khỏi các sinh hoạt thường ngày, bởi vì chúng ta không phải chỉ là Kitô hữu khi cử hành các lễ nghi phượng tự mà thôi, nhưng là suốt ngày, trong mọi công việc khác nhau. Tách rời cuộc sống lòng tin khỏi sinh hoạt trong cách hành sử thường ngày là chúng ta khước từ tin nhận biến cố nhập thể của Chúa Giêsu. Bởi vì khi nhập thể, Chúa Giêsu quy hướng toàn cuộc sống của Ngài theo thánh ý của Thiên Chúa Cha: “Này con xin đến để làm theo thánh ý Cha”. Và Chúa Giêsu đã sống mọi giây phút đời mình dưới ánh sáng chương trình của Thiên Chúa. Như vậy, khi biết noi gương Chúa Giêsu, sống tinh thần nhập thể trọn vẹn, ấy là chúng ta đón nhận sứ điệp Giáng sinh đúng đắn và trọn vẹn nhất.

 

62. Chia sẻ niềm vui

(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’ – Radio Veritas Asia)

Trong bầu khí mừng lễ Chúa Giáng sinh, phụng vụ hôm nay trình bày cho chúng ta sự gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người qua sự gặp gỡ hữu hình giữa Chúa Giêsu trong lòng Đức Trinh Nữ Maria và Gioan Tẩy Giả trong lòng bà Elizabeth.

Nơi bài đọc thứ nhất, tiên tri Mikêa cho thấy lời Chúa hứa là Người sẽ gặp dân Người và điểm quan trọng là tiên tri gọi đích danh thành Bêlem và cho biết từ đó sẽ xuất hiện Đấng thống trị Israel. Với lời hứa đó, con người sống trong hy vọng và từ nay Thiên Chúa không còn gặp gỡ con người trong tiếng sấm kinh hồn, trong chớp lòa khủng khiếp, mà trong một Đấng xuất thân từ một địa điểm rõ rệt trên mặt đất này. Và chính Đấng đó sẽ chăn dắt Israel trong sức mạnh của Chúa, trong thánh danh cao cả của Thiên Chúa.

Như thế từ 700 năm trước Chúa Giêsu giáng sinh, tiên tri Mikêa đã chỉ rõ nơi Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra và ở cùng con cái loài người. Đó là một điểm khuyến khích niềm hy vọng, sự mong chờ trong Cựu Ước. Thiên Chúa đến gặp gỡ con người, ở với con người và hướng dẫn con người trên con đường về Nước Thiên Chúa.

Bài đọc thứ hai trích từ thư gởi tín hữu Do Thái của thánh Phaolô, diễn tả một cách chính xác hơn, cụ thể hơn Đấng đến gặp con người mà tiên tri Mikêa chỉ diễn tả cách lờ mờ trong hy vọng. Đấng đó đến với một thể xác để thi hành thánh ý Chúa trong thân xác của mình thay thế cho bao nhiêu của lễ toàn thiêu, của lễ đền tội. Đấng đó chính là Chúa Giêsu, Ngài đã đến và đã là điểm gặp gỡ hữu hình giữa Thiên Chúa và con người. Ngài là trung gian giữa trời và đất. Nơi Ngài, con người nhìn thấy Thiên Chúa hữu hình để qua Ngài, con người đem lòng yêu mến những sự vô hình, và Thiên Chúa chí tôn chí thánh yêu mến con người yếu đuối, tội lỗi khi nhìn thấy nhân loại nơi Chúa Giêsu và trong Chúa Giêsu, vì Chúa yêu thương con người qua những gì Chúa quí mến nơi Con Một Chúa Nhập thể làm người. Đó là một sự gặp gỡ nhiệm mầu mà chỉ có Thiên Chúa mới bắc cầu qua được vực thẳm xa cách giữa Thiên Chúa và con người đó. Chính nhờ Chúa Kitô, cùng với Chúa Kitô và trong Chúa Kitô mà chúng ta được nên thánh và được vui mừng tiến về thiên quốc, qua vực thẳm đã được Thiên Chúa bắc cầu gặp gỡ.

Tiếp đến chúng ta thấy người cộng tác trực tiếp và tích cực cho cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người này, chính là Đức Maria. Người đã mang thai Đức Giêsu bởi phép Chúa Thánh Thần, để cung cấp cho Ngôi thứ hai một thân xác theo ý định Thiên Chúa, như thánh Phaolô đã nói trong bài đọc thứ hai: “Chúa đã không muốn của hy tế và của lễ hiến dâng nhưng đã tạo nên cho tôi một thể xác”.

Với hình ảnh Maria đi viếng bà Elisabeth nơi Phúc Âm hôm nay, các thánh trong Giáo Hội hay suy niệm đó là hình ảnh người đem Chúa đến cho nhân loại. Khi nói đến sự gặp gỡ đầu tiên trong thân xác với thân xác, giữa Thiên Chúa và con người này, thánh Luca đã diễn tả một quang cảnh tràn ngập niềm vui.

Trước tiên niềm vui của bà Elisabeth, bà đang có mang lần đầu tiên trong lúc tuổi già và bà biết nhờ thiên thần đã nói với Giacaria chồng bà rằng: “Người con trai của bà sẽ được tràn đầy Chúa Thánh Thần từ trong lòng mẹ và người con đó sẽ đi trước Chúa để dọn đường cho Chúa”. Niềm vui đó tràn trề khi Maria chào bà, làm bà phải kêu lên trong hân hoan ngây ngất: “Bởi đâu mà tôi được diễm phúc là Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm tôi!”

Đến lượt Maria, người cũng vui mừng và từ đáy lòng thốt lên kinh Magnificat: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa”. Lời kinh tuyệt vời cô đọng từ trong Kinh Thánh mà Giáo Hội hằng ngày dùng để ca tụng Chúa trong giờ Kinh Chiều của mình.

Tiếp đến là Gioan, dầu còn trong lòng mẹ cũng cảm thấy được niềm vui gặp Đấng cứu độ. Chính Elisabeth đã âu yếm để ý đến con mình và nói lên cho mọi người biết: “Này, tai tôi vừa nghe lời bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi”. Truyền thống Công Giáo cho rằng: khi Gioan nhảy mừng trong lòng mẹ, chính là lúc Gioan được tha tội tổ tông và được thánh hóa nhờ ơn cứu chuộc của Đấng Cứu Thế.

Tất cả mọi người đều vui mừng trong Phúc Âm Chúa nhật hôm nay, mà nguyên nhân của sự vui mừng đó chính là sự hiện diện của Chúa Giêsu, dầu Người mới tượng thai vài tuần trong lòng Mẹ Maria. Chúng ta có thể mở ngoặc một chút ở đây, để nhìn thấy sự kiện trong Phúc Âm hôm nay là một bằng chứng hùng hồn để tôn trọng đời sống con người bắt đầu từ lúc thụ thai. Mới có vài tuần trong lòng Mẹ, Chúa Giêsu đã là Thiên Chúa thật, đã mang niềm vui đến cho mọi người nhất là đem ơn thánh hóa đến cho Gioan cũng còn trong lòng mẹ. Nhưng ở đây, Chúa nhật này, chúng ta đặt trọng tâm suy niệm vào niềm vui được ơn cứu độ, niềm vui gặp được Chúa. Cùng với Elisabeth và Gioan ước gì chúng ta cảm thấy được niềm vui Chúa đến với chúng ta, và cùng với Mẹ Maria ước gì chúng ta biết đem niềm vui đến cho mọi người.

Để có việc làm cụ thể trong tuần này, tôi sẽ cố gắng dàn xếp tất cả những gì đã làm tôi phiền muộn bực bội khó chịu để có tâm hồn vui tươi, an bình mừng lễ Chúa Giáng sinh. Và tôi sẽ cố gắng là niềm vui của tất cả mọi người nhất là niềm vui sâu xa nơi tâm hồn. Và vì lễ Giáng sinh là lễ để chia sẻ niềm vui, cho nên tôi cố gắng chia sẻ thời giờ, sức lực với người khác, nhất là phục vụ người khác. Cố gắng chia sẻ nụ cười với người khác và cố gắng ủi an, nâng đỡ người khác.

 

63. Thưa ‘vâng’ với Thiên Chúa

(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)

Đoạn Phúc Âm này bắt nguồn từ những bản văn người ta mệnh danh là “truyện thời thơ ấu của Chúa Giêsu” và cho rằng tất cả chỉ là “thần thoại”. Có những thuyết nhìn thấy trong đó một sự pha trộn những chuyện tưởng tuợng của một số tôn giáo cổ. Ở đây không xét đến lập trường ấy, chúng ta căn cứ vào những công trình khảo cứu theo phương pháp khoa học nghiêm chỉnh nhất và học thuyết của Giáo Hội. Thật ra Phúc Âm chứa đựng đức tin thuần khiết và trọn vẹn, cho nên phải đọc Phúc Âm với một tâm tình thanh khiết.

Đức Maria đi thăm chị họ là bà Elizabeth, và được đón chào: “Bà có diễm phúc hơn mọi người nữ”. Lúc đó xảy ra một sự kiện quan trọng cho cả chủ lẫn khách: Gioan Tẩy Giả nhảy mừng trong lòng mẹ khi Đức Maria đang mang thai Chúa Giêsu vừa tới nơi. Đoạn tả cảnh thăm viếng kết thúc bằng tiếng hô lớn của bà Elizabeth, nhận định của bà đối với chúng ta rất là quan trọng: “Phúc cho bà là người đã tin”.

Giáp Lễ Giáng Sinh là lúc thích hợp để suy niệm về mầu nhiệm Đức Maria:

1) Mầu nhiệm trinh khiết.

Ơn trinh khiết của Đức Maria có tính cách thanh sạch trọn vẹn bao trùm và thấm nhuần tất cả hồn xác Người. Dường như bà Elizabeth cảm biết sự thật ấy trong con người của Đức Maria vì bà nghĩ rằng, nhờ lời Chúa, Đức Maria trở thành Mẹ Đấng Cứu Thế. Được ơn linh ứng của Chúa Thánh Linh và đáp trả ân huệ đó, Đức Maria quan niệm cuộc đời mình chỉ là để trao phó tất cả hồn xác cho Chúa trong niềm cung hiến thuần khiết trọn vẹn nhất. Khi thiên sứ xin Người trả lời. Đức Maria nhìn rõ toàn diện vấn đề đặt ra cho mình. Ngay lúc đó, hành vi tin của Đức Maria đối với Thiên Chúa cho Người cảm biết sự thụ thai vượt khỏi định luật nhân loại chính là phương cách triệt để nhất, hoàn toàn nhất để thuộc về Thiên Chúa. Tiếng vâng của Đức Maria là sự thánh hiến đức trinh khiết của Người.

2) Mầu nhiệm làm mẹ.

Do sự ưng thuận làm mẹ, Đức Maria gia nhập mầu nhiệm Đức Giêsu trong đời sống thế gian của Chúa, bắt đầu từ khoảnh khắc truyền tin cho tới khoảnh khắc sau cùng là Chúa sống lại, qua những giai đoạn Chúa sống ẩn dật, Chúa đi rao giảng, Chúa chết trên thập giá.

Thái độ Đức Maria trong những giai đoạn ấy có thể vạch cho chúng ta hai hướng cầu nguyện:

– Thưa vâng với Thiên Chúa trong đức tin, dù gặp những hoàn cảnh phi lý nhất, đó là con đường chắc chắn để hoàn thành số mạng mình.

– Thưa vâng với Thiên Chúa trong đức tin, chung cục đem niềm vui đến với chúng ta nhờ kết hợp mật thiết với mầu nhiệm Đức Giêsu Kitô hấp hối và sống lại để cứu độ chúng ta và thế giới.

 

64. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng

(Suy niệm của Lm. Trần Đình)

Phụng vụ Lời Chúa Mùa Vọng thật thâm trầm.

Với Gioan Tiền Hô, chúng ta được mời gọi hãy hoán cải, chuẩn bị đường cho Chúa đến.

Với Đức Maria, chúng ta được kêu mời hãy trở thành “hòm bia Thiên Chúa”, nghĩa là làm sao để lòng ta xứng đáng là “hang đá” cho Chúa ngự.

Hãy thong thả đọc lại những lời Tin Mừng hôm nay để hiểu.

  1. Đức Maria, “hòm bia Thiên Chúa”

Thánh sử Luca muốn trình bày Đức Maria như “hòm bia Thiên Chúa” hay “khám giao ước”. Đọc Lc 1, 39-45 song song với II S 6 ta sẽ nhận ra điều đó.

Ngày xưa, sau khi bình định giang sơn, Vua Đavít đã ra lệnh rước khám Giao ước về Giêrusalem. Khám được đặt trên một “cỗ xe mới” và kiệu đi. Đavít và toàn thể nhà Israel nhảy mừng trước khám. Và khám ngụ lại nơi đâu thì Chúa đã chúc lành cho nơi đó.

Tin mừng Luca thật sự muốn trình bày Đức Maria là “khám giao ước” hay “hòm bia của Thiên Chúa”. Thử lẩy ra vài yếu nét để hiểu.

a/ Khi đến sân lúa của Nakôn, Uzza giơ tay tới khám Thiên Chúa mà nắm lại, vì bò kéo hỏng chân. Nộ khí Thiên Chúa bốc cháy trên Uzza và đánh ông tại chỗ. Đavít cảm thấy khiếp sợ và nói: “khám của Giavê đến nhà tôi làm sao được? (2 Sm 6, 9)

Khi nghe lời thiên thần truyền tin rằng mình sẽ làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria cũng đã thưa với thiên thần với lời lẽ tương tự: “Việc ấy sẽ xảy ra làm sao được?” (Lc 1, 34).

Xem ra bà Elisabet cũng đã sững sờ khi thấy Đức Maria xuất hiện: “Bởi đâu tôi được thế này là Mẹ Chúa tôi đến với tôi” (Lc 1, 43; x. 2 Sm 6, 9). Bà đã nhìn thấy nơi Đức Mẹ hình ảnh của “khám giao ước” hiện thân.

b/ Vì sợ, Đavít không dám rưốc khám vào nhà ông, nhưng để khám tại nhà Obed-Edôm. Và khám “đã lưu lại nhà Obed-Edôm người thành Gát ba tháng” (2 Sm 6, 11).

Đức Maria cũng viếng thăm chị họ Eâlisabet và “đã lưu lại với Elisabet chừng ba tháng” (Lc 1, 56).

Rõ ràng, Luca muốn trình bày Đức Maria như “hòm bia Thiên Chúa”, như “khám giao ước”.

Trong Tông Huấn Marialis Cultus, Đức Phaolô 6 đã hiểu như vậy: Thánh Thần đã biến Đức Trinh Nữ Maria thành “nhà ở của Đức Vua hay chốn nghỉ ngơi của Ngôi Lời, Đền Thờ hoặc Nhà tạm của Chúa, hòm bia giao ước hoặc hòm bia thánh hoá” (M.C 26).

Kinh cầu Đức Bà hữu lý khi gọi Đức Maria là “hòm bia giao ước vậy”.

  1. Những “hòm bia Thiên Chúa” hôm nay
  2. Khi trình bày Đức Maria là “hòm bia Thiên Chúa”, Thánh sử Luca muốn nói rằng Thiên Chúa vẫn tiếp tục hiện diện ở giữa dân Người, một sự hiện diện khiêm nhường và kín đáo. Đó là nét nghịch thường của mầu nhiệm Nhập Thể. Sự hiện diện của Người được bày tỏ qua một con người: Đức Maria.
  3. Đàng khác khi đặt bài Tin Mừng này vào trong ngày Chúa Nhật cuối cùng của Mùa Vọng, có lẽ Giáo Hội muốn dạy chúng ta, một cách nào đó, hãy trở thành “hòm bia”, “nơi” xứng đáng để Thiên Chúa cư ngụ.

Mùa Giáng Sinh, nếu không để ý, người ta sẽ dễ quan tâm đến những yếu tố bên ngoài nhiều hơn mà xem nhẹ yếu tố bên trong. Những hang đá sẽ được trang hoàng lộng lẫy, với những đèn đóm muôn mầu muôn sắc. Đã đành những yếu tố bên ngoài cũng cần thiết, nhưng nếu thiếu sự chuẩn bị bên trong thì Chúa vẫn sẽ không sinh xuống lòng chúng ta và như vậy việc Chúa đến nào có ích gì!.

Nếu ngày xưa, hòm bia là nơi chứa đựng thập giới, thì Đức Maria là hòm bia khi ngài là nơi tiếp nhận Chúa, bởi cõi lòng ngài hoàn toàn thanh sạch, rất xứng đáng là nơi Chúa ngự. Hôm nay Chúa cũng mời gọi chúng ta hãy trở nên “hòm bia”, nghĩa là nơi xứng đáng để ngài ngự xuống.

 

65. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng

CHUẨN BỊ LỄ GIÁNG SINH VỚI MẸ MARIA.

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Nhân vật quan trọng thường đến sau cùng, Đức Trinh Nữ Maria, người phụ nữ được chọn làm Mẹ sinh ra Chúa Cứu Thế, hôm nay mới chính thức xuất hiện vào Chúa Nhật cuối cùng của Mùa Vọng-Giáng Sinh. Mẹ xuất hiện trong khung cảnh một cuộc đi thăm viếng và phục vụ bà Elizabeth, một phụ nữ son sẻ lại được làm mẹ sinh ra Gioan Tẩy Giả, Tiền Hô của Chúa Cứu Thế. Một cuộc gặp gỡ giữa hai người mẹ và cũng là một cuộc chào đón giữa hai người con trong cung lòng hai người mẹ.

Trong dịp này, Mẹ Maria đã tỏ ra như gương mẫu cho chúng ta noi theo để chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh.

Để mừng lễ Giáng Sinh với Mẹ Maria, chúng ta phải có tâm tình của Mẹ: tâm tình đầu tiên của Mẹ là sẵn sàng đối với Chúa. Tin Mừng trình bày Mẹ Maria qua một khung cảnh cảm động. Một thiếu nữ đã đính hôn vừa có thai, lên đường thực hiện một cuộc hành trình dài đến 150 cây số và ở lại nhà bà Elizabeth trong một thời gian ba tháng. Một thiếu nữ mới lên 17, 18 tuổi, chưa bao giờ ra khỏi nhà mẹ mình, đã vội vã ra đi tiến lên miền núi theo một tiếng gọi thiêng liêng thì thầm trong lòng.

Ngay từ đầu, trong buổi Truyền Tin, Mẹ Maria đã tỏ ra sẵn sàng rồi: Thiên sứ báo tin Maria sẽ sinh con, Maria bối rối vì mình không biết đến đàn ông. Nhưng Thiên Sứ lại nói, Maria sẽ cưu mang bởi quyền năng Chúa Thánh Thần. Thiên Sứ nhắc đến trường hợp của bà Elizabeth, tuy đã già cả và có tiếng là son sẻ, nhưng đã cưu mang được 6 tháng. Và Thiên Sứ kết thúc: “Không có sự gì mà Thiên Chúa không làm được”. Đức Maria liền thưa: “Này tôi là nữ tỳ của Chúa. Tôi xin vâng như lời Thiên Sứ truyền”. Maria luôn tỏ ra sẵn sàng khi đã biết được ý muốn của Chúa.

Chính sự sẵn sàng đó đã làm cho bà Elizabeth nhận ra khi Maria bước vào nhà mình: “Em thật diễm phúc, vì đã tin rằng: Chúa sẽ thực hiện những gì Ngài đã nói cho em biết”. Vì vậy, thái độ chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh đối với chúng ta hôm nay là phải suy gẫm và sống lời Chúa như Mẹ Maria, điều mà cách đấy 30 năm sau chính Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Phúc cho ai nghe Lời Chúa mà đem ra thực hành ”.

Mẹ Maria sẵn sàng vâng theo ý Chúa với niềm tin tưởng và đơn sơ. Chính đức tin là động cơ thúc đẩy các hoạt động của Mẹ. Chúng ta đọc được ở chương 2 Tin Mừng theo thánh Luca, hai điểm rất đơn sơ, bề ngoài xem ra không quan trọng, nhưng thật sự đầy ý nghĩa. Đó là khi các mục đồng từ hang đá Bêlem ra về, họ đã thuật lại khắp nơi những biến cố của đêm Chúa Giáng Sinh, và tất cả những ai nghe đều kinh ngạc về các điều mục đồng thuật lại. “Còn Maria thì giữ kỹ những điều ấy và luôn suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2,18-19). Cũng ở cuối chương 2 này, khi Đức Mẹ gặp được Chúa Giêsu trong Đền Thánh sau mấy ngày lạc mất con, Thánh sử Luca cũng ghi: “Rồi Chúa Giêsu đã theo hai ông bà trở về Nazaret. Ngài luôn vâng phục hai ông bà. Còn Mẹ Ngài thì giữ kỹ các điều ấy trong lòng” (Lc 2,51).

Cả hai lần đó, Thánh Luca lưu ý với chúng ta rằng: Mẹ Maria không những chỉ trao ban cho Chúa Giêsu Hài Đồng một thân xác mà Mẹ còn muốn hiến trong cuộc đời mình, lòng trí của mình cho việc phục vụ Con Thiên Chúa làm người. Mỗi lời nói, mỗi sự việc, mỗi cảm nghĩ, Mẹ đã gói ghém cẩn thận và chôn giấu trong trí lòng Mẹ. Mỗi một phép lạ, lời chào của Thiên sứ, của bà Elizabeth, biến cố đêm Giáng Sinh, những lời nói của mục đồng, của các Đạo sĩ, những lời tiên tri của Simêon, của Anna, những tiếng bập bẹ đầu tiên của Chúa Giêsu, mỗi cái nhìn của Ngài, mỗi hành động của Ngài, tất cả ngần ấy thứ Mẹ suy đi nghĩ lại và cẩn thận gìn giữ như kho tàng thiêng liêng quý giá nhất của Mẹ.

Không những Mẹ Maria luôn vâng theo ý Chúa với niềm tin tưởng mà còn vâng theo ý Chúa một cách đơn sơ. Bởi vì, có nhiều người cũng vâng nghe ý Chúa với niềm tin tưởng nhưng nhiều khi vì miễn cưỡng, vì bất đắc dĩ, không hoà đồng ý mình với ý Chúa. Tin Mừng nói: Mẹ Maria ra đi vội vã, nhanh chóng, không do dự, không tính toán so đo, cứ ra đi trong phó thác. Vâng theo ý Chúa khi ý Chúa ăn hợp với ý ta thì dễ, nhưng khi ý Chúa trái hẳn với ý ta mà ta vui vẻ đón nhận, khi ấy mới quý, và chứng tỏ lòng yêu mến đích thực của chúng ta.

Mẹ Maria luôn sẵn sàng đối với Chúa, Mẹ cũng luôn sẵn sàng đối với tha nhân. Mẹ đã đi phục vụ bà chị họ của mình, không chút do dự, vì Mẹ thấy ý Chúa trong đó. Hơn nữa, Mẹ thấy đó là nhiệm vụ của mình. Là Mẹ Chúa Cứu Thế, Mẹ có nhiệm vụ phải đem Chúa cho kẻ khác. Lại nữa, Mẹ cảm nghiệm rằng, lòng mình khi được mang Chúa thì được hạnh phúc biết bao, bình an biết mấy và phấn khởi dường nào. Ước chi bao nhiêu người khác cũng được Chúa đem lại niềm vui và hạnh phúc như mình. Nghĩ như vậy, Mẹ vội vàng lên đường. Chúa không để cho Mẹ phải thất vọng. Mẹ đến, Mẹ đã làm cho cả gia đình bà Elizabeth sung sướng. Bà Elizabet phải thốt lên: “Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm tôi. Vì này, tai tôi vừa nghe lời em chào, Hài Nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi”.

Anh chị em thân mến,

Toàn dân Chúa có thể nhận ra mình nơi Đức Trinh Nữ Maria, Người được làm Mẹ Chúa Cứu Thế. Chúng ta luôn có thể chuẩn bị lễ Giáng Sinh trong thái độ phục vụ anh chị em như Mẹ Maria.

Gương Mẹ sẵn sàng nghe tiếng Chúa gọi, tiếng tha nhân mời, phải được chúng ta noi theo. Chúa gọi chúng ta qua tiếng mời của tha nhân. Tiếng tha nhân gọi ta là tiếng Chúa mời gọi. Chúng ta vui vẻ thưa “vâng” với Chúa và sẵn sàng trả lời “có” với tha nhân, không lẩm bẩm kêu ca khi gặp điều trái ý, không từ chối, lảng tránh bất cứ ai cần đến.

Chúng ta cũng thưa “vâng” với Chúa trong đức tin, khi gặp những hoàn cảnh chúng ta tưởng là phi lý, cứ thưa “vâng”, vì đó là con đường chắc chắn hoàn thành sứ mạng. Chúng ta cũng thưa “vâng” với Chúa trong đức tin, để noi gương Mẹ bước vào lịch sử cứu độ, kết hiệp mật thiết với mầu nhiệm Chúa Kitô đã chết và sống lại, để cứu độ loài người. Phúc cho ai ngày càng bớt tự tin để thêm tin Chúa, bớt tự ái để thêm bác ái yêu người.

Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu kể cho chúng ta một mẩu chuyện nhỏ: Lúc ấy, Têrêsa còn nhỏ. Nghe đọc chuyện thương khó của Chúa Giêsu. Têrêsa cảm động, nước mắt tràn mi. Têrêsa cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa thương con quá, còn con chưa làm được gì để đền đáp cả. Con phải qua xứ truyền giáo xa xôi và con sẽ chết tử vì đạo ở đó như các vị truyền giáo. Cầu nguyện xong, Têrêsa bỏ nhà và chạy ra đường. Cứ chạy, chạy mãi, quyết sẵn sàng chết mà… Bỗng một cậu bé trai cùng tuổi chặn Têrêsa lại và hỏi: “Cô tên gì?”. Têrêsa ngập ngừng trả lời: “Tôi là Têrêsa của Giêsu Hài Đồng”. “Còn cậu, cậu tên gì?”. –Tôi hả? Tôi là Giêsu Hài Đồng của Têrêsa. Cậu bé liền biến mất.

Thưa anh chị em,

Với viễn ảnh một Chúa Giêsu Hài Đồng sắp đến trong máng cỏ từ phía bên kia, thì từ phía bên này chúng ta đã sẵn sàng tiến bước để đi đón Ngài chưa? Chỉ còn một tuần nữa thôi. Chuẩn bị “dầu đèn” sẵn sàng đi, để hôm đó, đèn chúng ta rực sáng và không còn lo thiếu dầu. Ôi! Đêm Giáng Sinh này, chàng rể Giêsu sẽ mỉm cười với chúng ta, và sẽ đưa tay ra nắm lấy bàn tay chúng ta, để chúng ta lại nối vòng tay lớn cho mọi người anh em trên thế giới. Trên con đường đến với Ngài, chúng ta sẽ mời gọi tất cả mọi người kết đoàn với chúng ta, để cùng với chúng ta dâng lên tấm lòng yêu mến như một món quà Noel cho Chúa Giêsu Hài Đồng.

Lạy Mẹ Maria, mẫu gương chuẩn bị Lễ Giáng Sinh, xin cầu cho chúng con. Amen.

 

66. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng

(Suy niệm của McCarthy)

CUỘC VIẾNG THĂM ĐẦY ÂN SỦNG

Suy Niệm 1. ÂN SỦNG CỦA CUỘC THĂM VIẾNG

Ngày xưa, cuộc sống thật đơn giản, và người ta thăm viếng nhau rất nhiều. Ngày nay, sự thăm viếng không xảy ra thường xuyên như vậy nữa. Người ta sử dụng điện thoại để thay thế cho sự thăm viếng. Một cú điện thoại cũng tốt thôi, nhưng nó không thể thay thế được cuộc thăm viếng.

Có một phụ nữ sinh sống tại thành phố New York, bên cạnh một người hàng xóm trong suốt 30 năm. Bà ta không bao giờ có bất cứ cuộc cãi và nào với người hàng xóm đó, và mỗi khi gặp nhau, họ vẫn luôn luôn dừng lại nói chuyện với nhau. Nhưng trong suốt thời gian đó, bà ta chưa bao giờ đặt chân sang ngôi nhà của người hàng xóm. Thật là một điều đáng buồn, và có một sự mất mát nào đó.

Khi chúng ta thăm viếng một người nào, chúng ta tự nhận thấy là mình đang làm một việc tốt đẹp cho người đó. Đó là sự thật. Nhưng chúng ta cũng được lợi nữa. Chúng ta cũng trở nên phong phú, mặc dù chỉ là để xem cách thế người khác đương đầu với những khó khăn, hoặc những tình huống hầu như không thể giải quyết được. Thậm chí ở giữa những người đau yếu, bạn vẫn có thể tìm thấy một tâm hồn toả sáng. Có thể bạn đến thăm người đó, để đem lại cho họ điều gì đó, nhưng rồi bạn lại nhận ra rằng chính mình đang nhận được. Bạn ra về với tâm hồn phấn chấn. Trong mỗi cuộc thăm viếng, có điều gì đó xảy ra theo mức độ nào đó. Người này được vui mừng khi tiếp nhận, người kia được vui mừng khi cho đi.

Một vị linh mục trong xứ đạo kể lại việc ông đến thăm một người phụ nữ trẻ, đang chết dần chết mòn vì căn bệnh ung thư. Ông đến với hy vọng đem lại cho cô một chút an ủi. Sau cuộc thăm viếng này, ông ra đi với cảm giác là chính bản thân ông lại được an ủi. Ông kinh ngạc trước đức tin của cô và vẻ thanh thản mà cô cảm thấy, khi đối diện với cái chết. Nhờ được tiếp xúc với cô, đức tin của ông đã được đào sâu và củng cố thêm.

Trong bài Tin Mừng, chúng ta nhận thấy cuộc thăm viếng của Đức Maria đối với bà Elizabeth. Chính Mẹ cũng vừa mới được thiên sứ Gáprien viếng thăm, mang đến cho Mẹ tin vui rằng Mẹ trở thành Mẹ của Chúa Giêsu. Tuy nhiên, thay vì bỏ đi và chỉ nghĩ đến mình, thì Mẹ lại vội vã đến thăm bà Elizabeth, một người cũng đang mong đợi con bà ra đời.

Bà Elizabeth là chị họ của Mẹ. Bổn phận đầu tiên và đáng quý nhất cảu chúng ta là cư xử tử tế với những người trong họ hàng, mặc dù đây không phải là một điều dễ dàng. Người trong họ hàng chúng ta có thể có tính cách rất hay đòi hỏi. Cuộc thăm viếng của Đức Maria mang lại ý nghĩa rất lớn đối với bà Elizabeth. Nhưng bản thân Mẹ cũng được ích lợi nhờ cuộc thăm viếng này. Bà Elizabeth đã nói những lời nói đẹp đẽ, mang tính cách xác nhận và củng cố đối với Mẹ: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”. So với Đức Maria, thì bà Elizabeth là người lớn tuổi hơn và có kinh nghiệm hơn, nên bà có thể giúp đỡ Đức Maria. Ở đây, chúng ta nhận thấy điều chủ yếu là cả hai người phụ nữ đều có tình trạng như nhau, nên có thể giúp đỡ nhau.

Bằng cách cho đi, chúng ta lại có thể được đón nhận. Một trong những biện pháp mà chúng ta có thể cho đi, đó là đến thăm viếng người khác. Lễ Giáng Sinh là một thời điểm tốt nhất, để thăm viếng những người mà có thể chúng ta đã quên lãng suốt bao năm qua.

Suy Niệm 2. ƠN PHÚC CỦA NHỮNG KẺ TIN.

Trong Tin Mừng, chúng ta có câu chuyện về cuộc thăm viếng của Đức Maria đối với bà Elizabeth, người chị họ của Mẹ. Trong suốt cuộc thăm viếng này, bà Elizabeth đã nói những lời nói đẹp đẽ, mang tính cách xác nhận và củng cố đối với Mẹ: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”.

Chủ đề về ơn phúc của những kẻ tin xuyên suốt bài Tin Mừng. Đối với kẻ tin, những điều tuyệt vời sẽ xảy ra. Sau đây là vài ví dụ:

Đức Giêsu nói với viên đại đội trưởng “Ông cứ về đi. Ông tin thế nào, thì được như vậy!”, và người đày tớ của ông ta đã được chữa lành (Mt 8,13). Đối với người phụ nữ bị băng huyết, Người nói “Này con, cứ yên tâm, lòng tin của con đã cứu chữa con”. Và ngay từ lúc đó, máu của bà ngưng không chảy ra nữa (Mt 9,22). Đối với hai người đàn ông bị mù, Người nói “Các anh tin thế nào, thì được như vậy!”, và họ đã được nhìn thấy trở lại (Mt 9,29).

Bạn có thể nói rằng chủ đề chính của Tin Mừng là ơn phúc của những kẻ tin. Tất cả lời rao giảng của Đức Giêsu đều có mục đích là nhằm khơi gợi lòng tin trong tâm hồn con người. Tuy nhiên, điều này không đơn giản chỉ là vấn đề về lòng tin, nhưng là tin tưởng và hành động dựa trên lòng tin đó. Đây là một vấn đề về việc lắng nghe và thực hành Lời Chúa –chấp nhận rủi ro, và hy sinh vì Lời Chúa. “Trừ phi bạn hành động một cách phù hợp, đừng ngại nhìn nhận rằng bạn tin tuởng” (Catherine de Hueck Doberty).

Đôi khi, bạn nghe thấy có người nào đó nói “Điều này thật dễ dàng đối với bạn, vì bạn có lòng tin mạnh mẽ”. Nhưng không phải lúc nào cũng vậy. Lòng tin không luôn luôn làm cho mọi sự trở nên dễ dàng. Trên thực tế, nhiều khi trái ngược lại. Bởi vì chúng ta có lòng tin, nên chúng ta lại từ chối không chịu từ bỏ. Lòng tin thúc đẩy chúng ta phải kiên nhẫn, phải đấu tranh, thường không được đảm bảo có được kết quả là hạnh phúc. Một người có lòng tin thì không bao giờ thoái lui.

Đức Maria được chúc phúc, bởi vì không những Mẹ đã tin, mà còn hành động theo lòng tin của mình nữa. Ngay sau khi sứ thần đến thăm, Mẹ vội vã thăm viếng bà Elizabeth. Từ điểm này, chúng ta nhận thấy rằng lòng tin tôn giáo nơi Mẹ không phải chỉ là vấn đề cảm xúc. Nhưng Mẹ đã chuyển lòng tin đó thành hành động cụ thể.

Đức Maria chính là người môn đệ đầu tiên và hoàn hảo nhất của Đức Giêsu. Đây là nguyên nhân tại sao Giáo Hội đặt Mẹ làm một tấm gương cho chúng ta. Chúng ta cũng sẽ được chúc phúc, nếu giống như Đức Maria, chúng ta biết lắng nghe và thực hành Lời Chúa.

Lễ Giáng Sinh là một dịp trợ giúp lớn lao đối với lòng tin của chúng ta. Bằng cách nào đó, chúng ta nhận thấy trong dịp Lễ Giáng Sinh, chúng ta dễ dàng tin tưởng nơi Thiên Chúa hơn, so với bất cứ thời gian nào, bởi vì trong thời gian này, chúng ta cảm thấy Thiên Chúa rất gần gũi với chúng ta, và rất yêu thương chúng ta.

Điểm cốt lõi của Tin Vui chính là Thiên Chúa đã tự mình hiện diện với chúng ta, trong cuộc sống của một Đấng đi trên trái đất này. Thật vậy, chính Đấng này, Đức Giêsu, là Con Thiên Chúa, đã hiện diện một cách đích thực. Trong ngày Lễ Giáng Sinh đầu tiên, có cả những người tin lẫn những kẻ không tin. Tin Mừng nhấn mạnh đến ân sủng của những người tin vào Tin Vui.

Lễ Giáng Sinh làm cho chúng ta đi vào một tương quan thân mật với Thiên Chúa. Và Lễ Giáng Sinh cũng kêu gọi chúng ta cởi mở tâm hồn mình ra cho nhau. Và trong khi cởi mở tâm hồn mình ra cho nhau, chúng ta cũng đang cởi mở chính mình, để đón nhận “niềm vui lớn lao” đã được các thiên sứ loan báo cho những mục đồng.

MỘT CÂU CHUYỆN KHÁC

Những người rao giảng có khuynh hướng nhấn mạnh đến sự vắng mặt của Đức Kitô trong ngày Lễ Giáng Sinh, và lấy làm tiếc vì sự thương mại hoá của ngày lễ này. Sự thương mại hoá mang lại rất hiệu quả. Trong ngày Lễ Giáng Sinh, tốt hơn là nên nhấn mạnh đến sự hiện diện của Đức Kitô, và giúp cho mọi người tìm thấy Người trong ngày lễ này.

Việc cử hành Lễ Giáng Sinh của chúng ta có nhiều tầng lớp. Trong một bài viết ở báo The Tablet (tháng 12, năm 1998). Anthony Philpot đã đồng nhất một số tầng lớp này.

