05/11/2024
370
Các bài suy niệm Chúa Nhật 32 Thường Niên – B















 





Các bài suy niệm Chúa Nhật 32 Thường Niên – B

Lời Chúa: 1V. 17, 10-16; Dt. 9, 24-28; Mc. 12, 38-44
 

MỤC LỤC

  1. Tất cả những gì bà có. 5
  2. Bỏ vào tất cả. 7
  3. Chúa Nhật 32 Thường Niên. 10
  4. Câu chuyện về người góa phụ. 13
  5. Chúa Nhật 32 Thường Niên. 20
  6. Đồng xu của bà góa. 24
  7. Lòng tốt việc tốt 27
  8. Chúa Nhật 32 Thường Niên. 31
  9. Chúa Nhật 32 Thường Niên. 36
  10. Đồng tiền của bà góa. 40
  11. Ở đời quí nhất tấm lòng. 42
  12. Đức tin và tấm lòng của bà góa. 45
  13. Giá trị đạo đức. 49
  14. Chúa Nhật 32 Thường Niên. 52
  15. Chúa Nhật 32 Thường Niên. 59
  16. Nghèo tiền nhưng giàu tình. 63
  17. Tấm gương bà góa. 67
  18. Quà tặng dốc cạn túi 80
  19. Chúa Nhật 32 Thường Niên. 83
  20. Quảng đại với Thiên Chúa. 86
  21. Dâng cho Chúa. 93
  22. Tinh thần chia sẻ. 98
  23. Sống quảng đại 100
  24. Bác ái 104
  25. Bố thí 107
  26. Chúa Nhật 32 Thường Niên. 111
  27. Chúa Nhật 32 Thường Niên. 115
  28. Tình yêu lớn lao. 119
  29. Cho bằng tấm lòng. 124
  30. Chúa Nhật 32 Thường Niên. 126
  31. Ai nghèo hơn ai?. 129
  32. Quảng đại và tự do. 132
  33. Tình góa. 135
  34. Bà góa nghèo. 140
  35. Tấm lòng người nghèo. 143
  36. Từ thiện. 146
  37. Ý nghĩa dâng hiến. 151
  38. Chúa Nhật 32 Thường Niên. 155
  39. Tấm lòng quảng đại 160
  40. Chúa Nhật 32 Thường Niên. 163
  41. Chân thành giữ đạo. 166
  42. Ba loại người cho. 168
  43. Cho. 172
  44. Tấm lòng. 174
  45. Chúa Nhật 32 Thường Niên. 176
  46. Đồng tiền quý giá. 179
  47. Của ít lòng nhiều. 182
  48. Chúa Nhật 32 Thường Niên. 195
  49. Cõi lòng góa phụ. 201
  50. Cho tất cả. 206
  51. Chúa Nhật 32 Thường Niên. 209
  52. Coi chừng hàng giả!. 212
  53. Chúa Nhật 32 Thường Niên. 216
  54. Đồng xu bà góa. 224
  55. Chúa Nhật 32 Thường Niên. 228
  56. Những tấm lòng vàng. 231
  57. Ca tụng bà góa. 234
  58. Chúa Nhật 32 Thường Niên. 236
  59. Cho con tim.. 238
  60. Đồng tiền của bà góa. 241
  61. Can đảm cho đi 243
  62. Chúa Nhật 32 Thường Niên. 246
  63. Trao ban. 248
  64. Dám cho đi tất cả. 250
  65. Tấm lòng. 252
  66. Nghèo túng. 256
  67. Hôn nhân trên Thiên Đàng. 259
  68. Chúa Nhật 32 Thường Niên. 262
  69. Đồng tiền. 265
  70. Cho đi 268
  71. Chúa Nhật 32 Thường Niên. 271
  72. Chúa Nhật 32 Thường Niên. 276
  73. Cho mà không mất 280
  74. Phẩm giá đời sống. 282
  75. Kết quả. 284
  76. Chúa Nhật 32 Thường Niên. 287
  77. Tâm tình hiến dâng. 290
  78. Chúa Nhật 32 Thường Niên. 296
  79. Tâm tình. 299
  80. Chúa Nhật 32 Thường Niên. 302
  81. Chúa Nhật 32 Thường Niên. 307
  82. Chúa Nhật 32 Thường Niên. 312
  83. Chúa Nhật 32 Thường Niên. 317
  84. Chúa Nhật 32 Thường Niên. 320
  85. Chúa Nhật 32 Thường Niên. 326
  86. Chúa Nhật 32 Thường Niên. 341
  87. Sự quảng đại của bà góa. 346
  88. Hai bà goá. 350
  89. Bà già bán rau. 356
  90. Chuyện sang, hèn. 362
  91. Đồng tiền bà góa nghèo. 368
  92. Chúa Nhật 32 Thường Niên. 372
  93. Giá trị thực. 376
  94. Vay dầu. 378
  95. Chúa Nhật 32 Thường Niên. 381
  96. Dâng hiến trọn lòng. 393
  97. Sức mạnh của lòng tin. 398
  98. Suy niệm các ngày trong tuần 32 TN.. 402



1.Tất cả những gì bà có

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu)

Suy Niệm

Bài Tin Mừng hôm nay đặt bên nhau hai hình ảnh trái ngược. Một bên là các kinh sư, một bên là một bà góa. Chúng ta được mời gọi nhìn cách hành xử bên ngoài của họ, từ đó thấy được thái độ nội tâm của mỗi bên.

Các kinh sư thuộc về giới lãnh đạo cấp cao của Do thái giáo. Trong một xã hội được chi phối toàn diện bởi Luật Môsê, thì những người giỏi Luật như các kinh sư đóng vai trò rất quan trọng. Họ có nhiều uy tín và ảnh hưởng trên đời sống tinh thần của dân. Chính vì thế không lạ gì nếu có một số kinh sư đã vấp ngã. Một người vừa có tri thức, vừa có quyền lực, dễ bị vấp vào thói háo danh. Đức Giêsu nêu lên một vài nét chấm phá về họ. Trong hội đường, nơi công cộng hay đám tiệc, họ thích mặc áo thụng, thích được chào, thích chỗ cao. Nói chung, họ thích mình trở nên trung tâm chú ý của người khác. Hiểu biết của họ về Lời Chúa sau bao năm học tập lại trở nên phương tiện để họ tìm vinh danh cho mình thay vì cho Chúa. Tệ hơn nữa, họ lại mang bộ mặt đạo đức khi giả vờ đọc kinh dài. Với uy tín và sự giả hình khéo léo, họ nuốt chửng nhà của các bà góa.

Ngược với hình ảnh của một vị kinh sư cao trọng, quyền uy là chuyện một bà góa nghèo bỏ tiền vào hòm dâng cúng. Đức Giêsu cố ý ngồi gần để quan sát người giàu kẻ nghèo bỏ tiền. Ngài muốn dạy các môn đệ một bài học lớn khi gọi họ lại và khẳng định rằng bà góa này đã bỏ nhiều hơn mọi người khác, mặc dù bà chỉ bỏ vào thùng số tiền rất nhỏ. Nhưng cái rất nhỏ này lại là tất cả những gì bà có, tất cả của nuôi thân. Hẳn các môn đệ ngỡ ngàng vì cách đánh giá ấy của Thầy, cũng là cách đánh giá con người của Thiên Chúa. Ngài đánh giá theo tấm lòng, chứ không theo lễ vật. Ngài không mãn nguyện với của dư thừa, nhưng Ngài đòi tất cả. Tất cả của bà góa là hai đồng kẽm, thuộc đơn vị tiền tệ thấp nhất. Hóa ra người túng thiếu cũng có thể dâng chính cái nghèo của mình.

Một kinh sư có học thức, có vai vế và bề ngoài có vẻ đạo đức khác với bà góa cô thân cô thế và túng nghèo, ở chỗ ông quay vào mình, loay hoay với tiếng tăm và lợi nhuận của mình. Còn bà thì quay về phía Thiên Chúa, với thái độ quảng đại, tin tưởng, phó thác và liều lĩnh. Chúng ta ai cũng có hai đồng kẽm. Đừng mặc cảm khi phải bỏ đồng tiền nhỏ nhoi vào hòm tiền, nếu quả thực chúng ta chỉ có hai đồng kẽm.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa, xin cho con quả tim của Chúa.

Xin cho con đừng khép lại trên chính mình, nhưng xin cho quả tim con quảng đại như Chúa vươn lên cao, vượt mọi tình cảm tầm thường để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ.

Xin cho con vượt qua mọi hờn oán nhỏ nhen, mọi trả thù ti tiện.

Xin cho con cứ luôn bình an, trong sáng,

không một biến cố nào làm xáo trộn,

không một đam mê nào khuấy động hồn con.

Xin cho con đừng quá vui khi thành công, cũng đừng quá bối rối khi gặp lời chỉ trích.

Xin cho quả tim con đủ lớn để yêu người con không ưa.

Xin cho vòng tay con luôn rộng mở để có thể ôm cả những người thù ghét con.

 

2.      Bỏ vào tất cả

(Trích trong ‘Manna’)

Suy Niệm

Khó lòng nhận ra đồ giả trong các món hàng.

Ta thường đánh giá một sản phẩm dựa trên mẫu mã, nên dễ bị đánh lừa về chất lượng.

Thật ra đồ giả cũng có ở nơi con người.

Làm cho mình trẻ hơn nhờ trang điểm, tốt hơn nhờ ăn nói. Làm cho mình có dáng trí thức hơn, quý phái hơn để chiếm được lòng tin, lòng quý mến của người khác.

Có loại người giả hình dạy một đàng, làm một nẻo, bắt người khác làm những điều mình chẳng bao giờ làm, mạt sát người khác về những tội mình không tránh khỏi.

Có loại người giả hình rất tử tế với người ngoài, còn sống với người trong nhà thì không ai chịu nổi.

Nói chung mọi thứ giả hình đều không thật.

Đức Giêsu cảnh giác chúng ta về thứ giả hình đạo đức: “Anh em hãy coi chừng…”, kẻo lại giống một số kinh sư.

Đức Giêsu cố ý ngồi đối diện với thùng tiền ở Đền Thờ. Ngài tò mò muốn xem đám đông bỏ tiền ra sao. Những người giàu bỏ nhiều hơn cả. Nhưng Ngài lại xúc động khi thấy một bà goá nghèo rón rén bỏ vào thùng hai đồng xu nhỏ. Ngài quả quyết trước mặt các môn đệ: “Bà goá này đã bỏ nhiều tiền hơn người khác, vì mọi người lấy từ cái dư thừa mà bỏ vào, còn bà, bà lấy từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào tất cả những gì bà có, tất cả của nuôi thân.”

Các môn đệ ngỡ ngàng trước cách đánh giá của Đức Giêsu, cách nhìn con người dựa trên tấm lòng của họ.

Bà goá bỏ tiền ít hơn mọi người, nhưng dưới mắt Đức Giêsu, bà đã bỏ nhiều hơn cả, vì bà đã bỏ tất cả.

Lối đánh giá của Đức Giêsu đòi ta xét lại lối đánh giá của mình về người khác.

Có khi chúng ta ca ngợi một người chỉ vì người ấy đã có những đóng góp lớn lao, đã đem lại những kết quả cụ thể, rõ ràng.

Có khi chúng ta chê một người vì người đó kém cỏi, thiếu năng lực. Tiếng khen chê của ta thường dựa trên hiệu quả bề ngoài, và ít đụng đến phần nội tâm sâu thẳm.

Lối đánh giá của Đức Giêsu cũng đòi ta xét lại lối đánh giá của mình về chính mình.

Tôi xao xuyến khi bị chê, tự mãn khi được khen. Tôi quá trọng dư luận đến nỗi trở nên nô lệ cho dư luận. Thật ra tôi cần đánh giá mình dựa trên cái nhìn của Chúa. Chúa thấy tôi thế nào thì tôi là thế ấy.

Điều quan trọng khiến tôi bận tâm đó là tôi có dâng tất cả bản thân cho Chúa không, chẳng giữ lại gì cho mình, dù chỉ một xu nhỏ. Cần rất nhiều liều lĩnh khi bỏ nốt đồng xu cuối cùng để thực sự trở nên người tín thác trọn vẹn vào Chúa.

Gợi Ý Chia Sẻ

Có khi nào bạn đánh giá sai người khác không? Có khi nào bạn bị lừa vì cái bề ngoài của người khác không?

Mỗi người đều ít nhiều có tính giả hình. Làm sao có thể sống thành thật với chính mình, với tha nhân và với Thiên Chúa?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, khi đến với nhau, chúng con thường mang những mặt nạ. Chúng con sợ người khác thấy sự thật về mình. Chúng con cố giữ uy tín cho bộ mặt dù đó chỉ là chiếc mặt nạ giả dối.

Khi đến với Chúa, chúng con cũng thường mang mặt nạ. Có những hành vi đạo đức bên ngoài để che giấu cái trống rỗng bên trong. Có những lời kinh đọc trên môi, nhưng không có chỗ trong tâm hồn, và ngược hẳn với cuộc sống thực tế.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con cũng thường ngắm mình trong gương, tự ru ngủ và đánh lừa mình, mãn nguyện với cái mặt nạ vừa vặn. Xin giúp chúng con cởi bỏ mọi thứ mặt nạ, đã ăn sâu vào da thịt chúng con, để chúng con thôi đánh lừa nhau, đánh lừa Chúa và chính mình.

Ước gì chúng con xây dựng bầu khí chân thành, để chúng con được lớn lên trong bình an.

 

3.      Chúa Nhật 32 Thường Niên

(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)

ÁNH MẮT THIÊN CHÚA

Người làm sao chiêm bao làm vậy. Tâm hồn thế nào sẽ bộc lộ ra trong ánh mắt thế ấy. Hôm nay, Chúa Giêsu ngồi trước cửa đền thờ Giêrusalem quan sát những người bỏ tiền vào hòm dâng cúng trong đền thờ. Người đã thấy. Và đã phán đoán. Qua cách quan sát và phán đoán ta có thể thấy được tâm hồn của Người.

Chúa quan tâm tới những người bé nhỏ. Hàng hàng lớp lớp người tiến đến dâng cúng. Tin Mừng thuật lại: “Có lắm người giàu bỏ thật nhiều tiền. Cũng có một bà góa nghèo đến bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng bạc Rôma”. Thật lạ lùng. Biết bao nhiêu người Chúa chẳng quan tâm, chỉ quan tâm tới một người bé nhỏ nhất. Chúa chỉ quan tâm tới một người nghèo nhất. Một bà góa. Bà góa này chắc chắn phải gầy gò bé nhỏ, ăn mặc rất đơn sơ. Nhưng Chúa đã chú ý đến bà. Người ta bảo tìm gì gặp nấy. Chúa yêu thương những người bé nhỏ, nên quan tâm tới người bé nhỏ và chỉ nhìn thấy những người bé nhỏ. Ánh mắt quan tâm nên nhìn thấy rõ, dù người đó bé nhỏ, lạc giữa đám đông. Ánh mắt yêu thương nên thấy người đó thật đẹp dù ăn mặc rất đơn sơ, hình dáng rất tiều tụy. Quả thật trái tim Chúa nhân hiền như người mục tử tốt lành, bỏ chín mươi chín con chiên béo tốt để đi tìm một con chiên lạc còm cõi. Như người phụ nữ đốt đèn tìm một đồng tiền nhỏ bé rơi trong góc nhà.

Chúa nhìn bên trong tâm hồn. Biết bao người giàu sang béo tốt quần là áo lụa, nhưng Chúa không nhìn. Chúa chỉ nhìn người phụ nữ nghèo nàn, gầy gò, rách rưới. Biết bao người dâng cúng tiền rừng bạc biển mà Chúa chẳng khen. Chúa chỉ khen người phụ nữ bỏ vào thùng tiền hai đồng xu nhỏ. Không những khen mà Chúa còn cho rằng bà này bỏ nhiều hơn những người khác. Thì ra Chúa đánh giá không dựa theo khối lượng nhưng dựa theo chất lượng. Chúa không nhìn bề ngoài nhưng nhìn vào tấm lòng. Chúa cho biết tại sao Chúa khen bà: “Quả vậy, mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để sống”. Chúa đã nhìn thấu tâm hồn của bà. Một tâm hồn thiết tha yêu mến Chúa và với công việc nhà Chúa. Chúa đã thấy tấm lòng của bà. Một tấm lòng quảng đại dám cho đi tất cả những gì cần thiết cho đời sống của mình.

Lời Chúa hôm nay vừa cảnh tỉnh tôi vừa dạy dỗ tôi về cách sống đạo và về cách nhìn người.

Về cách nhìn người, Chúa dạy tôi đừng chạy theo những người giàu sang phú quý quyền cao chức trọng, nhưng hãy biết chú ý tới những người bé nhỏ nghèo hèn trong xã hội. Đừng xét đoán người theo hình dáng bề ngoài, theo y phục hay theo tiền của. Hãy biết nhìn bên trong tâm hồn con người. Có những người có địa vị cao nhưng tâm hồn lại thấp hèn. Có những người nghèo hèn nhưng tâm hồn rất cao thượng. Có những người giàu có nhưng rất bủn xỉn. Có những người nghèo khó nhưng rất quảng đại.

Vì thế trong đời sống đạo, Chúa dạy tôi đừng giả hình vì Chúa nhìn thấu rõ tâm hồn. Tôi có thể lừa dối người khác, nhưng không thể lừa dối Chúa. Đừng khoe khoang kiêu ngạo vì Chúa chỉ yêu thích tâm hồn bé nhỏ khiêm nhường. Đừng tìm chỗ đứng trong xã hội, trước mặt người đời, nhưng hãy tìm chỗ đứng trong lòng Thiên Chúa.

Lạy Chúa, xin dạy con biết noi gương bà góa nghèo, biết sống đơn sơ chân thật, nhưng luôn quảng đại với Chúa và với anh em. Amen.

GỢI Ý CHIA SẺ

1- Trong Phúc Âm ta thấy Chúa quan tâm tới những người nào?

2- Chúa đánh giá người ta theo hình dáng bên ngoài hay tâm tình bên trong?

3- Vì sao Chúa khen bà goá dù bà bỏ rất ít tiền vào nhà thờ?

4- Bản thân tôi rút được bài học gì qua bài Tin Mừng hôm nay?

 

4.      Câu chuyện về người góa phụ

(Suy niệm của Đức cố Giám mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)

Suy Niệm

Nhiều khi chúng ta muốn giữ đạo một cách thoải mái. Nhưng Lời Chúa hôm nay cảnh giác chúng ta về quan niệm này. Tiên tri Êlia ngày trước đã giữ đạo rất vất vả. Đức Yêsu trong bài Tin Mừng cũng bảo chúng ta đừng bắt chước các ký lục Dothái, nhưng hãy xem gương người góa phụ dám dâng cúng cả đồng trinh cuối cùng. Và tác giả Hipri cho chúng ta thấy Đức Yêsu đã trở thành Thượng tế một cách khổ đau như thế nào. Chúng ta cần suy niệm các bài Kinh Thánh hôm nay để đón nhận ơn cứu độ của Chúa muốn đến với chúng ta hằng ngày trong đời sống.

  1. Câu Chuyện Về Êlia

Chúng ta đã nói nhiều về Êlia. Ông là tiên tri của Chúa, sống ở thời đất nước Dothái phân đôi. Ông được lệnh nói tiên tri ở miền Bắc, tạm gọi là Israel. Các vua ở đây đi xa đường lối của Thiên Chúa mau lẹ hơn các vua ở Yuđa. Đặc biệt, vua Omri, nước Israel đã cưới Izabel, công chúa nước Tyr, cho Akhab hoàng tử kế vị ông. Bà này đưa tà giáo vào cung điện, quảng cáo cho thần Baal, một thần được coi như nắm giữ mưa nắng ở trên trời và do đó cả mùa màng dưới mặt đất. Êlia chống đối hoạt động của bà. Có lần ông thách thức phe tà giáo ở núi Camêlô. Câu chuyện thời danh ấy ai ai cũng biết (I Các Vua 18,20-40). Nhưng rồi Izabel đã trả thù, bắn tin sai người bắt Êlia… Nhà tiên tri phải đi ẩn ở trên núi Horeb. Nhưng được thần lương bổ sức, ông lại tiếp tục. Cuộc đời của ông là cuộc đời chiến đấu với tà giáo để bảo vệ độc thần. Và các câu chuyện kể về ông đều ít nhiều nói lên sự phấn đấu này.

Trong đoạn trích sách Các Vua hôm nay cũng vậy. Có rất nhiều yếu tố chiến đấu mà không ý tứ người ta sẽ không dễ nhận ra. Tác giả kể có một góa phụ ở Serepta hôm ấy đi kiếm củi. Êlia thấy bà ta đội một cái bình trên đầu thì tưởng bà ta đi múc nước. Nhưng không, đó là một cái vò đựng một chút bột còn sót lại. Bà ta đi kiếm củi để về nướng chút bột đó lên nuôi sống mình và đứa con đang ở nhà.

Đó là hình thức văn chương tác giả dùng để nói lên thời kỳ hạn hán và đói kém ở trong dân. Không phải vì Baal không làm mưa cho mùa màng tốt tươi nhưng vì Êlia đã tuyên sấm với Akhab rằng: “Yavê hằng sống! Thiên Chúa của Israel, Đấng tôi chầu hầu, những năm tới đây sẽ không có sương, cũng không có mưa, trừ phi là thừa lệnh của tôi” (17,1). Tiếp theo đó, tác giả đã mô tả cảnh hạn hán để làm chứng hiệu lực của lời sấm, tức là uy quyền của Yavê và tiên tri của Người. Hơn nữa sự kiện lại xảy ra ở Serepta thuộc dân ngoại. Và điều này làm chứng Yavê cai trị toàn thế giới chứ không riêng gì ở đất Israel. Người thống trị cả những nơi mà người ta bảo là giang sơn của Baal hay của thần nào khác vì tất cả chỉ là ngẫu tượng và duy một mình Yavê là Chúa.

Tác giả lại chọn câu chuyện một góa phụ. Phải chăng ông không có ý chống đối và mỉa mai bà Izabel? Góa phụ kia dễ thương biết bao và bà sẽ được phúc. Còn Izabel? Tác giả để cho độc giả từ đó mà suy.

Ông cho ta thấy Êlia phải xin nước, rồi xin bánh của một góa phụ. Ngày xưa các góa phụ là hình ảnh của những thành phần lam lũ, khổ sở, túng cực trong dân. Thế mà Êlia phải đến xin nước và bánh của một người như thế. Đời ông không khổ cực và bị dồn vào túng cực sao? Điều này muốn nói lên thân phận Người Tôi Tớ Chúa. Họ bị “rạc gáo”. Đời họ còn hơn phong sương vì họ còn bị tầm nã, bắt bớ và giết đi. Dù sao bề ngoài họ cũng chỉ như những chiếc bình sành, tuy bên trong họ mang những kho tàng quý giá. Chính câu chuyện Êlia làm chứng. Ông đang đói khát cho bản thân mình. Nhưng Lời Chúa ông đang mang trong mình có thể làm cho bình bột không hết và bình dầu không cạn. Những ơn này dành để cho người khác. Và ở đây, cho người góa phụ thành Serepta.

Bà được ơn như vậy, mặc dầu bà là dân ngoại và đang sống trên đất của lương dân. Điều này làm chứng ơn Chúa không kỳ thị ai. Nhưng mọi kẻ có điều kiện đều có khả năng nhận được. Người là Thiên Chúa của mọi người và muốn thi ân cho hết thảy những ai biết đón nhận.

Người góa phụ thành Serepta không những tỏ ra rất nhân đạo, nhưng nhất là còn tin ở lời vị tiên tri và tin vào Lời Chúa. Chính niềm tin ấy khiến bà dám làm bánh cho nhà tiên tri ăn trước. Bà như quên và như bỏ mạng sống của mẹ con bà vì tin vào lời nhà tiên tri. Và Chúa đã thưởng công lòng tin này, khiến câu chuyện về bà hôm nay đáng được dùng để dẫn nhập vào bài Tin Mừng. Nhưng chúng ta đừng vội đi qua mà không ghi kỹ lấy nhiều bài học thâm thúy của đoạn sách Các Vua.

Không kể những tư tưởng về đạo độc thần và phổ quát, chúng ta hãy nhớ gương Êlia và người góa phụ này. Cả hai đã giữ đạo và sống đạo không dễ dàng. Êlia suốt đời phải chiến đấu; lắm lúc thật rã rời và nhục nhã. Người góa phụ trông cũng tội nghiệp: chỉ còn một chút bột mà cũng phải hy sinh. Nhưng đó là những con người thánh, dám vì lòng tin Chúa mà chịu đựng gian khổ thử thách. Hậu thế không quên được những con người như vậy. Cũng như câu chuyện về người góa phụ trong bài Tin Mừng hôm nay sẽ luôn luôn còn sống động.

  1. Câu Chuyện Về Người Góa Phụ

Thoạt đầu chúng ta ít thấy có liên lạc giữa các đoạn Đức Yêsu nói về các ký lục và câu chuyện về bà góa. Thánh Marcô đặt cả hai việc xảy ra trong Đền thờ. Và có lẽ người đã dùng chữ bà góa trong câu nói về các ký lục: “ngốn cả nhà cửa các bà góa” để chuyển sang câu chuyện bà góa nọ bỏ hai trinh vào hòm tiền cúng. Tuy nhiên chúng ta cũng có thể nhìn ra một liên lạc về ý tưởng. Phần đầu Đức Yêsu sẽ công kích thái độ đạo đức giả dối của bọn ký lục; và phần sau Người trỏ cho chúng ta thấy thái độ đạo đức đích thực nơi người góa phụ, để dạy dỗ chúng ta.

Trước hết, Người tỏ ra không ưa lối sống đạo của các ký lục. Họ khoe khoang, tham danh vọng, vì họ hay qua lại những nơi đông người, y phục xúng xính cho người ta dãn ra dành lối cho họ và chào cả trong hội đường lẫn nơi các bàn tiệc. Trong khi đó, Đức Yêsu vẫn bảo người ta khi cầu nguyện phải khiêm tốn và cúi đầu, đấm ngực ăn năn thống hối. Và khi đi dự tiệc hãy ngồi những hàng ghế dưới. Có lần Người còn bảo môn đệ “chớ cho gọi mình là Thầy vì Thầy của các ngươi chỉ có một, còn các ngươi hết thảy đều là anh em” (Mt 23,8). Tệ hơn nữa, các ký lục còn làm nhiều bất công xã hội. Đối với cả những phần tử đáng thương nhất, vì khổ sở nhất và cần được nâng đỡ nhất. Đó là các bà góa. Họ có gì đâu? Của cải chồng họ để lại thuộc về trưởng nam. Có thể trước đó họ đã gửi gắm ở đâu được một chút của nào đó. Hay tài sản riêng họ có trước khi về nhà chồng, họ đã đem gửi nơi các ký lục mà họ tưởng sẽ là những người đạo đức nâng đỡ họ. Ai ngờ bọn này lại lợi dụng và dã tâm ngốn cả nhà cửa của họ! Trong khi đó, bọn ký lục còn làm bộ cầu nguyện lâu dài để mặc hình thức đạo đức. Nhưng Đức Yêsu lên án thứ đạo đức giả hình này. Và Người muốn cho các môn đồ thấy sự đạo đức chân thật.

Cơ hội đến khi có nhiều người đến bỏ tiền vào hòm cúng. Lắm người giàu có bỏ nhiều. Bà góa khó nghèo nọ cũng đến và bỏ vào hai trinh, tức là không đáng kể gì. Nhưng Đức Yêsu nói: bà đã bỏ nhiều hơn cả, vì mọi người lấy của dư bỏ vào, còn bà lấy tất cả của độ thân mà dâng cúng.

Dĩ nhiên có thể có nhiều bài học ở đây. Người ta không xem mặt mà bắt hình dong. Không phải vì bà góa nọ nghèo mà không đáng trọng bằng kẻ giàu có; và không phải vì bà bỏ ít mà lòng đạo đức của bà thua kém ai. Cũng như tác giả sách Các Vua đã lấy hình ảnh một góa phụ ở Serepta để đối chọi với con người lộng quyền ở thời bấy giờ là Izabel, thì ở đây thánh Marcô cũng đặt người góa phụ nghèo khó đối lập với bọn giàu có và các ký lục xúng xính trong y phục. Thân góa phụ đã đáng thương rồi. Thế mà Marcô còn thêm tính từ nghèo khó. Cũng như Êlia xưa đã đáng thương khi bị tầm nã, thế mà tác giả sách Các Vua còn bắt ông phải ngửa tay ra xin nước uống và bánh ăn của một góa phụ. Đó là những con người nghèo của Chúa. Người mến họ vì họ dám phục vụ Người với hết cả linh hồn và sức lực. Kìa bà góa nghèo nọ đang đến bỏ vào hòm tiền, tất cả của độ thân của bà, tức là tất cả mạng sống của bà. Bà làm một cử chỉ mà Đức Yêsu không thể không nhìn thấy như muốn báo trước chính công việc Người sẽ làm, là thí mạng sống mình cho chúng ta. Chúng ta hãy nghe tác giả thư Hipri bàn về vấn đề này.

  1. Câu Truyện Về Đức Kitô

Hôm nay tác giả nhắc cho chúng ta nhớ, Đức Kitô cũng đã tiến vào thánh điện. Không phải thánh điện nhân tạo, do tay loài người dựng nên. Nói rõ hơn, không phải thánh điện trong đền thờ Yêrusalem ngày trước. Bởi vì ở đây không phải là nơi Thiên Chúa ngự thật sự. Yêrusalem chỉ là hình bóng hay bản sao của thánh điện trên trời. Đây mới thật là thánh điện Đức Kitô đã vào nhờ mầu nhiệm vượt qua của Ngài. Thánh điện trên trời này chính là bản tính Thiên Chúa và cung lòng của Người.

Như vậy, Đức Yêsu vượt xa các ký lục và những người đến đền thờ dâng tiền hôm nay, kể cả bà góa nọ. Ngay các vị Thượng tế trong đạo cũ cũng thua kém hẳn Người. Vì họ cũng chỉ vào trong một thánh điện nhân tạo, cho dù nơi ấy có được gọi là nơi Cực Thánh, và chỉ có vị Thượng tế mỗi năm được vào một lần.

Đức Kitô còn hơn hẳn họ vì Người vào thánh điện không phải là để thi hành một lễ tế vô giá trị như họ. Lễ dâng của Người có giá trị vô song. Họ thì chỉ dâng tế vật. Trường hợp vị Thượng tế thì dâng máu thay vật. Đó là những của lễ “ở ngoài họ”, cho dù có được gọi là thế vật cho họ đi nữa. Chính họ đã ý thức giá trị kém cỏi của những lễ dâng này, nên họ cứ phải dâng đi dâng lại. Và hằng năm vị Thượng tế lại phải vào nơi cung thánh. Nhưng nhân hoặc cộng các sự không hoàn toàn vần chỉ đem lại một cộng số hay tổng số không hoàn toàn.

Trong khi đó, lễ dâng của Đức Kitô là chính Máu của Người, sự sống của Người. Và máu này, sự sống này lại tinh sạch tội lỗi, lại thánh thiện công chính hoàn toàn. Đó là hy lễ dứt khoát, vẹn tuyền, tẩy xóa tội lỗi. Thế nên không thể lập đi lập lại, và chỉ cần thực hiện một lần vào chính lúc sung mãn của thời gian. Thành ra cũng một sự chết mà ở nơi mọi người chỉ mở sang sự phán xét, còn nơi Đức Kitô lại đem đến ơn tha thứ cho mọi người.

Chúng ta hãy sung sướng cảm tạ lễ Vượt qua của Đức Kitô. Nó mưu phần rỗi cho chúng ta. Chúng ta hãy thành tâm cử hành mầu nhiệm Vượt qua ấy trong thánh lễ này. Không phải chỉ để chiêm ngưỡng một hy tế của Đức Kitô; nhưng còn để tham dự vào hành vi tiến lên thánh điện của Người. Êlia và bà góa phụ ở Serepta đã muốn tham dự vào lễ tế này khi Êlia chấp nhận cuộc đời phấn đấu và bà góa kia bằng lòng làm theo lời Thiên Chúa. Người đàn bà góa khó nghèo trong bài Tin Mừng quả thật cũng đã báo trước việc Đức Kitô thí mạng sống mình để xóa tội trần gian. Tất cả những con người ấy đều có lòng đạo đức chân thật, khác hẳn những người ký lục mà Marcô nói tới hôm nay. Chúng ta sẽ giống hạng người nào? Chỉ có đời sống xả kỷ mới là tiêu chuẩn để giúp trả lời. Chúng ta cầu xin và quyết tâm bắt chước các gương tốt lành đã xem trong các bài Kinh Thánh hôm nay, và đặc biệt gương của Đức Kitô sắp được tái hiện trên bàn thờ.

 

5.      Chúa Nhật 32 Thường Niên

LÒNG QUẢNG ĐẠI VÀ TÍN THÁC KHÔNG GIỚI HẠN

(Suy niệm của Dã Quỳ)

Tin Mừng hôm nay nói với chúng ta về hai hình ảnh đối lập: các ông kinh sư và bà góa nghèo. Từ hai hình hình ảnh này, Chúa Giêsu căn dặn ta hãy coi chừng sự giả hình, ưa chiếm hữu danh lợi của các kinh sư và dạy ta quảng đại trao dâng như bà góa nghèo. Lòng quảng đại của bà chứng tỏ một niềm tín thác vào Thiên Chúa, Đấng quan phòng đời bà. Thế nhưng giữa một thế giới mà trong đó con người đang tranh giành nhau những vị trí cao nhất ở mọi lãnh vực và hơn thua nhau về địa vị, tài sản… Liệu bài học về Lòng quảng đại tín thác của Chúa đưa ra có lỗi thời không?

Người Việt Nam chúng ta vốn quan niệm: “Một miếng giữa đàng hơn một sàng xó bếp”. Quan niệm ấy cho chúng ta hai suy nghĩ vừa tích cực lẫn tiêu cực. Chiều tích cực là cho thấy sự trọng vọng của mọi người dành cho những người có chức quyền và địa vị trong xã hội ở mọi thời. Sự vinh quang này cũng có thể là động lực giúp cho nhiều người cố gắng vươn lên trong khả năng của mình sao cho bằng người khác. Tuy nhiên mặt trái của sự vinh quang thế gian ấy cũng có thể làm cho chính đương sự nhiễm thói kiêu ngạo, dương dương tự đắc, ưa thích danh vọng và coi mọi người không ra gì.

Nhưng sông có khúc, người có lúc. Khi có chức có quyền thì phải sống làm sao để khi hết quyền hết chức người ta vẫn kính trọng, quí mến. Cách riêng với những người đang nắm chức vụ trong Giáo Hội, trong các đoàn thể, cộng đoàn… Chúa Giêsu căn dặn các môn đệ coi chừng các ông kinh sư, nhưng có lẽ Chúa cũng thấy trước những cám dỗ mà có thể các đồ đệ của Ngài cũng dễ mắc phải đó là “Ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được chào hỏi nơi công cộng, ưa chiếm ghế danh dự, chỗ nhất…” Và còn tệ hơn: “Chiếm tài sản của các bà góa, làm bộ đọc kinh lâu giờ”. Giáo Hội trong mọi thời đều dễ rơi vào cơn cám dỗ kinh khủng của uy thế, của những độc quyền, những “bộ áo thụng” và của những chức vị phô trương… của những giả hình, bất công và làm méo mó khuôn mặt của Hội Thánh Chúa.

Thực ra chức vị và quyền hành không phải là một cái gì tội lỗi, đáng sợ hay xấu xa. Vì những người được Chúa yêu thương tuyển chọn, có khả năng, khôn ngoan, nhiệt thành và được tập thể tín nhiệm trao phó trọng trách để phục vụ Chúa và cộng đoàn. Như thế càng phải ý thức cách triệt để như lời sách Huấn Ca nhắn nhủ: “Càng làm lớn con phải tự hạ, như thế con sẽ được đẹp lòng Chúa”. (Hc 3,18) Chúa Giêsu căn dặn và mong muốn tất cả chúng ta sống theo Lời và gương của Người đã sống là quảng đại hiến thân phục vụ Chúa và tha nhân: “Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em. Vì Con Người đến… là để phục vụ và hiến mạng sống làm giá cứu chuộc muôn người”. (Mc 10, 43.45) Chúa muốn ta thay đổi cách sống và thói quen. Linh mục cũng như giáo dân… không đặc quyền, đặc lợi. Một Giáo Hội nghèo và trần trụi, sống trong sự giản dị theo Tin Mừng… không để bị lôi cuốn trong xa hoa, tráng lệ của thế gian.

Một sự tương phản giữa những kinh sư sùng đạo đã “Nuốt hết tài sản của các bà góa”… và bà góa nghèo này, người đã “rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để sống”.

Chúa Giêsu đã khâm phục bà bởi vì bà đã bỏ vào thùng tiền dâng cúng “Tất cả những gì bà có để sống”. Sự nghèo khó: đó là tình trạng của người không có những gì cần để sống. Bà góa này đang ở trong tình trạng đó. Bà đã rút từ trong sự túng thiếu của mình, dâng cúng cho Đền Thờ. Hai đồng tiền nhỏ là tài sản duy nhất của bà. Hai đồng tiền nhỏ ấy là cơ nghiệp gắn liền với bà, nó sẽ là cơm ăn thuốc uống của bà và là sự sống của bà. Hai đồng tiền nhỏ ấy là cả một tài sản của thân phận nghèo nàn của bà. Thế mà, không luyến tiếc, bà đã quảng đại dâng cho Thiên Chúa tất cả. Dâng tất cả tài sản nhỏ bé của mình, bà như dâng lên Thiên Chúa tất cả sự sống. Bà phó dâng hiện tại và tương lai trong tay Chúa Quan Phòng. Đời bà thuộc về Chúa, sự sống của bà là của Chúa. Lòng quảng đại ấy biểu lộ một Niềm Tin Tín Thác mãnh liệt vào Thiên Chúa là Chủ sự sống.

Chúa Giêsu đã gọi các môn đệ lại để giới thiệu cho các ông một mẫu gương cho đi tận tình. Và Chúa cũng mời gọi tôi là con cái Chúa, học gương bà góa, cũng hãy dâng hiến cho Thiên Chúa những gì mình có, vì tất cả những gì tôi có đều do bởi Chúa, như lời Thánh Phao-lô nhắc: “Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh” (1Cr 4,7).

Hình ảnh bà góa dâng tất cả những gì bà có để sống gợi cho tôi bao suy nghĩ và tự vấn. Tôi đã sẵn sàng dâng tâm hồn tôi để trở thành đền thờ cho Thiên Chúa ngự trị hay chưa? Tôi có dấn thân dâng lên Thiên Chúa cuộc đời tôi để phục vụ cho Tin Mừng và hăng say rao giảng Nước Chúa không? Và tôi đã quảng đại dâng những tài sản vật chất của mình để phục vụ Chúa, xây dựng Giáo Hội và chia sẻ với anh em túng thiếu chưa? Tôi nhận thấy mình kém xa bà góa nghèo, mặc dù tôi không nghèo như bà. Nhiều khi tôi đắn đo tính toán với cả Thiên Chúa và anh chị em mình mà chưa biết quảng đại hiến trao, chưa thật tin tưởng vào bàn tay quan phòng của Chúa và không thật sự tín thác vào quyền năng và lòng thương xót của Thiên Chúa. Nói tới bà góa nghèo, tôi nghĩ đến Mẹ Chân Phước Têrêsa Calcutta. Mẹ thật nhỏ bé, nghèo nàn. Mẹ đến Ấn Độ chỉ với hai bàn tay trắng. Tài sản của Mẹ là một trái tim đầy ắp tình yêu phục vụ người nghèo, nhất là những người vô gia cư nằm hấp hối bên lề đường. Mẹ đã quảng đại trao dâng cho Thiên Chúa tất cả và một lòng tín thác vào Chúa để yêu thương phục vụ tha nhân. Đời sống và nghĩa cử yêu thương của Mẹ được cả thế giới biết đến và khâm phục. Và đã gợi hứng cho nhiều người tiếp tục quảng đại dâng hai đồng tiền nhỏ của mình cho Chúa và tha nhân. Vì trong thế giới của chúng ta, còn đó sự chênh lệch về mức sống giữa người với người, giữa nước này với nước kia. Và còn đó biết bao anh chị em nghèo khổ quanh ta cần lắm lòng quảng đại sẻ chia tinh thần và vật chất.

Một đức tin đầy đức ái và lòng quảng đại sẽ là mẫu sống cho ta. Ta đừng ngại nói ngôn ngữ của lòng quảng đại và đừng sợ tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa. Chúa Kitô, Đấng đã hiến dâng chính mạng sống mình vì lòng tín thác vào Chúa Cha là khuôn mẫu cho chúng ta. Sự nhiệt tâm và quảng đại của chúng ta được xây nền trên nền quảng đại của Chúa Giêsu- Một Thiên Chúa giàu sang nhưng đã trở nên nghèo để cho ta được giàu có, như lời Thánh Phao-lô nói với giáo đoàn Cô-rin-tô để khuyến khích họ chia sẻ: “Quả thật, anh em đã biết Đức Giêsu Ki-tô, Chúa chúng ta, đã có lòng quảng đại như thế nào: Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có.” (2Cr 8,9)

Nguyện xin Chúa Giêsu chia sẻ cho ta lòng quảng đại của Người và ban ơn giúp ta tín thác để rồi ta dám quảng đại với Thiên Chúa và với anh em. Amen.

 

6.      Đồng xu của bà góa

(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)

Tin mừng Mc 12:38-44: Muốn của dâng trở thành một của dâng đích thực thì phải là của dâng do lòng hy sinh. Vấn đề không nằm ở số tiền dâng mà ở cái giá người dâng phải trả, không phải là tầm cỡ của lễ vật, nhưng là sự hy sinh.

Tổng thống Wilson của Hoa Kỳ, người đã đưa Nước Mỹ can thiệp vào Thế Chiến Thứ Nhất, là người rất trân trọng đối với những kỷ niệm nhỏ. Một lần kia Tổng Thống và phu nhân cùng nhiều nhân vật cấp cao trong chính phủ dừng lại tại một thành phố thuộc tiểu bang Montana. Cảnh sát làm hàng rào không cho bất cứ ai đến gần Tổng Thống, nhưng không hiểu làm thế nào mà hai cậu bé đã chui lọt hàng rào cảnh sát để đến gần chỗ ngồi của Tổng Thống.

Hai cậu bé ngắm nhìn một cách say sưa vị nguyên thủ quốc gia của mình. Một cậu bé đã tặng cho ông lá cờ nhỏ bé của nước Mỹ mà cậu đang cầm trong tay. Cảnh sát cố tình ngăn chặn cậu bé, nhưng bà Wilson đã đưa tay đón lấy lá cờ và vẫy tay chào cám ơn em một cách nhiệt tình.

Cậu bé kia buồn thiu, vì em không có gì để dâng tặng Tổng Thống. Em cố gắng mò mãi trong túi và cuối cùng lôi ra được một đồng xu nhỏ. Em cố gắng vượt qua mọi chướng ngại để chạy đến trao cho Tổng Thống. Em sung sướng vô cùng vì chính Tổng Thống Wilson là người chìa tay ra để đón nhận món quà của em với tất cả sự trân trọng.

Năm năm sau, Tổng Thống Wilson qua đời, bà Wilson xếp lại các đồ dùng quen thuộc của chồng. Mở chiếc ví của ông, bà thấy một bọc giấy giữ gìn cẩn thận. Tháo chiếc bọc giấy, bà nhận được ngay đồng xu nhỏ mà cậu bé đã tặng cho chồng bà cách đây 5 năm. Ông Wilson quý đồng xu nhỏ ấy đến độ đi đâu ông cũng mang nó theo.

Tin Mừng hôm nay nhắc đến “Đồng Xu của Bà Góa”, trong khi có nhiều người bỏ tiền vào thùng, nhưng Chúa Giêsu chỉ đưa mắt nhìn một sự kiện đáng lưu tâm mà thôi. “Một người đàn bà góa tiến đến và bỏ vào đó hai đồng xu.” Đó là một bà góa, nghĩa là một phụ nữ, một người đáng thương hại dưới con mắt của nam giới vốn có ưu thế trong gia đình và xã hội thời ấy. Vì không còn sự bao bọc của chồng, người góa phụ chỉ còn nhờ vào tài sản của chính mình, không ai giúp đỡ. Theo Thánh Kinh các bà góa được liệt vào số những người nghèo khổ nhất cùng với những kẻ mồ côi và những kẻ tha phương cầu thực (Đnl 24,17-22). Chính vì vậy thánh Marcô mới nói: “người góa phụ khốn khổ”. Số tiền bà bỏ vào thùng chẳng có đáng là bao: hai đồng xu, một món tiền chẳng có nghĩa lý gì cả. Tuy nhiên Chúa Giêsu đã nắm lấy cơ hội để qua cử chỉ khiêm tốn này, Ngài dạy cho các môn đệ một bài học quan trọng. Ngài nhấn mạnh đến sự trái ngược là kẻ giàu có cho đi “cái dư thừa” của họ, còn người góa phụ bần cùng lại cho đi chính cái mình đang cần đến nhất, cho luôn chính bản thân mình. Nghĩa là bà đã rút ra từ cái túng thiếu, cái nghèo đói của mình, từ giá trị của hai đồng tiền kẽm chính là tài sản duy nhất nuôi sống mình để dâng cúng vào Đền Thờ. Như vậy, giá trị của việc dâng cúng không hệ tại ở số lượng của cải nhiều hay ít, có giá trị hay không, mà chính là tùy thuộc vào tấm lòng chân thành của người dâng cúng. Muốn của dâng trở thành một của dâng đích thực thì phải là của dâng do lòng hy sinh. Vấn đề không nằm ở số tiền dâng mà ở cái giá người dâng phải trả, không phải là tầm cỡ của lễ vật, nhưng là sự hy sinh. Chính vì vậy mà Mẹ Têrêsa Calcutta nói: “khi ta trao tặng một món quà, mà nếu là một mất mát hy sinh lớn đối với ta, thì đó mới thật là món quà quí giá”.

Mẹ Têrexa còn kể rằng một hôm Mẹ đang đi trên đường phố thì gặp một người ăn xin. Người này nói: “thưa Mẹ Têrêxa, ai nấy cũng cho Mẹ hết. Hôm nay tôi cũng xin được cho Mẹ. Trọn ngày hôm nay tôi chỉ xin được 30 xu. Tôi muốn cho Mẹ hết”. Mẹ Têrêxa suy nghĩ một lúc: “nếu tôi lấy 30 xu này thì người ăn xin này sẽ không có gì để ăn đêm nay, nhưng nếu tôi không lấy thì ông sẽ đau lòng. Vì thế tôi đưa tay ra nhận số tiền. Quả thực tôi chưa từng thấy một khuôn mặt nào rạng rỡ niềm vui như gương mặt người ăn xin này khi ông nghĩ rằng anh cũng có cái gì đó cho Mẹ Têrêxa”. Và Mẹ Têrêxa kể tiếp: “Thật là một hy sinh lớn đối với người nghèo này. Ông đã phải ngồi ngoài nắng suốt ngày mới kiếm được 30 xu. 30 xu chẳng là bao và cũng chẳng làm được gì, nhưng khi ông đưa cho tôi và tôi nhận lấy thì nó trở thành cả hàng ngàn xu bởi vì nó được cho với biết bao tình người. Thiên Chúa không nhìn đến tầm vóc lớn lao của việc ta làm, Ngài nhìn tấm lòng của ta khi làm việc đó.

Thiên Chúa cũng đối xử với chúng ta như thế. Ngài giầu có biết bao, nhưng những đồng xu nhỏ mà chúng ta trao tặng cho Ngài, Thiên Chúa đón nhận và cất giữ như báu vật. Một Thiên Chúa giầu sang dường như không ưa thích của cải dư dật của chúng ta bằng những đồng xu nhỏ của lòng thành, sự quảng đại, những âm thầm hy sinh phục vụ quên mình của chúng ta. Amen.

 

7.      Lòng tốt việc tốt

(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)

Lời Chúa hôm nay trình bày cho chúng ta hai tấm lòng tốt việc tốt của hai người phụ nữ: một người thời ngôn sứ Êlia và một người thời Chúa Giêsu.

Thời ngôn sứ Êlia, khi Thiên Chúa làm hạn hán trên đất nước Do Thái để phạt vua tôi của nước này, ngôn sứ Êlia được lệnh Chúa tạm lánh sang xứ Sarépta. Ở đó ngôn sứ đã gặp một phụ nữ đầy lòng tin cậy vào lời hứa của Chúa, bà hy sinh chút bột và dầu còn lại làm bánh nuôi ngôn sứ, nhưng Chúa đã trả công bội hậu cho bà và đứa con trai duy nhất thoát cảnh đói khổ. Một phụ nữ khác thời Chúa Giêsu, đang sống trong cảnh túng thiếu, thế mà bà đã đem cả số tiền lương công nhật, tức là những gì bà có để nuôi sống mình, bỏ vào hòm tiền dâng cúng cho nhà thờ, và Chúa đã khen bà là bỏ nhiều, dâng cúng nhiều hơn những người giàu khác, tại sao vậy? Bởi vì trước mặt Chúa, tất cả những công việc làm từ thiện hay đạo đức phải phát xuất từ lòng mến Chúa và yêu người, chứ không phải như giới kinh sư và Pharisêu, họ làm những việc ấy chỉ là những phương tiện trục lợi và tích trữ của cải đem lại danh giá và địa vị cho mà thôi, ai đói hay chết mặc kệ.

Chúa Giêsu hôm nay mạnh mẽ lên án lối sống hai mặt của các kinh sư và người Pha-ri-sêu: dáng vẻ bề ngoài của họ rất đạo đức: giữ luật chín chắn, đọc kinh dài và nhiều giờ, xây mồ cho các ngôn sứ và tô mả cho người công chính… Nhưng thực tế, trong thâm tâm họ độc ác, nhan hiểm vô: bó những gánh nặng chất lên vai người ta, nhưng chính họ lại không động ngón tay vào; hoặc rủ người ta theo đạo nhưng theo rồi đẩy họ xuống hoả ngục, và nhất là nuốt hết tài sản của các bà goá.

Cho nên, Chúa Giêsu dạy chúng ta đừng bắt chước họ vì họ quá chú tâm đến hình thức bên ngoài mà chẳng màn chi đến tâm tình bên trong, họ đáng bị kết án. Tâm tình bên trong quan trọng hơn dáng vẻ bên ngoài, vì nó sẽ chi phối lời nói, việc làm của chúng ta ra tốt hay xấu, chứ không phải bề ngoài. Vì thế ông bà ta nói rằng “Thà tốt gỗ hơn tốt nước sơn”. Hai bà goá trong các bài đọc Lời Chúa hôm nay tuy dáng vẻ bề ngoài nghèo nàn, hèn hạ đến nỗi không ai tôn trọng bà, thậm chí chả thèm để ý đến nhưng các bà có một tấm lòng đáng trân trọng, khâm phục và noi theo.