Tầng lớp trên cùng là từ người tiêu thụ trong ngày Lễ Giáng Sinh, mà từ đó, những ngày này, không có được lối thoát nữa – họ cứ nhất định phải có những bài hát Lễ Giáng Sinh, những con tuần lộc, Ông già Nôen, và việc năng nổ mua bán tất cả mọi loại hàng hoá. Điều này làm gia tăng tính hám lợi nơi những đứa trẻ, tạo ra sự lo lắng về việc chi tiêu quá mức, và gây mệt mỏi cho người lớn. Đó là một ngày Lễ Giáng Sinh với một cốt lõi rỗng tuếch.

Kế tiếp là tầng lớp Charles Dickens –những tấm thiệp mô tả phong cảnh ngập tuyết, cảnh ồn ào của lò sưởi, gà tây, bánh mận, bánh thịt… Đó là một ngày Lễ Giáng Sinh của cảnh gia đình tụ họp với nhau, của sự thành tâm nơi tất cả mọi người, của tấm lòng nhân ái và cởi mở. Đối với họ, có nhiều điều để nói về những giá trị này. Hầu hết mọi người đều có phần đóng góp vào lối giải thích này về Lễ Giáng Sinh. Nhưng khi không có lòng tin, thì rốt cuộc Lễ Giáng Sinh là gì? Chỉ là một yếu tố kích thích nhỏ nhoi, một vài cách diễn tả sốt sắng, là việc cho và nhận một số quà tặng. Và rồi tất cả mọi sự đều trôi qua giống như lúc trước vậy.

Tầng lớp thứ ba là của máng cỏ, mà đối với chúng ta, đó là cách diễn tả về ngày Lễ Giáng Sinh. Đây là tầng lớp của vở kịch về cảnh Chúa Giáng Sinh, mà đối với tất cả mọi người, việc diễn tả đơn giản về ngày lễ này có thể gây xúc động sâu xa.

Tầng lớp thứ tư và mang tính cách sâu sắc nhất, chính là tầng lớp thiêng liêng. Đây là câu chuyện về một Hài Nhi đã được sinh ra như thế nào tại đất nước Israel, cách đây 2000 năm. Nơi con người của Hài Nhi này, Con Thiên Chúa đã mặc lấy bản chất của chúng ta trên chính mình Người, và đã đi vào thế giới của chúng ta, trong sự yếu đuối và tình yêu thương của. Người đến để nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa, và được tiền định một cuộc sống đời đời.

Người ta có khuynh hướng gạt bỏ, hoặc thậm chí còn kết án ba tầng lớp đầu tiên, và coi như tầng lớp thiêng liêng mới là một tầng lớp đích thực duy nhất. Điều này dựa trên giả thiết rằng tầng lớp thiêng liêng và tầng lớp vật chất đối nghịch lại với nhau. Nhưng không phải là như vậy. Đạo Công giáo bao gồm cả tinh thần lẫn vật chất. Không thể có Lễ Giáng Sinh chỉ thuần tuý có yếu tố tinh thần mà thôi.

Điều mà chúng ta phải làm, đó là tìm ra được sự liên kết giữa nơi thị trường trần tục, và nội dung thiêng liêng của ngày lễ. Nhiều cảnh mua bán xảy ra trong ngày Lễ Giáng Sinh tạo thuận lợi cho việc trao tặng quà, những việc làm tốt đẹp, niềm vui và sự khẳng định các mối quan hệ trong gia đình –đưa đến kết quả trong việc cho và nhận.

Cách thế này giúp chúng ta nhận thấy tương quan gần gũi giữa tinh thần và vật chất, giữa những sự việc trên trời và dưới thế này. Chúng ta phải học hỏi được phương cách nào hoà nhập được cả hai yếu tố này. Vấn đề cốt lõi của tôn giáo chính là: Phải làm thế nào để hoà hợp được về mặt thiêng liêng và vật chất, xác thịt và tinh thần, bên trong và bên ngoài, bề mặt và bản chất.

Có những người cứ khăng khăng là cần phải có sự phân chia rõ ràng giữa thần thánh và con người, giữa yếu tố thánh thiêng và yếu tố trần tục, giữa linh hồn và thể xác. Nhưng chúng ta sẽ không tìm được điều đó trong ngày Lễ Giáng Sinh. Trong ngày này, những yếu tố đó đan xen với nhau, đến nỗi dường như chúng trở nên một, và cùng là một yếu tố.

 

67. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng

(Suy niệm, Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)

Thiên Chúa thực hiện những ý định cao cả của Người dựa trên những con người phận nhỏ, yếu hèn và khiêm hạ. Đó là giáo huấn của Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật IV Mùa Vọng này.

Mk 5: 1- 4a

Ngôn sứ Mi-kha loan báo rằng chính ở nơi thị trấn nhỏ bé của miền Giu-đê, ở đó một thị tộc nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giu-đa sinh sống, mà Đấng Mê-si-a một ngày kia sẽ xuất hiện. Con trẻ này sẽ thống lãnh Ít-ra-en và quyền lực của Ngài sẽ trải rộng cho đến tận cõi đất.

Dt 10: 5-10

Ngay từ khi nhập cuộc vào kiếp sống phàm nhân, Đức Giê-su sống khiêm hạ và vâng phục ý muốn của Thiên Chúa, Cha Ngài. Ngài hằng sống trong tư thế dâng hiến bản thân mình thành hy lễ để kế hoạch của Cha Ngài được thành tựu.

Lc 1: 39- 45

Tin Mừng Lu-ca tường thuật cuộc gặp gỡ của Đức Ma-ri-a với người chị họ mình là bà Ê-li-sa-bét, sau biến cố Truyền Tin. Chính ở nơi người thiếu nữ phận nhỏ và khiêm hạ của làng Na-da-rét này mà bà Ê-li-sa-bét nhận ra ý định cao cả của Thiên Chúa và niềm vui Thiên Sai khiến con trẻ, Gioan Tẩy Giả, nhảy lên vui sướng trong dạ  mẹ.

BÀI ĐỌC I (Mk 5: 1-4a)

Lời sấm của ngôn sứ Mi-kha này là một trong những bản văn vĩ đại loan báo Đấng Mê-si-a. Sấm ngôn này đã được trích dẫn hai lần trong các sách Tin Mừng: một lần trong Tin Mừng Mát-thêu, trong đó các kinh sư trưng dẫn sấm ngôn này cho vua Hê-rô-đê để báo cho các nhà Chiêm Tinh biết “Bê-lem” là nơi Vua dân Do thái vừa mới sinh ra (Mt 2: 6); và một lần khác trong Tin Mừng Gioan, khi đám đông dân chúng tranh luận với nhau về nguồn gốc của Đức Giê-su, có kẻ lại nói rằng Ngài không thể là Đấng Thiên Sai bởi vì theo sấm ngôn Đấng Thiên Sai phải “xuất thân từ Bê-lem” (Ga 7: 42).

  1. Thân thế và sự nghiệp

Ngôn sứ Mi-kha thi hành sứ vụ của mình trong vương quốc Giu-đa suốt hậu bán thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên, đồng thời với ngôn sứ I-sai-a. Nhưng trong khi ngôn sứ I-sai-a thuộc gia đình quý tộc ở Giê-ru-sa-lem, thì ngôn sứ Mi-kha xuất thân từ hàng dân giả miền Nam, phía tây Khê-ron.

Như các ngôn sứ thuộc thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên: A-mốt, Hô-sê, I-sai-a, ngôn sứ Mi-kha tố cáo những bất công xã hội, nạn áp bức những người nghèo, tệ nạn tham ô hối lộ của các quan án, các tư tế, các thủ lãnh, vân vân, những hành vi này tạo nên một đoạn tuyệt với Giao Ước và dẫn đến những án phạt của Thiên Chúa. Có lẽ ngôn sứ Mi-kha định nghĩa rõ nét nhất những yêu sách của Giao Ước: “Hỡi người, bạn đã được nói cho hay điều nào là tốt, điều nào Đức Chúa đòi hỏi bạn: đó chính là thực thi công bình, quý yêu nhân nghĩa và khiêm nhường bước đi với Thiên Chúa của bạn” (Mk 6: 8). Ngôn sứ Mi-kha báo trước cho Sa-ma-ri cũng như cho Giê-ru-sa-lem những bất hạnh kinh khiếp, nhưng ông cũng hé mở những viễn cảnh chứa chan hy vọng, như bản văn hôm nay làm chứng.

Tác phẩm của ngôn sứ Mi-kha đã chịu nhiều sửa đổi và vài đoạn thêm vào cuối thời lưu đày hay hậu lưu đày, tức cuối thế kỷ thứ sáu trước Công Nguyên. Bản văn hôm nay được trích từ chương 5 là một trong những bản văn nêu lên nhiều vấn đề. Tuy nhiên, cũng vào thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên này, ngôn sứ I-sai-a vang lên cùng một sứ điệp tương tự: ở giữa lòng những biến cố bi thảm (những đột nhập của quân đội Át-sua, cuộc vây hãm Giê-ru-sa-lem, sự tàn phá Sa-ma-ri, vân vân), các ngôn sứ nối tiếp nhau khơi lên niềm hy vọng khi nhắc lại những lời hứa gắn liền với nhà Đa-vít. Đó là điểm chung giữa các sấm ngôn của họ.

  1. Bê-lem Ép-ra-tha

Hai địa danh Bê-lem và Ép-ra-tha được liên kết với nhau ngay từ những bản văn cổ xưa nhất, ví dụ: “Bà Ra-khen qua đời và được chôn trên con đường đi Ép-ra-tha, tức là Bê-lem” (St 35: 9). Thị trấn Bê-lem nhỏ bé là nơi một thị tộc bé nhỏ, những người Ép-ra-tha, từ miền Nam đến định cư lập nghiệp; sau đó, họ đã được sáp nhập vào bộ tộc Giu-đa. Tuy nhiên, “Ép-ra-tha” theo tiếng Do thái có nghĩa “sự màu mỡ”. Ngôn sứ Mi-kha xem ra chơi chữ: Bê-lem là vùng đất màu mỡ vì nó sẽ sinh ra Đấng Thiên Sai.

  1. Một sự tương phản

Lời sấm của ngôn sứ Mi-kha được xây dựng trên một sự tương phản: sự tương phản của một thị tộc nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giu-đa, giữa viễn cảnh về một con trẻ chào đời và uy danh cũng như quyền lực của con trẻ này có sứ mạng thống lãnh Ít-ra-en, quy tụ dân chúng bị phân tán và trải rộng quyền lực của mình cho đến tận cùng cõi đất.

Câu này được dịch sát nghĩa theo nguyên bản bằng tiếng Do thái như sau: “Phần ngươi, hỡi Bê-lem Ép-ra-tha, ngươi quá nhỏ bé đến nổi không thể là một trong các thị tộc Giu-đa”. Từ “thị tộc” theo tiếng Do thái có nghĩa “ngàn”, vì nhóm người chỉ có thể hình thành nên một thị tộc nếu có thể cung cấp một ngàn chiến binh. Vì thế, Bê-lem nhỏ bé đến nổi nó không thể cung cấp một ngàn chiến binh. Chúng ta cũng gặp thấy một cách đối lập giữa sự nhỏ bé và sự vĩ đại như thế ở sấm ngôn I-sai-a đệ tam: “Người nhỏ nhất sẽ có ngàn con cháu, kẻ hèn nhất thành một dân hùng cường” (Is 60: 22).

  1. Bê-lem, thành vua Đa-vít, thành Đấng Thiên Sai

“Từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh Ít-ra-en”: Lời sấm của ngôn sứ Mi-kha đem đến một sự xác định mới. Nếu lời sấm của ngôn sứ Na-than khẳng định muôn năm bền vững của vương triều Đa-vít: “Nhà của ngươi và vương quyền của ngươi sẽ tồn tại mãi mãi trước mặt Ta; ngai vàng của ngươi sẽ vững bền mãi mãi” (2Sm 7: 16), và sấm ngôn I-sai-a đệ nhất công bố rằng dòng dõi vua Đa-vít sẽ được đảm bảo nhờ một con trẻ chào đời, được gọi là Em-ma-nu-en, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Is 7: 14), thì ngôn sứ Mi-kha xác định Bê-lem là sinh quán của Đấng Thiên Sai. Xưa kia, khi còn niên thiếu, Đa-vít đã chăn dắt đàn chiên trên cánh đồng Bê-lem; Đấng Mê-si-a sẽ là một Đa-vít mới và sẽ là vị mục tử đích thật của dân Ngài.

“Nguồn gốc của Người có từ thời trước, từ thuở xa xưa”: Có lẽ đây là lối nói phóng dụ về gia tộc của vua Đa-vít, có nguồn gốc lâu đời (sách Sử Biên quyển thứ nhất cho gia phả của vua Đa-vít lên đến tổ phụ Gia-cóp). Nhưng chúng ta cũng có thể nghĩ rằng sấm ngôn này loan báo cuộc sống tiền hữu của Đấng Thiên Sai.

  1. Thời thử thách và thời hy vọng

Trước khi Đấng Thiên Sai giáng sinh ở Bê-lem, Ít-ra-en sẽ phải trải qua một thời gian đầy thử thách cam go, thời “Đức Chúa sẽ bỏ mặc Ít-ra-en”. Trước đó, ngôn sứ đã khai triển những tiên báo kinh khiếp liên quan đến vương quốc miền Bắc cũng như vương quốc miền Nam. Nhưng những trừng phạt không bao giờ là tiếng nói cuối cùng của Thiên Chúa: “Cho đến thời một phụ nữ sinh con”. Con trẻ kỳ diệu sinh ra từ một người nữ này sẽ cai trị Ít-ra-en và thế giới. Bản văn không nói một chút gì về cha của con trẻ này.

Toàn thể đoạn văn nhắc nhớ lời sấm của ngôn sứ I-sai-a được công bố hai mươi năm trước đó: “Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Em-ma-nu-en. Con trẻ sẽ ăn sữa chua và mật ong cho tới khi biết bỏ cái xấu mà chọ cái tốt. Vì trước khi con trẻ biết bỏ cái xấu mà chọn cái tốt, thì đất đai…đã bị bỏ hoang. Thiên Chúa sẽ đem lại cho ngài, cho dân ngài, cho thân phụ ngài những ngày như chưa từng có, kể từ khi Ép-ra-im tách khỏi Giu-đa” (Is 7: 14-17)

  1. Quy tụ những người tản mác khắp nơi

“Bấy giờ những anh em sống sót của người con đó sẽ trở về với con cái Ít-ra-en”: Chúng ta nhận ra ở đây nỗi bận lòng quy tụ những người Do thái bị tản mắc khắp nơi, nỗi ám ảnh xuất hiện nhất là vào thời lưu đày Ba-by-lon cũng như vào thời hậu lưu đày. Có nhiều lý do xác đáng để nghĩ rằng đoạn văn này được thêm vào sau này.

  1. Vị Mục Tử của Ít-ra-en

Đấng Thiên Sai sẽ lãnh nhận từ chính Thiên Chúa sứ mạng chăn dắt Ít-ra-en: “Ngài sẽ dựa vào quyền lực Đức Chúa, vào uy danh Đức Chúa, Thiên Chúa của Ngài mà đứng lên chăn dắt họ”. Bản văn tiên báo hay nhắc nhớ một đoạn văn nổi tiếng của ngôn sứ Ê-dê-ki-en về “vị mục tử nhân lành” (Ed 34: 23). Việc gợi lên quyền năng hoàn vũ và nền hòa bình viên mãn của Đấng Thiên Sai tương lai mang đậm nét I-sai-a (Is 9: 5), nhưng cũng có thể mang dấu ấn Mi-kha, trừ phi đây là một bản văn được hiệu đính lại.

Từ phận nhỏ đến địa vị vĩ đại, rõ ràng đây là bài học mà bản văn Tin Mừng hôm nay đưa ra: Đức Ma-ri-a, một thiếu nữ khiêm hạ làng Na-da-rét được người chị họ của mình, bà Ê-li-sa-bét, hoan hỉ chào đón như “Thân Mẫu Chúa tôi”.

BÀI ĐỌC II (Dt 10: 5-10)

Lễ Giáng Sinh sắp đến gần, Phụng Vụ Lời Chúa dâng hiến cho chúng ta suy niệm một bản văn trình bày một cách thống thiết mục đích biến cố Nhập Thể; Đức Ki-tô đảm nhận một thân thể nhằm dâng hiến thân mình thành hiến lễ và biến cuộc Tử Nạn của mình thành hy lễ để thánh hóa con người.

Chúng ta không biết lai lịch tác giả thư gửi tín hữu Do thái (chắc chắn một môn đệ của thánh Phao-lô); bản văn của ông gần với văn phong bài giảng hơn là thư tín; ông ngỏ lời với các Ki-tô hữu gốc Do thái, họ đã biết và đã thực hành phụng tự Mô-sê và xem ra luyến nhớ sự uy nghi trang trọng của nền phụng tự này. Tác giả chứng minh cho họ chức tư tế của Đức Giê-su còn cao vời hơn chức tư tế Cựu Ước và hy lễ của Đức Ki tô thì độc nhất, vô giá và có hiệu quả khôn sánh so với các hy lễ của Luật Cũ.

  1. Phụng Tự tinh thần

Để giải thích bản chất rất đặc biệt và đặc thù của hy lễ Đức Ki-tô, tác giả dựa trên thánh vịnh 40, thánh vịnh mang chiều kích Thiên Sai. Thánh vịnh này diễn tả tâm tình của một người công chính. Từ cuộc sống đạo hạnh của mình, ông hiểu rằng vâng phục thánh ý Thiên Chúa và sẵn sàng dâng hiến thân mình thì cao vời hơn bất cứ hy lễ nào.

Một viễn cảnh như vậy không hoàn toàn đơn độc lẽ loi trong Cựu Ước. Chúng ta gặp thấy viễn cảnh này trên môi miệng của các ngôn sứ (x. Is 1: 11-16), các ngài công bố rằng các hy lễ sẽ là vô ích nếu thiếu tấm lòng; điều này cũng được khẳng định trong các Thánh Vịnh, hai sách Sa-mu-en (x. 1Sm 15: 22), và các tác phẩm Minh Triết (x. Hc 34: 19 và 35: 2-3). Vị thế hàng đầu của phụng tự tinh thần này là một sợi chỉ đỏ chạy xuyên suốt cái cốt lõi mặc khải Kinh Thánh và chuẩn bị cho sứ điệp Tin Mừng.

  1. Ơn gọi của Đức Ki-tô

Chính ở nơi Người Công Chính này mà tác giả thư gửi các tín hữu Do thái tái khẳng định tư thế sẵn sàng dâng hiến trọn vẹn bản thân mình của Đức Ki-tô, ngay từ giây phút đầu tiên của biến cố Nhập Thể: “Ngay khi vào trần gian…”. Đồng thời tác giả cũng muốn nói đến cuộc sống tiền hữu của Đức Ki tô.

“Chúa không ưa hy lễ và hiến lễ, nhưng đã tạo cho con một thân thể”: Thánh vịnh được trích dẫn ở đây nhấn mạnh tính chất hiến lễ tự thân qua những lời: “Chúa đã tạo cho con một thân thể”. Tác giả thư gửi các tín hữu Do thái đã đọc thấy ở đây lời tiên báo về biến cố Nhập Thể. Thân thể của Đấng Thiên Sai đã được Chúa Cha yêu thương chuẩn bị nhằm hướng đến một hiến lễ cao vời.

Với những thuật ngữ: “Hy lễ và hiến lễ”, tác giả tập hợp hai loại lễ tế vĩ đại, đổ máu và không đổ máu. Đoạn, ông thêm vào đây lễ toàn thiêu theo đó thân thể tế vật hoàn toàn bị hỏa tế, và lễ xá tội theo đó máu tế vật hoàn toàn được hiến dâng. Tất cả những lễ tế này được Lề Luật quy định nhưng không được Thiên Chúa ưa thích. Bản văn để cho hiểu rằng chính vì tính chất duy luật của chúng. Đức Ki-tô bãi bỏ phụng tự duy hình thức và đề cao hiến lễ tinh thần.

  1. Cái chết thành hiến lễ

“Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài”: Đối với Đức Ki-tô không cốt tuân giữ những huấn lệnh mà ông Mô-sê truyền, nhưng chấp nhận quyết định của Thiên Chúa, đó là dẫn dắt nhân loại đến ơn cứu độ qua con đường đau khổ và tử nạn của Ngài.

Thư gửi tín hữu Do thái là một trong những bản văn Tân Ước giải thích rõ nhất tại sao cuộc tử nạn của Đức Ki tô có thể được xem như một hy lễ. Xét trên thực tại hữu hình, cuộc tử nạn của Đức Ki-tô không là một hy lễ, nhưng do kết quả của một sự xét xử sai lầm, hay, chính xác hơn, do sự thù hận quá độ; không có bàn thờ, không người dâng hiến, không sự thanh tẩy, không tế vật. Nhưng xét trên thực tại vô hình, cái chết này có giá trị của một hy lễ vì đây là hiến lễ tự nguyện, tự ý và tự thân, vì thế nó có một hiệu quả tinh thần: vả lại đã có một thân thể bị giết chết và máu đã hoàn toàn đổ ra.

Tuy nhiên, có một hy tế chỉ vì có tội lỗi của con người. Đây là bằng chứng bi thảm. Suốt bức thư của mình, tác giả chứng mình rằng con người hưởng được hy tế của Đức Ki-tô, dưới ba khía cạnh liên tục: thanh tẩy, thánh hóa, và hiệp nhất với Thiên Chúa. Như vậy trong lời “Xin vâng” của mầu nhiệm Nhập Thể hàm chứa rồi lời xin vâng của cuộc Khổ Nạn: “Xin đừng làm theo ý con, mà làm theo ý Cha” (Lc 22: 42).

TIN MỪNG (Lc 1: 39-45)

Trong sách Tin Mừng Lu-ca, chuyện tích Viếng Thăm tiếp liền sau chuyện tích Truyền Tin, như vậy, lời chào của sứ thần tiếp liền theo sau lời chào của bà Ê-li-sa-bét. Rất sớm các Ki-tô hữu đã liên kết hai lời chào này. Chúng ta gặp thấy chúng trong những bản văn thuộc thế kỷ thứ năm: “Kính mừng Ma-ri-a đầy ơn phúc. Thiên Chúa ở cùng bà. Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ”. Đây sẽ là khởi điểm của kinh Kính Mừng.

  1. Đức Ma-ri-a vội vã lên đường

Lý do đầu tiên của việc “Đức Ma-ri-a vội vã lên đường” có thể nhằm kiểm chứng những lời sứ thần đã nói cho Mẹ biết rằng chị họ của Mẹ, tuy đã già rồi mà cũng đã được cưu mang một người con trai. Đây là một “dấu lạ” đã được ban cho Mẹ để nâng đỡ mặc khải làm xáo động cuộc đời của Mẹ và cho Mẹ hiểu rằng đối với Thiên Chúa không có gì là không thể. Nhưng đây không là lý do chính yếu. Đức Ma-ri-a đã tin rồi; Mẹ đã không một mảy may nghi ngờ gì về sứ điệp của thiên sứ; sự vội vã của Mẹ là diễn tả niềm vui của Mẹ; Mẹ muốn đi chúc mừng người chị họ của Mẹ và chia vui với chị vì được làm mẹ như một thiên ân trong khi bà chị này không còn một chút hy vọng gì. Chắc chắn Đức Ma-ri-a cũng muốn giúp đỡ bà chị họ của mình “nay đã có thai được sáu tháng”. Quả thật, thánh ký viết ở cuối chuyện tích của mình: “Bà Ma-ri-a ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng”, nghĩa là cho đến khi con trẻ chào đời.

  1. Niềm vui thời Thiên Sai

Đức Ma-ri-a “vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét”. Vì là vai em nên Đức Ma-ri-a là người đầu tiên chào hỏi bà chị họ mình. Nhưng đột nhiên vai trò của hai chị em bị đảo ngược. Dưới tác động của Chúa Thánh Thần, bà Ê-li-sa-bét phát hiện bí mật của người em họ mình và thốt lên lời “Chúc Tụng”: “Em được chúc phúc hơn mọi người nữ!”. Đây là cách thức người Do thái diễn tả tuyệt đối mà chúng ta gặp thấy nhiều lần trong Cựu Ước (Tl 5: 24; Gđt 15: 10): Đức Ma-ri-a là người nữ tuyệt vời nhất bởi vì Mẹ được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế.

“Người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” Danh hiệu “Chúa tôi” thường được dành riêng cho Đức Chúa, tuy nhiên cũng được gán cho Đấng Thiên Sai trong vài bản văn ngôn sứ. Chắc hẳn bà Ê-li-sa-bét không nghi ngờ gì về thần tính của Đấng Thiên Sai; nhưng chính xác hơn, các Ki-tô hữu tiên khởi sẽ dùng danh hiệu này cho Đức Ki-tô để tuyên xưng thần tính của Ngài. Danh xưng “Thân Mẫu Chúa tôi” chắc chắn là nền tảng cho tước hiệu đầu tiên mà Giáo Hội sau này dùng để tôn vinh Đức Ma-ri-a, “Theotokos”, Mẹ Thiên Chúa, cũng như hình thành nên phần thứ hai của kinh Kính Mừng: “Thánh Ma-ri-a Đức Mẹ Chúa Trời…”.

“Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”. Đây là mối phúc đầu tiên của Tân Ước. Ân phúc này liên quan đến lòng tin của Đức Ma-ri-a đã được thể hiện ở nơi biến cố Truyền Tin qua tiếng xin vâng tròn đầy của Mẹ (Lc 1: 38).

Thánh Lu-ca quy tụ vào trong lời chúc tụng của bà Ê-li-sa-bét (1: 42-45) hai ân phúc của Đức Ma-ri-a: phúc được làm Mẹ Đấng Cứu Thế và phúc vì đã tin vào mọi lời Chúa phán. Chính hai ân phúc này mà thánh ký chủ ý tách rời ra ở 11: 27-28, ở đó một người phụ nữ giữa đám đông ca ngợi người mẹ của Đức Giê-su: “Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm” và Đức Giê-su đáp trả: “Đúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa”. Ở nơi Đức Ma-ri-a hai ân phúc này trở thành một: ngay khi tin rằng mọi lời Thiên Chúa phán sẽ được thực hiện, Đức Ma-ri-a trở thành Mẹ của Đấng Cứu Thế. Rõ ràng đức tin của Mẹ là điều kiện tất yếu nhất cho mọi lời Chúa phán được thực hiện.

  1. Bài ca “Ngợi Khen” (Mangificat)

Tất cả lời chào của bà Ê-li-sa-bét tràn đầy niềm vui thời Mê-si-a. Đức Ma-ri-a được công bố là có phúc; niềm hạnh phúc ở với bà Ê-li-sa-bét, đứa con trong bụng bà đã nhảy lên vui sướng. Sứ thần cũng đã nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng” và Đức Trinh Nữ xướng lên bài ca “Ngợi Khen” của mình. Đây là bài thánh ca thứ nhất trong bốn bài thánh ca trong Tin Mừng Thời Thơ Ấu theo thánh Lu-ca. Bài thánh ca này, mô phỏng bài thánh ca của bà An-na (1Sm 2: 1-10), gồm có ba phần:

– Phần thứ nhất (1: 46-50): Đức Ma-ri-a ngợi khen Thiên Chúa vì đã đoái thương ban cho Mẹ được làm Mẹ Đấng Mê-si-a, dù Mẹ chỉ là phận nữ tì hèn mọn, chẳng có công trạng gì.

– Phần thứ hai (1: 51-53): một sự đảo ngược cảnh sống và bậc thang giá trị vào thời Thiên Sai giữa những người thấp hèn, bị áp bức chà đạp và những kẻ quyền thế kiêu căng, tự cao tự đại.

– Phần kết (1: 54-55): Đức Ma-ri-a cảm tạ Thiên Chúa vì Người vẫn hằng trung tín với những gì Người đã hứa.

Thánh Lu-ca là thánh ký gợi lên rõ nét nhất niềm vui cứu độ được đem đến cho loài người qua biến cố Đấng Thiên Sai ngự đến. Ngoài ra, chuyện tích Viếng Thăm của thánh ký đem đến một lời chứng quý giá về tâm tình cảm tạ tri ân của người Ki-tô hữu tiên khởi đối với đức tính cao vời khôn sánh của “Thân Mẫu Chúa chúng ta”.

 

68. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng

PHỤC VỤ TRONG YÊU THƯƠNG VÀ KHIÊM TỐN.

(Trích trong ‘Tin Mừng Chúa Nhật’)

Vừa bắt đầu chúng ta đã thấy ngay đây là cách hành văn của Luca. Vừa gợi lên cuộc lên đường vội vã liền sau đó đã cho thấy lý do. Nếu Đức Maria vội vã lên đường, thì không phải là để tìm xem, lời thiên thần có đúng không, nhưng là để “vui với người vui” và đưa tới ơn phúc Mẹ giúp đỡ. Mẹ Thiên Chúa đã trở nên đấng trung gian các ơn phúc. Miền núi, cuộc hành trình hướng về đây là dãy núi miền cao nguyên Giuđa, kéo dài từ vùng Samari. Ngày nay không ai biết rõ đích xác thành phố mà Maria nhằm tới, một truyền thống đã có trước thời thập tự quân cho là đất làng Ain-Karim ngày nay. Làng này cách thủ đô Giêrusalem khoảng bảy cây số về phía tây. Khách hành hương nay tới kính viếng một nhà nguyện mang tên Thăm viếng. Từ Nadaret, phải bốn ngày đường mới tới nơi.

Lời chào thăm biểu lộ sự hiện diện của Thiên Chúa hướng về người được nhận lời chào, vì vừa nghe lời chào thai nhi trong bụng Elizabeth liền nhảy mừng và bà được tràn đầy Thánh Thần. Sự nhảy mừng này có một cái gì khác hẳn với sự cựa quậy của một thai nhi vào những tháng cuối cùng khi bà mẹ có một xúc động bất ngờ. Vì sự xúc động của Elizabeth không phải là nguyên nhân mà là kết quả của sự nhảy mừng của thai nhi Gioan. Thai nhi nhảy mừng vì tác động của ơn Chúa, là điều mà thiên sứ đã báo trước: “Con trẻ sẽ được đầy dẫy Thánh Thần ngay từ khi còn trong lòng mẹ” (Lc 1,15), mà được thánh hoá nhờ sự hiện diện của Ngôi Lời nhập thể. Sau thai nhi, bà mẹ Elizabeth cũng được đầy tràn Thánh Thần, và lập tức bày tỏ niềm cảm xúc chẳng những bằng những lời được linh hừng mà còn bằng cả giọng nói xúc động. Vì bà nói lớn với Maria: “Em là người hạnh phúc nhất trong giới phụ nữ, và thai nhi trong lòng em là phước hạnh lớn lao”. Như thế bà đã diễn tả hai lời chúc phúc song song mà thiên sứ Gáprien đã nói với Đức Maria trước đó. Bà ca tụng cô em, đặt cô cao trọng hơn tất cả trong giới phụ nữ. Bà cũng cho thấy, ngay cả khi cô em chưa nói gì, bà đã biết Maria là Mẹ Đấng Cứu Thế. Bà kính tặng cho thai nhi chưa được sinh ra danh hiệu “Chúa”, danh hiệu mà Thánh Vịnh áp dụng cho Đấng Mêsia trông đợi. Thật vậy, và đã thêm: “Thật vinh hạnh cho tôi được Mẹ Chúa đến viếng thăm”. Bà không chút nghi ngờ gì về điều đã xảy ra trong lòng cô em Maria và bà đã thấy rõ dấu chỉ: “Vì vừa nghe lời em chào, thai nhi trong bụng tôi đã nhảy mừng”. Như thế bà cho biết có mối liên hệ lệ thuộc giữa thai nhi Gioan nhảy mừng với chức làm Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria, bà bày tỏ đây là “hãy nhảy mừng”, và còn hơn cả cảnh núi đồi nhảy mừng mà Thánh Vịnh đã diễn tả trước sự hiện diện của Đấng Toàn Năng, vì đây là một thai nhi nhảy mừng vì được tràn đầy Chúa Thánh Thần.

Thế nào những lời ca tụng vừa đưa ra, bằng một kiểu kết điểm Elizabeth chúc phúc: “Thiên Chúa ban phúc cho em, vì em tin lời Ngài hứa sẽ thành sự thật”.

Qua đoạn Lời Chúa này, chúng ta học được gương yêu thương của Đức Maria:

Vừa mới thưa với Chúa: “Tôi là tôi tớ của Chúa” Đức Maria đã hành động như thể là tôi tớ của loài người. Ngay sau khi được loan báo được chọn là Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria lên đường là vì muốn giúp đỡ và chia vui với người chị già. Qua lời loan báo, sứ thần cho thấy bà Elizabeth đang cần được giúp đỡ, vì bà sắp sinh con. Trong sứ điệp, sứ thần không bảo phải đi, chỉ gợi cho thấy. Thế là Maria thu xếp sẵn sàng ra đi, không để chậm trễ.

Dầu Maria có nhiều lý do để không ra đi, không tiến hành cuộc hành trình: nào là từ nay phải giữ gìn sức khoẻ nhằm lợi ích cho thai nhi. Nào là đường đi xa xôi, phải ít nhất bốn ngày dòng dã mới tới nơi. Lộ trình này có nhiều rủi ro nguy hiểm nhất là cho thân gái. Trước những trở ngại này và thêm vào đó không có một chỉ thị nào về phía Chúa bảo phải đi, để Maria có lý do để mà từ chối.

Những lý do trở ngại ấy không cản được Maria. Người ta dễ dàng né tránh lời mời gọi của đức ái, nại đến những lý do ít nhiều chính đáng. Nhưng lòng quảng đại của Maria quét sạch mọi chần chừ và lưỡng lự đó. Từ xưa, Đức Maria đã quen quan tâm đến người khác hơn nghĩ đến chính mình, thì lúc này, Mẹ cũng không phải đo lường cân nhắc sự bất tiện của chuyến đi xa, Mẹ chỉ nghĩ đến việc cần giúp đỡ bà chị già, và cứ như thế, Đức Maria lên đường.

Đó là gương mẫu về lòng mau mắn giúp đỡ, nghĩ tới người khác hơn nghĩ tới chính mình. Yêu thương luôn luôn đòi hỏi từ bỏ, đòi hỏi phải hao mòn chính bản thân mình. Khi xảy ra một việc cần giúp đỡ, có biết bao lý do nãi ra để từ chối! Nếu có được lòng yêu thương như Đức Maria, chúng ta sẽ sung sướng quên mình để nghĩ đến hạnh phúc của người khác.

Lại còn phải tránh cho ta những tính toán ích kỷ, những điểm tựa để khỏi phải giúp đỡ tha nhân, thay vì sáng kiến để tránh khỏi, hãy tìm cách làm nhẹ gánh nặng cho tha nhân, để giúp đỡ họ.

Thay vì phải ép lòng giúp đỡ vì không thể tránh được, hãy biểu lộ thái độ mau mắn thực sự. Mong ước sao ta luôn ở tư thế sẵn sàng giúp đỡ, phục vụ.

Nhưng phục vụ trong yêu thương và khiêm tốn.

Chúa Giêsu rất yêu thương các môn đệ ở trần gian, Chúa Giêsu biết rõ Chúa Cha đã trao mọi quyền hành cho Ngài… Vì thế, Chúa đứng dậy, ra khỏi bàn ăn, cởi áo ngoài, lấy khăn quấn ngang lưng, Chúa đổ nước vào chậu, lần lượt rửa chân cho các môn đệ (Ga 13,1.3). Giờ đây chúng ta thấy Mẹ Chúa, người vừa được thiên sứ báo tin được chọn là Mẹ Đấng Cứu Thế, người tự tình đi làm đầy tớ bà Elizabeth. Qua lời thiên sứ Người biết Thiên Chúa đã ban cho Người địa vị cao cả hơn người chị họ nhiều, ý thức mình được chọn trong tất cả các phụ nữ Israel, một địa vị mà không một người phụ nữ nào có thể sánh ví. Với ý thức đó, Mẹ tự nguyện trong vòng ba tháng đi làm công tác của một người hầu hạ cho một người đàn bà trong lúc sinh nở nàng đảm đang luôn công việc của một gia nhân.

Đức Maria không thuộc loại người, bắt người khác phải nhận ra địa vị cao sang của mình, và đòi phải cúi đầu kính cẩn. Mẹ không muốn tỏ ra nhân vật quan trọng, dầu Mẹ quan trọng nhất trong các tạo vật. Không một ai có thể nhận ra trong những ngày phục vụ tại nhà Elizabeth một người thiếu nữ đã được Thiên Chúa ban cho một địa vị cao cả nhất. Người ta chỉ thấy nơi nhà ông bà già này một gia nhân ân cần tự trọng, làm hết mọi công việc tầm thường nhất, và làm cách tự nhiên như đó là phận sự của nàng. Mẹ làm những công việc đó cho bà chị già như là làm cho Chúa. Mẹ luôn tỏ ra nhỏ bé để dường như Elizabeth không lấy làm ngại ngùng khi nhờ Mẹ làm bất cứ việc hèn hạ nào. và Mẹ không đặt một giới hạn nào cho tình yêu Chúa, Mẹ cũng không có một hàng rào cho tình yêu tha nhân. Không bao giờ Mẹ thấy một việc nào là quá thấp, là quá thường, quá hèn hạ. Mẹ đã làm với tất cả sự vui vẻ dường như không có ai nhận ra sự vất vả và đôi khi ghê tởm mà Mẹ đã phải âm thầm khắc phục. Với nụ cười của niềm vui buổi gặp gỡ đầu tiên, Mẹ đã duy trì gìn giữ bên trong nhà người thân này.