Trong đời sống, nếu chúng ta có nội tâm tốt lành thánh thiện đương nhiên sẽ biểu lộ ra bên ngoài bằng những hình thức đáng trân trọng đó là: những lời nói chân tình, hành động yêu thương phục vụ, cử chỉ thân ái, nụ cười thứ tha… Nhân ngày của mẹ năm nay, bài viết có tựa đề “Tình mẹ” được đăng trên mạng lưới Internet kể như sau: Tôi sinh ra trong một gia đình nghèo, cha mất sớm. Mẹ tần tảo nuôi tôi khôn lớn. Khi vào trung học, tôi vô cùng xấu hổ và thẹn thùng và nhục nhã vô cùng vì bạn bè thấy mẹ tôi bị chột một mắt, xấu xí đến nỗi chúng gọi bà là phù thủy. Sau đó, tôi tốt nghiệp đại học loại giỏi, được đi du học và làm việc và ở lại luôn nước Philippines. Từ đó tôi không muốn liên lạc gì với mẹ nữa, thậm chí lấy vợ sinh được 3 cháu mà bà nội cũng chẳng biết gì. Tình cờ, một hôm mẹ tôi lụ khụ đứng trước cửa nhà tôi (Philippines). Tôi đưa mẹ vào nhà và cắn răng giới thiệu mẹ tôi cho vợ con biết. Thế là đám cháu nội xúm lại chọc ghẹo đùa giỡn hổn láo với bà nội vì bà giống phù thủy quá! Mẹ ở với gia đình tôi chưa được một tháng, thì tôi mua vé máy bay cho bà về quê ở Bến Tre gấp. Một năm sau, tôi được tin mẹ tôi đã qua đời. Tôi quyết không về, nhưng vợ tôi nói: “Nghĩa tử là nghĩa tận” nên tôi đành bay về Việt Nam. Về quê, vào nhà thì thấy người ta đã chôn mẹ được ba ngày rồi. Tôi vào phòng và nhìn lại cái gường ngày xưa tôi nằm nghe mẹ kể chuyện và ru tôi à ơi. Bỗng tôi phát hiện trên đầu gường có một lá thư, tôi cầm lên mở ra và thấy vỏn vẹn chỉ mấy dòng sau: “Con ơi, dù mẹ xấu mẹ vẫn thương con hết lòng. Con biết không? Mẹ bị chột mắt xấu xí như vậy là vì ngày xưa con chơi chạy té bị chiếc đũa đâm vào mắt làm hư mắt của con. Mẹ đã yêu cầu bác sĩ múc mắt mẹ mà đắp cho con đấy. Mẹ không nói chuyện này chỉ vì mẹ muốn con thành người tốt sống có ích: yêu thương và giúp đỡ mọi người”.

Chúa Giêsu nói: “Bà góa nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết vì Bà đã túng thiếu, lại còn bỏ vào đó tất cả những gì bà có, tất cả những gì để nuôi thân” (Mc 12,43-44). Giờ đây, chúng ta hãy xét xem mình đã cho Chúa cái gì? Mỗi ngày một vài phút trước khi thức dậy hay đi ngủ có dành cho Chúa qua việc đọc kinh thờ phượng Ngài không? Ngày Chúa nhật chỉ có vỏn vẹn một tiếng đồng hồ mà có khi chúng ta cũng chẳng dành cho Chúa đủ, cắt đầu, cắt đuôi. Rồi khi Chúa đòi ta một chút cố gắng hy sinh, để phục vụ Chúa và tha nhân, thì ta né tránh, biện cớ bận rộn công việc, không có thời gian, không đủ trình độ… Hay chúng ta có đọc kinh, hy sinh hãm để đòi Chúa phải ban ơn cho mình bằng cách cho con cái này cái kia, chứ không phải là phụng sự Chúa và yêu mến anh em một cách chân tình. Như thế, chúng ta chưa yêu Chúa và tha nhân đích thật, chúng ta mới nói yêu trên đầu môi chót lưỡi bên ngoài, yêu vì có lợi chứ chưa trao ban chính tấm lòng mình như thánh nữ Têrêxa hài đồng Giêsu nói: “Yêu là cho đi tất cả và trao ban chính mình”. Còn Thánh Giacôbê tông đồ nói: “Nhờ hành động mà con người được nên công chính, chứ không phải chỉ nhờ đức tin mà thôi, đức tin không việc làm là đức tin chết” (Gc 2,24.26).

Ước gì qua lời Chúa hôm nay, xin cho mỗi người chúng ta từ nay đến với Chúa và tha nhân bằng chính tấm lòng, con người của mình qua việc hăng hái tham gia các hoạt động tông đồ của giáo xứ, và góp phần cụ thể (tiền bạc, công sức…) cho việc bác ái của cộng đoàn của mình. Xin Chúa uốn nắn những gì còn cong quẹo, giả hình, giả dối nơi chúng ta. Và xin Chúa xua tan những tính toán, ích kỷ đang cột chặt con tim của chúng ta, đồng thời xin Chúa cũng đong đầy ân sủng Chúa trong tâm trí chúng ta ngõ hầu chia sẻ, trao ban những gì chúng ta có cho những người cần chúng con giúp đỡ trong cuộc sống qua việc hy sinh, cầu nguyện cho người còn sống hay đã qua đời, nhất là trong tháng Các Đẳng này. Amen.

 

8.      Chúa Nhật 32 Thường Niên

NHỮNG CÁCH CHO TRONG CUỘC SỐNG

(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)

Mẹ Têrêxa thuật lại câu chuyện như sau: “Một hôm, có một cặp vợ chồng trẻ đến thăm tu viện và trao tặng cho chúng tôi một khoản tiền lớn, bảo là để đóng góp vào việc chi phí mua thức ăn cho những người nghèo”.

Ở Calcutta, mọi người đều biết là: Mỗi ngày, tất cả các cơ sở của dòng Nữ Tử Bác Ái Truyền Giáo chúng tôi phải cung cấp thực phẩm cho khoảng 9 ngàn người. Bởi lẽ đó, không lạ gì hai bạn trẻ này muốn dùng khoản tiền họ trao tặng vào mục tiêu trên.

Sau khi giải thích, Mẹ Têrêxa kể tiếp: Thấy họ còn quá trẻ, tôi tò mò hỏi: “Hai con có thể cho Mẹ biết tiền đâu mà hai con có nhiều thế?”. Họ trả lời: “Chúng con vừa cưới nhau hai ngày. Trước ngày cưới, chúng con đã suy nghĩ nhiều và quyết định không may quần áo cưới, cũng không tổ chức yến tiệc linh đình. Thay vào đó, chúng con muốn dùng khoản tiền chi phí đám cưới đó để trao tặng cho những người không được may mắn như chúng con”.

Mẹ Têrêxa cắt nghĩa: “Ở Ấn Độ, đối với một người Hindu thuộc giai cấp thượng lưu khá giả, đám cưới mà không có quần áo cưới và tiệc cưới là điều nhục nhã. Vì thế chắc chắn mọi người, nhất là những kẻ có họ hàng với cặp vợ chồng trẻ đó đã rất lấy làm lạ và cho quyết định của họ là một việc tủi hổ cho cả hai gia đình đàng trai cũng như đàng gái”.

Để biết rõ thêm, Mẹ Têrêxa hỏi: “Tại sao chúng con lại quyết định táo bạo như thế, làm phật lòng cha mẹ, họ hàng?”. Hai bạn trẻ đó trả lời: “Chúng con yêu nhau tha thiết, vì thế chúng con muốn tặng nhau một quà cưới đặc biệt. Chúng con muốn khởi đầu cuộc chung sống của chúng con bằng một hy sinh mà cả hai đều đóng góp vào”. (Câu chuyện được sưu tầm từ Internet)

Tấm lòng hy sinh quảng đại của đôi vợ chồng trẻ trong câu chuyện trên đây cũng tương tự tấm lòng của hai bà goá mà lời Chúa hôm nay tường thuật lại.

Bài đọc I, sách Các vua kể lại câu chuyện ông Êlia đến xin bánh của một bà goá Sarephta. Hoàn cảnh của bà thật đáng thương. Bà chỉ còn một nắm bột trong hũ với một ít dầu trong bình. Theo lời bà nói: “Bà đang đi lượm mấy que củi để về nấu cho bà và con bà ăn, rồi chết” (x. 1V 17,12). Vậy mà, ông Êlia lại đến xin bà. Bà đắn đo nhưng không từ chối. Lý do bà đắn đo là vì bà muốn ông Êlia biết được hoàn cảnh của mình. Sau khi lắng nghe bà trình bày, ông Êlia đưa ra đề nghị: “Bà đừng lo, cứ đi và làm như bà đã nói. Nhưng, với chút bột ấy trước hết hãy làm cho tôi một cái bánh nhỏ, đem ra đây cho tôi, sau đó hãy làm cho bà và con trai bà. Vì Chúa là Thiên Chúa Israel truyền rằng: ‘Hũ bột sẽ không cạn và bình dầu sẽ không vơi đi cho đến ngày Chúa cho mưa xuống trên mặt đất”. Sau khi ông Êlia giải thích, bà đã mạnh dạn nhường phần ăn duy nhất của bà và con bà. Đây là một cử chỉ anh hùng. Tuy bà nghèo của cải vật chất nhưng lại có tấm lòng quảng đại. Bà đã cho ông Êlia không phải cái dư thừa nhưng là cái bà đang cần, là sự sống của mẹ con bà. Sở dĩ bà làm được như vậy là vì bà biết phó thác tin tưởng vào lời Chúa: “Hũ bột sẽ không cạn và bình dầu sẽ không vơi đi cho đến ngày Chúa cho mưa xuống trên mặt đất”.

Bài Tin mừng thuật lại việc người ta dâng cúng tiền của vào đền thờ. Đang khi họ dâng cúng, Chúa Giêsu đứng quan sát. Ngài thấy những người giàu có bỏ nhiều tiền. Đồng thời, Ngài thấy người đàn bà goá nghèo bỏ hai đồng tiền (1/4 xu). Ngài đưa ra nhận xét: “Thầy nói thật với các con: Trong những người đã bỏ tiền vào hòm, bà goá nghèo này đã bỏ nhiều hơn hết” (Mc 12,43). Lời nhận xét của Chúa Giêsu có vẻ nghịch lý. Nếu tính theo số lượng, hai đồng tiền của bà goá quá ít so với những người giàu có bỏ nhiều tiền. Thế thì tại sao Chúa lại bảo người đàn bà bỏ vào hòm tiền nhiều nhất? Câu trả lời đã được Chúa Giêsu giải thích ở câu kế tiếp: “Vì tất cả những người kia bỏ của mình dư thừa, còn bà này đang túng thiếu, đã bỏ tất cả những gì mình có để nuôi sống mình” (Mc 12,41). Thế mới biết, Chúa Giêsu đánh giá việc làm của người khác ở tấm lòng, ở cách cho chứ không phải ở số lượng, ở của cho. Đúng như lời Người nói: “Ta muốn lòng nhân, chứ đâu cần lễ tế” (Mt 9, 13; 12, 7).

Trong cuộc sống, chúng ta nhận thấy có nhiều cách cho:

Có người cho vì sợ quấy rầy, vì ép buộc: Chúa Giêsu đã nói rõ điều này qua câu chuyện người xin bánh ban đêm. Chúa nói: “Thầy bảo các con, dù người đó không dậy vì tình bạn để lấy bánh cho người bạn, người đó cũng sẽ dậy, ít nữa là vì sự quấy rầy của người kia mà cho anh ta tất cả những gì anh ta cần” (x. 11,5-8).

Có người cho vì muốn nổi tiếng hoặc để khoe khoang: Dâng cúng vào nhà thờ, đóng góp vào việc chung với ý muốn được nêu danh trong nhà thờ hay được khắc tên vào bia kỷ niệm. Làm việc bác ái là để phô trương cho người ta biết.

Có người cho theo kiểu “Thả con tép bắt con tôm” hay “Hòn đã ném đi, hòn chì ném lại”.

Có người cho chỉ vì bổn phận: Cha mẹ cho con cái những cái tối thiểu để con cái vào đời: học hành, nghề nghiệp, gia đình… đó là cha mẹ đang làm việc bổn phận. Con cái giúp đỡ cha mẹ khi còn sống cũng như khi đã qua đời bằng tinh thần và vật chất những cái tối thiểu, đó là con cái đang thể hiện lòng hiếu thảo, thể hiện bổn phận đối với cha mẹ. Người giàu bố thí cho người nghèo. Người thầy giáo dạy chữ nghĩa cho học sinh… Đó là cách cho vì bổn phận, mà bổn phận thì ai cũng phải chu toàn. Sách Giáo lý HTCG số 2446 dạy: “Không cho những người nghèo dự phần vào của cải cải của ta, đó là ăn trộm của họ và cướp lấy mạng sống của họ. Của cải ta giữ đó không phải là của chúng ta, nhưng là của họ”. Nói là vậy, nhưng thực tế cho chúng ta thấy: Có nhiều bậc cha mẹ giàu có nhưng để cho con cái sống trong cảnh nghèo nàn. Ngược lại, con cái giàu có, sung túc, nhưng bỏ bê cha mẹ thiếu thốn, nghèo khó. Có nhiều người giàu có nhưng lại ích kỷ không bao giờ làm việc bác ái, không dám cho đi.

Có người cho vì tình thương, vì lòng mến thực sự: Đôi bạn trẻ và bà goá Sarephta đã cho vì tình thường. Bà goá trong bài Tin mừng đã cho vì lòng mến. Họ đã cho đi tất cả, cho đi chính cái mình đang cần, cho vì tình thương và lòng yêu mến. Đó cũng là cách cho của Chúa Giêsu vị thượng tế tối cao (x. Dt 9, 24-28). Cả cuộc đời của Ngài đều cho đi: Cho đi thời gian, sức lực, lời giáo huấn, tình thương yêu. Đỉnh cao của sự cho đi là cái chết trên thập giá: “Không có tình yêu nào cao quý cho bằng tình yêu của người hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình”(Ga 15,13). Theo gương Chúa Giêsu, biết bao vị thánh đã cũng cho đi vì tình thương, vì lòng mến. Chẳng hạn, các thánh Tử đạo “Đã can đảm tuyên xưng đức tin, đến hy sinh mạng sống mình vì lòng yêu mến Chúa”. Thánh Maximilianô Kolbe đã tự nguyện nộp mình chịu chết thay cho người bạn tù. Mẹ Têrêxa Cacutha đã cho đi cả cuộc đời mình vì người nghèo.

Còn chúng ta thì sao? Rất có thể chúng ta đã từng cho, nhưng cách cho của chúng ta như thế nào? Cho nhiều nhưng luôn cho cái dư thừa? Cho vì khỏi bị quấy rầy? Cho để khoe khoang? Cho vì bổn phận? Cho vì tình thương và lòng mến?

Hãy nhớ rằng: “Của cho không bằng cách cho” hay “Của ít lòng nhiều”. Vì thế, hãy cho vì tình thương, vì lòng mến Chúa yêu người. Hãy quảng đại cho đi, vì “Những điều duy nhất ta còn giữ lại được là những gì ta đã cho đi” (Lm. Mark Link). Tôi còn nhớ lời khuyên ngắn gọn nhưng đầy súc tích và ý nghĩa của Cha Bề Trên khi tôi còn học ở Đại chủng viện rằng: “Cụ tụ thì dân tán, cụ tán thì dân tụ”. Ý của Ngài muốn dạy cho các chủng sinh là những linh mục tương lai bài học về lòng quảng đại với giáo dân. Với mười lăm năm làm cha xứ, tôi nhận thấy lời khuyên đó thật chính xác. Không chỉ chính xác đối với cha xứ mà còn chính xác trong mọi lãnh vực: Tôn giáo, xã hội, gia đình, cộng đoàn, đặc biệt cho những người đang có trách nhiệm lãnh đạo. Đúng như lời dạy của Kinh Hoà Bình:

“Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh,

Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân,

Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ,

Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.

Lạy Chúa Giêsu lòng con mến yêu, xin ban cho mỗi chúng con có tấm lòng rộng mở, biết cho đi một cách quảng đại những gì chúng con đang có. Cho đi không phải vì miễn cưỡng. Cho đi không chỉ vì bổn phận nhưng cho đi vì tình thương và lòng mến. Amen.

 

9.      Chúa Nhật 32 Thường Niên

(Suy niệm của Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng)

Tin mừng Mc 12:38-44: Đưa ra hai hình ảnh trái ngược nhau một bên là những vi kinh sư với lối sống khoe khoang, đạo dức giả bị chỉ trích và một bên là người đàn bà goá nghèo hèn nhưng có tấm lòng quảng đại…

Đưa ra hai hình ảnh trái ngược nhau một bên là những vi kinh sư với lối sống khoe khoang, đạo dức giả bị chỉ trích và một bên là người đàn bà goá nghèo hèn nhưng có tấm lòng quảng đại, Chúa Giêsu muốn các môn đệ phái trách xa thói giả hình của các Kinh sư và học lối sống khiêm hạ, quảng đại của người đàn bà goá. Người môn đệ phải là người có tâm trong sáng, có đời sống bên ngoài xuất phát từ chính tâm trong sáng ấy. Sống trung thực và quảng đại hy sinh là hình ảnh chân thực người môn đệ Chúa Giêsu của mọi thời đại.

I/ Tìm hiểu Lời Chúa Tin Mừng: Mc 12, 38-44

Bản văn được chia làm hai phần:

  1. Lối sống đạo đức giả của các Kinh Sư (12, 38-40: Giáo huấn của Chúa Giêsu được chia thành lời khuyến cáo mở đầu (c. 38), một lời mô tả các Kinh sư(c. 38-40), và một lời kết đe doạ phán xét (c. 40). Các kinh sư là những người chuyên về diễn giải mệnh lệnh và các thánh chỉ của Đức Chúa liên quan đến Israel cho dân chúng hiểu và thực hành (Er 7,11). Họ là những người có tư cách giải thích luật và phê phán những ai không giữ luật. Chúa Giêsu lên án sự khoe khoang, tham vọng và thói ham chức quyền của họ. Họ phô trương phẩm giá của họ bằng những hình thức lố bịch bên ngoài, nhưng bên trong tâm hồn họ thì sống một lối sống giả dối, tham lam, bóc lột người nghèo khổ. Họ sẽ bị kết án nghiêm khắc trong ngày xét xử cánh chung, tức là mất ân ban sự sống đời đời.(x. Mc 10, 30). Noi chung, Chúa Giêsu kết án thói đóng kịch của họ: họ cho rằng họ là những người đạo đức và thánh thiện để thuyết phục dân chúng tin rằng Thiên Chúa ở về phía họ. Nếu phê phán họ, phản đối họ, từ chối vinh dự phải dành cho họ là sỉ nhục chính Thiên Chúa.
  2. Câu chuyện Bà Góa nghèo (12, 41-44): Khung cảnh đến thờ, phòng lưu trữ củ cái, hòm tiền cùng với những người giáu dâng cúng thật nhiều tiền, càng làm nội bật sự nhỏ bé, bần khốn của bà goá, một người không được luật lệ quan tâm bảo vệ. Nhưng Chúa Giêsu thấy đựơc tấm lòng của bà. Phải chăng bà ấy khiêm nhường? Đúng là như thế, nhưng bà do một lý do khác bà đã trở thành tấm gương, thành hình ảnh của người môn đệ Chúa “bà đã bỏ vào đó tất cả những gì bà có.” Bà đã chu toàn một điều kiện thiết yếu để trở thành một môn đệ đích thực đó là người biết chia sẻ quang đại cho những khác tất cả những gì mình có.
  3. Lời giáo huấn của Chúa Giêsu cho thấy cách nhìn của Thiên Chúa khác hẳn và vượt trên cái nhìn của con người. Thiên Chúa nhìn thấu dạ lòng người và dựa vào đó để đánh gía một con người. Thiên Chúa không nhìn nhận và đánh giá một ai qua dáng vẻ bên ngoài. Giáo huấn của Chúa mời gọi các môn đệ một mặt phải sống trung thực, quang đại, hãy tránh xa lối sống đạo đcứ giả của các Knh sư, mặt khác phải biết khôn ngoan nhìn nhận đánh giá đúng bản chất của anh chị em chung quanh, đừng để bị lừa dối bởi lối sống, bởi dáng vẻ hào nhoáng bên ngoài.
  4. Gợi Ý Suy Niệm:

Lời Chúa Giêsu phê phán các Kinh sư có thể hới quá đáng. Tuy thế, những người đang có trách nhiệm phục vụ dân chúa ở mọi cấp vẫn cảm thấy đựơc mời gọi đánh giá lại cung cách sống của mình, lời ăn tiếng nói của mình, cũng như ý hướng phục vụ của mình. Lừa dối đã là hành vi đáng bị lên án, nhưng đáng bị hơn nữa nếu lợi dụng những sự thánh thiện, những việc đạo đạo đức tôn giáo để che giấu thực trạng tội lỗi, xấu xa của mình.

Tám gương bà Goá mời gọi các Kitô hữu đừng đánh giá con người theo bề ngoài. Trước nhan Thiên Chúa, điều quan trọng không phải là của dâng cúng lớn, nhưng là tâm tình trung thực khi dâng cúng ” Của cho khong bằng cách cho”. Vì ý thức rằng người nghèo được Thiên Chúa yêu mến, tôn trọng, cộng đoàn Kitô hữu không những cần nghiền ngẫm tấm gương bà goá, âm thầm kín đáo làm các việc đạo đức, mà còn sẵn sàng giúp đỡ những người đang gặp khó khăc cách quảng đại.

Người giàu có cho một phần gia sản của họ, có lẽ sẽ không mất mát thiệt thòi la bao. Còn bà goá đã cho hết những gì bà có, dù nó chẳng là bao, qua nhỏ bé so với của dâng cung của người giàu có. Điều này không phải ngầm ý so sánh trước mặt Chúa người nghèo khó thế giá hơn, người giàu bị Chúa ghét hay loại bỏ nhưng ở đây Chúa Giêsu nhấn mạnh đến lòng quảng đại của bà, đế sự hy sinh và nhất là tấm lòng phó thách của bà vào Thiên Chúa. Bà đã đặt tất cả cơm ăn, sự sống của bà vào Thiên Chúa, bà hy vọng tất cả nơi Thiên Chúa.

III/ Lời Cầu Chung

* Lời Mở: Anh chị em thân mến. Thiên Chúa luôn quảng đại yêu thương con người chúng ta và cần tấm lòng trung thực con người. Vậy với tất cả tầm lòng tin tưởng, hy vọng vào Thiên Chúa, chúng ta cùng dâng lời nguyện xin.

  1. Chúa Giêsu lên án lối sống đạo đức giả của các Kinh sư và giáo huấn các Môn đệ sống trung thực. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi thành phần trong Giáo Hội, nhất là các bậc chủ chăn luôn biết chân thành sống đúng giao huấn của Chúa và can đảm lên tiếng bênh vực cho sự thật và công lý.
  2. Qua lời dạy của Chúa Giêsu căn dặn các môn đệ đừng bắt chước các kinh sư có lối sống giả hình, chuộng hình thức bên ngoài, chúng ta cùng cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo các quốc gia thực sự có tấm lòng vì dân, vì nước. Xin cho các vị ấy có được cái tâm trong sáng, trung thực trong hành xử công việc, nhờ đó đất nước và người dân đựơc sống hạnh phúc.
  3. Bà goá đã cho tất cả những gì bà có. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta được thấm nhuần Lời Chúa biết quảng đại hy sinh và luôn tin thưởng phó thác cuộc sống vào bàn tay yêu thương quan phòng của Thiên Chúa.

* Lời Kết: Lạy Thiên Chúa, đấng giàu lòng quảng đại và luôn thành tín yêu thương. Chúng con xin phó dâng tất cả cuộc sống chúng con trong Chúa. Xin cho mỗi người chúng con luôn tràn đầy ơn Thánh Chúa để tất cả chúng con biết sống trung thực với Chúa và với nhau, đồng thời biết thành tâm chia sẻ cuộc sống với mọi người chung quan. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.

 

10. Đồng tiền của bà góa

Trong cuộc đổi tiền lần như nhất vào năm 1975, khi mọi tiền bạc đã được ký quỹ, nhà nước phát cho mỗi gia đình đợt đầu là 200 đồng. Tôi còn nhớ hồi đó, sau khi chịu chức phó tế, Đức cha Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm giáo phận Đalạt, đã lì xì cho mỗi tân chức một tờ mười xu. Mười xu lúc bấy giờ sao mà nó to thế. Hôm sau, tôi được cha Lã Thanh Lịch, tuyên úy Viện Đại Học Công Giáo Đalạt mừng cho một tờ mười đồng. Mang tờ mười đồng này ra chợ lúc đầu thật khó tiêu, vì không ai có tiền để thối. Rồi thì mua tới mua lui, mua mãi cũng chẳng hết được mười đồng. Phần vì giá cả lúc bấy giờ chưa được ổn định. Phần vì mười đồng trên một tài sản hai trăm đồng, được coi là một số tiền khá lớn.

Từ chi tiết này, tôi muốn đi vào đoạn Tìn Mừng sáng hôm nay. Bọn Biệt Phái và những người giàu có trong dân Do thái vốn rộng rãi đối với đền thờ. Họ thường bỏ vào hòm dâng cúng những đồng tiền vàng lấp lánh. Trong khi đó một bà góa nọ chỉ bỏ vào có hai đồng xèng, trị giá bằng một phần tư xu, thế mà Chúa Giêsu lại khen ngợi bà là người đã dâng cúng nhiều hơn hết. Tại sao lại thế? Tôi xin thưa vì bọn Biệt Phái và những người giàu có tuy dâng nhiều, nhưng là dâng những cái dư thừa, ấy là chưa nói tới việc họ dâng những cái được tích lũy bằng những hành động bất công, gian tham và bóc lột của người khác. Còn bà góa, tuy dâng ít, nhưng cái ít của bà là tất cả những gì bà hiện có, là tất cả những gì cần thiết để duy trì sự sống cho bà và gia đình bà. Như thế, trước mặt Chúa, bà tuy ít mà lại nhiều, còn bọn Biệt Phái và những người giàu có, thì tuy nhiều mà lại ít.

Hơn thế nữa, nếu đi vào ý hướng của từng người, chúng ta sẽ ghi nhận được một sự khác biệt xâu xa. Thực vậy, bọn Biệt Phái và những người giàu có dâng cúng nhiều, cốt ý để cho mọi người thấy và lên tiếng ca tụng họ là người bác ái, rộng rãi và quảng đại. Như vậy, động cơ thúc đẩy họ hành động là vì mình, vì danh dự phù phiếm của mình, hầu thỏa mãn tính tự phụ và kiêu căng của mình. Trong khi đó, bà góa nghèo túng âm thầm hy sinh cả những cái cần thiết nhất của mình vào đền thờ, mà không cần một ai biết đến, không cần một ai ca ngợi. Động cơ thúc đẩy bà hành động đó là vì Chúa, vì lòng yêu mến Ngài.

Đây cũng chính là một phương thế giúp chúng ta thánh hóa cuộc sống thường ngày, hay nói cách khác, lòng mến chính là đôi đữa thần, biến những hành động nhỏ bé và tầm thường của chúng ta trở nên những sợi chỉ vàng và dệt thành tấm vải cuộc đời chúng ta.

Chúa không đòi hỏi nơi mỗi người chúng ta những công việc vĩ đại, những thành công rực rỡ, nhưng Ngài muốn thấy nơi chúng ta những cố gắng xuất phát từ thiện chí, từ lòng yêu mến chân thành. Bởi đó, hãy chấp nhận mọi hy sinh gian khổ, hãy chu toàn những công việc tầm thường vì lòng yêu mến Chúa, để cuộc đời chúng ta thực sự có một giá trị to lớn trước mặt Ngài.

 

11. Ở đời quí nhất tấm lòng

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Ai cũng biết dâng cúng là sẻ chia, là cho đi một phần những gì mình có. Sách Tông Đồ Công Vụ ghi lại lời Chúa Giêsu dạy các Tông Đồ: “Cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20,35), nhưng để trở thành phúc nhân, cầu phải cho đúng cách mới mong có cái kết hậu thì không phải ai cũng biết và thực hành.

Người xưa cũng khái quát được vấn đề bằng câu “Của cho không bằng cách cho”. Quả thật, trước khi cho đi ta phải nghĩ đến “của cho” và “cách cho”. “Của cho” xét cho cùng không quan trọng bằng “cách cho”. Cho thế nào để nói lên tấm lòng chân thành của mình và nhất là làm cho người nhận cảm thấy vui lòng. Đặc biệt đối với Chúa, tấm lòng chân thành dâng hiến luôn được Chúa coi trọng: “Ta muốn lòng nhân chứ không phải hy lễ”.

Cho đi là quý nhưng không phải cho suông mà cho với cả tấm lòng. Một cuộc đời biết cho đi là một cuộc đời hạnh phúc. Hạnh phúc của chúng ta tùy thuộc vào mức độ và cách thức chúng ta trao ban cho tha nhân những gì mình có. Sống vì và sống cho người khác là cách làm tăng trưởng nhân cách và phẩm giá của mỗi người. Cho đi là cả một nghệ thuật mà chúng ta cần phải trau dồi cho bản thân mỗi ngày. Thế nhưng, cho đi cái gì và cho như thế nào lại là một vấn nạn. Học biết cho đi đã khó, nhưng học biết cách thức cho đi lại càng khó khăn gấp bội.

Bà goá ở Xarepta có vẻ miễn cưỡng phải cho, bà ngập ngừng, lúng túng trước lời xin của Êlia, hoàn cảnh khốn khổ của bà làm cho bà khó làm phúc. Nhưng rồi cuối cùng bà cũng dám cho đi cái phần để nuôi sống mẹ con bà với tấm lòng tin tưởng phó thác và đầy tôn trọng đối với người xin bà. Còn bà goá nghèo được Tin mừng nhắc đến hôm nay có một thái độ rất anh hùng. Chúa Giêsu đã đề cao bà như một gương mẫu cho chúng ta về cách cho đi mà không tính toán, để các môn đệ cũng như chúng ta ngày hôm nay noi gương bắt chước học đòi.

Câu hỏi được đặt ra: Các bà góa nghèo đã dâng gì và dâng như thế nào?

Tin Mừng theo thánh Marcô thuật lại cho chúng ta câu chuyện diễn ra trong Đền thờ Giêrusalem nơi dân chúng bỏ tiền dâng cúng. Có nhiều người giàu bỏ bao nhiêu đồng tiền, song có một góa phụ nghèo, chỉ bỏ hai đồng xu nhỏ. Chúa Giêsu quan sát kỹ lưỡng người đàn bà ấy và Người lưu ý các môn đệ về sự tương phản trong cảnh tượng này. Chúa Giêsu nói, bà góa nghèo này đã bỏ nhiều hơn ai hết, bà tuy thật túng thiếu, nhưng đã bỏ vào thùng tiền tất cả những gì bà có để nuôi sống mình. Còn những người khác rút từ túi mình tiền dư bạc thừa của họ mà dâng cúng. Vậy là thước đo không phải là số lượng nhưng là với cả tấm lòng thành. Đây không phải là vấn đề ví tiền, nhưng là con tim, là tấm lòng. Có sự khác biệt giữa ví tiền và con tim.

Những người giàu có khoa trương cho đi những điều dư thừa, trong khi bà góa, kín đáo và khiêm tốn, do sự nghèo khó cùng cực của bà, lẽ ra bà có thể chỉ cúng một đồng cho Đền thờ và một đồng kia giữ lại cho mình. Nhưng bà không muốn kiểu sống nửa với, nghĩa là dâng cho Thiên Chúa nửa chừng; bà dâng tất cả. Vì thế, Chúa Giêsu nói, bà đã cho nhiều hơn tất cả những người khác. Trong sự nghèo khó của mình, bà hiểu rằng, có Chúa là có tất cả; bà cảm thấy được Chúa hoàn toàn yêu thương và đáp lại bà yêu Chúa trọn vẹn. Gương của bà già ấy mới đẹp làm sao!

Kinh nghiệm cho thấy có những khi chúng ta cho đi, nhưng người khác lại không đón nhận, hoặc có lúc người ta đón nhận nhưng chỉ đón lấy trong sự ép buộc chứ không mấy vui vẻ. Thành thực mà nói, nhiều khi ta trao tặng mà người kia không đón nhận, có lẽ không phải vì món quà không có giá trị, nhưng vì cách thức chúng ta cho đi có vấn đề. Chúng ta hãy cho đi bằng tất cả tấm lòng và hãy học cách cho đi như chính Đức Giêsu đã cho đi.

Nhìn lại trong dòng lịch sử, không có ai có cách cho đi đẹp cho bằng Đức Giêsu. Người đã cho đi tất cả kể cả mạng sống của mình chỉ vì yêu thương nhân loại. Sự trao hiến của Người là một sự cho đi đến tận cùng, một sự cho đi không tính toán. Người không những cho đi chính mình mà còn dạy cho nhân loại chúng ta biết nghệ thuật của sự cho đi. Có thể nói, cả cuộc đời Đức Giêsu là một lời giáo huấn liên tục về sự cho đi và cách thức cho đi.

Như thế, kim chỉ nam của sự cho đi chính là sự chân thành phát xuất từ một con tim biết cảm thông và yêu thương. Một khi chúng ta biết cho đi bằng cả tấm lòng thì chắc chắn món quà của chúng ta sẽ được người khác đón nhận với tất cả lòng biết ơn và lòng cảm mến. Nghệ thuật cho đi là bài học chúng ta cần trau dồi mỗi ngày hầu có thể hoàn thiện bản thân và đem lại hạnh phúc cho chính mình và cho tha nhân.

Xin Chúa giúp cho chúng ta hiểu rõ giá trị của sự cho đi với tấm lòng quảng đại theo gương Chúa. Hãy quảng đại đối với Chúa và mọi người để được hưởng tấm lòng quảng đại của Chúa dành cho chúng ta. Amen.

 

12. Đức tin và tấm lòng của bà góa

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Tin Mừng hôm nay giới thiệu cho chúng ta, Chúa Giêsu cho như một người Thầy, dạy cho chúng ta biết về sự thờ ơ mà chúng ta phải sống. Thứ nhất, thờ ơ về danh dự và nhận ra điều chúng ta thường xuyên tìm kiếm: “Hãy coi chừng (…) lời chào ngoài công trường, chiếm những ghế nhất trong hội đường và trong đám tiệc “(x. Mc 12, 38 -39). Về điểm này, Chúa Giêsu cảnh báo chúng ta về những gương xấu của các luật sĩ. Thứ hai, dửng dưng với của cải vật chất. Chúa Giêsu ca ngợi thái độ của bà góa nghèo và lên án thói đạo đức giả của một số người, (x. Mc 12, 44).

Ai không có tinh thần từ bỏ của cải tạm thời, sống với đầy những của riêng tư người ấy không thể yêu mến được. Người có đức tin mà không nghĩ đến người khác: không động lòng trắc ẩn, không thương xót và để ý đến tha nhân, không thể sống trọn đòi hỏi của Tin Mừng là mến Chúa yêu người được.

Đức tin kèm theo tấm lòng vàng của hai bà góa được Phụng vụ Lời Chúa hôm nay trình bày cho chúng ta là hai mẫu gương sống động. Hai bà được trình bày song song với nhau: một bà trong Sách Các Vua quyển thứ I (17, 10 – 16), và bà thứ hai trong Tin Mừng theo thánh Marcô (12, 41 – 44). Cả hai đều rất nghèo, và chính trong thân phận ấy hai bà chứng tỏ một niềm tin mạnh mẽ nơi Thiên Chúa.

Tấm lòng vàng

Người phụ nữ thành Sarephta xuất hiện trong trình thuật về tiên tri Êlia. Trong thời kỳ hạn hán, vị ngôn sứ này nhận được lệnh của Chúa đi tới miền Siđon, tức là ra ngoài Israel, nơi lãnh thổ dân ngoại. Tại đó Êlia gặp bà góa phụ là người Sarephta đi lượm củi, ông cất lời: “Xin đem cho tôi một ít nước trong bình để tôi uống… Xin cũng mang cho tôi một miếng bánh” (1V 17, 10-11), trong lúc bà đang ở trong tình trạng không còn gì ăn và con bà sẽ chết đói nay mai, nên trả lời: “Này tôi đi lượm vài que củi về nấu cho tôi và con trai tôi ăn rồi chết thôi” (1V 17,12), nhưng vì Êlia nài nỉ và hứa với bà rằng nếu bà nghe lời, bà sẽ không thiếu bột và dầu nữa, bà ấy đã nghe và được tưởng thưởng.

Trong hoàn cảnh khắc nghiệt, người phụ nữ này, đã đi kín nước với tất cả tình yêu của trái tim. Khi bà trở về, Êlia nói với bà: “Cứ đi và làm như bà đã nói…với chút bột ấy trước hết hãy làm cho tôi một cái bánh nhỏ, đem lại đây cho tôi, sau đó hãy làm cho bà và cho con trai bà” (1V 17,13). Tấm lòng vàng và đức tin của bà góa lúc này bị thử thách, bà chỉ còn một nắm bột, cứ sự thường thật khó để có thể nuôi sống con bà, nay lại làm bánh cho cả vị tiên tri là này nữa.

Thái độ của bà góa thành Sarephta làm chúng ta liên tưởng tới một góa phụ khác mà Chúa Giêsu nói tới trong Tin Mừng Marcô hôm nay. Khi ngồi đối diện với hòm tiền, Chúa Giêsu quan sát thấy bà góa nghèo đến bỏ hai đồng tiền là một phần tư xu vào đền thờ, ngưỡng mộ bà, Chúa tuyên bố: “Với hai đồng tiền, bà góa nghèo này đã bỏ nhiều hơn hết. Vì tất cả những người kia bỏ của mình dư thừa, còn bà này đang túng thiếu đã bỏ tất cả những gì mình có để nuôi sống” (Mc 12, 44). Nghĩa cử dâng cúng của bà góa nghèo chứng tỏ nét đẹp của tấm lòng vàng tràn đầy hy vọng và tin tưởng vào Chúa nơi tâm hồn bà.

Tin vào Thiên Chúa

Nếu nói đến mẹ góa con côi, người Việt Nam ta thường nói đến người khổ cực thiếu thốn tứ bề, từ tình cảm đến vật chất, thì theo Kinh Thánh, thời trung cổ, hay quan niệm của người Do Thái, những cô nhi quả phụ tự nó đã là một thân phận thiếu thốn trầm trọng rồi. Họ không còn chồng, còn cha để mà cậy dựa, hai bà trong Phụng vụ Lời Chúa hôm nay là một bằng chứng. Cả hai cùng cực nghèo, nhưng không có ai nghèo túng đến độ không thể cho đi một cái gì. Câu hỏi được đặt ra: Điều gì đã thúc đẩy các bà làm điều đó? Thưa: Đức tin. Cả hai bà góa hôm nay đều chứng tỏ niềm tin của họ bằng cách thực hiện một cử chỉ bác ái thể hiện tấm lòng vàng: một bà thi hành cử chỉ ấy đối với vị ngôn sứ, và bà thứ hai thi hành việc làm phúc.

Trong Kinh Thánh, các quả phụ và cô nhi là những người mà Thiên Chúa chăm sóc đặc biệt: họ không còn sự nương tựa trần thế, nhưng Thiên Chúa vẫn là vị Hôn Phu, là người Cha của họ. Hoàn cảnh túng thiếu khách quan, hay thân phận góa phụ, vẫn không đủ: Thiên Chúa luôn đòi hỏi sự tự nguyện gắn bó trong niềm tin, và được biểu lộ trong tình yêu đối với Chúa và tha nhân. Qua đó họ chứng tỏ sự hiệp nhất không thể tách rời giữa đức tin và đức ái, cũng như giữa lòng mến Chúa và yêu người như Tin Mừng đòi hỏi.

Thánh Giáo Hoàng Lêô Cả đã khẳng định rằng: “Trên cán cân công lý của Chúa không phải trọng lượng của dâng cúng là đáng kể, nhưng là trọng lượng của con tim. Bà goá trong Tin Mừng đã đặt vào hòm tiền của đền thờ hai đồng xu nhỏ và vượt quá tiền dâng cúng của những người giàu. Không cử chỉ từ nhân nào thiếu ý nghĩa trước mặt Chúa, không có lòng từ bi nào mà không có hoa trái” (Bài giảng về chay tịnh dec.mems., 90,3).

Sống tín thác vào Chúa

Chúng ta có thể nghĩ tới một phụ nữ góa nghèo khác tên là Maria, dưới chân Thánh Giá Chúa đã dâng tất cả đời mình cho Chúa. Mẹ là mẫu gương tuyệt hảo của người tận hiến trọn vẹn qua sự tín thác nơi Thiên Chúa; với niềm tin ấy mẹ nói với Sứ Thần “Này tôi đây” và đón nhận thánh ý Chúa. Nhờ lời thưa xin vâng ấy, ý Chúa được thể hiện, mầu nhiệm sự sống được trao ban và dâng hiến được thực hiện nơi đồi Golgotha, thế gian có được Chúa Giêsu, Bánh Hằng Sống, Đấng Cứu Độ chúng ta.

Tại Cana, Mẹ đã xin Chúa Giêsu cứu giúp anh em mình khi nói: “Họ không còn rượu nữa” (Ga 2,3), và nhận được lời Chúa Giêsu: “Này bà, giữa tôi và bà, nào có việc gì?” (Ga 2,4) Mẹ vẫn bảo gia nhân vâng lời Chúa Giêsu.

Bà góa thành Sarephta đã làm những gì tiên tri Êlia nói với bà, mang cho ông ít bánh. Tương tự như thế, những người hầu bàn tại Cana vâng lời Chúa Giêsu. Sức mạnh tình yêu vô biên của Thiên Chúa, sự phục sinh của Chúa Giêsu Kitô được tái diễn nơi bàn tiệc thánh: Này là Mình Thầy hiến tế vì anh em.

Lạy Mẹ Maria, xin giúp mỗi người chúng con tín thác vào Chúa như Mẹ. Amen.

 

13. Giá trị đạo đức

(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm – ViKiNi)

  1. Đức Giêsu đưa ra ba hạng người tiêu biểu trong đời sống đạo đức, giúp ta nhận ra đâu là giá trị đạo đức thật, đâu là giả.

Ba hạng người đó giống như một ông đi họp từ thiện ăn mặc sang trọng. Trước khi đi, ông quyết định giúp 20.000$, đến nơi, thấy nhiều người giúp 20.000$, ông muốn hơn người ta, nên góp 50.000$ nhưng ông lại rút lộn bao thư 100.000$ trao cho hội từ thiện. Vậy đâu là giá trị việc bác ái của ông?

Giá trị việc bác ái của ông xét theo đạo đức học là ở ý hướng, ở lòng tốt, thiện tâm, thiện chí. Lòng tốt của ông ở quyết định giúp 20.000$. Đến nơi, ông muốn góp 50.000$ để hơn người ta, nổi tiếng hơn người ta, đó là do tính ham danh vọng, ham địa vị của ông, nên ông không được phúc lại mắc thêm tội kiêu ngạo. Còn việc ông rút lầm bao thơ 100.000$ là ngoài ý hướng tốt của ông. Đây là việc đóng góp vô ý thức, nó vô thưởng vô phạt, nó vô ích đối với ông. Xét về đạo đức, nó không có giá trị gì với ông.

  1. Ba hạng người trong Tin mừng hôm nay cũng có những hành vi đạo đức tương tự như ông đi họp từ thiện trên.

– Hạng kinh sư làm việc đạo đức chỉ vì cầu danh, cầu lợi, cầu địa vị. Họ mặc lễ phục trịnh trọng, làm bộ đọc kinh nguyện lâu giờ chỉ để cầu được kính trọng chào hỏi, cầu ngồi chỗ danh dự nhất, cầu kiếm được nhiều tiền của biếu tặng. Họ hoàn toàn có mục đích xấu, vụ lợi, ích kỷ, kiêu ngạo. Xét theo giá trị đạo đức, hạng này rất xấu: “Họ sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn”.

– Hạng thứ hai là những người giàu có, làm việc đạo đức bằng dâng cúng những của dư thừa, hoặc vì gò bó theo tục lệ phải dâng cúng, hoặc vì sợ chê cười, hoặc làm cho qua đi, cho xong chuyện, khỏi bị quấy rầy. Họ làm việc bác ái từ thiện sống đạo đức theo thói quen, sợ dư luận hay sợ tội, sợ phạt. Họ thiếu lòng thành tâm, thiện chí. Họ không có ý tốt, lòng tốt. Xét theo giá trị đạo đức, việc từ thiện, dâng cúng, đọc kinh của họ là vô ích. Họ không được công phúc gì.

– Hạng thứ ba là những người sống đạo đức, làm việc từ thiện, bác ái cách thành tâm, thiện chí, cố gắng hy sinh làm việc thiện, việc tốt, việc thiêng liêng sốt sắng như bà góa nghèo, dù chỉ có một phần tư xu để nuôi mình, bà cũng dâng cúng hết. Bà cũng không sợ chê cười vì bỏ quá ít so với người khác. Bà chấp nhận cảnh thấp hèn thua kém người khác. Bà thật là người thành tâm, thiện chí, rất khiêm tốn. Đức Giêsu đã đánh giá bà có lòng đạo đức rất cao đáng làm gương cho các môn đệ: “Thầy bảo thật anh em: Bà góa nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết, tuy rất túng thiếu, đã bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi sống bà”.

Bà góa này cũng giống bà góa thành Sarépta: “Chỉ còn nắm bột trong hũ và chút dầu trong vò, đang đi tìm mấy thanh củi rồi về nướng cho con trai và mình ăn, rồi chết”. Sống trong nạn đói cùng cực như vậy, vẫn sẵn sàng hy sinh nhường cho Êlia ăn, dù chẳng biết Êlia là ai. Chính vì lòng hy sinh bác ái tột độ đó, Thiên Chúa đã cho hũ bột không vơi, vò dầu không cạn để cứu sống bà, con bà và tiên tri Êlia nữa.

  1. Người Việt Nam cũng đề cao giá trị đạo đức chân chính bằng những câu châm ngôn như: “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”. “Cái nết đánh chết cái đẹp”. Gỗ là giá trị chân chính, nước sơn mầu mè bên ngoài là phụ thuộc. Tính nết là giá trị cốt cách của con người, còn vẻ đẹp, duyên dáng bên ngoài là tùy phụ, chóng phai, chóng tàn. Tuy nhiên, thời đại ngày nay, người ta bị hấp dẫn về mẫu mã, quảng cáo, tuyên truyền, hơn là phẩm chất tốt của vật dụng. Vì thế, giá trị đạo đức bị suy đồi, những sản phẩm, hàng hóa giả dối lan tràn khắp nơi, gây nên biết bao tai họa. Phân, thuốc, giống cây dổm làm mất mùa, đói kém, nghèo khổ khắp nơi. Vật liệu xây cất dổm làm bao nhiêu công sở, nhà cửa mới xây đã đổ nát, bỏ hoang không ai dám ở. Máy móc, nhiên liệu dổm, sản phẩm kém phẩm chất, xuất khẩu bị trả lại làm kinh tế xuống dốc. Miệng hô hào: “Người tốt việc tốt” nhưng làm láo, báo cáo rất hay, tệ đoan tham nhũng, ô dù, thành tật vô phương cứu chữa, tương lai đất nước thật đen tối!

Mỗi người chúng ta phải tự xét mình: mọi việc chúng ta làm giả dối hay chân chính, nhất là những việc bác ái và đạo đức thiêng liêng, chúng ta có thành tâm, thiện chí cố gắng thực hiện không. Những dâng lễ, đọc kinh cầu nguyện, dâng cúng giúp đỡ làm vì mến Chúa yêu người hay vì bó buộc, vì thói quen, vì sợ dư luận, tệ hơn nữa làm vì cầu danh, khoe khoang?

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã thấu suốt tận đáy lòng mỗi người chân thực hay giả dối, và đã tán thưởng bà góa nghèo túng biết hết lòng hy sinh dâng cúng tất cả những gì bà có đến cạn kiệt, không còn chút gì để nuôi sống. Còn Chúa, chính Chúa đã hy sinh dâng tất cả những gì Chúa có và cả mạng sống cho chúng con hơn gấp trăm ngàn lần bà góa kia. Xin cho chúng con biết chân thành hiến dâng đời sống mình để phục vụ mọi người vì hết lòng mến Chúa. Amen.

 

14. Chúa Nhật 32 Thường Niên

MỘT SỐ TIỀN NHỎ NHƯNG TẤM LÒNG THẬT LỚN

(Lm. GB. Trần Văn Hào SDB)

Nhà văn Anderson Đan mạch đã viết một câu truyện kể lại sự kiện xảy ra trong chính cuộc đời của ông. Câu truyện vắn tắt như sau: “ Vào một buổi tối mùa thu, ông đi dạo phố một mình tại thủ đô Copenhague. Ông bỗng nghe một giọng nói yếu ớt từ đằng sau vọng lại: “ Chú ơi, mua hộ cháu bao diêm.” Nhà văn quay lại, chợt nhận ra một đứa bé gái, gương mặt xanh xao, quần áo nhầu nát bẩn thỉu. “Chú ơi mua hộ cháu bao diêm, cả ngày cháu chưa bán được một xu nào.” Giọng cô bé thật buồn. Nó bùi ngùi kể lại hoàn cảnh đáng thương của nó. Mẹ chết sớm, con bé phải ở với một người cha nghiện ngập và khá cọc cằn, nhưng nó rất thương bố nó. Nó cố lê lết khắp nơi để bán diêm, kiếm chút tiền mang về cho bố những bữa ăn ngon. Anderson xúc động cho con bé ít tiền. Đứa bé sáng rực đôi mắt và thầm nghĩ nó sẽ mua về cho bố tối nay một ổ bánh mì thật ngon. “Chú ơi sao chú tốt với cháu thế? Chú tên gì, và chú làm nghề gì?” – Chú tên Anderson, và chú làm nghề này. Nhà văn lấy tay vẽ vào khoảng không hình một cái bút, ám chỉ ông là nhà văn. Đứa bé vẫn không hiểu tưởng ông làm nghề bán bút giống như nó đi bán diêm vậy. Anderson hẹn với đứa bé đầu năm tới, ông sẽ trở lại và cho nó một món quà, còn bây giờ ông phải đi xa.

Nhiều tháng trôi qua, Anderson quên mất lời hứa của mình. Một bữa nọ, tình cờ ông trở lại Copenhague và chợt nhớ tới đứa bé, mua cho nó một chiếc áo ấm, và đi tìm nó. Người chủ tiệm bên đường nói cho ông biết rằng con bé đã chết rồi. Ngày đầu năm, người ta thấy đứa bé nằm chết cóng bên đường không biết từ lúc nào. Nó nằm chết giữa một đống bao diêm, trong đó có một bao đã hết nhẵn. Có lẽ nó đốt diêm để sưởi cho bớt lạnh. Có điều, là khi nó chết, khuôn mặt vẫn còn hồng hào và dường như nó đang mỉm cười chờ đợi một cái gì đó.

Anderson đứng chết lặng. Người chủ tiệm nói tiếp, “Khi mang xác nó đi người ta thấy trong túi áo của nó rơi ra một vật gì giống như chiếc quản bút làm bằng những que diêm. Chắc nó làm để tặng ai đó, vì trên quản bút có viết hàng chữ ‘tặng chú Anderson’.

Câu chuyện cảm động trên không phải là một câu chuyện hư cấu, nhưng là một kỷ niệm buồn trong chính cuộc đời của nhà văn. Câu chuyện này cũng giống như giai thoại về người đàn bà góa nghèo khổ mà thánh Marcô thuật lại trong Tin mừng hôm nay. Cô bé bán diêm và người đàn bà góa khá giống nhau. Giống nhau ở chỗ cả hai đều là những con người rất nghèo, bị xã hội bỏ rơi. Giống nhau cũng ở chỗ cả hai là những con người rất quảng đại, biết cho đi những gì mình có. Nhưng điểm giống nhau căn bản, vì họ là những con người tuy nghèo về vật chất, nhưng lại rất giàu về lòng nhân ái.