Thái độ mau mắn sẵn sàng giúp đỡ đó, chẳng phải chỉ giới hạn nơi nhà bà Elizabeth, tất cả những ai cần được giúp đỡ, Mẹ rất sẵn sàng, trong điều kiện và thời giờ cho phép. Ngay từ đó Đức Maria đã biết từng hoàn cảnh mà “làm tôi thiên hạ”. Thái độ đó đối với chúng ta, cũng như hẳn xưa kia đối với bà Elizabeth, luôn là đối tượng của lòng ngưỡng mộ kính yêu. Ngày nay chữ tôi tớ đã mang một ý nghĩa hèn kém hạ giá, không dám dùng, và nhất là thực hiện ý nghĩa của từ ấy. Ước chi chúng ta cũng lấy làm hân hạnh được phục vụ tha nhân.

Chúng ta phải khó khăn lắm mới thực hiện được giáo huấn của Đức Kitô: Ai lớn nhất hãy làm như người nhỏ nhất, ai làm đầu phải hầu thiên hạ. Gương Đức Maria còn đó để khích lệ: ai là đầu, ai có phúc hơn mọi người nữ, thế mà Mẹ trở nên bé nhỏ, trở nên rốt hết. Ai dám thống trị kẻ khác khi thấy gương Mẹ tự tình phục vụ như thế?

Mẹ cũng dậy nghệ thuật phục vụ trong những công việc tầm thường, tự chọn lấy cho mình những công việc nhọc nhằn, tởm gớm, tự tình thi hành với nét mặt vui tươi. Đã từng có một người tớ nữ không hề than trách công việc đè nặng trên vai, không bao giờ càu nhàu trong công tác phục vụ, đó là gương mẫu cho chúng ta!

Ngày nay trong vinh quang thiên quốc, Mẹ vẫn ân cần giúp đỡ tất cả mọi người, chúng con vẫn tiếp tục nhận được sự trợ giúp của Mẹ, và Mẹ kêu gọi chúng ta cộng tác với Mẹ trong việc giúp đỡ mọi người.

 

69. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên)

Trong cuộc sống đức tin, chúng ta sẽ luôn gặp một thách đố: Dường như chúng ta luôn mãi chỉ là những hạt bụi bên lề xã hội. Đó cũng là số phận của những “số sót” trong Israel như Elisabeth, Giuse và Maria. Lời Chúa hôm nay muốn nói với chúng ta.

Bê-Lem trước đây 2000 năm vào thời Đức Giêsu vẫn chỉ là Bê-Lem thời Mikêa: nhỏ bé và ít ai biết tới, tuy đó là quê cha đất tổ của David. Nhưng nếu giòng tộc hoàng vương này, với tất cả quyền lực trong tay cũng không thể làm cho mảnh đất nhỏ bé này tồn tại được, thì Thiên Chúa vẫn cho nó một chỗ đứng vững chãi trong Giao Ước yêu thương của Người. Lời tiên tri Mikêa, và mầu nhiệm Nhập Thể chẳng phải là cho chúng ta đó sao?

Vì thế “những hạt bụi bên lề xã hội” như chúng ta cần nói lên niềm hy vọng của mình. Tín thư Do Thái là tiếng nói của “số sót” ấy. Trong Đức Giêsu Kitô, con người ngay từ lúc vào đời cho đến lúc ra khỏi trần gian này chính là một kẻ bị gạt ra ngoài cõi nhân sinh, mỗi người như chúng ta có thể ngẩng cao đầu: bởi vì Thiên Chúa không ưng nhận những công trạng, những của lễ do bàn tay con người, những cái mà anh cũng như tôi luôn luôn thiếu thốn, mà Người chỉ chấp nhận với tất cả sự qúy trọng chính con người trần trụi và đơn thành, cái mà chúng ta dường như chẳng bao giờ thiếu.

Tuy nhiên con người trần trụi và đơn thành, tự nó chẳng phải là một của lễ, cho nên chẳng thiếu gì những con người khốn cùng đã trở thành cơn ác mộng cho nhân loại. Người ta phải đọc lại Tin Mừng. Elisabeth, Maria, Giuse hiểu rất sâu sắc chính là Thánh Thần tự hiến trong những trần trụi và đơn thành của con người để biến đổi nó thành Lời Tạ Ơn yêu thương. Vì thế, các Ngài đã chấp nhận trở nên cảnh vực Thần Linh cho Giao Ước của Thiên Chúa hoạt động và đơm bông kết trái trong lòng dạ và trong cuộc sống. Chính là Thánh Thần réo gọi và đáp trả trong sự mỏng dòn của một thai nhi, mà làm cho nó thi hành sứ mạng tiền hô ngay trong lòng dạ mẹ mình. Vì thế lời của Elisabeth là khẳng định của một niềm tin: “Phúc cho Bà là kẻ đã tin…”. Chính niềm tin ấy tiêu diệt sự son sẻ và đưa sự trần trụi và đơn thành vào sự sống sung mãn. Tín thư Do Thái đã nói cách thật chí lý “chúng ta được thánh hóa nhờ việc hiến dâng Mình Chúa Giêsu Kitô…” bởi vì chính trong sự Hiến Dâng ấy mà Thánh Thần được tuôn tràn từ cạnh sườn Người chảy chan hòa trên chúng ta.

Nếu cuộc sống của chúng ta chỉ là chạy theo đà sống của xã hội, thì qủa thật anh cũng như tôi chúng ta đã bị đào thải từ lâu rồi.

Đức Kitô, Đấng chúng ta yêu mến và tín thác, và Thánh Thần lại ưa chọn sự trần trụi để quyền năng của Thiên Chúa được rực rỡ vinh quang. Và chính điều này cho chúng ta một chỗ đứng trong gia đình và trong xã hội nữa. Mùa vọng đã sắp chấm dứt: niềm vui của chúng ta chính là sự trần trụi của mình.

 

70. Này con đến

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)

Ngày lễ Giáng Sinh đã gần kề, Hội Thánh cho dân Chúa thấy những biến cố vô cùng trọng đại nhưng lại âm thầm diễn ra trong dòng lịch sử.

Này con đến để thực thi Ý Chúa

Biến cố Đức Maria cưu mang Ngôi Lời nhập thể, được thực hiện trong âm thầm tuy dù đó là biến cố vô cùng quan trọng “Ngôi Lời Thiên Chúa làm người và vĩnh viễn làm người”. Đức Yêsu đã sống “bình thường” như một người; chỉ khi Đức Yêsu sống lại, với ơn của Thánh Thần, các tông đồ mới nhận biết Ngài là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa nhập thể. Ngôi Lời nhập thể để làm gì? “Này con đến để thi hành Ý Chúa”.

Đâu là ý muốn của Thiên Chúa? Thiên Chúa muốn con người được cứu độ, được triển nở, được hạnh phúc, được sống trong tình yêu của Thiên Chúa. Con người phạm tội khi tìm mình, chọn mình trên Thiên Chúa và anh chị em mình, dùng tha nhân như phương tiện để thỏa mãn tham vọng riêng tư của mình. Chỉ khi nào con người sống trong tình yêu, tôn trọng tha nhân và Thiên Chúa, thì con người mới được bình an và hạnh phúc.

Làm sao để con người sống trong tình yêu? Làm sao để con người mở lòng ra với Thiên Chúa và với người khác? Đó là sứ mạng của Ngôi Lời, của Ngôi Lời nhập thể, của Đức Yêsu.

Em có phúc vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện điều đã nói với em

Mỗi một người có chỗ trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Sứ mạng của Yoan con ông bà Zacharia-Isave, là “trở thành tiếng kêu trong hoang địa”, kêu mời người ta chuẩn bị đón Đấng Thiên Sai. Yoan Tẩy Giả đã làm trọn sứ mạng của mình.

Sứ mạng của Đức Maria, là thực hiện điều Thiên Chúa đề nghị, tuy âm thầm khiêm tốn nhưng rất gian nan, đó là “cưu mang và sinh hạ Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể”. Đức Maria đã chấp nhận, và đã trở thành người “cưu mang Thiên Chúa”, mang Thiên Chúa tới cho người khác, mang Thiên Chúa đến cho nhân loại.

Phụ nữ nào mà lại chẳng có con! Cưu mang, sinh hạ và nuôi dưỡng một người con, không phải là chuyện “động trời” trên trái đất này. Chuyện đó vẫn xảy ra bình thường, thế nhưng ngay cả chuyện rất bình thường như vậy, cũng trở thành một biến cố “vô tiền khoáng hậu”! Mỗi người đều có thể “có phúc” hơn việc cưu mang và sinh hạ Đức Yêsu, vì “ai nghe và giữ Lời Thiên Chúa còn có phúc hơn” (Lc.8, 21; 11, 28).

Để thực hiện được thánh ý Thiên Chúa, để có thể cưu mang Thiên Chúa trong lòng, Đức Maria đã tuyệt đối tin tưởng vào Thiên Chúa. Chính lòng tin tuyệt đối vào Thiên Chúa, mới giúp Đức Maria vượt qua được những khủng hoảng trong đời, như lúc sinh con trong chuồng chiên cừu (tại sao lại phải sinh trong cảnh cùng quẫn như vậy?), lúc sống nghèo tại Nazaret, và đặc biệt lúc đứng dưới chân thập giá (Thiên Chúa có giữ lời hứa với tôi khi thiên thần truyền tin không? Đâu là lời “Thiên Chúa sẽ ban cho Ngài ngai vàng Đavid tổ phụ Ngài?). Phúc cho những ai tin rằng Thiên Chúa yêu thương mình, và sẽ làm cho mình những điều tốt đẹp nhất.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

  1. Chúa tới, mang gì cho bà Isave, cho ông Zacharia và Yoan? (lúc đó và cuối đời)
  2. Ngôi Lời nhập thể để thi hành Ý Chúa Cha! Làm sao để con người yêu Thiên Chúa và yêu thương nhau?
  3. Bạn có nghĩ rằng Đức Maria hạnh phúc không (lúc sinh con trong chuồng chiên cừu, lạc mất con, và đứng dưới chân thập giá)? Hạnh phúc hệ tại đâu?
  4. Chúa tới, tôi được và mất gì?

 

71. Mẹ Maria

Qua đoạn Tin mừng hôm nay, chúng ta tìm thấy nơi Mẹ Maria một mẫu gương tuyệt vời, giúp chúng ta sống tinh thần mùa vọng và chuẩn bị đón mừng Chúa đến.

Thực vậy, Mẹ Maria cũng như nhiều người Do Thái khác đã đọc và suy gẫm Kinh thánh, đã mòn mỏi trông chờ và mong đợi Đấng Cứu Thế.

Với một tâm hồn trong sạch và nhất là với lời xin vâng dưới mái nhà Nagiarét trong hoạt cảnh truyền tin, Mẹ đã trở thành người đầu tiên được diễm phúc đón nhận Chúa vào cõi lòng của mình.

Thế nhưng, có Chúa trong tâm hồn mà thôi chưa đủ, Mẹ còn đem Chúa đến cho người khác. Phúc âm thánh Luca kể lại rằng: Sau khi hay biết, nhờ hồng ân Thiên Chúa, bà chị họ của mình là Isave cũng đã có thai trong lúc tuổi già, Mẹ đã vội vã lên đường, băng qua đồi núi để viếng thăm và giúp đỡ bà chị họ trong những ngày tháng mang nặng đẻ đau.

Nhờ cuộc thăm viếng này, Mẹ đã đem đến cho gia đình bà Isave niềm hân hoan vui mừng, hay nói cách khác, nhờ cuộc thăm viếng này, Mẹ đã đem Chúa đến cho già đình bà Isave, và cùng với sự hiện diện của Chúa là niềm vui mừng và hy vọng tràn đầy. Chính vì thế, Gioan tiền hô đã nhảy mừng trong lòng bà Isave.

Còn chúng ta thì sao?

Trong mùa vọng này việc thứ nhất chúng ta cần phải làm ngay, đó là hãy sống thế nào để thực sự có Chúa ở trong tâm hồn.

Đúng thế, như chúng ta vồn thường nói:

– Chúa là Đấng thánh thiện tuyệt vời, còn tôi chỉ là kẻ tội lỗi xấu xa. Giữa Đấng thánh thiện tuyệt vời và tội lỗi xấu xa sẽ không có thành phần thứ ba, sẽ không có vị thế trung lập. Tôi phải dứt khoát chứ không thể lửng lơ con cá vàng, chơi trò đi nước đôi và bắt cá hai tay với Chúa. Đấng thánh thiện tuyệt vời và tội lỗi xấu xa sẽ không thể nào đội trời chung và sánh vai cùng bước đi bên nhau. Nơi nào có tội lỗi ngự trị, thì nơi đó không có chỗ cho tình thương của Chúa. Trái lại, muốn cho tình thương của Chúa ngự trị thì cần phải quét sạch mọi bóng dáng của tội lỗi.

Chính vì thế, chúng ta phải khử trừ tội lỗi, phải uốn nắn sửa đổi những thói hư tật xấu, như lời kêu gọi của Gioan tiền hô:

– Hãy dọn đường Chúa đến. Quanh co uốn cho ngay. Gồ ghề san cho phẳng. Hố sâu lấp cho đầy và nơi cao phải bạt xuống.

Việc thứ hai chúng ta cần phải làm ngay trong mùa vọng, đó là hãy bắt chước Mẹ Maria mà đem Chúa đến cho người khác.

Đúng thế, qua hành động thăm viếng, Mẹ đã đem Chúa đến cho gia đình bà Isave thế nào, thì bằng những hành động bác ái và yêu thương, chúng ta cũng sẽ giới thiệu khuôn mặt đích thực của Đức Kitô cho những người chung quanh, để rồi cuối cùng, họ cũng sẽ nhận biết và tin theo Chúa.

Thánh Phanxicô Salêsiô nổi tiếng là một vị thánh hiền lành và nhân hậu. Ngài có một người giúp việc mắc phải tật nghiện rượu. Một hôm anh ta trốn nhà ra quán nhậu say bí tỉ, mãi tới khuya mới về, rồi nằm vật xuống ngưỡng cửa mà ngủ.

Nghe tiếng động, thánh nhân ra mở cửa. Thấy anh ta nằm đó thì nhẹ nhàng bồng anh về phòng, đặt anh ta trên chiếc giường của mình, còn mình thì nằm ngủ ở chỗ khác.

Ban sáng, vừa thức dậy, thấy mình nằm trên giường của thánh nhân, anh ta hoảng hốt vội chạy tới quì dưới chân thành nhân xin lỗi và hứa sẽ chừa bỏ rượu chè, hoán cải bản thân và làm lại cuộc đời.

Từ đó, anh ta đã dứt khoát với tật nghiện rượu và trở nên một người tốt lành.

Hãy khử trừ tội lỗi để trở nên người có Chúa trong tâm hồn, đồng thời bằng những hành động bác ái và yêu thương, hãy đem Chúa đến cho những người chung quanh. Đó là hai việc chúng ta cần phải làm ngay theo mẫu gương của Mẹ Maria trong mùa vọng này.

 

72. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng

VIẾNG THĂM CHỊ HỌ ÊLISABÉT

Đoạn Phúc Âm mà Giáo Hội gởi đến cho chúng ta trong Chúa nhật IV Mùa vọng kể lại biến cố Mẹ Maria đến viếng thăm bà Elisabéth liền sau khi được thiên thần truyền tin cho biết Mẹ được Thiên Chúa chọn làm Mẹ của Con Một Ngài.

Chúng ta có thể hình dung được niềm vui sâu xa của Mẹ Maria sau khi đã khiêm tốn thưa vâng, chấp nhận cộng tác với chương trình của Thiên Chúa để cứu rỗi nhân loại. Con Thiên Chúa đã nhập thể trong cung lòng Mẹ do quyền năng của Chúa Thánh Thần. Ngài là niềm vui và chắc chắn Mẹ Maria trong lúc cưu mang Con Thiên Chúa trong cung lòng mình, Mẹ được diễm phúc hơn ai hết, sống kết hiệp với Con Mẹ vừa là Con Thiên Chúa và cũng vừa là Chúa của Mẹ.

Do đó, khi được hưởng nếm niềm vui, Mẹ đã mau mắn bộc lộ niềm vui mừng đó trong bài ca tạ ơn: “Linh hồn tôi chúc tụng Chúa”. Khi đến viếng thăm bà Elisabéth. Mẹ không giữ niềm vui đó cho chính mình, nhưng muốn chia sẻ với người khác. Sự hiện diện của Chúa nơi Mẹ càng giúp cho tâm hồn đã sẵn sàng quảng đại của Mẹ trở nên dịu dàng, quảng đại hơn nữa để nhìn thấy nhu cầu cần thiết được sự trợ giúp của anh chị em xung quanh.

Niềm vui và thái độ phục vụ quảng đại là hoa trái không thể chối cãi được của sự hiện diện của Thiên Chúa trong một người. Mẹ Maria là mẫu gương chỉ đường cho chúng ta, cho mọi đồ đệ của Chúa Giêsu Kitô.

Điểm thứ hai đáng chúng ta chú ý trong lần gặp gỡ giữa Mẹ Maria và bà Elisabéth là vai trò của Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần thực hiện nơi Mẹ điều mà không một quyền lực trần gian nào có thể làm được, đó là làm cho Mẹ trở nên Mẹ của Con Thiên Chúa mà vẫn duy trì trọn vẹn sự đồng trinh. Và Chúa Thánh Thần cũng hiện diện nơi bà Elisabéth để soi sáng cho bà nhìn ra giờ ân sủng đã đến, nhìn ra nơi con người đến thăm mình kia là Mẹ của Thiên Chúa.

Nhìn ra hạnh phúc đích thực của một người không hệ tại ở điều gì khác hơn là sự vâng phục kính tin vào lời Thiên Chúa: “Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng Lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện”. Thực tại mà Mẹ Maria và bà Elisabéth đang sống không phải là thực tại phàm trần do con người tạo nên, nhưng là thực tại siêu phàm, thiêng liêng do Thiên Chúa thực hiện và con người chỉ có thể nhận ra nhờ ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần mà thôi, vừa đồng thời được mời gọi cộng tác vào đó nhờ qua thái độ khiêm tốn, vâng phục và kính tin.

 

73. Hoa trái

Có những hoàn cảnh mà trong đó sự mới mẻ xuất hiện: một phụ nữ mang thai, một cây hoa sinh nụ, một gói quà sắp mở, một món ăn sắp lấy ra từ trong lò. Đó là những thời điểm kích thích thần kinh. Trẻ con nôn nóng xé tờ giấy gói quà, trở cái thìa trong đĩa. Những lúc mà vợ chồng đoán xem đứa con sẽ như thế nào. Thời gian chín mùi kết thúc, việc nảy sinh bắt đầu… vào thời giáng sinh đất trổ hoa đơm trái.

Các bài đọc Chúa nhật hôm nay nhắc đến đất đai, nguồn gốc và tận cùng. Một trái đã sẵn sàng để được hái. Muốn đánh giá tốt hơn trái đó ta hãy phân tích mảnh đất sản xuất ra nó. Người ta nói: “Cây nào, trái ấy. Ruộng nào, lúa ấy”. Đất và ruộng ở đây là những đoạn Thánh Kinh chúng ta vừa nghe đọc.

Bài đọc một của ngôn sứ Mikêa đưa chúng ta trở lại mảnh đất tổ tiên. Chúa Giêsu xuất phát từ một dòng tộc, một lịch sử. Ngài nói tiếng nói của cha ông, mang một tên quen thuộc trong thôn xóm: “Hỡi Bêlem Epphata, chi tộc bé nhỏ nhất trong các chi tộc Giuđa, từ nơi ngươi sẽ sinh ra Đấng sẽ cai trị Israel”.

Nhưng Chúa Giêsu không chỉ là con người lịch sử do bởi di sản đã nhận được. Ngài sẽ dấn thân trong lịch sử ấy, trong dòng chảy của biến cố. Ngài sẽ tham gia vào cộng đoàn của Ngài, như ngôn sứ Mikêa loan báo: “Ngài sẽ đứng lên và sẽ là mục tử của họ”.

Bài đọc hai, trích từ thư Do thái, nói đến một loại đất khác còn thân thiết với chúng ta hơn là mảnh đất của nền văn hóa chúng ta. Người ta nói đến chất liệu làm nên xương thịt của chúng ta. “Chúa không muốn hy tế và của lễ, nhưng Ngài đã tạo cho con một thân xác”.

Hoa quả của Giáng sinh đầu tiên là Thiên Chúa nhập thể bằng xương bằng thịt. Chúa Giêsu là con cái của mảnh đất xác thịt từ đó mỗi người được sinh ra. Hoa quả mong manh. Hoa quả dễ hư nát nhưng cũng là cái vỏ cần thiết. Chúa Giêsu không phải là một bóng ma, cũng không phải là một giấc mơ, lại càng không phải là một ông già Noel. Ngài là người bằng xương bằng thịt, và có lẽ không đẹp như người ta hình dung hay tưởng tượng.

Và đây là mảnh đất thứ ba sẽ ban cho chúng ta Chúa Giêsu: mảnh đất của con người. Một phụ nữ, Đức Maria. Một phụ nữ đi đến gặp gỡ kẻ khác, cởi mở đối với tha nhân: “Maria nhanh nhẹn lên đường, bà vào nhà ông Dacaria và chào bà Elisabét”.

Chúa Giêsu sẽ thuộc về mảnh đất này, thuộc về phẩm chất hữu thể này: là quả được chúc phúc từ lòng Đức Maria, như ta vẫn đọc trong kinh Kính Mừng, một quả được chúc phúc sẽ mang sự chúc lành đến cho kẻ khác, sẽ làm cho họ vui lên: “Bởi đâu tôi được diễm phúc Mẹ của Chúa đến viếng thăm tôi? Vì khi tôi nghe lời chào của em, hài nhi đã nhảy mừng trong lòng tôi”.

Vào dịp Giáng sinh những cuộc gặp gỡ thật quan trọng, những cuộc hội họp gia đình, bạn bè, chính là một trong những hoa quả tốt đẹp nhất của Giáng sinh. Những cuộc hội họp này là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa.

Thiên Chúa hiện diện chính là Chúa Giêsu: con người phát xuất từ một lịch sử và dấn thân vào lịch sử, con người bằng xác thịt, có thật, mỏng giòn, và con người của sự gặp gỡ. Và những mảnh đất này đã trổ sinh hoa trái tốt đẹp dường ấy cũng là những mảnh đất nơi chúng ta mọc lên. Vậy xin Chúa Giêsu làm nở ra nơi mỗi người chúng ta gương mặt của Ngài.

 

74. Tình thương

Viếng thăm nhau là điều rất bình thường trong cuộc sống con người. Nhưng với thánh Luca, việc Đức Mẹ đi thăm viếng bà Isave ngoài ý nghĩa thông thường của một cuộc viếng thăm, nó còn mang một nội dung giáo lý rất sâu xa.

Thánh Luca đã đối chiếu cuộc viếng thăm này với cuộc cung nghinh hòm bia giao ước đã được ghi lại trong sách Samuel quyển thứ 2. Chúng ta có thể ghi nhận mối liên hệ giữa hai bản văn Thánh kinh Cựu và Tân ước qua hai chi tiết sau đây:

. Khi Thiên Chúa ký kết giao ước với dân Israel trên núi Sinai, Người đã ban mười giới răn được khắc ghi trên hai bia đá, và Người truyền phải đặt hai bia đá ấy vào trong một cái hòm gọi là hòm bia giao ước. Hòm bia ấy là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa giữa dân Người. Sách Samuel kể lại rằng: Khi vua Đavid thống nhất đất nước đã bị phân ly trước đó, ông nhất định đưa hòm bia giao ước về thành thánh Giêrusalem. Cuộc cung nghinh hòm bia là một niềm vui rất lớn đối với người Do thái, đến nỗi vua Đavid đã như trẻ con, vừa đi, vừa hát, vừa nhảy múa trước hòm bia.

Mẹ Maria cưu mang Chúa Giêsu trong lòng và đi đến thăm bà Isave cũng đã mang lại niềm vui rất lớn cho bà và ngay cả thai nhi trong lòng bà cũng đã nhảy mừng.

. Cuộc cung nghinh hòm bia giao ước không về Giêrusalem ngay, nhưng dừng lại ở nhà ông Obed ba tháng. Trong thời gian này, gia đình ông đã nhận được biết bao nhiêu là phúc lộc. Cũng vậy, Mẹ Maria mang Hài Nhi Giêsu trong lòng đã ở lại nhà bà Isave ba tháng và cũng đã đem đến cho gia đình bà nhiều ân phúc.

Như vậy, điểm giáo lý quan trọng hàm chứa trong trình thuật thăm viếng này là: Bào thai trong lòng Trinh Nữ Maria chính là Thiên Chúa. Ngày xưa bia giao ước là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa. Ngày nay, chính Thiên Chúa đã làm người và hiện diện thực sự giữa con người chứ không qua dấu chỉ nữa. Cung lòng Đức Maria đã trở nên nơi cho Thiên Chúa ngự trị trong những ngày tháng đầu đời làm người. Cung lòng ấy đã được coi là hòm bia của Thiên Chúa như trong kinh cầu Đức Bà chúng ta vẫn thường đọc: Đức Bà như hòm bia Thiên Chúa vậy.

Nối kết nội dung giáo lý mà chúng ta vừa trình bày ở trên với ý nghĩa bình thường của một cuộc viếng thăm, chúng ta sẽ khám phá ra được một hướng dẫn rất cần thiết cho đời sống đạo của chúng ta hôm nay. Hướng dẫn đó là: Hãy mang Chúa đến cho anh em bằng những bước đi của tình thương.

Mẹ Maria đã đến với bà Isave chỉ vì bác ái, chỉ vì tình thương. Mẹ đến để chia sẻ niềm vui, để giúp đỡ người chị em. Trong tình yêu thương ấy, bước đi của Mẹ đã trở thành bước đi của Thiên Chúa đến với con người. Và chính trong khi thực hiện tình yêu thương, Mẹ đã đem Chúa đến cho người chị em của mình.

Đức tin của chúng ta hôm nay cũng cần phải được diễn tả bằng ngôn ngữ của tình thương. Bởi chỉ có tình thương mới đụng chạm đến trái tim con người, mới len lỏi vào được tận cõi thâm sâu của lòng người, nhờ đó mới làm cho người ta tin nhận Thiên Chúa một cách dễ dàng. Khi sống tình yêu thương đối với anh em mình thì đó đã là một lời tuyên xưng niềm tin, là một cuộc cung nghinh Thiên Chúa, là mang Chúa đến cho anh em, và là một việc làm bày tỏ sự tôn thờ rất đẹp lòng Thiên Chúa, Đấng đã sống và chết vì yêu thương.

 

75. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng

(Suy niệm của Lm. John Eckert – Chuyển ngữ: JB. Đào Ngọc Điệp)

Tiếp theo trong Chúa Nhật thứ Ba mùa Vọng, chúng ta lại thấy Thánh Gio-an Tẩy Giả xuất hiện trong bài Tin Mừng. Hai Chúa Nhật trước đó, Ngài đã ở trong hoang địa, kêu gọi mọi người sám hối và chỉ bảo họ cách dọn đường cho Chúa đến. Chúa nhật hôm nay, chúng ta có câu truyện “chuẩn bị” cho ông Gio-an ở trong hoang địa; trong cuộc viếng thăm hồng phúc của Mẹ Ma-ri-a, Gio-an là một hài nhi, nhảy mừng trong lòng mẹ. Chỉ chưa đầy một tuần nữa là tới Đại Lễ mừng Chúa Giáng Sinh, tôi nghĩ phản ứng ngây thơ, hồn nhiên và hết lòng của Gio-an trước sự hiện diện của Chúa Giêsu và Thánh Mẫu Người là điều chúng ta cần quan tâm.

Trong vài tháng qua, tôi nghe thấy những lời than phiền về chuỗi cung ứng, vấn đề vận chuyển và mối đe dọa ám ảnh rằng năm nay có thể không mừng lễ Giáng sinh được. Cũng như nhiều người khác, đang khi tôi nhận thấy những khó khăn mà các cửa hàng tạp hóa gặp phải, là làm sao có đầy đủ hàng hóa trên các kệ bán của họ, hoặc dài cổ chờ đợi các mặt hàng trước kia đã từng được chuyển đến rất nhanh chóng, thì tôi phải nói rằng những nhận xét về việc Giáng sinh năm nay “sẽ không đến” là một thứ tai họa đúng như kế hoạch của Grinch (*) cướp đi niềm vui Giáng sinh của cư dân trong phố Who-ville của họ bằng những trò ăn cắp vặt lẻ tẻ. Nhưng niềm vui Giáng Sinh chúng ta mừng hôm nay không thể bị lấy đi một cách dễ dàng như vậy đâu.

Có những ý tưởng trong các lời nguyện cũng như các bài đọc Chúa Nhật Thứ Tư Mùa Vọng này nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta luôn sống trên các tầng mây thánh thiện êm ả tràn đầy niềm vui của Thiên Chúa Hằng Sống và Nhập Thể. Ví dụ, hãy bắt đầu với lời nguyện mở đầu của Thánh lễ hôm nay. Với các bạn thường xuyên cầu nguyện giống như chúng tôi vẫn cầu nguyện vào ban trưa tại trường Sacred Heart, thì kinh Truyền Tin kết thúc bằng lời nguyện mở đầu Thánh lễ hôm nay. Bạn hãy lưu ý là phần đầu lời nguyện có động từ “ban ơn xuống”. Chúng ta biết Cha trên trời không phải là người hà tiện. Người không đong đếm ân sủng của Người giống như tên Ebenezer Scrooge (**) chia từng cục than cho nhân viên của hắn đang bị lạnh cóng. Trái lại ân sủng của Thiên Chúa thì tràn trề khắp mọi nơi!

Giáo hội mời gọi chúng ta dừng tay làm việc giây lát vào buổi sáng, buổi trưa và buổi chiều để đọc kinh Truyền Tin. Lời nguyện gồm ba đoạn tuyệt đẹp nhắc nhở chúng ta rằng Con Thiên Chúa đã đến với nhân loại, được sinh ra bởi Đức Trinh Nữ đầy niềm tin, sinh ra tại Bê-lem (nghĩa đen là “Nhà Bánh”), Người đã đến để thi hành thánh ý Chúa Cha và để dâng hiến chính Người một lần thay cho tất cả, làm hy tế sống động và hữu hiệu để chúng ta có thể tham dự mỗi ngày trong Thánh lễ. Chúa chúng ta không chỉ trao ban quà Giáng sinh mỗi năm một lần; nhưng Người luôn tuôn đổ ân sủng Người vào tâm hồn chúng ta, và chỉ cần chúng ta quan tâm đến các ân sủng này là đủ. Đơn giản chỉ có thế, như một em bé có thể nhảy cẫng lên vì vui sướng khi được nhắc nhớ đến món quà.

Giờ đây rõ ràng chúng ta quên hẳn đi thực tại ân sủng này và rất thường quên như vậy. Do đó, chúng ta cần một khoảng thời gian bốn tuần để chuẩn bị mừng Lễ Giáng Sinh của Chúa Yêu Dấu với tất cả tâm hồn hân hoan. Hy vọng vào thời điểm này của Mùa Vọng, các bạn đã lắng nghe thánh Gio-an Tẩy Giả kêu gọi, đã ăn năn sám hối, đã đi xưng tội và đã cố gắng chu toàn những bổn phận hàng ngày trong bậc sống của mình với tình yêu lớn lao. Giờ đây, khi lễ Giáng sinh đang nhanh chóng đến gần, trong sự khôn ngoan của mình, Giáo hội đã giới thiệu với chúng ta bắt đầu là một Gio-an Tẩy Giả với tiếng nói mạnh dạn từ vùng hoang địa, tiếp đến là một Gio-an Tẩy Giả như thai nhi nhảy mừng trong bụng mẹ. Hãy để thực tại đó chìm sâu vào tâm hồn khi bạn sửa soạn xum họp với gia đình và khi bạn chuẩn bị trở lại nhà thờ thật đông người vào cuối tuần này. Giữa thế giới điên cuồng chúng ta đang sống, bạn hãy là người mang niềm vui bền vững vì tin rằng Chúa đang ở trong mình. Quá nhiều người không nhận ra lòng nhân từ của Thiên Chúa chúng ta đang tuôn đổ tràn lan.

“Chốc ấy Ngôi Thứ Hai xuống thế làm người, và ở cùng chúng con” như chúng ta đọc trong câu cuối của kinh Truyền Tin. Đây không phải là một thực tại xảy ra trong một khoảnh khắc ngắn ngủi trong năm, mà là từng nhịp đập của con tim, từng hơi thở chúng ta hít vào, tất cả đang diễn ra ngay giữa chân lý đó. Chúng ta cần những Mùa Vọng này và những thời điểm này trong năm để nhắc nhở chúng ta về chân lý đó. Bạn hãy cầu xin Đức Maria, Mẹ chúng ta, Đấng đã tin rằng “Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với Mẹ”, bạn hãy cầu xin Thánh Ê-li-sa-bét, người đã khiêm tốn vui mừng kêu lên lúc cô em họ và cũng là Thân Mẫu Chúa tôi đến gần, bạn hãy cầu xin Thánh Gio-an Tẩy Giả là người hớn hở nhảy mừng trong bụng mẹ với niềm vui thật tinh khiết trước sự hiện diện của Con Thiên Chúa Nhập Thể, để các ngài giúp bạn trở thành người mang niềm vui bất tận này đến những người bạn gặp trong tuần tới.

Nguồn: https://www.hprweb.com/

—————————————-

(*) Grinch trong Whos down in “Who-ville” là một truyện tranh của Dr. Seuss. Mọi người (whos) ở Whoville đều rất thích Giáng sinh, nhưng duy chỉ có Grinch, sống ngay phía bắc Whoville – thì không. Grinch không chỉ ghét lễ Giáng sinh – mà ghét luôn cả Mùa Lễ Giáng sinh. Bây giờ, xin đừng hỏi tại sao; không ai hoàn toàn biết lý do. Có lẽ, có lẽ, đôi giày của anh ấy quá chật

(**) Ebenezer Scrooge: Scrooge là nhân vật chính trong tiểu thuyết của Dickens và lần đầu tiên được thể hiện như một người đàn ông keo kiệt, khó ưa. Anh ta từ chối tất cả những lời mời chào mừng lễ Giáng sinh như ‘Humbug! ‘. Vào đêm Giáng sinh, anh ta bị hồn ma là đối tác kinh doanh cũ của anh ta, Jacob Marley, người cảnh báo rằng anh ta sẽ bị ba hồn ma ghé thăm.

 

76. Khiêm hạ mở lòng đón Chúa

(Suy niệm của Anmai)

Bởi đâu con người đã đánh mất nghĩa tình với Chúa? Bởi lẽ con người quá cao ngạo. Không cao ngạo đi chăng nữa thì cũng đi tìm kiếm sự cao ngạo để rồi qua sự tìm kiếm đó con người đã không còn chỗ cho Thiên Chúa vào trong cuộc đời của mình.

Hết sức cụ thể, hết sức rõ ràng nơi Ađam-Eva. Cũng chỉ vì cao ngạo để rồi đánh mất đi tình, đánh mất đi cái nghĩa cao đẹp mà Thiên Chúa đã dành cho hai ông bà. Thiên Chúa là Chúa, là Chủ nhưng rồi hai ông bà đã loại Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời mình.

Sau chuyện của hai ông bà nguyên tổ, ta đi tiếp một chút trong dòng chảy của lịch sử loài người, lịch sử cứu độ thì ta vẫn thấy đâu đó hình ảnh của những con người kiêu ngạo, hình ảnh của những con người cứ tưởng rằng mình là lớn nhất và rồi tất cả những người mà lớn nhất đó đều bị sụp đổ, đều bị tiêu tan cả.

Bởi thế, cái mà con người coi là lớn, là hùng vĩ, là vĩ đại thì đối với Thiên Chúa chẳng là gì cả. Hình ảnh hay nói sát hơn một tí mà chúng ta có thể bắt gặp Lời mà Thiên Chúa nói cho con người biết về điều này thể hiện nơi các ngôn sứ.

Nhìn lại cuộc đời các ngôn sứ, chúng ta thấy man mác hình ảnh của những con người thấp cổ bé họng, những con người nhỏ bé. Thế nhưng đàng sau vóc dáng của những con người nhỏ bé đó lại ẩn hiện một hình bóng của Thiên Chúa.

Trang sách ngôn sứ Mikha mà chúng ta vừa nghe đã tiên báo về hình ảnh Đấng Cứu Độ trần gian: “Hỡi Bêlem Ephrata, ngươi nhỏ nhất trong trăm ngàn phần đất Giuđa, nhưng nơi ngươi sẽ xuất hiện một Ðấng thống trị Israel, và nguồn gốc Người có từ nguyên thuỷ, từ muôn đời. Vì thế, Người sẽ bỏ dân Người cho đến khi một người nữ phải sinh, sẽ sinh con. Số còn lại trong anh em Người, sẽ trở về với con cái Israel. Người sẽ đứng vững và chăn dắt trong sức mạnh của Chúa, trong thánh danh cao cả của Chúa là Thiên Chúa của Người. Và họ sẽ trở về, vì bấy giờ Người sẽ nên cao trọng cho đến tận cùng trái đất. Vì vậy, Người sẽ là chính sự bình an”.

Hình ảnh của Đấng Cứu Độ Trần gian mà Mikha loan báo khi xưa đã, đang hiện thực nơi cuộc đời của Chúa Giêsu.

Gioan Tiền Hô đã loan báo sự xuất hiện của một vị ngôn sứ lớn hơn Gioan gấp bội phần và vị ngôn sứ đó, ngay cả Gioan cũng không đáng cởi dép cho Ngài thế nhưng mà dân chúng chẳng tin. Bởi lẽ hết sức đơn giản là dân chúng lại mong chờ một đấng Mêsia đến trong cõi mây trời, trong vinh quang và nhất là cho dân Israel được nở mặt nở mày và cho dân Israel được ăn trên ngồi chốc.

Với cái nhìn như vậy, với cái nhìn xác phàm như vậy dân chúng thời Chúa Giêsu đã không nhận ra sự hiện diện của Đấng Cứu Độ trần gian.

Giữa những cái nhìn như thế, giữa những quan niệm như thế chúng ta bắt gặp hình ảnh của một cô thiếu nữ Do Thái có tên là Maria. Cô thiếu nữ này đã mau nghe và chậm nói, đã suy đi nghĩ lại những lời mà các ngôn sứ đã nói, suy nghĩ những gì được loan báo trong Cựu Ước và rồi thiếu nữ đã tin nhận Đấng Mêsia đến. Không chỉ tin tin nhận đến mà còn đón nhận vào trong cung lòng của mình.

Hơn nhau là ở chỗ tin và đón nhận. Maria tin và đón nhận Đấng Cứu Độ vào trong cuộc đời của mình.

Trang Tin mừng hết sức ngắn mà Thánh Luca thuật lại cho chúng ta một lần nữa nói lên lời xác tín của người chị họ Isave: “Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng Bà được chúc phúc! Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm tôi? Vì này, tai tôi vừa nghe lời Bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện”.

Phúc cho Bà là kẻ đã tin!

Hết sức tuyệt vời vì Bà là kẻ đã tin chứ không phải phúc cho bà vì bà cao ngạo, bà tưởng là bà to, bà tưởng là bà lớn.

Tin! Maria đã lặng lẽ và tin nhận quyền năng Thiên Chúa rợp bóng trên cuộc đời của Mẹ khi nghe lời của sứ thần truyền.

Maria đã vâng theo Thánh ý của Chúa trong cuộc đời của Mẹ.

Để vâng theo Thánh ý Chúa, để đón Chúa vào trong cuộc đời không có con đường nào khác ngoài con đường khiêm hạ.

Trong tâm tình đó, thư gửi tín hữu Do Thái vừa nhắc nhớ chúng ta: Anh em thân mến, khi đến trong thế gian, Chúa Giêsu phán: “Chúa đã không muốn của hy tế và của lễ hiến dâng, nhưng đã tạo nên cho tôi một thể xác. Chúa không nhận của lễ toàn thiêu và của lễ đền tội. Nên tôi nói: ‘Lạy Chúa, này con đến để thi hành thánh ý Chúa, như đã nói về con ở đoạn đầu cuốn sách'”.

Thư gửi tín hữu Do Thái đã lấy lại tâm tình của ngôn sứ Isaia: Sách ấy bắt đầu như thế này: “Của lễ hy tế, của lễ hiến dâng, của lễ toàn thiêu và của lễ đền tội, Chúa không muốn cũng không nhận, mặc dầu được hiến dâng theo lề luật. Ðoạn Người nói tiếp: Lạy Chúa, này đây con đến để thi hành thánh ý Chúa”. Như thế đã bãi bỏ điều trước để thiết lập điều sau. Chính bởi thánh ý đó mà chúng ta được thánh hoá nhờ việc hiến dâng Mình Chúa Giêsu Kitô một lần là đủ.

Chỉ có khiêm hạ thì mới mở lòng đón Chúa đến trong đời mình mà thôi.

Ngày hôm nay, Chúa đã đến rồi, Chúa đã có đó rồi trong cuộc đời nhưng rồi người ta vẫn không nhận ra Chúa chỉ vì người ta cao ngạo.

Một chị kia đến không ngần ngại nói rằng nhiều lúc chị nghĩ đến cái chết vì gia đình chị đang gặp bế tắt. Hỏi thăm thì chị nói là chồng chị bị ung thư thận và rồi đang bế tắt và chị muốn tìm đến cái chết cho thanh thản cõi lòng.

Nghe chị nói xong, tôi mời chị hãy dành một chút thời gian nào đó để vào các phòng cấp cứu của các bệnh viện, ít là 115 và Chợ Rẫy để thấy tận mắt nơi đó sự sống của con người. Gia đình, người thân, con cái và đặc biệt là các y bác sĩ dù không hề quen biết nhưng với y đức, với tính nhân đạo của con người họ đã cố gắng hết sức cứu mạng sống cho con người dù mong manh. Tôi mời gọi như thế và chị chợt nhận ra rằng chị hạnh phúc hơn nhiều người. Chồng chị đang bệnh nhưng ít ra gia đình chị vẫn còn một mái nhà để tựa nương vì lẽ xung quanh chị và ngay trong cái bệnh viện Ung Bướu cách đây không xa vẫn còn đó nhưng con người đau khổ mà không có tiền để có được bữa cơm bình thường như bao người mà phải ngửa tay xin bữa cơm từ thiện.

Sau khi tôi phân tích, gợi lên một chút về sự sống, một chút về ân ban mà Thiên Chúa trao ban cho chị, chị nhận ra và mỉm cười với cuộc đời vì lẽ chị hạnh phúc hơn bao người.

Ta cũng thế, nhiều lần nhiều lúc vì cao ngạo để rồi ta không nhận thấy Chúa trong cuộc đời ta. Khi ta cho mình là nhất, khi ta cho mình là chủ đời ta thì không thể nào ta có chỗ cho Thiên Chúa được.

Hôm nay là ngày cận kề của Lễ Giáng Sinh, chúng ta hãy chạy đến với Mẹ Maria, học nơi Mẹ Maria sự khiêm hạ nhỏ bé để đón Chúa vào trong cung lòng chúng ta như Mẹ đã từng đón Chúa vậy.

 

77. Thánh Ý

(Suy niệm của Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

Tiên tri Mikêa loan báo Đấng thống trị Irael sẽ xuất hiện tại Belem, đất Giuđa. Chúng ta thường gọi vùng Belem này là Đất Thánh vì đã được đón nhận Đấng Cứu Thế. Người Do-thái dùng từ Đất thánh chỉ Nước Irael (Kingdom of Israel). Từ ngữ Đất Thánh (Holy Land) được dùng bởi cả người Hồi Giáo và Kitô Giáo để định vị miền đất giữa sông Jordan và vùng biển Địa Trung Hải. Đền thờ Giêrusalem là trung tâm tôn giáo của người Do-thái và là nơi thánh. Cùng với những nơi Chúa Giêsu đã đi qua thi hành sứ mệnh và rao truyền ơn cứu đô. Xưa cũng như nay, có rất nhiều người, kể cả Do-thái, Kitô hữu và tín hữu Hồi giáo đến hành hương trong miền Đất Thánh này. Nhiều người ao ước được đến viếng thăm những nơi Chúa Giêsu Nazarét sinh ra, nơi Chúa sinh sống và rao giảng, đồi Chúa chịu chết và nơi sống lại ra khỏi mồ. Nhiều Kitô hữu muốn đến tận nơi ngắm nhìn, đụng chạm, cảm nhận và suy niệm về cuộc đời của Chúa Cứu Thế.

Chương trình cứu độ được tỏ hiện từng bước trong lịch sử dân Do-thái. Thánh ý của Thiên Chúa trải rộng khắp lịch sử của loài người và đặc biệt qua dân được tuyển chọn. Thiên Chúa đã chọn, gọi và sai các tiên tri hướng dẫn Dân đi qua từng biến cố lớn nhỏ. Tiên tri Mikêa đã loan tin: Vì thế, Đức Chúa sẽ bỏ mặc Ít-ra-en cho đến thời một phụ nữ sinh con. Bấy giờ những anh em sống sót của người con đó sẽ trở về với con cái Ít-ra-en (Mik 5, 2). Mikêa nói đến hình bóng của người phụ nữ đã được nhắc đến ngay trong những trang đầu của sách Sáng Thế Ký, như lời Thiên Chúa đã hứa: Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó (Stk 3, 15). Người phụ nữ này giữ vai trò rất quan trọng trong chương trình cứu độ loài người. Qua người nữ, Đấng Cứu Thế sẽ được sinh ra trong dòng dõi của những kẻ còn sót lại.

Trong thời Cựu Ước, những lời tiên tri loan báo từ từ được thực hiện. Một trinh nữ miền quê trong trắng, đơn sơ và thánh thiện đã được Thiên Chúa quan phòng để lãnh nhận sứ mệnh làm mẹ Đấng Cứu Thế. Thiên Chúa vũ trụ đã hóa thân làm người nơi cung lòng của Đức Maria trinh nữ. Chúa chọn một người nữ bình thường để thể hiện những việc phi thường. Đất trời đã giao hòa. Sự kiện này hoàn toàn do thánh ý của Thiên Chúa. Con Thiên Chúa hạ thân làm người và một người nữ khiêm cung đón nhận hồng ân và cưu mang trong lòng. Maria nói: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.”( Lc 1, 38). Sau khi được sứ thần truyền tin cưu mang Con Thiên Chúa, Maria đã nói lời xin vâng và sống niềm tin sâu thẳm. Khi Đức Maria đến viếng thăm bà chị họ là Isave, bà Isave đã lớn tiếng kêu lên rằng:”Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc” (Lc 1, 42).

Từ một thôn nữ đơn thành chất phát, Maria đã trở nên máng chuyển ơn cứu độ. Kinh thánh đã ca khen vai trò của Mẹ Maria qua điềm lạ xuất hiện trên trời:Rồi có điềm lớn xuất hiện trên trời: một người Phụ Nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao (Kh 12, 1).Thiên Chúa đã quan phòng thay đổi cuộc đời của Đức Maria trong vai trò trung gian của ơn cứu độ. Đức Maria đã hoàn toàn vâng theo thánh ý của Thiên Chúa. Một mầu nhiệm cao siêu nhất hòa nhập trong một con người đơn sơ hèn mọn. Maria tiếp tục sống một cuộc sống hiền hòa, khiêm hạ và âm thầm lặng lẽ vâng phục trong nguyện cầu tín thác. Maria đã đi thăm viếng và giúp đỡ chị họ Isave trong lúc sanh nở. Maria đã không quản ngại phụ giúp chị trong mọi công việc dù thấp hèn nhất.

Sự khiêm hạ của Đức Maria là gương mẫu cho chúng ta. Đức Maria đã sống ơn gọi của mình một cách hoàn hảo. Biết rằng nếu muốn thay đổi số phận, chúng ta phải bỏ ra công sức để tôi luyện công đức. Công đức thay đổi nhân tâm. Công đức căn bản là thực hiện những điều khiêm hạ thấp hèn. Thường thường người ta nói về công đức cao siêu, nhưng cái thấp nhất và nhỏ nhất lại là cái vĩ đại nhất. Giống như nhà khoa học nghiên cứu những cái nhỏ nhất và đơn giản nhất để khám phá ra những qui luật chung mà mắt người thường không nhìn thấy được. Công đức căn bản là lao động công ích. Chúng ta nhìn qua những hành xử của thân, khẩu và ý. Thân nghiệp là hành vi dùng sức khỏe và chân tay lao động để giúp người và giúp đời. Khẩu nghiệp là nói những lời chân thành, nhẹ nhàng và nhân ái giúp gây bầu khí an hòa và cảm thông lẫn nhau. Ý nghiệp là khởi ý cầu mong sự tốt lành và an vui cho người khác.

Bà Isave và Đức Maria đã trao đổi tình thân hữu qua việc giúp đỡ và khen ngợi. Bà Isave đã chúc tụng: Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em (Lc 1, 45). Khẩu và ý nghiệp của bà Isave vừa là lời chúc phúc, vừa là sự cầu mong những điều tốt lành cho Maria. Giáo Hội đã dùng lời ca ngợi của bà Isave biến thành lời cầu nguyện: Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng Bà, Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ… Đức Maria có phúc vì được Thiên Chúa ưu ái chọn lựa ban đầy ơn sủng. Đức Maria như bình gốm được Thiên Chúa tác thành theo thánh ý của Ngài. Đức Maria là một thụ tạo tuyệt vời để cộng tác vào công trình cứu độ. Mẹ đã cưu mang và sinh ra Đấng Cứu Thế.

Đấng Cứu Thế đã đến với đoàn dân của Ngài nhưng họ đã không nhận biết Ngài. Ngài đã hoàn thành mọi lời đã tiên báo và đã đi trọn con đường dâng hiến theo thánh ý của Chúa Cha. Thơ gởi tín hữu Do-thái đã ghi: Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con (Dt 10, 7). Sách Thánh này bao gồm toàn bộ những sách đã được linh ứng viết ra. Mỗi một cuốn sách dù dài hay ngắn đều có liên quan đến sứ mệnh của Đấng Cứu Thế. Công trình cứu độ được thực hiện qua sự hiến tế của Con Người là Đức Kitô, Đấng được xức dầu.Theo ý đó, chúng ta được thánh hoá nhờ Đức Giê-su Ki-tô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ (Dt 10, 10). Chúa Kitô đã đổ ra giọt máu cuối cùng để dâng lễ hy tế trên thánh giá. Lễ hiến dâng toàn vẹn bằng chính sự sống.

Cử hành Chúa Nhật thứ tư Mùa Vọng, Giáo Hội hướng dẫn chúng ta suy niệm về Mầu Nhiệm Con Chúa giáng thế làm Người. Chúa đã giáng trần tại Belem cách đây hơn 2000 năm rồi. Đây là biến cố duy nhất xảy ra trong lịch sử nhân loại. Chúa Giêsu Kitô đã thi hành trọn vẹn thánh ý Chúa Cha. Chúa Giêsu đã khiêm hạ bước xuống cùng tận cuộc đời. Chúa đã sống chung với các môn đệ nghèo hèn là những người lao động chài lưới và ít học. Chúa đã đi khắp các nẻo đường để gieo rắc tin mừng tình thương và chữa lành những tâm hồn dập nát đau thương. Chúa đã giao hòa con người tội lỗi và ban cho quyền làm con Thiên Chúa. Chúa đã học vâng phục và vâng phục cho đến cùng. Chúa Giêsu nói: Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài. Thế là Người bãi bỏ các lễ tế cũ mà thiết lập lễ tế mới (Dt 10. 9).

Lạy Chúa, biết bao lần con đã thề hứa sẽ sống đạo tốt và sống theo thánh ý Chúa. Rồi biết bao lần chúng con đã lại sa ngã, chối từ và tìm theo ý riêng mình. Xin Chúa ban ơn đảm để chúng con biết nói lời xin vâng và sống tín thác như Đức Maria. Lạy Chúa, này con xin đến để thực thi ý Chúa.

 

78. Chúa nhật 4 Mùa Vọng

(Suy niệm của Lm. GB. Phạm Hồng Thái)

Chúa nhật IV Mùa Vọng gần lễ Giáng sinh, Phụng vụ muốn chúng ta nhìn ngắm khuôn mặt Đức Maria, Người phụ nữ được Thiên Chúa chọn làm Mẹ sinh ra Đấng Thiên sai Cứu thế.

Bài Tin Mừng tường thuật Đức Mẹ đi thăm viếng Bà Elisabeth. Thánh Luca nói Đức Mẹ vội vã đi. Thái độ vội vã nói lên sự nhiệt tình của Đức Mẹ muốn mau chóng gặp bà chị để chia vui với Bà. Có phải Đức Mẹ đi thăm bà Elisabeth để kiểm chứng thông tin Thiên thần cho biết bà Elisabeh già mà nay có thai? Chắc chắc Đức Mẹ không có nghi ngờ lời thiên thần vì Mẹ có đức tin vững mạnh vào lời Chúa như Bà Elisabeth đã nói lên. Nhưng Đức Mẹ đi thăm để chia vui, để đem niềm vui đến cho gia đình ông bà Zacaria – Elisabeth. Vì thế mà chúng ta thấy đây là cuộc gặp gỡ của hai bà mẹ đang mang thai: một già, một trẻ và cũng là cuộc hội ngộ đầu tiên của hai thai nhi trong lòng mẹ là Gioan và Giêsu.

Đức Maria là vai em nên cất tiếng chào hỏi chị trước, nhưng vai trò này bà Elisabeth lật ngược lại ngay khi bà được Chúa Thánh Thần soi sáng nhận ra và nói lên:”Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa đến tôi đến thăm tôi ?” Maria là cô em nhỏ tuổi hơn bà rất nhiều nhưng nay đã trở thành Mẹ Chúa của Bà vì thế bà cảm thấy rất vinh dự không phải chỉ vì tình bà con họ hàng mà vì cô em được Thiên Chúa cất nhắc lên địa vị cao quí như vậy tới thăm bà.

Bà Elisabeth nói lên cái phúc mà cô em Maria được. Phúc đó trước hết là được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Đấng Thiên sai: “Em được chúc phúc giữa các người phụ nữ và Con lòng em được chúc phúc!” Nhưng Phúc Đức Maria có được là do bởi lòng tin nên bà nói thêm: “Phúc cho em là kẻ đã tin Lời Chúa phán cùng em sẽ được thực hiện”. Sau này khi Chúa Giêsu đi rao giảng Tin Mừng thì một phụ nữ cũng cất tiếng khen: “Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho thầy bú mớm “. Nhưng Chúa Giêsu còn bổ sung cái phúc lớn hơn của Đức Mẹ khi nói: ” Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa “(Lc 11, 27-28)

Chúng ta có thể coi cuộc gặp giữa hai bà Mẹ cũng là gặp gỡ của hai người con: Thai nhi sáu tháng trong lòng bà Elisabeth đã nhảy mừng trong lòng bà như lời bà nói: “Vì này tai tôi vừa nghe lời em chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi”. Mẹ Maria mang thai Chúa Giêsu đã đem ơn phúc và niềm vui đến cho bà và con trong lòng Bà. Vì thế truyền thống Giáo hội tin là Gioan được khỏi tội tổ tông từ giây phút này.

Trong sách Tông đồ Công Vụ có ghi lời Chúa Giêsu: “Cho thì có phúc hơn nhận (Cv 20, 35)”. Đức Mẹ đã cho gia đình bà Elisabeth tình thương qua sự vất vả lên đường đi thăm và nhất là món quà cao quí nhất là Chúa Giêsu trong lòng Đức Mẹ, nhưng Đức Mẹ cũng nhận được niềm vui và những trải nghiệm cao quí mà Đức Mẹ nói lên trong kinh Magnificat: linh hồn tôi ngợi khen Chúa. Chúng ta thấy lời thánh Fanxicô Assisi trong kinh Hòa Bình rất đúng với Đức Mẹ: “Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân”.

Trong gẫm thứ Hai Năm sự Vui, chúng ta đọc: “Thứ Hai thì gẫm: Đức Bà đi viếng bà thánh Isave. Ta hãy xin cho được lòng yêu người.” Đức tính nổi bật của Đức Mẹ ở đây là lòng Bác ái yêu người và hơn nữa Đức Mẹ còn thể hiện lòng yêu người bằng tinh thần phục vụ. Đức Mẹ ở lại với bà Elisabeth độ 3 tháng, tất nhiên là Đức Mẹ ở lại tới khi bà sinh hạ Gioan để Đức Mẹ giúp đỡ phục vụ bà chị; tinh thần phục vụ đó chúng ta còn thấy Đức Mẹ thể hiện trong tiệc cưới Cana khi Đức Mẹ nói với Chúa Giêsu: “Họ hết rượu rồi (Ga 2, 3)”… để sau đó đôi tân hôn có được đầy đủ rượu đãi khách và lại là Rượu ngon hơn rượu trước nữa.

Câu chuyện: Ông Alix 50 tuổi bị bệnh bất toại. Vợ ông chăm sóc cho ông nhưng bà cũng phải đi làm để nuôi gia đình. Mỗi ngày trước khi đi làm, bà đặt ông trên chiếc ghế bành, để một số sách báo ông đọc cho qua giờ. Thấy ông bệnh hoạn và cô đơn nên cha xứ tới thăm ông và cha cũng khuyến khích bà con trong giáo xứ  ai có thời giờ thì tới thăm ông. Có một bác sĩ trẻ hưởng ứng lời cha hằng tuần tới thăm và khám bệnh cho ông, rồi còn có hội đoàn công giáo tới thăm, giúp đỡ ông, đọc sách và hát những bài ca sinh hoạt cho ông nghe… nên ông cảm thấy được an ủi rất nhiều. Gần lễ Giáng sinh, ông xin Cha xứ cho ông được Rước Mình Thánh Chúa, thế nhưng ông là người ngoại đạo. Để đáp ứng nguyện vọng của ông, cha nhờ giáo lý viên cấp tốc dạy giáo lí cho ông, kết quả ông đã  được Rửa tội và Rước Mình thánh Chúa vào dịp lễ Giáng sinh.

Trong những ngày Mùa Vọng còn lại, chúng ta noi gương Đức Mẹ chuẩn bị tâm hồn đón mừng Chúa đến bằng cách sống tinh thần bác ái hi sinh, biết chia sẻ niềm vui cũng như nỗi đau của anh em đặc biệt là những người bị khốn khó do đại dịch Covid vẫn còn kéo dài. Như vậy Chúa sẽ vui mừng vì thấy lòng tin còn cháy sáng nơi tâm hồn chúng ta và Chúa sẽ ban nhiều ân phúc cho mỗi người chúng ta. Amen.

 

79. Niềm tin

Hôm nay Chúa nhật thứ IV Mùa vọng, Giáo Hội trình bày cho chúng ta về hình ảnh của Mẹ Maria như là mẫu mực của người có niềm tin. Sự hiện diện của Chúa Giêsu trong lòng Mẹ đã thúc đẩy Mẹ lên đường đi thăm viếng bà chị họ Isave. Qua biến cố đó, Mẹ Maria đã thực thi hai giới răn căn bản nhất trong đạo, đó là mến Chúa và yêu người.

Tình yêu Chúa phải là sức đẩy con người tìm đến với tha nhân. Trong tâm tình chuẩn bị mừng Chúa Giáng sinh, mỗi người chúng ta hãy nhìn lại cách sống của mình. Những chuẩn bị đón mừng Chúa đến của chúng ta có được cụ thể hóa bằng những sự đón tiếp chân thành mật thiết mà chúng ta đã dành cho tha nhân không? Những kẻ không nhà, không cửa, những người khốn khổ cùng tận có tìm được một chút nương tựa nơi lòng quảng đại của chúng ta không?

“Ngày ấy Maria chỗi dậy vội vã ra đi tiến lên miền núi, đến với một thành xứ Giuđêa, Bà vào nhà ông Dacaria và chào bà Isave”. Có lẽ ai trong chúng ta cũng đã quen thuộc với những dòng trên đây, khung cảnh đã trở thành đề tài cho không biết bao nhiêu tác phẩm nghệ thuật. Hai người thiếu phụ đang mang thai, có họ hàng với nhau, tìm đến gặp nhau để giúp đỡ nhau. Hơn nữa, Maria người em họ ở lại ba tháng với người chị họ của mình.

Chúng ta có thể tưởng tượng được những gì mà hai người đàn bà trao đổi cho nhau để giúp đỡ nhau, cũng như những lời tâm sự hỏi han mà họ chia sẻ cho nhau. Thế nhưng, thánh Luca tác giả đoạn Tin Mừng hôm nay đã không ghi lại một chi tiết nào về những giai thoại quí giá ấy. Nhưng trọng tâm của biến cố mà tác giả muốn nêu bật chính là sự hiện diện của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu tuy còn trong lòng Mẹ đã là nhân vật chính của bức tranh, Ngài chính là sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa dân Ngài. Đó là tất cả những gì mà thánh Luca muốn làm nổi bật nơi biến cố Đức Maria đi thăm viếng người chị họ Isave.

Lời chúc tụng của bà Isave và sự nhảy mừng của Gioan tẩy giả đã được thánh Luca ghi lại, gợi lên cho chúng ta việc dân Do thái kiệu hòm bia Thiên Chúa về thành thánh Giêrusalem. Vua Đavid vừa nhảy múa trước hòm bia của Thiên Chúa, vừa kêu lớn: “Bởi đâu hòm bia Thiên Chúa đến nhà tôi”.

Đối với người Do thái trong Cựu ước, hòm bia giao ước có chứa đựng mười giới răn, chính là biểu tượng về sự hiện diện của Thiên Chúa giữa dân Ngài. Mang Ngôi Hai Thiên Chúa trong lòng, Mẹ Maria cũng được ví như hòm bia của Thiên Chúa. Mẹ Maria chính là dấu chỉ sự hiện diện của Chúa với Giáo Hội. Nhờ Mẹ Maria, Thiên Chúa trở thành Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở với con người. Niềm vui no thỏa của bà Isave và hài nhi nằm trong lòng bà cũng phải là niềm vui của chúng ta trong Mùa Giáng Sinh này.

Hằng năm cứ đến Mùa Giáng sinh, Giáo Hội muốn mời gọi chúng ta sống một cách sâu sắc chân lý căn bản nhất trong niềm tin của mình: Đó là Thiên Chúa làm người để mặc cho cuộc sống của chúng ta một chiều kích thần linh.

Hai người chị em họ gặp gỡ nhau, hai người đàn bà trò chuyện với nhau, đó là chuyện thường ngày như cơm bữa trong cuộc sống của chúng ta. Thế nhưng, chính do sự hiện diện của Chúa Giêsu mà cuộc gặp gỡ thường ngày ấy đã trở thành một biến cố, hay đúng hơn thành một thể hiện của tình yêu Thiên Chúa đối với con người. Do đó tất cả mọi sinh hoạt của con người dù là những việc làm vô danh phiền toái nhất cũng đều có thể là một thể hiện của một tình yêu Thiên Chúa, cũng đều có thể là một loan báo Tin Mừng. Thánh Phaolô đã không ngừng nhắc nhở chúng ta: “Dù khi ăn, dù khi uống, dù khi làm việc gì, anh em hãy làm sáng danh Chúa”.

Chúng ta hiệp nhau trong thánh lễ ngày Chúa nhật để cử hành bí tích tình yêu của Thiên Chúa. Bánh Thánh và Rượu Thánh tượng trưng cho cả cuộc sống của chúng ta, cũng như bánh và rượu ấy sẽ trở thành Mình và Máu Chúa Giêsu, thì toàn thể cuộc sống của chúng ta cũng được Chúa đón nhận để trở thành nơi gặp gỡ giữa Ngài và con người.

Gặp gỡ Chúa Giêsu trong những phút ưu việt trong thánh lễ đã đành, con người còn gặp gỡ Chúa qua từng phút giây sinh hoạt trong cuộc sống. Bàn thờ không chỉ ở trong nhà thờ, bàn thờ còn là cả cuộc sống. Chính cuộc sống với không biết bao nhiêu phấn đấu và hy sinh cùng với những cố gắng tin yêu phó thác. Đó chính là bàn thờ để gặp gỡ Chúa và loan báo Tin Mừng của Ngài cho mọi người.

Mẹ Maria là người lữ hành đức tin kiểu mẫu. Mẹ mang Chúa Giêsu trong mình, Mẹ đã sống từng phút giây trong cuộc sống như một cuộc gặp gỡ triền miên với Chúa, với tha nhân. Mẹ đã chỉ cho chúng ta con đường phải đi, đó là sống một cách sung mãn từng phút giây hiện tại, biến một phút giây hiện tại và cuộc gặp gỡ thành một lời loan báo Tin Mừng của Chúa cho mọi người.

Nguyện xin Chúa Giêsu mà chúng ta đón nhận qua Bí tích Thánh Thể mang lại sức mạnh, để chúng ta cũng lên đường và sống như Mẹ Maria.

 

80. Chúa nhật 4 Mùa Vọng

(Suy niệm của Lm. Ga. Phan Tiến Dũng)

Kính thưa ACE, sứ điệp cũng như lời mời gọi từ các bài đọc lời Chúa hôm nay quy hướng chúng ta về nguồn ơn thánh của Chúa, hầu giúp chúng ta nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa cùng với những ơn ban của Ngài trong cuộc đời của mỗi người chúng ta trong từng hoàn cảnh sống. Thế nhưng, làm sao để nhận ra, làm sao để có thể cảm nghiệm và tin rằng có Thiên Chúa và ơn phúc của Ngài ban cho? Thật là phúc cho ai, dẫu phải sống trong cảnh thế sự thăng trầm, nhưng với con mắt đức tin, với tấm lòng khiêm tốn, rộng mở mới cảm nghiệm và tin nhận được những ơn thánh Chúa trong những dấu chỉ của thời đại. Vì Chúa đang đến với chúng ta, Ngài đang cùng đồng hành, hiệp thông, sẻ chia với chúng ta trong mọi biến cố của cuộc sống để ban ơn, chữa lành và cứu sống chúng ta.

Bài đọc hai (Dt 10, 5-10) tác giả thư gởi tín hữu Do Thái đã chia sẻ và mời gọi chúng ta cảm nghiệm rằng: Vì yêu thương, Thiên Chúa là Đấng đã đi bước trước khi ban tặng chính con một của Ngài cho chúng ta. Đức Kitô Giêsu, vì vâng theo thánh ý Thiên Chúa Cha “Này con xin đến để thực thi ý Ngài”, và thật vậy, Chúa Giêsu cũng đã vì yêu thương mà trở nên của lễ tinh tuyền đẹp lòng Chúa Cha trong mọi đàng. Vì qua của lễ là chính bản thân mình, đây là hy lễ tình yêu, hy sinh, tha thứ và cứu sống. Thật vậy, nhờ hiến tế là Chúa Giêsu, Ngài đã giao hòa Thiên Chúa với con người. Vậy thì, thật hạnh phúc cho ai là người sẽ đón nhận được những ơn phúc từ hiến lễ của Chúa Giêsu.

Bài đọc một (Mk 5, 2-5) Ngôn sứ Mikha mời gọi chúng ta hãy chiêm ngắm, gẫm suy những việc Thiên Chúa đã thực hiện. Từ chi tộc Giuda, Belem như là một thành thị nhỏ bé, thế nhưng đã được Thiên Chúa đoái thương, tuyển chọn, để từ nơi đây, Đấng Cứu Thế của nhân loại sẽ được sinh ra. Do đó, thật là hạnh phúc cho những ai biết tin tưởng, cậy dựa vào quyền năng cũng như sức mạnh ơn thánh Chúa, vì chính Chúa là Đấng sẽ đem lại cho họ bình an, niềm vui và hạnh phúc đích thực.

Tin mừng hôm nay (Lc 1, 39-45) cho chúng ta những mẫu gương tuyệt vời của những con người luôn biết sống khiêm tốn, mở lòng tin nhận trước ơn thánh Chúa, đó chính Maria và Elizabeth. Luca đã tường thuật lại cho chúng ta biết cụ thể hơn nơi con người và sứ vụ của Maria, Nữ Tì khiêm hạ, Đấng được đầy tràn ơn của Chúa Thánh Thần. Maria đã được tuyển chọn để trở nên Mẹ Đấng Cứu Thế.  Khi suy niệm về việc Chúa đã chọn Mẹ Maria, Thánh Ansenmo-Giám Mục đã ca ngợi rằng: “Không có Chúa Con, thì không có gì có thể tồn tại, và không có Con của Đức Maria, thì không ai được ơn cứu chuộc”. Thế nhưng, ơn ban trọng đại này được ban tặng cho Maria, không phải chỉ dành riêng cho Mẹ mà thôi, nhưng nhờ Mẹ, qua Mẹ, ơn Chúa cũng được trao ban và lan tỏa cho hết thảy mọi người là con cái của Mẹ.

Thật vậy, Tin mừng Luca đã minh chứng cách hùng hồn về ơn thánh cứu độ của Thiên Chúa: Bà Elizabeth và mọi thành viên trong gia đình đã được ơn phúc của Chúa do bởi Maria đã đem Chúa đến khi viếng thăm họ. Vì lòng tin và sự cảm nghiệm được niềm vui ơn thánh thế nên Elizabeth đã dâng lời ca tụng: “Bởi đâu thân mẫu của Chúa tôi đến viếng thăm tôi như thế này”. Ở đây, chúng ta có thể khẳng định rằng, ơn phúc của Chúa Thánh Thần đã được trao ban, lan tỏa cho Elizabeth, Gioan và Giacaria nhờ vào cuộc dấn thân ra đi, hay nhờ vào sự hiện diện, thăm viếng và phục vụ vì yêu thương của Maria. Quan trọng hơn, vì Đức Maria đã mang Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế trong cung lòng của mình đến cho nhân loại. Chính vì lẽ đó mà Gioan ngay cả khi chưa chào đời, dù còn trong cung lòng mẹ cũng đã được thánh hiến, chúc phúc bởi ơn Chúa. “Hài nhi Gioan đã nhảy mừng long lòng bà Elizabeth”.

Thưa ACE, hôm nay đây, chính Thiên Chúa đang tha thiết mời gọi chúng ta hãy sống noi gương bắt chước và hãy cố gắng để trở nên giống như Maria và Elizabeth, khi chúng ta biết khiêm tốn, vững tin, chấp nhận dấn thân ra đi phục vụ theo như thánh ý Chúa dưới sự soi sáng, hướng dẫn và thúc bách bởi Thánh Thần. Thiên Chúa luôn yêu thương hiện diện, cùng đồng hành sẻ chia mọi nỗi sướng-khổ, vui-buồn trong cuộc sống với chúng ta. Chúa hiện diện, không phải là Ngài sẽ cất đi gánh nặng, đau khổ cho chúng ta, nhưng chính Chúa sẽ gia tăng sức mạnh và ơn thánh để cùng vác phần nặng cho chúng ta, hay chính Ngài sẽ vác đỡ cho chúng ta. Thật vậy, chỉ có lòng tin mới cảm nghiệm được ơn thánh này trong bình an và hạnh phúc.

Lạy Chúa, cùng với Mẹ Maria, xin cho chúng con biết tin vào Chúa, biết dấn thân ra đi để yêu thương phục vụ. Như Mẹ đã đem Chúa đến cho gia đình bà Elizabeth, xin cũng giúp sức, soi dẫn chúng con đến với ACE mình qua sự hiện diện trong khiêm tốn đơn sơ phục vụ của chúng con. Amen.

 

81. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

“Tiếng người tôi yêu văng vẳng đâu đây, kìa chàng đang tới, nhảy nhót trên đồi, tung tăng trên núi “(Dc 2, 8).

Chúa nhật I Mùa Vọng, Giáo hội thắp lên một ngọn nến màu tím tượng trưng cho sự tha thứ của Adam và Evà, đồng thời cùng với con cái mình vươn tâm hồn lên tới Chúa (Ad Te levavi).

Chúa nhật II Mùa Vọng, Giáo hội mặc lấy tâm tình của dân Sion, tâm tình của người trong tư thế nghênh đón chờ Chúa đến (Populus Sion) và thắp lên ngọn nến thứ hai, tượng trưng cho Đức tin của của Áp-ra-ham và các tổ phụ, là những người đã tin rằng có những món quà Thiên Chúa dành cho trong vùng Đất Hứa.

Sang Chúa nhật III Mùa Vọng, niềm vui trào dâng, màu sắc Phụng vụ từ tím chuyển sang hồng, nhất là bài Ca nhập lễ lấy lại lời của Thánh Phaolô gửi tính hữu Philipphê: Vui lên anh em – Gaudete… Anh em hãy vui lên trong niềm vui của Chúa…vì Chúa dã gần kề. Giáo hội thắp lên một ngọn nến hồng, tượng trưng cho niềm vui của David có dòng dõi ông sẽ trường tồn vạn kỷ. Điều này đã chứng minh cho giao ước của Thiên Chúa

Và đây là Chúa nhật thứ IV Mùa Vọng, sự nóng lòng mong chờ Chúa đến được thể hiện thật rõ nét. Có lẽ dân chúng không thể nén lòng mà trông đợi được nữa, nên đã cất cao giọng, mong rằng tiếng họ kêu được thấu tời Trời: Rorate… Trời cao, hãy đổ sương xuống, và làm mưa, mưa Đấng Công Chính. Giáo hội thắp lên ngọn nến thứ tư, tượng trưng cho giáo huấn của các tiên tri đã loan báo một triều đại của công lý và hòa bình. Phụng vụ Lời Chúa diễn tả niềm vui của Dân Chúa: “Tiếng người tôi yêu văng vẳng đâu đây, kìa chàng đang tới, nhảy nhót trên đồi, tung tăng trên núi”(Dc 2, 8).