Thân phận bà góa: người nghèo của Giavê

Trong bài đọc một, tác giả sách Các Vua quyển thứ nhất cũng thuật lại giai thoại về một bà góa nghèo thành Sarepta. Người phụ nữ này đã trao tặng ngôn sứ Elia tất cả phần lương thực ít ỏi còn sót lại trong nhà. Lòng quảng đại đó đã được Thiên Chúa đền đáp: Hũ bột của bà không bao giờ vơi và bình dầu không bao giờ cạn. Vị tiên tri còn thực hiện phép lạ cứu sống đứa con trai của bà. Trong xã hội Do Thái khi xưa, những phụ nữ góa chồng bị xã hội gạt ra bên ngoài. Họ không có một quyền lợi gì về mặt xã hội. Nhưng ngay từ thời Môise, vị thủ lãnh đã ban hành lề luật là không được làm hại cô nhi, quả phụ (Đệ nhị luật 27, 19). Các ngôn sứ thường gọi các bà góa là những người nghèo của Giavê (anawim), tức là những con người được Thiên Chúa chúc phúc. Đặc biệt đến thời Chúa Giêsu, Ngài luôn lên tiếng bênh vực các bà góa, là những người thấp cổ bé họng trong xã hội. Hình ảnh của người đàn bà góa trong Tin mừng hôm nay là một minh dẫn cụ thể. Ngay cả người phụ nữ Samari, một người đàn bà ngoại giáo đã góa chồng và sống lang chạ với 5 người đàn ông khác, Chúa cũng không kết án và coi khinh chị. Ngược lại, Chúa kết án gay gắt thái độ giả hình của các đầu mục Do thái, làm ra vẻ đạo đức để moi hết tiền bạc của các bà góa (Lc 20, 47; 7, 11). Chúa cho đứa con trai bà góa thành Naim sống lại cũng để diễn bày lòng thương cảm với những người đàn bà bị bỏ rơi trong xã hội thời bấy giờ (Lc 7,11-17). Ngôn sứ Anna, một phụ nữ góa chồng ngày đêm cư ngụ và phục vụ đền thánh, cũng là một hình ảnh nổi bật về mẫu người luôn được Thiên Chúa yêu thương và chúc lành.

Người đàn bà góa trong Tin mừng hôm nay được Đức Giêsu đề cao như một mẫu gương. Bà rất nghèo nhưng lại giàu lòng quảng đại. Điểm son nơi người phụ nữ này không phải là những danh giá xã hội hoặc sự giàu sang phú quý bên ngoài, nhưng chính là tấm lòng nơi bà. Chúa nói với các môn đệ “Thầy bảo thật anh em, bà góa này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết” (Mc 12, 43).

Chẳng ai cho không cái gì

Người ta vẫn thường nói thế. Trong đời sống xã hội hiện nay, hầu như chẳng có ai cho không hoặc biếu không cái gì. Khi trao tặng một phần quà, ngay cả những món quà từ thiện, chúng ta dễ ngầm đặt ra điều kiện, ít nhất là để khoe khoang sự quảng đại của mình cho người khác thấy. Tính ích kỷ và keo kiệt là một nết xấu ai cũng có. Mỗi khi làm công tác từ thiện, nhiều cá nhân cũng như những tổ chức xã hội thường hay bày biện những hình thức rầm rộ, nào cờ xí, nào nghi thức, nào chụp hình đăng báo….Điều này vẫn xảy ra ngay cả nơi các tổ chức tôn giáo. Dâng cúng nhà thờ một bức tượng, một cái ghế đá… cũng phải được rao tên tuổi, phải được phát bằng ân nhân, khi chết giáo xứ phải xin lễ cầu nguyện để trả nghĩa v..v. Điều này không có gì đáng nói, nếu người cho không ngỏ ý mà người nhận tự nguyện biểu tỏ sự biết ơn. Nhưng, nhiều khi thói quen đó trở thành một căn bệnh chỉ nhằm để khoe khoang. Một vị linh mục khi đến tham dự lễ khánh thành tháp chuông tại một nhà thờ nọ, lúc nghe rao tên tuổi vị ân nhân đã khôi hài pha chút mỉa mai nói rằng: Chuông nhà thờ kêu rất sang và rất hay. Nó kêu “ Kiêu căng, kiêu căng” thay vì kính koong kính koong như các chuông nhà thờ khác. Chúng ta hãy từ từ đọc kỹ lại bài Tin mừng hôm nay để suy nghiệm điều này. Đức Giêsu trước khi quan sát người ta bỏ tiền vào hòm dâng cúng, đã cảnh báo các môn đệ: “ Anh em phải coi chừng những kinh sư ưa đi dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng. Họ thích chiếm chỗ nhất trong hội đường, thích ngồi chỗ danh dự trong đám tiệc” (Mc 12, 38). Trong bài giảng trên núi, Đức Giêsu cũng đưa ra huấn dụ căn bản để giúp chúng ta nên hoàn thiện. Một trong những huấn dụ đó, là “ Khi anh em bố thí đừng cho tay trái biết việc tay phải làm” (Mt 6, 3), tức là đừng khoe khoang, khua chiêng gõ mõ để đề cao cái tôi kiêu ngạo của mình. Sự khoe khoang đi đôi với tính keo kiệt, tức là cho đi với điều kiện. Điều kiện là phải được công bố tên tuổi cho bàn dân thiên hạ được biết. Điều kiện là phải được nể trọng như một vị ân nhân. Song chúng ta rất dễ quên rằng, mọi sự chúng ta đang sử dụng đều là ân huệ của Thiên Chúa. Thiên Chúa là chủ còn chúng ta chỉ là người quản lý. Chúng ta hãy nhìn vào gương mẫu của người đàn bà góa hôm nay. Chúa đề cao lòng quảng đại của bà, chứ Ngài không ca ngợi những người giầu có hoặc cánh Pharisiêu đã bỏ ra những số tiền kếch xù thừa thãi chỉ để phô trương. Người Pharisiêu khoe với Chúa: “ Con ăn chay mỗi tuần 2 lần, con dâng cúng 1 phần mười tài sản của con”. Khi kể dụ ngôn này, chúng ta đều biết Chúa đã kết luận như thế nào.

Đức Giêsu, mẫu gương tuyệt hảo về lòng quảng đại

Nhiều người trong chúng ta, đặc biệt các tu sỹ tự nguyện sống nghèo như lời khấn đã cam kết với Chúa. Người đàn bà góa trong bài Tin mừng hôm nay cũng nghèo xác nghèo xơ. Gia sản duy nhất bà sở đắc chỉ là 2 đồng xu cỏn con. Nhưng, nói một cách sâu xa hơn, mẫu gương tuyệt hảo về tinh thần nghèo khó mà chúng ta phải học hỏi và sao chép, không ở đâu khác mà chính từ nơi Đức Giêsu. Không ai nghèo như Ngài và cũng không ai quảng đại bằng Ngài. Trong thư thứ 2 gửi giáo đoàn Côrinthô, thánh Phaolô đã viết: “ Đức Giêsu Kitô vốn giàu sang phú quý nhưng đã trở nên nghèo khó để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em nên giàu có” (2Cr 8, 9). Ngài tự nguyện sống kiếp con người, sinh ra trần trụi không nơi trú thân. “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng con người không có chỗ gối đầu”. Cao điểm của sự nghèo khó nơi Ngài, là Ngài đã bị phơi thây chết trần trụi trên thập giá. Đôi tay Ngài dang rộng, không tích lũy bất cứ một thứ của cải nào. Nhưng cũng chính đôi tay ấy đã trao ban tất cả, ngay cả đến mạng sống để hiển thị điều mà Ngài đã nói với các học trò trong bữa tiệc ly: “ Không có tình yêu nào cao cả cho bằng mối tình của người hiến dâng sự sống cho bạn hữu”(Ga 15,13).

Hôm nay Chúa nêu ra mẫu gương về lòng quảng đại của một người đàn bà góa nghèo khổ. Đồng thời, Ngài cũng mời gọi chúng ta tiến sâu vào quỹ đạo tình yêu nơi Thập giá để trải nghiệm lòng quảng đại vô bờ bến mà chính Ngài đã diễn bày. Đây là sứ điệp mà Lời Chúa hôm nay muốn khải thị. Một vị thánh đã nói: “ Không ai trong chúng ta nghèo đến mức độ không có gì để mà cho”. Chúa chẳng thèm để ý tới những món tiền kếch xù mà những người giàu có đã dâng cúng vào đền thờ, nhưng Ngài nhắc các học trò mẫu gương của một phụ nữ nghèo. Bà ta nghèo mạt rệp, chỉ có 2 xu, nhưng đã trao dâng tất cả. Một số tiền quá nhỏ, nhưng tấm lòng thật lớn. Chúng ta nhớ lại trình thuật Chúa làm phép lạ nuôi sống năm ngàn người ăn no. Một đứa bé trao cho Chúa 5 cái bánh và 2 con cá, chẳng đáng giá bao nhiêu. Nhưng Đức Giêsu đã trọng thị đón nhận sự quảng đại của nó, và từ đó phép lạ đã xảy ra. Thiên Chúa không bao giờ lượng giá con người qua những hình thức và số lượng bên ngoài. Ngài biết rõ tâm can từng người. Đồng thời Ngài cũng không bao giờ thua kém lòng quảng đại của chúng ta.

Kết luận

Có một giai thoại trong cuộc đời thánh Phanxicô Assisi đã được nhà văn Nikos Kazantzakis viết thành tiểu thuyết. Sau khi Phanxicô đã cho đi tất cả của cải của mình, phân phát cho người nghèo, Ngài bắt đầu đi lang thang khất thực. Vị thánh vừa đi vừa hát. Một anh bạn cũ rất thân quen gặp lại Ngài đã rất ngỡ ngàng và hỏi: “Này Phanxicô, đôi giày đắt tiền, chiếc đồng hồ quý giá, quần áo sang trọng của anh đâu rồi?”. Phanxicô trả lời: “ Tất cả những thứ đó là của ma quỷ, tôi đã trả lại cho nó hết cả rồi.” Người bạn hỏi tiếp: “ Anh từ đâu lang thang đến đây và anh đang định đi đâu thế? – “Tôi đến từ một nơi rất xa và tôi cũng đang đi về nơi xa xăm ấy”. Người bạn lắc đầu không hiểu và hỏi tiếp: “ Thế tại sao anh vừa đi vừa hát nghêu ngao như một thằng điên?” – “Tôi hát để khỏi bị lạc đường.”

Là người đi theo Chúa Giêsu, chúng ta cũng rất dễ lạc đường, nếu để cho của cải bủa vây. Điều quan trọng nhất là chúng ta dám bứt phá, dám phá đổ pháo đài ích kỷ của mình để biết quảng đại cho đi như người đàn bà góa trong bài Tin mừng hôm nay.

 

15. Chúa Nhật 32 Thường Niên

ĐỒNG KẼM ĐỒNG XU CỦA TÔI ĐÂU?

(Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB)

Trong những ngày cuối niên lịch phụng vụ, khi mà Hội Thánh muốn mọi Kitô hữu suy niệm nhiều về các chân lý thời sau hết (tứ chung), chúng ta được mời gọi hướng tư tưởng về ngày ‘phán xét’, khi mỗi người đều phải ‘đứng trước mặt vị thẩm phán chí công’. Để chuẩn bị cho ngày đó, vấn nạn sẽ là: vị Thẩm Phán sẽ dùng tiêu chuẩn nào để phán xét tôi, cái ‘chí công’ của Ngài sẽ ra sao? Trình thuật Mác-cô hôm nay về ‘đồng xu đồng kẽm của bà góa’ được đặt ngay trước bài giảng dài về cánh chung trong chương 13, chắc hẳn phải soi chiếu một điều gì đó vào các vấn nạn trên. Mong rằng nó sẽ mang lại một giải đáp đầy an ủi mang tính Tin Mừng thật sự cho cái viễn tượng phán xét, thường vẫn tạo nên bao hãi hùng kinh khiếp.

Thẩm Phán chí công sẽ xét xử theo tiêu chuẩn nào? Người ta vẫn thường dạy rằng Thiên Chúa phán xét mỗi người theo công tội họ đã làm trong cuộc sống: nếu là người lương thiện ngay lành, tôi sẽ được thưởng, còn nếu làm điều dữ điều trái, tôi sẽ bị luận phạt muôn đời muôn kiếp. Căn cứ theo tiêu chuẩn này, tôi sẽ là người hoàn toàn trách nhiệm và chủ động về thưởng phạt; ơn thánh Chúa nếu có, cũng chỉ đóng vai trò trợ giúp. Tuy nhiên Giáo lý Công giáo lại dạy rằng, ơn cứu độ của Đức Kitô là cần thiết (essential) cho hết thảy mọi người, vì mọi người đều phạm tội. Nếu quả thật như thế, thì quan niệm phán xét trên có cái gì đó không ổn! Không một ai, cho dầu có cố gắng tu luyện tới đâu đi nữa, có thể ra trước tòa phán xét ‘xúng xính trong bộ áo thụng… đáng chiếm ghế danh dự’ vì đinh ninh rằng khi còn sống mình đã thu tích đủ ‘công nghiệp’ để đáng được thưởng công. Trước mặt vị Thẩm phán chí thánh chí công đó, mọi người đều chỉ là: ‘đầy tớ vô dụng’ (Lc 17:10). Thế nhưng may mắn thay trong ngày phán xét, vị Thẩm Phán lại cũng chính là Giêsu đang “ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho đền thờ… quan sát xem đám đông bỏ tiền vào đó ra sao”. Người sẽ không khen thưởng những kẻ bỏ thật nhiều tiền vào thùng, nhưng lại đề cao‘một bà góa nghèo’, vì bà đã dâng cúng vào đền thờ ‘hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng xu’ mà bà đã ‘rút ra từ cái túng thiếu của mình’. Như thế để chuẩn bị sẵn sàng cho ngày ra trước vị Thẩm Phán chí công, tôi rất cần biết cái ‘rút ra từ cái túng thiếu của mình’ đó có nghĩa là gì? Làm thế nào để Ngài cũng sẽ gọi các thần thánh lại, chỉ vào tôi và nói: “tên nghèo nàn đốn mạt này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết”!

‘Đồng tiền kẽm… rút ra từ cái túng thiếu’ chắc chắn không phải là: các việc lành phúc đức tôi đã làm được trong đời, các thành công hoành tráng để có thể xứng đáng được ‘người ta chào hỏi’ tung hô trên thiên quốc; đó phải mãi mãi vẫn là những gì vô giá trị như đồng kẽm, đồng xu trước mặt người đời, nhưng lại vô cùng quí hóa trước mặt Thiên Chúa từ nhân. Phải chăng đó là: những cố gắng, những nỗ lực vươn lên khỏi sự thấp hèn yếu đuối tột cùng của mình… nhưng đã thất bại, vẫn hoàn toàn sụp đổ chẳng đi tới đâu. Sẽ chẳng bao giờ có ai trong đời, ngay cả chính tôi, đánh giá cao những điều đó, nếu không có cặp mắt ‘quan sát’ vô cùng chí công nhưng rất mực nhân hậu của Đức Kitô từ nhân. Có thể như phần đa mọi người, tôi phải thừa nhận: bất chấp những nỗ lực cố gắng, đời mình thành đạt không nhiều, nhưng thất bại thì lắm; “Điều tôi muốn thì tôi không làm, còn điều tôi ghét thì tôi cứ làm’ (Rm 7:15). Rất nhiều khi tôi thấy mạc cảm và thất vọng vô cùng về các yếu đuối, sa ngã mình vướng mắc. May mắn thay, trong niềm tin vào Thiên Chúa từ nhân, suy đi nghĩ lại, tôi còn thấy: đời mình – và rất có thể nhiều mảnh đời khác cũng thế – không thiếu những đồng kẽm đồng xu của các nỗ lực vô vọng này; vì tuy được tạo dựng ‘nhân chi sơ tính bản thiện’, và mang trong người ‘hình ảnh của Thiên Chúa’, kiếp sống ô trọc nào mà không tránh khỏi các bất toàn yếu đuối? Do đó điều quan trọng nhất trong đời chưa hẳn là tránh được tội lỗi, nhưng là làm sao tranh thủ được cặp mắt ‘quan sát’ đầy từ tâm ấy, cặp mắt từng nhận ra giá trị của ‘đồng kẽm’ nơi bà góa, đồng xu nơi Phê-rô, nhưng lại không tìm thấy nơi các Biệt phái, thượng tế. Chỉ có thế thôi, và ngày phán xét sẽ đâu còn gì đáng sợ nữa!

Mẹ Tê-rê-xa Kơn-ka-ta hay lặp lại câu nói sau đây: “Chúa không muốn nhìn thấy bao nhiêu việc bác ái tôi đã làm, nhưng ngài muốn nhìn thấy bao nhiêu bác ái tôi đã nỗ lực đem vào các công việc của tôi”. Hình như Lời Chúa hôm nay cũng nhắc lại cùng một chân lý đó: Chúa không phán xét tôi căn cứ vào những gì tôi đạt được, nhưng cặp mắt nhân ái của Người muốn tìm thấy nơi tôi những đồng kẽm nhỏ nhoi của nỗ lực vươn lên thầm kín trong mọi tình huống cuộc đời. “Còn bà này thì rút ra từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản” hẳn mang nội dung rất an ủi đó chăng?

Nếu quả là như thế thì, cho những người yếu đuối và tội lỗi như tôi, Tin Mừng đích thực là đây: Tim Mừng có khả năng làm cho đứa con hoang đàng hay tên cướp bị tử hình trên thập giá thay vì hãi sợ, sẽ ra trước vị Thẩm Phán ‘đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu rỗi’ (Lc 21:28).

“Hãy tạ ơn Chúa vì ngài nhân lành, vì tình thương của ngài bền vững muôn năm!” Lạy Chúa, con muốn cất lời ca ngợi lòng thương xót hải hà của Chúa, khi sống và nhất là trong giờ chết. Lòng thương xót đó cho phép con không mạc cảm trước những yếu đuối thiếu xót của mình, hơn nữa còn có khả năng biến chúng thành nguồn an ủi và hy vọng cho đến muôn đời. Xin cho con đừng bao giờ xa rời cặp mắt yêu thương đó, bây giờ và trong giờ lâm tử. Amen.

 

16. Nghèo tiền nhưng giàu tình

((Suy niệm của Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn)

Tại một phố nhỏ bên Châu Âu, vào một mùa đông nọ, sau khi nghe nhà trường thông báo sẽ lạc quyên tiền bạc và phẩm vật để làm quà giáng sinh cho những trẻ em nghèo trong vùng, một em bé 13 tuổi đã dành dụm trong suốt 1 tháng được 15 đồng và em quyết định đón xe đến trường để trao tặng số tiền đó.

Một trận bão tuyết bất ngờ đổ xuống khiến lưu thông bị bế tắc, xe cộ không thể di chuyển. Cậu bé đã đi bộ đến trường, băng qua những cánh đồng ngập tuyết trắng xoá.

Ông hiệu trưởng vô cùng kinh ngạc trước tấm lòng quảng đại và hy sinh của cậu bé, nhưng ông còn ngạc nhiên bội phần khi biết em thiếu niên trước mặt ông lại có tên trong danh sách những trẻ em nghèo mà nhà trường sẽ tặng quà giáng sinh năm đó.

Đúng là nghèo tiền nhưng giàu tình. Nghèo đến nỗi được nhà trường ghi nhận, cho vào danh sách những người cần được giúp đỡ. Nhưng tình thương liên đới và trách nhiệm san sẻ đã làm cho tâm hồn cậu bé nhà nghèo trở thành “viên ngọc quý”.

Thánh Kinh cũng có ghi nhận một câu chuyện tương tự: Chúa Giêsu cùng các môn đệ đang ở trong đền thờ, gần khu vực có đặt 13 thùng tiền. Dân chúng và khách hành hương khắp nơi thường đến đây dâng cúng cho công việc tu bổ hay đóng góp vào vấn đề nhang khói, hương hoả của đền thánh. Trong các mùa lễ Vượt qua, số người dâng cúng rất đông nên thường có các tư tế đền thờ ngồi gần các thùng tiền để ghi nhận số tiền người ta dâng. Thỉnh thoảng họ xướng to danh xưng của một vài nhân vật đã bỏ vào thùng những khoản tiền lớn.

Việc xướng danh và tiếng va loảng xoảng liên tục của các đồng tiền kích thích những người giàu có hăng hái mở rộng hầu bao dâng cúng đền thờ. Chúa Giêsu ngồi quan sát và chứng kiến nhiều người giàu có bỏ tiền vào hòm. Ngài im lặng!

Bỗng xuất hiện một bà goá nghèo. Bà đến bên hòm tiền. Lặng lẽ bỏ vào đó hai trinh. Số tiền quá nhỏ. Không đáng kể. Tiếng va chạm của hai đồng bạc vang lên khô khan, cụt ngủn. Chẳng ai để ý. Chẳng ai thèm hỏi thăm hay xướng danh của bà. Nhưng Đức Giêsu lên tiếng. Ngài gọi các môn đệ đến và tuyên bố: “Bà goá nghèo kia đã bỏ vào nhiều nhất.”

Trong xã hội Do thái, đàn bà goá phần lớn là thành phần nghèo khổ đáng thương. Họ chẳng có tài sản. Của cải người chồng để lại đều thuộc về trưởng nam. Chính Phaolô cũng đã có lần kêu gọi các cộng đoàn tiên khởi nâng đỡ, trợ giúp các bà quả phụ (1 Tim 5:3-16). Theo lẽ thường các quả phụ nghèo không buộc phải dâng cúng. Nhưng thái độ và việc làm của bà goá nghèo nơi đền thờ đã được Chúa Giêsu ghi nhận. Không phải vì bà “nghèo” và “goá” mà không đáng trọng bằng người giàu có. Không phải bà bỏ ít tiền mà lòng đạo của bà thua kém người ta. Không phải vì chẳng được xướng danh mà công nghiệp của bà không ghi trên trời. Trái lại hai đồng trinh bé nhỏ của bà đã được Thiên Chúa đón nhận với lời chúc lành: “Bà đã bỏ nhiều nhất.” Bởi vì bà đã bỏ vào thùng tiền chính sự sống của mình. Bà đã dâng cho Thiên Chúa tặng phẩm quí nhất của con người là sự sống: “Tất cả những người kia bỏ của mình dư thừa, còn bà này lấy túng thiếu mà bỏ vào mọi sự mình có để nuôi sống” (Mc 12:44).

Cũng thế, điều mà sách Các Vua ghi nhận trong câu chuyện “Bà goá thành Sarephta” không phải là việc bình dầu hũ bột không vơi, cũng chẳng phải là phép lạ cả thể mà tiên tri Êlia đã chỉ làm cho một người dân ngoại, nhưng là việc bà ta tin tưởng đến độ dám hy sinh chút sự sống còn sót lại cho người của Thiên Chúa.

Tin tưởng là trao ban. Nhưng nếu trao ban nhiều thứ mà chưa trao ban sự sống thì vẫn chưa có gì đáng kể. Phải chăng đây chính là điều mà Chúa Giêsu, qua hành vi của bà goá nghèo, báo trước về việc Người sắp làm: dâng hiến chính mạng sống mình cho phúc lộc con người.

Thư gởi tín hữu Do thái đã xác nhận điều này: Các thượng tế dâng tiến lễ tế hàng năm, với máu không phải của mình; việc làm đó không xoá được tội lỗi người ta; nhưng Đức Giêsu, Người đã dâng hiến chính máu mình, đã tế lễ chính thân xác mình để huỷ diệt tội lỗi. Và như thế sự trao dâng của Đức Giêsu có giá trị ngàn đời.

Chỉ khi dâng hiến những gì đụng chạm đến sự sống còn của cuộc đời, tôi mới trao ban đúng nghĩa. Thế nên, khi dám trao ban ngay cả sự nghèo túng của mình như người đàn bà goá, của lễ tôi dâng mới có giá trị trường tồn không phai. Đừng nghĩ tôi không có gì để cho, nhưng hãy nghĩ tôi có cho khi mình chẳng còn gì nữa không? Nếu cứ tự nhủ khi nào có thời giờ, tôi mới cộng tác với cộng đoàn xứ đạo, khi nào dư giả tài chánh lúc đó mới trợ giúp trao ban, khi nào sức khoẻ phong phú mới dấn thân phục vụ. Thế ra tôi chỉ biết dâng những của dư thừa chứ không dám dâng cả sự túng thiếu. Tôi chỉ sát tế chiên bò, dâng máu lừa dê, chứ chẳng dám dâng hiến chính mạng sống cuộc đời của mình. Phải chăng giữa tôi và người đàn bà goá nghèo vẫn còn cả một khoảng trời xa cách.

Lắm khi việc dâng hiến của tôi không thanh thản và siêu thoát. Vẫn còn thấp thoáng đâu đó một mưu đồ trục lợi, một ý tưởng khoe khoang, hay một khát khao danh vọng. Phải chăng “chất ký lục và biết phái” vẫn còn tồn đọng trong hồn tôi?

Lời Chúa đã phán: “Ta chuộng lòng nhân nghĩa hơn là của lễ toàn thiêu.” Lễ toàn thiêu của tôi có được khứng nhận là vì tình yêu đang thiêu đốt tâm hồn. Cha sở Gioan Maria Vianney thường tâm sự: “Cái gì đẹp nhất, tôi đều dành cho việc phục vụ và thờ phượng Chúa.” Điều đáng nói không phải vì ngài đã dành của cải người ta tặng để mở cô nhi viện, để sắm sửa áo lễ hào quang thật đẹp, nhưng là vì ngài đã dâng hiến tặng phẩm quí giá nhất cuộc đời. Đó là cuộc sống của chính ngài, với thời gian, sức lực, tài năng, học thức (dù rất giới hạn)… tất cả cho tình yêu Thiên Chúa và ơn cứu rỗi các linh hồn.

Để trở thành người Kitô hữu chân chính, chúng ta cũng được mời gọi sống đời dâng hiến như vậy.

 

17. Tấm gương bà góa

(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)

  1. Dẫn vào Thánh lễ

Anh chị em thân mến

Người đời thường đánh giá theo bề ngoài, còn Thiên Chúa thì đánh giá theo tấm lòng. Hôm nay chúng ta đến nhà thờ này. Chúa không để ý tới quần áo, vẻ mặt hay phong cách bề ngoài của chúng ta, nhưng Ngài nhìn thấu tấm lòng của chúng ta. Vậy chúng ta hãy rất chân thành với Chúa, bày tỏ hết những gì nghèo nàn, yếu đuối, tội lỗi của chúng ta để được Ngài thứ tha, nâng đỡ và bồi dưỡng thêm cho chúng ta.

  1. Gợi ý sám hối

Chúng ta thường sống giả hình

Chúng ta thường ích kỷ, không sẵn sàng chia xẻ với người khác.

Chúng ta ham nhận hơn là cho.

III. Lời Chúa

  1. Bài đọc I (1 V 17,10-16)

Câu chuyện bà goá xứ Sarépta giúp đỡ ngôn sứ Êlia có nhiều điểm rất đáng suy gẫm: (1) Bà là người ngoại nhưng tấm lòng lại quảng đại hơn rất nhiều tín hữu do thái; (2) Bà đã cho ngôn sứ Êlia không phải những cái bà dư thừa, mà chính chiếc bánh cuối cùng của mẹ con bà; (3) Sở dĩ bà dám cho đi như thế là vì bà có lòng tin tưởng phó thác vào lời hứa của Thiên Chúa.

  1. Đáp ca (Tv 145)

Thánh vịnh này triển khai một nét cao quý của bà goá xứ Sarepta, đó là niềm tin tưởng phó thác vào Chúa, Đấng yêu chuộng người công chính và phù trì nâng đỡ những kẻ yếu đuối nghèo nàn.

  1. Tin Mừng (Mc 12,38-44)

Có hai hình ảnh rất đối chọi nhau trong đoạn Tin Mừng này:

Hình ảnh của các luật sĩ: rất cao sang, vinh dự với áo thụng, chức quyền, được người ta bái chào, được ngồi những chỗ nhất. Thế nhưng đó chỉ là cái vỏ, che đậy bên trong là một tâm hồn kiêu căng, tham lam, ức hiếp kẻ yếu đuối.

Hình ảnh một bà góa: nghèo tiền nhưng rất giàu lòng. Đức Giêsu coi đây là hình ảnh đẹp nên “gọi các môn đệ đến” chỉ cho họ thấy và bảo họ noi gương.

  1. Bài đọc II (Dt 9,24-28) (Chủ đề phụ)

Tác giả thư Do Thái nhắc tới việc vị Thượng Tế Do Thái mỗi năm vào gian cực thánh của Đền thờ Giêrusalem một lần, và so sánh với Đức Giêsu Thượng Tế: (1) Vị thượng tế Do Thái vào gian cực thánh của Đền thờ Giêrusalem; còn Đức Giêsu thì vào chính cõi trời; (2) Vị thượng tế Do Thái vào đó để dâng của lễ; còn Đức Giêsu Thượng tế thì dâng chính bản thân mình; (3) Mỗi năm vị thượng tế Do Thái phải vào lại gian cực thánh ấy; còn Đức Giêsu Thượng tế chỉ hiến tế một lần là đủ.

  1. Gợi ý giảng
  2. Hình thức và tâm tình

Trong bài Tin Mừng hôm nay, ta thấy 2 mẫu người:

. Mẫu thứ nhất là các luật sĩ: bề ngoài họ rất đạo đức: họ giữ luật chín chắn, họ đọc kinh nhiều và đọc thật dài. Vì thế họ được người ta kính trọng: ra ngoài đường ai gặp họ cũng kính chào, khi họ dự một buổi hội họp thì ai cũng nhường cho họ những chỗ danh dự nhất. Nhưng thực ra bên trong họ chẳng đạo đức chút nào: họ chỉ làm ra bộ đạo đức như thế để được người ta kính trọng và dâng cúng tiền bạc.

. Mẫu người thứ hai là người đàn bà goá: bề ngoài bà rất nghèo nàn, hèn hạ. Không ai tôn trọng bà, thậm chí chẳng thèm để ý tới bà. Nhưng tâm hồn bà rất cao quý: mặc dù nghèo nàn, bà cũng không tiếc lấy ra phần tiền tuy nhỏ nhưng rất cần thiết để dâng cúng vào đền thờ.

Như thế, bài Tin Mừng này đặt ra vấn đề Hình thức và Tâm Tình. Đó là 2 mặt của 1 thái độ. Nhưng mặt nào trọng hơn? Theo cách đánh giá của CG thì mặt Tâm tình trọng hơn mặt Hình Thức: Chúa đã gọi các môn đệ đến chỉ cho họ thấy thái độ của bà goá, và nhận xét: “Thầy nói thật với các con: trong những người đã bỏ tiền vào hòm, bà goá này đã bỏ nhiều hơn hết. Vì tất cả những người kia bỏ của mình dư thừa. Còn bà này đang túng thiếu, đã bỏ tất cả những gì mình có để nuôi sống”.

Cách đánh giá của CG thật là đúng: bởi vì nếu có hình thức mà không có tâm tình thì cũng giống như có một cái đèn mà không có dầu không có điện, giống như có một chiếc xe gắn máy mà không có xăng, giống như có một cái xác mà không có hồn… tất cả sẽ vô ích, vô dụng.

. Một người giáo dân đeo ảnh Thánh Giá thật đẹp, ngày nào cũng dự lễ rước lễ… nhưng trong lòng không mến Chúa không yêu người… thì cũng đáng xếp vào loại giả hình như bọn luật sĩ trong Tin Mừng mà thôi.

. Một công nhân viên giỏi nhất phát biểu hùng biện, giỏi viết những bản báo cáo thành tích nghe rất kêu… nhưng làm việc thì lờ đờ, biếng nhác… thì chẳng ích lợi gì cho việc phát triển xã hội.

Cho nên cái tâm tình, cái thực chất, cái bên trong thì quan trọng và quý giá hơn cái Hình Thức, cái dáng vẻ bề ngoài,. Trong việc sống đạo cũng vậy: đọc kinh, dự lễ… không quý giá, không quan trọng bằng tâm tình mến Chúa yêu người.

Nhưng từ nhận định rất đúng đắn, rất căn bản trên, có nhiều người đi đến chủ trương bất cần hình thức. Họ bảo rằng: “Đạo Tại Tâm”: sống đạo cốt là ở tâm hồn, chẳng cần đọc kinh, dự lễ, xưng tôi gì hết.

. Một ông nọ, nhà ở sát bên nhà thờ nhưng không bao giờ đến nhà thờ. Ông bảo “Tôi thờ Chúa trong lòng”.

. Một cặp vợ chồng kia tuy đều có đạo nhưng cưới nhau chẳng có phép hôn phối chi hết. Họ bảo “Chẳng cần đến hình thức bên ngoài”.

Có lẽ đôi khi chúng ta cũng có những ý nghĩ tương tự. Bây giờ xin đặt ra một số trường hợp để chúng ta cùng suy nghĩ xem sao:

. Trường hợp thứ nhất là chuyện làm đẹp, chưng diện: quần áo cốt yếu chỉ là để che thân, mặt mày tóc tai cốt yếu chỉ là đủ sạch sẽ thôi. Nhưng chúng ta đâu chỉ muốn cái cốt yếu đó, mà còn muốn sao cho đẹp, cho đúng thời trang nữa. Vì thế chúng ta chọn lựa màu áo, kiểu quần, kiểu tóc…. đó là chưa kể đến son phấn, sơn móng tay móng chân nữa… Như thế có phải là chúng ta bất cần hình thức bên ngoài không?

. Trường hợp thứ hai là chuyện tình yêu: Nếu thực sự yêu nhau chỉ cốt yêu trong lòng là đủ thì cần gì người ta phải hẹn nhau đi chơi, cần gì phải viết thư cho nhau, cần gì phải tặng quà cho nhau, cần gì phải âu yếm nhau?

Hai trường hợp như thế đủ cho chúng ta thấy rằng tuy hình thức không quan trọng bằng tâm tình, nhưng nó cũng rất cần. Chính Hình Thức biểu lộ Tâm Tình và nuôi dưỡng tâm tình. Những lời nói, những nụ cười biểu lộ cho người ta biết rằng mình yêu thương người ta, và cũng những lời nói nụ cười đó làm cho tình yêu giữa 2 người ngày càng lớn lên, thắm thiết hơn. Không có hình thức thì tâm tình sẽ dần dần héo khô, chết dần mòn đi.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, CG mặc dù coi trọng tâm tình hơn hình thức nhưng cũng không chủ trương bất cần Hình Thức. Vì thế, bà goá trong Tin Mừng này không phải chỉ có lòng đạo đức bên trong, bà còn biểu lộ lòng đạo đức ấy qua cử chỉ dâng cúng đồng tiền nhỏ mọn của bà trong hòm tiền.

Ngày nay không ít người chủ trương “Đạo Tại Tâm” và coi thường những hình thức đạo đức như đọc kinh cầu nguyện dự lễ, dự các Bí tích… Những suy nghĩ của chúng ta nãy giờ dựa vào bài Tin Mừng cho thấy đó chỉ là một thứ ngụy biện: ngụy biện của những kẻ ghét đạo và muốn phá đạo; ngụy biện của những người có đạo nhưng lười biếng thi hành những bổn phận đạo đức. Chúng ta đừng để thứ ngụy biện ấy ám ảnh tâm trí chúng ta và làm hại cho lòng đạo đức của chúng ta.

  1. Hai bà goá – Thương là cho

Phụng vụ Lời Chúa hôm nay đề cao 2 bà goá: Một bà trong bài Tin Mừng một bà trong bài Sách Thánh, một bà Đức Giêsu gặp trong sân Đền Thờ Giêrusalem một bà tiên tri Êlia gặp ở xứ Serepta, một bà đã dâng vào thùng tiền Đền thờ một đồng xu và một bà đã cho tiên tri Êlia một chiếc bánh nhỏ.

Do đâu mà 2 bà goá này được đề cao? Có phải vì cái mà 2 bà đã cho không? Hiển nhiên là không, một đồng xu thì có đáng là bao, cũng như một chiếc bánh nhỏ thì có thấm tháp gì! Nhưng đề cao là vì cái của cho ấy tuy nhỏ mọn mà gói ghép cả tấm lòng người cho: đồng xu của Bà goá bỏ vào thùng tiền Đền thờ là cả một tấm lòng của một bà già nghèo, là cả tài sản của bà; còn chiếc bánh nhỏ mà bà goá xứ Sarepte cho tiên tri Êlia, là cả một cuộc sống – đúng hơn là cả hai cuộc sống – của 2 mẹ con trong lúc chết đói đến nơi.

Đúng vậy, của cho không bằng tấm lòng người cho, bởi vậy tục ngữ ta có câu “của ít lòng nhiều”. Và nếu chúng ta xem kỹ lại bài Sách Thánh thì chúng ta còn thấy tấm lòng của bà goá xứ Sarepta là một tấm lòng dằn co ray rứt vì tiếc rẻ: khi ấy cả xứ đang bị hạn hán, đồ ăn trở thành khan hiếm. Trong hoàn cảnh đó người giàu còn khổ nữa huống chi là người nghèo như bà goá này. Bà chỉ còn có một nhúm bột và chút dầu. Bà đi kiếm một mớ củi định về nhà làm một chiếc bánh nhỏ cho 2 mẹ con bà ăn lần chót rồi sao đó là nằm chờ thần chết dần dần tiến tới. Khi đó tiên tri Êlia đến và xin bà chiếc bánh ấy. Bà thành thật nói: “Đây là chiếc bán cuối cùng”. Nhưng sau đó vì biết Êlia là tiên tri của Chúa nên dù rất tiếc Bà cũng đem chiếc bánh cuối cùng ấy ra cho. Thật là một tấm lòng ray rứt dằn co vì tiếc rẻ. Sự tiếc rẻ ấy có làm giảm giá trị của tấm lòng không? Nếu tiếc mà không cho thì chẳng còn giá trị gì. Nhưng đàng này dù tiếc mà vẫn cho, cho nên sự tiếc rẻ ấy chẳng những không làm giảm giá trị mà còn tăng thêm giá trị của một tấm lòng quảng đại. Cho của mình dư thừa thì chẳng quý gì; cho cái mình đang cần mới là quý; và cho cái mình vừa cần vừa tiếc thì là quý nhất.

Chúng ta có thể coi những bài đọc trong Chúa nhật hôm nay là nối tiếp bài Tin Mừng Chúa nhật vừa qua. Tin Mừng Chúa nhật vừa qua dạy rằng Đạo Chúa là đạo yêu thương: thương Chúa trên hết mọi sự và thương người như chính mình. Còn Lời Chúa hôm nay giải thích rõ thêm Thương thì phải làm sao?

. Thương thì phải cho. Thương ít thì cho ít, thương nhiều thì cho nhiều. Nhưng nhất thiết thương là phải cho, nếu không cho là dấu không thương. 2 bà goá này đã thương nên đã cho, đã cho vì đã thương.

. Nhưng của cho không bằng tấm lòng người cho. Của nhiều mà lòng ít thì không quý cho bằng của ít mà lòng nhiều. Chính vì thế mà tuy bà goá ở Giêrusalem dù chỉ cho có một xu nhưng được Đức Giêsu coi là cho nhiều hơn tất cả những người khác đã bỏ tiền vào thùng hôm đó. Vì những người kia đã cho cái mà họ dư thừa, còn bà goá này cho tất cả tài sản của bà.

. Và của cho quý nhất là cho chính cái mình đang tha thiết, tiếc rẻ. Như bà goá xứ Sarepta rất tiếc chiếc bánh, vì đó là chiếc bánh cuối cùng của 2 mẹ con bà, nhưng dù vậy bà cũng đem cho.

Đó là nội dung giáo huấn của những bài đọc trong Thánh Lễ hôm nay. Có cần phải nhắc lại không? Giáo huấn gồm 3 điểm chính:

Thương thì phải cho.

Nhưng của cho không bằng tấm lòng người cho.

Và cho chính cái mình quý nhất mới là cái cho lớn nhất, giá trị nhất.

Chúng ta nói rằng mình thương Chúa. Nhưng có thương thật hay không? Hãy xét mình xem ta có cho Chúa gì không? Mỗi ngày vài phút buổi tối trước khi đi ngủ mà có khi ta cũng không cho. Mỗi tuần chừng một tiếng đồng hồ ngày Chúa Nhật mà có k hi ta cũng không cho hay có cho thì cũng cắt đầu cắt giữa cắt đuôi, nghĩa là đi lễ trễ, chia trí lo ra, về sớm. Thỉnh thoảng Chúa xin ta một chút hay sinh, một chút cố gắng, chúng ta có cho Chúa hay không? Hay là chúng ta cho Chúa thì ít nhưng xin Chúa thì nhiều, cầu nguyện thì chỉ toàn là xin, xin cho con… xin cho con… Có người xin ơn mà không được Chúa ban thì giận, họ kể lể nào là đã đọc kinh cầu nguyện, nào là đã hy sinh hãm mình thế này thế nọ, vậy mà Chúa không nhậm lời họ cầu xin. Như thế là dựa vào một ít việc lành mình đã cho Chúa để làm áp lực với Chúa, bắt Chúa phải ban ơn trả lại cho mình. Như vậy cũng chưa phải là thương Chúa thật.

Chúng ta nghĩ rằng mình thương người. Nhưng có thương thật hay không? Thì cũng hãy xét mình xem ta có cho người cái gì không? Đừng vội tự biện minh rằng tại vì tôi không có nhiều tiền. Một khi đã thương ai thật thì người ta không thiếu gì cái để cho và cũng không thiếu gì cách để cho. Đâu nhất thiết là phải cho tiền mới là thương. Thí dụ như cho cảm nghĩ tốt (thương ai ta sẽ không nghĩ xấu về người đó), thí dụ như cho sự quan tâm (thương ai ta không thể nào lơ là dửng dưng với người đó được), thí dụ như cho sự chăm sóc, giúp đỡ, cho những lời an ủi khuyến khích chân thành, cho lời cầu nguyện v.v.

Người không thương thì chỉ biết nhận mà không biết cho. Còn người thương thật thì vừa nhận mà cũng vừa cho, và coi cho là quý hơn nhận. Chúa dạy chúng ta yêu thương: thương Chúa và thương người, thương bằng cách cho.

  1. Giá trị của của cho

Giá trị của của cho không phải ở nơi số lượng được cho mà là sự mất mát mà người cho phải chịu.

Chúng ta phải cho cái mà chúng ta quý chuộng. Vì thế không phải chỉ cho cái mà chúng ta có thể sống mà không có nó, mà là cho cái mà chúng ta không thể sống nếu thiếu nó. Cách cho như thế này đòi phải hy sinh, nhưng đó mới thật là cho với cả tấm lòng.

Mẹ Têrexa kể rằng một hôm Mẹ đang đi trên đường phố thì gặp một người ăn xin. Người này nói: “Thưa Mẹ Têrêxa, ai nấy cũng cho Mẹ hết. Hôm nay tôi cũng xin được cho mẹ. Trọn ngày hôm nay tôi chỉ xin được 30 xu. Tôi muốn cho mẹ hết”. Mẹ Têrêxa suy nghĩ một lúc: “Nếu tôi lấy 30 xu này thì người ăn xin này sẽ không có gì để ăn đêm nay, nhưng nếu tôi không lấy thì ông sẽ đau lòng. Vì thế tôi đưa tay ra nhận số tiền. Quả thực tôi chưa từng thấy một khuôn mặt nào rạng rỡ niềm vui như gương mặt người ăn xin này khi ông nghĩ rằng anh cũng có cái gì đó cho Mẹ Têrêxa”.

Và Mẹ Têrêxa kể tiếp: “Thật là một hy sinh lớn đối với người nghèo này. Ông đã phải ngồi ngoài nắng suốt ngày mới kiếm được 30 xu. 30 xu chẳng là bao và cũng chẳng làm được gì cho đáng. Nhưng khi ông đưa cho tôi và tôi nhận lấy thì nó trở thành hàng ngàn bởi vì nó được cho với biết bao tình. Thiên Chúa không nhìn đến tầm vóc lớn lao của việc ta làm, Ngài nhìn tấm lòng của ta khi làm việc đó.”

  1. Quà tặng dốc cạn túi

Báo New York Times vừa đưa tin bà Oseola Mc Carty: Biểu tượng “Lòng Từ Thiện” của nước Mỹ, vừa qua đời ngày 3-10-1999 ở tuổi 91.

Vào một ngày của tháng 7-95, ông hiệu trưởng đại học phía Bắc Missisippi đã vô cùng ngạc nhiên, khi biết có một phụ nữ xa lạ tên Osenola Mc Carty xin được tặng 150.000 đôla làm quỹ học bỗng cho các sinh viên nghèo của trường, mà không cần được ghi danh tưởng niệm hay tuyên bố công khai. Nhà trường còn sững sốt hơn khi biết người phụ nữ ấy làm nghề giặt ủi, và số tiền kia là tiền dành dụm cả một đời người.

Ngay khi biết câu chuyện bà Mc Carty tặng tất cả tiền bạc của mình có làm quỹ học bổng cho trường, ông tỷ phú Ted Turner, trùm ngành kinh doanh cáp truyền hình Mỹ, đã tuyên bố góp thêm một tỷ đôla cho quỹ. Ông nói: “Người phụ nữ nhỏ bé ấy đã dám ban tặng tất cả những gì bà có, thì tôi thấy mình cũng phải đóng góp phần của tôi là một tỷ đôla”.

***

Tin mừng hôm nay thuật lại chuyện bà góa nghèo đã bỏ vào thùng tiền đền thờ “tất cả những gì mình có để nuôi sống” (Mc.12,44). “Của ít lòng nhiều”. Bà góa này tuy dâng cúng ít tiền nhưng lại hy sinh rất nhiều, và hy sinh quí giá nhất là hy sinh chính mạng sống mình, vì bà đã dâng “tất cả những gì mình có để nuôi sống”. Quà tặng đẹp nhất là quà tặng dốc cạn túi. Quà tặng quý giá không phải chỉ ở giá trị món quà, mà còn ở tấm lòng của người tặng quà nữa.

Đức Giêsu đã khen nghĩa cử cao đẹp ấy: “Thầy nói thật với các con: Trong những người đã bỏ tiền vào hòm, bà góa nghèo này đã bỏ nhiều hơn hết” (Mc.12,43) Cũng vậy, bà Mc Carty chỉ dâng tặng 150.00 đôla không thể so với tỷ phú Ted Turner bỏ ra 1 tỷ đôla, nhưng đó là tất cả kết quả chắt chiu từng đồng suốt một kiếp người. Nghĩa cử cao đẹp ấy đã mở đầu cho gần 300 nhà từ thiện khác tham gia đóng góp cho quỹ học bổng này.

Nếu bà góa nghèo được Chúa khen ngợi, thì bà Mc Carty cũng được chính Tổng Thống Bill Clinton bắt tay thăm hỏi, được vinh dự cầm ngọn đuốc Olympic chạy trên đường băng qua khu vực Mississippi, được trao tặng Huân chương người công dân danh dự Hoa Kỳ, và được cấp bằng tiến sĩ danh dự của đại học Harvard.

Văn hào John Powell viết: “Thiên Chúa sai mỗi người đến thế gian với một sứ điệp đặc biệt để loan báo, với một bài ca đặc biệt để hát lên, với một nghĩa cử yêu thương để ban tặng”.

****

Hôm nay, Đức Giêsu cũng mời gọi chúng ta tránh xa thói đạo đức giả của người Biệt phái và Luật sĩ: Lạm dụng việc đạo đức để khoe khoang, mưu cầu hư danh, ham hố chức quyền, trục lợi vật chất. Người muốn chúng ta có ý hướng ngay lành khi làm bất cứ việc gì. Đức Giêsu dạy: “Còn anh, khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, để việc anh bố thí được kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh” (Mt.6,3-4).

Người ta chỉ cho đi cái mình có. Nhưng chính vì cho mà người ta mới có, và người ta có chính vì những gì mà họ đã cho. Cha Mark Link viết: “Những điều duy nhất ta còn giữ lại được là những gì ta đã cho đi”. Bàn tay tặng hoa hồng vẫn còn vương lại hương thơm.

***

Lạy Chúa, Chúa thấu suốt tận đáy lòng mỗi người chân thực hay giả dối. Chúa khen ngợi bà góa nghèo dâng hiến tất cả những gì mình có.

Xin dạy chúng con biết âm thầm dâng hiến cho tha nhân, đang cần sự trợ giúp quảng đại của chúng con. Amen.

(Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)

  1. Cho mà không mất

Từ câu chuyện bà goá trong bài đọc I, chúng ta có thể rút ra được ý tưởng này: có những thứ có thể cho đi mà không bị mất, ngược lại còn được thêm. Người cho không bị nghèo đi, lại giàu thêm. Dĩ nhiên đó không phải là những thứ vật chất.

Một thầy giáo cho đi những kiến thức của mình, học trò được giàu thêm kiến thức nhưng kiến thức của ông thầy không hề vơi.

Một người mẹ cho con cái mình tình thương cũng vậy.

Một người vui tính mang niềm vui đến cho người khác cũng thế.

Kiến thức, tình thương, niềm vui, hoà thuận v.v. là những thứ có cho đi cũng không bị mất, trái lại cả người cho và người nhận đều được giàu hơn.

  1. Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế: Anh chị em thân mến, Đức Giêsu là Đấng thấu suốt mọi tâm hồn, Người không bị lừa gạt bởi những vẻ bề ngoài. Chúng ta hãy dâng lên Chúa những ý nguyện của chúng ta:

  1. Hội thánh phải nêu gương về lòng mến Chúa yêu người chân thật / Xin cho mọi thành phần trong Hội thánh luôn tránh xa những thói quen giả hình và máy móc / đối với Chúa cũng như đối với mọi người.
  2. Trên thế giới còn nhiều nơi không có công lý / hoặc chỉ có công lý giả hiệu bề ngoài / Xin cho các nhà cầm quyền biết tôn trọng sự thật và công lý / để dân chúng được sống an ninh và hòa bình.
  3. Chung quanh chúng ta còn nhiều người giàu cũng như người nghèo, đang làm nô lệ tiền bạc, danh vọng và quyền thế / Xin cho họ được ơn khôn ngoan của Chúa để biết sống quảng đại và chia sẻ / theo gương bà góa trong Tin mừng hôm nay.
  4. Bà góa trong Tin mừng hôm nay đã nêu gương quảng đại với Chúa / Xin cho anh chị em trong họ đạo chúng ta / dù túng thiếu cũng vẫn rộng rãi với Chúa và với mọi người.

Chủ tế: Lạy Đức Giêsu, Chúa đánh giá mọi người theo sự thật trong lòng họ chứ không theo hình thức bề ngoài, xin giúp chúng con biết sống thành thật và quảng đại với Chúa cũng như với mọi người, để luôn xứng đáng là môn đệ của Chúa. Chúa là đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.

  1. Trong Thánh lễ

Trước kinh Lạy Cha: Khi chúng ta đọc “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”, chúng ta hãy nhớ đến gương của hai bà goá đã dám cho đi chiếc bánh và những đồng xu cuối cùng của mình. Xin Chúa cũng dạy chúng ta biết phó thác vào Chúa như vậy.

Sau kinh Lạy Cha: “Lạy Chúa, xin cứu chúng con khỏi mội sự dữ, đặc biệt xin Chúa cứu chúng con khỏi sự dữ này là coi tiền bạc của cải như chúa tể đời mình…”

VII. Giải tán

Lời Chúa hôm nay nêu gương chia xẻ của hai bà góa nghèo. Khi trở về với cuộc sống bình thường, anh chị em sẽ gặp biết bao người túng thiếu cần được chia xẻ. Anh chị em hãy cố gắng noi gương hai bà góa ấy.