“Này đây Đức Vua đang ngự đến, nào chúng ta mau đến trước nhan Đấng Cứu Độ chúng ta” (Phụng vụ Mùa Vọng). Vua Sa-lô-môn cũng đã nói rõ: “Tựa nước mát khi cổ họng ráo khô. Nước bị đục, suối bị dơ, chính nhân bị kẻ gian ác làm nghiêng ngửa.(Cn 25,25). Quả thật, những lời trên loan báo Đấng Cứu Thế đến, Ngài đến để đem bình anh cho nhân loại, Ngài đến làm cho nhân loại hoà giải với Thiên Chúa Cha, quốc gia hòa giải quốc gia, người người hòa giải người người. Đúng như lời ngôn sứ Isaia loan báo: “Bước chân người loan báo tin mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ và nói với Xi-on rằng: “Thiên Chúa ngươi là Vua hiển trị”(Is 52,7)…

Giống như những sứ giả, loan báo dòng suối mát trong lành tuôn đổ xuống trên những tâm hồn khát của tc. Họ loan tin Thiên Chúa đến, Ngài là nguồn nước uống của chúng ta “Các bạn sẽ vui mừng múc nước tận nguồn ơn cứu độ.” (Is 12:3).

Chính vì thế mà dường như người mang tin như Đức Maria, tâm hồn Mẹ tràn ngập niềm vui khi nhận lại được những lời của bà Elisatbét,và người nhận được tin là bà Elisabét cũng có niềm vui khôn tả siết, nên đã thốt lên Thần: “Bởi đâu tôi được Thiên Chúa Mẹ Thiên Chúa tôi đến với tôi thế này? Lý do là cả người nhận lẫn người đưa tin đều vui mừng khôn sách, là vì cả hai đều đã được tưới gội bởi cùng một nguồn suối mát là chính Chúa Thánh Thần: Lúc đó, những tiếng vọng lên bên tai Mẹ Marai, thần trí tôi nhảy mừng trong Thiên Chúa Đấng Cứu Độ tôi.”

Vì thế, ngày nay nhân loại hân hoan vui mừng khôn tả siết khi sắp được gặp gỡ Chúa Kitô, và lấy lời Thánh Vịnh mà kêu lên với nhau rằng: “Hồn tôi hỡi, cớ sao phiền muộn, xót xa phận mình mãi làm chi? Hãy cậy trông Thiên Chúa, tôi còn tán tụng Người, Người là Ðấng cứu độ, là Thiên Chúa của tôi! (Tv 42,5)

Ước gì tâm hồn chúng ta ngày hôm nay, khi đang nô nức mừng kỷ niệm ngày sinh nhật của Con Một Chúa, và đón chờ Chúa đến làn thứ hai trong vinh quang của Thiên Chúa là Cha. Chúng ta cũng nhảy mừng hân hoan trong niềm vui của Chúa, và nô nức đến gặp Thiên Chúa niềm vui của lòng chúng ta và thân thưa với Ngài với những lời này: “Lạy Chúa, xin ban ơn cứu độ. Lạy Chúa, xin thương giúp thành công. (Tv 117,25-26).

Lễ Giáng Sinh đã gần kề, chắc chắn tâm hồn mỗi người tín hữu chúng ta cũng cảm nếm được niềm vui linh thiêng ấy khi thai nhi Gioan nhảy mừng trong lòng mẹ vì nghe lời chào của Đức Maria. Cuộc gặp gỡ diệu kỳ của một Vì Thiên Chúa và thánh Gioan Tiền Hô diễn ra trong cung lòng của hai bà mẹ. Đây quả là Tin Vui cho những ai mong đợi ngày cứu độ của Thiên Chúa.

Xin cho nhân loại khắp hoàn cầu cảm nhận được niềm vui ơn cứu độ khi cử hành lễ sinh nhật Con Chúa. Amen.

 

82. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng

(Suy niệm của Montfort Nguyễn Xuân Pháp. Ocist)

NIỀM VUI CỦA SỰ GẶP GỠ

  1. Tóm Lược Các Bài Đọc

Bài đọc 1: Mk 5, 1- 4

Từ nơi Bêlem Epratha, Thiên Chúa sẽ cho xuất hiện một vị có sứ vụ thống lãnh Israel. Bây giờ những người sống sót sẽ trở về. Người sẽ dựa vào uy danh Thiên Chúa mà đứng lên chăn dắt họ. Họ sẽ an cư lạc nghiệp, vì bấy giờ quyền lực của Người sẽ trải rộng đến tận cùng cõi đất. Chính Người sẽ mang lại hòa bình.

Bài đọc 2: Dt 10, 5- 10

Khi vào trần gian, Đức Giêsu nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, Chúa cũng chẳng ưa thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bây giờ con liền thưa, này con đến để thực thi ý Ngài. Thế là Đức Kitô bãi bỏ lễ tế cũ, mà thiết lập lễ tế mới. Nhờ đó, chúng ta được thánh hóa nhờ Đức Giêsu Kitô đã hiến dâng mạng sống làm lễ tế, chỉ một lần là đủ.

Bài đọc Tin Mừng: Lc 1, 39- 45

Hôm ấy Đức Maria vội vã lên đường, đến một miền núi thuộc chi tộc Giuđa. Bà vào nhà ông Dacaria và chào bà Elisabet. Vừa nghe tiếng Đức Maria chào thì đứa con trong bụng bà Elisabet nhảy lên vui sướng và được đầy tràn Thánh thần, bà lớn tiếng nói: Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ và người con em cưu mang cũng được chúc phúc. Em thật có phúc vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.

  1. Suy Niệm

Kinh Kính Mừng mà chúng ta vẫn đọc thường ngày là một lời kinh tuyệt đẹp giúp tâm hồn mỗi người luôn hướng về Chúa và không ngớt lời ca tụng tình thương cứu độ của Ngài. Lời kinh này được rút ra từ lời của bà Elisabet đã vui sướng thốt lên khi được Mẹ Maria viếng thăm: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em cưu mang cũng được chúc phúc” (Lc 1, 42). Mẹ Maria đến viếng thăm bà Elisabet không chỉ mang theo mình tình thương máu mủ, mà trên hết, mang Chúa đến cho nhà chị họ. Nhờ đó, bà Elisabet rất đỗi vui mừng, và hài nhi trong bụng cũng mừng vui khôn xiết, đến nỗi “nhảy lên” trong bụng mẹ. Sự hiện diện của Mẹ Maria cùng với thai nhi Giêsu đã biến đổi hai mẹ con bà Elisabet, khiến cả hai được đầy ơn Chúa Thánh thần vì nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa nơi cuộc đời mình.

Tới đây, chúng ta cùng nghe thánh Ambrosia nhận nói thật sâu sắc về biến cố này: “Bà Elisabet là người đầu tiên nghe tiếng nói, nhưng Gioan lại là người đầu tiên cảm nhận được ân sủng. Bà mẹ theo lẽ tự nhiên, nhưng cậu con trai nhảy mừng vì lẽ mầu nhiệm. Bà mẹ đón nhận Đức Maria đến thăm, còn người con lại cảm thấy Chúa ngự đến. Phụ nữ tiếp đón phụ nữ, con trẻ tiếp đón con trẻ. Hai bà mẹ nói với nhau những lời thân ái, còn hai người con lại hoạt động ở bên trong làm cho các bà tăng thêm lòng yêu mến và nhờ phép lạ đó, dưới sự thúc đẩy của hai người con, các bà cất tiếng ca tụng Thiên Chúa”. Niềm vui của bà Elisabet và thai nhi Gioan có được không do bởi sự quan tâm đặc biệt của Mẹ Maria, mà là nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Mẹ; điều này mang lại niềm vui đích thực và sự bình an.

Trong chiều hướng đó, Chúa cũng muốn mỗi người đến với người khác bằng hành trang của Tin Mừng yêu thương. Có thế, chúng ta mới tránh được những cuộc gặp gỡ vô bổ, và có nguy cơ đưa đến chia rẻ, hiềm khích nhau. Thực tế phũ phàng này, chúng ta vẫn thường thấy trong cuộc sống: có những cuộc gặp gỡ chỉ để lợi dụng nhau, có những cuộc gỡ chỉ biết nói xấu về người khác,  có những lần gặp gỡ để rồi cùng nhau dẫn đến con đường tội lỗi. Những hệ lụy tiêu cực của các lần gặp gỡ này là do thiếu vắng sự hiện diện của Thiên Chúa. Chúng ta gặp nhau chỉ để bàn thảo những gì có lợi cho bản thân, hay bới móc những tật xấu để hạ nhục người khác. Sở dĩ có như thế, vì chúng ta đã đặt Thiên Chúa vào một gốc khuất của cuộc sống để rồi trong các dư tính, gặp gỡ thiếu đi tiếng nói của Ngài.

Là Kitô hữu, chúng ta được mời gọi nhìn lại mẫu gương tuyệt vời của Mẹ Maria: mang Chúa đến với những người mình gặp gỡ bằng một tình yêu chân thật để xoa dịu những nỗi đau nơi tâm hồn và thể xác hầu giúp họ tìm lại sự an bình, niềm vui nội tâm và xây dựng cuộc sống có ý nghĩa. Thiên Chúa muốn dùng bản thân chúng ta để đến với tất cả mọi người: đến với những người thân thuộc để giúp đỡ và thương yêu; đến với  những ai đang mê muội để khuyên lơn, cảnh tỉnh họ; đến với những người đau khổ để vỗ về và khuyến khích; đến với những người bệnh tật, già yếu neo đơn để đồng hành và chăm sóc họ; đến với những con người tội lỗi để dẫn đưa họ về nẻo đường cứu độ. Qua chúng ta, Thiên Chúa muốn yêu thương người khác bằng trái tim của mình, muốn biểu lộ tình yêu cho họ. Nói cách khác, Thiên Chúa muốn chúng ta trở thành hiện thân của tình yêu trao ban, của sự bao dung và tha thứ với tất cả sự chân thành và quảng đại.

Lạy Chúa, xin cho mỗi bước đi của chúng con đều để lại nơi cuộc đời này những dấu vết của hy vọng, tha thứ, của sự bình an và hạnh phúc để trong mọi sự Thiên Chúa được tôn vinh.

 

83. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng

MỞ RỘNG TÂM HỒN ĐÓN CHÚA GIÁNG SINH

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Sau khi đã ngưng nghỉ nhìn lại chặng đường đã qua với niềm vui vì những gì đã đạt được, nay lễ Giáng sinh đã gần kề, tâm hồn chúng ta rạo rực hẳn lên, thôi thúc chúng ta phải làm hết sức những gì có thể để hưởng trọn vẹn niềm vui ngày Con Chúa ra đời.

Lời của ngôn sứ Mikha lôi kéo chúng ta hướng nhìn về Belem, châu thành bé nhỏ của nước Giuđê, chứng tá của một biến cố vĩ đại: “Hỡi Bêlem Ephrata, ngươi nhỏ nhất trong trăm ngàn phần đất Giuđa, nhưng nơi ngươi sẽ xuất hiện một Đấng thống trị Israel, và nguồn gốc Người có từ nguyên thuỷ, từ muôn đời” (Mk 5,1). Một ngàn năm trước Chúa Kitô giáng sinh, Bêlem đã là sinh quán của Ðavít đại vương, mà Kinh Thánh trình bày như là tổ tiên của đấng Mêsia. Tin Mừng thánh Luca thuật lại rằng, Chúa Giêsu đã sinh ra tại Bêlem bởi vì ông Giuse, chồng của bà Maria, “thuộc dòng dõi Ðavít” phải trở về nơi ấy để kiểm tra dân số, và chính vào lúc đó Maria đã hạ sinh Hài Nhi Giêsu (x. Lc 2,1-7).

Hôm nay thánh Luca tiếp tục giới thiệu cho chúng ta hai nhân vật là Đức Maria và người chị họ là Isave như hai mẫu gương tiêu biểu cho người thủ đắc niềm vui vì có Chúa, đồng thời mời gọi chúng ta cần phải có thái độ nội tâm xứng đáng giống hai bà với đức tin năng động, để chiêm ngắm sự kiện nhập thể và giáng sinh của Con Một Chúa.

Isave, với sự khiêm tốn chân thành, “được đầy Chúa Thánh Thần, bà kêu lớn tiếng rằng: “Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng Bà được chúc phúc! Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm tôi?” (Lc 1,41-43). Nhờ tin mà Isave được Chúa Thánh Thần mách bảo cho biết, Maria người em họ mình là mẹ Thiên Chúa của bà. Bà cũng không ngần ngại tuyên xưng niềm vui của đức tin với Đức Maria: “Phúc cho Bà là kẻ đã tin” (Lc 1,45).

Đây là một thái độ đức tin mà chúng ta phải sống trong những ngày này. Noi gương Đức Maria và bà Isave, với một đức tin năng động. Chúng ta phải bày tỏ lòng biết ơn và niềm vui có đức tin của chúng ta. Giống như Đức Maria, chúng ta phải thể hiện bằng việc chúng ta làm. “Maria chỗi dậy, vội vã ra đi tiến lên miền núi, đến một thành xứ Giuđêa. Bà vào nhà ông Dacaria và chào bà Isave” (Lc 1,39-40), để chúc mừng và giúp đỡ người chị họ (Lc 1,56).

Thật là hữu ích cho những ngày này, chúng ta suy tư về trình thuật cuộc găp gỡ lịch sử giữa hai bà mẹ đang mang thai là Đức Maria và bà chị họ là Isave. Hai bà mẹ tràn ngập niềm vui. Niềm vui của Đức Maria là niềm vui có Thiên Chúa ở cùng. Niềm vui ấy lan tỏa sang bà Isave. Bà Isave vui với niềm không ai có được là Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm. Chính lời chào của Mẹ Maria, kẻ đã tin, làm cho Isave ngập tràn vui sướng, đến hài nhi cũng nhảy mừng trong lòng bà (x. Lc 1, 39-45).

Quả là một mầu nhiệm tuyệt vời! Gioan chưa sinh ra, ông đã cất lời tiên báo; thậm trí ông còn chưa thể cất tiếng khóc chào đời, ông đã bắt đầu nghe bằng hành động; sống đời rao giảng về Thiên Chúa; chưa thấy ánh áng, ông đã chỉ cho người ta thấy mặt trời; ông còn chưa lọt lòng mẹ đã nhanh nhẹn thi hành sứ mạng tiền hô, đi trước Chúa và loan báo cho mọi người biết: Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội của trần gian (Ga 1, 29).

Có người hỏi: Thưa ông Gioan, hãy nói cho chúng tôi biết, lúc ông còn trong dạ mẹ, làm thế nào để ông thấy được và nghe được? Làm thế nào để ông nhìn thấy mọi sự của Thiên Chúa? Làm thế nào ông có thể nhảy mừng trong dạ mẹ vì vui sướng? Gioan trả lời: đây là mầu nhiệm vĩ đại được hoàn thành, là hành động vượt quá sự hiểu biết của con người. Luật tốt hảo tôi phải đổi mới trong trật tự thiên nhiên vì người phải đổi mới trong trật tự siêu nhiêu. Tôi đã thấy, ngay cả khi tôi chưa sinh ra, vì tôi cám thấy chứa đựng Mặt Trời công chính (Ml 3, 20). Tôi cảm nhận được bằng thính giác, bởi vì đi vào thế giới. Tôi là tiếng kêu trước của Ngôi Lời. Tôi kêu lên, vì tôi thấy Đấng tạo dựng vũ trụ nhận thấy thân phận con người. Tôi nhảy mừng,vì tôi nghĩ rằng Đấng Cứu Chuộc thế gian đã mặc lấy xác phàm. Tôi là Tiền Hô đi trước Người và làm chứng cho Người.

Đức Maria với niềm vui diễm phúc ngập tràn, vì Mẹ đã tin, đức tin của Mẹ hệ tại việc lắng nghe Lời Chúa để phó thác cho Lời của Chúa trong thái độ hoàn toàn sẵn sàng trong tâm trí. Qua lời thưa “Xin vâng” tràn đầy niềm tin, Mẹ ý thức rằng, chính Thiên Chúa yêu cầu và Mẹ hoàn toàn tín thác nơi Chúa và phó thác cho tình yêu Chúa.

Biết bao lần Chúa đi qua cuộc đời chúng ta và bao nhiêu lần Chúa gửi một thiên thần đến với chúng ta: bao nhiêu lần chúng ta không ý thức điều đó, vì chúng ta quá bận rộn và chìm đắm trong những công việc của mình.

Ngày hôm nay, cũng như vào thời Chúa Giêsu, lễ Giáng sinh là lời đáp trả của Thiên Chúa cho nhân loại đang cầu mong hòa bình. Ngôn sứ nói về đấng Mesia như là “Người sẽ đem lại hòa bình cho chúng ta”. Phần chúng ta, chúng ta hãy mở rộng cửa để đón tiếp Người. Chúng ta hãy học hỏi Ðức Maria và thánh Giuse cũng như bà Isave: nhờ đức tin, chúng ta hãy phục vụ kế hoạch Thiên Chúa. Mặc dù không hiểu biết tường tận kế hoạch ấy, nhưng chúng ta hãy ký thác cho Thiên Chúa là Ðấng khôn ngoan và tốt lành. Tiên vàn chúng ta hãy tìm Nước Chúa, và Chúa Quan phòng sẽ giúp đỡ chúng ta. Chúng ta hãy sửa soạn tâm hồn để có một chỗ xứng đáng, nơi Chúa Giêsu Hài Ðồng cảm thấy mình được đón tiếp với đức tin và tình thương!

 

84. Chúa nhật 4 Mùa Vọng

(Suy niệm của Jaime L. Waters – Nhóm dịch Sao Biển chuyển ngữ)

CHÚNG TA CÓ THỂ GIÚP ĐỠ PHỤ NỮ NHƯ THẾ NÀO?

Khi gần kết thúc Mùa Vọng, bài Tin mừng hôm nay lại càng thôi thúc chúng ta cảm nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc sống cá nhân và đáp lại tiếng Chúa khi được mời gọi bước vào những hướng đi mới, đầy thử thách.

Bài Tin mừng là một câu chuyện độc đáo của thánh Luca khi mô tả Đức Maria đến thăm người chị họ là bà Êlisabeth. Nghệ thuật tôn giáo thường mô tả cuộc gặp gỡ cũng được gọi là cuộc thăm viếng này bằng cách khắc họa Đức Maria và bà Êlisabeth đang trò chuyện, đôi khi có thể thấy rõ là họ đang mang thai, tay đang đỡ bụng hoặc đang ôm hôn nhau. Những diễn tả nghệ thuật như thế thường làm nổi bật sự hân hoan, ngạc nhiên và vui mừng của hai người phụ nữ, vì mỗi người đều đang chờ mong một đứa con ngoài sự mong đợi của mình.

Cảnh tượng bài Tin mừng gây ấn tượng mạnh vì một số lý do. Cả hai việc thụ thai này đều được Thiên Chúa định đoạt và hoàn thành. Trước đó trong Tin mừng, thánh Luca nói rằng bà Êlisabeth son sẻ , và còn nhấn mạnh rằng bà đã lớn tuổi, nghĩa là đã quá tuổi để có thể thụ thai. Tuy nhiên, sứ thần Gabriel hiện ra với ông Dacaria – chồng bà, báo tin rằng bà sẽ sinh một con trai và đặt tên là Gioan. Bà đã thụ thai và sống ẩn dật trong năm tháng. Thánh Luca không nói rõ lý do vì sao bà phải ẩn mình. Có lẽ là để bảo vệ và tránh tiết lộ cho người khác biết bà mang thai, những thận trọng này có thể gợi lên sự bất an về thời gian đứa trẻ sẽ sinh ra.

Khi bà Elisabeth mang thai được sáu tháng, một trinh nữ là Maria được thiên thần Gabriel đến viếng thăm, báo tin cô sẽ thụ thai và sinh một con trai, đặt tên là Giêsu. Đức Maria cũng được thông báo về việc bà Êlisabeth mang thai. Mặc dù hoàn cảnh sinh học của bà Elisabeth [tuổi già] và cô Maria [chưa về chung sống với Giuse] khiến việc mang thai khó xảy ra, nếu không muốn nói là không thể, cả hai người phụ nữ đều mang thai qua việc Thiên Chúa loan báo và hành động. Trong Tin mừng hôm nay, hai chị em họ gặp gỡ nhau và vui mừng về đặc ân từ Thiên Chúa và về người con mình đang cưu mang.

Câu chuyện cho chúng ta một ví dụ trong Kinh thánh về việc Thiên Chúa chủ động can dự vào lịch sử nhân loại. Ngài thay đổi cuộc đời và gia đình của hai phụ nữ này, đồng thời cũng kêu gọi họ hãy đón nhận việc mang thai, vì cuối cùng việc cưu mang này sẽ ảnh hưởng đến toàn thế giới.

Việc Đức Maria chấp nhận lời mời gọi của Chúa là điều đáng chú ý và ngưỡng mộ, đặc biệt với tư cách là một phụ nữ trẻ đã đính hôn. Bất chấp sự thay đổi bất ngờ trong cuộc sống của mình, câu trả lời của Đức Maria vẫn cho thấy sự đón nhận đầy cởi mở của Mẹ đối với ơn gọi này: “Vâng, tôi đây… xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”.

Phản ứng của bà Êlisabeth trước với việc mang thai có liên hệ đến nhiều phụ nữ và cho thấy có những nỗi đau ẩn tàng khi liên hệ đến bài đọc hôm nay. Khi thụ thai, bà Êlisabeth đã đáp lại bằng cách nói: “Chúa đã làm cho tôi như thế đó, khi Người thương cất nỗi hổ nhục tôi phải chịu trước mặt người đời”. Nhiều phụ nữ, trong quá khứ hay hiện tại, đều cảm thấy xấu hổ và thiếu thốn vì không có con. Vào thời xa xưa (và thậm chí đối với một số người ngày nay), những khó khăn trong việc sinh nở và thụ thai được coi là vấn đề do lỗi của người nữ. Người ta xem phụ nữ như bị Chúa “lãng quên” nếu họ không thể mang thai, và việc mang thai kỳ diệu được cho là Chúa đã “nhớ đến” họ.

Nhiều phụ nữ hy vọng được vui mừng khi mang thai như thái độ của Đức Maria và bà Êlisabeth trong bài Tin mừng hôm nay, tuy nhiên một số khác sẽ không bao giờ có cơ hội đó. Chúng ta phải ý thức về cách mà đoạn Tin mừng này có thể truyền cảm hứng, làm phong phú đời sống thiêng liêng của chúng ta nhưng đồng thời cũng có thể gây ra các phản ứng và cảm xúc đa dạng. Thay vì tập trung vào cách người khác sẽ đánh giá về việc mang thai bất ngờ của họ, Đức Maria và bà Êlisabeth hỗ trợ lẫn nhau. Ngày nay, chúng ta phải đối mặt với nhiều thách thức và cuộc tranh luận qui về phụ nữ và cơ thể của họ. Bài Tin mừng nhắc nhở chúng ta hãy lắng nghe những trải nghiệm phức tạp của nữ giới, biết chăm sóc và đồng cảm với họ nhiều hơn.

 

85. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng

(Chú giải, Suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long, OFM.)

ĐỨC MARIA VIẾNG THĂM BÀ ÊLISABÉT

1.- Ngữ cảnh

Trong phần tường thuật về thời thơ ấu, tác giả Lc bố trí ba giai thoại: loan báo Gioan chào đời (Lc 1,5-25), loan báo Đức Giêsu chào đời (1,26-38) và Đức Maria đi thăm bà Êlisabét (1,39-56). Truyện thứ ba này giả thiết có hai truyện đầu và bổ sung cho hai truyện đó. Truyện thứ ba này đóng vai trò nối kết hai truyện trước, đặc biệt liên kết cc. 24-25 với cc. 36-37. Đã soạn thảo bài tường thuật về loan báo Gioan chào đời, sau đó, mô phỏng theo bài ấy mà soạn ra bài nói về loan báo Đức Giêsu chào đời, nay tác giả Lc dùng giai thoại Đức Maria đi thăm viếng bà Êlisabét để liên kết truyện hai lời loan báo cách chặt chẽ hơn. Câu truyện ở 1,5-24a được tiếp nối với 1,57-66.

Trong giai thoại trước, sứ thần cho biết: “Quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng [episkiasei] trên bà” (1,35). Tác giả đã mượn lại hình ảnh Đám mây sáng che phủ Nhà Tạm (Xh 40,35: “Ông Môsê không thể vào Lều Hội Ngộ vì đám mây đậu/rợp bóng [epeskiazen] trên đó, và vinh quang Đức Chúa đầy tràn Nhà Tạm”) tượng trưng cho sự hiện diện vinh quang của YHWH (Đức Chúa) với Israel để nói về Đức Maria lúc này: người được coi như là Hòm Bia Giao ước.

2.- Bố cục

Bản văn có thể chia thành hai phần:

1) Đức Maria gặp bà Êlisabét (1,39-41);

2) Bà Êlisabét ca ngợi Đức Maria (1,42-45):

3.- Vài điểm chú giải

– Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ (42): Trong Cựu Ước, có hai người phụ nữ được chào như thế: bà Giaên (Tl 5,24) và bà Giuđitha (Gdt 13,18). 

– đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy tràn Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng … Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? (41.42.43): Tác giả Lc đã dựa vào 2 Sm 6 (vua Đavít chuyển Hòm Bia về Giêrusalem), 1–2 Sb và sách Giuđitha để viết 1,39-56: Đức Maria là “Hòm Bia giao ước” mới cũng đang di chuyển về phía nam (Giuđa).

2 Sm 6

Trong xứ Giuđa (2)

Dân vui

Đavít nhảy mừng

Dân reo

Vào nhà Ôvết Êđôm (10)

Hòm Bia: nguồn phúc  (11-12)

Bởi đâu tôi được Hòm Bia Đức Chúa đến nhà tôi? (9)

Ở nhà Ôvết Êđôm ba tháng (11)

Lc 1,39-56

Trong xứ Giuđa

Êlisabét và con vui

Gioan nhảy mừng (44)

Êlisabét reo, anephônêsen (42)

Vào nhà Dacaria (40)

Maria:nguồn phúc (41.44)

Bởi đâu tôi được thân mẫu Chúa tôi đến với tôi? (43)

Ở với bà Êlisabét độ ba tháng (56)

– Kêu lớn tiếng (42): Động từ anephônêsen (“reo”) chỉ được dùng để chỉ những tiếng tung hô trong phụng vụ (1 Sb 16,45.42) và đặc biệt trong cuộc di chuyển Hòm Bia (1 Sb 15,28 và 2 Sb 5,13).

– Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc (42): Ở đây tác giả đặt song đối Đức Maria với Gđt 13,18-19, như thế ám chỉ Đức Giêsu là Thiên Chúa:

Gđt 13,18-19

Bà được chúc phúc…

giữa tất cả các phụ nữ

Đức Chúa là Thiên Chúa

được chúc phúc (eulogêmenos)

Lc 1,42

Em được chúc phúc…

hơn mọi người phụ nữ

quả lòng dạ em cưu mang

được chúc phúc (eulogêmenos)

– Lc 1,5–2,22 là một chuỗi các thời điểm tác giả Lc nêu ra để chứng tỏ các lời ngôn sứ đã ứng nghiệm: Tác giả đã muốn nối kết biến cố sứ thần Gabrien hiện ra ở Đền Thờ với việc Đức Giêsu tỏ mình ra cũng tại đấy bằng một con số huyền bí (70 tuần 7 ngày):

– 6 tháng (Lc 1,26.36) kể từ khi Dacaria được báo tin tới khi Maria được báo tin:

30 ngày x 6          = 180 ngày

– 9 tháng kể từ khi Đức Maria được truyền tin đến khi Đức Giêsu chào đời:

30 ngày x 9          = 270 ngày

– 40 ngày kể từ khi Đức Giêsu chào đời cho đến khi được tiến dâng:

= 40 ngày

Tổng cộng:  = 490 ngày

= 70 tuần 7 ngày.

Thế mà theo lời sấm Đn 9,21-24, sau 70 tuần, Israel sẽ được thanh tẩy khỏi các tội và Đền Thờ Giêrusalem sẽ được tái cung hiến (thời vua Antiôkhô IV Êpiphanê / Giuđa Macabê). Lc muốn cho thấy rằng việc Đức Giêsu được tiến dâng trong Đền Thờ đã khởi sự việc “Vinh quang” của Thiên Chúa (x. cụ Simêôn gọi Đức Giêsu là “vinh quang của Ít-ra-en”) đến cư ngụ vào thời cánh chung để thanh tẩy Đền Thờ và Israel. Việc này cũng làm ứng nghiệm lời ngôn sứ Malakhi (3,1).

– Em thật có phúc, vì đã tin (45): Nhận định khiến độc giả nghĩ ngay đến Abraham, vị tổ phụ đã mở đầu lịch sử cứu độ bằng hành vi đức tin (x. St 12,1-5).

4.- Ý nghĩa bản văn

Trong cuộc gặp gỡ giữa Đức Maria và bà Êlisabét, tác giả Lc cho thấy kinh nghiệm của một người phàm lần đầu tiên hiểu ra điều gì đã xảy ra cho Đức Maria và phản ứng khi hiểu được điều ấy. Ở tại trung tâm, có Thiên Chúa và hoạt động của Người đối với Đức Maria, nơi Mẹ mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa đã được thực hiện.

* Đức Maria gặp bà Êlisabét (39-41)

Khi đã được biết rằng người chị họ của mình đã mang thai trong tuổi già, Đức Maria đã vội vã đi lên miền núi. Chuyến đi không dễ dàng, nhưng người vẫn vội vã. Có thể nói, với cuộc Nhập Thể của Con Thiên Chúa, chuyến đi dài được tác giả của tác phẩm hai tập là Lc và Cv trình bày dọc theo tác phẩm, đã bắt đầu. Con Thiên Chúa từ trời đã xuống trần gian, rồi Người đi từ Nadarét lên Giêrusalem, còn các môn đệ của Người sẽ đi từ Giêrusalem, qua Samaria, và đến tận cùng trái đất, tất cả các đấng đều vội vã, dù gặp biết bao khó khăn.

Là Hòm Bia của giao ước mới, Đức Maria mang trong lòng mình “Con Đấng Tối Cao” (1,32), là Đấng mạc khải, là nguồn ơn phúc, là nguyên do đưa lại niềm vui. Đức Maria vội vã đưa Đức Kitô đến với những người khác. Đức Maria đi trong tư cách là người tin vào lời Thiên Chúa qua trung gian sứ thần Gabriel.

* Bà Êlisabét ca ngợi Đức Maria  (42-45)

Cuộc gặp gỡ với giữa Đức Maria với bà Êlisabét nhắc lại cuộc gặp gỡ giữa người với sứ thần Gabriel: cả hai vị đều nhận định người đầy ơn phúc. Thiên Chúa đã chúc phúc cho người; phúc lành của Thiên Chúa tiếp tục ở trên người. Thiên Chúa đã chúc phúc cho người cùng với hoa quả lòng người. Phúc lành của Thiên Chúa là quyền lực và sức mạnh làm cho có thể có sự sống và bảo tồn sự sống. Đức Maria là người “được chúc phúc” theo cách đặc biệt: quyền năng sáng tạo của Thiên Chúa đã làm cho người có khả năng chuyển thông sự sống nhân loại cho Đức Giêsu: Người là Con Thiên Chúa, cũng là Chúa tể sự sống, sẽ chiến thắng cái chết và ban sự sống vĩnh cửu. Tiếng kêu lớn của bà Êlisabét là một lời ca tụng hành động của Thiên Chúa, nhưng cũng diễn tả một nỗi kinh ngạc chan chứa niềm vui đối với Maria, người đã được Thiên Chúa làm cho những việc cao cả như thế.

Bà Êlisabét diễn tả nhận định của bà về cách xử sự của Đức Maria: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”. Trong Cựu Ước, có hai người phụ nữ được chào bằng những lời này, đó là bà Giaên (Tl 5,24) và bà Giuđitha (Gdt 13,18). Các bà đã đánh bại các đoàn quân áp bức dân các bà. Kinh Thánh không tường thuật những gì các bà đã làm hầu chuẩn nhận cho chiến tranh, nhưng để cho thấy Thiên Chúa có thể làm những việc kỳ diệu bằng cách dùng những con người không phù hợp về phương diện loài người, những con người không có uy lực. Khi ghi nhận bà Êlisabét chào Đức Maria như vậy, tác giả Lc bảo chúng ta rằng Đức Maria thuộc về một hạng người, tuy bị coi là không phù hợp, lại được Thiên Chúa dùng mà đưa lại ơn cứu độ cho chúng ta. Qua Đức Maria, Thiên Chúa đã làm một việc phi thường nhất trong lịch sử: Ngài ban cho chúng ta Con của Ngài. Nếu Đức Maria được như thế, thì chỉ do cốt yếu và trước tiên Mẹ là người đã tin. Cách đối xử của Thiên Chúa đối với Đức Maria được diễn tả bằng ân sủng và phúc lành; cách đối xử của Đức Maria đối với Thiên Chúa được diễn tả bằng lòng tin. Đức Maria đã tin vào Thiên Chúa, vào giá trị của lời Người, quyền năng của Người. Đức Maria đã diễn tả niềm tin đó qua tiếng “xin vâng” với sứ điệp của sứ thần. Lịch sử dân Israel mở ra với hành vi đức tin của Abraham; lịch sử cứu độ thế giới mở ra với hành vi đức tin của Đức Maria.

Bà Êlisabét nói tiếp: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” (c. 43). Lời này cũng được lấy từ Cựu Ước. Đavít dùng những lời này khi Hòm Bia Giao ước được di chuyển về Giêrusalem. Ông đã reo lên: “Hòm Bia Đức Chúa đến với tôi thế nào được?” (2 Sm 6,9). Có những chi tiết khác liên kết cuộc viếng thăm của Đức Maria với Hòm Bia Giao ước. Cả Đức Maria và Hòm Bia ở lại “ba tháng” trong miền Giuđê; Hòm Bia được đón tiếp trong niềm vui và lễ mừng, và đưa phúc lành đến gia đình đã nhận lấy Hòm Bia (2 Sm 6,10-11); khi Đức Maria vào nhà Dacaria, trẻ Gioan (đại diện cho dân Cựu Ước đang trông chờ Đấng Mêsia) đã nhảy lên vui sướng.

Phần Đức Maria, người vẫn tiếp tục sống thân phận nữ tỳ: không chỉ đến thăm bà Êlisabét, nhưng còn ở lại ba tháng, để phục vụ.

+ Kết luận

Bà Êlisabét gặp Đức Maria. Cuộc gặp gỡ đầu tiên của một con người với mẹ của Đức Chúa như tác giả Lc mô tả, hoàn toàn đơn giản và thanh thoát. Cuộc gặp gỡ này chan hòa niềm tâm tình phấn khởi và niềm vui tươi hân hoan. Bà Êlisabét tự giới thiệu cho chúng ta như là người đã tôn kính Đức Maria trước tiên. Bằng những lời “em được chúc phúc”, “Thân Mẫu Chúa tôi”, “em thật có phúc”, bà phác họa những đường nét chính của dung mạo Đức Maria: công trình của Thiên Chúa nơi người, tương quan của người với Chúa Giêsu Kitô, thái độ của người đối với Thiên Chúa. Tất cả những điều này, bà Êlisabét hiểu được nhờ Chúa Thánh Thần soi sáng. Cuộc gặp gỡ này đã là cơ hội cho phép bà có một kinh nghiệm hết sức mạnh mẽ và một niềm vui thật chan hòa.

Một điều quan trọng hơn nữa, đó là khi giới thiệu tư cách đặc biệt của Đức Maria, bà Êlisabét không ngờ đang đưa chúng ta đến chỗ đối diện với Đấng mà Đức Maria đang cưu mang trong lòng: Người không những là Đấng Mêsia thuộc dòng tộc Đavít, là Con Đấng Tối Cao, mà cũng là Đấng Thánh, là Con Thiên Chúa.

Đàng khác, tác giả Lc muốn chúng ta thấy Đức Maria như là Hòm Bia Giao ước. Thiên Chúa đã chọn không ở trong một tòa nhà, nhưng ở trong lòng dạ một người phụ nữ.

5.- Gợi ý suy niệm

  1. Phần thứ nhất của Kinh Kính Mừng hoàn toàn lấy từ Tân Ước, liên kết các lời nói đầu tiên của thiên thần (“Kinh mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng bà”) với những lời nói đầu tiên của bà Êlisabét (“Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ, và Giêsu con lòng bà gồm phúc lạ”). Sứ thần đã gọi Đức Maria là “đầy ơn phúc”; bà Êlisabét đã gọi người là “có phúc lạ” (= được chúc phúc). Cả hai vị đều diễn tả trước hết quan hệ Thiên Chúa tạo ra với Đức Maria, cách thức Người ngỏ lời với Đức Maria. Tất cả những gì người ta có thể nói về Đức Maria tùy thuộc tương quan này. Đức Maria vui sướng được sống trong tương quan này. Chúng ta có sống với lòng biết ơn trong sự lệ thuộc vào Thiên Chúa chăng?
  2. Đức Maria được bảo là “có phúc” vì người đã tin rằng lời Chúa hứa với người sẽ được hoàn tất (c. 45). Thiên Chúa đã hứa biết bao điều qua các ngôn sứ? Khi thấy rằng các lời hứa của Thiên Chúa chậm được thể hiện, dân nghi ngờ Thiên Chúa. Họ đã đặt niềm tin tưởng vào chính họ, nên đã kết thúc trong thất bại. Đức Maria “có phúc” vì đã tin tưởng vào Thiên Chúa. Mẹ biết rằng cho dù bề ngoài thế nào, Lời Chúa sẽ được thực hiện.
  3. Đức Maria đã cưu mang Con Đấng Tối Cao (1,32), Con Thiên Chúa (1,35) và sẽ sinh hạ Người ra. Do đó, Mẹ là “Thân Mẫu Đức Chúa”. Như bà Êlisabét đã trải nghiệm thân phận bất xứng, chúng ta cũng diễn tả kinh nghiệm này qua lời cầu xin: “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội”. Chúng ta xin Mẹ Đức Chúa, Mẹ Thiên Chúa, chuyển cầu cho chúng ta. Chúng ta nhìn nhận mình là kẻ tội lỗi. Bà Êlisabét chan hòa niềm vui vì Thân Mẫu Đức Chúa đến nhà bà; đồng thời bà biết rằng bà không ở ngang tầm với Thân Mẫu Đức Chúa, nhưng không hề tị hiềm. Bà bày tỏ sự kính trọng đối với Đức Maria. Trong khi đó, Đức Maria, Mẹ Đức Chúa, lại ở lại nhà bà Êlisabét. Sự kính trọng các khác biệt không chống lại sự hiệp thông thân tình và vui tươi.
  4. “Do mầu nhiệm Truyền Tin và Thăm Viếng, Đức Maria chính là điển hình của kiểu sống mà chúng ta phải theo. Trước tiên, người đã đón tiếp Đức Giêsu vào cuộc sống của người; sau đó, những gì người đã lãnh nhận, người đã chia sẻ. Mỗi lần chúng ta rước lễ, Đức Giêsu là Ngôi Lời trở thành thịt trong cuộc đời chúng ta. Vậy đấy đã là Lễ Tế Tạ Ơn đầu tiên: phần dâng lễ chính là Đức Maria dâng Con của người nơi mình, còn bàn thờ người đã thiết lập là tấm lòng của người. Là người duy nhất có thể khẳng định với một niềm tin tưởng tuyệt đối: “Này là Mình tôi”, kể từ lúc đó, Đức Maria đã dâng chính thân người, sức mạnh của người, toàn thân người, để tạo nên Thân Thể Đức Kitô” (CP. Têrêsa Calcutta).
  5. Có Chúa trong mình không chỉ là đặc ân dành riêng cho Đức Maria. Mỗi cộng đoàn và mỗi người trong chúng ta phải trở thành như Đức Maria, một “Hòm Bia Giao ước”. Nhiệm vụ của chúng ta là mang Chúa đến cho người khác. Một điều có thể bảo cho biết là chúng ta đang là một “Hòm Bia Giao ước”, đó là niềm vui. Bất cứ đi đâu, Đức Maria đều tuôn đổ niềm vui (x. Lc 1,41.42.45-48). Sự hiện diện của chúng ta có đưa niềm vui đến cho người khác không?

 

86. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng

(Suy niệm của Lm. Xuân Hy Vọng)

THIÊN CHÚA Ở CÙNG CHÚNG TA

Kính thưa cộng đoàn Phụng Vụ dân Chúa! Mỗi khi Giáng Sinh về, từng giáo xứ, nhà nhà bắt đầu dành thời giờ làm hang đá. Dù hang đá có hoành tráng hay đơn sơ, có lấp lánh ánh đèn bừng sáng hay chỉ lung linh huyền ảo, có to lớn hay nhỏ bé đi chăng nữa, thì không thể thiếu bộ tượng Thánh Gia Thất: Chúa Giê-su Hài Đồng nằm giang tay, Mẹ Maria và Thánh Cả Giu-se cung kính bái quỳ bên Con Chúa. Ngoài ra, đâu đó nơi hang đá có một dòng chữ “Em-ma-nu-el – Thiên Chúa ở cùng chúng ta” nữa!

Chắc hẳn, trong mỗi chúng ta đều nghe đến và hiểu dòng chữ này, đặc biệt khi chờ trông, dọn lòng đón Chúa Hài Nhi giáng trần cứu chuộc nhân loại. Danh xưng “Em-ma-nu-el – Thiên Chúa ở cùng chúng ta” không những xuất hiện trong Tân Ước mà đã được nhắc tới trong Cựu Ước khi nói đến một vị Thiên Chúa có tính nhân vị, hằng hữu và luôn ở cùng với Dân của Ngài. Tuy nhiên, danh xưng này được cảm nhận rõ rệt, cụ thể qua Con Một Thiên Chúa được sinh hạ bởi một người phụ nữ vẹn tuyền khiết trinh Ma-ri-a tại Bê-lem, quê hương Vua Đa-vít mà đã được tiên tri loan báo từ lâu: “Hỡi Bê-lem Éph-ra-ta, ngươi nhỏ nhất trong trăm ngàn phần đất Giu-đa, nhưng nơi ngươi sẽ xuất hiện một Đấng thống trị Is-ra-el, và nguồn gốc Ngài có từ nguyên thuỷ” (Mk 5, 1). Và lời tiên tri phán xưa đã được ứng nghiệm hầu hoàn tất Lời Chúa và chương trình Cứu độ của Ngài “…người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-el, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (x. Mt 1, 22-23), và Mẹ Ma-ri-a là người đầu tiên cảm nghiệm sâu sắc biến cố này. Tuy vậy, Mẹ không giữ cho riêng mình, mà ‘trỗi dậy, vội vã ra đi đến miền sơn cước, thăm viếng và chia sẻ niềm vui khôn tả này cho bà chị họ I-sa-ve’ (x. Lc 1, 39-40).

Nói như Thánh Phao-lô Tông Đồ, Thiên Chúa là người nhất quán, tín trung, thực hiện lời hứa cứu độ của Ngài. Thiên Chúa sống đúng với danh xưng “Em-ma-nu-en – Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Ngài chẳng bao giờ bỏ quên chúng ta; Ngài chẳng loại chúng ta ra khỏi ý định cứu độ của Ngài; và như lời xác tín gửi cho giáo đoàn Rô-ma “…theo mạc khải mầu nhiệm được giữ kín từ đời đời, nhưng nay được tỏ bày…” (x. Rm 16, 25-26). Ngoài ra, tác giả thư gửi tín hữu Do Thái cũng quả quyết điều ấy: “Chính bởi thánh ý đó mà chúng ta được thánh hoá nhờ việc hiến dâng Mình Chúa Giê-su Ki-tô một lần là đủ” (x. Dt 10, 10).

Thật vậy, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” trong mọi biến cố cuộc đời: vui mừng hay buồn tủi, thành công hay thất bại, tín thác hay ngờ vực, thịnh vượng hay suy vong, hạnh phúc hay bất hạnh, mở lòng đón nhận hay khép kín chối từ, lúc mạnh khoẻ hay bệnh tật, khi thuận lợi hay bất lợi, những lúc được hậu thuẫn hay bị chống đối…Về phần chúng ta, dường như chúng ta chưa cảm nhận sâu xa về điều này; hoặc vì nhiều nỗi lo toan cuộc sống, bôn ba công việc, kiếm kế sinh nhai, lo hoà nhập vào xã hội, hay đang đi tìm chỗ đứng trong xã hội, mà lắm lúc đôi mắt đức tin chúng ta trở nên mờ căm trước sự hiện diện sống động của Thiên Chúa trong cuộc đời chúng ta!

Với tinh thần Mùa Vọng là một dịp thuận lơi, một khoảnh khắc vô giá cho mỗi người chúng ta nhìn lại bản thân, hết lòng ăn năn, sám hối, dọn lòng đón mừng Chúa Hài Đồng sinh lại nơi tâm hồn, nơi gia đình, nơi cộng đoàn, giáo xứ, xã hội và cả thế giới đầy những sự bất an này. Hơn nữa, đây cũng là thời cơ vắn vỏi cho mỗi người chúng ta đến với Chúa, sống cùng với Chúa trong mọi trạng huống cuộc đời. Con người chúng ta thường chỉ nhận ra sự cần thiết của việc chạy đến với Chúa mỗi khi gặp khó khăn, gian nan, hay gặp những nỗi buồn chán, mà quên trở về bên Chúa, nép vào lòng Ngài những lúc vui tươi, thành công hay hạnh phúc! Chúng ta không quên noi theo gương Mẹ Ma-ri-a sẵn sàng đáp lời “xin vâng” với Chúa, ngay cả thời khắc sợ hãi, hay đứng trước nguy cơ rủi ro, khi chưa hiểu thấu chương trình và ý định của Ngài, “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền” (x. Lc 1, 38).

Hơn nữa, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” và Ngài cũng ở cùng với anh chị em chúng ta nữa. Vì thế, mỗi khi chúng ta sống trong sự hiện diện của Chúa, sống kết hiệp với Chúa mọi giây phút, thì chúng ta cũng được mời gọi sống với anh chị em trong gia đình, lối xóm, cộng đoàn giáo xứ nữa. Thiết nghĩ chẳng ai sống kết hợp với Chúa mọi lúc mà lại xa lánh tha nhân, anh chị em mình, vì chưng, chính nơi họ “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” đang hiện diện cách sống động và cụ thể nhất! Mầu nhiệm “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” được bộc lộ cụ thể, rõ nét nơi mọi hành vi, lời nói, cử chỉ, tư tưởng của chúng ta; đặc biệt, trong Mùa Giáng Sinh này, chúng ta nên chọn cho mình một quyết tâm mà bấy lâu nay chúng ta chưa thực hiện được. Có thể chúng ta chọn tha thứ cho ai đó vì Giáng Sinh là mùa để thứ tha; hoặc chúng ta làm hoà với một ai đó vì Giáng Sinh là thời gian để giao hoà; và trên hết Giáng Sinh là Mùa hồng ân, nơi đó “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” tỏ hiện nơi xác phàm, ngõ hầu cứu độ chúng ta.

Giờ đây, chúng ta cùng lắng đọng ít phút trước Chúa Tình Yêu và thầm thỉ nguyện rằng:

Em-ma-nu-el, Thiên Chúa ở cùng chúng ta

Xin thương ân ban cho con luôn được bên Chúa

Em-ma-nu-el, Thiên Chúa ở cùng chúng ta

Ra đi chia san, phó dâng trọn đời sống con. Amen!

 

87. Niềm vui của việc tin tưởng

Đức Maria “vội vã” lên đường. Đây là bước đầu của những chuyến đi trong thánh Luca, tác giả Phúc Âm chuyên viết về những con đường. Sách Phúc Âm của ngài chuyển động, cũng thế đối với quyển sách thứ hai của ngài, quyển Công vụ Tông đồ. Từ Nagiarét, sự cứu độ sẽ tiến về Giêrusalem, rồi sau Phục sinh, sự cứu độ sẽ bắt đầu chinh phục thế giới. Chúa Giêsu nói: “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất”. Thánh Phêrô giải thích các chứng nhân là những người “đã cùng chúng tôi đi theo Chúa Giêsu suốt thời gian Người sống giữa chúng ta”.

Đây là bước truyền giáo đầu tiên: Đức Maria vội vã lên đường khi đang còn vang vọng lời truyền tin. “Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”, Đức Maria vội vã đi xem sự kỳ diệu đầu tiên được loan báo: “Êlisabét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng”. Đức Maria tin điều ấy. Tất cả đều lạ lùng và bà tin. Một niềm vui xâm chiếm bà, thúc đẩy bà; niềm vui tin tưởng, niềm vui đi vào trong thời đại cứu độ và là người mở ra thời đại đó. “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa”.

Việc Đức Maria thăm viếng bà Êlisabét chiếu sáng niềm vui của việc tin tưởng. Bà Êlisabét thốt lên nhiều lời vui mừng: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?”, “Tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng”, “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”. Đức Maria trả lời bằng bài ca Magnificat, bài hát vui mừng của người.

Luca cống hiến cho chúng ta niềm vui rất đặc biệt này của đức tin.: Thánh Thần. Thánh Thần xuống trên Đức Maria. Ngài tràn đầy trong lòng bà Êlisabét. Ngài tràn ngập nơi các môn đệ vào lễ Hiện Xuống. Ngài đầy tràn chúng ta khi chúng ta tin và công bố rằng Chúa Giêsu là Chúa, nghĩa là Đấng Cứu Thế, Đấng Cứu Độ, nhưng là Đấng Cứu Thế không như người Do thái nghĩ: Thiên Chúa ban Con Ngài cho chúng ta.

Đức tin và niềm vui của chúng ta tuỳ thuộc vào sức mạnh mà chúng ta tin vào điều đó. Chúng ta sa lầy trong những điều phụ thuộc. Chúng ta những Kitô hữu tranh luận với nhau vì những chi tiết thay vì sống trọn và loan truyền điều cốt yếu, mặc khải kỳ diệu: Con Trẻ sẽ sinh ra từ Đức Maria là Con Thiên Chúa. Có một bài hát khác phát xuất từ bài Magnificat, bài Benedictus: “Chúc tụng Chúa, Ngài đã viếng thăm dân Ngài”.

Đích thân Thiên Chúa đến viếng thăm chúng ta! Có nhiều điều phải tin: sự phục sinh của Chúa Kitô, sự hiện diện của Ngài trong Thánh Thể, việc tha tội lỗi cho chúng ta, chiến thắng cuối cùng của sự sống trên đau khổ và cái chết. Nhưng đối với tất cả những điều đó, đức tin của chúng ta sẽ dễ dàng và vững chắc nếu chúng ta bám rễ vào điều khó nhất: tin rằng Thiên Chúa đã đến trên các con đường của chúng ta: ‘Chúng ta đã thấy các bước chân của Thiên Chúa gặp gỡ các bước chân của con người’.

Để Ngài đến ở với chúng ta, phải có Mẹ Maria. Không gì có thể làm cho chúng ta tôn sùng Mẹ hơn là việc thấy Mẹ hạnh phúc biết bao khi tin và dâng hiến Con Trẻ để cho những niềm vui đầu tiên của đức tin bùng nổ. Muốn nói về Đức Maria, Công Đồng đã có từ ngữ rất đẹp này: Mẹ đã giới thiệu Sự Sống cho thế giới. Chính điều này đã làm con trẻ của Êlisabét nhảy mừng, và đó là điều làm chúng ta vui mừng trước mặt Đức Maria: Mẹ là Sự Viếng Thăm của Thiên Chúa, Mẹ giới thiệu cho chúng ta Sự Sống, Sự Sống trở thành sự sống của con người đối với chúng ta.

Nếu tin điều này là niềm vui của chúng ta thì chúng ta đừng quá che đậy niềm vui đó. Chẳng hạn trong một cuộc thăm viếng mà sự tiếp xúc có thể được thực hiện trong một chiều sâu nào đó, ai mà biết được? Trong khi lắng nghe chúng ta, hay có thể chỉ nhìn chúng ta mà thôi, một người nào đó có thể vui mừng.

 

88. Hãy đón nhận Chúa

(Suy niệm của Lm. Anthony Việt Toàn)

Mầu nhiệm Nhập thể là là mầu nhiệm Ngôi Lời được cưu mang. Khi chấp nhận làm người, Con Thiên Chúa cần một người mẹ.Và Ngài được thụ thai cách nhiệm mầu trong lòng trinh nữ. Nói một cádch khác: Để chương trình cứu độ được thành công, Thiên Chúa cần sự cộng tác của con người. Mặc dù khi dựng nên con người, Thiên Chúa không cần hỏi ý kiến, nhưng để cứu chuộc, Thiên Chúa cần con người cộng tác bằng hành động cụ thể đó là đón tiếp Ngài. Tin Mừng hôm nay ghi nhận Đức Maria như một mẫu gương đã đón nhận Thiên Chúa.

Thật vậy, Đức Maria đã đón nhận Thiên Chúa bằng lời xin vâng. Nhờ đó mà Đấng thi hành thánh ý của Thiên Chúa mới ngự xuống trong cung lòng Mẹ. Lời xin vâng này của Đức Mẹ, không phải chỉ là một ưng thuận bên ngoài, nhưng xuất phát từ một người có niềm tin vững chắc vào Lời Chúa: “Phúc cho bà là kẻ đã tin rằng Lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện” (Lc 1,45). Nói một cách khác, hai tiếng xin vâng của Đức Mẹ, phát xuất từ một nếp sống, đã có những nhân đức và tư cách khả dĩ lôi kéo được sự chú ý đặc biệt của Thiên Chúa, đã khiến Thiên Chúa tuyển chọn Mẹ hơn bất cứ phụ nữ nào khác.

Và Đức Maria là người có diễm phúc không phải chỉ trong hay giữa các phụ nữ mà còn hơn hết mọi phụ nữ. Bởi vì Con Mẹ đang cưu mang trong lòng chính là nguồn hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc của Mẹ lệ thuộc vào hạnh phúc của Con và do Con mà có, vì Con trong lòng Mẹ là Đấng Thánh, là Con Đấng Tối Cao, là Con Thiên Chúa và là chính Thiên Chúa; cũng chính do nguồn hạnh phúc đó mà bà Elisabeth được tham dự vào hạnh phúc vì được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm; hơn nữa hài nhi mới được 6 tháng trong lòng bà cũng cảm nhận được hạnh phúc tràn đầy nên cũng nhảy mừng khi mẹ mình vừa nghe lời Đức Maria chào.

Đức Maria như một đại diện nhân loại đã đón nhận Thiên Chúa một cách hoàn hảo. Mẹ là gương mẫu cho tất cả những người muốn đón nhận Chúa. Vấn đề đặt ra hôm nay là: chúng ta đã chuẩn bị đón nhận Chúa như thế nào trong lần kỷ niệm ngày giáng sinh này? Có phải chỉ là những chuẩn bị quà bánh, đèn sao, máng cỏ,…mà thôi? Bởi vì Đức Maria đã đem Chúa Giêsu đến cho chúng ta thì chúng ta cũng phải đón nhận bằng chính cuộc sống mình.

 

89. Những cách viếng thăm

(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)

Sống ở đời “Không ai là một hòn đảo”, vì con người sống là sống cùng sống với và sống cho. Chính vì vậy, viếng thăm nhau không chỉ là chuyện bình thường trong cuộc sống mà còn để chu toàn bổn phận và thể hiện lòng bác ái yêu thương. Có nhiều cách viếng thăm. Qua bài Tin mừng hôm nay, chúng ta cùng nhau suy niệm gương viếng thăm của Đức Maria. Từ đó, chúng ta suy ngắm gương viếng thăm của Đức Giêsu và gần đây là gương viếng thăm của Đức Thánh Cha Phanxicô. Cuối cùng, chúng ta tìm hiểu một chút về những cuộc thăm viếng của con người hôm nay để rút ra những bài học cho bản thân.

Thứ nhất, gương viếng thăm của Đức Maria

Khi nghe tin bà Êlizabét, người họ hàng với mình, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai được sáu tháng (x. Lc 1,36). Đức Mẹ nghĩ rằng: Tuổi già là tuổi cần chăm sóc giúp đỡ. Hơn nữa, tuổi già mà còn mang thai thì lại cần phải chăm sóc hơn. Chính vì vậy, Mẹ đã “vội vã lên đường” đi thăm bà chị họ. Sau cuộc hành trình dài đầy gian nan, Mẹ đã gặp được bà Êlizabét. Đây là cuộc gặp gỡ mang tính lịch sử, vô tiền khoáng hậu. Sáu tháng nay, bà Êlizabét sống trong niềm vui mừng. Chắc chắn hằng ngày không ngớt dâng lời tạ ơn Thiên Chúa vì đã cất nỗi khổ nhục son sẻ của hai ông bà, đã cho bà cưu mang con trong tuổi già. Nay niềm vui đó được nhân lên vì có Đức Maria đến viếng thăm. Ngoài Mẹ ra, còn có Chúa Giêsu mà Mẹ đang cưu mang trong lòng. Bà Êlizabét đã nhận ra điều đó khi đứa con trong lòng mình “nhảy mừng”. Bà kêu lớn tiếng rằng: “Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng Bà được chúc phúc! Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm tôi? Vì này, tai tôi vừa nghe lời Bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện” (Lc, 43,45).

Hiệu quả của cuộc viếng thăm này vô cùng to lớn: Đem niềm vui đến cho cả gia đình ông Giacaria; Thánh Gioan được khỏi tội tổ tông truyền ngay từ trong lòng Mẹ; bà Êlizabét được Mẹ giúp đỡ trong những ngày thai nghén sinh nở. Tinh thần thăm viếng không dừng lại ở đó, Mẹ vẫn tiếp tục thăm viếng con người. Đáng kể nhất là cuộc thăm viếng tại tiệc cưới Cana: Mặc dầu giờ chưa đến nhưng nhờ lời chuyển cầu của Mẹ, Chúa Giêsu đã làm phép lạ cho nước hoá thành rượu ngon để làm vui lòng gia đình chủ tiệc. Khi đã về trời, Mẹ cũng không ngừng viếng thăm nhân loại. Đó là những cuộc viếng thăm: Ở Lộ Đức năm 1858; tại Lavang năm 1798; ở Fatima năm 1917. Và rất nhiều cuộc viếng thăm khác của Mẹ nhằm mục đích thi ân giáng phúc cho con cái loài người.

Thứ hai, gương viếng thăm của Đức Giêsu

Vâng lệnh Chúa Cha, Đức Giêsu đã xuống thế mang thân phận của một con người ngoại trừ tội lỗi. Trong ba năm hoạt động công khai, Ngài đã đi khắp mọi nơi, gặp gỡ mọi người: Đến với miền Samari; miền duyên hải Tirô-Siđôn; miền Ghêrasa. Đối tượng viếng thăm của Ngài là phổ quát: Ngài đến với những người tội lỗi; với những người bệnh tật; với những người có chức quyền danh vọng. Ngài đến với họ để mong muốn biến đổi họ: Một Lêvi trở thành Mathêu Tông đồ; một Giakêu người thu thuế trở thành người biết cho đi; một Maria Mađalêna tội lỗi trở thành một vị thánh. Nhờ những cuộc viếng thăm của Ngài, những người bệnh hoạn tật nguyền trở thành những người khoẻ mạnh: Người mù thấy được; người què đi được; người điếc được nghe; người bệnh được khỏi. Nhờ Ngài viếng thăm mà con trai bà goá thành Naim, con gái ông Giaia và ông Lazarô chết rồi được sống lại.

Không thể kể hết ra đây những hiệu quả mà những cuộc viếng thăm của Chúa Giêsu mang lại cho con người. Ngài viếng thăm ai là biến đổi cuộc đời của họ trong niềm vui và sự bình an.

Thứ ba, gương viếng thăm của Đức Thánh Cha Phanxicô

Tiếp tục tinh thần của Đức Mẹ và Chúa Giêsu, Giáo hội qua mọi thời đại vẫn đến với muôn dân. Gần đây nhất phải kể đến những cuộc viếng thăm của Đức Thánh Cha Phanxicô. Ngài đã đi khắp nơi, đến với mọi hạng người: Đến với những người vô thần; đến với những người Do thái giáo; đến với những người Anh giáo; đến với những người Hồi giáo; đến với những người Chính thống giáo; đến với tù nhân; đến với những người tị nạn; đến với những người nghèo; đến với những người thất nghiệp; đến với các bệnh nhân. Ngài đến để đem niềm vui và trao ban tình thương cho họ. Tình yêu thương của Ngài đã chạm đến trái tim từng người mà Ngài gặp gỡ. Xin được trích dẫn một bằng chứng: “Tờ Washington Post, xuất bản tại Hoa Kỳ, trong số đề ngày 6 tháng 11 năm 2013, nữ ký giả Elizabeth Tenety đã viết bản tin có tựa đề Đức Giáo Hoàng Phanxicô ôm một người đàn ông có dị tướng tại quảng trường thánh Phêrô. Đức Thánh Cha đã âu yếm ôm hôn người tật bệnh này vào cuối buổi triều yết chung, ngày thứ Tư 6 Tháng 11 năm 2013. Bệnh nhân có diện mạo và thân thể rất kỳ dị đáng thương đến nỗi nhiều người cho rằng ông ta không còn có hình dạng con người. Ký giả tờ Washington Post viết rằng: Nếu phải dùng từ ngữ thì cần cả ngàn từ mới diễn tả được ý nghĩa Đức Thánh Cha ôm hôn người dị tật. Hình ảnh Đức Thánh Cha ôm hôn người dị tật đã nhanh chóng được phổ biến trên các mạng lưới xã hội và nhiều cơ quan thông tấn quốc tế đã đưa bản tin đặc biệt này. Hình ảnh Đức Thánh Cha ôm hôn và cầu nguyện cho người dị tật làm nhiều người tưởng nhớ đến hình ảnh Chúa Giêsu đã chữa những người phong cùi, và thánh Phanxicô Assisi đã săn sóc người tật bệnh nghèo đói” (Theo Nguyễn Long Thao).

Ông cho biết việc gặp gỡ Đức Thánh Cha Phanxicô “như ở trên Thiên Đàng vậy” và cuộc gặp gỡ này là khởi điểm mới của cuộc đời ông. Người đàn ông bất hạnh nhưng có phước này bày tỏ cảm nhận của mình khi được chính vị giáo hoàng ôm lấy như sau:

“Đôi tay của ngài hết sức mềm dịu. Và nụ cười của ngài rất ư là tươi nở. Thế nhưng cái đánh động tôi nhất đó là việc ngài không lưỡng lự về việc có nên ôm lấy tôi hay chăng. Tôi không gây lây nhiễm, nhưng ngài đâu có biết như thế. Ngài chỉ biết làm điều ấy thôi: ngài đã ve vuốt cả khuôn mặt của tôi và khi ngài làm thế thì tôi chỉ cảm thấy rằng mình được yêu thương. Trước hết ngài đã hôn lấy bàn tay của tôi, trong khi bàn tay kia của ngài mơn trớn đầu tôi và các vết thương của tôi. Sau đó ngài kéo tôi vào mà ôm chặt lấy tôi, hôn lên gương mặt của tôi. Đầu của tôi dựa vào ngực của ngài, hai cánh tay của ngài ôm choàng lấy tôi. Điều này kéo dài hơn một phút, nhưng đối với tôi nó dường như là vô tận” (Theo Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, phóng dịch theo http://www.zenit.org/en/articles/severely-disfigured-man-embraced-by-pope-gives-interview).

Thứ tư, những cuộc viếng thăm của con người hôm nay

Họ viếng thăm nhau bằng nhiều cách: Có những cuộc viếng thăm để khử trừ nhau. Có những cuộc viếng thăm vì ngoại giao. Có những cuộc viếng thăm chỉ vì lợi ích phe nhóm. Có những cuộc viếng thăm vì lợi ích của bản thân mình: Vì tiền bạc; vì chức quyền danh vọng; vì tình cảm ngang trái. Có những cuộc viếng thăm vì bổn phận. Có những cuộc viếng thăm vì tình yêu thực sự: Thăm viếng bệnh nhân; thăm viếng người tù tội; thăm viếng cha mẹ già yếu; thăm viếng người tàn tật, neo đơn; thăm viếng những người cần sự thăm viếng để động viên, yên ủi và giúp đỡ họ.

Với chúng ta hôm nay, chắc chắn Chúa muốn chúng ta noi gương Đức Maria, Đức Giêsu và Đức Thánh Cha Phanxicô. Đối tượng viếng thăm của chúng ta phải là phổ quát. Những cuộc thăm viếng của chúng ra phải phát xuất từ tình yêu thực sự. Chúng ta là hiện thân của Chúa để đem niềm vui và bình an đến với mọi người. Nói về vấn đề này, tôi sực nhớ tới câu chuyện ấn tượng trong cuộc đời mục vụ của tôi: Có ông cụ nọ, trạc tuổi 80. Dù tuổi cao, lại bị bệnh nằm liệt giường nhưng ông cụ vẫn còn minh mẫn. Mỗi lần thấy tôi đến viếng thăm, ông cụ đều cất tiếng chào: Kính chào Chúa Giêsu. Ông còn giải thích cho mọi người hiểu: Cha là Chúa. Lời ông cụ giúp tôi tự nhắc nhủ mình rằng: Tôi phải thực sự là hiện thân của Chúa khi đến với anh chị em mình.

Lạy Chúa, xin cho mỗi chúng con biết ra khỏi chính mình để đến với anh chị em xung quanh. Xin cho những cuộc viếng thăm của chúng con không phải vì tiền bạc, của cải, danh vọng nhưng đem niềm vui và tình thương của Chúa đến với mọi người. Để những cuộc viếng thăm của chúng con thực sự là hiện thân của Chúa với những người chúng con gặp gỡ. Amen.

 

90. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê)

NGƯỜI HIỀN, BÉ NHỎ, MỌN HÈN ĐƯỢC CHÚA BAN ƠN CỨU ĐỘ

Kính thưa quý anh chị em,

Mạc khải thường xuyên nhắc đến người hiền, khiêm tốn, bé nhỏ, mọn hèn, được Chúa xót thương, ban ơn cứu độ.

Nhắc đến họ thường được hiểu cách đơn giản: hoặc vì họ phải hứng chịu nhiều thiệt thòi trong sự bần hàn, túng quẫn, khốn khổ, hoặc vì muốn cổ xúy một lối sống nghèo hèn cơ cực, tôn sùng đau khổ như một cứu cánh.

Không! Kinh Thánh không coi nghèo túng, bần hàn, cơ cực, đau khổ, là con đường giải thoát và cứu độ, nhưng đề cao sự mọn hèn, khiêm tốn, dịu hiền nội tâm. Những người này, lòng họ như vực thẳm, mở ra tiếp nhận chân lý, tình yêu và sự sống thần linh. Họ biết chờ đợi trong kiên nhẫn, luôn tỉnh thức, hoán cải, để Thiên Chúa có thể thực hiện nơi họ những điều kỳ diệu và tốt đẹp hơn.

Vâng, họ đáng được Kinh Thánh ca ngợi nhắc “tên”: người hiền lành, khiêm nhu, bé nhỏ, được Chúa ban ơn cứu độ.

Phụng vụ Lời Chúa hôm nay hướng chúng ta chiêm ngưỡng Chúa Giê-su, Người nghèo của Tin Mừng, được Chúa ban ơn cứu độ và qua Giê-su, hồng ân sự sống vĩnh cửu cũng được ban tặng cho tất cả những ai trung tín bước theo làm môn đệ Người.

Bài đọc I, trích sách ngôn sứ Mi-ke-el, nhắc tới “Belem Eprata”, một phần đất nhỏ bé thuộc chi họ Giu-đa, nhưng phần đất này đã sinh ra David, vị vua lừng danh trong lịch sử Israel.

Hôm nay, vị ngôn sứ loan báo “vua” muôn dân mong đợi được sinh ra tại Belem. Nguồn gốc của người có từ thuở xa xưa, nghĩa là, đã được mạc khải từ ngày nguyên tổ bị kết án trong vườn địa đàng: Người miêu duệ con cái của Adam/Eva sẽ đứng lên đạp nát đầu con rắn quỷ vương (cf. St 3, 15).

Người đến lãnh đạo, chăn dắt dân trong quyền lực của Đức Chúa. Quyền lực của tình yêu và sự sống, của công chính, thánh thiện và an bình, trải rộng ra đến tận cùng trái đất. Người sẽ thực hiện những việc diệu kỳ chưa từng nghe nói hay nghĩ tưởng: đào kênh rạch, ao hồ ngay trong sa mạc, đắp quan lộ giữa lòng đại dương… Công việc chỉ dành riêng cho một mình Đức Chúa, vì Người là Đấng quyền năng.

Nhờ Người, các dân nước sẽ sống trong sự hiểu biết lẫn nhau, không còn phải học nghề chinh chiến, gươm đao được đúc thành cuốc, thành cày, giáo mác được rèn nên liềm, nên hái, phục vụ sự sống.

Những hình ảnh tiền trưng được loan báo, nay thực hiện nơi Chúa Giê-su, Thiên Chúa làm người, được sinh hạ cách diệu kỳ bởi một trinh nữ.

Bài Tin mừng hôm nay nhắc tên một nhân vật bé nhỏ, mọn hèn, là người nghèo của Thiên Chúa, Đức Maria: cưu mang Con Chúa trong âm thầm, vâng phục, sống đơn sơ, khiêm hạ trong mọi hoàn cảnh.

Từ lời thưa “xin vâng”, Mẹ đã mang đến cho nhân loại niềm vui lớn lao “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Lc 2, 10 – 11).

Maria, dẫu cưu mang Con Thiên Chúa làm người, Mẹ đã đon đả lên đường tìm đến với Elizabeth, nhằm cảm thông phục vụ, nhằm đưa Chúa đến cho bà.

Elizabeth không dấu được niềm vui, sung sướng tung hô, hát mừng, chúc tụng Chúa, vì đã được Mẹ Thiên Chúa viếng thăm.

Lời ngợi khen của Elizabeth gợi cảm hứng cho dân Chúa mỗi khi sống lại biến cố truyền tin huyền nhiệm:

Từ lúc Mẹ nói lời xin vâng. Trời với đất rất đỗi vui mừng. Ngọt ngào như dòng suối mát giữa nơi sa mạc. Huyền nhiệm quá muôn đời, tiếng xin vâng.

ĐK: Mẹ thưa xin vâng, xin vâng trọn thánh ý Chúa Cha. Mẹ thưa xin vâng với Tin Mừng của Con chí thánh. Mẹ thưa xin vâng, với tác động của Chúa Thánh Linh. Con muốn theo Mẹ, sống xin vâng với trái tim thảo hiền.

Từ lúc Mẹ nói lời xin vâng. Mẹ trở nên thánh mẫu tuyệt vời. Nhờ Mẹ, Ngôi Lời Thiên Chúa, đến với nhân loại. Huyền nhiệm quá muôn đời, tiếng xin vâng.

Cùng đồng ca ngợi người tôi tớ khiêm hạ, người nghèo của Thiên Chúa, tác giả thư gởi giáo đoàn Do Thái, trong bài đọc II, đề cao gương mẫu Chúa Giê-su khi vào trần gian, đã trút bỏ mọi vinh quang Thiên Chúa, mặc lấy thân phận tôi đòi, nên giống chúng ta mọi đàng, ngoại trừ tội lỗi, nhằm nêu gương khiêm nhường, dịu hiền cho cả thế gian.

Giê-su, Adam mới, ý thức ơn cứu độ không hệ tại ở việc mình đã làm những gì, mà hệ tại nơi sự vâng phục trọn vẹn thánh ý Chúa Cha. Giê-su quả quyết: hy sinh và lễ vật toàn thiêu, Cha chẳng vui, chẳng nhận, thì này “Con” đến, để thi hành thánh ý Cha.

Thật vậy, Giê-su vâng phục là để quyền năng Cha hoạt động mãnh liệt và hiệu quả, tạo nên công trình sáng tạo mới, dưới hình thức của một cuộc trao đổi kỳ diệu: “Thiên Chúa làm người, để con người làm thiên Chúa” (St. Irénée de Lyon). Chúa mang thân tội, để chúng ta được công chính hóa. Chúa chịu chết, để chúng ta được sống muôn đời.

Chính nhờ việc hiến dâng thân mình làm lễ tế thơm tho đẹp lòng Cha, Giê-su đã đem lại hồng ân cứu độ cho cả thế gian.

Bài sách thánh kết luận: “Hy lễ của Đức Kitô thì hữu hiệu” (Dt 10, 10).

Thưa anh chị em,

Giáo huấn Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta:

Một là: Theo gương Chúa Giê-su sống dịu dàng, hiền lành, khiêm nhường thật trong lòng, để đáng được Chúa ban tặng hồng ân cứu độ. Thực hành thường xuyên nhân đức hiền lành, khiêm tốn, cụ thể: không nóng nảy, giận hờn, to tiếng, cãi lẫy những người xung quanh. Biết chạnh thương và tha thứ, để được Chúa xót thương và thứ tha.

Hai là: Chuyên chăm lắng nghe, thực thi ý Chúa. Đó là cách làm đẹp lòng Chúa hơn cả, vì: “Máu chiên bò, Chúa không ưng, của lễ toàn thiêu Chúa không nhận, thì này con đến để thi hành thánh ý Cha” (Dt 10, 6 – 7).

Thực thi những điều kể trên, chúng ta đang làm phải, chúc anh chi em vạn an. Nguyện chính Thiên Chúa nguồn mạch tình yêu và sự sống chúc lành cho chúng ta luôn mãi. Amen.