 

18. Quà tặng dốc cạn túi

(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’ – Thiên Phúc)

Báo New York Times vừa đưa tin bà Oseola Mc Carty: Biểu tượng “Lòng Từ Thiện” của nước Mỹ, vừa qua đời ngày 3-10-1999 ở tuổi 91.

Vào một ngày của tháng 7-95, ông hiệu trưởng đại học phía Bắc Missisippi đã vô cùng ngạc nhiên, khi biết có một phụ nữ xa lạ tên Osenola Mc Carty xin được tặng 150.000 đôla làm quỹ học bỗng cho các sinh viên nghèo của trường, mà không cần được ghi danh tưởng niệm hay tuyên bố công khai. Nhà trường còn sững sốt hơn khi biết người phụ nữ ấy làm nghề giặt ủi, và số tiền kia là tiền dành dụm cả một đời người.

Ngay khi biết câu chuyện bà Mc Carty tặng tất cả tiền bạc của mình có làm quỹ học bổng cho trường, ông tỷ phú Ted Turner, trùm ngành kinh doanh cáp truyền hình Mỹ, đã tuyên bố góp thêm một tỷ đôla cho quỹ. Ông nói: “Người phụ nữ nhỏ bé ấy đã dám ban tặng tất cả những gì bà có, thì tôi thấy mình cũng phải đóng góp phần của tôi là một tỷ đôla”.

***

Tin mừng hôm nay thuật lại chuyện bà góa nghèo đã bỏ vào thùng tiền đền thờ “tất cả những gì mình có để nuôi sống” (Mc.12,44). “Của ít lòng nhiều”. Bà góa này tuy dâng cúng ít tiền nhưng lại hy sinh rất nhiều, và hy sinh quí giá nhất là hy sinh chính mạng sống mình, vì bà đã dâng “tất cả những gì mình có để nuôi sống”. Quà tặng đẹp nhất là quà tặng dốc cạn túi. Quà tặng quý giá không phải chỉ ở giá trị món quà, mà còn ở tấm lòng của người tặng quà nữa.

Đức Giêsu đã khen nghĩa cử cao đẹp ấy: “Thầy nói thật với các con: Trong những người đã bỏ tiền vào hòm, bà góa nghèo này đã bỏ nhiều hơn hết” (Mc.12,43) Cũng vậy, bà Mc Carty chỉ dâng tặng 150.00 đôla không thể so với tỷ phú Ted Turner bỏ ra 1 tỷ đôla, nhưng đó là tất cả kết quả chắt chiu từng đồng suốt một kiếp người. Nghĩa cử cao đẹp ấy đã mở đầu cho gần 300 nhà từ thiện khác tham gia đóng góp cho quỹ học bổng này.

Nếu bà góa nghèo được Chúa khen ngợi, thì bà Mc Carty cũng được chính Tổng Thống Bill Clinton bắt tay thăm hỏi, được vinh dự cầm ngọn đuốc Olympic chạy trên đường băng qua khu vực Mississippi, được trao tặng Huân chương người công dân danh dự Hoa Kỳ, và được cấp bằng tiến sĩ danh dự của đại học Harvard.

Văn hào John Powell viết: “Thiên Chúa sai mỗi người đến thế gian với một sứ điệp đặc biệt để loan báo, với một bài ca đặc biệt để hát lên, với một nghĩa cử yêu thương để ban tặng”.

****

Hôm nay, Đức Giêsu cũng mời gọi chúng ta tránh xa thói đạo đức giả của người Biệt phái và Luật sĩ: Lạm dụng việc đạo đức để khoe khoang, mưu cầu hư danh, ham hố chức quyền, trục lợi vật chất. Người muốn chúng ta có ý hướng ngay lành khi làm bất cứ việc gì. Đức Giêsu dạy: “Còn anh, khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, để việc anh bố thí được kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh” (Mt.6,3-4).

Người ta chỉ cho đi cái mình có. Nhưng chính vì cho mà người ta mới có, và người ta có chính vì những gì mà họ đã cho. Cha Mark Link viết: “Những điều duy nhất ta còn giữ lại được là những gì ta đã cho đi”. Bàn tay tặng hoa hồng vẫn còn vương lại hương thơm.

Lạy Chúa, Chúa thấu suốt tận đáy lòng mỗi người chân thực hay giả dối. Chúa khen ngợi bà góa nghèo dâng hiến tất cả những gì mình có.

Xin dạy chúng con biết âm thầm dâng hiến cho tha nhân, đang cần sự trợ giúp quảng đại của chúng con. Amen.

 

19. Chúa Nhật 32 Thường Niên

(Suy niệm của Lm. Anfonso)

Tin mừng Mc 12:38-44: Hình ảnh trao dâng quảng đại ấy còn được minh họa rõ nét trong đoạn Tin Mừng theo thánh Marcô (12,41-44) hôm nay. Chúa Giêsu cùng các môn đệ đang ở trong đền thờ, gần khu vực có đặt thùng tiền mà dân chúng và khách hành hương khắp nơi thường đến đây dâng cúng cho công việc tu bổ hay duy trì việc phụng tự của đền thánh.

Suy niệm:

Chúng ta xem các kênh giải trí truyền hình, có nhiều chương trình làm việc từ thiện, nhưng vẫn còn thấp thoáng đâu đó một mục đích khác là quảng cáo thương hiệu sản phẩm. Hoặc có những người đi làm công tác bác ái, đăng lên các mạng xã hội facebook, zalo để khoe khoang thành tích, vì ai mà không muốn “Hòn đất ném đi, hòn chì ném lại”, ai mà không muốn được nhiều người biết đến.

Bài đọc I trích sách các Vua quyển I (1V 17,10-16) hôm nay diễn ra trong bối cảnh dân Do thái đang gặp nạn đói. Lúc ấy, tiên tri Êlia lỡ đường ngang qua, ghé vào xin chút nước uống và chút bánh lót dạ. Bà góa nghèo thành Sarephta chỉ còn có một nắm bột trong hũ với một ít dầu trong bình, đang lượm vài que củi về nấu cho bà và đứa con trai ăn, rồi cũng chết vì quá đói. Thế nhưng, với lòng tin tưởng vào quyền năng Thiên Chúa, bà dám hy sinh những gì còn sót lại cho sự sống còn để khoản đãi cho người của Thiên Chúa mà không tính toán. Nhờ thế bà được chúc phúc hũ bột không vơi, bình dầu không cạn giúp bà vượt qua nạn đói hoành hoành.

Hình ảnh trao dâng quảng đại ấy còn được minh họa rõ nét trong đoạn Tin Mừng theo thánh Marcô (12,41-44) hôm nay. Chúa Giêsu cùng các môn đệ đang ở trong đền thờ, gần khu vực có đặt thùng tiền mà dân chúng và khách hành hương khắp nơi thường đến đây dâng cúng cho công việc tu bổ hay duy trì việc phụng tự của đền thánh. Người ngồi thinh lặng, quan sát và chứng kiến nhiều người đủ mọi giai tầng đến dâng cúng. Và Chúa đã để ý tới một người nghèo đang tiến lại gần thùng tiền. Mặc dù bà góa này không có nhiều tiền như bao người, bà cũng chỉ bỏ vào hai đồng tiền nhỏ chẳng đáng kể nhưng lòng đạo đức của bà không hề thua kém người khác. Chính cách thành tâm của bà đã được Chúa Giêsu ghi nhận và nêu gương cho các môn đệ rằng “Tất cả những người kia bỏ của mình dư thừa, còn bà này lấy túng thiếu mà bỏ vào mọi sự mình có để nuôi sống” (Mc 12,44). Bà góa nghèo được gọi là người đã bỏ nhiều nhất vì ngay cả những gì có thể nuôi thân cứu đói qua ngày, bà cũng tặng dâng cho Thiên Chúa mà không so đo tính toán.

Người đời chúng ta thường đánh giá theo vẻ bề ngoài, còn Thiên Chúa thì đánh giá theo tấm lòng chúng ta trao ban hơn là dựa trên chủ nghĩa duy hiệu quả và những gì thấy ngay trước mắt. Trong việc sống đạo cũng vậy, việc đọc kinh, dự lễ, làm việc tình nguyện, bác ái mà thiếu sự chân thành, thiếu tâm tình bên trong thì những gì chúng ta trao dâng chỉ là hình thức, đánh bóng chính mình mà thôi. Hoặc một thái cực khác đó là một số người chủ trương “sống Đạo tại tâm” là đủ, không cần đọc kinh, dự lễ, không phải xưng thú tội lỗi gì cả vì Chúa biết hết rồi; và cũng có người quan niệm tới nhà thờ ngày Chúa nhật để “check in” là đã có mặt, cho lòng mình an tâm đã giữ lễ ngày Chúa nhật, nhưng sự thật chỉ ngồi tám chuyện, hóng mát như ở ghế đá công viên mà thiếu tâm tình tôn kính Chúa, không đối đáp thưa kinh, chẳng cần rước Mình Thánh Chúa. Tất cả những điều này là một sự ngụy biện nơi những người lười biếng, bê trễ thi hành những bổn phận đạo đức. Rốt cuộc đời sống đạo của người đó trở nên èo uột, vì họ không chăm lo cho linh hồn mình.

Thử hỏi trong tình yêu, khi hai người thương nhau mà quan niệm rằng yêu thì để trong lòng là đủ, cần gì phải hẹn nhau đi chơi, cần gì phải nhắn tin gọi điện cho nhau, cần gì phải tặng quà cho nhau, cần gì ly chè ly kem, cần gì những cử chỉ âu yếm hay những những lời động viên nhau… Vậy nó có còn là tình yêu không?

Chính Chúa Giêsu đã trở nên mẫu gương cho chúng ta về việc trao ban. Người đã yêu thương đến nỗi trao ban cả mạng sống mình, sẵn sàng gánh lấy tội lỗi chúng ta đưa lên cây thập giá. Vậy mỗi người chúng ta cũng được mời gọi sống tập dâng hiến như bà góa nghèo, tin tưởng và trao dâng cho Thiên Chúa mà không tính toán, giúp đỡ anh chị em mà không lo tư lợi. Đó là một sự cho đi mà cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã cảm nhận và viết lên những ca từ trong bài “Để gió cuốn đi” như sau: “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng, để làm gì em biết không? Để gió cuốn đi!” Vâng, một khi trao ban cách chân thành bằng cả tấm lòng con người thì quý biết bao.

Lạy Chúa, xin nhận lấy trọn cả tự do, trí nhớ, trí hiểu, trọn cả ý muốn của con, cùng hết thảy những gì con có, và những gì thuộc về con. Mọi sự ấy, Chúa đã ban cho con, lạy Chúa, nay con xin dâng lại cho Chúa. Tất cả là của Chúa, xin Chúa sử dụng hoàn toàn theo ý Chúa. Chỉ xin ban cho con lòng mến Chúa và ân sủng. Được như thế, con hoàn toàn mãn nguyện. Amen. (Kinh dâng hiến của thánh Ignatio Loyola).

 

20. Quảng đại với Thiên Chúa

(Suy niệm của PM. Cao Huy Hoàng)

Lời Chúa CN 32 TN đề cập đến lòng quảng đại của Thiên Chúa Cha và lòng quảng đại hai bà góa nghèo đối với công trình của Thiên Chúa.

Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban người Con một mình, người Con duy nhất cho nhân loại. Thiên Chúa Cha không tiếc cái “núm ruột” quí báu của mình, và Người Con Duy Nhất cũng bằng lòng vâng ý Cha để thực hiện chương trình yêu thương của Cha. Và cuối cùng, chỉ một của lễ duy nhất ấy, chỉ một hy sinh duy nhất ấy, đủ để làm đẹp lòng Cha và mang lại cho nhân loại niềm vui ơn cứu độ muôn đời. Vì thế, Thánh Phaolô kết luận:

“Đức Kitô đã xuất hiện chỉ một lần, để tiêu diệt tội lỗi bằng việc hiến tế chính mình” (Dt 9,26)

“Người đã tự hiến tế chỉ một lần, để xóa bỏ tội lỗi muôn người” (Dt 9,28)

Nếu hình ảnh người Con Một duy nhất là Đức Giêsu Kitô nói lên lòng quảng đại vô cùng của Thiên Chúa Cha đối với nhân loại, thì hình ảnh bà góa trong Mc 12,41-44 với hai đồng tiền kẻm duy nhất cuối cùng bỏ vào thùng tiền dâng cúng đền thờ và hình ảnh của bà góa ở Xarépta (1 V 17,10-16) với phần lương thực duy nhất cuối cùng dành cho tiên tri Elia lại nói lên lòng quảng đại đối với Thiên Chúa của con người.

Bà góa ở Xarepta biết rằng với một nắm bột và một chút dầu, mẹ con bà chỉ còn một bữa cơm trần gian cuối cùng, và sau đó là chết chắc. Không thể khác hơn được. Nhưng tiên tri Elia, “người được Thiên Chúa sai đến”, có yêu cầu bà cộng tác với Thiên Chúa, qua việc giúp ông một chén nước, một bữa cơm.

– “Bà làm ơn đem bình lấy cho tôi chút nước để tôi uống.”

– “Bà làm ơn lấy cho tôi miếng bánh nữa!”

– “Có Đức Chúa, Thiên Chúa hằng sống của ông tôi thề là tôi không có bánh. Tôi chỉ còn nắm bột trong hũ và chút dầu trong vò. Tôi đang đi lượm vài thanh củi, rồi về nhà nấu nướng cho tôi và con tôi. Chúng tôi sẽ ăn rồi chết.”

Trước sự do dự của bà góa vì việc bảo toàn sinh mạng mẹ con ít là một thời gian ngắn, Tiên tri Elia nói cho bà biết ý định của Thiên Chúa:

– “Bà đừng sợ, cứ về làm như bà vừa nói. Nhưng trước tiên, bà hãy lấy những thứ đó mà làm cho tôi một chiếc bánh nhỏ, và đem ra cho tôi, rồi sau đó bà sẽ làm cho bà và con bà. Vì Đức Chúa, Thiên Chúa của Ítraen phán thế này: “Hũ bột sẽ không vơi, vò dầu sẽ chẳng cạn cho đến ngày Đức Chúa đổ mưa xuống trên mặt đất.”

Việc đã xảy ra đúng như lời tiên tri đã nói: “Hũ bột đã không với, vò dầu đã chẳng cạn”.

Một phép lạ của ba nhân đức đối thần: tin tuyệt đối vào Thiên Chúa, yêu mến Chúa và yêu mến người của Chúa, việc của Chúa, vững dạ cậy trông hết tình như lời Chúa hứa qua miệng tiên tri. Một phép lạ ngay tức khắc và bền vững để giữ uy tín cho “người nói thay Lời Thiên Chúa”. Một phép lạ tiên báo về Đức Giêsu Kitô, Con Một yêu dấu và duy nhất của Thiên Chúa Cha mà Ngài cũng chẳng tiếc chẳng tha, để chương trình cứu rối nhân loại của Thiên Chúa Cha được thực hiện và hoàn tất.

Thế rồi, con người được loan báo ấy cũng đã đến trong “ngày Đức Chúa đổ mưa xuống trên mặt đất”, ấy chính Đức Giêsu Kitô. Chúa Giêsu, trong trình thuật của Thánh Marco hôm nay cho biết Ngài đang có mặt trong đền thờ và “ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ. Người quan sát xem đám đông bỏ tiền vào đó ra sao”.

Thấy một bà góa nghèo bỏ vào thùng tiền hai đồng kẻm, Ngài nói:

– “Thầy bảo thật anh em: bà góa nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết.(Mc 12,43)

– Quả vậy, mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi sống mình.” (Mc 12,44)

Chúa Giêsu trân quí nghĩa cử cao đẹp của bà góa nghèo một cách đồng cảm. Vì chính Ngài cũng mang thân phận đồng tiền duy nhất của Chúa Cha. Ngài thấu hiểu lòng Chúa Cha khi hy sinh cái quí giá nhất là Con Một mình cho chương trình cứu rỗi nhân loại. Vì thế, trước mắt Ngài, đồng bạc nhỏ nhoi mà quí giá của bà góa nghèo kia lại là hình ảnh của Ngài, mà thế gian chưa chắc đã nhận ra.

Liên kết ba bài đọc hôm nay, có thể rút ra một bài học cho hành trình đức tin chúng ta: Hãy biết rằng Thiên Chúa đã quảng đại với chúng ta là dường nào, và hãy quảng đại với Thiên Chúa.

Không có gì quí hơn Chúa Giêsu, vì Chúa Giêsu là món quà vô giá mà Thiên Chúa Cha đã ban tặng cho nhân loại. Không nên chỉ biết điều ấy, mà hãy đón nhận Chúa Giêsu với tất cả tấm lòng thành kính, rồi cộng tác với Ngài, tiếp tục sứ mạng cứu rối nhân loại. Một trong những cách cộng tác ấy, là hãy quảng đại với Chúa một đồng, hãy quảng đại với Chúa một giờ, hãy quảng đại với Chúa chút hơi sức còn lại, hãy quảng đại với Chúa một lời yêu thương giũa thế giới ngập tràn thù hận, gian ác…

Vài tuần trước đây, tôi có việc về Nha Trang, và ghé thăm Cha MT, cha kể rằng: một Chúa nhật nọ, Cha nói chuyện với Giáo dân về tư thế tham dự phụng vụ của Giáo Dân: quì, ngồi, đứng trước mặt Chúa đều tốt cả, miễn là chúng ta có lòng chân thành. Nhưng, tư thế quì, bao giờ cũng trang nghiêm sốt sắng hơn và nhất là tỏ được lòng khiêm tốn, lòng yêu mến, quí trọng Thiên Chúa là Cha. Ví dụ, khi rước lễ, ta quì đón nhận Chúa Giêsu Thánh Thể, thì xứng đáng hơn.

Sáng thứ hai trong tuần, một cụ bà 80 tuổi đem đến cho Cha một triệu đồng.

Cha hỏi: -“Tiền gì đây bà cụ?”

-“Thưa Cha, tiền con dâng cúng để đóng bàn quì rước lễ”

-“Tôi mới ví dụ thôi mà!”

-“Ví dụ gì nữa, cha đóng bàn quì đi, bọc khăn trắng nữa!”

-“Úi chà! Bà cụ già thế, ở đâu ra mà tiền nhiều vậy?”

-“Hết rồi Cha ạ, có bấy nhiêu thôi! Con cháu nó cho mối lúc ít đồng, để dành mua cái áo quan, nhưng bây giờ thì cái áo quan không cần bằng cái bàn quì rước lễ!!!”

Không thiếu những hình ảnh quảng đại như bà cụ 80 tuổi trên đây, mỗi khi chúng ta bước vào nhà thờ, nhất là những nhà thờ ở Việt Nam sau 1975, nếu chúng ta liên tưởng đến những đồng tiền chắt chiu của các bà góa trên khắp thế giới. Có những người rất điển trai, đẹp gái, và cả những lão bà lão ông đang ăn mày cho Giáo Hội những đồng xu rất nhỏ, để các cơ quan từ thiện có điều kiện mà thi thố tình thương của Chúa khắp nơi.

Tôi nhớ năm 1990, Cha FX, cha sở trước đây của GX tôi, cùng với Giáo Xứ khởi công xây dựng Ngôi Thánh Đường Anrê Kim Thông với sự đóng góp tiền bạc thật ít ỏi, nếu không nói là hầu như không có gì, vì giáo dân quá nghèo. Cha cũng chạy vạy hành khất khắp nơi, nhưng khó khăn quá. Thế là Cha có chương trình: “Tôi sẽ làm kỹ sư, tất cả chúng ta là thợ xây, nhà nào cũng có thợ xây Nhà Chúa, để giảm thiểu tối đa sự tốn kém”. Mọi người cùng đồng lòng, cùng quyết tâm. Cha sở ngày ngày mang đôi bata, mặc đồ lính, đội nói cời cùng với Giáo dân thi công suốt hai năm ròng! Trước ngày Cung Hiến Thánh Đường Anrê Kim Thông, nụ cười Cha rạng rỡ trên khuôn mặt đen sì màu nắng rám! Cha nói: “ Xin cảm ơn anh chị em, chúng ta đã xây dựng ngôi thánh đường nầy chỉ với số tiền 240 triệu, nhờ những đồng tiền của các bà góa trên khắp thế giới, nhờ những đóng góp của anh chị em, chúng ta đã tiết kiệm được của Chúa rất nhiều. Hãy tạ ơn Chúa và xin Chúa trả công cho các bà góa âm thầm trên khắp thế giới, mỗi khi anh chị em đến sum họp trong ngôi thánh đường nầy.”

Cũng với kế hoạch ấy, Cha FX ĐQH, đang chuẩn bị cho lễ Đặt Viên Đá trong tháng này, sau hơn hai năm gõ cửa các bà góa khắp nơi, đồng thời cũng ngần ấy thời gian “Cha, con cùng tiết kiệm”. Nghe nói, phần Cha, góp tất cả bỗng lễ của Giáo dân trong xứ (theo luật, Cha được hưởng) vào kinh phí xây dựng nhà thờ, và riêng các em thiếu nhi, tuổi chưa bao đồng, đã dành phần làm cái cửa tiền đường với giá 40 triệu từ những hủ pig!

Chúa muốn chúng ta quảng đại với Chúa, vì Chúa đã không tiếc gì cho ta, vì Chúa không keo kiệt, không tính toán, không kể đếm, không khoe khoang khi Ngài thi thố tình thương của Ngài đối với chúng ta. “Một đồng của đức tin cậy mến”, quảng đại cho Chúa, cho công việc của Chúa, sẽ là một đồng trổ sinh muôn phép lạ. Chúa muốn chúng ta quảng đại với Chúa một giờ giữa trăm công ngàn việc, giữa bao bề bộn lo toan, và cả giữa những gọi mời tiêu khiển giải trí của trần thế… để đến với Chúa, nghe và nói với Ngài một lời tạ lỗi, một lời xin ơn, một câu chúc tụng. Chúa muốn chúng ta đóng góp với Chúa một chút sức lực, một chút cố gắng, một chút hy sinh bắt nguồn từ lòng biết ơn và lòng tin cậy mến.

Hơn thế nữa, Chúa muốn chúng ta trân quí sự đóng góp của mọi người cho công cuộc Nước Chúa. Có người dâng cho Chúa tiền bạc, có người hiến cho Chúa thời gian, sức lực, có người hiến cho Chúa cả danh dự mình, cả sĩ diện mình, có người đóng góp bằng lời cầu nguyện âm thầm, cũng có người không nói gì cả, nhưng bằng lòng làm chứng cho chân lý, bằng lòng chịu thương chịu khó vì Chúa trong cảnh tù đày, quản thúc, bức bách…. Kẻ ít người nhiều, mọi sự đóng góp đều có giá trị cứu rỗi trước mặt Chúa. Không vì phần đóng góp nhiều hơn mà có giá trị hơn và đóng góp ít hơn mà kém giá trị. Giá trị của lễ dâng không do bởi số lượng mà do lòng yêu hết tâm hồn, hết linh hồn hết trí khôn.

Bà Tám nghèo ở xóm nghèo của chị tôi siêng đi xin lễ cho các linh hồn mồ côi. Ky cóp được vài chục ngàn là đi xin lễ, hoặc nhà thờ có công việc gì kêu gọi bà đều có tiền đóng góp, nhưng không nhiều, rát ít. Một lần bà nói với Cha sở: “Cha ơi, con xin được cái bì thư bỏ tiền vào xin lễ, mà lần nào xin lễ, con cũng thấy Cha lấy tiến ra đếm, con ngại quá”. Từ đó, linh mục ấy không đếm tiền trước mặt người xin nữa.

Vâng, người nghèo, tự họ đã cay đắng với cái nghèo của họ lắm rồi. Chỉ có Chúa Giêsu biết rõ, sự giàu có nơi họ. Chúng ta cũng bắt chước Chúa Giêsu mà thay đổi cách thẩm định các giá trị của những đóng góp.

Chúa cần một đồng của lòng quảng đại. Chúa không cần một ngàn của lòng khoe khoang tự phụ. Vì một đồng của lòng quảng đại mới có sức làm nên phép lạ lớn lao, còn một ngàn của lòng khoe khoang không sinh ích lợi gì cho người dâng hiến, và cả cho Thiên Chúa.

Lạy Chúa, chúng con tạ ơn Chúa đã không tiếc Chúa Giêsu, Con Một Chúa, mà đã ban cho chúng con như quà tặng quí giá mang ơn cứu rỗi. Xin cho chúng con cũng biết quảng đại với Chúa luôn. Amen.

 

21. Dâng cho Chúa

(Suy niệm của PM. Cao Huy Hoàng)

Nếu bà góa Sareptha không lấy chút bột, chút dầu nhỏ bé kia mà làm bánh cho Êlia ăn, thì mẹ con bà cũng chỉ ăn được trong ngày ấy mà thôi, rồi sẽ chết. Nhưng vì lòng tin và lòng quảng đại, bà nghĩ rằng: nếu ta không lấy chút bột chút dầu kia mà cứu người đang đói là Êlia, thì hẳn Êlia sẽ chết. Việc cần làm ngay là phải cứu người. Còn việc của mình: Chúa sẽ liệu lo.

Và khi bà đã thực hiện như lòng tin và quảng đại, phép lạ đã xảy ra, đó là, hũ bột không vơi, bình dầu không cạn, mẹ con bà không chết đói. “Bà ấy đi và làm như ông Êlia nói; thế là bà ấy cùng với ông Êlia và con bà có đủ ăn lâu ngày. Hũ bột đã không vơi, vò dầu đã chẳng cạn, đúng như lời Đức Chúa đã dùng ông Êlia mà phán” (1 V 17, 15–16).

Thiên Chúa thật công bằng! Và công bằng của Ngài không chỉ là trả lại vừa đủ cho ta những gì ta cho đi, mà còn trả lại gấp trăm.

Hình ảnh bà góa Sareptha được nhắc lại trong Tin Mừng theo Thánh Marcô, Nhưng ở đây, đồng tiền của bà góa, đồng tiền nuôi sống bà ta một ngày đời, được kể là đồng tiền có giá trị nhất trước mắt Thiên Chúa. Trong mắt những người bỏ tiền dâng cúng vào hòm, thì có thể họ khinh miệt bà góa ấy, hoặc họ chê trách bà ấy thà đừng bỏ vào hòm tiền thì hơn, nhưng chỉ có Chúa Giêsu mới nhìn thấu tận cõi lòng bà, hiểu được tấm lòng quảng đại của bà, vì đồng tiền ấy là cả sự nghiệp của bà.

Bà không đợi đến lúc có dư ra 5 bảy đồng mới dâng cúng được một đồng, nhưng bà dâng ngay tất cả những gì mình có trong lúc cùng cực nhất, bế tắc nhất. “Quả vậy, mọi người điều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để sống” (Mc 12, 44).

Có vài người không bao giờ xin lễ cho các linh hồn, vì cho rằng chưa có lúc nào nhà mình thong thả dư ra được vài chục nghìn.

Cũng có người không thể dâng cúng cho công việc xây dựng Nhà Thờ, vì người ta dâng tiền triệu, há lẽ tôi lại dâng tiền trăm, tiền chục ngàn. Khó coi quá!

Còn có người không thể giúp kẻ hoạn nạn, bởi vì cho rằng tôi còn chưa lo được cho tôi, nói gì đến chuyện giúp người.

Không phải tất cả như thế đâu. May quá, tôi tìm thấy trong danh sách công khai của cha Quang Uy về việc xin trợ giúp các trường hợp bệnh hoạn khẩn cấp của Trung Tâm Mục Vụ DCCT, có cả những người đã giúp 500 USD và cũng có người từng giúp 50.000 VND. Đành rằng có khoản nhiều hơn và ít hơn gấp 200 lần nhưng giá trị trước mặt Chúa không nằm ở những con số. 50.000 VND kia có thể là một ngày công của chị bán bắp, của cô bán xôi, của những người xa quê bán bánh tráng, lạc rang đi suốt một ngày mòn mỏi trên các ngõ phố.

Uống nước trước Bệnh Viện Tim Việt-Pháp, bạn có thể gặp cả trăm người từ miền Trung vào buôn bán nhỏ. Trước mắt tôi, một chị khoảng 45 tuổi, người Quảng Ngãi, bán bánh tráng, lạc rang, gặp người quen ở quê vào chữa bệnh tim cho con. Sau mấy câu thăm hỏi, chị dúi vào tay chị bạn 80.000 đồng: “Em gửi cho cháu vài hộp sữa. Cầm đi chị, mang tiếng vào Sàigòn làm ăn, nhưng một ngày của em chỉ được chừng ấy”. 80.000 so với ca mổ tim vài chục triệu thì có thấm vào đâu. Nhưng chị kia nắm tiền trong tay mà rưng rưng nước mắt. Tôi tò mò đi theo chị đã làm từ thiện dò hỏi, mới biết, chị vào trong nầy thuê nhà trọ ở chung với con gái đi học đại học. Một là “trông nom con gái, sợ xa cha mẹ ở đất Sàigòn này dễ hư lắm anh ạ”, hai là “kiếm thêm và để dành đóng tiền nhà và tiền học phí cho con”… “Mẹ con em quen ăn mì tôm rồi anh ạ. Ăn mì tôm vài hôm thì cũng dư ra được gần trăm ngàn”. Hỏi chị theo đạo nào, chị nói: “Nhà em không theo đạo nào cả, thờ Ông Bà”.

Như vậy, cũng có người chắt bóp giảm chi tiêu để có được chút gì mà giúp đỡ kẻ khác. Người ấy chắc chưa từng nghe những đoạn Lời Chúa hôm nay, nhưng tấm lòng của họ thật đáng quí. Người Công Giáo vẫn gọi họ là người “lương” đúng nghĩa lương thiện, tốt lành.

Còn người Công Giáo chúng ta thì sao? Đoạn Tin Mừng về đồng tiền của bà góa nghe đi nghe lại nhiều lần trong đời, nhưng chúng ta vẫn chưa đem ra thực hành chỉ vì một lý do rất đơn giản: Chưa đủ tin vào quyền năng của Thiên Chúa, hoặc tồi tệ hơn, vì vẫn kiêu ngạo mà quá tin vào sức riêng của mình.

Ông C. tim bị hẹp động mạch vành, hay mệt và đã có lần thoát cơn tai biến nhờ cấp cứu kịp. Chị H. mới quen biết ông, nhưng nghe tin ông cần tiền thuốc hằng tháng, chị hẹn xin gặp và trao cho ông bì thư với 3 triệu đồng. Ông C. ngần ngừ không dám nhận. Chị nói: “Có người gửi cho em để giúp kẻ khó. Em đâu được giữ mãi cho em”. Thiết nghĩ đây chỉ là cách nói. Vừa cầm tiền về đến nhà, ông C. nghe tin có một cháu cạnh nhà đi làm về bị tai nạn, bệnh viện trên tỉnh chê rồi, chuyển Chợ Rẫy gấp. Ông C. sang nhà và trao ngay bì thư 1 triệu rưỡi. “Có người mới gửi cho cháu”. Về nhà,ông nghe tim mình nhịp đều những nhịp hạnh phúc.

Ước gì có nhiều người Công Giáo như chị H, như ông C. Những người luôn biết cho đi là những người hạnh phúc.

Lời Chúa hôm nay muốn chúng ta được hạnh phúc nhờ ĐỨC TIN mà tín thác vào Đấng có thể ban cho chúng ta mọi sự cần. Ngài biết rõ chúng ta hơn chúng ta biết chúng ta. Ngài lo lắng cho chúng ta nhiều hơn chúng ta lo lắng cho bản thân mình.

Không chỉ dừng lại ở suy nghĩ “ở hiền, gặp lành” như chị bán bánh tráng, lạc rang, mà các Kitô hữu còn phải biết vượt lên trên cách sống tự nhiên ấy, để mỗi dâng cúng của ta cho người, là một lần minh chứng Đức Tin của chúng ta rằng Thiên Chúa luôn quan phòng gìn giữ những ai sống và thực thi ý muốn của Chúa.

Lời Chúa còn nhắc nhớ mỗi chúng ta đừng đánh giá sai lầm những cống hiến âm thầm, nhỏ nhoi, nhưng hãy xét lại những cống hiến của mình xem có phải đã cống hiến vì lòng tin, vì lòng quảng đại hay không.

Trong những cống hiến âm thầm cho nhân loại, tôi phải nghĩ tới những lời nguyện ít ai biết đến, không ai nghe, chẳng ai thấy của những kẻ đau khổ trên giường bệnh, cùng cực trên đường đời, bị áp bức trong nơi tù đày côi cút… Những lời nguyện ấy là sự dâng hiến cho Thiên Chúa cách đáng trân trọng, để Thiên Chúa ban muôn hồng phúc cho mọi người.

Như chú thích cho sự dâng hiến của bà góa, của chúng ta, Thánh Phaolô nhắc đến việc Chúa Giêsu đã “tiêu diệt tội lỗi bằng việc hiến tế chính mình” (x. Dt 9, 24 – 28). Vậy mỗi lần chúng ta tín thác vào Thiên Chúa và sẵn lòng mất đi, sẵn lòng chia sẻ sự sống, niềm vui cho người khác, hẳn là chúng ta đang góp phần vào việc tiêu diệt các tội lỗi trong chúng ta để mỗi ngày chúng ta được xứng đáng lãnh hồng ân cứu độ hơn.

Lạy Chúa, xin giúp chúng con thoát khỏi căn bệnh chần chừ, nghi ngại. Xin ban thêm Đức Tin cho chúng con, để chúng con biết tín thác vào lòng thương xót và sự quan phòng của Chúa mà dâng hiến cuộc sống của chính mình cho Chúa, cho mọi người. Amen.

 

22. Tinh thần chia sẻ

Chuyện cổ tích Ảrập kể lại rằng: Có một người bán thịt nướng rất keo kiệt và khó tính, nên cửa hàng của anh ta luôn bị ế ẩm. Anh ta đã làm đủ mọi cách để câu khách, nhưng chẳng ai thèm đến. Ngày kia có một người ngồi ăn xin nơi lề đường. Ông thèm thuồng nhìn những miếng thịt nướng trên chiếc vỉ sắt. Cuối cùng ông móc trong bị ra một miếng bánh mì, rồi lẳng lặng đem hơ nóng trên khói, hy vọng khói thịt sẽ ám vào miếng bánh. Sau đó, ông ngồi ăn miếng bánh một cách ngon lành. Anh chàng bán thịt thấy vậy liền chạy ra túm lấy áo người ăn mày đòi tiền, nhưng người ăn mày phân trần: Tôi đâu có lấy thịt anh nướng cùa anh. Khói thịt đâu có phải là thịt. Anh hàng thịt quát lớn: Khói thuộc về miếng thịt, ông phải trả tiền cho tôi. Hai người đưa nhau lên quan toà xin xét xử. Quan toà truyền cho người ăn mày móc ra một đồng tiền cắc và bảo ném xuống nền nhà, phát ra một tiếng keng. Rồi quan toà nói: Đây là giảp pháp công bằng nhất. Người ăn mày hưởng khói thịt của anh còn anh thì hưởng tiếng keng đồng tiền của ông ta.

Nghe câu chuyện trên, có thể chúng ta sẽ mỉm cười trước thái độ keo kiệt của anh hàng thịt. Thế nhưng rất nhiều lần chúng ta đã cư xử với người khác như vậy. Việt Nam chúng ta có một câu chuyện kể về một người cha tham ăn đang ngồi nướng mấy con cá để nhậu lai rai. Đứa con nhỏ khóc đòi ăn, người mẹ liền dỗ: Con nín đi để mẹ xem có con nào nhỏ, mẹ sẽ xin ba cho con. Ông bố nghe vậy liền quắc mắt quát lên: Cho cái gì? Không có con nào nhỏ cả, con nào cũng bằng nhau.

Tình thương không chia sẻ chỉ là tình thương giả dối, không có thật. Đứng trước những nhu cầu cần thiết của người khác, đôi lúc chúng ta đã tránh né, đã chạy trốn bằng cách trả lời: Chừng nào tôi đủ ăn đủ mặc tôi sẽ cho. Hãy để lúc khác, bây giờ tôi không có khả năng. Và cái lúc khác ấy không bao giờ đến. Chúng ta có tới 1001 lý do để biện minh cho thái độ thiếu thông cảm, thiếu yêu thương của mình.

Trong Phúc Âm Chúa Giêsu đã lên ái thái độ giả dối này: Nếu có ai xin các ngươi áo ngoài, thì hãy cho họ cả áo trong nữa. Nếu có ai xin các ngươi đi với họ một dặm, thì hãy đi với nó hai dặm. Và qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay Chúa Giêsu đã lên tiếng ca ngợi ba goá nghèo chỉ bỏ vào hòm tiền được có 2 đồng tiền kẽm, thế nhưng bà là người đã dâng cúng nhiều nhất bởi vì bà dám hy sinh cả những cái thực sự cần thiết cho cuộc sống của mình. Nhiều lần, Chúa Giêsu đã phán dạy: Hãy yêu thương anh em như chính mình ngươi.

Yêu thương anh em là chấp nhận, khoan dung và hết lòng phục vụ với trọn tình bác ái chân thành của mình.

 

23. Sống quảng đại

Thiên Chúa chúng ta tôn thờ luôn đứng về phía con người. Ngài thấu suốt mọi bí ẩn. Ngài chạnh lòng thương và rộng tay ban phát dư tràn hồng ân cho con người. Như thế, tất cả những gì con người có đều do ân huệ nhưng không của Thiên Chúa ban cho. Cho nên chúng ta hãy sống tâm tình biết ơn và thái độ sống quảng đại yêu thương là cách đáp trả tích cực làm hài lòng Thiên Chúa nhất.

Những người lãnh đạo tôn giáo Do Thái như luật sĩ và biệt phái tự cho mình là kẻ đạo đức hơn người nên họ dễ lầm lạc khi có thái độ tôn thờ Thiên Chúa theo kiểu con người. Họ cho rằng cứ đọc kinh nhiều, “nới rộng thẻ kinh, may dài tua áo” là đặng rỗi. Họ nới rộng thẻ kinh và làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ. Họ tưởng rằng Thiên Chúa là một vị Thần mà người ta có thể hối lộ hoặc kích thích lòng quảng đại bằng những việc đạo đức của họ. Họ áp dụng cho Thiên Chúa sự tính toán hơn thiệt dựa trên sự công bình: có vay có trả, có qua có lại của con người. Chính quan niệm ấy đã khiến nhiều người xem sự giàu sang phú quý là một chúc lành của Thiên Chúa, còn tai họa rủi ro là một trừng phạt vì tội lỗi; từ đó người ta tự phụ về những công đức của mình và khinh bỉ những người nghèo hèn và những người tội lỗi.

Họ giữ luật nghiêm ngặt, tính toán tỉ mỉ từng cử chỉ: ăn uống phải rửa tay, đi ra ngoài về phải tắm giặt, không hề đụng chạm xác chết, cố tình rình rập xem Chúa Giêsu chữa bệnh ngày Sabat để bắt lỗi…Đáng lý ra họ phải rao giảng và thực thi lòng bác ái hơn, phải đối xử nhân từ với tha nhân, bao dung với kẻ tội lỗi,…Nếu chịu khó nhìn lại bản thân, họ sẽ thấy được sự bất toàn của kiếp người, kể cả bản thân họ cũng từng hơn một lần vấp ngã, lỗi phạm…Thế mà họ không biết thông cảm và yêu thương người đồng loại. Hơn nữa, nếu chịu khó nhìn Thiên Chúa, họ sẽ thấy một Thiên Chúa đầy lòng nhân từ, sẵn sàng tha thứ và rộng rãi ban ơn cho họ. Những gì hiện họ đang có đều bởi Chúa mà ra. Nếu họ chịu khó nhìn thấy được như thế, nếu họ khiêm tốn thì họ sẽ thấy mình quá bé nhỏ, những gì họ giữ luật lệ, làm cho mình và cho người khác trở nên bé nhỏ, quá ít ỏi so với điều Thiên Chúa ban cho.

Chúa Giêsu đến để mạc khải cho con người một Thiên Chúa khác so với con người thời ấy tưởng nghĩ. Đó là một vì Thiên Chúa yêu thương mọi người, ngay cả và nhất là những người kém may mắn nhất trong xã hội. Thiên Chúa của Chúa Giêsu là Thiên Chúa mà người ta không thể giới hạn vào một số công thức “nới rộng thẻ kinh, may dài tua áo” kia. Hơn nữa, đó là một vì Thiên Chúa mà lòng quảng đại vượt trên mọi tính toán cân lường của con người. Thiên Chúa ban cho con người hơn điều họ mong ước. Bởi vì mục đích là Thiên Chúa muốn tất cả ngững gì con người nhận được đều sinh ích cho họ. Ngay cả điều họ trao hiến cho Thiên Chúa. Như thế, Thiên Chúa luôn tôn trọng và quý mến tất cả những gì chúng ta dâng tặng cho Ngài. Những lễ vật tuy đơn sơ nhỏ bé nhưng chất chứa tình yêu và sự chân thành của chúng ta thì càng được Thiên Chúa đón nhận. Tuy nó nhỏ bé trước mặt người đời nhưng có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Chỉ có Thiên Chúa mới thấy được hết những giá trị âm thầm, hy sinh đau khổ của chúng ta, những hy sinh hằng ngày làm nên những giá trị sáng chói trước mặt Thiên Chúa.

Thiên Chúa cũng đối xử với chúng ta như thế. Ngài giàu có biết bao. Ngài cho chúng ta thấy Ngài trân trọng và đáng quý trước mặt Ngài biết bao, bởi vì chúng ta là hồng ân của Ngài. Vì thế, Thiên Chúa kêu gọi lòng yêu mến, quảng đại của chúng ta. Nhưng Thiên Chúa lại cao sang tuyệt đối. Ngài là chủ tể mọi loài mọi vật. Tất cả những gì chúng ta có đều là do bởi Ngài mà ra. Do đó, chúng ta có đáng gì mà dâng cho Chúa đâu. Là thụ tạo, chúng ta quá nhỏ, thân phận nghèo hèn, mỏng giòn, yếu đuối trước một Thiên Chúa cao sang. Chúng ta có thể nghèo tiền của vật chất đủ thứ, thiếu thốn đủ thứ nhưng không ai trong chúng ta có thể sống mà không có trái tim có khả năng yêu thương. Đó là điều cốt lõi, là cái làm cho chúng ta nên giá trị trước mặt Thiên Chúa. Lễ dâng của chúng ta chỉ đáng Chúa chấp nhận khi nói lên lòng yêu mến và chính tình yêu của chúng ta.

Ở Bài đọc 1, Bà goá thành sareptha cũng đã dâng cho ngôn sứ Êlia một chút bột còn sót lại trong hủ, là khẩu phần cuối cùng của bà và đứa con côi cút của bà. Đối với bà trong lúc cả nước đói kém và nắng hạn, thì một chút bột này là cả một tài sản đắt giá có thể cứu được mạng sống của bà và con bà. Thế nhưng bà đã nhường lại khẩu phần cuối cùng của mẹ con bà mà cho Ngôn sứ Êlia ăn trước. Và Thiên Chúa đã trả lại cho bà bằng cách cho hủ bột và bình dầu ăn của bà không bao giờ vơi cạn cho đến khi trời hết hạn và mưa lại đổ xuống. Lòng quảng đại dâng hiến sẽ được Thiên Chúa đền bù gấp bội.

Mạc khải cho chúng ta một Thiên Chúa như thế, Chúa Giêsu muốn chỉ cho chúng ta một thái độ đúng đắn phải có, đó là lòng tín thác tuyệt đối vào tình yêu của Thiên Chúa. Lòng tín thác ấy luôn luôn mời gọi chúng ta nhìn vào mọi biến cố cuộc sống với tất cả tin tưởng lạc quan. Khi có một cánh cửa nào đó trong căn nhà của cuộc sống chúng ta bị đóng lại, thì Thiên Chúa lại mở ra những cánh cửa khác. Thiên Chúa không bao giờ bỏ cuộc và bỏ rơi chúng ta; ngay cả khi đứng trước tội lỗi chúng ta, Ngài cũng không thất vọng, nhưng vẫn luôn luôn tìm một lối thoát tốt đẹp hơn cho chúng ta. Do đó, chúng ta hãy đặt niềm tin tưởng vào Thiên Chúa và phó thác vào trong sự an bài của Ngài. Đồng thời chúng ta hãy sống tình yêu thương bác ái với anh chị em chung quanh chúng ta cho thật tốt theo như ý Chúa muốn, đó là thái độ bày tỏ đức tin của chúng ta.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết nhìn về Chúa để chúng con thấy Chúa lớn lao, tình thương Chúa dành cho chúng con thật bao la, để từ đó chúng con thấy mình quá nhỏ bé, bất xứng, chỉ biết trông cậy vào Chúa. Và để chúng con luôn biết sống quảng đại với tha nhân như Chúa đã đối xử đại lượng với chúng con. Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa. Amen.

 

24. Bác ái

(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)

Khi nói về việc bác ái, làm phúc bố thí chúng ta thường nghĩ về người nghèo cần bữa cơm ấm bụng, cần áo che thân. Điều này rất đúng. Về phương diện vật chất, không có gì sai. Miếng cơm, manh áo thoả mãn nhu cầu vật chất, không thoả mãn nhu cầu tinh thần và tâm linh. Xã hội hiện nay có người cần ai đó lắng nghe tâm sự của họ. Như thế họ cần thời gian của bạn. Người khác cần có người ngồi bên để họ cảm thấy bớt cô đơn. Như thế họ cần sự hiện diện của bạn. Người khác nữa thất bại trong thương trường, học vấn, tìm công ăn việc làm, họ chán nản, cần hỗ trợ tinh thần của bạn để họ tiến lên. Kẻ khác nữa mất tinh thần, chán sống. Như thế họ cần đến sức sống của bạn. Người khác nữa cần được đối xử công minh. Như thế họ cần tiếng nói công lí của bạn. Người khác nữa cần được đối xử tử tế như thế họ cần đến lòng khoan dung của bạn. Người khác nữa cần giúp bỏ được tật xấu nghiện ngập như thế họ cần đến sự cảm thông của bạn. Đừng ép họ uống thêm li rượu, dù là rượu mời, tránh cơ hội dẫn đến xì ke, ma tuý. Như thế bác ái bao trùm nhiều lãnh vực trong cuộc sống. Có người lâu ngày không đến nhà thờ, gặp lại họ, dù bạn thành tâm cũng nên tránh hỏi hay nói những câu làm cho họ cảm thấy áy náy. Họ đứng chỗ đông người nhưng cảm thấy lạc lõng, họ cần bạn là người tạo cho họ gây lại mối liên hệ với cộng đoàn.

Hôm nay Kinh thánh nhắc đến hai goá phụ, một đói, một nghèo. Cả hai đều nghèo về vật chất và cả hai đều rộng lượng, giầu tinh thần, giầu bác ái. Lối sống và hành động của hai bà hoàn toàn trái ngược với lối sống đài các, xa hoa của nhà lãnh đạo tôn giáo, người có chức, có quyền, có thế trong dân thời đó. Họ chú trọng đến việc quan trọng hoá chính mình qua cách ăn mặc; đối với xã hội họ đòi hỏi được coi trọng và nơi công cộng mong được trọng vọng. Hành động của họ chứng tỏ họ nghèo về tinh thần. Họ dùng vật chất, hào nhoáng bề ngoài mong khoả lấp cái nghèo khó tinh thần bên trong. Hai bà goá hành động khác hẳn. Phúc âm không nhắc đến tên của các bà và do đó chúng ta có thể hiểu dụ ngôn này áp dụng cho tất cả những ai sống tinh thần nghèo khó vì nước trời.

Bà thứ nhất tạm gọi là bà đói, bà đi kiếm củi về nấu bữa cháo cuối cùng cho con ăn trước khi chết, bởi hạn hán dài hạn và nhà không còn gì để ăn. Trên đường về bà gặp người ăn xin. Người này đòi bà nấu cho ông ăn trước rồi sau đó mới đến lượt gia đình bà. Điều ông đòi hỏi có vẻ hơi quá đáng nhưng ngạc nhiên thay bà chấp thuận điều ông yêu cầu. Có lẽ bà thông cảm cái đói khát của người khách lạ như chính gia đình bà đang trải qua. Dầu gì đây cũng là bữa ăn cuối cùng, no hơn một chút, hay đói hơn một chút cũng vậy thôi. Bà vẫn biết xã hội bà không đòi hỏi goá phụ nghèo phải giúp đỡ người khác nhưng bà giúp vì sâu thẳm trong tim bà có lòng nhân ái, muốn giúp đỡ người khác trong khả năng của mình. Quan trọng hơn hết bà coi việc bác ái chính là chia sẻ quà tặng Chúa ban. Tất cả những gì bà có đều là của Chúa ban và bà trao tặng cho người khác để làm Sáng Danh Chúa. Người khách lạ ăn một mình, không ăn chung với gia đình bà cho biết người đó là khách, không phải là thành viên của gia đình. Bà đâu ngờ hành động bác ái cuối cùng trong đời lại trở thành hành động cứu sống cả gia đình trong cơn nguy khốn. Thiên Chúa ban ân sủng của Ngài cho mỗi người một kiểu, một cách. Bà chỉ nhận ra điều đó sau khi đã thi ân và nhận biết thùng bột trong nhà không bao giờ cạn, chai dầu ăn trong tủ không bao giờ vơi cho đến khi mưa thuận, gió hoà. c.16.

Bà đói trong sách Các Vua chương 17 và bà goá nghèo trong Phúc Âm, người dâng cúng hai đồng xu vào nhà thờ, cùng chung quan niệm về cuộc sống, chung cung cách hành động. Bác ái và yêu thương phát xuất tự tấm lòng. Đức Kitô đã khen bà goá bỏ hai đồng xu vào tiền công quỹ bởi bà cho đi đồng xu bà cần. Có người cho nhiều của hơn nhưng cho đi đồng tiền tiết kiệm, tiền để dành chi tiêu vào việc không tên; còn bà goá cho đi đồng xu dùng để mua cơm bánh nuôi thân. Điều này cho biết cung cách và động lực dẫn đến việc thực thi bác ái rất quan trọng. Bác ái xuất phát tự tim là điều Đức Kitô trông đợi môn đệ Ngài thực hiện với tha nhân. Xin ơn khiêm nhường và thật thà trong lòng.

 

25. Bố thí

(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)

Nói đến bố thí người ta nghĩ ngay đến cho đi những gì thuộc về vật chất như: tiền bạc, cơm ăn, áo mặc.

Xin ông bà làm ơn, làm phước cho con xin đồng tiền bát gạo.

Câu xin này khiến chúng ta liên tưởng đến của cải, vật chất khi bố thí. Thực ra việc bố thí bao la hơn câu trên. Bản chất của bố thí là cho đi với lòng yêu mến, vì chạnh lòng thương. Cho vì thương người nghèo khó, túng quẫn. Cho vì lòng mến Chúa thương tha nhân. Cho bao gồm của cải, vật chất, nhà cửa, ruộng vườn, việc làm, thời giờ, sự hiểu biết, tinh thần hoặc ngay cả tình yêu.

CHO HAY BIẾU

Tùy theo đối tượng nhận mà việc cho mang tên thích hợp. Cha mẹ để ruộng vườn, tài sản cho con cái gọi là đất hương hỏa. Con cho cha mẹ thì thành của biếu. Cùng một món quà nếu vua cho dân gọi là lộc vua; dân cho vua phải gọi là tiến vua; bạn bè cho nhau thành quà tặng; giầu cho nghèo biến thành bố thí; giáo dân cho Giáo Hội là dâng cúng. Giáo Hội cho giáo dân là ban ơn. Mang hoa cho Đức Mẹ gọi là dâng, tiến hoa. Cho tiền xây cất tượng đài hay thánh đường gọi là ủng hộ. Bỏ tài lực và công sức phục vụ coi là hy sinh.