 

91. Thưa vâng với Thiên Chúa

Đoạn Phúc Âm này bắt nguồn từ những bản văn người ta mệnh danh là ‘truyện thời thơ ấu Chúa Giêsu’ và cho rằng tất cả chỉ là ‘thần thoại’. Có những thuyết nhìn thấy trong đó một sự pha trộn những chuyện tưởng tượng của một số tôn giáo cổ. Ở đây không xét đến lập trường ấy, chúng ta căn cứ vào những công trình khảo cứu theo phương pháp khoa học nghiêm chỉnh nhất và học thuyết của Giáo Hội. Thật ra Phúc Âm chứa đựng đức tin thuần khiết và trọn vẹn, cho nên phải đọc Phúc Âm với một tâm tình thanh khiết.

Đức Maria đi thăm chị họ là bà Êlisabét và được đón chào: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ”. Lúc đó xảy ra một sự kiện quan trọng cho cả chủ lẫn khách: Gioan Tẩy giả nhảy mừng trong lòng mẹ khi Đức Maria đang mang thai Chúa Giêsu vừa tới nơi. Đoạn tả cảnh thăm viếng kết thúc bằng tiếng hô lớn của bà Êlisabét, nhận định của bà đối với hết thảy chúng ta rất là quan trọng: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”.

Giáp lễ Giáng sinh là lúc thích hợp để suy niệm về mầu nhiệm Đức Maria:

1) Mầu nhiệm trinh khiết.

Ơn trinh khiết của Đức Maria có tính cách thanh sạch trọn vẹn bao trùm và thấm nhuần tất cả hồn xác Người. Dường như bà Êlisabét cảm biết sự thật ấy trong con người của Đức Maria vì bà nghĩ rằng, nhờ lời Chúa, Đức Maria trở thành mẹ Đấng Cứu thế. Được ơn linh hứng của Chúa Thánh Thần và đáp trả ân huệ đó, Đức Maria quan niệm cuộc đời mình chỉ là để trao phó tất cả hồn xác cho Chúa trong niềm cung hiến thuần khiết trọn vẹn nhất. Khi thiên sứ xin Người trả lời, Đức Maria nhìn rõ toàn diện vấn đề đặt ra cho mình. Ngay lúc đó, hành vi tin của Đức Maria đối với Thiên Chúa cho Người cảm biết sự thụ thai vượt khỏi định luật nhân loại chính là phương cách triệt để nhất, hoàn toàn nhất để thuộc về Thiên Chúa. Tiếng vâng của Đức Maria là sự thánh hiến đức trinh khiết của Người.

2) Mầu nhiệm làm mẹ

So sự ưng thuận làm mẹ, Đức Maria gia nhập mầu nhiệm Đức Giêsu trong đời sống thế gian của Chúa, bắt đầu từ khoảnh khắc truyền tin cho tới khoảnh khắc sau cùng là Chúa sống lại, qua những giai đoạn Chúa sống ẩn dật, Chúa đi rao giảng, Chúa chết trên thập giá.

Thái độ Đức Maria trong những giai đoạn ấy có thể vạch cho chúng ta hai hướng cầu nguyện:

+ Thưa vâng với Thiên Chúa trong đức tin, dù gặp những hoàn cảnh phi lý nhất, đó là con đường chắc chắn để hoàn thành sứ mạng mình.

+ Thưa vâng với Thiên Chúa trong đức tin, chung cục đem niềm vui đến với chúng ta nhờ kết hợp mật thiết với mầu nhiệm Đức Giêsu Kitô hấp hối và sống lại để cứu độ chúng ta và thế giới.

 

92. Cuộc thăm viếng

(Chú giải Tin Mừng của Học Viện Giáo Hoàng Piô X)

Tin Mừng Lc 1:39-45 Bài Tin-Mừng hôm nay thuật lại chuyện Đức Maria đến viếng thăm bà chị họ Isave, để nói lên vai trò duy nhất của Đức Maria là thân mẫu Chúa Cứu Thế.

  1. Được đoản văn phụng vụ trước, đã nói về quyền năng của Đấng tối cao sẽ “bao phủ” (episkiasei) Đức Maria (1,35) hoàn toàn giống như Đám Mây chói sáng “bao phủ” Lều tạm của Môisen (Xac 40,35), tượng trưng việc Giavê hiện diện vinh quang giữa dân Israel. Cách dùng cùng một động từ (episkiazô) trong hai trường hợp gợi lên một sự tương đồng giữa Đức Maria và hòm bia Giao ước. Luca có hiểu như thế không, chúng ta sẽ minh chứng. Thật vậy, việc thăm viếng được liên kết chặt chẽ với 1,35-36 qua việc ghi nhận bà Elizabét già cả son sẻ đã thụ thai, khai triển hình ảnh hòm bia giao ước. Trình thuật, rất mạch lạc, gồm có những nét chọn lọc khiến ta thấy tương hợp với trình thuật việc Đavit di chuyển hòm bia về Giêrusalem.

Trong cả hai trường hợp, cuộc hành trình đều tiến về Giuđêa (2Sm 6,2). cũng xảy ra những quang cảnh giống nhau: nỗi vui mừng của dân thành Giêrasalem, niềm sung sướng của bà Elizabeth và con bà, sự nhảy mừng của Đavit (2Sm 6,16) và của Gioan tẩy giả (Bible de giêrusalem dịch là tressaillement nên quá yếu, còn traduction Oecuménique de la Bible dịch là “a bondi d’allégresse” nên sát nghĩa hơn với động từ Êskirtêsen của 1,44). Sau hết tiếng kêu của dân chúng và tiếng kêu của Êlixabet: phonê (giọng nói) và kraugê (tiếng kêu) đều có ghi trong hai bản văn; người ta cũng ghi nhận: động từ anêphônêsen (1,42) diễn tả tiếng kêu của mẹ Gioan tẩy giả đã được dành riêng để chỉ những lời tung hô có tính cách phụng vụ (1Sk 16,4.5.42) và đặc biệt hơn nữa là những lời tung hô khi di chuyển hòm bia giao ước (1Sk 15,28 và 2Sk 5,13; động từ này không bao giờ được dùng trong bản LXX (70) ngoài 5 dẫn chứng nêu trên).

Hòm bia khi tiến về Giêrusalem và đó cũng là hướng đi của Đức Maria – được dựa vào nhà của Obededom (2Sm 6,10) còn Đức Maria vào nhà ông Giacaria (1,40)

Trong cả hai nhà, sự hiện diện của hòm bia và sự hiện diện của Đức Maria đều là nguồn phúc lành (2Sm 6,1112 và Lc 1,41-42).

Và đây ta thấy những sự trùng hợp rõ ràng cụ thể hơn:

Tiếng kêu Đavít

(2Sm 2,9)

Tiếng kêu của Elisabét

(Lc 1,43)

Bởi đâu có thể xảy ra

Là hòm bia Chúa

Đến tại nhà tôi

Bời đâu tôi được thế này

Là Mẹ Chúa tôi

Đến với tôi

Sự song đối này bao hàm sự đồng hóa mẹ Chúa với hòm bia Chúa và bắt buộc hiểu chữ “Chúa” (le Seigneur) theo nghĩa siêu việt.

Điểm tương đồng sau cùng:

2Sm 6,11 Lc 1,56
Hòm bia của Giavê

ở lại

Nhà Obededom

ba tháng

Đức Maria

ở lại

Với Êlisabét

Chừng ba tháng

Trong khi nó tiếp tục gợi lên sự đồng hóa điển hình giữa Đức Maria và Hòm bia, điểm tương đồng sau cùng này cũng xác nhận với chúng ta tính cách khách quan lịch sử của Lc. Phương thức biểu tượng mà ông ta dùng có thể làm cho chúng ta nghi rằng ông không ghi lại những sự kiện thực tế (x. Lc 1,2), nhưng chỉ có ý làm nổi bật các biểu tượng. Tiếng chừng (hôs) cho thấy ngay sự kính trọng của ông đối với những dữ kiện lịch sử.

Bằng chứng sau cùng: sự liên hợp này phú hợp với việc khai triển Lc 1-2. Hai chương này được xoay quanh việc Chúa Giêsu “đi lên đền thờ Giêrusalem (Lc 2,4.42; Lc 2,22) và 1Sm 6 cũng ghi lại hòm việc Hòm bia lên Giêrusalem. Cũng như “hòm bia Chúa” dừng lại tại nhà Obededem, việc “mẹ Chúa” dừng lại tại nhà ông Giacaria diễn tả một chặng đường trong cuộc đăng trình tiến lên đền thánh. Trong hai trường hợp, việc lưu lại đều kéo dài suốt ba tháng, trong một ngôi nhà được chúc phúc. Sự liên lạc giữa cảnh thăm viếng với việc di chuyển Hòm bia Chúa (2Sm 6) xác nhận cùng một phương thức hành văn của Lc 1,2 (ông diễn tả các sự kiện thời thơ ấu của Chúa Giêsu bằng cách tham chiếu vào kinh thánh) và hai ý chính trong phần triển khai: Chúa Giêsu lên nơi của Ngài là: đền thờ Giêrusalem; Đức Maria, Đấng mang Chúa Giêsu là hình ảnh hòm bia giao ước.

  1. Chỉ có một câu trong cảnh Thăm viếng (1,42) không có điểm tương đồng với 2Sm 6; câu đó xem ra trùng hợp với Gđt 13, 18-19:
Gđt 13,18-19 Lc 1,42
Trong nữ giới

Có bà là diễm phúc

Chúa là Thiên Chúa

Đáng chúc tụng thay

(eulogêmennos)

Trong nữ giới

Có bà là diễm phúc

hoa quả lòng bà

Đáng chúc tụng thay

(eulogêmennos)

Ở đây Chúa Giêsu là Đấng đồng hình đồng dạng với Thiên Chúa: đó là một dấu hiệu có giá trị nhờ qui chiếu với những dấu hiệu khác. Nhưng nhất là điểm tương hợp này đã đánh tan lập luận chối bỏ thần tính của Đức Kitô nhân danh câu này. Người ta đã bảo chữ eulogêmenos áp dụng cho loài người, còn chữ eulogetos áp dụng cho Thiên chúa. Nếu trong Lc 1,42 Chúa Giêsu chỉ được eulogemennos, là vì Ngài được coi như một thụ tạo đơn thuần chứ không như Thiên Chúa (Plummer, Lagrange, Ceuppens). Nhưng chính trong Gđt 13,19 (bản 70), Chúa Thiên Chúa (le Seigner Dieu) được eulogemenos (và ngược lại chính bà Giuđith được eulogêtê).

  1. Một vài tác giả (Stanley) ghi nhận rằng kiểu nói “mẹ Chúa” phản ảnh óc chú trọng đến Đức Maria của thời các tông đồ. Thực vậy, theo nghi lễ của triều đình Cận Đông cổ thời thì tước hiệu “mẹ chúa” đầy vinh dự đó được dành cho bà Hoàng thái hậu, là nhân vật có ảnh hưởng lớn nhất trong triều sau nhà vua. Trong chế độ đa thê, không có một bà hoàng hậu nào (vì vua cũng có nhiều vợ) có thể hưởng được một địa vị ưu tiên cách chắc chắn cho đến khi bà thành công trong việc đưa con mình lên ngôi (ví dụ bà bethsabec, mẹ vua Salomon). Vì vậy, trong một nền văn minh như thế, chính bà Hoàng thái hậu chứ không phải một bà hoàng hậu nào khác, có chức quyền cao trọng nhất sau vị hoàng đế.

Có thể lấy một ví dụ về việc ảnh hưởng của một nhân vật như thế trong sách Đanien. Trong một bữa tiệc do vua Balthazar thết đãi có một bàn tay mầu nhiệm đã viết lên tường phòng tiệc (Đn 5,1tt). Nhà vua triệu mời các nhà chiêm tinh và bói toán đến nhưng họ hoàn toàn bất lực không thể giải thích được hiện tượng lạ lùng đó, nên tất cả hàng quí tộc và nhà vua đều hoang mang. Nghe tiếng kêu kinh hãi của họ, “mẹ Chúa” liền đi vào và làm chủ tình thế tuyệt vọng đó (Đn 5,10-12).

Tương tự như thế, người ta thấy ảnh hưởng lớn của Hoàng thái hậu Bethsabec trên vua Salomon trong giai thoại vua giết anh mình là Ađonias: “Vua đứng dậy đi đón bà, cúi xuống lạy bà, rồi lên ngai và sai đặt một ngai khác cho mẹ mình và bà ngồi bên hữu vua (1V 2,19).

Những hình ảnh rút ra từ cuộc sống của triều đình Cận Đông cổ thời đó làm chứng về quyền hành của “mẹ chúa” và giúp chúng ta lượng giá được ý nghĩa tước hiệu vương giả ấy mà Lc áp dụng cho Đức Maria với tư cách là Mẹ Chúa Giêsu. Tước hiệu ấy như là một dấu chứng quí giá cho thấy Giáo hội trong thập niên 70-80 đã cung kính tôn sùng Đức Maria như thế nào. Tước hiệu ấy như muốn nói rằng Đức Maria là người đã cộng tác chặt chẽ nhất với Chúa Giêsu trong công cuộc cứu thế.

KẾT LUẬN

Qua vài nét chấm phá, Lc chỉ cho ta thấy Đức Maria là hòm bia giao ước mới, là “mẹ chúa”, là hình ảnh cột Abraham mới. Nhưng tất cả mọi tước hiệu đó chỉ làm nổi bật mầu nhiệm của Đấng mà bà đã cưu mang trong lòng, mầu nhiệm của Đấng phải chỉ là Messia Con Đấng Tối cao, nhưng siêu việt hơn thế nữa, cũng chính là Đấng Thánh, Con Thiên Chúa.

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

  1. Đức Maria đon đả ra đi tiến lên miền núi. cuộc hành trình vất vả nhưng Người vẫn vội vàng. Cuộc đăng trình vĩ đại Luca trình bày luôn trong tác phẩm của ông. Phúc âm thứ ba và Công vụ sứ đồ bắt đầu từ đây. Lời của Thiên Chúa, Ngôi Lời, đi từ trời xuống thế, từ Nazareth đến Giêrusalem, từ Giêrusalem đến Giuđêa, Samaria và cho đến tận cùng trái đất, luôn luôn vội vàng, bất kể những khó khăn.
  2. Đức Maria vội vã đem Chúa Giêsu đến cho người khác. Đó cũng là bổn phận đặc biệt của người Kitô hữu, Trong cuộc sống mình, chúng ta cũng phải làm chứng Chúa Giêsu luôn sống trong chúng ta và thôi thúc chúng ta gieo rắc sự vui mừng và bình an cho mọi người chung quanh trong một thế giới u buồn và tăm tối.
  3. Đức Maria đã lưu lại chừng ba tháng trong nhà người chị họ cho đến khi Gioan tẩy giả chào đời. Tự nhận là “tôi tớ Chúa”, người cũng muốn làm tôi tớ mọi người. Không nghĩ đến phẩm chức cao trọng làm mẹ Thiên Chúa, Mẹ đã phục vụ, đã chứng tỏ Mẹ thật là Mẹ của Đấng đã đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ. Và ta cũng phải nói rằng vì Đức Maria là Mẹ Chúa Giêsu nên cũng là tôi tớ mọi người. Như thế, Mẹ tỏ cho chúng ta thấy ai muốn gần Chúa Giêsu thì cũng phải sống cuộc đời như thế.
  4. Đức Maria là hòm bia giao ước mới. Người mang trong mình Đấng Thánh, mạc khải của Thiên Chúa, nguồn ân phúc, nguồn vui ơn cứu độ và trung tâm của việc phụng tự mới.
  5. Hoàn toàn giống Abraham, cha các kẻ tin. Đức Maria đã tin vào lời Chúa loan báo cho mình một việc xem ra không thể được: là một trinh nữ sẽ làm mẹ. Vì mẹ đơn sơ khiêm tốn và sống gần gũi Chúa nên mẹ biết rằng không có gì mà Thiên Chúa không làm được (1,37).
  6. Được sống gần Đức Maria là nguồn vui sâu xa đối với bà Elisabet và Gioan tẩy giả, vì họ linh cảm rằng Người mang đến ơn cứu độ. Mỗi ngày Đức Maria cũng mang đến ơn cứu độ cho chúng ta. Là mẹ của giáo hội (theo công đồng Vaticano II), Người lưu tâm đến mỗi con cái người, và tìm cách mang đến ơn cứu độ cho họ là Chúa Giêsu.
  7. Ơn gọi của Gioan tẩy giả bắt đầu ngay trước khi sinh ra, vì việc ông nhảy mừng trong lòng bà Elisabet đã là một cuộc loan báo đầu tiên về Đấng Messia. Chúng ta cũng vậy, trước khi sinh ra, Thiên Chúa đã trao cho chúng ta một sứ mệnh đặc biệt, một vai trò độc đáo mà không ai có thể thay thế được. Do đó, cần phải để Chúa Thánh thần tác động lay chuyển như bà Êlisabet và Gioan tẩy giả để ngày càng trung thành với ơn gọi riêng biệt của mình hơn. Như thế một ngày kia chúng ta sẽ nếm được niềm vui sung mãn trong cuộc sống thiên đàng với Chúa và Đức Maria là tôi tớ trung thành của Ngài.

 

93. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng

(Chú giải mục vụ của Hugues Cousin)

THĂM VIẾNG

Cảnh này không có cảnh tương ứng thì không có gì lạ: kết quả của nó là việc thành công sự giao liên giữa chu kỳ của Gioan và chu kỳ của Chúa Giêsu. Việc gặp gỡ của hai phụ nữ mang thai cho phép liên kết hai em bé sắp sinh ra. Trong bố cục của Luca, thực ra vị tiên hô bị tống giam trước khi Chúa Giêsu Kitô đến nhận phép rửa (3,20-21).

Đề tài của cuộc hành trình xuất hiện lần đầu tiên trong một tác phẩm mà các nhân vật di chuyển nhiều: Lời bắt đầu lên đường và cuộc hành trình (mau lẹ) sẽ dẫn Lời đến tận La Mã, tượng trưng cho ranh giới cuối cùng của miền đất có người ở (Cv 1,8; 28,30-31). Việc ngự đến của thần khí tiên tri trên bà Elizabeth chắc chắn muốn nói rằng Thiên Chúa đang hành động; nhưng sự can thiệp thần linh này cần sự thông hiệp và suy tư của những con người; ở đây cũng như ở Cv 10 với cuộc gặp gỡ giữa Phêrô và Conêliô, Lời chính là sự gặp gỡ của các nhân vật.

Thực vậy, vai trò của các nhân vật không hoàn toàn thụ động. Khi đã nhận lời thiên sứ chào, Đức Maria liền chuyển giao lời ấy; và điều đó mở đầu cho tiến trình. Khi lời chào vang đến tai bà Elizabeth, con trẻ sắp sinh nhảy mừng trong dạ mẹ. Em được đầy Thánh Thần như sứ thần đã loan báo (1,15), em bé thấy hừng lên bình minh của thời đại mới và nói tiên tri bằng việc nhảy mừng và không phải bằng lời nói, khi hân hoan nhận ra sự hiện diện của Đấng mà thiên hạ đợi trông vào thời cuối cùng. Được đầy thần khí tiên tri, lúc ấy Elizabeth hiểu được đầy đủ ý nghĩa của việc vừa xảy ra trong lòng dạ bà; bà không chỉ bằng lòng nhận ra rằng Đức Maria và đứa con bà cưu mang là đối tượng cho phúc lành của Chúa. Bà còn tuyên xưng người bà con của mình là Mẹ của Chúa tôi; bà Elizabeth nói bằng chính môi miệng mình điều mà đứa con bà đã xác nhận bằng cách nhảy mừng: con của Đức Maria là Đấng Kitô, Chúa đã loan báo trong Thánh vịnh 110, câu 1 (được trích dẫn bởi Lc 20,41-44 và Cv 2,34-36).

Như vậy tiếng kêu lớn của bà Elizabeth như vậy trước hết có ý nghĩa Kitô học: điều được nói về mẹ lại đến trước sự cao cả của Người Con. Nếu Đức Maria cưu mang Đấng Cứu Thế thì thật sự Ngài được chúc phúc hơn mọi phụ nữ. Tự nó, việc thụ thai đồng trinh đề cao Người Con chứ không phải người mẹ – như “Tin Mừng thời thơ ấu” của Mt 1-2 đã cho thấy. Tuy nhiên, Luca cũng lưu ý đến nhân vật Maria, và qua việc đó ông cho thấy một điều mới mẻ. Lời chúc phúc liên quan tới lòng tin của Đức Maria tự căn bản khác với cô thiếu nữ trong sách tiên tri Giacaria (c. 45) và những câu 42-45 cho phép Luca quy tụ trong Đức Maria hai cái phúc, phúc vì được làm mẹ và phúc vì có lòng tin mà ông tách rời ra trong đoạn 11,27-28. Khi tin rằng các lời của Thiên Chúa sẽ được thực hiện, Đức Maria trở thành mẹ; rõ ràng đức tin của người là thiết yếu để cho những lời ấy được thực hiện. Người là mẫu mực cho những ai nghe lời, là gương mẫu cho tín hữu, là Kitô hữu đầu tiên. Người ta cũng không coi thường việc Luca căn cứ vào lời cầu nguyện và suy tư sau này của Giáo Hội về người trinh nữ thành Nagiaret. Diễn ngữ Mẹ của Chúa chắc chắn cũng là dùng để tôn vinh Đức Maria: théotokos, mẹ của Thiên Chúa, cũng như lời nguyện cầu sẽ làm thành phần thứ hai của kinh “kính mừng”.

Lúc ấy, Đức Maria xướng lên bài thứ nhất trong bốn bài thánh ca của Lc 1-2. Đó là một bức tranh ghép toàn bằng những trích dẫn Cựu ước, theo bản dịch Hy Lạp Bảy Mươi. Như thánh ca của Anna (Sm 2,1-10) được Luca đường như khuôn mẫu, thánh ca ngợi khen này có một điểm nối kết với mạch văn, chỉ có câu 48 nối liền với trình thuật trước đó khi gợi lại một cách kín đáo việc truyền tin. Tuy nhiên, kinh Ngợi khen này có ý nghĩa của nó chính nhờ việc Luca đặt nó vào chỗ này. Vai trò của bản thánh ca này làm ta nghĩ đến vai trò của các giai điệu trong một bản nhạc kịch: cử điệu tạm thời bị ngưng lại và tiếng hát lời ca biểu lộ tâm lý của nhân vật trong cảnh hoặc ý nghĩa của biến cố.

Như bà Anna, người đã thụ thai một cách lạ lùng, Đức Maria bắt đầu bằng việc diễn tả điều Ngài cảm thấy (c. 46-47). Sau đó, tới lý do lời ngợi khen: bởi vì, lúc truyền tin, Người đã nhìn đến sự thấp hèn của nữ tỳ nữ Người và bởi vì, Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những điều kỳ diệu; lý do này bị gián đoạn giữa chừng bởi cái phúc của người tì nữ (c. 48b). So sánh bới St 30,13 thấy rằng: mọi thế hệ sẽ khen Đức Maria có phúc vì người con mà Ngài đang mang trong dạ chứ không phải do một công nghiệp cá nhân nào. Nhưng đồng thời, dường như Luca đã muốn bày tỏ qua điều diễm phúc này một thái độ tự nhiên của Kitô hữu đối với người mẹ đầy niềm tin của Chúa. Dù thế nào đi nữa, đối với nền tảng này của các suy tư sau đó về Đức Maria, điều đáng chú ý là từ câu này trở đi Thiên Chúa là chủ từ mọi động từ, trừ hai câu trong ngoặc này: Người chỉ được diễn tả là Đấng quyền năng, thánh thiện và nhân từ (c. 48-50).

Những câu 51-53 làm thành phần thứ hai cho thấy cảnh đổi lộn các tình huống và giá trị làm nổi bật bước chuyển từ thế giới này sang thế giới mới. Sự can thiệp cứu độ của Thiên Chúa, được bắt đầu với việc thụ thai con người, là Đấng Mêsia, sẽ ưu tiên xét xử công bình cho người thấp hèn, kẻ bị chà đạp. Đó là một suy tư mà Luca ưa thích và ông sẽ khai triển dài hơn khi trình bày các mối phúc và những nỗi bất hạnh (Lc 6,20-26) để giải thích luận đề này. Chúng ta hãy chỉ ghi nhận rằng bố cục của Luca đã đặt trên môi miệng Đức Maria một ngôn ngữ sẽ làm nổi bật tính cách hiển thị của Vương Quốc trong lời rao giảng của Đức Giêsu.

Trong phần kết, sự can thiệp có tính cách cứu độ bắt đầu thực hiện lời hứa với các tổ phụ, cho con cháu của Abraham (cc. 54-55). Luca cẩn thận không nói trước đến đề tài lương dân vào đạo, cũng như tô điểm cho bài thánh ca màu sắc Kitô học hậu-Phục Sinh.

Đức Maria ở lại nhà bà Elizabeth độ ba tháng. Đối với Luca, khoảng thời gian trong khi Đức Maria xa cách Giuse là một dấu chỉ, dưới mắt độc giả, xác minh cho việc thụ thai đồng trinh. Đồng thời, không có vấn đề Đấng Mêsia hiện diện – dù là trong dạ mẹ – vào ngày vị tiền hô sinh ra! Đức Maria trở về nhà mình.

 

94. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng

(Chú giải của Giáo phận Nha Trang)

“Bởi đâu tôi được mẹ Thiên-Chúa đến thăm tôi?” (Lc 1,39-45).

  1. Ý CHÍNH:

Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại chuyện Đức Maria đến viếng thăm bà chị họ Isave, để nói lên vai trò duy nhất của Đức Maria là thân mẫu Chúa Cứu Thế.

  1. SUY NIỆM:
  2. “Ngày ấy Maria trỗi dậy vội vã ra đi …”:

“Ngày ấy” sứ thần Thiên-Chúa kết thúc buổi truyền tin cho Maria bằng cách loan báo thêm một dấu lạ, bà chọ Isave đã mang thai được sáu tháng lúc tuổi già, Maria đã tin như vậy và ngay sau ngày truyền tin ấy, Maria đã chỗi dậy đi thăm viếng… “Ngày ấy” chỉ về biến cố truyền tin cho Maria.

“Maria chỗi dậy…”

+ Việc đi thăm viếng này chắc không phải để xác nhận việc bà Isave có thai: vì Maria đã tin việc trinh thai của mình là việc lớn lao hơn nhiều nên không chút hồ nghi về việc chị họ có thai trong lúc tuổi già.

+ Việc thăm viếng này không phải vì mối liên lạc gia đình bà con dòng họ đế thăm viếng nhau. Vì thời đó trường hợp một thiếu nữ đi xa ba bốn ngày đường để thăm viếng như vậy thật là hiếm.

+ Nhưng việc viếng thăm là do một sự can thiệp đặc biệt của ơn trên, để cho người ta nhận thấy mối liên quan giữa hai sự việc xảy ra nơi bà Isave và trinh nữ Maria.

+ Đối với Maria, đây cũng là cơ hội đặc biệt để tỏ lòng biết ơn Thiên-Chúa vì hồng ân vô cùng lớn lao của Thiên-Chúa đã ban cho Người và cũng là cơ hội thực thi bác ái đối với bà con: giúp đỡ bà trong những tháng cuối cùng trước khi sinh. Vì thế Maria đã chỗi dậy, vội vã ra đi…

Vội vã ra đi tiến lên niềm núi…

“Vội vã ra đi” là dấu tỏ lòng tin vững chắc và lòng trông cậy ký thác hoàn toàn của Maria vào lời của sứ thần Thiên-Chúa, đây cũng là dấu của một tâm hồn quá chan hoà vui sướng đang có Chúa ở trong lòng.

“Miền núi”: theo lời truyền tụng từ thế kỷ V, gia đình Giacaria ở trên núi trong một thành thuộc xứ Giuđa, tên gọi Ain Karim cách Giêrusalem bảy cây số về phía Tây. Đường đi từ Nadarét đến Ain Karim phải ba bốn ngày đường.

  1. “Bà vào nhà ông Giacaria chào bà Isave”:

Người Do Thái có thói quen chào nhau bằng cách chúc bình an cho nhau.

  1. “Và khi Isave nghe lời chào của Maria…”:

Hai bà mẹ gặp nhau, nhưng thực sự hai thi nhi trong dạ của hai bà là Gioan và Giêsu gặp nhau. Liên lạc giữa đôi bên được nổi bật khi sự hiện diện của thai nhi Giêsu làm cho thai nhi gioan có phản ứng lạ lùng. Thai nhi trong dạ Isave nhảy mừng lên. Việc nhảy mừng này nói lên rằng: thời Đấng Cứu Thế đã đến, bây giờ chính là ngày của Chúa, ngày của hân hoan vui mừng (Lc 1,14;1,47; 2.10 và Tv 114,1-6).

  1. “Và Isave được tràn đầy Thánh Thần..”:

Chính thánh thần đã mạc khải cho Isave về hồng phúc của maria. Những nhân vật chính yếu trong Kinh Thánh đều được đầy Thánh Thần như: Giêsu, Gioan, Maria, Giacaria, Isave, Simon… các nhân vật ấy đều hành động dưới sự thúc đẩy và soi sáng của Thánh Thần. Ta có thể nói hoạt động chính là Thánh Thần. Người hướng dẫn mọi người mọi hoàn cảnh và làm cho các nhân vật nói lên ý nghĩa của Người muốn diễn tả đó là dấu chỉ thời Đấng Cứu Thế đến (Xem Cv 2,17).

  1. “Bà được chúc phúc giữa những người phụ nữ…”:

Được tràn đầy Thánh Thần nên Isave đã hiểu biết điều Thiên-Chúa muốn thực hiện nơi Maria: Đức Maria có phúc hơn mọi người nữ vì Thiên-Chúa thực hiện việc cứu chuộc dân người trong Đức Maria. Lời chúc phúc này là âm hưởng của lời chúc phúc cho bà Gioel(Thp 5,24) và bà Giuđich (Gđ 13,17-18) hai bà này đã giết được tướng giặc để đem lại chiến thắng cho dân Israel. Ơ đây Luca muốn ám chỉ việc maria đã chiến thắng bằng cách đạp dập đầu kẻ thù thật sự của dân Thiên-Chúa là satan để đem ơn cứu độ cho nhân loại như lời Thiên-Chúa đã ám chỉ lúc lên án ma quỷ: “Người sẽ đạp dập đầu mày” (St 3,15).

“Và con lòng bà được chúc phúc …”:

Chức vụ lạ lùng của người con đang ở trong cung lòng Maria thật đáng chúc khen ca ngợi.

  1. “Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên-Chúa tới thăm…”:

Đây không phải là lời bộc phát từ một tình cảm bồng bột, nhưng là một lời hân hoan đầy trịnh trọng vì do thánh thần soi sáng, isave nhìn nhận nơi thai nhi Giêsu mà Cha Người đã ban cho Người mọi quyền hành của Đấng Thiên Sai, vì vậy bà nhận biết Đức Maria là mẹ Thiên-Chúa.

Đồng thời lời này cũng là ân hưởng của tiếng kêu đầy ngạc nhiên của đavit trước hòm bia Thiên-Chúa (Ism 6,9). Vì thế Luca muốn gợi lên mối tương quan giữa Maria với hòm bia: Maria mang thai Chúa Giê-su trong cung lòng như là một hòm bia chứa đựng Thiên-Chúa.

1.1. “Vì này tai tôi vừa nghe lời bà chào..”:

Việc nhảy mừng của Gioan trong cung lòng Mẹ là dấu chỉ cho bà Isave nhận ra sự cao cả của thai nhi Giêsu và của Đức Maria.

  1. 2. “Phúc ho bà là kẻ đã tin…”:

Isave kết lời ca ngợi bằng cách nêu lên lý do khiến Maria được chúc phúc: Maria là kẻ đã tin: tin vào lời Thiên-Chúa hứa sẽ được thực hiện. Đức Maria đã tin vào lời loan báo rằng dù là trinh nữ, nhưng bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần, Người sẽ trở nên Mẹ của Đấng Cứu Thế.(Lc 11,27-28).

Lời chúc phúc này cũng theo kiểu của tám mối phúc thật mà Chúa Giê-su sẽ nêu lên trước công chúng (Mt 5,1-12). Vì thế từ đây hạnh phúc thuộc về những kẽ nào như Maria, tin vào lời Thiên-Chúa hứa sẽ thực hiện.

III. ÁP DỤNG THỰC HÀNH:

A/ Áp dụng theo Tin-Mừng:

Phụng vụ đặt bài Tin-Mừng về cuộc thăm viếng của Đức Maria vào Chúa nhật cuối cùng của Mùa Vọng, để nhắc nhở chúng ta về vai trò duy nhất của Đức Maria là Mẹ Thiên-Chúa và đồng thời để gợi lại cho chúng ta, trong khi mừng lễ Chúa Giáng Sinh hãy tin tưởng và trông cậy vào mầu nhiệm Nhập Thể và Cứu Chuộc của Chúa Giê-su Kitô.

B/ Áp dụng thực hành:

  1. Nhìn vào Đức Maria:
  2. Maria vội vã tiến lên miền núi: được ơn Chúa thúc đẩy, maria đã vâng theo dù vất vả gian lao. Được ơn Chúa thúc đẩy trong tâm hồn hoặc bên ngoài do tha nhân và ngoại cảnh, chúng ta cần có lòng can đảm quên mình, chấp nhận vất vả gian lao và hy sinh mới có thể thực hiện ý Chúa.
  3. Maria vội vã đến thăm Isave: đó cũng là bổn phận đặc biệt của người Kitô hữu. Trong cuộc sống hằng ngày đòi hỏi chúng ta phải tích cực gieo rắc sự vui mừng và bình an cho mọi người xung quanh nhất là trong những hoàn cảnh có nhiều u buồn và xáo trộn.
  4. Maria đã đến thăm và ở lại phục vụ bà isave chùng ba tháng chứng tỏ Đức Mẹ là Mẹ thật của Đấng Cứu Thế, Đấng đã đến không phải là để phục vụ, nhưng để phục vụ chúng ta càng thuộc về Chúa Kitô càng phải nên giống Người: không phải để được phục vụ mà để phục vụ, phục vụ bất cứ ai, trong bất cứ công việc gì, miễn sao cho người được phục vụ có hạnh phúc đích thật.
  5. Đức Maria là nguồn vui của isave và của gioan: người Tông Đồ sống ở đâu là đem bình an ở đó và ở với ai là đem lại niềm vui, sự phấn khởi và hạnh phúc cho người đó.
  6. Đức Mẹ có phúc vì đã tin vào lời Chúa hứa sẽ thực hiện. Chúng ta sẽ cảm thấy hạnh phúc và bình an đích thực khi chúng ta biết đặt niềm tin phó thác vào tình yêu và quyền năng của Thiên-Chúa trong mọi việc, nhất là những việc ta đang lo âu, bối rối, bất lực…
  7. Nhìn vào bà Isave:
  8. Isave dâng lời ngợi khen chúc mừng Đức Maria chúng ta noi gương chúc mừng Đức Maria bằng cách năng lần hạt mân côi kính mừng Maria…
  9. Thai nhi nhảy mừng trong lòng là dấu chỉ cho Isave nhậnbiết hồng phúc của Maria và của Chúa Giê-su chúng ta biết nhận ra những dấu chỉ trong bản thân mình trong cuộc sống mình để nhận ra hồng ân của Thiên-Chúa mà ca ngợi chúc tụng và cảm tạ Thiên-Chúa.
  10. Isave cảm tạ chúc mừng Đức Mẹ: chúng ta đừng tiếc lời chúc mừng, khen tặng và nghĩ tốt cho người khác.

 

95. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng

(Suy niệm của R. Gutzwiller)

THĂM VIẾNG

  1. Những sự kiện

Cuộc gặp gỡ giữa bà Êlisabét và Đức Maria mang nhiều ý nghĩa, một khi được liên kết với hai khung cảnh Kinh thánh ta thấy ở trên. Êlisabét biểu hiệu Israel: già cả, gia đình tư tế, bị son sẻ tự nhiên, và nhờ phép lạ của Thiên Chúa trở thành người mẹ có con cái sinh ra vị tiền hô của Đấng Cứu Thế. Maria tượng trưng cho Giáo Hội: trẻ trung, trinh tiết, thành người Mẹ nhờ phép lạ của Thiên Chúa, sắp sinh hạ là Đấng Messia, Đấng Cứu độ. Hai người mẹ mà việc làm Mẹ mang một tầm vóc lịch sử, đã tìm gặp nhau và cùng liên kết với nhau để cùng tụng ca vinh quang Thiên Chúa.

Maria lên đường đến thăm viếng phần vì –một cách rất tự nhiên- muốn thông dự vào biến cố vĩ đại và rồi bày tỏ tâm tình của mình, nhưng cũng vì muốn giúp đỡ và cuối cùng là đón nhận một dấu hiệu Thiên Chúa đã chỉ: như vậy, Mẹ đã đi sâu vào chương trình vĩ đại của Thiên Chúa.

Đằng sau tất cả những cái đó, người ta khám phá ra được sáng kiến, quyết định cá nhân của Mẹ. Một lời nói của Thiên Thần và sự thúc đẩy của ơn thánh đã đủ. Mẹ hiểu và Mẹ hành động. Tin mừng nói thêm là Mẹ vội vã. Ưng thuận thánh Ý Chúa, vâng lời tiếng mời gọi của Ngài thì không được chậm trễ và nặng nề, nhưng vui vẻ và lanh lẹ. Người nào đi theo tiếng gọi của Thiên Chúa và được Thần Khí thúc đẩy, phải bước đi với tâm hồn hài lòng và tinh thần cởi mở, dầu trên con đường đầy khó khăn.

Việc Maria cất bước đâu phải việc tự nhiên. Một thiếu nữ trẻ tuổi tự ý làm một cuộc hành trình dài ba ngày đường, rồi ở lại cả mấy tháng trời xa nhà xa cửa, hẳn phải là cái gì gây kinh ngạc cho người Do thái thời đó- và có thể được coi là quá đáng. Nhưng Maria đã để kệ tất cả những cái nhìn phàm trần đó một khi muốn thực thi Thánh Ý Chúa.

  1. Lời nói

Đức Maria đến chào thăm Êlisabét trong căn nhà của Giacaria. Chúng ta không biết đó là lời chào bình thường hay cùng lúc đó truyền đạt sứ điệp thiên thần đã cho biết liên quan đến biến cố kỳ diệu kia. Trong mọi trường hợp, lời nói của Đức Maria làm cho Êlisabét và con bà đang mang trong lòng một sự cảm động và nhiệt tình cả về tự nhiên lẫn thần hứng của Thánh Thần. Chính vì đó mà khi đáp lại lời chào, bà Êlisabét đã thốt lên với vẻ cảm động sâu xa: ‘Em có phúc hơn mọi người nữ, và hoa quả bởi lòng em thật đáng chúc phúc’. Phần đầu của Kinh Kính mừng được Thiên thần Chúa phát biểu, phần sau đã được Êlisabét xướng lên, và do đó bởi lòng thán phục của loài người. Sau này Giáo Hội đã thêm vào phần thứ ba trong ý nghĩa và theo tinh thần của con người tội lỗi.

Kinh Kính mừng như vậy hoàn toàn có nguồn gốc Kinh Thánh và Giáo Hội, đã là một trong những lời kinh đẹp nhất, sâu xa nhất, nhờ nó mà Êlisabét và Cựu ước nôí kết với Đức Maria và Tân ước, tất cả kết thúc bằng lời Giáo Hội, trong đó hết thảy đều quy tụ về.

Hoa quả của lòng Đức Nữ Trinh đã làm nên đối tượng cho việc vinh chúc, chính vì thế ta hiểu được tại sao Đức Mẹ đáng được ca tụng giữa hàng phụ nữ. ‘….Việc làm Mẹ của Đức Maria là một bí nhiệm của vẻ lớn lao của Mẹ, đồng thời cũng nói lên sự bí mật trong việc sùng kính Đức Mẹ của tất cả những ai suy nghĩ và tin tưởng theo Kinh Thánh.

‘Và bởi đâu tôi được Mẹ Chúa đến với tôi?’. Bà Êlisabét, dù đã cao niên, cũng nhận thức được và tuyên xưng sự nhỏ bé của mình, ngạc nhiên và sung sướng, ca tụng người em họ này ‘Mẹ của Chúa tôi’: bà biết trẻ nhỏ nằm trong lòng trinh nữ là ai, và trẻ này sẽ làm Chúa theo hai nghĩa của danh từ. Vì Ngài là Chúa của mọi người, nên cũng là Chúa của Bà và là Chúa là Vua của vị loan tin, của vị tiền hô mà Bà sắp sinh hạ.

‘Phúc cho em là kẻ đã tin: vì tất cả những gì Chúa đã phán với em, sẽ nên trọn’. Đức Maria thật đã cao cả trong sự kiện, và nhiệm vụ làm Mẹ của Chúa; Mẹ còn cao cả xét về cá nhân Mẹ, vì lòng tin vào sức mạnh và quyền năng của Lời Thiên Chúa. Đức tin này hoàn toàn nghịch laị với sự cứng tin của loài người.

Ngay từ khởi đầu lịch sử ơn cứu độ, đức tin đã được biểu hiện như một sự chấp nhận tiêng nói đòi hỏi, ưng chịu, mời gọi, ban ơn sủng, sinh hạ và tạo thành. Ơn Cứu độ đến từ Thiên Chúa, là công việc của Thiên Chúa. Tuy nhiên,con người phải đón nhận bằng sự sẵn sàng vì Thiên Chúa không thể bỏ qua sự cộng tác này. Hoạt động của Thiên Chúa đòi hỏi sự tham gia của con người. Sự tham gia, cộng tác này, chính là lòng tin biểu lộ ra bằng việc làm: đức tin sống động, câu trả lời quả quyết của cả con người đáp ứng lời mời gọi của Thiên Chúa.

Êlisabét ca tụng Đức Mẹ, đó là Israel ca tụng Giáo Hội. Đó là việc Cựu ước thừa nhận Tân ước và đó cũng là sự kính trọng của dân cũ của Thiên Chúa đối với dân mới của Ngài.

Toàn cảnh trên đây đã tạo nên nền tảng cho việc sùng kính Đức Mẹ, vì sự sùng kính này rút từ nguồn gốc của lời nói và trình thuật Kinh thánh, diễn tả hai vẻ lớn lao của Đức Mẹ: lớn lao nơi con người và nơi nhiệm vụ của Mẹ, đồng thời lớn lao về tư cách làm Mẹ của Mẹ và sự sẵn sàng nơi đức tin của Mẹ.

Lời ca tụng của bà Êlisabét nối tiếp lời ca ngợi của thiên thần. Cả hai đã được tiếp tục qua môi miệng Giáo Hội và môi miệng của tất cả những người thấm thía lời văn cũng như tinh thần của Kinh Thánh và của Giáo Hội, đã không bao giờ để cạn khô lời tán tụng Mẹ đồng trinh của Chúa Giêsu.

 

96. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng

(Chú giải của Noel Quesson)

Hồi ấy

Trong Mùa Vọng này, với Tin Mừng của Luca, chúng ta đã đi ngược dòng thời gian. Vào Chúa nhật thứ I Mùa Vọng, ông đã yêu cầu chúng ta “ngẩng đầu lên” trước Đức Kitô vinh quang đang “hiện đến” trên đám mây trời: Đức Kitô Phục sinh hôm nay cũng là Đức Kitô ngày “cánh chung”. Chúa nhật II và III Mùa Vọng, Luca đã cho chúng ta quay lại 2000 năm về trước, vào thời rao giảng của Gioan Tẩy giả, chuẩn bị cho tác vụ công khai của Đức Giêsu Kitô Nadarét. Chúa nhật thứ IV này, chúng ta lời đi ngược lên 30 năm nữa, tới thời mà Đức Giêsu mới chỉ là một phôi thai trong lòng một trinh nữ, Đức Maria và chúng ta cũng ở trong thời gian.

Còn vài ngày nữa là tới lễ Giáng sinh. Những ngày này, đường phố của chúng ta nhộn nhịp tưng bừng đón lễ, những cửa hàng đua nhau quảng cáo. Trong những ngày tích cực chuẩn bị lễ hội cuối năm này, chúng ta có dành một thời gian thanh thản nội tâm, để cùng suy niệm với Đức Maria, đang chờ đợi người con của mình ra đời không?

Bà Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa

Tên của Mẹ trong tiếng Hipri là Myriam, chắc chắn có nghĩa là “Công Chúa” hay “Bà lớn”.

Đoạn văn nói cho ta hay, “Bà hấp tấp chỗi dậy”, có thể nói ngay sau khi Thiên Thần báo tin. Sự phản ứng nhanh nhẹn này là một dấu chỉ. Đó là Lời Chúa đã thúc đẩy Bà lên đường. “Êlisabét, người họ hàng với Bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai… và nay đã có thai được sáu tháng”. Maria lên đường ngay tức khắc. Chúng ta hình dung ra Bà trong dáng vẻ đầy nhiệt tình và trẻ trung. Thái độ vội vã đó là dấu chỉ đức tin của Bà. Bà phải đi bộ 150km, không có xe hơi tàu hỏa gì cả! Bà đi về Giêrusalem. Air Kharim là một địa danh ở ngoại ô phía Tây của thành phố, cách 6km. Ngày nay đó là khu đại học y khoa Giêrusalem với bệnh viện lớn là Hadassah.

Nhưng đó không đơn thuần là một sự di chuyển địa dư. Đó cũng là một dấu chỉ. Cuộc hành trình này sẽ mở đầu cho hàng loạt những cuộc hành trình chứa đầy trong các trình thuật của Luca, một cách tượng trưng. Đường đi là nơi mạc khải và thi hành sứ vụ. Lời Chúa đã từ trời xuống Nadarét. Nay Lời Chúa đi từ Nadarét đến Giêrusalem, mở đầu cho biến cố quan trọng “lên thành Giêrusalem” để kết thúc cuộc đời của Đức Giêsu. Và từ Giêrusalem Lời Chúa sẽ mở ra tới Samaria và đến tận cùng trái đất… đến cả tâm hồn tôi, nếu tôi biết lặng nghe Lời. Sự vội vã của Đức tin là một sự vội vã “thừa sai”. Luca là đệ tử của Thánh Phaolô, vị tông đồ đã đi dọc các con đường của đế quốc cùng với Luca (CVTĐ).

Bà vào nhà ông Dacaria và chào hỏi bà Êlisabét

Bước đường của Lời Chúa trước tiên ở giai đoạn thân mật nhất, và trong khung cảnh sống tự nhiên nhất: “ở nhà”… “giữa những bà con”, ở đây là giữa hai chị em bà con. Đức tin luôn được thông truyền như thế!

Ông Dacaria bị câm, vì ông đã không chịu tin (Lc 1,20 – 1,64). Đây lại là một dấu chỉ có ý nghĩa. Ông Dacaria đáng thương, sẽ không thể nói một tiếng nào với hai bà trong thời gian gặp gỡ suốt 3 tháng (Lc l,56) chỉ có các bà nói chuyện với nhau. Chính các bà là những người đầu tiên có đức tin.

Lời chào của Maria là: “Shalom” có nghĩa là bình an, trong ngôn ngữ của bà. Chào? Dacaria và Elisabét sáu tháng trước vẫn còn là một đôi vợ chồng già buồn bã. Buồn vì không có con (Lc l,7). Bà Maria đã biết điều đó. Bà đến để chúc mừng người chị bà con và chia sẻ niềm vui với bà.

Bà Êlisabét vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên.

“Đứa con nhảy lên trong bụng”. Đó là những từ cụ thể? Phaolô nói rằng, Luca là một y sĩ (Cl 4, 14). Chúng ta hiểu vì thế mà Luca đã lưu ý đến chi tiết này. Bất cứ phụ nữ nào đã làm mẹ, cũng đều nhớ đến giây phút khó quên đó giây phút mà hài nhi ra dấu hiệu đầu tiên về sự hiện diện của mình bằng cách cựa quậy. Có phải đó là biến cố tầm thường? Là hình ảnh văn chương ngây ngô? Là thứ tình cảm lỗi thời? Không, đối với Luca, đó là một quả quyết thần học, một “dấu chỉ” nữa? cũng như hai anh em sinh đôi Êsau và Giacóp đã nhảy múa trong bụng bà Rêbécca trước kia là vô sinh (St 25,22). Thiên Chúa đi trước con người, trong những ý định của Người: “ngay từ trong lòng mẹ”, ngôn sứ Giêrêmia đã biết rằng “Chúa biết mình” (Gr l,5). Cách nói này phải chăng là hạnh phúc?

Gioan Tẩy Giả bắt đầu vai trò của mình là ngôn sứ và nhân chứng cho Đức Giêsu Kitô! Chính ông báo trước cho mẹ ông biến cố vĩ đại đang sắp đến. Tại sao chúng ta lại cứ muốn hợp lý hóa mầu nhiệm? Đấy là một hiện tượng sinh học thông thường chăng? Phải, nhưng cũng là mầu nhiệm thần linh về sự hiện diện của Thiên Chúa, Đấng luôn luôn “đi trước” chúng ta.

Và bà được đầy tràn Thánh Thần

Đối với Luca, những trình thuật về thời thơ ấu của Đức Giêsu đã là một sự báo trước thời gian Phục sinh. Đó là Lễ Hiện Xuống cách tượng trưng, nhưng là một lễ Hiện xuống bên trong, không rực rỡ bên ngoài. Sau này Luca sẽ nói rằng, chính vùng Thần Khí Thiên Chúa đó sẽ “đổ xuống trên mọi xác thịt” (Cv 2,17-21 – Ge 3,l-5).

Chúng ta thấy rằng, Luca giúp chúng ta đọc lại biến cố Giáng sinh của Đức Giêsu theo ánh sáng của sự khai sinh Giáo Hội! Tuy nhiên, như thế không có nghĩa là những sự kiện trên là ‘không có thực: Luca đã nhận biết những sự kiện đó từ các giới tham dự nghi thức thanh tẩy và họ hàng của Mẹ Maria, Đấng đã “ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy trong lòng” (Lc 1,66 – 2,19-51).

Liền kêu lớn tiếng và nói rằng

Từ Hy Lạp Luca dùng ở đây (anéphonèsén) trong toàn bộ Kinh thánh chỉ thấy xuất hiện trong đoạn này mà thôi, còn trong sách Sử biên niên (1 Sb 15,21 – 16,4.5.42 2 Sb 5;13) từ này chỉ được dùng nhằm diễn tả những câu “tung hô phụng vụ” để chào mừng khám giao ước. Chúng ta có thể dịch là: “Bà Elisabét đã lớn tiếng hát lên bài thánh ca này”.

Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc.

Đa số các Kitô hữu đọc kinh Kính Mừng không biết rằng lời kinh của họ được trích từ đoạn Tin mừng này. Những từ này đã vượt qua nhiều thế kỷ trên mỗi tổ tiên của chúng ta, chúng ta sẽ để những từ này rơi vào lãng quên chăng? Chúng ta có thường đọc kinh Kính Mừng không? Có lần chuỗi Mân Côi? Những từ này cũng là một trích dẫn Kinh Thánh được dùng hai lần khác, đối với hai phụ nữ khác là Gia-en và Giuđitha (Tl 5,24 – Gđt 13,18). Hai phụ nữ đã cứu dân tộc họ vào những ngày nguy khốn nhất. Câu trích dẫn này có phải là ngẫu nhiên không?

“Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ”: đây là một lời khen tặng của một phụ nữ đối với một phụ nữ khác: Luca lấy làm sung sướng nhấn mạnh về một trong những đề tài của ông trong Tin Mừng. Bí mật đầu tiên về Thiên Chúa không được giao phó cho người nam. Ngày nay có những phong trào đấu tranh để giải phóng phụ nữ. Có một số người cho rằng những phong trào đó là nhập nhằng. Nhìn dưới khía cạnh tích cực, những phong trào đó là một dấu chỉ thời đại, một dấu chỉ của Thiên Chúa. Mới đây một phong trào phụ nữ tự cho mình có nhiệm vụ “dám sống như phái nữ…dám nói Đức Giêsu Kitô thuộc phái nữ”. Điều này đã bắt đầu trong Tin Mừng thánh Luca. Trước cả các thánh Tông Đồ vào ngày lễ Ngũ tuần (30 năm trước). Bà Elisabét đã được “đầy ơn Thánh Thần”. Ở đây trong bản văn Hy Lạp có dùng cùng một từ như trên. Ta có thể dịch là “‘quả trong lòng bà được chúc phúc”.

Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?.

Ở đây Luca lại trích dẫn một câu Kinh Thánh (2 Sm 6,9) nói về Vua Đavit, đã không tin rằng hòm bia giao ước lại có thể đến nhà ông. Khám giao ước đó là nơi hiện diện của Thiên Chúa. Từ đó về sau Đức Giêsu sẽ nói (Ga 2,19) rằng Thiên Chúa quyết định không cư ngụ trong những “đồ vật” phượng tự nữa, những căn nhà bằng đá, nhưng hiện diện trong thân thể “sống động” của Đức Kitô. Bạn đang tìm một Đấng Cứu chuộc, hãy mở mắt ra mà nhìn ngắm: Thai nhi nhỏ bé và mảnh mai này, đang hiện diện trong bụng Mẹ người… “Có phải chính Người là Con Thiên Chúa, đầy ân sủng và chân lý không” (Ga l,14). Mầu nhiệm của Thiên Chúa còn đang giấu ẩn. Đó cũng là mầu nhiệm Thánh Thể.

Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng

Nếu dịch từng chữ theo bản văn Hy Lạp thì sẽ là: “Khi lời chào mừng của em vừa đến tai tôi, thai nhi trong bụng tôi đã nhảy lên vì vui mừng (Cùng một từ “Koilia” thế mà ba dịch giả lại dịch ba cách khác nhau!).

Từ “giật mình” hay “nhảy lên”, gợi cho ta nhớ tới một vũ điệu bước khiêu vũ của Vua Đavit trước khám giao ước (2 Sm 6,15-16). Từ “vui mừng” (“agalhasis”) chỉ được dùng trong những Thánh Vịnh (90 lần!) và không bao giờ được dùng trong ngôn ngữ cổ điển Hy Lạp. Đó là sự vui mừng trước sự hiện diện của Thiên Chúa. Sự vui mừng của Chúa ban cho, không giống như những lạc thú trên đời. Đó là chủ đề vui mừng mà Thánh Thần ban cho, chủ đề điển hình của Thánh Lu ca “các người sẽ nhảy nhót như những chú bê bé nhỏ thoát ra khỏi chuồng” như ngôn sứ đã nói như thế (Mt 3,10). Còn chúng ta những người Kitô hữu thì sao?

Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.

Rõ ràng, toàn thể trình thuật này chìm đắm trong đức tin và chỉ có thể giải thích theo đức tin. Đức Maria đã được gọi là “có phúc”, vì Bà có đức tin: Bà đã tin. Đức Giêsu sẽ nói lại về “mối phúc” này, mối phúc hàng đầu. Khi nghe người ta ca tụng mẹ mình, Đức Giêsu nói ngay: “Nhưng đúng hơn: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa” (Lc 11,28).

Mối phúc này có thể dành cho chúng ta. Trong đời sống, tôi có dùng thời giờ cho việc suy niệm Lời Chúa không? Giờ đây tôi bắt đầu kinh “Magnificat anima mea Dominum” “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi”.

 

97. Tình Yêu Nhập Thể

(Suy niệm của Huệ Minh)

Tin Mừng Lc 1:39-45 Tin Mừng hôm nay chứa chan niềm vui. Bà Elizabeth vui mừng vì được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm. Đức Maria vui mừng vì được Thiên Chúa đoái thương. Thánh Gioan Baotixita vui mừng vì được tha tội ngay từ khi còn trong lòng mẹ.

Mở lại những trang Kinh Thánh, có lần qua môi miệng các ngôn sứ, Chúa đã phán: Tư tưởng và đường nẻo của Ta không phải tư tưởng và đường lối của các ngươi. Như trời cao hơn đất bao nhiêu thì tư tưởng và đường lối của Ta cũng sẽ cao hơn tư tưởng và đường lối của các ngươi bấy nhiêu.

Trải qua dòng lịch sử, Ngài đã thực hiện đúng như thế. Đọc lại Cựu Ước chúng ta thấy, Đavít chỉ là một trẻ nhỏ đi chăn chiên tại Bêlem, thế nhưng Chúa đã chọn và đặt Đavít lên làm vua, chiến thắng được đạo quân hùng mạnh của Goliat và dẫn đưa dân Do Thái tới một thời đại hoàng kim.

Trường hợp của ngôn sứ Giêrêmia cũng vậy. Lúc bấy giờ ông mới chỉ là một em nhỏ còn nói cà lăm, thế nhưng Chúa đã chọn ông làm ngôn sứ để chuyển đạt thánh ý của Ngài cho toàn dân Do Thái.

Mầu nhiệm nhập thể là mầu nhiệm Ngôi Lời được cưu mang. Khi chấp nhận làm người, Con Thiên Chúa cần một người mẹ. Ngài được thụ thai cách lạ lùng trong lòng một trinh nữ, và Ngài đã lớn lên bình thường trong dạ mẹ. Dạ mẹ là mái nhà êm ấm đầu tiên, là Đền Thánh trước khi Con bước vào thế giới.

Và rồi nhiều lần nhiều lúc ta cũng thấy Chúa đã hành động như vậy. Trước mặt người đời thì Đức Maria và bà Isave là hai người không có hy vọng sinh con. Đức Maria thì khấn giữ mình đồng trinh. Còn bà Elizabeth thì vừa son sẻ, lại vừa cao niên. Quan niệm dân Do Thái cũng giống như quan niệm của người Việt Nam ngày xưa, coi sự kiện đông con nhiều cháu là một phúc lành do trời trao ban vì thế trong những dịp đầu xuân năm mới, chúng ta thường cầu chúc cho nhau: đa tử đa tôn đa phú quý, đông con nhiều cháu và giàu sang. Bởi đó son sẻ và đồng trinh sẽ bị người đời cười chê, vì phải chăng đó là dấu bị Chúa chúc dữ? Phải chăng đó là dấu chỉ tương đường với sự chết bởi vì nếu chết là hết sống, thì son sẻ và đồng trinh là hết chuyển thông dòng sự sống.

Tin Mừng hôm nay chứa chan niềm vui. Bà Elizabeth vui mừng vì được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm. Đức Maria vui mừng vì được Thiên Chúa đoái thương. Thánh Gioan Baotixita vui mừng vì được tha tội ngay từ khi còn trong lòng mẹ. Những niềm vui ấy hoà chung, biến buổi gặp gỡ thành một lễ hội vui mừng tạ ơn Thiên Chúa. Nguồn gốc của những niềm vui ấy là ơn Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần đã giúp chuẩn bị các tâm hồn đón nhận niềm vui ơn cứu chuộc. Ta thấy được ơn Chúa Thánh Thần qua những dấu hiệu sau đây.

Bà Elizabeth đang có mang lần đầu tiên trong lúc tuổi già và bà biết nhờ thiên thần đã nói với Giacaria chồng bà rằng: “Người con trai của bà sẽ được tràn đầy Chúa Thánh Thần từ trong lòng mẹ và người con đó sẽ đi trước Chúa để dọn đường cho Chúa”. Niềm vui đó tràn trề khi Maria chào bà, làm bà phải kêu lên trong hân hoan ngây ngất: “Bởi đâu mà tôi được diễm phúc là Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm tôi!”

Nguyên nhân chính yếu của sự vui mừng hôm nay đó chính là sự hiện diện của Chúa Giêsu, dầu Người mới tượng thai vài tuần trong lòng Mẹ Maria. Chúng ta có thể mở ngoặc một chút ở đây, để nhìn thấy sự kiện trong Phúc Âm hôm nay là một bằng chứng hùng hồn để tôn trọng đời sống con người bắt đầu từ lúc thụ thai. Mới có vài tuần trong lòng Mẹ, Chúa Giêsu đã là Thiên Chúa thật, đã mang niềm vui đến cho mọi người nhất là đem ơn thánh hóa đến cho Gioan cũng còn trong lòng mẹ. Và rồi ta đặt trọng tâm suy niệm vào niềm vui được ơn cứu độ, niềm vui gặp được Chúa. Cùng với Elizabeth và Gioan ước gì chúng ta cảm thấy được niềm vui Chúa đến với chúng ta, và cùng với Mẹ Maria ước gì chúng ta biết đem niềm vui đến cho mọi người.

Thiên Chúa vì yêu thương nhân loại vô cùng, nên Ngài đã đến với con người trong lịch sử, cách đây 2000 năm, để cứu độ và đem hạnh phúc đến cho mọi người, cho từng người. Khi còn tại thế, Ngài đã đến thăm nhiều người, săn sóc nhiều người, cải hóa nhiều người, biểu lộ tình yêu thương cho nhiều người. Nhưng vì nhập thể làm người, Ngài bị giới hạn trong không gian và thời gian, Ngài chỉ sống tại thế có 33 năm, chỉ quanh quẩn trong đất nước Do Thái, và chỉ có thể tiếp xúc được với một số rất ít người.

Chính vì tình yêu vô biên phổ quát của Ngài, Ngài muốn tiếp xúc với tất cả mọi người trên trần gian, để phục vụ, săn sóc họ, từng người một. Nhưng hiện nay Ngài không thể làm điều đó bằng chính thân xác của Ngài. Vì thế, Ngài muốn nhờ chính chúng ta làm điều ấy. Ngài muốn trở thành chính bản thân chúng ta để làm những công việc ấy, và chúng ta có thể giúp Ngài được toại nguyện ý đó.

Thiên Chúa muốn dùng chính bản thân chúng ta để thăm viếng những người chúng ta quen biết, yêu thương. Ngài muốn an ủi, vỗ về, khuyến khích, khuyên lơn, cảnh tỉnh họ bằng miệng lưỡi của ta. Ngài muốn săn sóc, làm việc phục vụ họ bằng chính bàn tay của ta. Ngài muốn yêu thương họ bằng chính trái tim của ta. Ngài muốn quan tâm tới họ bằng chính tâm trí của ta.

Qua ta, Thiên Cúa muốn biểu lộ tình thương vô biên của Ngài cho họ. Muốn thế, Ngài mong muốn ta trở thành hiện thân của yêu thương, thứ yêu thương bằng hành động chứ không phải chỉ bằng lời nói. Ta có là hiện thân của tình thương, thì ta mới trở nên hiện thân của Ngài. Và chính lúc ấy, ý muốn của Ngài là yêu thương phục vụ họ mới được thỏa mãn hoàn toàn.

Cùng với Mẹ Maria, mỗi người chúng ta biết mở rộng lòng ra để đón nhận niềm vui đích thực là Ngôi Lời Thiên Chúa và lên đường mang niềm vui ấy đến với những người xung quanh. Cầu mong cho tình liên đới hiệp thông giữa từng người trong chúng ta ngày càng trở nên tốt đẹp hơn góp phần làm cho cuộc sống có ý nghĩa hơn. Ý nghĩa vì chính chúng ta cùng đón nhận và chia sẻ niềm vui đích thực, niềm vui Ngôi Hai Thiên Chúa trong dịp lễ Giáng sinh sắp tới.

Ta hãy mừng vui ngây ngất trước nhan Mẹ! Nhưng còn mừng vui hơn nữa trước một Thiên Chúa dám chọn con đường của phàm nhân để bắt liên lạc với nhân loại.

 

98. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng

NHỮNG CUỘC THĂM VIẾNG XƯA VÀ NAY

(Suy niệm của Lm. Augustine, SJ.)

Gợi ý để sống và chia sẻ Tin Mừng

Bà Lely Lemieux là một Kitô hữu Canada. Từ 8 năm nay, bà là hội trưởng hội “Ngọn Lửa Cháy” của giáo phận thành phố Mông-rê-an. Hội có mục đích dẫn đường và cùng đi với các người trẻ trong cuộc hành trình nhắm tới tương lai. Ngoài ra, bà Mỹ còn năng thăm viếng các tù nhân, mang lại cho họ niềm hy vọng và sự cảm thông. Vậy do đâu mà bà Mỹ có được tinh thần nhiệt thành đối với người trẻ và với người tù tội? Hãy nghe lời bà Mỹ tâm sự:

Đời sống của tôi thật giản dị và đâm rễ sâu trong tình thương của Chúa. Giờ đây ở tuổi trưởng thành, tôi càng thấy rõ tôi hết lòng tin vào sự hiện diện và tác động của Thiên Chúa trong đời tôi. Tôi vô cùng cảm tạ Chúa về hồng ân đức tin đó. Tôi còn hưởng một hồng ân khác nữa là được sinh ra trong một gia đình trên thuận dưới hoà. Cha mẹ tôi rất quan tâm săn sóc con cái. Tình thương, sự chăm sóc tế nhị và lòng trìu mến của cha mẹ đối với tôi, là một món quà tôi không bao giờ quên, cũng không bao giờ giữ riêng lấy cho tôi.

Ngay ở tuổi 14, tôi đã dành giờ rảnh ngày thứ bảy đi giúp tắm rửa các em bé tại nhà thương Từ Bi. Kế đến tôi gia nhập hội Hướng Đạo. Các sinh hoạt Hướng Đạo đã cho tôi cơ hội sống với người trẻ.

Từ tám năm nay, tôi được giáo phận giao cho việc điều khiển hội đoàn “Ngọn Lửa Cháy”. Đây là cộng đoàn dành riêng cho người trẻ từ 18-25. Cứ vào cuối tuần, chiều thứ 6 đến chiều Chúa Nhật, họ họp lại để suy tư về những đề tài xoay quanh “Bản thân, tha nhân, gia đình và Chúa Kitô”. Mỗi chiều Chúa Nhật, tôi được an ủi rất nhiều khi thấy những người trẻ ra về với gương mặt vui tươi. Đó là những người trẻ đã từng trải qua những kinh nghiệm đau thương, như nghiện rượu, nghiện ma tuý, thất tình, cô đơn, không kiếm được việc làm, thiếu tự tin. Nhờ được chung sống và chia sẻ với nhau những ngày cuối tuần mà họ tìm lại được hơi ấm của tình người, nhất là có được hy vọng và lòng tự tin.

Ngoài ra, tôi còn thường xuyên thăm viếng các tù nhân. Những người này chiếm một chỗ đứng quan trọng trong đời tôi và mang lại cho tôi rất nhiều kinh nghiệm quý báu. Thật ra việc tiếp xúc với họ không phải là chuyện dễ dàng và đơn giản. Tôi không bao giờ biết trước được ai là người tôi sẽ gặp nơi nhà tù, và khi gặp họ tôi phải nói gì. Tôi hoàn toàn phó thác nơi Chúa Thánh Linh qua mỗi cuộc gặp gỡ. Chính Chúa Thánh Linh cho tôi biết phải nói gì. Tôi thường ra về lòng tràn đầy ơn bình an nhờ tham dự vào lòng thương xót của chính Chúa Giêsu.

Tôi có một niềm tin vững chắc nơi Chúa. Với tôi, Thiên Chúa là một người CHA tuyệt diệu, trên hết mọi người cha. Nơi Chúa, tôi đặt trọn niềm tin và tình cảm, nhờ đó tôi được an tâm trước mọi thử thách.

Bất Cứ Ai Đón Nhận Sự Hiện Diện Ưu Ái Của Thiên Chúa…

Buổi sáng khi thức dậy, tôi dâng ngày cho Chúa, rồi tôi khiêm tốn xin Chúa cho tôi trở nên người phản ảnh tình thương của Chúa cho tha nhân.

Với ai đó than phiền vì chỉ gặp toàn khó khăn xui xẻo, tôi liền hỏi người đó: “Đâu là chỗ đứng trong đời của bạn?” Quả thật, đối với tôi, Thiên Chúa chính là gia nghiệp đời tôi. Tôi tìm nơi Người sức mạnh, niềm hy vọng, tình thương và ánh sáng chiếu soi bước đường hàng ngày của tôi.

Riêng với Mẹ Maria, bà Lely Lemieux kể ra một câu chuyện nhỏ: “Trước kia, tôi có tật hút thuốc lá mỗi ngày hai gói! Tôi đã cố gắng bỏ tật xấu đó một số lần nhưng lần nào cũng thất bại. Ngày kia, một người bạn nói với tôi: “Bạn biết không? Đức Mẹ đã giúp mình bỏ thuốc đó.” Nghe vậy, tôi tự nhủ: “Chắc Đưc Mẹ cũng sẵn sàng giúp tôi bỏ thuốc.” Thế là tôi mang gói thuốc đặt dưới chân tượng Đức Mẹ. “Xin Mẹ giúp con bỏ thuốc từ này trở đi” và quả thật, từ hồi đó, Đức Mẹ đã giúp tôi bỏ hẳn tật hút thuốc.

Lời tâm sự của bà Lely Lemieux gợi ý cho thấy biến cố Đức Maria đi thăm viếng bà Isave thường được lặp đi lặp lại nhiều lần nhiều cách trong đời người Kitô hữu. Có thể nói chính việc lặp đi lặp lại này làm nên đời người Kitô. Quả thật không riêng gì bà Lely Lemieux, bất cứ ai đón nhận sự hiện diện ưu ái của Thiên Chúa đều được mời tham dự mầu nhiệm đi viếng của Đức Maria, Mẹ Chúa Cứu Thế.

Xuất Xứ Của Mầu Nhiệm Đi Viếng

Hãy coi xuất xứ của mầu nhiệm đi viếng này bắt rễ từ biến cố Truyền Tin. Một cô gái thôn quê làng Na-da-rét, mới 13-14 hoặc 15 tuổi, đã kết hôn và được Sứ Thần của Thiên Chúa đến loan tin động trời. Cô đã được ban cho đầy ơn sủng và được Thiên Chúa ở cùng (Lc 1,28), bây giờ cô còn được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Con Thiên Chúa làm người do quyền năng của Chúa Thánh Thần (c.31.35) vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được, nên Đức Trinh Nữ đã đặt mình hoàn toàn để Thiên Chúa sử dụng khi thưa: “Xin cứ làm cho tôi như Sứ Thần nói” (c.38). Đó chính là xuất xứ của mầu nhiệm của mọi việc viếng thăm có ý nghĩa Kitô giáo, khởi sự với cuộc thăm viếng bà Isave được kể trong bài Tin Mừng hôm nay.

Điều kiện tiên quyết cho giá trị của mọi cuộc thăm viếng Kitô giáo là Thiên Chúa ở cùng ta. Dọc theo mọi ơn gọi trong Kinh Thánh, như với nhà lãnh tụ Mô-sê (Xh 3,12), với ngôn sứ Giê-rê-mi (1,8.19; 15,20), với tổ phụ Áp-ra-ham (St 26,24; 28,15) cũng như với Đức Trinh Nữ Maria, khởi sự phải là việc Thiên Chúa chiếu cố đến thân phận yếu hèn (Lc1, 48) của con người mà Người muốn ban ơn. Ơn Người ban bao giờ cũng vậy, phải phát xuất do lòng tốt lành của Người. Tuỳ ở mức sẵn sàng đón nhận mà con người được tràn đầy ân sủng của Thiên Chúa. Nơi Đức Maria sẽ không có rào cản đối với ơn Chúa hiện diện và hành động, nên Mẹ được nhìn nhận là “Đấng đầy ân sủng” (Lc 1,28). Loài người càng thoát ách tội lỗi (dù chỉ là thoát khỏi một đam mê nhỏ như thói quen hút thuốc), ơn Chúa càng tự do hoạt động. Nhưng khởi sự bao giờ cũng là chính Chúa hiện diện và hoạt động như lời bà Lely Lemieux nói “ngay từ nhỏ tôi đã cảm nhận tình thương của Chúa. Giờ đây ở tuổi trưởng thành, tôi càng thấy rõ tôi đã hết lòng tin vào sự hiện diện và hành động của Thiên Chúa trong đời tôi”.

Thiên Chúa mặc xác phàm nơi lòng Đức Maria do quyền năng tác động của Chúa Thánh Thần: đó là cội nguồn của sự hiện diện và hành động hoàn toàn mới của Thiên Chúa ở giữa loài người. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Maria sẵn sàng (c.39) như thế nào để Chúa sử dụng Mẹ trong vai trò hòm bia Giao Ước mới của Thiên Chúa. Rõ ràng cuộc gặp gỡ của hai người mẹ là cơ hội để hai người con gặp nhau. Có thể nói ông Gioan Tẩy Giả bắt đầu thi hành sứ mạng tiền hô bằng động tác nhảy lên trong bụng mẹ (c.41) để giới thiệu vị Thiên Sai Giêsu cũng còn trong dạ mẹ. Hẳn bà Lely Lemieux có lý khi khám phá ra nguồn suối của ơn nhiệt thành tông đồ ngang qua cha mẹ mình khi nói: “Cha mẹ tôi rất quan tâm săn sóc con cái. Tình thương, sự chăm sóc tế nhị và lòng trìu mến của cha mẹ đối với tôi, là món quà tôi không bao giờ quên, cũng không hề giữ riêng lấy cho tôi”.

Nhưng mãnh liệt nhất trong nhiệm cục mới của ơn cứu độ là sự hiện diện và hành động của Chúa Thánh Linh. Với biến cố Đức Giêsu được Mẹ Người cưu mang do quyền năng của Chúa Thánh Linh (c.35), Thần Khí của Thiên Chúa sẽ hành động mạnh mẽ nơi các nhân vật khác nữa như bà Isave (c.41), ông Da-ca-ria (c.67) cũng như cụ già Si-mê-on (Lc 2,27). Hiện tượng đó báo hiệu việc Đức Giêsu sau này được tôn vinh. Đó là lúc Thiên Chúa ra tay uy quyền nâng Người lên, trao Người Thánh Thần đã hứa để Người đổ xuống: “Đó là điều anh em đang thấy đang nghe” (Cv 2,33), đó cũng chính là hiện tượng mà bà Lely Lemieux nghiệm thấy khi thăm viếng các tù nhân như chính bà tâm sự: “Tôi không bao giờ biết trước được ai là người tôi sẽ gặp. Tôi hoàn toàn phó thác cho Chúa Thánh Linh qua mỗi cuộc gặp gỡ”.

Một số câu hỏi gợi ý

  1. Lời tâm sự của bà Lely Lemieux có điều gì đáng chú ý hoặc đánh động bạn chăng?
  2. Bạn nghĩ vì lý do gì mà Đức Maria đã vội vã lên đường (c.39)?