CÁCH NHÌN KHÁC NHAU

Phúc âm nhắc việc bà góa bỏ tiền vào nhà thờ. Có hai cách nhìn khác nhau. Ta nhìn bên ngoài để nhận định sự việc. Chúa đánh giá tấm lòng bên trong. Ta nhìn giá trị vật chất đo lường lòng hảo tâm người cho. Chúa nhìn vào giá trị sâu thẳm trong tâm hồn để định lượng sự việc. Ta nhìn vào số tiền dâng cúng đem lòng kính trọng. Chúa nhìn vào tình yêu, lòng mến tỏ lòng quý mến.

‘Lắm người giầu bỏ thật nhiều tiền. Bà góa nghèo bỏ hai đồng. Chúa khen bà: bà góa nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết. Vì mọi người lấy tiền dư bạc thừa của họ và đem bỏ vào đó, còn bà này đã túng thiếu, lại còn bỏ tất cả những gì bà có, tất cả những gì để nuôi thân.’

Chúa nhìn thấy nội tâm còn chúng ta làm sao biết được lòng người. Chấp nhận lập luận này đồng nghĩa với chấp nhận tránh phán đoán vì không rõ lòng người. Với Chúa kẻ bố thí nhiều không phải là cho nhiều tiền mà cho với nhiều tâm tình. Tâm tình đó đến từ lòng mến, chân thành. Chúa khen bà góa vì bà cho của túng thiếu, tiền dùng mua cơm chiều nay nhưng bà dốc cạn túi dâng cúng.

BỐ THÍ ÂM THẦM

Có nơi vì mong đạt mục đích muốn thực hiện hoặc do quá sốt sắng biến vật chất thành chính, tâm tình hiến dâng thành phụ. Dùng Danh Cha làm sáng danh con. Xấp bạc biến người đó thành ân nhân ưu hạng của cộng đoàn dân Chúa. Ân nhân loại cao cấp được thưởng ba hồi chuông trong ngày lễ an táng, trọn đời hưởng lễ đặc biệt dành cho. Nên nhớ lời Chúa hứa chắc chắn hơn ngàn lần lời cha hứa. Chúa dậy khi làm phúc bố thí đừng khua chiêng gõ mõ. Trong khi đó cha nêu danh cho bá tánh biết để noi gương. Lời hứa khó thực hiện. Khi cha xứ đổi đi nơi khác bàn giao ‘ân nhân’ cho người thừa kế dù người này không hứa. Đôi khi không bàn giao lời hứa. Chúa không bao giờ nuốt lời hứa nhưng cha hứa đôi khi phải xét lại vì cha cũng có tính mau quên.

Chúa hứa dù cho một chén nước Ngài cũng không quên. Xin nhớ câu tiếp theo ‘vì Danh Chúa’. Bố thí vì Danh Chúa sẽ không bị lãng quên, nhưng bố thí cho danh con cả sáng, sổ vàng ân nhân thì lại khác vì đã được đồng đạo ca tụng ban khen.

‘Vậy khi bố thí, đừng có khua chiên đánh trống, như bọn đạo đức giả thường biểu diễn trong hội đường và ngoài phố xá, cốt để người ta khen. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. Còn anh em, khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, để việc anh bố thí được kín đáo. Và cha của anh em, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh em’. Mt 6,1-4.

Cần nơi thờ phượng khang trang sạch sẽ là điều tốt. Nhà của Chúa nên phải coi trọng. Còn Đền Thờ Chúa Thánh Thần thì sao? Cũng phải coi trọng. Anh em là đền thờ Chúa Thánh Thần vì thế mà việc bố thí cho kẻ đói ăn, khát uống, lạnh cho áo mặc, rét run sưởi cho ấm, cô đơn đến ngồi bên, bệnh tật cho thuốc uống, quan trọng ngang với xây dựng nhà Chúa. Nhà Chúa nguy nga phản lại đền thờ Chúa Thánh Thần rách nát. Hãy chăm sóc đền thờ sống động nhiều hơn, quan tâm đến đền thờ biết đi, biết xin, biết đói, biết khổ nhiều hơn vì điều đó làm đẹp lòng Chúa. Ngày phán xét Chúa cũng chỉ hỏi có bấy nhiêu.

Hy sinh mong được tiếng sẽ mất tiếng. Hy sinh không cần tiếng lại nổi tiếng. Đó là trường hợp của Thánh Phanxicô thành Assissi, của Vinh Sơn Đệ Phaolô, của Mẹ Têrêsa thành Calcuta, Mary Mc Killop của Úc. Tất cả đều cho đi trong âm thầm khi chết người vang lời ca tụng.

Không ai phủ nhận cho đi là cách làm giầu tốt nhất. Nhưng phải cho đi theo tinh thần của bà góa cho tiên tri Elia (1V 17,10-16) miếng bánh. Đây chính là đền thờ sống động. Cho đi trong tinh thần bà góa Chúa nhắc đến trong phúc âm Mc 12,41-44. Đây chính là đền thờ gỗ đá, nhà Chúa. Cả hai đều tốt vì cả hai đều làm âm thầm, khiêm nhường và yêu mến.

 

26. Chúa Nhật 32 Thường Niên

QUY LUẬT CỦA SỰ SỐNG LÀ NHẬN VÀ TRAO

(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)

Ba bài đọc hôm nay đều đề cập đến vấn đề trao ban.

Đang lom khom kiếm củi, bà goá Sarepta gặp ông khách bộ hành xin nước. Trong cơn đại hạn, một giọt nước quý như vàng. Thế mà bà không tiếc những giọt nước trong mát đang cần cho cơ thể mình giữa cơn nắng cháy. Bà vui lòng đem vò nước lại cho người qua đường không quen biết.

Đã uống cạn vò nước, người bộ hành lại xin ăn.

Bà goá trả lời: “Tôi thề là tôi không có bánh. Tôi chỉ còn nắm bột trong hũ và chút dầu trong vò. Tôi đang đi lượm vài thanh củi, rồi về nhà nấu nướng cho tôi và con tôi bữa cuối cùng. Chúng tôi sẽ ăn rồi chết.”

Nhưng rồi không cầm lòng được, bà đã lượm củi, lấy chút dầu và bột cuối cùng của gia đình, làm bánh cho người khách lạ ăn. (bài đọc I Vua 17, 10-16)

Và thế rồi, hũ bột sẽ không vơi, bình dầu không cạn cho đến ngày mưa xuống dồi dào cho hoa màu tốt tươi.

Lại một bà goá khác trong đền thờ Giê-ru-sa-lem thời Chúa Giêsu. Bà chỉ có hai đồng tiền kẽm, giá trị chỉ bằng một phần tư đồng xu Rô-ma, là tất cả gia sản của mình. Bà đã quảng đại bỏ vào hòm dâng cúng đền thờ. Vì lợi ích chung, bà cống hiến tất cả những gì cần thiết để nuôi sống mình. (bài Tin Mừng Mc 12, 44)

Thư Do-Thái hôm nay lại đề cập đến một Vị Thượng Tế cao cả là Đức Kitô, không chỉ trao ban những gì mình có, mà còn trao ban cả bản thân, trao ban đến giọt máu cuối cùng, “tự hiến tế chính mình để xoá bỏ tội lỗi muôn người” (thư Do-Thái 9,28)

Hiến trao là quy luật Thiên Chúa truyền ban để duy trì sự sống cho con người.

Thánh Phan-xi-cô At-xi-di xác nhận chân lý nầy: “Chính khi hiến thân là lúc nhận lãnh, chính khi quên mình là lúc nhận lại bản thân.”

Nhưng có người chủ trương ngược lại:

Dại gì tôi phải cho, dại gì phải hiến mình làm thân trâu ngựa cho người khác được nhờ! Đối với tôi, sống là thu vén, là tận hưởng những công lao và thành quả của người khác cũng như của tôi. Của tôi, tôi hưởng tôi xài; đèn nhà ai nấy sáng, việc gì phải cống hiến, phải trao ban!.

Chủ trương như thế là “bế môn toả cảng”, là cắt đứt tương quan với tha nhân, đồng nghĩa với tự huỷ diệt.

Trái tim của chúng ta luôn biết trao ban. Trái tim nhận máu rồi thì nó liền trao ban cho toàn thân. Nhờ đó, toàn cơ thể được sống. Ngày nào trái tim ngừng trao ban, đó là tim đứng và toàn thân phải chết.

Hai lá phổi của chúng ta cũng không ngừng trao ban. Chúng liên tục tiếp nhận khí trời rồi chuyển đến cho toàn thân được sống. Ngày nào phổi ngừng trao ban là ngày phổi bệnh và toàn thân phải chết.

Bao tử, ruột non, ruột già trong con người chúng ta cũng không ngừng trao ban. Mỗi khi nhận được thức ăn từ ngoài đưa vào, nó ra công chuyển hoá thành chất dinh dưỡng rồi chuyển đi nuôi toàn thân, nhờ đó toàn thân được lớn lên và mạnh sức. Ngày nào chúng ngừng trao ban, là ngày hệ tiêu hoá lâm trọng bệnh và toàn thân phải chết.

Các tế bào cần trao đổi chất dinh dưỡng cho nhau để duy trì sự sống cho mình. Các cơ quan như tim, phổi, ruột gan.. cũng phải trao đổi những gì chúng nhận được để duy trì sự sống cho mình và cho toàn thân.

Cuộc sống của các thành viên trong gia đình được phát huy và tồn tại cũng hệ tại ở việc nhận và trao.

Cuộc sống của cộng đồng quốc gia được phát huy và tồn tại cũng nhờ tinh thần tương thân tương ái.

Cuộc sống của cả nhân loại cũng đặt nền trên nguyên tắc mình sống cho mọi người và rồi mọi người sống cho mình.

Mỗi cá nhân là một tế bào làm nên một Thân Thể lớn lao là nhân loại nên nó phải trao đổi với tha nhân. Nhận và trao là quy luật sinh tồn.

* * *

Ở Israen có hai biển hồ lớn: một là biển hồ Galilê, hai là biển chết.

Biển hồ Galilê nằm phía bắc nước Do-thái, nó luôn luôn tiếp nhận nước từ sông Jordanô và sau đó cho chảy thoát ra phía hạ lưu, luôn trao ban những gì vừa nhận được. Nhờ đó, dòng nước luôn luôn trong lành, trở nên môi trường sống lành mạnh cho bao loài tôm cá, cung cấp nước uống cho cư dân quanh vùng, tưới xanh những cánh đồng và vườn cây ăn trái, nhiều người đến dựng nhà lập nghiệp quanh bờ của nó, thuyền bè tấp nập trên các bến cảng của nó. Nó đem lại phì nhiêu và sức sống cho đất cằn, đem lại ấm no, hạnh phúc và nguồn vui cho bao triệu người qua các thời đại. Chính Chúa Giêsu cũng thường lui tới rao giảng Tin Mừng nơi đây.

Nhưng cách đó không bao xa, về phía nam nước Do-thái cũng có một biển hồ lớn được gọi tên là Biển Chết. Nó là biển chết vì nó cũng nhận nước từ dòng sông Jordanô như biển hồ Galilê, nhưng nó cứ khư khư giữ lại cho mình, không ban phát cho ai, không cho chảy đi đâu cả. Vì thế, nước của nó trở thành nước độc, nó mặn đến độ không sinh vật nào sống được. Chung quanh biển nầy, không nhà cửa, không cây cối, không sinh vật nào có thể lập cư…

(dựa vào tập sách Lẽ Sống)

* * *

Lạy Chúa Giêsu, con đã nhận được tất cả từ nơi Chúa và tha nhân, vậy mà con muốn nắm ghì thật chặt cho riêng mình.

Nếu ai cũng ích kỷ như con, chỉ biết khư khư giữ chặt mọi thứ cho mình mà không biết mở tay chia sẻ, thì nhân loại sẽ như ra sao?

Xin cho con nhận ra rằng: Sống là sống với, sống là trao đổi, là nhận và trao. Dù có nghèo tiền, con cũng còn nhiều thứ khác để cống hiến, trao ban.

Xin đừng để con trở thành biển chết.

 

27. Chúa Nhật 32 Thường Niên

LÀM VIỆC NHỎ VỚI MỘT TÌNH YÊU LỚN

(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)

Chúa Giêsu quan sát những người bỏ tiền dâng cúng cho đền thờ. Người thấy có lắm người giàu bỏ thật nhiều tiền. Cũng có một bà goá nghèo bỏ vào hòm tiền hai đồng xu nhỏ, nhưng đó là tất cả những gì bà có để nuôi thân. Lễ vật của bà tuy bé mọn nhưng gói ghém rất nhiều tình yêu. Chính vì thế, Chúa Giêsu cho rằng bà goá nầy đã dâng cho Thiên Chúa nhiều hơn tất cả những người khác, vì tuy họ bỏ nhiều tiền nhưng không nhiều tình yêu.

Giá trị của một món quà

Đối với Chúa Giêsu, giá trị của món quà không tuỳ vào giá mua của món quà đó nhưng tuỳ vào mức độ yêu thương mà người cho đặt vào trong món quà.

Nếu có ai đó nài xin ta một số tiền mà lòng ta chẳng muốn cho. Nhưng vì người ấy cứ nài nỉ mãi khiến ta bực mình nên cuối cùng, để tống cổ người đó đi, ta đem cả cọc tiền lớn, bực bội ném cho người ấy và nói: “Tiền đây! Lải nhải hoài!” Chắc chắn người kia, dù nghèo thiếu đến mức nào đi nữa, sẽ quay mặt bỏ đi, mang theo một mối căm hờn.

Trái lại, khi đứa con nhỏ trong nhà muốn mừng kỷ niệm hôn phối ba mẹ mà chẳng có gì để dâng. Em lặn lội vào rừng ngắt một bông hoa dại nhỏ bé, đem về dâng lên ba mẹ với tất cả tình yêu thương. Chắc chắn ba mẹ em rất cảm động vì cảm nhận được nhiều yêu thương chứa đựng trong món quà bé nhỏ nầy.

Điều làm đẹp lòng Thiên Chúa không phải là dâng cho Người nhiều món quà lớn nhưng là dâng tình yêu lớn. Dâng cho Thiên Chúa những món quà lớn hay những thành quả to lớn mà thiếu vắng tình yêu, thì lễ vật đó sẽ trở thành rỗng không và chẳng có giá trị gì.

Thánh Phao-lô tông đồ, trong thư gửi tín hữu Cô-rinh-tô, từng khẳng định cách mạnh mẽ điều nầy: “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm choẹ xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi.” (I Cr 13, 1-3)

Làm việc nhỏ với một tình yêu lớn

Mẹ Tê-rê-xa Calcutta cảm nhận sâu sắc bài học trên đây của Thánh Phao-lô nên Mẹ không chủ trương làm những công việc lớn, nhưng chỉ làm những việc nhỏ với tình yêu lớn. Trong bức thư gửi cho Đức Cố Hồng Y Fx. Nguyễn Văn Thuận, Mẹ Têrêxa viết: “Điều đáng kể không phải là số lượng công tác ta làm, nhưng là mức độ tình yêu mà ta đặt vào trong mỗi công tác.” Thế nên, khi tiếp xúc với bất cứ ai, Mẹ đem lòng yêu thương người ấy như thể đó là người duy nhất trên đời trong giây phút đó.

Cảm hứng từ bức thư trên đây của Mẹ Tê-rê-xa Calcutta, Đức Cố Hồng Y Fx Nguyễn Văn Thuận viết: “Kinh nghiệm đó đã củng cố trong tôi ý niệm là phải sống mỗi ngày, mỗi phút giây của cuộc đời ta như là phút giây cuối cùng…”

Và ngài quyết tâm thực hiện từng công việc nhỏ bé hằng ngày, từng cuộc tiếp xúc hằng ngày với tình yêu lớn và biến những phút sống hiện tại thành những giây phút đẹp nhất cuộc đời, như ngài đã viết: “Mỗi chữ, mỗi cử chỉ, mỗi cú điện thoại, mỗi quyết định… phải là những phút giây đẹp nhất đời ta. Chúng ta phải thương yêu mọi người, chúng ta phải tươi cười với mọi người mà đừng đánh mất một giây phút nào.” (Đức Cố Hồng Y Fx Nguyễn Văn Thuận)

Trong tinh thần đó, chúng ta hãy cố gắng thực hiện từng công việc bé nhỏ và từng cuộc tiếp xúc hằng ngày với một tình yêu lớn.

Hy vọng khi những hy lễ bé nhỏ nầy được dâng lên cho Thiên Chúa mỗi ngày, Chúa Giêsu cũng sẽ rất hài lòng với lễ vật của chúng ta như Ngài đã đánh giá cao lễ mọn của bà góa nghèo năm xưa trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem.

***

Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu ban đầu cũng muốn dâng cho Thiên Chúa những món quà vĩ đại. Chị ước mơ “làm linh mục, phó tế, tông đồ, tiến sĩ Hội Thánh và chết vì đạo thánh” để làm vinh danh Thiên Chúa và góp phần cứu rỗi các linh hồn; nhưng về sau, Chị khám phá được ơn gọi của mình là làm những việc bổn phận nhỏ nhặt hằng ngày với tất cả lòng yêu thương. Châm ngôn của Chị là: “sống mỗi phút giây hiện tại với tất cả lòng yêu thương.” Khi thực hiện châm ngôn nầy, Chị Thánh có vô vàn món quà cao đẹp dâng lên Thiên Chúa trong từng phút giây đời mình.

Thánh Phaolô dạy: “Dù anh em ăn, dù anh em uống hay làm bất cứ việc gì khác, anh em hãy làm mọi sự vì Danh Chúa Giêsu Kitô và nhờ Ngài mà tạ ơn Thiên Chúa Cha.”

Trong tinh thần đó, chúng ta hãy kết hợp với Chúa Giêsu để làm các công việc bổn phận hằng ngày với lòng yêu mến Chúa.

Rồi chúng ta hãy đem những lễ vật đó đặt lên đĩa thánh và trong chén rượu, để cùng dâng lên Thiên Chúa trong thánh lễ hằng ngày hiệp với Mình Máu thánh Chúa Giêsu. Chắc chắn Thiên Chúa Cha sẽ rất vui lòng đón nhận và ban ơn cứu độ cho chúng ta cũng như cho các linh hồn.

 

28. Tình yêu lớn lao

(Suy niệm của Lm. Gioan M. Nguyễn Đức Hùng, CRM)

Bạn thân mến!

Có bao giờ bạn dám nghĩ là bạn có thể góp phần rất tích cực vào việc làm cho thế giới này trở nên tươi đẹp, dễ thương và hấp dẫn hơn không?- Nếu bạn đã từng nghĩ và đang thực hiện như thế, thì xin bạn cứ hân hoan tiếp tục mỗi ngày một ngoạn mục hơn, bạn nhé! – Còn nếu vì một sự khiêm tốn tế nhị nào đó mà bạn chưa dám nghĩ tới, thì ngay hôm nay, tôi xin mạo muội đề nghị với bạn là bạn hãy can đảm bắt tay ngay vào việc đại nghĩa này, đừng chần chừ mà lại bỏ mất cơ hội, uổng phí thời gian, lấy lý do là từ từ để dịp khác, vì tất cả, từ Thiên Chúa đổ xuống cho tới người rốt bét trên trần gian này đang tha thiết mong đợi bạn ra tay đấy!

Vâng, đơn giản lắm bạn ạ! Nó nằm ngay trong tầm tay, trong khả năng của bạn và của tôi. Nhiều khi chỉ một nụ cười thân thiện, bạn cũng đã có thể làm được bao điều tốt lành cho thế giới.

Tôi nhớ đến Mẹ Têrêsa Calcutta. Một hôm có người thanh niên đến thăm, và tận mắt chứng kiến các việc Mẹ cùng với các nữ tu của Mẹ làm tốt đẹp quá, anh tự cảm thấy dấy lên trong lòng mình một nhiệt huyết xây đắp cho thế giới này thêm những điều tốt lành, anh mạnh dạn hỏi Mẹ:

– Thưa Mẹ, xin Mẹ vui lòng cho con biết con có thể cộng tác vào công trình của Mẹ, để làm cho thế giới này ngày càng tốt đẹp hơn bằng cách nào?

Mẹ Têrêsa nở nụ cười sung sướng và trả lời:

– Con hãy cố gắng mỉm cười với người khác, có thế thôi con ạ!

Thưa bạn,

Tin Mừng hôm nay kể lại câu chuyện có thật, Chúa Giêsu ngồi quan sát người ta bỏ tiền dâng cúng vào Đền Thờ, và Chúa đã bật mí cho các môn đệ một sự thật mà người ta không biết, một sự thật khiến các môn đệ cũng phải ngạc nhiên. Hóa ra các môn đệ từ trước đến giờ cũng chỉ đánh giá người ta theo những dáng vẻ bề ngoài nhiều khi rất dễ sai lầm; còn Chúa Giêsu đánh giá theo tận đáy lòng của con người, điều đó nhắc nhở và dậy chúng ta đừng bao giờ dựa hoàn toàn vào những cái bề ngoài để mà đánh giá một con người mang hình ảnh Thiên Chúa, dù họ là ai và ở tình trạng nào đi nữa.

Hiểu và nhận ra Thiên Chúa là Đấng luôn để ý đến tận thâm sâu cõi lòng ta, Ngài chỉ quan tâm tới tất cả những gì mang tính chân thành tấm lòng của chúng ta, và Ngài đánh giá hay hoặc không hay, lớn hay nhỏ tất cả những gì chúng ta dâng cho Ngài trực tiếp, hay dâng cho Ngài qua tha nhân mà Chúa luôn nhận là ta dâng cho chính Ngài, tùy theo mức độ tấm lòng to hay nhỏ, nhiều hay ít ta đặt để vào của ta dâng đó. Như vậy thì có dễ không thưa các bạn, trong việc làm tôi thờ phượng Thiên Chúa? Chính Chị Thánh Têrêsa là một sao sáng gần gũi và là gương mẫu cho ta trong lãnh vực này đấy, bởi vì ngài đã chẳng nói với chúng ta về chủ trương nên thánh của ngài là ‘làm việc thường, nhưng tình yêu phi thường’ đó sao!

Quả thế, vì tình yêu đối với Chúa Kitô mà mỗi khi chúng ta trao tặng người khác một nụ cười với một sự quí mến họ, thì chúng ta không những đã làm cho cuộc đời họ tươi thắm hơn, vui vẻ hơn, lạc quan hơn, đỡ bị stress hơn, mà đồng thời, bạn cũng đang làm cho đời bạn thêm tươi hơn, hấp dẫn hơn, đáng sống hơn, khỏe hơn, và còn hơn thế nữa, bạn đang góp phần tích cực vào việc làm cho thế giới nhân sinh này trở nên đẹp hơn,dễ thương hơn, và nhân bản hơn, như Mẹ Têrêra đã đề nghị anh thanh niên thiện chí trên đây muốn làm một gì đó để gọi là đóng góp vào việc phát triển thế giới. Và nếu nụ cười này lại được trải dài tới cả những người chúng ta không ưa không thích, thậm chí tới cả những người thù của chúng ta nữa, thì bạn ơi, đó thật là tuyệt vời, thật vĩ đại trước ánh nhìn quan sát của Thiên Chúa, và phải chăng, đó cũng chính là lúc Chúa đánh giá, Chúa tuyên bố là ta đã bỏ tiền vào hòm dâng cúng Đền Thờ nhiều hơn cả?

Vâng, thưa bạn! Hẳn bạn và tôi còn nhớ câu chuyện thật hay, thật đẹp, thật cảm động, câu chuyện mang tính giáo dục cao của em bé người Nhật 9 tuổi, em là một trong những nạn nhân trận động đất ngày 11.3.2011.

Như bạn đã biết, trận động đất cường độ 9,0 và sóng thần cao 9 thước thuộc miền Đông Bắc nước Nhật Bản, đã giết chết khoảng 8.133 người, làm mất tích 12.272 người, và đưa đến khủng hoảng phóng xạ nguyên tử từ các lò nguyên tử trong ảnh hưởng của thảm hoạ. Tuy nhiên, trước thảm hoạ khốc liệt đó, tinh thần người Nhật là một tấm gương sáng ngời cho thế giới…Không than khóc, và không thừa cơ cướp giật. Thí dụ ở vùng cách tỉnh Fukushima khoảng 25 cây số, dân chúng địa phương tự động thành lập các đội tự quản, tương trợ lẫn nhau khiến việc an ninh không là một vấn đề. Bên ngoài một ngôi nhà bị sập, tiền giấy trôi ra từ ngôi nhà nằm tứ tán có đến hàng triệu Yen, nhưng chẳng ai thèm nhặt. Đây là một đoạn trích từ thư của Tiến Sĩ Hà Minh Thành viết từ Nhật:

“Tối hôm kia, tôi được phái tới một trường tiểu học, phụ giúp hội tự trị ở đó để phân phát thực phẩm cho các người bị nạn. Trong cái hàng rồng rắn những người xếp hàng, tôi chú ý đến một em nhỏ chừng 9 tuổi, trên người chỉ có chiếc ao thun và quần đùi. Trời rất lạnh mà em lại xếp hàng cuối cùng, tôi sợ đến phiên của em thì chắc chẳng còn thức ăn, nên mới lại hỏi thăm. Em kể là: con đang học ở trường trong giờ thể dục thì động đất và sóng thần ập đến, cha của con làm việc gần đó đã chạy đến trường, từ ban công lầu 3 của trường, con nhìn thấy chiếc xe và cha con bị nước cuốn trôi, 100% khả năng là cha con đã chết rồi. Tôi hỏi thêm: còn mẹ con đâu? Em nói: nhà con nằm ngay bờ biển, mẹ và em của con chắc cũng không chạy kịp. Em nhỏ quay người lau vội dòng nước mắt khi nghe tôi hỏi đến thân nhân. Nhìn thấy em lạnh run lập cập tôi mới cởi cái áo khoác cảnh sát, trùm lên người em. Vô tình bao lương khô khẩu phần ăn tối của tôi bị rơi ra ngoài, tôi nhặt lên đưa cho em và nói: “Đợi tới phiên của con chắc hết thức ăn, khẩu phần của chú đó, chú ăn rồi, con ăn đi cho đỡ đói”.

Em bé nhận túi lương khô của tôi, khom người cảm ơn. Tôi nghĩ bình thường, tưởng nó sẽ ăn ngấu nghiến ngay lúc đó, nhưng không phải, nó ôm bao lương khô đi thẳng lên chỗ những người đang phát thực phẩm và để bao lương khô vào thùng thực phẩm đang phân phát, rồi lại quay lại xếp hàng. Tôi sửng sốt và ngạc nhiên vô cùng, mới hỏi nó tại sao con không ăn mà lại đem bỏ vào đó. Em trả lời:

“Bởi vì còn có nhiều người chắc đói hơn con. Bỏ vào đó để các cô chú phát chung cho công bằng chú ạ.”

Tôi nghe xong vội quay mặt đi chỗ khác để khóc, để em và mọi người đang xếp hàng không nhìn thấy. Thật cảm động! Không ngờ một đứa nhỏ 9 tuổi, mới học lớp 3 đã có thể dạy một thằng có ăn học, từng có bằng tiến sĩ như tôi một bài học làm người trong lúc khốn khó nhất. Một bài học vô cùng cảm động về sự hy sinh.”

Hay không, thưa bạn?

Qua câu chuyện cảm động trên, chúng ta thấy cái quí nhất, đó là thấy cả một tấm lòng. Vì cái quí nhất đối với họ không phải là ở chỗ hàng triệu Yen trôi ra biển uổng phí, mà là cả một tấm lòng giữa những con người với nhau, những người đó đã đánh giá và coi trọng người khác còn hơn cả tiền bạc… Cũng như em bé 9 tuổi, cái quí không phải là bao lương khô em cho vào làm của chung, mà là tấm lòng của em biết nghĩ đến người khác, biết cảm thông nỗi đau khổ của người khác, mặc dầu em cũng đang đau khổ cùng cực, mặc dầu với hoàn cảnh và nỗi đau của một em bé mất cha, mất mẹ cùng một lúc, em có quyền được hưởng sự ưu tiên chính đáng; nhưng trái lại, em biết coi cái khổ của người khác hơn cái khổ của mình, sẵn sàng nhường quyền lợi của mình cho người khác. Cái vĩ đại, cái đáng nể, đáng cảm phục nhất, và Chúa bảo là dâng cúng bỏ tiền vào Đền Thờ nhiều hơn cả có lẽ không sai đâu, là ở chỗ đó đấy, các bạn ạ!

Câu chuyện bà góa thành Sarepta mà chúng ta vừa nghe, bà đã quảng đại dâng cho vị tiên tri Elia của Chúa chiếc bánh cuối cùng, và chúng ta thấy Thiên Chúa đã đánh giá rất cao; đồng thời đáp trả lại tấm lòng tin, lòng bác ái lớn lao của bà bằng phép lạ hũ bột không vơi cho đến khi hạn hán chấm dứt.

Bạn ơi, nếu tất cả chúng ta đều có những nghĩa cử đẹp với nhau như thế, mà nhất là những nghĩa cử đó lại được thực hiện vì lòng kính mến Chúa và thương yêu anh chị em mình vì lòng yêu Chúa, thì thật đáng quí vô cùng, và thế giới này chắc chắn sẽ được Thiên Chúa chúc phúc, phủ phê ngập tràn các ân huệ, và thế giới chúng ta đang sống đây, sẽ trở nên tốt đẹp, hạnh phúc, ấm cúng biết bao!

Xin các bạn cùng tôi, ngay bây giờ dâng một lời cầu xin Ơn Trên cho mọi người luôn đối xử tử tế với nhau như những anh chị em con cùng một Cha một Mẹ trên trời, các bạn nhé!

 

29. Cho bằng tấm lòng

(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)

Khi ở miền quê tôi rât thích hình ảnh một bà cụ khệ nệ ôm nải chuối đến biếu cha. Đó là hình ảnh bà ôm cả tấm lòng dành cho cha. Rất đáng quý, rất đáng trân trọng. Nói là ôm cả tấm lòng vì khi gia đình có cây chuối ra hoa, ra buồng, họ đã nghĩ đến để dành cho ai. Khi ra bẹ chuối họ cũng nghĩ phải chọn bẹ chuối nào dành cho cha. Và rồi nâng niu nải chuối ngon nhất để mang biếu cha, đó là ôm trọn một tấm lòng chân thành thật quý giá!

Hình ảnh ấy khiến tôi cũng nhớ tới một bà cụ rất đơn sơ. Ngày tết bà ra chúc tuổi tôi. Bà nói: Nhà con có cây xoài ra trái. Con để dành trái xoài to nhất để mang tết cha. Thế mà đến ngày 28 tết trộm nó hái mất rồi! Con chẳng còn gì để biếu cha. Nghe cũng vui nên tôi nói với bà cụ: Bà đã dành cho cha cả tấm lòng rồi. Xin cám ơn bà.

Quả thực, người ta nói “của cho không bằng cách cho”. Giá trị của món quà không nằm ở giá trị đồng tiền mà quan yếu là ở tấm lòng dành cho nhau. Những người cần công việc họ biếu quà cho cấp trên hàng triệu nhưng không có tấm lòng. Quà họ biếu có toan tính lợi nhuận. Quà của họ không có tình yêu.

Quà tặng chỉ có giá trị khi nó mang cả tấm lòng yêu mến tri ân. Đó mới là món quà vô giá. Món quà nồng thắm tình yêu. Món quà không dựa trên giá trị đồng tiền mà hệ tại ở tấm lòng. Thế nên, đừng bao giờ nghĩ mình có thật nhiều tiền mới giúp cha giúp mẹ, mới mua quà bánh cho ông bà… Đừng cầu mong trúng số mới làm việc bác ái, mới đóng góp xây dựng giáo xứ…

Nếu như vậy, có lẽ chúng ta sẽ khó có cơ hội giúp đỡ tha nhân. Hãy thi ân trong khả năng của mình. Hãy làm việc thiện khi có cơ hội, đừng đợi chờ những chuyện ngoài tầm tay. Chúng ta không nên hứa hẹn hay chờ đợi ngày mai, mà ngay hôm nay hãy làm những việc tầm thường như: giúp một người già qua đường, lượm một cây đinh sét vương vãi trên đường, thăm viếng kẻ yếu đau…

Thiên Chúa sẽ nhìn tấm lòng chúng ta như Chúa đã nhìn thấy tấm lòng thành của Abel. Ngài đã vui nhận lễ vật của Abel, vì Ngài thấy ở đó có lòng thành tri ân. Thiên Chúa đã khinh dể lễ vật của Cain vì lễ dâng của ông không có lòng thành. Vì Ngài là Đấng thấu suốt tâm can. Ngài sẽ chúc phúc cho những lễ vật đơn hèn nhưng gói trọn tình yêu.

Hôm nay trong đền thờ khi mà nhiều người bỏ tiền dâng cúng, Chúa Giêsu chỉ nhìn thấy nơi bà góa tấm lòng thành. Bà bỏ tiền ít nhưng nồng ép vào đó cả tấm lòng thành. Bà không giầu của cải nhưng bà giầu tấm lòng. Bà biết tất cả là của Chúa ban, thế nên phải dâng lại cho Chúa là lẽ thường tình. Lễ vật của bà không giầu tiền bạc nhưng lại rộng lượng tấm lòng.

Xin cho chúng ta hiểu rằng tất cả là của Chúa. Cuộc sống của chúng ta là do Chúa ban. Hãy dâng tặng cho Chúa trong những công việc chung của Giáo hội, nhất là chia sẻ cho những người bất hạnh cơ hàn. Xin đừng đóng cửa lòng mình trong ích kỷ tham lam. Amen.

 

30. Chúa Nhật 32 Thường Niên

ẢNH HƯỞNG MẠNG XÃ HỘI HÔM NAY

(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)

Ngày hôm nay rất nhiều người sống không thể thiếu mạng xã hội. Đây là cách mà con người thời đại tiếp cận với xã hội và nhất là những vấn đề nóng của xã hội. Tuy nhiên, với bản tính của con người thích soi xétchuyện người khác và thích thỏi phồng những tin nóng, thì mạng xã hội nhiều khi trở thành một “pháp trường” nơi đám đông mặc nhiên thể hiện sự tàn nhẫn. Họ ném đá những người họ không thích, bất kể đúng sai. Họ cười nhạo kẻ khác biệt mình không một giây suy nghĩ. Họ soi mói đời sống riêng tư, thậm chí thích thú trước nỗi khổ của người khác. Họ coi thế giới ảo như một trò chơi, phủi tay tắt máy là câu chuyện kết thúc. Nhưng mạng xã hội không phải là trò chơi. Hậu quả của những việc tưởng như vô bổ trên mạng tàn khốc hơn nhiều. Nó đã cướp đi rất nhiều sinh mạng chỉ vì con người thích xét đoán người khác.

Mới đây thôi, một em gái ở Đồng Nai tự vẫn khi bị người yêu đăng clip nhạy cảm lên mạng. Gia đình chạy đến hết chỗ này nơi khác để cứu em, nhưng vô vọng. Cô bé mới 16 tuổi, không thể chống đỡ áp lực từ cơn bão mạng. Kẻ đăng clip đã gián tiếp giết em và cả những người lan truyền nó nữa.

Cũng có những trường hợp chỉ là vô tình trong lúc làm việc có những cử chỉ thái độ thiếu nghiêm túc liền bị ném đá tập thể một cách không thương tiếc như trường hợp của một bác sĩ Bệnh viện đa khoa Lâm Thao, Phú Thọ. Trong lúc khám cho bệnh nhân, anh gác một chân lên giường bệnh. Một chiếc smartphone giơ lên, hình ảnh được tung lên mạng.

Cộng đồng phẫn nộ về y đức của anh, đòi phải xử lý thật nghiêm. Anh bị miễn nhiệm và sau đó thì tự nguyện xin từ chức. Sự việc diễn ra quá nhanh, khiến tôi cứ băn khoăn mãi. Chẳng lẽ một cái chân đặt sai tư thế lại là vi phạm nghiêm trọng đến vậy?

Tôi không cho rằng, việc bác sĩ đặt chân lên giường bệnh là đúng, nhưng cái tôi cần biết hơn: anh chăm sóc người bệnh ra sao, hoàn thành công việc như thế nào,…Tiếc thay, nhiều người chỉ phán xét quanh cái chân để nhầm chỗ.

Hôm nay Chúa Giê-su dạy cho chúng ta cách đánh giá về một con người. Tư cách của họ và tấm lòng của họ không dựa trên thế giá. Không dựa trên cách ăn mặc đi đứng. Điều quan yếu là nhìn vào hành động của họ. Cách sống của họ sẽ thể hiện tấm lòng của họ chứ không phải chỉ nói hay là làm giỏi.

Bài Phúc âm hôm nay Chúa Giêsu cũng đưa ra hai nhận định khác nhau về hai loại người. Nhận định thứ nhất về nhóm biệt phái, đại diện cho thành phần có chức có quyền. Nhận định thứ hai về bà goá nghèo, đại diện cho những con người thấp hèn, nghèo đói. Cả hai đều lên đền thờ với hai thái độ khác nhau. Bà goá nghèo khiêm tốn. Nhóm biệt phái giầu có lại kiêu căng. Bà goá nghèo dâng tất cả những gì mình có cho Chúa. Người biệt phái chỉ có lòng tự cao tự đại.

Nhóm biệt phái là những công chức đền thờ nhưng lại tham lam chỉ tìm cách lấy của chung thành của riêng. Họ là những người có chức, có quyền nhưng lòng họ chất chứa đầy sự kiêu căng, vụ lợi đến nỗi không còn lòng quảng đại để cho đi.

Bà goá nghèo tiền, nghèo của nhưng lại giầu tấm lòng. Bà thành kính lên đền thờ với thái độ khiêm tốn thẳm sâu trước nơi cực thánh của Chúa. Bà đã dâng tất cả những gì mình có cho Chúa, dù chỉ là một đồng xu nhỏ bé.

Chúa đã khen ngợi tấm lòng bà goá. Một tấm lòng chân thành và quảng đại. Chúa nhận định giá trị về một con người không dựa trên những gì họ có mà dựa trên những gì họ đã cho đi. Kẻ không bao giờ biết cho đi mới thực sự là người nghèo khốn cùng.

Thế nên đánh giá hay xét đoán một con người đừng chỉ nhìn vào một phút sơ hở của họ để rồi vội kết án họ xấu xa. Nhất là trong thời đại thông tin công nghệ 4.0 thì một lời kết án thiếu chân thực của chúng ta sẽ giết chết một con người, hay ít ra cũng huỷ hoại nhân cách một con người, một khi lời đó được lan tải trên mạng xã hội. Và nhất là một sự chia sẻ thiếu hiểu biết của chúng ta sẽ gây nên những cơn bão đau khổ cho một con người.

Đạo Công giáo là đạo yêu thương. Tình yêu thương mới gọi chúng ta chỉ nói và làm những điều gì có lợi cho tha nhân. Đừng cố tình đẩy anh em vào đau khổ. Hãy sống nhân đạo với nhau thi châm ngôn: ”điều gì anh em muốn người khác làm cho mình thì hãy làm cho anh em như vậy”.

Xin Chúa giúp chúng ta có một tấm lòng chân thành để sống với tha nhân như bà goá giầu lòng quảng đại chân thành. Và xin cho chúng ta cũng có tấm lòng nhân hậu để đừng xét đoán anh em một cách thiếu suy nghĩ, nhưng luôn lấy lòng từ bi để nói tốt, nghĩ tốt cho anh em. Amen.

 

31. Ai nghèo hơn ai?

(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)

BÀ GOÁ NGHÈO TIỀN, NGHÈO CỦA NHƯNG LẠI GIẦU TẤM LÒNG

Nếu hỏi rằng ai là người có giá trị trong cuộc đời của bạn? Có lẽ không phải là người có tiền, có địa vị mà là người đã từng hy sinh cho bạn. Nếu hỏi rằng ai là người có ích với bạn? Có lẽ không phải là người có quyền lực, có danh giá mà là người tận tuỵ dìu dắt bạn. Vậy theo bạn ai là người nghèo đáng thương nhất trong cuộc đời? Có lẽ người nghèo đáng thương nhất là người không có tấm lòng để cho. Sự ích kỷ đã đẩy họ đến bần cùng đến nỗi không mua được bạn bè, không mua được niềm vui của sự trao ban. Sự tham lam đã khiến họ chơi bần với anh em, dẫn đến sự xa cách lạnh lùng.

Có một gia đình kia rất giầu có. Một hôm ông bố dẫn con về quê với ý định cho con thấy người nghèo sống ra sao. Hai bố con ở chơi mấy ngày với một gia đình nông dân mà người ta vẫn coi là rất nghèo trong làng. Lúc trở về, ông bố hỏi con: Con đã thấy người nghèo sống ra sao? Đứa con trả lời: Cám ơn bố đã cho con thấy mình nghèo như thế nào. Còn họ thật giầu có. Ông bố hỏi lại: Tại sao con lại nghĩ thế? Đứa con trả lời: Con thấy chúng ta chỉ có một con chó, họ có tới 4 con. Chúng ta chỉ có một cái hồ cỏn con ở giữa vườn, còn họ có dòng sông dài đến vô tận. Chúng ta chỉ có mấy cái đèn ngoài vườn, còn ban đêm họ có bao nhiêu là sao sáng. Trước nhà chúng ta chỉ giới hạn ở trước sân vườn, còn trước nhà họ là không gian mênh mông đến tận chân trời. Chúng ta chỉ sống trên mảnh đất bé nhỏ, còn họ có ruộng đồng bao la thẳng cánh cò bay. Chúng ta có gia nhân phục vụ nhưng họ chăm sóc lẫn nhau. Chúng ta phải mua thực phẩm nhưng họ tự tay trồng lấy lúa rau. Chúng ta có tường rào vây quanh bảo vệ, nhưng họ có bạn hữu bảo vệ… Ông bố nghe mà cứ ngẩn ngơ người, đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác trước nhận xét thật đơn sơ của đứa con.

Bài Phúc âm hôm nay Chúa Giêsu cũng đưa ra hai nhận định khác nhau về hai loại người. Nhận định thứ nhất về nhóm biệt phái, đại diện cho thành phần có chức có quyền. Nhận định thứ hai về bà goá nghèo, đại diện cho những con người thấp hèn, nghèo đói. Cả hai đều lên đền thờ với hai thái độ khác nhau. Bà goá nghèo khiêm tốn. Nhóm biệt phái giầu có lại kiêu căng. Bà goá nghèo dâng tất cả những gì mình có cho Chúa. Người biệt phái chỉ có lòng tự cao tự đại.

Nhóm biệt phái là những công chức đền thờ nhưng không đóng góp của chung mà chỉ lợi dụng để lấy của chung thành của riêng. Họ là những người giầu có nhưng lòng họ chất chứa đầy sự kiêu căng, vụ lợi đến nỗi không còn lòng quảng đại để cho đi.

Bà goá nghèo tiền, nghèo của nhưng lại giầu tấm lòng. Bà thành kính lên đền thờ với thái độ khiêm tốn thẳm sâu trước nơi cực thánh của Chúa. Bà đã dâng tất cả những gì mình có cho Chúa, dù chỉ là một đồng xu nhỏ bé.

Chúa đã khen ngợi tấm lòng bà goá. Một tấm lòng chân thành và quảng đại. Chúa nhận định giá trị về một con người không dựa trên những gì họ có mà dựa trên những gì họ đã cho đi. Kẻ không bao giờ biết cho đi mới thực sự là người nghèo khốn cùng.

Thực vậy, sự giầu có về vật chất đôi khi làm con người nghèo khó về tinh thần. Sự nghèo khó vật chất đôi khi lại thảnh thơi tâm hồn. Kẻ tham lam thường nghèo đói về lòng nhân ái. Kẻ biết sống khó nghèo thường chứa chan tình yêu. Kẻ có chức có quyền dễ mất tính bao dung và thương xót. Kẻ khốn cùng dễ cảm thông với bất hạnh bần cùng của tha nhân.

Xét cho cùng, sự giầu có không hệ tại ở đồng tiền hay chức vị. Sự giầu có hệ tại ở những tương quan với đồng loại. Do vậy, điều mà con người cần tích lũy không phải là của cải trần gian mà là tình yêu đối với tha nhân. Điều mà con người thu gom không phải là hàng hoá xa sỉ phẩm mà là từng nghĩa cử cao đẹp chúng ta dành cho đồng loại.

Kẻ có chức có quyền càng bị kết án nặng hơn nếu họ không biết dùng địa vị của mình để phục vụ một cách vô vị lợi. Chính họ không những phải trả lẽ trước mặt Chúa về sự ích kỷ của mình, mà còn mất đi cơ hội mua lấy bạn hữu Nước Trời bằng tấm lòng rộng lượng của mình.

Mỗi người chúng ta chỉ là những quản lý của Chúa, hãy biết đón nhận trong sự khiêm tốn và biết trao ban cho anh em theo khả năng và hoàn cảnh của mình. Xét cho cùng, tất cả những gì chúng ta có, đều nhận lãnh do lòng quảng đại của Chúa. Do đó, những gì chúng ta cho, không phải chúng ta cho của riêng mình, nhưng là giao lại cho người khác những gì thuộc về Chúa. Dù vậy Chúa vẫn thưởng công cho chúng ta. Vì Chúa đã từng nói: “Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu.” Amen.

 

32. Quảng đại và tự do

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)

Người nghèo thường quảng đại và sẵn sàng quên mình để giúp đỡ người khác. Họ tự do với bạc tiền danh lợi, nên có thể tin vào con người và sẵn sàng yêu thương phục vụ hơn.

Hãy coi chừng

Chúa Yêsu nói với mọi người: “hãy coi chừng” những ông kinh sư, họ thích mặc áo thụng xúng xính khác người, thích được chào hỏi, thích ngồi chỗ nhất, nhưng lại “nuốt” hết tài sản của các bà góa, lại còn giả bộ đọc kinh lâu giờ.

Không phải chỉ những ông kinh sư thời Đức Yêsu thích rồi làm như vậy, mà con người ngày nay cũng vậy nữa: cũng tham của người, ham danh hám lợi, và hay giả bộ “đạo đức”. Nếu đạo đức thật, mà người ta thấy thì cũng tốt vì làm gương sáng; còn nếu không đạo đức mà lại làm như thể đạo đức, là giả hình. Hãy coi chừng.

Nếu ai thích khen, người đó có thể bị điều khiển bằng lời khen; nếu ai tham của, người đó có thể bị mua chuộc bằng tiền của. Người đó đang bị nô lệ, bị sai khiến bởi tiền bạc danh vọng chức quyền. Người đó tưởng họ đang tự do, nhưng thực sự họ đang nô lệ và bị điều khiển mà họ không biết. Hãy coi chừng.

Nếu bạn không nô lệ những điều đó, thì hạnh phúc biết bao!

Người nghèo quảng đại

Tiên tri Elia trên đường lánh nạn đã được Chúa truyền đến sống nhờ một bà goá nghèo. Cũng có thể nói bà goá nghèo và con bà sống nhờ tiên tri, vì chính nhờ tiên tri mà hũ bột không cạn và hũ dầu không vơi. Đúng hơn Thiên Chúa thương cả tiên tri lẫn bà goá nghèo nên đã nuôi sống tất cả.

Bà goá chỉ còn một nhúm bột và một chút dầu, lượm củi làm cái bánh cuối cùng để “ăn rồi chết”, thế mà bà vẫn tin lời tiên tri, làm cho ông một cái bánh trước khi làm cho con bà và chính bà. Cách hành xử của bà goá này rất đẹp. Tôi có đơn sơ tin người và sẵn sàng giúp người như bà goá nghèo này không? Thiên Chúa qúa tuyệt.

Bà goá trong Tin Mừng được Đức Yêsu khen là quảng đại, dám dâng cúng tất cả những gì mình có. Có người nói rằng: “vì bà goá chỉ có mấy xu nên dễ dàng để dâng cúng tất cả, còn nếu bà goá này thật giầu thì chắc bà chẳng dám bỏ tất cả đâu”! Cũng có thể như vậy, nhưng “những người quảng đại” thường nghèo; có lẽ họ “hay cho” nên mới không giầu. Bà goá đó không giầu được vì bà luôn cho tất cả, dù khi bà có hai xu hay có nhiều hơn hai xu, có lẽ chưa khi nào bà giữ cho mình được mười đồng vì bà vẫn cho những gì bà có. Thiên Chúa cũng cho con người tất cả, ngay cả điều qúy nhất là Chúa Con và Thánh Thần.

Những người “ham tiền” thường ky cóp và không bỏ ra ngay cả một xu!

Người nghèo dễ tự do để chọn theo Thiên Chúa hơn

Có mấy người hiểu được hạnh phúc của người nghèo? Có mấy người hiểu được người nghèo tự do đến mức nào? Trong cuộc sống, bao nhiêu quyết định bị chi phối bởi sợ người này hay không dám làm mất lòng người kia, sợ người khác hiểu lầm mình, sợ người khác không còn đánh giá mình cao nữa, sợ người khác biết sự thật về mình. Vì sợ nên không được tự do.

Xin Chúa cho con nghèo, để con không còn gì để phải sợ, để con chỉ còn biết sống theo Chúa theo sự thật, để chỉ bị tình yêu thương chi phối mà thôi.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

  1. Xin bạn kể nỗi sướng điều khổ của người giầu?
  2. Xin bạn liệt kê điều cực và cái hay của người nghèo?
  3. Bạn thường bị nô lệ bởi điều gì nhất khi quyết định? Làm sao để quyết định tự do?

 

33. Tình góa

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

Phải thú nhận rằng có hậu ý khi đặt tựa đề cho bài viết là “tình góa”. Dĩ nhiên ít nhiều cũng có ngụ ý “tiếp thị”. Đã là góa bụa mà còn tình tứ gì nữa! Đã nói đến tình thì ít ai nói đến cảnh góa bụa. Sự đời, người ta thường tránh những điều xúi quẩy. Thế nhưng nhiều hình ảnh người góa bụa lại được Thánh Kinh không chỉ tô hồng mà còn xác nhận là một trong những đối tượng được Thiên Chúa ưu ái và bảo vệ cách đặc biệt bằng những luật lệ cụ thể trong Cựu Ước (x.Xh 22,21; Ed 22,7). Đến thời Tân Ước, chính Chúa Giêsu cũng đã ưu ái bà góa thành Naim có đứa con trai duy nhất bị chết, nên dù không được khẩn xin, Người vẫn ra tay uy quyền cho cậu ta sống lại (x.Lc 7,11-17). Trong ba bài đọc Thánh Kinh của Chúa nhật XXXII TN B thì bài đọc thứ nhất trích sách các Vua và bài Tin mừng tường thuật và ca tụng nghĩa cử cao đẹp của bà góa thành Xarépta và bà góa tại Giêrusalem. Cả hai đều là những bà góa nghèo nhưng sẵn sàng hiến dâng “phần nuôi sống” mình, cũng là chính sự sống của mình cho tha nhân và cho Thiên Chúa. Thầm hiểu ngụ ý của Hội Thánh khi cho trích đọc các bài Thánh Kinh trong Chúa nhật này, chúng ta cùng xét suy đôi điều qua cái tâm, cái lòng và cuộc sống của người góa bụa.

  1. Một mối tình thủy chung: Trước hết cần phân biệt người góa bụa với các bà mẹ độc thân. Hẳn nhiên có nhiều nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan hình thành tình trạng hay kiểu sống của những bà mẹ độc thân. Chúng ta không thể tiên thiên “đánh giá – xếp hạng” cho tình trạng sống này vì hình như mỗi hoàn cảnh đều mỗi vẻ khác nhau với nhiều nguyên nhân khác nhau. Thế nhưng phải nhìn nhận rằng đây là tình trạng “không bình thường” theo lẽ tự nhiên mặc dù đã từng có khi, có nơi trở thành một phong trào, một kiểu cách chọn lựa của nhiều phụ nữ thời hiện đại. Trái lại tình cảnh của người góa bụa dù là đàn ông hay đàn bà là chuyện thường tình của kiếp nhân sinh. Đã thề non hẹn biển trong duyên vợ chồng thì luôn mong được song hành cho đến khi đầu bạc răng long. Mong thì vẫn mong, nhưng được chết cùng ngày là điều thật hy hữu. Chuyện tái giá hay đi bước nữa khi người phối ngẫu đã qua đời là chuyện chẳng có gì sai trái, dù phía nữ giới có thể bị dị nghị cách nào đó, đặc biệt trong nhiều xã hội trước đây vốn đề cao đạo “tam tòng – tứ đức”. Dù xưa hay nay thì người ta vẫn trân trọng những mẫu đời “thờ chồng, nuôi con” hay tín trung với người bạn quá cố mà nguyện làm cảnh gà trống nuôi con. Chúng ta đừng quên đây là một trong những tiêu chí để chọn người vào hàng Giám Quản hay bậc trợ tá của Giáo Hội thời sơ khai (x.1Tim 3,1-13)

Thủy chung với người bạn đời đang còn sống quả là một nỗ lực bền bỉ không chỉ trong tình yêu mà cả trong sự tiết chế.

Chuyện “chả – nem” không riêng gì là chuyện của thời hôm nay mà đã có từ xưa, chỉ khác một điều là mức độ phổ biến, cho dù ai cũng thấy sự sai trái của nó và những hậu quả xấu xa mà nó di hại cho gia đình, cho con cái và cho cả xã hội. Chính vì thế, việc chung thủy với người bạn đời đã khuất càng được trân trọng gấp bội khi tự nguyện từ bỏ quyền lợi chính đáng của mình vì yêu thương và muốn tín trung trọn vẹn với chỉ một người.

  1. Một tình yêu trao hiến đến cùng: Các nhà tâm lý cũng như các nhà đạo đức vốn đồng thuận với nhau về khái niệm yêu thương là một quá trình trao ban và đón nhận nhau. Yêu thương cách đích thực là tự nguyện trao ban điều tốt, điều tốt nhất của mình cho người mình yêu cách vô điều kiện và không tính toán, đồng thời cũng sẵn sàng đón nhận người mình yêu với tất những gì người ấy “là và có” một cách quảng đại, không so đo. Người ta thấy rõ hai động thái này trong đời hôn nhân. Đức Bênêđíctô XVI đã gọi đó là Eros và Agapê, hai chiều kích của tình yêu này xem ra phản ánh Tình Yêu Thiên Chúa cách rõ nét nhất (TĐ Thiên Chúa là Tình Yêu số 2). Với thời gian, qua các hình thức “mại dâm thánh” cùng với sự ích kỷ hưởng thụ của con người theo sự cám dỗ thần dữ thì chiều kích Eros (đón nhận) đã bị biến dạng, tha hóa. Từ đó chiều kích trao hiến (Agapê) đóng vai trò chủ yếu trong việc biểu lộ tình yêu đích thực.

Với người góa bụa thì cái chiều kích đón nhận xem ra vẫn còn đó qua người con. Nhưng nó sẽ vơi dần theo thời gian khi đứa con đến lúc phải lìa cha mẹ mà luyến ái với người bạn đời (x.Mc 10,7). Cuộc đời của người góa bụa là một chuỗi trao ban, hiến dâng không ngơi nghỉ và ngày càng đến cùng. Chỉ còn chút bột và chút dầu để ăn bữa cuối cùng với đứa con, thế mà bà góa thành Xarépta đã không ngại ngần dâng trao cho ngôn sứ Êlia (x.1 V 17,7-16). Chúa Giêsu đã ngợi khen lòng quảng đại của một bà góa tại đền thờ Giêrusalem khi đã không ngại ngần dâng cúng vào Đền Thờ “tất cả những gì bà có, tất cả những gì để nuôi thân bà” (Mc 12,44; Lc 21,4).

  1. Một tâm hồn nghèo khó thực sự: Lời tung hô tin mừng trong Chúa Nhật này, Giáo Hội cho trích câu tin mừng của thánh Matthêu: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,3). Người góa bụa là một trong những người nghèo của Thiên Chúa, được Người ưu ái chăm sóc và bảo vệ. Xin đừng quên số người góa bụa trong các xã hội trước đây thì phụ nữ chiếm tuyệt đại đa số. Vì thế khi nói đến người góa bụa là người ta nghĩ ngay đến các bà góa. Một mình nuôi con mà bôn ba cuộc sống thì khó bì được với người ta vẹn đủa cả đôi, nhất là khi sinh kế thời bấy giờ dựa vào sức lao động của cơ bắp là chủ yếu. Do dó người ta không lạ gì khi hạn từ “góa” thường đi đôi với hạn từ “nghèo”. Những người góa bụa, cách riêng các phụ nữ góa chồng không chỉ nghèo về vật chất, của cải, bạc tiền mà họ còn nghèo khó cả về mặt tinh thần. Ngay cả trong thời kỳ gọi là hoàng kim của Giáo hội là thời Giáo hội sơ khai, khi mà những người trong tôn giáo mới này “không ai lấy sự gì làm của riêng, mọi sự đều là của chung” (x.Cvtđ 2,44; 4,32) thế mà các bà góa vẫn đã từng bị đối xử thiếu công bằng, bị bỏ quên (x.Cvtđ 6,1).

Hồng ân Nước Trời là một ân ban trọng đại và nhưng không của Thiên Chúa. Không một ai có thể tự mình chiếm hữu ân ban ấy dựa vào khả năng và công trạng của mình. Chúa Giêsu đã mặc nhiên nói đến chân lý này khi khẳng định rằng người giàu có khó vào Nước Trời, khó hơn cả con lạc đà chui qua lỗ kim. Những gì mà người giàu cho rằng có thể mua được bằng tiền bạc thì chắc chắn không phải là Nước Trời (x.Lc 18,24-27). Một tâm hồn nghèo khó thực sự thì sẽ có được sự tự do với các thực tại đời này để rồi biết gắn bó mật thiết với Thiên Chúa trong niềm tin. Và họ đã biết mở lòng để đón nhận Nước Trời như là ân ban.

Qua một vài nghĩ suy về “tình góa”, không gì hơn, chỉ thầm mong số phận những người góa bụa được xã hội cũng như Giáo hội quan tâm chăm sóc bằng sự trân trọng như những người nghèo của Thiên Chúa, những con người rực sáng trong tình yêu thủy chung, tình yêu dâng hiến đến cùng. Có thể nói không sợ sai lầm rằng cuộc đời của nhiều người góa bụa là một dẫn chứng cụ thể, giúp chúng ta biết thế nào là yêu, thế nào là tin.

 

34. Bà góa nghèo

(Suy niệm của Lm. Lêo M. Nguyễn Kim Lân, CRM)

Chuyên mục “những câu chuyện về cuộc sống” đăng ngày 25.10.2012, kể một câu chuyện về “Bà lão ăn mày và đứa bé”

Bà lão chống gậy, tay cầm mảnh gáo dừa đi xin của bố thí. Dừng chân trước một ngôi nhà. Tiếng chó sủa trong nhà ầm ĩ, khác thường. Một chú bé chừng năm tuổi đứng gần đó, trên tay cầm chiếc kẹo đứng nhìn bà chăm chú.

Có lẽ lần đầu gặp bà lão như thế? Hay vì nó không có bà, khiến nó nhìn bà chăm chú đến thế. Trong sân tiếng một phụ nữ vọng ra:

– Khổ lắm! Nhà này chẳng có gì đâu!

Lời nói ấy như một thông điệp quen thuộc, mà bà vẫn thường nghe. Tiếng chó thôi sủa, sự yên tĩnh trở lại nơi ngõ nhỏ. Bà lão lặng lẽ cầm mảnh gáo ra đi. Cái lưng còng trên thân bà, mảnh quần áo cũ rách, đôi tay gầy gò nhăn nheo, rạn nứt như chứa đựng bao buồn đau cuộc đời.

Thằng bé cứ ngơ ngác nhìn theo bà lão và cũng lặng lẽ theo bà ra đầu ngõ. Chợt nó chạy thật nhanh tới gần bà, nó đưa cho bà chiếc kẹo trên tay.

Bà lão ngơ ngác như chính khi thằng bé ào tới:

– Ôi! cảm ơn con. Tiếng bà lí nhí vì ngỡ ngàng, thằng bé chạy ào đi mất.

Hẳn nhiên là cuộc đời này còn nhiều trái tim như thế, cho những gì mình có, dù ít ỏi, đó hình ảnh của bài Tin Mừng hôm nay. Đức Giêsu ngồi đối diện với thùng tiền, các nhà chú giải nói, thùng đó gồm mười ba thùng nhỏ, dùng để đựng tiền dân cúng và mỗi thùng đều có ghi rõ mục đích quyên góp: “dâng cúng đền thờ, mua lễ vật, mua hương…” Đức Kitô nhìn thấy những người giầu có bỏ vào đó rất nhiều tiền, nhưng Ngài không có chút cảm động nào, dù hẳn nhiên họ không có gì sai trái. Rồi bỗng một bà góa nghèo bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm, là một phần tư xu. Ngài liền nói với các môn đệ: “Thầy nói thật với các con, trong những người bỏ tiền vào hòm, bà góa nghèo đã bỏ nhiều hơn hết” (Mc 12,43). Nhiều hơn hết không phải là số lượng tiền, nhưng nhiều hơn hết vì bà bỏ tất cả những gì bà có. Một đóng góp vô giá, sự đóng góp của tấm lòng, của hy sinh, hy sinh cả những gì mình có để sinh sống. Đức Giêsu có cái nhìn vượt trên của cải dâng cúng, nhìn thấu suốt tâm hồn như lời Ngài, “những người kia bỏ của mình dư thừa, bà này bỏ những gì mình có để nuôi sống mình” (Mc 12,44). Ngài đánh giá không phải số lượng được dâng cúng, mà là tỉ lệ tài sản mỗi người dâng cúng. Không phải tiền dâng cúng, mà là tấm lòng dâng cúng. Chúa thấu suốt tâm hồn bà. Sự hy sinh của bà nói lên việc bà dâng cúng với lòng tin mạnh mẽ, với sự hy sinh lớn lao và với sự tín thác vào Chúa về tương lai đời sống của mình.

Tin Mừng hôm nay mời gọi người kitô hữu nhìn lại tấm lòng mình đối với Chúa, và lối đánh giá của mình về người khác.

Có thể mỗi ngày chúng ta dâng Chúa một vài kinh nguyện, hay một ít thời gian thì đã nghĩ “là quá nhiều”, hết cả thời gian làm ăn.

Hay mỗi tuần chúng ta dành cho Chúa một thời gian đi tham dự thánh lễ, làm việc lành thì cho rằng đã quá hy sinh, vì mình nghèo và rất bận rộn.

Nếu chúng ta dâng cho Chúa một cách máy móc, hay tính toán chi ly thời gian thì có thể là chẳng cho Chúa bao nhiêu, hoặc rảnh rỗi mới nhớ đến Ngài thì cũng là cho Chúa “của dừ thừa”. Điều Ngài cần là tấm lòng yêu mến, sự hy sinh tự nguyện “Ta muốn lòng nhân từ chứ không muốn hy lễ”.

Nhìn lại lối đánh giá mình về người khác, khi chê bai khinh khi những người cùng khổ, hoặc thấy nhiều người hào phóng “chỉ cần thông báo trên nhà thờ, trên bảng thông tin”, đó mới là cho nhiều. Tất cả không hẳn như thế, vì đối với Chúa, bỏ nhiều là bỏ những gì mình có, bỏ với tấm lòng yêu mến hy sinh.

Lạy Chúa trong cuộc sống hằng ngày, mỗi lần chúng con dâng gì cho Chúa, mỗi lần giúp đỡ cho anh chị em mình. Xin cho chúng con biết dâng tặng với lòng hy sinh và yêu mến.

 

35. Tấm lòng người nghèo

(Suy niệm của Cố Lm. Hồng Phúc)

Phụng vụ hôm nay đề cập đến hạng người mà dư luận thương hại hay coi thường là các bà góa. Họ là những người giữa đường đứt gánh, một mình gánh vác giang sơn nhà chồng. Nhưng trong Giáo hội tiên khởi, họ được cộng đoàn săn sóc, có chỗ đứng (1Tm. 5, 9-16) và là những người nhân đức được trọng vọng.

Trong Cựu ước cũng có nhiều đoạn kêu gọi sự chú ý săn sóc đến người cô nhi góa phụ. Họ là hạng người nghèo khó hơn cả. Nhưng các bài đọc hôm nay nhắc đến họ dưới một phương diện khác: Họ là những người đạo đức, có đức tin, biết hy sinh cả những điều cần thiết và trở nên những người mẫu. Bà góa ở Sarepta (giữa Tyr và Sidon) là một gương sáng đức tin, biết đặt tất cả trông cậy vào Chúa và được Chúa thưởng công.

Bài Phúc Âm nói về đồng tiền của một bà góa dâng cúng. Nhưng cũng cho chúng ta thấy một khía cạnh khác, là sự chú ý của Chúa đến những sự kiện xảy ra xung quanh. Ngài đang ở trên sân đình đền thờ, ngồi trên cấp thang hình bán nguyệt dẫn vào sân nam giới và đưa mắt nhìn về phía trái, nơi có đặt 13 hòm cúng. Ngài chú ý đến bộ điệu khiêm tốn của một bà góa nghèo khổ, đến cả số tiền hèn mọn của bà dâng cúng: hai đồng tiền (một 1/4 xu). Ngài nhìn thấy nhất là tấm lòng của Bà. Nhưng không chú trọng đến cái vỏ bên ngoài mà đi thẳng vào thâm tâm. Người Pharisêu đọc kinh rào rào cho mọi người chú ý, người Biệt phải bỏ tiền lẻng kẻng vào hòm cúng cho mọi người nghe thấy. Ngài không lưu tâm đến những hạng ấy, nhưng Ngài khen ngợi bà góa khiêm tốn đang lẩn vào giữa đám đông.

Chúa liền gọi các môn đệ và bảo: “Bà góa nghèo khó này đã bỏ tiền vào hòm cúng nhiều hơn cả!” Chúa không nói về phương diện số tiền dâng cúng, mà thật ra cũng cần phải có một số lượng khá để lo việc phụng tự. Nhưng Chúa chú trọng đến tấm lòng của bà. Trong khi các người khác cho một phần của cải dư thừa thì “Bà cho cả những gì bà cần để nuôi sống.” Tình yêu không tính toán, tình yêu không mức độ. Bà ra đi, vui mừng hớn hở vì đã làm được một việc lành.

Câu chuyện bà góa gợi cho chúng ta vài suy niệm sau đây:

Một là các việc tầm thường có một giá trị phi thường, nếu chúng ta biết làm vì yêu mến Chúa. Đời chúng ta phần lớn gồm những việc nhỏ mọn, chúng ta phải biết thánh hoá, biết làm cách khác thường, làm vì yêu mến. Bà Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu ở Lisieux là một gương mẫu. Bà đã tìm ra một con đường nên thánh mà Đức Gioan-Phaolô II gọi là “Con đường dựa trên thực tại Phúc Âm”; “Con đường nên thánh của thời đại” (Piô XI). Con đường thơ ấu ấy gồm trong hai yếu tố căn bản: Nhìn nhận sự yếu đuối của mình và hoàn toàn trông cậy phó thác; làm mọi việc bé nhỏ, chịu đau khổ vì yêu mến Chúa.

Hai là việc bà góa bỏ ít tiền vào đền thờ, chúng ta đi lễ cũng bỏ ít nhiều giúp vào công việc nhà Chúa. Trong Cựu ước, Chúa dạy các chị họ Israel phải để ra thập phân để lo việc phụng tự (Lv. 27, 30-32). Trong Tân ước, Thánh Phaolô nói: Người lo việc Chúa có quyền sống nhờ bàn thờ. Tuy Giáo hội từ đầu đã bãi bỏ tục lệ thập phân, nhưng giáo dân đi dự lễ thường mang theo của lễ vật chất: có Thầy Phó tế để lo việc phân phát chia sẻ. Khi số người quá đông, tục lệ biến thành dâng cúng ít tiền. Giáo hội là một tổ chức hữu hình, cần có nơi thờ phượng, đồ thờ và người trách nhiệm.

Của dâng cho Chúa là “của đầu tư thiêng liêng”. Văn hào Louis Veuillot khi chết, có để lại một bao thơ dầy cộm với mấy giòng chữ ghi: “Tiền nhịn hút thuốc trong các mùa Chay để giúp các người nghèo” – “kho tàng của Giáo hội” (Thánh Laurenrô Phó tế).

 

36. Từ thiện

(Suy niệm của Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

Từ thiện là việc làm công đức. Người có lòng nhân ái thường hay bố thí, làm từ thiện và thi hành bác ái. Sống bác ái là sống yêu thương chia sẻ cả tình, nhân và nghĩa. Đức ái hay đức mến là một nhân đức cao đẹp của con người. Mỗi người được sinh ra đời trong một hoàn cảnh khác nhau. Trong cuộc sống có người giầu kẻ nghèo, người sang kẻ hèn và người thành kẻ bại. Đời người mong manh như hạt sương dễ tan. Không có ai sống mãi trên đời. Cuộc sống của chúng ta giống như những lượn sóng nhấp nhô trồi lên rồi hạ xuống. Không ai là một hòn đảo, chúng ta sống là sống cùng và sống với người khác. Mọi người cần nương tựa, cần hỗ tương nhau và sống nương nhờ nhau. Lòng từ thiện trở thành mối giây liên kết giữa người với muôn loài.

Câu truyện của tiên tri Êlia chạy trốn vào thành giữa cơn đói kém, ông đã gặp bà góa nghèo đang đi lượm củi và ông gọi bà ấy và nói: “Bà làm ơn đem bình lấy cho tôi chút nước để tôi uống.”(Cv 10, 10). Người đàn bà rất tử tế và có lòng bao dung: Bà ấy liền đi lấy nước. Ông gọi bà và nói: “Bà làm ơn lấy cho tôi miếng bánh nữa!” (Cv 17, 11). Tuy gia đình bà nghèo túng, bánh bột sắp cạn hết nhưng bà cũng sẵn sàng cung cấp bánh cho người xin ăn. Không phải ai cũng có thể cử xử tốt lành như bà. Nếu chúng ta ở trong trường hợp này, có lẽ chúng ta đã chần chừ và có khi chối quanh. Tự nghĩ rằng gia đình con cái của tôi còn chưa đủ ăn, làm sao có thể giúp cho người khác. Thế là chúng ta đóng kín cửa tâm hồn trước nhu cầu cần thiếu của tha nhân. Bà góa có thái độ rộng lượng và quảng đại, nên lòng từ của bà đã sinh trổ hoa trái: Hũ bột đã không vơi, vò dầu đã chẳng cạn, đúng như lời Chúa đã dùng ông Êlia mà phán. Hồi sinh đứa con của bà goá (Cv 17, 16).

Chúng ta có cơ hội suy nghĩ về việc bác ái và lòng từ của mình. Ai trong chúng ta cũng lãnh nhận rất nhiều ơn. Ơn cha nghĩa mẹ qua công sinh thành dưỡng dục, ơn thầy cô đã truyền thụ kiến thức văn hóa và nghề nghiệp. Ơn sống trong quốc gia có an bình trật tự và xã hội tiện nghi. Ơn làm con Chúa được sống trong một Hội Thánh Công Giáo. Các ơn huệ liên đới trùng trùng điệp điệp trong một kiếp người. Chúng ta đã chịu ơn của biết bao nhiêu người qua bao nhiêu thế hệ. Chúng ta đã nhận lãnh nhiều, nên cũng cần phải chia sẻ. Vì cho thì quí hơn nhận. Ai trong chúng ta cũng có cơ hội để cống hiến cho đời những hoa trái của khả năng, thời giờ và của cải. Biết rằng bất cứ ai gieo hạt, trồng cây thì cũng mong cây sinh hoa kết trái. Cha mẹ sinh con vào đời cũng mong con cái thành đạt và sinh ích cho gia đình, xã hội.

Trong bài phúc âm, kể câu truyện Chúa Giêsu đến giảng dạy trong hội đường. Chúa quan sát những hành vi cử chỉ của những thầy Luật sĩ, Biệt phái, Tư tế và mọi người đến cầu kinh. Chúa đã rút ra những bài học thực tiễn để áp dụng cuộc sống đạo. Con người chúng ta thường đánh giá con người và sự việc theo hình thức dáng vẻ bề ngoài, hơn là quan tâm đến nội tâm. Chúa Giêsu dẫn mọi người đi vào tâm ý của mình và vạch ra cách thế tế nhị, Ngài nói rằng: Cũng có một bà goá nghèo đến bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng xu Rôma (Mc 12, 42). Hai đồng tiền kẽm chẳng có là bao so với khối tiền trong thùng dâng cúng. Số lượng qúa nhỏ để nêu danh và ghi công. Chúa Giêsu đã nhìn tận đáy tâm hồn chân chính của người đàn bà góa và Đức Giêsu liền gọi các môn đệ lại và nói: “Thầy bảo thật anh em: bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết (Mc 12, 43).

Với chút ít tiền cúng nhưng đó là số tiền bà đang cần. Bà đã bỏ vào thùng tất cả những gì bà có. Bà không lo lắng cho ngày mai sẽ ăn gì, uống gì và mặc gì. Có nghĩa là bà đã phó thác hoàn toàn trong bàn tay Chúa quan phòng. Bà đã buông xả tất cả cái đang có, bán nghèo mua giầu. Chúa Giêsu đã khen bà: Quả vậy, mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi sống mình.(Mc 12, 44). Không sai, Chúa Giêsu nhắm trúng vào tim đen của mọi người. Nghe thế, có lẽ ai trong chúng ta cũng giật mình. Có rất nhiều lần chúng ta đã làm từ thiện, bác ái và bố thí. Nhiều việc từ thiện của chúng ta đã được ghi công bảng vàng. Chúng ta làm việc bác ái nhưng lại đòi hỏi nhiều điều kiện. Nói thật, so với những gì chúng ta đang sở hữu, tất cả việc từ thiện và bố thí của chúng ta mới chỉ là một góc nhỏ. Biết rằng đồng tiền nào cũng do công lao mồ hôi nước mắt kiếm tìm nên rất quí. Đôi khi tính toán rằng chúng ta có nhiều tiền nhưng chưa đủ, làm sao có dư. Đợi khi nào chúng ta có dư đủ, sẽ giúp người.

Phước báo cuộc đời hệ tại ở việc biết dâng hiến và chia sẻ. Càng cho đi nhiều, chúng ta càng nhận thêm nhiều. Cái tâm từ bi được cởi mở và phát khởi sự tốt lành nơi chính nội tâm. Chúng ta đừng quá quan tâm vào món quà bố thí sẽ đi về đâu. Thường thì ai cũng muốn đồng tiền cho đi được xử dụng đúng chỗ, đến đúng người và dùng đúng mục đích. Đôi khi chúng ta sẽ không hài lòng và không vui khi qùa biếu bị lạc hướng. Số qùa tặng có đến tận tay của người nghèo hay không, còn tùy thuộc qua nhiều trung gian. Cho đi nhiều hay ít thì không quan trọng bằng tâm thiện mở rộng. Điều quan trọng là tâm ý của chúng ta được an lạc vì đã làm một việc thiện. Một việc từ thiện dù nhỏ, chớ khinh. Việc thiện dù nhỏ, không nên bỏ. Làm từ thiện, bác ái và bố thí là chúng ta đang bỏ vào kho tiết kiệm phúc báo của chính mình.

Tác giả của thơ gởi tín hữu Do-thái viết: Phận con người là phải chết một lần, rồi sau đó chịu phán xét (Dt 9, 27). Mỗi người chỉ có một đời để sống. Sống dài hay sống ngắn không quan trọng cho bằng sống có ý nghĩa. Sống ý nghĩa nhất là sự hiến thân và cho đi. Cho đi như Chúa Giêsu Kitô. Ngài đã hiến dâng thân mình làm hy tế trọn vẹn để tẩy xóa tội lỗi nhân loại. Ngài đã dâng hiến tất cả đến giọt máu cuối cùng. Không phải máu chiên bò hay của cải thế thân, mà chính là sự sống con người toàn vẹn: Cũng vậy, Đức Kitô đã tự hiến tế chỉ một lần, để xoá bỏ tội lỗi muôn người. Người sẽ xuất hiện lần thứ hai, nhưng lần này không phải để xoá bỏ tội lỗi, mà để cứu độ những ai trông đợi Người (Dt 9, 28). Chúa đã thể hiện một tình yêu cao vời tuyệt đỉnh và vô điều kiện là cho tất cả.

Chúng ta được mời gọi thực thi bác ái trong việc hành đạo. Dù là một việc nhỏ giúp người, chúng ta sẽ không mất phần thưởng. Vào ngày phán xét sau cùng, Chúa Giêsu đáp nghĩa: Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han.” (Mt 25, 35-36). Chúa kể rằng tất cả những gì chúng ta đã làm cho những người nghèo, kẻ bé mọn và người khổ đau là chúng ta đang làm cho chính Chúa. Vậy mà đôi khi chúng ta quá lo lắng cho bản thân và gia đình riêng tư mà quên đi nghĩa vụ phải có đối với tha nhân, giáo hội và xã hội. Chúng ta sợ mất thời giờ phục vụ công ích. Chúng ta ngại ngùng tham gia phục vụ trong các đoàn thể của cộng đoàn và giáo xứ. Chúng ta không dám xả thân giúp đỡ vì sợ phải hy sinh, liên lụy, tốn kém, mất mát và thua lỗ. Nhiều khi chúng ta chỉ muốn thu gom cho cuộc sống mình vì sự ích kỷ hẹp hòi. Chúng ta chỉ thích làm tính cộng mà không muốn làm tính trừ.

Lạy Chúa, tất cả chúng con đang được ngụp lặn trong ân tình của Chúa và tha nhân. Xin cho chúng con biết rộng lòng chia sẻ cuộc đời với anh chị em chung quanh. Bất cứ điều gì chúng con đã lãnh nhận một cách nhưng không, xin cho chúng con cũng biết cho đi cách nhưng không.

37. Ý nghĩa dâng hiến

(Suy niệm của Lm. Phạm Quốc Hưng)

Trong Tin Mừng Chúa Nhật tuần trước, Chúa Giêsu đã dạy chúng ta giới luật trọng nhất là luật mến Chúa yêu người. Vì Chúa là Đức Chúa duy nhất, là Đấng tốt lành và đáng yêu mến vô cùng, là Đấng tạo thành, cứu chuộc và thánh hóa chúng ta, nên chúng ta phải yêu mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực; và vì Chúa, chúng ta phải yêu mến tha nhân như chính mình. Như một thi sĩ đã định nghĩa: “Tình yêu là một đóa hoa, sắc là dâng hiến hương là hy sinh”. Tình yêu nào cũng đòi hỏi hy sinh và dâng hiến. Tình yêu chúng ta dành cho Thiên Chúa cũng vậy.

Trong Tin Mừng hôm nay, khi quan sát người ta bỏ tiền dâng cúng vào Đền Thờ, Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy bà góa dâng cúng hai đồng tiền nhỏ, có lẽ là số tiền nhỏ nhất trong số những người dâng cúng, như mẫu gương của một người thực sự yêu mến Thiên Chúa qua việc dâng hiến trọn hảo nhất. Chúa nói: “Thầy bảo thật các con: Trong những người đã bỏ tiền vào hòm, bà góa nghèo này đã bỏ nhiều hơn hết. Vì tất cả những người kia bỏ của mình dư thừa, còn bà này đang túng thiếu, đã bỏ tất cả những gì mình đang có để nuôi sống mình” (Mc 12:)

Ở đây, Chúa Giêsu đã dạy chúng ta một bài học thật quý giá về tình yêu. Đó là bài học về ý nghĩa của việc dâng hiến, một đòi hỏi tất yếu trong tình yêu như người Mỹ thường nói: “Bạn có thể cho mà không thương, nhưng bạn không thể thương mà không cho”.

Điều trước hết, chúng ta phải dâng cúng hay làm việc bác ái từ những gì của chính mình có được cách chính đáng, không phải của người khác. Thật vậy, bà goá nghèo trong Tin Mừng hôm nay dâng cúng tuy chỉ có hai đồng tiền nhỏ. Số tiền tuy rất nhỏ bé, nhưng là của chính bà, không phải bà lấy của người khác mà cho. Nhiều người thích làm việc từ thiện, thích kêu gọi người nọ người kia đóng góp cho các công việc từ thiện, kể cả lập hội từ thiện nữa, nhưng lại vẫn sống trưởng giả và không bỏ của mình ra mà vẫn được tiếng là người bác ái. Đúng là “của người phúc ta”! Tệ hơn, có người dâng cúng làm việc bác ái bằng những của cải kiếm được cách bất chính như bóc lột người làm công, gian lận trong công việc làm ăn, buôn bán ma tuý. Tốt hơn, họ phải lo thay đổi lối sống của họ và đền bù lại sự bất công của họ trước! Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận dí dỏm căn dặn chúng ta: “Hy sinh chính con, đừng hy sinh kẻ khác” (Đường Hy Vọng # 158).

Điều kế đến, việc dâng hiến của chúng ta phải phát xuất từ lòng mến thực sự đối với Chúa và tha nhân, bất chấp dư luận người đời. Bà goá nghèo trong Tin Mừng hôm nay đơn sơ dâng hiến hai đồng tiền nhỏ mà không sợ người ta chê cười vì số tiền nhỏ bé của bà. Bà làm với lòng tin yêu chân thành của mình, vì bà biết rằng Thiên Chúa thấu suốt mọi sự và thấu hiểu lòng bà. Thật vậy, Thiên Chúa không nhìn lễ vật hay công việc bề ngoài mà nhìn đến ý hướng bên trong. Thiên Chúa chỉ muốn tấm lòng chứa đầy tình yêu: “Ta muốn lòng nhân chứ không cần của lễ” (Mt 9:13). Đó là lý do tại sao Thánh Phaolô tuyên bố: “Giả như tôi có đem hết gia tài sản nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1Cor 13:3). Và tác giả sách Gương Chúa Giêsu xác quyết: “Không có bác ái, công việc bên ngoài là việc chết.

Nhưng một công việc dầu nhỏ bé, dầu tầm thường mấy mà làm vì một nguyên do bác ái, lại lợi hết chỗ nói. Vì Chúa không xét việc ta làm bằng xét lý do xui ta làm. Bác ái nhiều là làm nhiều rồi đấy” (Q. I, Ch. 15). Và tình yêu đích thực thì không giới hạn, nên sự quảng đại phải là đặc nét của việc dâng hiến.

Cuối cùng, việc dâng hiến của chúng ta, vì là việc của yêu thương, phải có dấu ấn thập giá, có dấu ấn của việc tự hiến, nghĩa là của lễ chúng ta dâng phải chứa đựng chính mình qua chiều kích hy sinh, mất mát, hay từ bỏ nơi chính mình. Tác giả sách Gương Chúa Giêsu thác lời Chúa Giêsu về việc hiến dâng như sau: “Cha có đòi con cái gì khác, ngoài việc con phải tự hiến cho Cha đâu? Dầu con dâng gì, nếu cái đó không phải là chính thân con, Cha cũng không kể. Vì Cha không đòi gì khác một đòi bản thân con kia!” (Q. III, Ch # 8). Đây chính là định nghĩa tình yêu của Mẹ Têrêsa Calcutta: “Yêu thương là trao ban cho đến đau đớn.” Hai đồng tiền nhỏ của bà góa nghèo trong Tin Mừng hôm nay được Chúa Giêsu đánh giá là to lớn nhất vì nó là tất cả những gì bà có để nuôi sống chính bà!

Vì vậy, người ta thường nói người giàu trao tặng những gì họ có, còn người nghèo trao tặng những gì họ là. Việc dâng cúng tiền của có giá trị không những vì góp phần trợ giúp Hội Thánh hay người túng nghèo, mà nó còn bao gồm sự hy sinh nơi chính người dâng cúng, vì “đồng tiền liền khúc ruột”. Chính trong chiều kích thập giá này, việc dâng hiến của chúng ta dâng lên Thiên Chúa không chỉ giới hạn ở việc dâng cúng tiền của, nhưng còn bao gồm cả việc dùng thời giờ để thờ lạy Chúa hay phục vụ tha nhân, việc hy sinh hãm mình, việc vui lòng đón nhận và thánh hóa mọi đau khổ, trái ý, bệnh tật trong cuộc sống hàng ngày.

Việc dâng hiến của bà góa nghèo trong Tin Mừng hôm nay được Chúa Giêsu ghi nhận và khen ngợi vì nó có nét quảng đại được thể hiện nơi chính Thiên Chúa và nơi chính Chúa Giêsu. Thực vậy, “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3:16). Thánh Phaolô nhận định: “Quả thật, anh em biết Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, đã có lòng quảng đại như thế nào: Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có” (2Cor 8:9). Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận diễn tả việc thực hành đức quảng đại qua một câu ngắn gọn: “Chúa đòi gì con cũng dâng, Chúa cho ban gì con cũng nhận”.

Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ dạy chúng con biết yêu mến Chúa như Mẹ đã yêu mến Chúa, biết quảng đại như Mẹ đã quảng đại khi dâng hiến Chúa Giêsu trong Đền Thờ cho Đức Chúa Cha và trên thập giá để cứu chuộc chúng con. Amen.

 

38. Chúa Nhật 32 Thường Niên

(Suy niệm của Lm. Nguyễn Thái)

“Đức Giêsu ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho đền thờ… Có một bà góa nghèo, đến bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm.” (Mc. 12,38-44)

Con người khác với các loài vật nhờ có lý trí và ý chí. Trong hoàn cảnh đói khát chỉ có con người mới có thể làm chủ được bản năng sinh tồn của mình để hy sinh phần lương thực cho người khác. Jack Kelly, biên tập viên hải ngoại của báo USA Today, đã tường thuật câu chuyện thật đầy xúc động xảy ra trong cuộc chiến tranh ở miền Đông Phi Châu như sau:

“Chúng tôi đang ở Mogadishu, thủ đô nước Somalia, trong suốt thời gian nạn đói. Hôm đó thật không may khi chúng tôi bước vào một ngôi làng mà mọi người đã chết sạch cả. Chúng tôi đã phát hiện ra thằng nhỏ này còn sống. Bạn có thể hình dung ra hình dáng gầy ốm tong teo của nó vì suy dinh dưỡng và cái bụng ỏng đầy giun sán. Khi một đưa nhỏ bị suy dinh dưỡng đến cực điểm thì tóc của nó trở nên dỏ hoe, và da giẻ trở nên nhăn nheo giống như một ông già 100 tuổi. Người nhiếp ảnh của chúng tôi có mang theo một trái bưởi bèn đưa cho em. Tội nghiệp thằng bé, nó quá yếu ớt tới độ không còn đủ sức lực để nắm giữ lấy quả bưởi nữa. Do đó chúng tôi phải cắt ra làm hai cho nó. Thằng bé đưa hai tay đón nhận, nhìn lại chúng tôi như thể muốn nói lời cám ơn, rồi bắt đầu bước đi trở lại ngôi làng của nó.

Chúng tôi bước đằng sau thằng bé để nó không thể nhìn thấy chúng tôi. Khi nó về đến làng, có một thằng bé nhỏ hơn nó đang nằm dưới đất mà chúng tôi nghĩ nó đã chết rồi. Đoi mắt của nó đã hoàn toàn trở nên đờ đẫn và mất sinh khí. Hóa ra đó là em nó.Về đến nơi, thằng anh quỳ xuống bên cạnh đứa em, móc từng miếng bưởi đưa lên miệng nhai tóp tép, rồi lấy tay mở miệng em nó ra, đặt miếng bưởi vào, dùng tay đẩy nhẹ cái cằm của em nó nhai lên nhai xuống. Về sau, chúng tôi biết được thằng anh đã làm như thế cho em nó khoảng hai tuần. Vài ngày sau đó, thằng anh đã chết vì quá suy dinh dưỡng, nhưng đứa em lại sống sót. Trên đường lái xe trở về nhà đêm hôm đó, tôi tự nghĩ, đây chính là điều mà chúa Giêsu muốn ám chỉ khi Ngài nói rằng không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hy sinh mạng sống mình cho người mình yêu.”

Các bài đọc trong thánh lễ hôm nay nói đến sự hy sinh cao cả vì lòng yêu mến Thiên Chúa và tình thần chia sẻ rộng rãi của hai bà quả phụ:

Bà quả phụ trong bài đọc thứ nhất, trích từ sách các vua quyển thứ nhất 17:10-16, đã nhận được một phép lạ từ tiên tri Êlia ban nhân danh Thiên Chúa, vì đã can đảm chia sẻ cho tiên tri chiếc bánh cuối cùng, nguồn sống còn lai sau cùng của bà và con trai. Với lòng bác ái thương người, bà đã làm theo như lời tiên tri Êlia dạy bảo, và đấu bột cuối cùng đã không vơi cạn đi cho đến vụ mùa tới.

Bà góa nghèo trong phúc âm, Mc 12:38-44, đã sẵn sàng cho đi tất cả những gì bà có để dâng cúng vào đền thờ. Mặc dù đó chỉ là hai đồng tiền kẽm, nhưng lại là toàn bộ gia sản của bà. Bà không dâng cúng của dự thừa cho đền thờ, mà là tất cả gia sản bà có. Một sự hy sinh lớn lao như lời Chúa Giêsu đã nhận xét: “Quả vậy, mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để sống” (Mc 12:44).

Cuộc nghiên cứu do Patrick Carney thực hiện trong Tổng Giáo Phận New York cho thấy tỉ lệ dâng cúng, đóng góp cao nhất trong toàn địa phận là do những người Mỹ da đen sinh sống trong vùng Central Harlem của thành phố New York. Hầu hết những người da trắng (được gọi là Caucasians) đã có lợi tức cao hơn đa số những người da đen. Những người Mỹ da đen gốc Phi Châu này đã có những điểm chung gần giống với người đàn bà góa trong bài Phúc Âm hôm nay.

Thống kê gần đây cho thấy những người Công Giáo Mỹ đã dâng cúng 1.3% lợi tức hằng năm của họ cho nhà thờ và những cơ quan từ thiện. Trong khi đó những người Tin Lành, rộng lượng hơn, đã đóng góp 2.4% lợi tức và người Do Thái đã đóng góp cao nhất cho cộng đồng của họ với tỉ số 3.8%.

Từ sự đóng góp hai đồng tiền kẽm của bà góa nghèo, William Barclay đã rút ra những bài học tinh thần về sự hy sinh qua của dâng cúng vào đền thờ như sau:

  1. “Của dâng cúng, hay sự hiến dâng thực sự phải là của lễ hy sinh. Đối với người cho, giá trị tiền bạc của món quà không thành vấn đề. Điều đáng kể không phải là món quà to hay nhỏ, nhưng là sự hy sinh. Một câu hỏi đặt ra cho nhiều người là sự hiến dâng của chúng ta cho công việc của Thiên Chúa có bao gồm một chút hy sinh nào không. Rất ít người dám hy sinh thêm cho công việc của Thiên Chúa nếu họ không có sự khoái cảm. Đây có thể là dấu hiệu suy thoái của giáo hội và là một thất bại của Kitô giáo khi những của dâng cúng của giáo dân phải được khắc ghi trên bảng vàng, bảng khen. Thói thường họ sẽ không cho hay dâng cúng trừ phi họ lấy lại được một cái gì đó, giải trí hay hiện vật. Có thể có một số người đọc câu chuyện này mà không biết xấu hổ.”
  2. “Của dâng cúng, cho đi thực sự phải là một điều không quản ngại, e dè, đắn đo. Bà góa có thể giữ lại một xu. Nó không đáng là bao nhưng nó cũng là một cái gì đó. Tuy nhiên, bà đã cho tất cả những gì bà có. Điều này mang một ý nghĩa thật sâu xa. Điều đáng buồn là chúng ta thường giữ lại một phần nào đó của cuộc sống, một phần hoạt động nào đó, một phần nào đó thuộc con người riêng tư của mình mà không dâng hiến ban tặng cho Chúa Kitô. Không nhiều thì ít, chúng ta còn muốn giữ lại một cái gì. Họa hiếm lắm chúng ta mới dám hy sinh đến cùng và cho đi hoàn toàn.”
  3. “Điều lạ lùng và đáng yêu là con người mà Tân Ước và Chúa Giêsu đưa ra như là một mẫu mực của lòng quảng đlai lại là một con người khiêm tốn, đã dâng cúng một món quà chẳng là gì. Có lẽ chúng ta cũng cảm thấy rằng chúng ta chẳng có gì nhiều về vật chất hay sự đóng góp cá nhân để dâng hiến, ban tặng cho Chúa Kitô, nhưng nếu chúng ta đặt tất cả những gì chúng ta có và trao toàn quyền cho Ngài. Ngài có thể làm nên những sự việc vượt ra ngoài trí tưởng tượng của chúng ta.”

Không phải số lượng cho đi nhiều hay ít sẽ làm đẹp lòng Thiên Chúa, nhưng là cách chúng ta cho Ngài (2Cr 8:9-12). Cách tốt nhất để cho, là cho từ trái tim. Sự quảng đại thực sự của đôi bàn tay biết cho di phát xuất từ tấm lòng khiêm nhường và phục vụ chân tình. Thiếu sự chân thành của trái tim làm cho đôi tay mở rộng dễ trở nên khoe khoang như Chúa Giêsu đã nhận xét: “Có lắm người giầu bỏ thật nhiều tiền.” (12:41).

Bằng những hành động cụ thể, chính Chúa Giêsu đã cho chúng ta một gương mẫu để theo Ngài. Ngài đã hy sinh chính bản thân như một sự hiến dâng, một lần cho tất cả, bằng việc cho đi chính thịt và máu Ngài để cứu toàn thể nhân loại. Vì tình yêu thương vô bờ bến mà Ngài đã cho đi tất cả. Đó là sứ điệp Thánh Phaolô gửi cho chúng ta trong bài đọc thứ hai: “Đức Kitô chỉ tế lễ chính mình một lần để hủy diệt nhiều tội lỗi.” (Dt 9:24-28).

Theo gương Chúa Giêsu, trong vai trò mục tử của mình, ĐGH Gioan Phao lô II đã kêu gọi chúng ta: “Chưa bao giờ trái đất có nhiều sản phẩm như ngày nay, nhưng cũng chưa bao giờ có nhiều người đói khổ như bây giờ. Kết quả của sự phát triển vẫn tiếp tục được phân phát không công bằng. Thêm vào đó sự cách biệt càng ngày càng tăng giữa Bắc và Nam. Tôi muốn xin các người thiện tâm lưu ý đến vấn đề này: “Nỗi khốn cùng là một đe dọa, còn tiềm tang nhưng có thực, cho hòa bình”…

Jean Jacques Rousseau cũng đã khuyên chúng ta: “Khi một người chết đi, trong những bàn tay nắm lại, sẽ mang theo những cái mà người ấy đã cho đi.” Vì cảm giác không an toàn, con người thường muốn giữ lại cho mình của cải vật chất hơn là muốn chia sẻ phân phát cho người khác.

Hôm nay chúng ta cầu xin Chúa Thánh Thần mở rộng tâm hồn chúng ta trước khi tự mình mở đôi bàn tay ra để chia sẻ với tha nhân thay vì cứ muốn nắm chặt lại cho mình. Xin Chúa thánh hóa của lễ chúng ta dâng lên Chúa và sự chia sẻ của chúng ta đôi với các anh chị em trở nên của lễ hy sinh đẹp lòng Ngài.

 

39. Tấm lòng quảng đại

Câu chuyện về hai bà goá được nhắc đến trong các bài đọc hôm nay cho chúng ta hiểu thế nào về lòng quảng đại của con người. Quảng đại là dám cho đi: cho đi những gì mình đang rất cần đến; cho đi những gì mình đang quý đang yêu…

Chúa Giêsu đã từng dạy các tông đồ: “cho thì có phúc hơn là nhận”. Nói đến việc cho đi thì ta phải nghĩ đến “của cho” và “cách cho”. “Của cho” xét cho cùng không quan trọng bằng “cách cho”. Cho thế nào để nói lên tấm lòng chân thành của mình và nhất là làm cho người nhận cảm thấy vui lòng. Đặc biệt đối với Chúa, tấm lòng chân thành dâng hiến luôn được Chúa coi trọng: “Ta muốn lòng nhân chứ không phải hy lễ”.

Gần đây báo chí có đăng tin có một anh chàng Việt Kiều đại gia nào đó thích “chơi nổi”. Anh ta đừng trên lầu 1 của một khách sạn sang trọng, cầm trong tay một xấp tiền đủ loại mệnh giá, ngoắc tay gọi những người ăn xin, bán vé số lại, rồi tung xấp tiền ấy lên không cho tiền bay tung toé để những người dân nghèo chen chút nhau lụm tiền giữa tiếng kêu la và chen lấn nhau. Và anh ta cảm thấy vui với cách cho tiền của mình như thế. Nhưng những người có lương tri thì cảm thấy ái ngại và xót xa trước việc làm ngông nghênh của kẻ giàu có này, và nhất là Chúa sẽ buồn lắm khi thấy con người hành động theo kiểu “bất nhân” như thế. Cho như thế chắc không đẹp lòng Chúa chút nào!

Cách cho là quan trọng. Tấm lòng là quan trọng. “Ai vui vẻ dâng hiến sẽ được Chúa nhận lời”. Bà goá ở Xarepta được nhắc đến trong bài đọc 1 hôm nay có vẻ miễn cưỡng, ngập ngừng và lúng túng trước khi cho, vì hoàn cảnh khốn khổ làm cho bà khó giải quyết vấn đề. Nhưng rồi cuối cùng bà cũng dám cho đi cái bà đang rất cần với tấm lòng tin tưởng phó thác và đầy tôn trọng đối với người xin bà. Còn bà goá nghèo được Tin mừng nhắc đến hôm nay có một thái độ rất anh hùng. Chúa Giêsu đã đề cao bà, coi bà như một kiểu mẫu của việc cho đi cách chân thành và không tính toán. Chúa Giêsu muốn các tông đồ nhìn vào đó đẻ học hỏi. Bà goá nghèo ấy đã dám bỏ vào thùng tiền dâng cúng “tất cả những gì bà có để nuôi sống bà”, dù số tiền ấy chẳng đáng vào đâu (1/4 xu). Đó là thái độ chân thành và rất anh hùng của người có tấm lòng quảng đại. Chúa Giêsu đã nhìn thấy tấm lòng của bà đối với công việc nhà Chúa mà bà thấy mình phải có trách nhiệm đóng góp vào đó. Cách cho đi của hai bà goá được Kinh thánh nhắc đến hôm nay thật đẹp, thật cao quí.; rất đáng đề cao và rất đáng cho chúng ta học hỏi.

Cho đi cách thật lòng chính là cách khôn ngoan nhất và chắc chắn nhất để ta giữ lại những gì mình có ở trần gian này. Thánh Phanxicô Assisi nói rằng: “chính lúc cho đi là khi được nhận lấy; chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân”. Đây không phải là chuyện nghịch lý nhưng là chuyện siêu lý của những người hiểu biết và khôn ngoan trước mặt Thiên Chúa.

Có chuyện kể rằng: có một ông nhà giàu nọ căn dặn người nhà của ông bỏ vào quan tài thật nhiều vàng bạc để khi ông chết đi, ông sẽ có cái mà tiêu xài. Rồi ngày chết của ông cũng đến. Người ta làm đúng theo những gì ông căn dặn. Sang thế giới bên kia, ông nhìn thấy cái gì đựơc bày bán cũng hấp dẫn, nhất là các món ăn. Ông nghĩ rằng phen này tha hồ mà mua sắm và ăn uống thoả thích. Nhưng lạ thay, những người bán ở đây trả lời với ông rằng: tiền của ông ở đây không sử dụng được vì ở đây chỉ sử dụng đồng tiền cho đi chứ không xài tiền thu vào!

Chúng ta đang có đồng tiền loại nào? Chúng ta có dự định sẽ làm gì để có đồng tiền cho đi. Có một nhà tu đức đã nhắc nhở chúng ta rằng:

Những gì chúng ta tiêu xài sẽ tiêu tán mất,

Những gì chúng ta mua sắm thì người khác sẽ dùng,

Những gì chúng ta tích luỹ rồi sẽ phải để lại cho người khác,

Chỉ có những gì chúng ta cho đi là tồn tại mãi.

Thiên Chúa thấu suốt tâm hồn và tấm lòng của mỗi người chúng ta. Chúa đang xem cách thức chúng ta hành động trong việc cho đi: chúng ta có cho đi những thứ mình đang cần không? Chúng ta có dám cho đi những thứ mình đang yêu thích để chia sẻ cho anh chị em của mình chưa? Hay chúng ta chỉ cho đi những cái dư thừa, những cái bỏ đi vì không ai xài tới…? chúng ta có thấy trách nhiệm của mình phải đóng góp vào việc chung vủa Giáo hội không hay chúng ta chỉ là những người đứng ngoài lề, chỉ chờ Giáo hội ban phát cho mình thôi! Chúng ta hãy nhìn lại và tự kiểm điểm của cho, cách cho và trách nhiệm của mình trong thời gian qua như thế nào?!

Ước gì chúng ta hiểu được rằng: cho đi là một hạnh phúc, biết cho đi sẽ làm cho hạnh phúc của mình được nhân lên và tồn tại mãi. Hơn nữa, món quà cho đi sẽ trở nên vĩ đại ở nơi một người có trái tim quảng đại. Hãy học nơi Chúa tấm lòng quảng đại để chúng ta biết cách cho đi đẹp lòng Thiên Chúa. Xin Chúa giúp cho chúng ta hiểu rõ giá trị của những việc làm hy sinh và cho đi với con tim rộng mở và tấm lòng quảng đại theo gương Chúa. Hãy quảng đại đối với Chúa và mọi người để được hưởng tấm lòng quảng đại của Chúa dành cho chúng ta. Amen.

 

40. Chúa Nhật 32 Thường Niên

(Suy niệm của Lm. Ignatiô M. Hải Dương, CRM)

“Bà goá nghèo dâng tất cả những gì bà có” (Mc 12:38-44)

Phụng vụ Chúa Nhật hôm nay trình bày cho chúng ta hai mẫu gương của hai người đàn bà góa, những người mà trong Thánh Kinh kể là những người nghèo nhất trong những người nghèo. Họ được xếp vào những thành phần yếu ớt, không có tiếng nói trong xã hội bên cạnh những trẻ em bé bỏng.

Bà góa trong bài đọc thứ nhất từ sách Các Vua không phải là người Do Thái. Bà có một người con trai. Hai mẹ con sống trong thời kỳ hạn hán, cầm hơi với chút bột và dầu ô liu trong nhà để rồi sau đó hai mẹ con sẽ chết đói. Nhưng với lòng quảng đại , bà đã làm một chiếc bánh cho vị tiên tri của Thiên Chúa, rồi mới làm bánh cho bà và con bà. Và vì sự rộng lượng đó, hũ bột đã không với đi và bình dầu không cạn cho tới ngày Chúa cho mưa xuống. Và như vậy, khi chia sẻ phần lương thực cuối cùng của bà cho tiên tri Êlia, bà không mất gì mà còn được cho thêm rất nhiều. Bà là mẫu người đại diện cho những người nghèo khó, nhưng đã biết đặt trót niềm tin vào Thiên Chúa.

Trong Phúc Âm Thánh Marcô chúng ta đọc trong Thánh Lễ hôm nay, Chúa Kitô đã khen ngợi một bà góa dâng cúng vào đền thờ một số tiền rất nhỏ. Ngài khen bà, vì bà đã dâng cúng vào đền thờ tất cả những gì bà có. Chúa Kitô đã không nhìn tới số lượng, nhưng nhìn tới tấm lòng. Sự rộng lượng của bà góa dẫn đưa bà tới sự tin tưởng vào Chúa. Và trong con mắt người khác, số tiền bà dâng cúng vào đền thờ thật nhỏ nhoi, nhưng trong con mắt của Chúa Kitô nó lại là lớn nhất, vì “Những người khác dâng những gì là dư thừa, còn bà dâng hết những gì bà có”.

Câu truyện Phúc âm đã làm nổi bật việc Chúa Kitô tố giác những thái độ kiêu căng, phô trương của các kinh sư trong cộng đoàn Do Thái thời bất giờ, đã tạo nên một hình ảnh đẹp qua gương lành của một bà goá. Lòng quảng đlai và nhiệt thành của bà đã là một sự tương phản gay gắt với sự giả hình, nếu không muốn nói là giả dối của các kinh sư. Bà goá nghèo trong Tin Mừng này đã không nghĩ tới sự an toàn nhỏ nhoi nào, nhưng phó thác trọn vẹn cho Thiên Chúa. Thực vậy, lòng quảng đại của bà goá xuất phát từ sự tín thác trọn vẹn cuộc sống củya mình vào sự quan phòng của Thiên Chúa: “Tiên và hãy tìm Nước Thiên Chúa trước, rồi mọi các ngài sẽ ban cho sau.” Đây chính là câu chuyện vừa nói lên sự tín thác vào Thiên Chúa, vừa là câu chuyện nói lên về lòng quảng đại của con người.

Chúng ta tự hỏi tại sao bà goá nghèo trong Phúc Âm lại có được một sự tốt lành bộc phát như vậy? Câu trả lời là do lòng yêu mến. Để được như bà, chúng ta cũng phải trung thành thực thi lòng rộng lượng nhiều lần trong đời, không phải ơ nơi những việclớn, nhưng là những việc nhỏ mọn với một tình yêu lớn lao.

Mẹ Têrêxa Calcuta đã từng nói: “Thiên Chúa không nhìn xem những công việc lớn lao, nhưng nhìn xem tình yêu trong những công việc chúng ta làm”.

Khi còn sinh thời, Mẹ Têrêxa Calcuta đã kể một câu chuyện: Ngày kia mẹ xuống phố, gặp một người hành khất đã cao niên nói với Mẹ: “Thưa mẹ, mọi người gặp Mẹ đều giúp Mẹ tiền bạc.Tôi cũng muốn, nhưng tôi nghèo quá, cả ngày nay xin được có 30 xu. Tôi xin biếu mẹ số tiền nhỏ nhoi này”. Mẹ nói: “Nếu tôi lấy 30 xu này thì tối nay ông sẽ phải nhịn ăn. Nếu tôi không lấy, ông sẽ bị tổn thương, mặt cảm. Thế là tôi đưa tay ra, nhận số tiền 30 xua đó. Liền đó, tôi nhận ra sự rạng ngời trên khuôn mặt khắc khổ của người đàn ông hành khất này, vì ông đã cho đi dược cái gì ông có”.Và Mẹ kết luận: “Một người ngồi ăn xin cả ngày được 30 xu. Một món tiền quá nhỏ, ông và tôi chả mua được cái gì! Nhưng nó đã được cho đi, và đã trở nên gấp ngàn lần, vì nó được cho đi trong sự quảng đại và yêu thương. Thiên Chúa nhìn việc dâng hiến của mội người không phải vì sự to tát của việc làm, mà vào tình yêu thương mà qua đó công việc được hoàn thành”.

Hãy nhớ rằng dâng cúng “Hai đồng tiên nhỏ” sẽ làm vui lòng Thiên Chúa, nếu việc dâng cúng đó được làm vì tình yêu và sự quảng đại.

 

41. Chân thành giữ đạo

Lời Chúa ghi trong Kinh Thánh được rao truyền, được giảng giải trong các bài giáo lý và trong mỗi Thánh lễ. Thế nhưng có người đọc rồi bỏ qua, có người nghe nhưng không thi hành bởi vì lòng trí đang lệ thuộc vào thế gian, đang đặt danh, lợi, thú làm trung tâm của đời sống, không dành chỗ cho lời Chúa tác động trong tâm hồn mình. Đó là một trong những lý do chính khiến nhiều người chưa theo đạo hoặc theo đạo lấy có, giữ đạo hình thức, giả hình như một số luật sĩ Chúa Giêsu trách cứ hôm nay.

Trong cuộc sống này, tiền bạc, quyền lợi tự nó không tốt cũng không xấu nhưng vấn đề là ở con người. Con người đặt mục tiêu cuộc đời mình ở nơi Chúa hay ở những thứ đó.

Nhiều luật sĩ biệt phái muốn được quyền lợi, được kính trọng nên sinh ra giả hình. Họ đọc kinh dài không vì lòng yêu mến Chúa mà vì lợi lộc trần gian, để “nuốt hết tài sản của các bà góa”. Họ là những người học Kinh Thánh và có điều kiện hiểu Lời Chúa hơn những người khác nhưng họ lại sống không đúng lời Chúa dạy. Họ không nhớ rằng: Chúa cần tấm lòng chứ không phải những bản kinh dài mà tâm hồn rỗng tuếch, Chúa lòng chân thành thờ phượng chứ không phải ở kiến thức suông mà thôi.

Đối lại bọn họ, một bà góa nghèo, kiến thức không bao nhiêu nhưng có tấm lòng yêu kính Chúa. Tuy số tiền bà bỏ vào thùng chưa tới 1 xu! Nhưng là người bỏ nhiều nhất, rộng rãi và chân thành nhất: Bà bỏ vào thùng tất cả những gì mình có, bà đã hy sinh cả phần mình đang cần sử dụng để đóng góp cho nhà Chúa. Trong khi đa số những người kia, tuy số tiền nhiều gấp mấy lần nhưng là bỏ phần dư của mình.

Đây là bài học Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta. Chúa chấm công chúng ta không phải ở số lượng và hình thức bên ngoài nhưng ở lòng chân thành của chúng ta khi thi hành những việc đạo đức. Mỗi lần đến nhà thờ dự lễ nhất là lễ Chúa Nhật, chúng ta có đến vì lòng mến Chúa hay vì luật buộc. Nếu chúng ta miễn cưỡng đến vì luật buộc thì chúng ta chẳng khác gì các luật sĩ mà Chúa Giêsu trách cứ hôm nay. Vì Chúa muốn chúng ta giữ đạo vì lòng yêu mến chứ không vì miễn cưỡng. Và để giúp chúng ta giữ đạo vì lòng yêu mến, Ngài đã nêu gương cho chúng ta trước. Sống đạo hết mình, yêu mến Chúa Cha hết linh hồn hết sức lực cho đến hơi thở cuối cùng trên thánh giá. Đó là lời dạy có giá trị nhất chúng ta cũng hãy noi gương Ngài, bước theo chân Ngài trên con đường về Nước Trời. Chắc chắn, ai giữ đạo thật tình thì Chúa Cha sẽ đón nhận vào Nước Ngài hiển trị.

 

42. Ba loại người cho

(Suy niệm của Lm. Mark Link, SJ.)

Một đêm kia, trận bão tuyết đã làm cho đôi vợ chồng mới cưới bị kẹt ở một con đường quê hẻo lánh. Vì không thể đi thêm được nữa, họ xuống xe và đi bộ về hướng ngôi nhà có ánh đèn leo lét.

Khi đến nơi, đôi vợ chồng già, tay cầm chiếc đèn dầu ra mở cửa. Sau khi giải thích tình cảnh khó khăn, anh chồng hỏi: “Xin hai cụ giúp chúng cháu qua đêm nay được không? Chỉ cần một chỗ trên sàn nhà hoặc một vài cái ghế cũng đủ.”

Ngay lúc ấy, một vài hạt gạo từ mái tóc bồng bềnh của người vợ trẻ rơi xuống đất. Hai vợ chồng già liếc mắt trông thấy và họ nhìn nhau có vẻ thông cảm cho đôi tân hôn đang trên đường đi tuần trăng mật ngay sau đám cưới.

Bà lão lên tiếng, “Không sao. Chúng tôi cũng vừa mới có một phòng trống. Hai cháu ra xe lấy đồ đem vào đây. Để vợ chồng chúng tôi sửa soạn đôi chút.”

Sáng hôm sau, đôi tân hôn thức dậy sớm và chuẩn bị lên đường để khỏi làm phiền hai chủ nhà, họ lặng lẽ mặc quần áo và đặt tờ giấy mười đô la lên bàn rồi nhón chân đi xuống cầu thang.

Khi mở cửa phòng khách, họ thấy hai ông bà cụ ngủ trên bộ ghế sa lông. Thì ra hai ông bà đã nhường căn phòng ngủ duy nhất của họ cho đôi tân hôn.

Anh chồng trẻ ra dấu cho cô vợ rồi nhón gón đi trở lại lên lầu và để thêm năm đô la nữa lên trên bàn.

Câu chuyện này là một minh họa điển hình cho câu chuyện trong bài phúc âm hôm nay.

Cũng như bà goá trong Phúc Âm, đôi vợ chồng già đã không cho đi những gì dư thừa. Nhưng họ đã cho đi từ nhu cầu thiết thực của mình.

Hơn thế nữa, trong cả hai trường hợp, họ không chỉ độ lượng cho đi mà còn cho đi một cách vui vẻ, thật lòng.

Người ta thường nói có ba loại người cho đi: người cho cách miễn cưỡng, người cho vì bổn phận, và người cho vì muốn cảm tạ.

Người cho miễn cưỡng nói rằng, “Tôi không muốn cho”; người cho vì bổn phận nói rằng, “Tôi phải cho đi”; và người cho vì cảm tạ thì nói, “Tôi muốn cho đi.”

Nói cách khác người cho miễn cưỡng thì cho đi một cách do dự và với ít nhiều oán giận.

Người cho đi vì bổn phận cũng do dự cho đi nhưng với một cảm nhận đúng đắn về bổn phận.

Người cho vì cảm tạ, ngược lại, họ cho một cách thoải mái và thật lòng.

Câu chuyện của bà goá trong Phúc Âm hôm nay và câu chuyện của hai vợ chồng già trong nông trại là những thí dụ tuyệt vời của sự tạ ơn.

Không ai cho đi với sự ép buộc. Không ai cho đi vì bổn phận. Cả hai đã cho đi từ tấm lòng.

Hai câu chuyện này mời chúng ta tự hỏi về cách chúng ta cho. Chúng ta cho đi cách miễn cưỡng? Chúng ta cho vì bổn phận? Hoặc chúng ta cho chỉ vì đó là điều chúng ta muốn?

Và ở đây, chúng ta không chỉ nói về cho tiền. Chúng ta còn nói về việc cho đi chính mình và thời giờ của mình.

Thí dụ, chúng ta cho đi chính mình và thời giờ như thế nào cho Thiên Chúa vào ngày Chúa Nhật và trong sự cầu nguyện hàng ngày?

Chúng ta cho đi chính mình và thời giờ như thế nào cho người thân trong gia đình, để hỗ trợ và yêu mến họ?

Chúng ta cho đi chính mình và thời giờ như thế nào cho người lân cận, để nói lên sự lưu tâm và phục vụ họ?

Chúng ta có cho miễn cưỡng không, vì chúng ta phải cho, vì nếu không cho chúng ta sẽ bị chỉ trích và bị hình phạt cách nào đó?

Chúng ta có cho vì bổn phận không? Đó là, lẽ ra chúng ta không cho nhưng cảm thấy bó buộc phải làm như vậy?

Hay chúng ta cho đi một cách hân hoan vì chúng ta muốn cho? Đó là, chúng ta cho đi với sự quảng đại và hết lòng như bà goá trong phúc âm và như đôi vợ chồng già trong câu chuyện trên?

Còn một điểm nữa về việc cho đi chính mình mà chúng ta cần suy nghĩ.

Đó là chúng ta có thể cho đi chính mình trong nhiều phương cách khác nhau cho nhiều người khác nhau. Chúng ta có thể nói như thế này: “Quà tặng tốt nhất cho kẻ thù là sự tha thứ, cho người bạn là sự trung thành, cho một đứa trẻ là tấm gương sáng, cho một người cha là niềm vinh dự, cho một người mẹ là tâm hồn, và cho người lân cận là bàn tay của chúng ta”.

Nếu sự cho đi của chúng ta ít hơn là phải có–nếu ít hơn của bà goá trong phúc âm, hoặc nếu ít hơn đôi vợ chồng già trong câu chuyện–thì Chúa Giêsu đang nói với chúng ta trong một phương cách đặc biệt, trực tiếp và cá biệt, trong bài phúc âm hôm nay. Vì Người đã nhắc nhở chúng ta đâu đó trong Phúc Âm: “Anh em hãy cho thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy” (Luca 6:38).

Chúng ta hãy kết thúc với sự suy nghĩ về việc Thiên Chúa đã rộng lượng ban cho chúng ta:

Chúng ta xin một bông hoa; Người cho cả một bó.

Chúng ta xin một giọt nước; Người ban cho cả đại dương.

Chúng ta xin một hạt cát; Người ban cho cả bãi biển.

Chúng ta xin một nhánh lúa; Người ban cho cả cánh đồng.

Chúng ta xin chút gì để ăn; Người đã ban chính Mình và Máu Người.

 

43. Cho.

Có một cặp vợ chồng trở về quê thăm họ hàng. Họ xuống xe, đi bộ được một quãng thì trời đổ mưa tầm tã. Đêm đã khuya mà họ thì lại không quen thuộc đường lối. Thế là họ bèn gõ cửa một căn nhà có ánh đèn hắt ra. Khi họ bước vào thì gặp hai ông bà già. Trước lời xin trú ngụ qua đêm của cặp vợ chồng, hai ông bà đã vui vẻ nói: Được lắm, chúng tôi có sẵn một căn phòng trống.

Sáng hôm sau, cặp vợ chồng dậy sớm và chuẩn bị ra đi. Vì không muốn quấy rầy chủ nhà, người vợ đặt mấy chục ngàn lên bàn, rồi rón rén mở cửa bước ra. Và họ thực sự bỡ ngỡ khi nhìn thấy hai ông bà già đang co ro nằm ngủ trên sàn nhà. Thì ra hai ông bà già này đã nhường chỗ cho cặp vợ chồng trẻ. Còn mình thì phải nằm ngủ dưới đất.

Từ câu chuyện trên chúng ta đi vào đoạn Tin mừng sáng hôm nay, và chúng ta nhận thấy: giống như bà góa, đôi vợ chồng già không phải cho đi phần thừa thãi, mà cho đi chính nguồn sống ít ỏi của mình. Họ cho đi một cách quảng đại, vui vẻ và thực lòng. Nếu suy nghĩ, chúng ta thấy có ba cách cho đi.

Cách thứ nhất là cho đi một cách bất đắc dĩ. Những người này thường nói: Tôi bực bội vì phải cho đi. Tôi miễn cưỡng phải cho đi.

Cách thứ hai là cho đi vì bổn phận. Những người này thường bảo: Tôi buộc phải cho. Họ cho đi mà lòng nặng trĩu vì bổn phận trói buộc.

Sau cùng cách thứ ba đó là cho đi với tình yêu thương. Những người này thường vui vẻ nói: Tôi muốn cho đi. Họ cho đi với tất cả tấm lòng chân thành của mình. Không phải vì ép buộc, cũng không phải vì bổn phận thúc đẩy.

Còn chúng ta thì sao? Chúng ta đã cho đi như thế nào? Chúng ta thường nói: của cho không quan trọng bằng cách cho. Vậy chúng ta sẽ cho đi những gì? Chúng ta không chỉ nói đến tiền bạc mà còn nói đến việc ban tặng chính bản thân và thời giờ của mình.

Chẳng hạn chúng ta đã dâng cho Chúa bản thân và thời gian của chúng ta vào việc thờ phượng Chúa trong ngày Chúa nhật như thế nào? Chúng ta đã trao tặng chính bản thân và thời giờ của chúng ta cho những người thân yêu trong gia đình, cũng như cho bà con lối xóm ra làm sao?

Chúng ta có biết cho đi với cõi lòng đầy hân hoan, với trái tim đầy quảng đại như bà góa trong Phúc âm hay không? Với một chút tế nhị và nhạy cảm, chúng ta sẽ khám phá ra rằng: Chúng ta có rất nhiều thứ để mà cho đi, như một bài thơ đã diễn tả: Quà tặng đẹp nhất cho kẻ thù, chính là sự tha thứ. Cho bạn bè chính là sự trung thành. Cho các em nhỏ chính là gương sáng. Cho người cha chính là lòng tôn kính. Cho người mẹ chính là tình yêu. Và cho người chung quanh chính là đôi tay của chúng ta.

Hãy cứ cho đi một cách quảng đại, chắc chắn Chúa sẽ không bao giờ chịu thua trước sự rộng rãi của chúng ta. Bởi vì, khi tôi xin một bông hoa, thì Ngài cho cả bó. Khi tôi xin một giọt nước, thì Ngài cho cả đại dương. Khi tôi xin một hạt cát, thì Ngài cho cả sa mạc. Và khi tôi xin ăn, thì Ngài ban cho cả thịt máu Ngài.

 

44. Tấm lòng.

Bà goá ở Sarepta thật nghèo khó nhưng đồng thời lại thật rộng lượng. Bà không còn gì ngoài một chút bột và một chút dầu đủ cho một bữa ăn đạm bạc cuối cùng, rồi cả hai mẹ con cùng chết. Thế mà bà đã sẵn lòng nhường cho vị tiên tri chiếc bánh nhỏ bé nhưng vô cùng quý giá ấy. Cử chỉ quảng đại của bà đã gặp được lòng quảng đại của Thiên Chúa: Trong suốt cơn hạn hán, bột trong hũ không bao giờ cạn và dầu trong bình không bao giờ vơi. Còn bà goá trong đoạn Tin Mừng vừa nghe cũng thế. Bà nghèo tiền của nhưng giàu lòng quảng đại. Chính lòng quảng đại giữa cảnh túng thiếu đó, trước mặt Thiên Chúa, có giá trị hơn cả vàng bạc của những kẻ dư giả. Người nghèo của thường giàu lòng và Thiên Chúa thì chú trọng đến cõi lòng mỗi người hơn là đến tiền của.

Từ hai câu chuyện trên, chúng ta thấy: Để đánh giá một ai, nhiều lúc chúng ta chỉ dựa vào tiền của. Tiền của trở nên như một thứ thước đo thông dụng, như một thú tiêu chuẩn để xác định ngôi thứ. Kẻ càng có nhiều tiền của thì càng được vị nể và càng có thế lực. Tuy nhiên, cũng có những cái không thể định giá được bằng tiền của, đó là những giá trị tinh thần và trị đạo đức, đó là phẩm chất và cõi lòng con người. Những giá trị này không tuỳ thuộc vào những gì ở bên ngoài, nhưng hệ tại những gì ở trong chính con người.

Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, Chúa Giêsu không chú trọng đến giá trị kinh tế của hai đồng tiền nhỏ mà bà goá đã bỏ vào hòm. Chúng không là gì cả bên cạnh những đồng tiền lớn của những kẻ giàu sang. Nhưng Ngài đã chú trọng tới tấm lòng của bà, đến giá trị chủ quan của hai đồng tiền nhỏ đối với tình cảnh nghèo túng của bà và đến cách âm thầm khiêm tốn bà dâng tiền vào hòm. Chúa Giêsu không quan tâm đến của dâng cho bằng đến cách dâng và tấm lòng của người dâng. Bởi vì chính tấm lòng chúng ta mới định đoạt giá trị của những việc chúng ta làm.

Thiện căn ở tại lòng ta. Một việc làm tốt rất có thể trở nên xấu vì lòng chúng ta không ngay thẳng, ý chúng ta không trong sáng, chẳng hạn như chúng ta làm để phô trương, để trình diễn, để lấy tiếng, để kiếm chút lợi lộc cá nhân. Trong những trường hợp ấy, chúng ta không làm việc thiện vì chính việc thiện, nhưng vì lợi ích bản thân nhân danh việc thiện mà thôi. Đó là một hình thức ích kỷ rất tinh vi, chính vì thế mà Chúa Giêsu đã dạy: Đừng để cho tay trái biết việc tay phải làm. Nói như vậy không có nghĩa là phủ nhận giá trị thực tiễn của lễ vật hay tặng phẩm. Giá trị kinh tế cũng đáng kể nhưng chưa phải là điểm chính. Nếu được thì của nhiều, lòng nhiều là điều tốt nhất. Còn nếu không được như thế, hoàn cảnh đòi phải chọn lựa, thì của ít lòng nhiều vẫn là điều quý giá hơn. Thực ra khi lòng đã nhiều thì người ta không ngần ngại hiến dâng tối đa những gì mình có. Lòng người đi trước, tiền của theo sau.

 

45. Chúa Nhật 32 Thường Niên

Anh chị em thân mến.

Chúng ta cùng nhau quan sát sự vật chung quanh, những thứ gần mình nhất, xem có những gì tốt đẹp. Nếu nhìn một cái bong bóng được chứa đầy hơi, căng tròn, nó trôi lơ lững nhẹ nhàn, nó dường như muốn bay lên, không chịu bị chôn vùi xuống, nó còn tạo niềm vui cho những đứa trẻ. Nhưng nếu có một bất trắc nào, hay có vật gì chạm đến mà nó không chịu được, nó sẽ vở tan và không còn gì hết, bên trong nó chẵng có gì, nó cũng không còn gì để lưu lại.

Nếu chúng ta nhìn một hòn đá, nó nặng nề nằm sát đất, vị trí rất ổn định không lay chuyển, nó dường như cũng không đèo bồng vươn cao. Có ai đó muốn làm cho nó phải tách ra, việc đó không phải dể, vì thân thể nó không có một chỗ trống nào. Nó không cần vươn cao, nhưng những gì muốn vươn cao cách vững chắc, đều nhờ đến nó. Nó cũng không tạo niềm vui chóng qua, nhưng nó tạo một sự vui mừng vững bền cho những ai biết xử dụng nó cách chính đáng. Những hòn đá nặng nề yên lặng, không vươn cao, nhưng có giá trị vững bền.

Chúng ta vừa nhìn qua hai hình ảnh của con người mà Chúa Giêsu cho chúng ta thấy qua bài phúc âm:

Một hình ảnh hào nhoáng, sang trọng được bao nhiêu người kính phục, bái chào. Hình ảnh cao ngất ngưởng, dường như chỉ biết vươn lên giống như chiếc bong bóng đang lúc căng đầy hơi. Đó là hình ảnh giả tạo, nhở một khi không còn giử được chút hơi nào thì cái dáng vẽ bên ngoài sẽ ra sao, còn con người đó sẽ như thế nào? Họ sẽ bị kết án nghiêm khắc, vì họ hoàn toàn trống rỗng.

Một hình ảnh đơn sơ nhẹ nhàng, không ai nhìn thấy, nhưng Thiên Chúa nhìn thấy tận trong tâm hồn. Việc làm thầm kín, nhỏ bé, nhưng bằng cả một tâm hồn vĩ đại và chân thành. Tâm hồn đó khó có thể lay chuyển nỗi. Đây là một việc làm có giá trị.

Hai hình ảnh tương phản nhau. Đặt biệt lối nhận xét của Chúa Giêsu, cách nào đó cũng không bình thường như cách của loài người.

Những người bình thường vị nể và kính phục sự hào nhoáng bên ngoài, con người chỉ nhìn thấy những gì hiện ra trước mắt và thường chạy theo nó. Chúng ta những người ngồi trong nhà thờ nầy, hoàn toàn là những con người bình thường, nhưng chúng ta có để cho nó trở nên tầm thường như những con người của ngày xưa không? Suốt cả cuộc đời, và cho đến ngày hôm nay, chúng ta vẫn sống, vẫn nhìn, vẫn hành động. Nhưng cái sống, cái nhìn, cái hành động của mình có những lúc nó giống như chiếc bong bóng được căng đầy hơi, nó trương phình lên và bay lơ lững. Nó cũng tự hào vì mình to lớn, nhưng lại quên đi sự trống rỗng của mình, và càng không biết đến một ngày nào đó, nó sẽ nỗ tung, khi đó không có gì tồn tại, vì nó hoàn toàn trống rỗng.

Mỗi người nhìn vào chính mình. Có những lúc trong cuộc sống, chúng ta ngở mình cao sang, tài giỏi, uy quyền hơn bao nhiêu người khác, để rồi tự mãn kiêu căng, đòi hỏi điều nầy điều nọ. Nhưng thật ra, nếu nhìn kỷ lại, những gì mình hiểu biết, những gì mình đang có, so sánh với những gì mà chúng ta đòi hỏi, nó còn tệ hơn chiếc bong bóng căng đầy hơi. Nó hoàn toàn rỗng tuết và chẵng có chút gì có giá trị. Vậy mà vẫn tự hào. Có những việc làm, chúng ta ngở nó không giá trị gì: Như một chút thương cảm đối với người bên cạnh, trước sự đau khổ, chúng ta tìm cách tạo niềm vui cho họ. Có những lần chúng ta nhín chút thời gian, vì có người cần đến, cũng có những lần chúng ta cố gắng nhường nhịn một câu nói, kềm chế một hành động trả thù, cho hả cơn giận. Có lần chúng ta cố gắng vượt qua được con người yếu hèn của mình, không chìu theo những dục vọng, ước muốn bất chính để sống ngay thẳng trung thực. Đó là những lần chúng ta sống thực sự, bằng hết tâm tình của mình. Khi đó chúng ta giống như người đàn bà nghèo, đã cho tất cả, nhưng không ai nhìn thấy gì hết. Khi đó chúng ta biết tạo cho mình một nền móng vững chắc như những hòn đá và không gì có thể phá vỡ được.

Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người biết sống ngay thẳng, trung thực trước mặt Chúa, để những việc làm của chúng ta có giá trị trước Mặt Chúa vì được phát xuất bởi tình yêu.

 

46. Đồng tiền quý giá

(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)

Có một ông nhà giàu gặp một vị đạo sĩ ngồi ở gốc cây bên lề đường, liền hỏi: “Ông ngồi đây làm gì vậy? Nhà tôi đang cần người giúp việc, về làm cho tôi ông sẽ có tiền”. Vị đạo sĩ trả lời: “Cám ơn ông tôi rất sợ tiền bạc, vì ở đâu có tiền bạc ở đó có tội ác”. Ông nhà giàu nói: “Ông rất lầm nên mới yếm thế bi quan. Thế gian có tiền là có tất cả. Có tiền mua tiên cũng được, khắp đông tây đều công nhận như vậy”. Vị đạo sĩ trả lời: “Ông càng lầm hơn tôi, tiền bạc mở được mọi cửa trừ cửa thiên đàng. Đó là câu nói của các nhà đạo đức phương tây. Còn đông phương thì cho rằng: tiền bạc mua được tất cả nhưng không thể mua được lương tâm của người quân tử”. Ông nhà giàu lại nói: “Ông biết chứ, lịch sử chứng tỏ tiền bạc đi tới đâu thì ở đấy phồn thịnh. Có phải tiền bạc đã biến đổi thế giới khổ cực thành xa hoa sung sướng không?”. Vị đạo sĩ trả lời: “Ông chỉ thấy tiền bạc có một mặt, ông không thấy mặt trái của nó, lịch sử cũng ghi rõ: tiền bạc đi tới đâu thì gieo chia rẽ giàu nghèo, gây nên cảnh bất công, ghen tương, tranh chấp và chết chóc”. Ông nhà giàu không nói thêm gì nữa.

Cuộc đàm thoại giữa ông nhà giàu và vị đạo sĩ trên đây chỉ xác nhận những điều mà có lẽ tất cả chúng ta đều đã biết và công nhận như vậy. Bởi vì tự nó tiền bạc chỉ có một giá trị rất nhỏ. Theo cách đánh giá này thì tờ 500 đồng cũng giống như tờ 1 đồng, chỉ là một tờ giấy có in hình khác nhau, đáng giá vài xu do tiền giấy và công in. Nhưng theo giá trị định ước, thì tờ 500 gấp 500 lần tờ 1 đồng. Chính vì giá trị định ước này mà tiền bạc dù rách, dù hôi, nó vẫn được quý trọng, dù đẹp dù xấu, dù mới dù cũ, nó vẫn được người ta dành cho nhiều cảm tình. Nó được chuyền qua biết bao nhiêu bàn tay và được sử dụng vào muôn vàn việc khác nhau.

Tiền bạc là phương tiện giúp cho người ta trao đổi để dễ dàng sinh hoạt trong cuộc sống hằng ngày. Nên tiền bạc tự nó không xấu mà trái lại là đàng khác. Nhưng nó trở nên tốt hay xấu là do con người sử dụng nó. Nó có thể được dùng vào những việc gian manh, bất lương, xảo trá, gây nguy hiểm và tai hại cũng như được dùng vào những công việc bác ái, xây dựng tình yêu, tạo nên tình bạn hay đem lại những lợi ích vật chất và tinh thần.

Như vậy, tất cả chúng ta đều nhất trí rằng: tiền bạc tự nó là tốt và luôn luôn có giá trị rất thực tế theo như định ước người ta gán cho nó. Tờ 1000 đồng chắc chắn phải hơn tờ 50 đồng, tờ 100 đồng, tờ 500 đồng. Nhưng tại sao trong bài Tin Mừng Chúa Giêsu lại nói hai đồng tiền kẽm, chỉ đáng một phần tư đồng xu Rô-ma của người đàn bà góa nghèo bỏ vào thùng tiền dâng cúng ở đền thờ lại quý hơn những số tiền lớn của những người giàu?

Xét về số lượng thì chắc chắn hai đồng tiền của bà góa thua kém xa số tiền của những người khác. Nhưng xét theo tỉ lệ tương quan, nghĩa là về hoàn cảnh, về lý do, về mục đích thì người đàn bà này đã bỏ vào thùng tiền nhiều hơn, bà ấy đã cho nhiều hơn hết, vì bà không dâng những thứ dư thừa mà dâng những cái rất cần thiết để nuôi sống. Có thể số tiền đó chính là một ổ bánh mì, một lon gạo, một bó rau đủ để nuôi sống bà trong ngày hôm đó. Nhưng không, bà không lo đến tương lai, không lo ngày mai sẽ ra sao, bà chỉ biết phụng sự mà không biết lợi dụng tôn giáo hay lợi dụng Thiên Chúa. Trái lại, những người dâng cúng nhiều chỉ khoe khoang để tìm danh vọng tiếng khen. Số tiền họ dâng cúng tuy nhiều nhưng so với cơ nghiệp và gia tài của họ thì có thấm thía gì. Họ chỉ mất một ít tiền bạc nhưng lại được lời về danh giá và tiếng khen. Cho nên, thực sự họ chẳng cho hoặc dâng hiến được bao nhiêu. Đó là một cuộc đầu tư một vốn bốn lời. Đó là một sự lợi dụng tôn giáo và bác ái chứ không phải phục vụ. Chính vì lý do đó mà Chúa Giêsu đã đánh giá bà goá nghèo dâng cúng nhiều hơn mọi người.

Hơn nữa, đối với Thiên Chúa, điều quan trọng không phải là bao nhiêu, nhiều hay ít, miễn là với tất cả tấm lòng. Ngài không ham của cải Ngài đã ban cho loài người, nhưng chỉ muốn lòng thành thực của con người mà thôi. Cho nên, người ta có thể dâng thật nhiều cho Thiên Chúa, nhưng bao lâu người ta chưa dâng chính mình hay ít nữa những gì thuộc về bản thân, những gì liên hệ tới chính con người của mình thì kể là người ta chưa dâng hiến gì cả.

Qua bài Tin Mừng với việc làm của người đàn bà góa nghèo, Chúa Giêsu dạy cho chúng ta biết ý nghĩa và giá trị của tiền bạc đối với người sử dụng nó và qua đó chúng ta rút ra được một bài học, đó là hãy biết cho đi. Bởi vì thương yêu là cho đi. Càng cho nhiều là dấu càng yêu thương nhiều, nhất là cho đi với một lòng thành thực thiết tha. Nhưng không phải chỉ cho những gì là vật chất như của cải, tiền bạc mới là cho. Chúng ta có thể cho những gì là siêu nhiên cao quý như lời cầu nguyện; và cho những gì là tinh thần như một nụ cười, một cái nhìn thiện cảm, một lời nói vui vẻ hiền hòa hay những lời an ủi chân thành…

 

47. Của ít lòng nhiều

(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. DẪN NHẬP

Người đời thường hành động theo phương châm: “Đẹp đẽ khoe ra, xấu xa che lại” (Tục ngữ). Ai cũng muốn cho mình được người ta ca tụng, không muốn bị người ta chê cười, nên tìm cách ếm nhẹm những cái xấu mà chỉ phô ra những cái tốt của mình. Luật sĩ là những người chỉ thích khoe những cái tốt đẹp của mình để lòe thiên hạ, nhưng những cái họ khoe ra không có thực mà chỉ là ảo, nghĩa là họ giả hình giả bộ cốt lấy tiếng khen của mọi người.

Vì thế trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu đưa ra hai khuôn mặt tiêu biểu: luật sĩ và bà góa để nói lên cái tương phản của hai loại người: giả dối và thành thực. Luật sĩ dâng cúng cho Đền thờ không vì lòng mến Chúa mà cốt tìm tiếng khen, còn bà góa đã dâng cúng với tất cả tấm lòng thành, với lòng mến yêu nồng nàn đối với Chúa. Bà đã âm thầm dâng cúng tất cả những gì thiết yếu đối với bà, kể cả mạng sống, mà không cần ai biết đến. Nhìn cung cách dâng cúng của bà, Đức Giêsu đã khen: “Bà này đã dâng cúng nhiều hơn hết mọi người”.

Thiên Chúa không xét giá trị theo của dâng cúng nhưng xét theo tấm lòng của người dâng cúng. Người ta thường nói: “Cách cho quí hơn của cho”. Người ta có thể cho một cách miễn cưỡng, hay cho vì bổn phận bó buộc hay cho vì lòng hảo tâm, vì lòng thương mến. Bà góa này đã cho đi một cách tự nguyện, quảng đại, thơm thảo, bất vụ lợi… nên việc dâng cúng của bà được đánh giá cao. Bà góa này đã dâng cúng với cung cách tốt đẹp đó, nên đã được Đức Giêsu khen là bà đã dâng cúng nhiều hơn hết mọi người vì bà là người có “của ít lòng nhiều”.

  1. TÌM HIỂU LỜI CHÚA

+ Bài đọc 1: 1V 17,10-16

Khi tiên tri Êlia phải lánh nạn để tránh cơn giận của hoàng hậu Jézabel, ông cảm thấy mệt nhọc và kiệt sức. Ông xin bà góa làng Serepta cho trú nhờ và xin cho ăn một chút bánh hiếm hoi của bà. Bà sẵn sàng làm bánh cho ông ăn và Chúa đã thưởng công do lòng quảng đại của bà: “Hũ bột sẽ không vơi, vò dầu sẽ không cạn cho đến ngày Đức Chúa đổ mưa xuống trên mặt đất”.

+ Bài đọc 2: Dt 9,24-28

So sánh chức tư tế Do thái giáo và chức Thượng Tế của Đức Giêsu, tác giả thư Do thái làm nổi bật sự siêu việt của lễ tế do Đức Giêsu dâng hiến hoàn hảo và đời đời.

  1. Trong tư tế là Con Thiên Chúa làm người, Ngài là Ngôi Lời nhập thể. Hiến tế mà Ngài dâng trên đồi Calvê có một giá trị vô cùng và tuyệt đối.
  2. Từ khi phục sinh và lên trời, Ngài còn tiếp tục hiến dâng lễ vật này, tiến dâng mãi mãi để tôn vinh Chúa Cha và không ngừng nguyện cầu ơn phúc cho nhân loại.

+ Bài Tin mừng: Mc 12,38-44

Hình ảnh trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta thấy có hai đối chọi: luật sĩ và bà góa. Bề ngoài có vẻ như không ăn khớp, nhưng thực tế bổ túc cho nhau.

1- Người luật sĩ chỉ có cái vỏ bề ngoài, trong lòng thì rỗng tuếch: kiêu căng, tham lam, khoe khoang, giả hình.

2- Bà góa thì khiêm nhường, âm thầm, thành thật, nghèo tiền nhưng giầu lòng.

Đức Giêsu coi đây là hình ảnh đẹp nên “gọi môn đệ đến” chỉ cho thấy và khuyên các ông hãy noi gương bà góa đó.

  1. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.

Vật khinh nhưng hình trọng

Tục ngữ Việt nam dùng câu “Vật khinh hình trọng” có ý nói đến con người là quí trọng, còn của cải thì coi thường. Con người có giá trị hơn của cải.

Cũng có câu khác ý nghĩa tương tự: “Thèm lòng chẳng ai thèm thịt” hoặc: “Vị tình vị nghĩa, không ai vị đĩa xôi đầy”, đều có ý nói: người ta đến giỗ tết hiếu hỷ vì quan hệ tình cảm chứ không phải cốt để ăn uống.

Trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta thấy có hai hình ảnh trái ngược. Bà góa đã sống theo phương châm “vật khinh hình trọng” nghĩa là bà đã dâng cúng cho Chúa với “của ít lòng nhiều” hay “của một đồng công một nén” (Tục ngữ): của dâng cúng của bà thì tít, nhưng tâm tình thì dạt dào.

Ngược lại, các luật sĩ lại sống trái ngược với phương châm trên mà họ đã đổi lại thành “vật trọng hình khinh”, họ chỉ chú trọng đến số lượng mà quên đi chất lượng hay phẩm chất, điều mà Thiên Chúa đòi hỏi nơi người dâng cúng. Họ chỉ thích sống theo cái vỏ bề ngoài mà trong lòng thì trống rỗng. Trước mặt Chúa họ đúng là những người sống theo tiêu chẩn “Thùng rỗng kêu to”, mà kiểu sống đó đã bị Đức Giêsu chỉ trích.

  1. HAI KHUÔN MẶT ĐIỂN HÌNH.
  2. Khuôn mặt người luật sĩ.

Các luật sĩ là những người chuyên nghiên cứu Thánh Kinh và pháp luật. Họ giải thích Thánh Kinh cho người khác và làm cố vấn pháp luật cho dân chúng. Họ là bậc thầy thuộc giới thượng lưu nên được người ta kính trọng. Nhưng Đức Giêsu lại chỉ trích miệt thị họ vì họ là những người kiêu căng và giả hình giả bộ.

Những người này làm việc đạo đức chỉ vì cầu danh, cầu lợi, cầu địa vị. Họ mặc lễ phục trịnh trọng, làm bộ đọc kinh nguyện lâu giờ chỉ để cầu được kính trọng chào hỏi, cầu ngồi chỗ danh dự nhất, cầu kiếm được nhiều tiền của biếu tặng, lợi dụng chức quyền để nuốt trửng tài sản của các bà góa… Họ hoàn toàn có mục đích xấu, vụ lợi, ích kỷ, kiêu căng. Xét theo giá rị đạo đức họ bị Đức Giêsu xếp vào hạng xấu: “Họ sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn”.

  1. Khuôn mặt hai bà góa.

Phụng vụ hôm nay đề cập tới hạng người mà dư luận thương hại hay coi thường là các bà góa. Họ là những người giữa đường đứt gánh, một mình gánh vác giang sơn nhà chồng. Vì không có sự bao bọc của người chồng, người góa phụ chỉ còn nhờ vào tài sản của chính mình, không ai giúp đỡ. Bởi vì họ có gì đâu? Của cải chồng họ để lại thuộc về trưởng nam. Có thể trước đó họ đã gửi gắm ở đâu được một chút của nào đó. Hay tài sản riêng họ có trước khi về nhà chồng, họ đã gửi nơi các luật sĩ mà họ tưởng là những người đạo đức nâng đỡ họ. Ai ngờ bọn này lại lợi dụng và dã tâm ngốn cả nhà cửa của họ.

Theo Thánh Kinh các bà góa được liệt vào số những người nghèo khổ nhất cùng với những kẻ mồ côi và những kẻ tha phương cầu thực (Đnl 24,17-22).

  1. a) Bà góa thành Serepta.

Sách Các Vua hôm nay kể lại truyện có một bà góa ở Serepta đang đi kiếm củi. Tiên tri Êlia thấy bà đội một cái bình dầu trên đầu thì tưởng bà ta đi múc nước. Nhưng không, đó là một cái vò đựng một chút bột còn sót lại. Bà đi kiếm mấy thanh củi rồi về nướng làm bánh cho con trai ăn và mình ăn rồi cũng chết. Sống trong nạn đói cùng cực như vậy, mà theo lời yêu cầu của Êlia, bà vẫn sẵn sàng hy sinh nhường cho nhà tiên tri ăn, dù không biết ông là ai. Chính vì lòng hy sinh bác ái tột độ đó, Thiên Chúa đã làm phép lạ cho hũ bột không vơi, vò dầu không cạn để cứu sống bà, con bà và tiên tri Êlia nữa.

Bà góa này không những tỏ ra rất nhân đạo, nhưng nhất là còn tin ở lời vị tiên tri và tin vào Lời Chúa. Chính niềm tin này khiến bà dám làm bánh cho nhà tiên tri ăn trước. Bà như quên và như bỏ mạng sống của mẹ con bà vì tin lời nhà tiên tri. Và Chúa đã thưởng công lòng tin này, khiến câu chuyện về bà hôm nay đáng được dùng để dẫn nhập vào bài Tin mừng.

  1. b) Bà góa trong Tin mừng.

Đức Giêsu cùng với các môn đệ sau khi giảng dạy cho dân chúng trong Đền thờ, liền sau đó Thầy trò đi ra ngoài quan sát dân chúng dâng cúng tiền để giúp cho Đền thờ, chính tại đây, Đức Giêsu đã giáo huấn các môn đệ về ý nghĩa và giá trị của việc dâng cúng.

Khung cảnh của Tin mừng hôm nay nằm rất gần kho bạc vốn được dùng để chứa các đồ dâng cúng (x. 2V12,10). Các thùng tiền dâng cúng được thiết kế theo hình dáng cái loa kèn và được đặt rất nhiều trong sân dành cho phụ nữ. Chính vì đặt trong địa thế như vậy, tạo điều kiện thuận lợi cho giới quan sát là chính các luật sĩ và tay chân lân cận. Đức Giêsu cùng các môn đệ dễ dàng quan sát những thùng tiền cũng như những người bỏ tiền dâng cúng.

Trong dòng người tấp nập bỏ tiền dâng cúng Đền thờ, Đức Giêsu đặc biệt chú ý đến người đàn bà góa nghèo nàn. Bà đã âm thầm bỏ vào hai đồng tiền kẽm với giá trị chỉ bằng một phần tư đồng bạc Rôma. Bởi dân Do thái thời Đức Giêsu bị thống trị bởi đế quốc Rôma. Chính vì thế, người dân phải sử dụng đồng tiền Rôma trên đó có mang hình và ký hiệu hoàng đế Rôma. Đây là loại tiền bằng bạc, một đồng cân nặng 3,8 g và tương đương với 0,875 quan vàng. Thấy được như thế, chúng ta mới thấy rằng đồng tiền mà bà góa trong Tin mừng dâng cúng vốn giá trị chẳng đáng là gì , nhưng đối với Đức Giêsu , Ngài đã khen: “Bà góa nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết”(Mc 12,43).

  1. BÀI HỌC TỪ HAI BÀ GÓA
  2. Giá trị việc dâng cúng.

Tại sao Đức Giêsu lại nói với các môn đệ: “Trong những người đã bỏ tiền vào hòm, bà góa này đã bỏ nhiều hơn hết”? Lý do để Đức Giêsu khen thật rõ ràng: đó là số tiền mà dòng người kia tấp nập bỏ vào thùng tiền dâng cúng Đền thờ là những đồng tiền dư thừa. Số tiền mà họ bỏ vào dâng cúng không làm hụt đi tài sản và thanh thế của họ mà còn tô thêm uy danh cho kẻ lắm bạc nhiều tiền. Còn bà góa, trái lại, bà đã rút ra từ cái túng thiếu, cái nghèo đói của mình, từ giá trị của hai đồng tiền kẽm chính là tài sản duy nhất nuôi sống mình để dâng cúng vào Đền thờ.

Như vậy, giá trị của việc dâng cúng không hệ tại ở số lượng của cải nhiều hay ít, có giá trị hay không, mà chính là tùy thuộc vào tấm lòng chân thành của người dâng cúng.

Muốn của dâng trở thành một của dâng đích thực thì phải là của dâng do lòng hy sinh. Vấn đề không nằm ở số tiền dâng mà ở cái giá người dâng phải trả, không phải là tầm cỡ của lễ vật, nhưng là sự hy sinh.

Chính vì vậy mà chân phước Têrêsa Calcutta nói: “Khi ta trao tặng một món quà, mà nếu là một mất mát hy sinh lớn đối với ta, thì đó mới thật là món quà”.

Truyện: Bà Oseola Mc Carthy

Báo New York Times đưa tin bà Oseola Mc Carthy: Biểu tượng “Lòng từ thiện” của nước Mỹ, vừa qua đời ngày 03/10/1999 ở tuổi 91.

Vào một ngày của tháng 7/95, ông hiệu trưởng đại học phía bắc Missisipi đã vô cùng ngạc nhiên, khi có một phụ nữ xa lạ tên Oseola Mc Carthy xin được tặng 150.000 đôla làm quỹ học bổng cho các sinh viên nghèo của trường, mà không cần được ghi danh tưởng niệm hay tuyên bố công khai. Nhà trường còn sửng sốt hơn khi biết người phụ nữ ấy làm nghề giặt ủi, và số tiền kia là tiền dành dụm cả một đời người.

Ngay khi biết câu chuyện bà Mc Carthy tặng tất cả tiền bạc mình có làm quỹ học bổng cho trường, ông tỷ phú Ted Turner, trùm ngành kinh doanh cáp truyền hình Mỹ, đã tuyên bố góp thêm một tỷ đôla cho quỹ. Ông nói: “Người phụ nữ nhỏ bé ấy đã dám ban tặng tất cả những gì bà có, thì tôi thấy mình cũng phải đóng góp phần của tôi là một tỷ đôla”(Thiên Phúc).

  1. Có ba cách cho.

Người ta nói rằng có ba cách cho: người cho một cách bất đắc dĩ, người cho vì bổn phận và người cho với tâm tình yêu thương.

Người cho một cách bất đắc dĩ thì nói: “Tôi bực mình vì phải cho…”. Người cho vì bổn phận thì nói: “Tôi buộc phải cho…”. Còn người cho vì tình thương thì nói: “Tôi muốn cho…”

Nói cách khác, kẻ cho một cách bất đắc dĩ thì cho một cách miễn cưỡng, bực mình vì phải cho. Kẻ cho vì bổn phận thì cũng cho một cách miễn cưỡng nhưng lòng nặng trĩu vì bị bổn phận trói buộc. Còn người cho vì tình thương thì tự ý cho và cho thật lòng.

Câu chuyện bà góa trong Tin mừng hôm nay là một ví dụ tuyệt hảo về sự trao tặng với tâm tình yêu thương trìu mến. Bà cho đi mà không phải vì bị ép buộc hay vì bổn phận thúc đẩy, nhưng với tất cả tấm lòng.

Truyện: Nhường phòng cho khách

Cách đây khá lâu, một đêm kia, có đôi vợ chồng mới cưới đi về một vùng quê xa xôi thì bị mắc phải cơn mưa rào dữ dội. Không thể đi xa hơn nữa, họ liền rời khỏi xe và đi bộ về hướng một căn nhà có thắp ngọn đèn lù mù. Khi họ bước vào nhà thì gặp đôi vợ chồng già tay cầm đèn dầu tiến ra cửa. Người thanh niên trình bầy tình trạng khó khăn, đoạn yêu cầu: “Quí ngài có thể cho chúng tôi trú ngụ đến sáng được không? Nằm trên sàn nhà hay trên ghế bành cũng được”.

Ngay lúc đó có vài hạt cơm dính trên mái tóc người thiếu phụ mới đến rơi xuống sàn nhà. Đôi vợ chồng chủ nhà liếc thấy liền đưa mắt nhìn nhau thông cảm. Bà chủ nhà lên tiếng: “Được chứ, các cháu! Chúng tôi vừa có được một căn phòng trống. Nào hãy ra thu xếp đồ đạc trong xe khi chồng tôi và tôi dọn dẹp căn phòng cho tươm tất một chút”.

Sáng hôm sau, đôi tân hôn thức dậy sớm và chuẩn bị ra đi. Vì không muốn quấy rầy hai vợ chồng già, họ lặng lẽ mặc quần áo, đoạn họ đặt tờ 10 đôla lên chiếc tủ, rồi nhón chân đi xuống cầu thang. Khi mở cánh cửa thông qua phòng khách, họ bỡ ngỡ nhìn thấy đôi vợ chồng già đang nằm ngủ trên những chiếc ghế dựa. Té ra cặp vợ chồng già này đã nhường cho đôi tân hôn căn phòng ngủ duy nhất của họ. Chàng thanh niên và cô vợ nén lại vài phút, đoạn anh ta nhón chân quay lên cầu thang và đặt thêm 5 đôla nữa lên chiếc tủ (Mark Link, Giảng lễ Chúa nhật năm B, tr.78).

  1. Cho với tấm lòng chân thành.

Qua nội dung ba bài đọc Thánh lễ hôm nay, chúng ta thấy giáo huấn của Đức Giêsu gồm ba điểm chính:

a- Thương thì phải cho, vì yêu là cho đi.

b- Của cho không bằng tấm lòng người cho.

c- Chỉ chính cái mình quí nhất mới là cái cho lớn nhất, giá trị nhất.

Ở đây chúng ta chú trọng vào tấm lòng của người cho. Các luật sĩ dâng cúng cho Chúa nhiều thật, nhưng với những ý đồ không tốt. Họ dâng cúng chỉ là để khoe khoang, chứ không với tấm lòng chân thành để dâng kính Chúa vì lòng mến Chúa. Kiểu dâng cúng như thế cũng đi ngược với tâm lý người Việt nam: “Người ta thèm lòng chứ đâu thèm thịt”(Tục ngữ).

Người Việt nam cũng đề cao giá trị đạo đức chân chính bằng những câu châm ngôn như:

“Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”

Hoặc:

“Cái nết đánh chết cái đẹp’

Gỗ là giá trị chân chính, nước sơn mầu mè bên ngoài là phụ thuộc. Tính nết là giá trị cốt cách của con người, còn vẻ đẹp duyên dáng bên ngoài là phụ thuộc, chóng phai, chóng tàn. Tuy nhiên, thời đại ngày nay, người ta bị hấp dẫn về mẫu mã, quảng cáo, tuyên truyền, hơn là phẩm chất tốt của vật dụng.

Truyện: Người buôn cam

Ngày xưa, ở Hàng châu có một người đi buôn cam. Anh ta khéo để dành cam lâu ngày mà không ủng. Lâu ngày mà vỏ vẫn đỏ hồng, trông tốt đẹp như vàng ngọc.

Đem ra chợ bán, thiên hạ tranh nhau mua. Ai thấy cam như vậy mà không thèm? Cơ tôi cũng mua một quả. Đem về nhà bóc ra, thì ôi, hơi thối xông lên mặt, múi thì xác xơ như bông nát. Tôi liền ra chợ lại, tìm gặp người bán cam trách móc:

– Anh bán cam cho người ta để làm của cúng lễ, đãi tân khách, hay là chỉ để làm cho choáng mắt bên ngoài, đánh lừa thiên hạ? Tệ thật! Anh giả dối lắm.

Người buôn cam mỉm cười nói:

– Tôi làm nghề này đã lâu lắm để kiếm tiền nuôi thân. Tôi bán thì người ta mua. Chẳng ai nói năng gì cả. Chỉ có ông là kêu ca thôi. Thiên hạ giả dối nhiều, chẳng phải riêng gì một mình tôi. Ong thật không nghĩ cho đến nơi. Này thử xem, người đeo hổ phù, ngồi da hổ, hùng dũng, trông ra dáng quan võ lắm. Kỳ thực họ có giỏi được như Ngô Khởi, Tô Tẫn không? Người đội mũ cao, đóng đai dài, trông ra dáng quan văn lắm. Kỳ thực họ có giỏi được như Cao Dao, Y Doãn không? Giặc nổi lên không biết dẹp, dân khổ không biết cứu. Quan lại tham nhũng không biết trừng trị. Pháp hộ hỏng không biết sửa đổi. Ngồi không ăn lương, chẳng biết xấu hổ… Thế mà lúc ra ngồi công đường, đi xe ngựa, uống rượu ngon, ăn của lạ, oai vệ hách dịch vô cùng!…

Đó, bề ngoài họ chẳng như vàng ngọc, mà bên trong lại chẳng hôi thối, và xác xơ, như bông nát là gì? Sao ông không chịu xet những hạng người như thế, mà lại đi xét quả cam tôi”?

Câu chuyện buôn cam trên đây nói lên thực trạng mai mỉa của xã hội ngày nay. Đức Kitô đã nhiều lần lên án gắt gao bọn mũ cao áo dài thể ấy:

Hỡi những kẻ giả hình,

Các ngươi không khác chi những nấm mồ bôi vôi

Vỏ ngoài thì xem xinh xắn lắm,

Nhưng bên trong là thây ma và mọi thứ xú uế.

Bên ngoài các ngươi có vẻ công chính đối với ngươi ta

Nhưng bên trong thì đầy giả dối và vô đạo”

(Mt 23,27-28)

Cụ Nguyễn Khuyến thì gọi họ là nộm, hữu danh vô thực:

Ghế tréo lọng xanh ngồi bảnh chọe

Nghĩ rằng đồ thật hóa đồ chơi.

III. BIẾT LẤY GÌ DÂNG CHÚA BÂY GIỜ?

Mỗi khi đọc câu Thánh vịnh:

Tôi biết lấy gì dâng lại cho Chúa

Để đền đáp những gì Ngài ban tặng cho tôi.

Tô xin nâng chén hồng ân cứu độ

Và kêu cầu danh thánh Chúa.

Chúng ta cảm thấy lòng dạt dào lòng tri ân đối với Chúa vì muôn hồng ân Chúa đã ban tặng cho ta. Nhìn trời, nhìn trăng sao, nhìn đất, nhìn hoa lá cỏ cây… tất cả đều nói lên tình thương yêu của Chúa đối với chúng ta, trong việc tạo dựng mọi sự vật cho chúng ta một cách dồi dào:

Chúng tôi xin một bông hoa, thì Ngài cho cả bó,

Chúng tôi xin một giọt nước, thì Ngài cho cả đại dương,

Chúng tôi xin một hạt cát, thì Ngài cho cả một bờ biển,

Chúng tôi xin một lá cỏ, thì Ngài cho cả một bồn,

Chúng tôi xin ăn, thì Ngài ban cho cả Thịt Máu Ngài.

(Mark Link)

Trước tình thương bao la của Chúa, chúng ta không bao giờ được trở nên những kẻ vô ơn. Chúng ta phải đáp lại tình thương đó bằng những của hiến dâng xứng đáng được Chúa chấp nhận. Của dâng Chúa phải là những của lễ thơm thảo nhất, thân thiết nhất mà chúng ta dành cho tha nhân.

Văn hào Louis Veuillot khi chết, có để lại một bao thơ dầy cộm với mấy hàng chữ ghi: “Tiền nhịn hút thuốc trong các mùa Chay để giúp cho người nghèo”.

Tư tưởng của Chúa, cách phán đoán và đánh giá sự vật cũng như con người của Ngài không phải là của chúng ta. Ngài thấu suốt tận thẳm sâu tâm hồn. Chúa không nhìn theo dáng vẻ bên ngoài đâu.

Thường người ta thích hình thức hơn là thực chất, thích tự đề cao giá trị thực sự. Trái lại, Thiên Chúa không nhìn diện mạo, y phục, không nhìn vật chất nhưng nhìn vào tâm hồn. Thánh Kinh đã không nói rằng “Người thấu suốt tâm can sao”? Không thể đánh lừa Ngài được đâu. Vàng quí không phải là thứ vàng giới thiệu trên tay, nhưng là thứ vàng hiện diện trong tâm hồn.: vàng ròng của tình yêu.

Chúng ta hãy theo gương bà góa trong Tin mừng, hãy biết cho đi, cho đi tất cả. Với hai đồng tiền kẽm, bà góa đã cho đi tất cả, trao phó tất cả mạng sống cho Thiên Chúa vì bà tin rằng Đấng bà tin theo không bao giờ để bà thiệt thòi. Vâng, khi chúng ta cho đi chính là lúc chúng ta nhận lãnh và nhận lãnh càng dồi dào những hồng ân của Thiên Chúa. Một thi sĩ đã gợi cho chúng ta những ý tưởng rất hay:

Quà tặng đẹp nhất

Cho kẻ thù, chính là sự tha thứ

Cho bạn bè, là sự trung thành

Cho các em bé, là những gương sáng

Cho một người cha, là lòng tôn kính

Cho một bà me, là trái tim ta

Và cho người lân cận, là đôi tay ta.

(Cảm hứng do Francis Balfour)

 

48. Chúa Nhật 32 Thường Niên

ĐỨC TIN HẠT CẢI ĐỨC MẾN CỔ THỤ

(Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL)

Nếu để ý đến tiến trình của bài Phúc Âm được Giáo Hội sắp xếp cho chu kỳ Phụng Vụ Năm B ở Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh, chúng ta thấy, kể từ sau khi Chúa Giêsu bắt đầu tỏ cho các tông đồ biết Mầu Nhiệm Thánh Thể của Người ở những Chúa Nhật từ 17 đến 22, rồi Mầu Nhiệm Vượt Qua của Người ở Chúa Nhật 24, xuất hiện một loạt bài Phúc Âm về những gương mù gương xấu phản đức tin, rồi sau đó là một loạt bài về gương sống đức tin là yếu tố cần thiết để nghênh đón Chúa Kitô tái giáng, một biến cố được Giáo Hội cử hành vào Lễ Chúa Kitô Vua, kết thúc Năm Phụng Vụ của Giáo Hội.

Về loạt bài Phúc Âm liên quan đến các thứ gương mù gương xấu phản đức tin, trước nhất là gương mù gương xấu của các môn đệ tỏ ra tranh giành địa vị, ở bài Phúc Âm Chúa Nhật 25; tiếp đến là gương mù gương xấu của các vị về việc tranh chấp quyền năng phe nhóm, ở bài Phúc Âm Chúa Nhật 26; sau đó là gương mù gương xấu của việc vợ chồng ly dị nhau, ở bài Phúc Âm Chúa Nhật 27; và đến nay là gương mù gương xấu về lòng tham lam của cải ở bài Phúc Âm Chúa Nhật 28.

Về loạt bài Phúc Âm liên quan đến gương sống đức tin gồm có, ở Chúa Nhật 29, gương sống đức tin bất chấp thử thách của anh em tông đồ Giacôbê và Gioan muốn được cùng với Thày uống cạn chén khổ nạn; ở Chúa Nhật 30, gương sống đức tin bất chấp áp lực thế gian của người mù ăn xin bên vệ đường ở Giêrichô không sợ đám đông vẫn khinh thường anh ta; ở Chúa Nhật 31, gương sống đức tin của người luật sĩ vốn thuộc về thành phần vốn bị Chúa nặng lời trách móc là giả hình (x Mt đoạn 23) song vì thành tâm tìm kiếm chân thiện nên vẫn nhận ra được tất cả những gì chí lý như ông ta vốn nghĩ nơi câu trả lời của Chúa Giêsu về giới răn trọng nhất; và ở Chúa Nhật 32 tuần này, gương sống đức tin đến hoàn toàn cậy trông phó thác của một bà góa nghèo khó nhưng hết lòng quảng đạo đã dâng cúng cho Chúa tất cả những gì mình có vào công qũi của đền thờ, dù chẳng là bao nhiêu và giá trị gì so với mọi người bấy giờ.

Có thể nói, nếu để ý kỹ, loạt bài Phúc Âm về gương lành gương sáng này là những gì hoàn toàn tương phản với loạt bài Phúc Âm về gương mù gương xấu trước đó. Chẳng hạn, gương sống đức tin đến chấp nhận đau khổ và cùng Thày phục vụ hơn hưởng thụ của cặp anh em tông đồ Giacôbê và Gioan đã soi sáng cho gương mù gương xấu tranh chấp nội bộ cũng như tranh chấp phái nhóm của các tông đồ, như được Thánh Ký Marcô ghi lại ở bài Phúc Âm Chúa Nhật 25 và 26. Rồi gương sống đức tin bất khuất của người mù ăn xin bên vệ đường đã là những gì soi sáng cho tình trạng cứng lòng đến mù quáng của con người “yêu chuộng tối tăm hơn ánh sáng” (Jn 3:19) nói chung, một tình trạng cứng lòng đến mù quáng được thể hiện điển hình nhất nơi việc vợ chồng ly dị nhau trong đời sống hôn nhân, như được kể đến ở bài Phúc Âm Chúa Nhật 27. Sau hết là gương sống đức tin nghèo khó mà hết sức quảng đại của bà góa dâng cúng cho đền thờ Chúa cũng đã là những gì soi sáng cho gương mù gương xấu của lòng tham vô đáy nơi thành phần giầu có khó vào nước thiên đàng, như được thấy ở bài Phúc Âm Chúa Nhật 28.

Giới răn trọng nhất ở bài Phúc Âm tuần trước đã hoàn toàn nên trọn nơi trường hợp bà góa dâng cúng tất cả những gì mình có này vào công quĩ đền thờ Chúa. Nếu bà không tin tưởng “Chúa, Thiên Chúa của chúng ta, là Chúa duy nhất”, bà sẽ không thể nào dám liều lĩnh dâng cùng tất cả những gì bà có như vậy cho Ngài. Ở đây không phải là số tiền nhỏ bé ấy của bà, mà là chính mạng sống của bà. Vì số bạc nhỏ bé ấy là tượng trưng cho chính mạng sống của bà, đúng như trường hợp của bá góa trong bài đọc thứ nhất của cùng Chúa Nhật tuần này. Nếu bà góa này đã dâng cho vị Chúa là Thiên Chúa, là Chúa duy nhất của bà, tất cả mọi sự bà có, liên quan đến mạng sống của bà như thế, không phải là bà đã thật sự “yêu Chúa hết lòng muốn, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực” của bà hay sao? Nếu thật sự không có Chúa, không có Đấng quan phòng toàn năng đầy yêu thương chăm sóc cho cả chim trên trời là loài động vật lẫn cỏ đồng nội là loài thực vật (x Mt 6:26,28) hoàn toàn thấp kém hơn con người là loài “nhân linh ư vạn vật”, thì việc làm của bà góa này, thay vì là một việc làm của một đức ái trọn hảo, một đức tin tuyệt đối, lại là một việc vô cùng ngu xuẩn và điên khùng, là một việc làm hoàn toàn mê tín dị đoan. Thế nhưng, bà góa mạnh tin ấy có ngờ đâu rằng, việc làm nhỏ mọn bằng tất cả lòng thành trước mắt thế gian ấy, một việc làm đáng hổ ngươi trước mắt thế gian ấy, lại được lọt vào mắt thần của Thiên Chúa, ở chỗ, chẳng những việc ấy được Ngài chứng giám qua con mắt loài người của Lời Nhập Thể là Chúa Giêsu bấy giờ, mà còn được Ngài khen tặng qua môi miệng của Con Thiên Chúa trước mặt thành phần là nền tảng Giáo Hội của Người Con này nữa.

Nếu Nước Thiên Chúa giống như hạt cải là hạt nhỏ nhất trong các hạt giống đã mọc lên trở thành cây to lớn, đến nỗi chim trời đến làm tổ trên cành của nó (x Mt 13:31-32), thì việc làm đáng xấu hổ của bá góa trước mắt thế gian bấy giờ, hay mấy đồng bạc cắc chẳng là gì của bà, chẳng khác gì như một hạt cải nhỏ bé nhất, so với các hạt giống đóng góp khác to bự hơn của bà rất nhiều, đã trở thành một cây vĩ đại đến làm gương cho cả loài chim trời có mặt bấy giờ là các tông đồ, thành phần vốn còn tham vọng tranh ngôi thứ, nhất là có cả kẻ tham lam tiền của sắp sửa tới lúc bán thày lấy bạc (x Jn 12:4-6; Mt 27:3).

Trường hợp bà góa mạnh tin trong bài Phúc Âm Chúa Nhật XXXII tuần này cho thấy, nếu người giầu có khó vào Nước Trời hơn lạc đà chui qua lỗ kim, như lời Chúa Giêsu khẳng định với các tông đồ ở bài Phúc Âm Chúa Nhật 28, thì người nghèo, như thực tế cho thấy, thường quảng đại hơn người giầu trong việc từ thiện bác ái, đóng góp làm việc chung. Sau đây là mấy trường hợp cụ thể đã được Mẹ Chân Phước Têrêsa Calcutta kể lại (xem dongcong.net) trong cuộc đời Mẹ đã phục vụ người nghèo nhất trong các người nghèo.

Một ngày nọ, Mẹ Têrêsa nhận được 15 đôla. Ông ta bị toàn thân bất toại chỉ còn bàn tay phải là có thể cử động được. Ông.

Hôm ấy, sau khi nhận được 15 Mỹ kim do một người bị bất toại 20 năm gửi tặng, một con người sống cô đơn, chỉ có điếu thuốc lá là người bạn duy nhất của ông, Mẹ Têrêsa đã đến thăm ông và an ủi ông, người đã chân thành nói với Mẹ rằng:

– Thưa Mẹ, con đã hết hút thuốc cả tuần nay rồi, và đó là số tiền con dành dụm được để biếu Mẹ hầu Mẹ có thể dùng nó mua cơm bánh cho các người nghèo khổ.

Câu truyện cảm động khác xẩy ra vào thời điểm thành phố Calcutta thiếu đường. Bấy giờ có một cậu bé độ khoảng 4 tuổi đã đến đưa cho tôi một bát đường mà nói với tôi rằng:

– Thưa Mẹ, con đã nhịn không ăn đường suốt cả tuần nay. Đây là chút đường để Mẹ có thể dùng cho các em mồ côi của Mẹ.

Chưa hết, ở một trường hợp khác, có một em nhỏ muốn đem rá gạo tôi mang tới ra vo để nấu cơm cho cả nhà ăn. Nhưng bấy giờ có một người đàn ông đến gặp và nói với tôi rằng:

– Thưa Mẹ, ở gần đây có một gia đình người Ân giáo có 8 đứa con, song cả tuần nay họ chẳng có một thứ gì cho vào bụng.

Nghe thế tôi liên bưng rá gạo theo người đàn ông ấy đến nhà người Ấn giáo ấy. Bước vào túp lều lụp xụp, tôi thấy những khuôn mặt xanh xao và đang bị quằn quại vì đói. Không thể cầm lòng, tôi đã trao tất cả rá gạo cho người đàn bà ấy. Bà ta cảm động nhận lấy rá gạo, rồi lập tức ngồi xuống chia ra làm hai phần. Sau đó, bà bưng một nửa ra đi . . . một lúc sau mới trở về… Lấy làm ngạc nhiên tôi mới lên tiếng hỏi bà:

– Bà đi đâu thế? Đem gạo cho ai vậy?

Bà ta liền trả lời:

– Người ta cũng đói lắm cơ!

– Nhưng họ là ai?

– Những ngưới ấy là những gia đình theo Hồi giáo. Họ cũng có những đứa con đói khổ như con đây. Họ ở bên kia đường mà cả tuần nay, họ cũng chẳng có gì để ăn hết.

Chúa Nhật tuần này, Chúa Nhật XXXII Thường Niên Năm B (ngày 9/11/2003), trùng với Lễ Cung Hiến Đền Thờ Gioan Latêranô. Bài Phúc Âm cho Chúa Nhật tuần này cũng hợp với ý nghĩa về đền thờ. Ở chỗ, như lời nguyện mở đầu cho thấy, Thiên Chúa là Thần Linh ở với Kitô hữu chúng ta nơi tâm hồn hay tấm lòng của chúng ta. Và tâm hồn hay tấm lòng của Kitô hữu chúng ta thực sự là đền thờ của Chúa một khi chúng ta tin tưởng nhận biết Ngài và kính mến Ngài hết mình và trên hết mọi sự. Việc bà góa trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này đã dâng cúng vào ngân qũi của đền thờ tất cả những gì bà có để dâng lên cho Chúa, đã không nói lên việc bà kính mến Thiên Chúa hết mình hay sao, và tấm lòng của bà không phải là đền thờ xứng đáng Chúa ngự trị hay sao? Bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này cho chúng ta thấy cái nhiều nhất, lớn nhất trước mặt Chúa không phải là những gì về vật chất mà là tấm lòng. Bà góa dâng cúng vào đền thờ Chúa ít nhất mà lại đẹp lòng Chúa nhất, vì bà đã quảng đại nhất, yêu mến nhất, dâng lên cho Chúa tất cả những gì mình có.

Lạy Chúa là Đấng thấu suốt mọi sự, thấu suốt lòng của mỗi người chúng con. Vì Chúa ngự trong lòng chúng con như ngự trong đền thờ của Chúa. Xin Mẹ Maria giúp tâm hồn chúng con trở nên đền thờ của Chúa, bằng việc kính mến Chúa hết mình, không tiếc Ngài một điều gì. Amen.

 

49. Cõi lòng góa phụ

(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Vân Lực)

Cuộc sống có những giá trị khác nhau. Nhiều giá trị lớn lao được tạo lập trong những hoàn cảnh tầm thường. Không dễ gì nhìn thấy kim cương trong những đống cát. Thế mà Đức Giêsu đã nhìn thấy một giá trị vô cùng lớn lao nơi cử chỉ của một góa phụ tầm thường. Cái nhìn đó đã đảo lộn mọi giá trị và gây nhức nhối cho những người sống dựa trên những tiêu chuẩn bên ngoài. Chúng ta thử tìm lại giá trị và ý nghĩa đích thực của cuộc sống nơi bài học lịch sử sống động đó.

Giá trị đích thực

“Những ông kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng, ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc.” (Mc 12:38-39) Đó là những giá trị bên ngoài nhưng đầy hấp dẫn đối với những người có chức vị trong xã hội như các kinh sư. Suốt đời họ chỉ tìm kiếm những cái bên ngoài đó để bù lấp khoảng trống lớn lao trong tâm hồn. Những giá trị hời hợt đó chỉ dừng lại ở đầu môi chót lưỡi, bộ áo thùng thình, chiếc ghế danh dự và mâm cao cỗ đầy. Không những thế ngay cả đời sống đạo đức cũng trở thành một trò hề. Họ “làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ” (Mc 12,40) để khoe khoang sự đạo đức của mình. Vì nếu không có những kinh nguyện đó, làm cách nào trốn được bổn phận ngoài xã hội? Việc đạo đức trở thành bức màn che dấu tính hèn nhát, lười biếng, thích ăn bám xã hội. Nhờ thế họ mới có lý do để “nuốt hết tài sản của các bà góa.” (Mc 12,40) Từ những hào nhoáng thế gian đến những việc thánh thiêng đạo đức, họ đều đóng kịch. Còn gì là sự thật nơi những nét kịch nghệ đó chăng?

Hình ảnh vị kinh sư cao ngạo đó chẳng khác những “người giàu bỏ thật nhiều tiền” (Mc 12,41) với một thái độ ngông nghênh, khinh thế ngạo vật. Đồng tiền trở thành một phương tiện để họ khoe cái tôi của mình. Tất cả những nét thời đại đó trở thành một vấn đề lớn trước cái nhìn của Đức Giêsu. Nếu Giáo Hội của Người cũng chỉ toàn những hạng người như thế, hỏi nhân loại còn mong chờ gì nơi Giáo Hội? Thế nên, Người phải hết sức chú ý để moi lên từ đám đông quần chúng một gương mẫu cho các môn đệ và cả Giáo Hội sau này. Giữa một rừng người đang thi nhau bỏ vào “thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ” những đống tiền kếch sù, “cũng có một bà góa nghèo đến bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng xu Rôma.” (Mc 12,42) So với số tiền của người giàu, hai đồng tiền kẽm có nghĩa lý gì? Mua được mấy viên gạch? Thế mà bà lại được Đức Giêsu đề cao: “Thầy bảo thật anh em: bà góa này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết.” (Mc 12,43) Giá trị không căn cứ trên số lượng. Cái không đáng kể mới đáng kể!

Phải có một cái nhìn thật sâu sắc, một quan tâm rất lớn mới thấy được vấn đề quá lớn trong một hành vi nhỏ mọn như vậy! Chính hành vi nhỏ mọn đó đã lột tả tất cả những hy sinh thật lớn lao vì “bà này đã túng thiếu, lại còn bỏ vào đó tất cả những gì bà có, tất cả những gì để nuôi thân.” (Mc 12,44) Tại sao bà có thể làm được như thế, nếu không phải vì bà đã cảm nhận được hồng ân cao cả và tin vào Thiên Chúa. Cõi lòng bà đã mở ra để hồng ân tràn trề qua việc hy sinh lớn lao bằng một số lượng rất hạn hẹp. Cả Tân lẫn Cựu Ước đều nêu lên mẫu gương bà góa thật cảm động. Lúc ngôn sứ Eâlia lên tiếng cầu cứu, bà góa Xarépta đã trả lời: “Có Đức Chúa, Thiên Chúa hằng sống của ông, tôi thề là tôi không có bánh. Tôi chỉ còn nắm bột trong hũ và chút dầu trong vò.” (1 V 17,12) Vì tin tưởng nơi lời Thiên Chúa hứa, “bà đi và làm như ông Eâlia nói.” (1 V 17,15) Hai bà đều có một lòng tin như nhau. Nhưng khác với bà góa Tân Ước không được đền bù rõ ràng, bà góa Xarépta được chứng kiến cảnh “hũ bột đã không vơi, vò dầu đã chẳng cạn, đúng như lời Đức Chúa đã dùng ông Eâlia mà phán.” (1 V 17,16)

Phải có một đức tin mạnh mẽ vô cùng mới có thể hy sinh tất cả như thế. Cả hai bà góa chỉ là hình ảnh của Đức Giêsu Kitô, Đấng “đã tự hiến tế chỉ một lần, để xóa bỏ tội lỗi muôn người.” (Dt 9,28) Sự hy sinh của Người lớn lao tới mức nào mà có thể xóa bỏ tội lỗi muôn người? Chắc chắn hy sinh đó không thể thua kém hai bà góa trên. Hy sinh của hai bà chỉ là hình bóng so với hy sinh thật sự của Đức Giêsu trên thập giá. Đúng hơn, hai bà xuất hiện vào những thời kỳ khác nhau, với những hy sinh khác nhau, tuy cùng một mức độ, để chuẩn bị cho một cao điểm, một hy sinh tột cùng. Quả thực, “vào kỳ kết thúc thời gian, Người đã xuất hiện chỉ một lần, để tiêu diệt tội lỗi bằng việc hiến thân chính mình.” (Dt 9,26) Dầu sao, hũ bột và dầu hay hai đồng tiền kẽm vẫn chỉ là những thứ vật chất bên ngoài, chứ chưa phải là chính mạng sống. Còn Đức Giêsu hy sinh chính mạng sống mình. Không còn hy sinh nào lớn hơn!

Những hy sinh hôm nay

Đức Giêsu đã hy sinh để giải thoát nhân loại và đem lại vinh dự làm con Chúa cho đàn em đông đúc. Đàn em đông đúc đó đã làm thành Giáo Hội tiếp tục sứ mạng cứu độ qua muôn ngàn thế hệ. Anh cả Giêsu đang nhìn đàn em tiến lên tiếp nối sứ mệnh hòa bình cho toàn thể nhân loại. Sứ mệnh hòa bình cũng là một mối phúc lớn nhất trong tám mối phúc. Lớn nhất vì chỉ có mối phúc này mới đem lại hồng ân làm “con Thiên Chúa” (Mt 5:9). Lớn nhất vì đòi hỏi nhiều nhất và đụng chạm tới tất cả các mối phúc khác. Muốn trở nên kẻ xây dựng hòa bình, không thể nào không sống công chính (Mt 5:6,10). Muốn sống công chính, chắc chắn phải có “tâm hồn nghèo khó.” (Mt 5:3), phải cố tạo một mọi điều kiện cho công lý ngự trị trên trái đất. Vì theo công đồng Vatican II, công lý là danh hiệu mới của hòa bình. Bà góa Xarépta đã biết thương đến người đói khát hơn mình, đã biết chia sẻ với người đói khát hơn mình. Chỉ biết hưởng một mình, sống chết mặc bay, chắc chắn sẽ tạo ra một hố sâu ngăn cách giàu nghèo vùi lấp tất cả trong cảnh hòa bình nghĩa trang. Muốn tránh khỏi thảm trạng đó, Kitô hữu phải noi gương “hiền lành” (Mt 5:4) của Đức Kitô. Hiền lành và bình an như bóng với hình.

Nhưng trên hết, muốn xây dựng hòa bình, tâm hồn Kitô hữu phải đầy ắp tình yêu thương. Làm sao yêu thương người khác được, nếu chúng ta không sống coi người khác là anh em? Làm sao có thể nhìn người khác như anh em, nếu mình không thấy hình ảnh Thiên Chúa nơi tha nhân? Thực tế, chỉ có những “tâm hồn trong sạch” mới “nhìn thấy Thiên Chúa” (Mt 5:8) nơi tâm hồn người khác mà thôi. Bà góa tại Xarépta hay tại cửa đền Giêrusalem đều có tâm hồn trong sạch, vì đã nhìn thấy Thiên Chúa trong tâm hồn Eâlia hay nơi công trình Thiên Chúa. Thời đại hôm nay cũng có thể kiếm thấy những chứng tá hòa bình rất chói sáng. Chẳng hạn Tổng thống Nam Hàn, ông Kim Đại Trọng là một người Công giáo rất nhiệt thành. Theo giáo sư Han Hong Soon, “Kim tổng thống đã làm chứng cho đức tin Công giáo của ông trong các hoạt dộng chính trị mà tiêu biểu nhất là hành vi ân xá cho hai công Chun Doo Hwan và Roh Tanh em Woo, những người đã nhiều lần âm mưu giết ông.” (VietCatholic 10.11.2000) Oâng đã kéo chú ý của toàn thể thế giới khi sang thăm viếng Bắc Hàn và nhất là khi lãnh giải thưởng Nobel Hòa Bình. Kim Đại Trọng là niềm hãnh diện chung cho người Công giáo Á châu nói chung, chứ không phải riêng cho dân Đại Hàn vì đã sống theo đúng Tin Mừng.

Nơi phần đất Á Châu đó, hôm nay còn cần rất nhiều chứng tá Phúc Aâm như Kim Đại Trọng. Có thể nói, không lục địa nào trên thế giới cần đến công lý hơn Á Châu. Tranh đấu cho công bình cần thiết hơn làm công tác bác ái. Xoa dịu nỗi khổ đau bên ngoài không bằng tiêu diệt mầm mống bất công nằm sẵn trong tâm hồn con người và cơ chế xã hội. Hơn nơi nào và bất cứ lúc nào, Á Châu đang cần đến những bước chân người rao giảng Tin Mừng hòa bình. Nhưng Tin Mừng hòa bình chỉ được rao giảng bằng sức mạnh tình yêu và chứng từ công lý nơi đời sống Kitô hữu.

 

50. Cho tất cả

(Suy niệm của Jean Yves Garneau)

Hai nhân vật được lưu ý trong các bài sách thánh hôm nay là hai phụ nữ. Hai bà goá. Tình hình tài chánh của họ rất khó khăn. Không việc làm. Không nơi nương tựa. Họ sống trong cơ cực. Họ dễ trở nên mồi cho những kẻ khai thác. Họ thuộc thành phần những kẻ bị xã hội ruồng bỏ. Vì họ mà Chúa Giêsu đã đến. Không lạ gì Ngài quan tâm đặc biệt đến bà goá mà Ngài thấy trong Đền Thờ.

Cho những gì ta có … Cho những gì ta là …

Hai người phụ nữ làm một cử chỉ rất quảng đại, họ cho những gì có thể nuôi sống họ. Chính cuộc sống của họ mà họ cho đi, khi cho cái ít ỏi mà họ có.

Bà goá ở Sarepta nói: “Tôi chỉ có trong hũ một nắm bột, và trong bình một chút dầu thôi”. Bà thêm: “Tôi và con tôi ăn, rồi chúng tôi chết”. Một sự hiến dâng dẫn đến cái chết. Hiến dâng những gì mình có tức là cho đi con người của mình, sự sống của mình. Đó thực sự là vấn đề.

Cũng một vấn đề như vậy nơi bà goá lên Đền Thờ, trước mặt những kẻ bỏ bớt những món tiền dư thừa, bà đã cho đi số tiền ít ỏi nhưng cần thiết cho mình. Chúa Giêsu rất sáng suốt, Ngài thấy rất rõ những gì đã xẩy ra. Ngài nói: “Bà đã cho đi hết số tiền bà có để sống”. Nơi đây nữa, hiến dâng những gì mình có là hiến dâng chính mình. Khi dâng cúng số tiền mình có bà goá đã dâng hiến chính cuộc sống của bà.

Khi nhìn lại cử chỉ của những người phụ nữ này, làm sao có thể không nhớ đến Chúa Giêsu. Những gì các bà goá này đã làm, Chúa Giêsu sẽ làm. Chính Ngài cũng sẽ cho đi những gì Ngài có; Ngài cũng sẽ hiến dâng mạng sống mình. Cách tự do! “Mạng sống của Tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính Tôi tự ý hy sinh mạng sống mình” (Ga 10,18). Việc hiến dâng của các bà goá loan báo việc hiến dâng của Con Thiên Chúa.

Mạo hiểm khi cho.

Những người giàu có lên Đền Thờ đã dâng những số tiền lớn, nhưng của cải họ dâng hiến vẫn là nhỏ bé, dè xẻn. Khi dâng hiến như vậy, họ không phải đánh liều về bất cứ điều gì cả, nhất là mạng sống của họ! Khi bỏ những số tiền lớn vào hòm cúng, họ không quên giữ lại những số tiền lớn hơn nhiều để bảo đảm cuộc sống và một cuộc sống dư dả. Chúa Giêsu không bị đánh động chút nào cả trước việc dâng cúng này. “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Mc 8,35).

Hai bà goá đã liều mạng sống mình, các bà đã dám tin tưởng hoàn toàn nơi Thiên Chúa. Bà thứ nhất đã được thưởng: Hũ bột của bà không bao giờ vơi, bình dầu của bà không bao giờ cạn. Bà thứ hai cũng được thưởng: Bà được Chúa Giêsu khen ngợi và Thiên Chúa chúc lành.

Tiền bạc dư thừa của chúng ta ở đâu? Cái cần thiết cho chúng ta ở đâu? Phải nêu lên câu hỏi này, vì trước mặt Thiên Chúa phẩm chất cuộc sống chúng ta được đo lường bằng phẩm chất của những điều ta hiến dâng. Cho của dư thừa, tức là không cho gì cả. Một của hiến dâng như thế không đánh động Thiên Chúa chút nào. Mọi sự trở thành nghiêm túc và đẹp lòng Thiên Chúa, khi ta cho đi chính cái cần thiết, khi ta cho đi chính cái hầu như không thể thiếu được trong cuộc sống của mình, khi cho đi một chút bản thân mình. Lúc đó Thiên Chúa sẽ xem xét đoái nhìn.

Ở đây ta phải xét đến những cử chỉ cụ thể chứ không phải những ý tưởng tốt. Ta cũng phải hiểu rõ Tin Mừng nữa. Vấn đề không phải là bỏ công ăn việc làm hoặc rút hết trương mục của mình trong ngân hàng chẳng hạn, nhất là khi ta có trách nhiệm đối với những người khác nữa. Nhưng, mặc dù có trách nhiệm, ta vẫn phải nhận định những gì là cần thiết, những gì là dư thừa trong cuộc sống.

Đối diện với thân xác bị phó nộp.

Chúng ta đang cử hành Thánh lễ. Nếu được sống cách tích cực, Thánh lễ sẽ lôi cuốn chúng ta bước theo Chúa Kitô. Lát nữa đây linh mục chủ tế sẽ nói: “Này là Mình Thầy, sẽ bị nộp vì các con”. Những lời này không chỉ nhắc lại một thực tại thuộc quá khứ, chúng còn diễn tả một thực tại luôn luôn hiện có. Chúa Giêsu tự hiến, Chúa Giêsu phó nộp mạng sống Ngài vì chúng ta! Những gì Ngài nói về bà goá được áp dụng cho Ngài: “Ngài đã cho hết … Ngài đang cho hết … Ngài tự hiến …”

Chúng ta sắp rước Mình Thánh Chúa. Giây phút hạnh phúc! Nhưng đáp lại, chúng ta có sẵn sàng hiến dâng mạng sống của chúng ta không? Chúng ta có sẵn sàng cho đi chẳng những cái dư thừa trong cuộc sống của chúng ta, mà cả chính cuộc sống chúng ta nữa không?

 

51. Chúa Nhật 32 Thường Niên

MỘT GÓA PHỤ ĐÃ CHỈ CHO CHÚNG TA CON ĐƯỜNG.

(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ – Charles E. Miller).

Chúng ta có thể xem trên tivi một trong những thí nghiệm, người ta đặt đầy những đồng xu trên lề đường đông người rồi nhìn xem có ai bỏ chút thời giờ cúi nhặt nó không. Thường thường là không có một người nào, bởi vì một xu ngày hôm nay chả có giá trị gì.

Hai đồng bạc nhỏ trị giá một xu, đó là tất cả những gì mà bà góa trong Phúc Âm ngày hôm nay có và đóng góp vào trong Đền Thờ. Vào thời hiện tại, người đàn bà này chắc thì không trẻ, một góa phụ mảnh khảnh và thấp, đi như chạy qua những vùng lân cận với đôi giày vận động viên Nike. Bà ta thì giống với một bà già, nhỏ bé trên đôi giày Nike của hãng K-mart, có lẽ giống như một người không nhà hoặc một người đàn bà xấu xí, một người đáng tức cười và không được kính trọng trong xã hội của chúng ta.

Chúa Giêsu không hề lơ là với người đàn bà nhỏ bé trong Phúc Âm này. Ngài đã xúc động bởi cử chỉ của bà góa này. Người đã nhận ra được món quà giá trị mặc dù giá trị của nó chẳng bao nhiêu, chúng được chọn để góp phần vào xây dựng Đền Thờ, chính điều đó đã làm cho Người chú ý đặc biệt tới bà góa này. Hai đồng bạc nhỏ của bà thật đáng giá, trong đôi mắt cảu Chúa Giêsu bởi vì nó đã giới thiệu một sự quảng đại lạ lùng. Nó là tất cả những gì mà người đàn bà có để sống.

Tôi hy vọng rằng người đàn bà quảng đại này nghe thấy những gì mà Chúa Giêsu đã nói về bà. Nhiều người ngạc nhiên vì Chúa Giêsu không nói trực tiếp với bà và ngợi khen bà về sự tốt lành của bà. Có lẽ, Chúa Giêsu đã nhìn thấy lòng của bà và nhận biết rằng ân sủng của Thiên Chúa nơi đàn bà này đã thấu hiểu được ý nghĩa gương mẫu trong sách các Vua mà chúng ta đọc trong bài đọc thứ nhất chúa nhật hôm nay. Góa phụ ở Zarephath đã được Thiên Chúa chúc phúc vì sự quảng đại của bà trong việc nuôi nấng tiên tri Êlia, mặc dù có nạn đói xảy ra trong vùng, bà và con trai bà có thể ăn suốt một năm từ hũ bột và bình dầu mà bà đã chia sẻ cho vị tiên tri của Thiên Chúa.

Chúng ta thường được kêu gọi hãy trở nên quảng đại. Một Thánh Lễ Công giáo có vẻ giống như là bất toàn nếu không chú ý tới một khía cạnh đặc biệt, là chúng ta cần phải giúp đỡ những người đang có những nhu cầu khác nhau. Bởi vì một số nhà lãnh đạo đã muốn mở ra nhiều cuộc trợ cấp để thay đổi những số phận, cần cho chúng ta trở nên từ thiện ngay cả khi bị bắt buộc nữa. Mỗi thành phố đều có những người không nhà, người đói, thật không dễ để bỏ đi những sự lười biếng hoặc vô trách nhiệm, nhưng một người Công giáo nhìn họ như là Đức Kitô đang cần giúp đỡ. Mọi người Công giáo phải chống lại sự phá thai, và duy trì sự sống, nhưng chúng ta cũng phải ra tay trợ giúp phụ nữ lỡ thời, phụ nữ trẻ mang thai có đám cưới hoặc không có đám cưới, để cho họ can đảm cho những đứa trẻ còn nằm trong bụng mẹ có cơ hội để sinh ra.

Khi chúng ta quảng đại thì đó không phải là điều sai khi chúng ta nghe Chúa Giêsu nói với Cha Ngài về những điều tốt lành chúng ta làm, nhưng quan trọng hơn là chúng ta phải giữ cho đôi mắt của mình gắn chặt vào Chúa Giêsu. Gương mẫu của Chúa Giêsu là tuôn đổ tình yêu quảng đại dành cho chúng ta mà Ngài đã ban cho chúng ta ở trên thánh giá, Ngài đã vươn mình ra thu góp hết mọi người trong hố sâu tội lỗi để kéo chúng ta đến với Ngài. Không một người nào là không có ý nghĩa đối với Ngài, giống như là một đồng xu của không hề có giá trị của bà góa Ngài đã đánh giá cao. Tất cả chúng ta đều quý giá trong đôi mắt Ngài.

Khi chúng ta đến tham dự Thánh Lễ, chúng ta cảm nghiệm được Chúa Giêsu trong Thánh Thể. Ngài đã nuôi dưỡng chúng ta bằng Thịt và Máu Ngài. Bí tích Thánh Thể là một món quà lớn lao và vĩ đại hơn món quà được ban cho bà góa ở Zarephath như chính Chúa Giêsu thì lớn hơn Êlia.

Với món quà của bí tích Thánh Thể như là động cơ thúc đẩy và thêm sức mạnh cho chúng ta, để chúng ta có thể bắt đầu thực hiện sự quảng đại của bà già nhỏ bé, người góa phụ đã cho tất cả những gì mình có để sống.

 

52. Coi chừng hàng giả!

(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)

Theo một thống kê mới đây, Việt Nam mỗi năm tiêu thụ hơn 200 triệu lít nước mắm, 98% số hộ gia đình sử dụng nước mắm trong các bữa ăn. Tuy nhiên, rất ít người có thể phân biệt được nước mắm pha chế công nghiệp với sản phẩm được sản xuất theo cách truyền thống, do các chương trình quảng cáo, cũng như trên bao bì các sản phẩm, hầu như không thể hiện điều này.

Mặc dù xuất hiện sau, nhưng dòng sản phẩm nước mắm pha chế công nghiệp đang chiếm từ 60-70% thị phần trong nước. Các làng nghề nước mắm truyền thống đang phải vất vả cạnh tranh để tồn tại và ngày càng trở nên yếu thế.

Nước mắm pha chế công nghiệp là loại nước mắm không có vi sinh. Khi nước mắm không có vi sinh là nước mắm giả. Vì theo định nghĩa nước mắm là: Cá ướp với muối trong thùng gỗ, hay chum sành sau một thời gian, nhờ vi sinh kích thích lên men, cho ra một loại nước cốt (juice) gọi là nước mắm. Theo quy trình đặc biệt này, nước mắm là sản phẩm độc nhất vô nhị trên thế giới của Việt Nam. (SGTT)

Tuy nhiên hiện nay nước mắm pha chế công nghiệp đang lên ngôi, dù chẳng cần trang bị thùng chượp, hay chum vại, khiến cho nước mắn chánh hiệu Phan Thiết, Phú Quốc đang phải đối diện nguy cơ phá sản và bị xóa sổ ngay chính trên quê nhà.

Bài tường thuật Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng tha thiết cảnh báo cái thiệt giả về lòng đạo đức. Hôm nay, cũng có thể Người sẽ cảnh báo: “Coi chừng hàng giả!”

Hàng giả lên ngôi

Tuy bề ngoài mẫu mã bắt mắt, quần áo à la mode, cũng tiếp thị phô trương rộng rãi, cũng được chào đón trang trọng, luôn xếp đầu bảng, luôn được thiên hạ ngưỡng mộ, nhưng trang bị toàn đổ giả từ trong đến ngoài, các vị kinh sư đã không thể dễ dàng lọt qua cặp mắt sắc sảo của Chúa Giêsu. Người phải cất tiếng cảnh báo mọi người phải coi chừng, kẻo bị lừa.

“Anh em phải coi chừng những ông kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng. Họ ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc.” (Mc 12, 38 -39)

Hàng giả, hàng gian, hàng nhái đó không những độc hại, nguy hiểm, mà còn nhẫn tâm vơ vét hầu bao, vốn đã lép kẹp, của người nghèo khó, bần cùng, Không những tham lam vô độ, mà còn chuộng thói giả hình đạo đức. “Họ nuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ. (Mc 12, 38-40)

Hàng thật quý hiếm

Dẫu vậy, vẫn còn hàng thật quý hiếm khiêm tốn ẩn khuất đâu đó, cũng đang có nguy cơ biến mất trong cái xã hội đảo điên, chuộng đồ giả hơn đồ thiệt. Đó là người sống trung thành với Tin Mừng, nghèo khó, khiêm nhường, vâng phục, nhân ái, nhẫn nhục, tha thứ, hy sinh, tận hiến cho Chúa. Vì số lượng hạn chế, nên hàng thật càng trở nên quý hiếm!

“Cũng có một bà goá nghèo đến bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng bạc Rôma. Đức Giêsu liền gọi các môn đệ lại và nói: “Thầy bảo thật anh em: bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết.”(Mc 12, 42-44)

Chúa Giêsu luôn lội ngược dòng đời, không a dua theo thói đời, không bao giờ chấp nhận trò ma mãnh, lọc lừa, dối gian, cũng không chịu khôn ngoan im lặng trước bất công, dù Người biết sẽ phải trả giá cho lời trung ngôn nghịch nhĩ, vì đã sẵn sàng hy sinh làm giá cứu chuộc con người.

Theo các nhà chú giải Kinh Thánh, thì Người không khen ngợi bà góa nghèo này, mà chính là ngậm ngùi, thương xót cho thân phận bọt bèo bị áp bức, bị bóc lột thậm tệ bới lớp người lãnh đạo, nhân danh bảo vệ Lề Luật. Các đấng bậc đã dạy bà phải “hy sinh hết mình” và đó là điều đáng tội nghiệp cho người nghèo khổ.

Thưởng phạt công minh

Không ngần ngại, Chúa Giêsu lên án đích đáng hàng giả.“Những người ấy sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn”. Một thái độ dứt khoát, không tính toán hơn thiệt, đúng theo sự thật và công lý.

Trong khi thiên hạ cứ mãi khún núm, kính nể những người khoác bên ngoài cái mã hào nhoáng, bóng bẩy, se sua lụa là, cao sang quyền quý, thì Chúa Giêsu lại phớt lờ họ, không hề tỏ ra gần gũi, hay trọng vọng, vì Người không xem xét hời hợt bên ngoài, mà nhìn thấu suốt tâm can, tình cảm, tư tưởng và hành động, đủ biết họ thế nào.

Ngược lại, Người đặc biệt quan tâm đến những thân phận bần cùng, cơ hàn, thất thế, bịnh hoạn, đui mù, câm điếc, què quặt, xoàng xĩnh, bị rẻ rúng, bị đẩy ra bên ngoài lề xã hội, như bà góa bụa này, như anh mù Batimê, như bà cụ loạn huyết kinh niên, người phung củi, người quỷ ám..

Chúa Giêsu lý giải minh bạch công đức của bà góa nghèo nàn. Vì bà đã dám từ bỏ hoàn toàn, dám hy sinh cả vốn liếng nhỏ nhoi nuôi thân, chứ không phải của cải dư thừa như người giàu có: “Quả vậy, mọi người điều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để sống”. (Mc 12, 44)

Người xác nhận việc công đức của bà góa có gía trị gấp ngàn, gấp vạn lần người dư giả: “Thầy bảo thật anh em: bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết.(Mc 12, 43)

Như vậy số lượng không thể so sánh với chất lượng, hình thức không thể sánh với nội dung. Những giá trị thế gian không thể sánh nổi giá trị thánh thiêng. Điều mà ngay người Kitô thời nay dễ quên, hay dễ lộng giả thành chân, dễ lẫn lộn giữa giá trị thế gian phù vân với giá trị Nước Trời viên mãn.

“Xin nước bà Samaritana, mượn lừa cỡi vào thành Giêrusalem, mượn thuyền ngồi giảng, mượn phòng lập Phép Thánh Thể, nhìn đồng tiền bà góa bỏ vào hòm cúng, chủ nhân đâu ngờ việc không đâu mà mình được hân hạnh đến thế!” (Đường Hy Vọng, số 825)

Lạy Chúa, xin cho con luôn sống thật thà, không giả hình, và mở rộng lòng con để trao ban quên mình, không chút do dự tính toán, như Chúa Giêsu đã hy sinh cả mạng sống cứu chuộc loài người.

Lạy Mẹ Maria, xin giúp đỡ con đừng vội phán đoán người khác qua vẻ bên ngoài, mà biết nhìn vào tâm hồn tha nhân, để thông cảm, tha thứ, chia sẻ và giúp đỡ trong tình bác ái của Chúa Giêsu Kitô. Amen.

 

53. Chúa Nhật 32 Thường Niên

(Suy niệm, Chú giải Tin Mừng của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)

1V 17: 10-16

Bài Đọc I thuật lại tấm lòng quảng đại của một bà góa ngoại giáo xứ Xa-rếp-ta, bà cho vị ngôn sứ Ê-li-a tất cả phần còn lại của mình trong thời kỳ đói kém để đón nhận tất cả từ Thiên Chúa.

Dt 9: 24-28

Đoạn trích thư gởi tín hữu Do thái ca ngợi việc Đức Giê-su đã tận hiến một lần cho tất cả để vĩnh viễn tiêu hủy tội lỗi và thánh hóa những ai tin vào Ngài.

Mc 12: 38-44

Tin Mừng thuật lại tấm lòng quảng đại của một bà góa nghèo khổ, bà cho tất cả những gì mình có. Xét về lượng, hai đồng xu dâng cúng của bà thật là khiêm tốn, nhưng về phẩm, của dâng này chất chứa biết bao lòng yêu mến và niềm tin của bà đối với Chúa.

BÀI ĐỌC I (1V 17: 10-16)

Trong bộ Kinh Thánh Cựu Ước, hai cuốn sách Các Vua chứa đựng một số lượng lớn những giai thoại ngoạn mục; tập truyện về ngôn sứ Ê-li-a và ngôn sứ Ê-li-sa minh họa rõ nét nhất điều này. Được lưu truyền lâu dài trong dân gian trước khi được biên soạn, những chuyện tích này được thêu dệt thành những chuyện sử thi.

Cuộc mạo hiểm của ngôn sứ Ê-li-a đến xứ Xa-rép-ta minh chứng về tấm lòng quảng đại của những người nghèo và chuẩn bị cho câu chuyện Tin Mừng về tấm lòng quảng đại của một bà góa. Hơn nữa, hoàn cảnh, nơi chốn, các nhân vật đem lại cho câu chuyện một tầm mức tôn giáo.

Hoàn cảnh của ngôn sứ Ê-li-a

Ngôn sứ Ê-li-a sống vào thế kỷ thứ chín trước Công Nguyên, trong vương quốc miền Bắc, dưới triều đại vua A-kháp (874-853 tCn). Ông thi hành sứ vụ ngôn sứ của mình trong một hoàn cảnh rất gian nan. Vua A-kháp cưới công chúa I-da-ven ngoại giáo. Bà hoàng hậu này rất sùng đạo thờ thần Ba-an nên tìm mọi cách loại bỏ việc phụng thờ Đức Chúa trong vương quốc Ít-ra-en, trong khi vị ngôn sứ ra sức bảo vệ việc phụng thờ Đức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en.

Ngôn sứ Ê-li-a tuyên sấm trước vua A-kháp một cơn hạn hán sẽ giáng xuống xứ sở vì tội thờ ngẫu tượng. Cơn hạn hán này sẽ kéo dài trong suốt ba năm. Ngôn sứ Ê-li-a rời miền Sa-ma-ri, nơi không dung thứ ông vì lòng oán hận của hoàng hậu I-da-ven đối với ông; ông đến tá túc ở phía bắc sông Gio-đan, bên con suối vẫn còn nước chảy. Nhưng khi con suối này cạn khô, ngôn sứ Ê-li-a ra đi tìm một nơi lánh nạn khác. Ông đi về miền duyên hải Phê-ni-xi ngoại giáo và đến làng Xa-rếp-ta, cách địa hạt Xi-đôn khoảng mười lăm cây số về phía đông và ở lại đó.

Cuộc gặp gỡ của vị ngôn sứ với một bà góa xứ Xa-rếp-ta

Một bà góa xứ Xa-rếp-ta nhận ra người khách lạ xin bà một chút nước và miếng bánh là một người Do thái, vì thế bà trả lời: “Có Đức Chúa, Thiên Chúa hằng sống của ông tôi thề là tôi không có bánh”.

Được định vị vào trong bối cảnh sứ vụ của ngôn sứ Ê-li-a, tình tiết này mang đến một lời chứng đáng chú ý khác về những người khiêm hạ mà các ngôn sứ Cựu Ước luôn luôn nói đến. Nhưng ngoài ra, tình tiết này nêu bật sự tương phản giữa thái độ của một bà góa nghèo ngoại giáo xứ Xa-rếp-ta, bà bày tỏ trọn niềm tin tưởng vào Đức Chúa khi phó thác vào lời hứa của vị ngôn sứ của Ngài, với cách hành xử của một người phụ nữ ngoại đạo khác, hoàng hậu I-da-ven, bà này dùng quyền lực và sự giàu có của mình để lôi kéo dân Chúa sa vào tội bội giáo. Bà góa ngoại giáo xứ Xa-rếp-ta sẽ được trích dẫn trong Tin Mừng như báo trước cuộc hoán cải của lương dân (Lc 4: 25-26).

Mặt khác, được định vị vào trong khung cảnh của cuộc khủng hoảng tôn giáo khắp vương quốc Ít-ra-en, cuộc mạo hiểm của ngôn sứ Ê-li-a đến xứ Xa-rép-ta cung cấp cho vị ngôn sứ một dịp chứng tỏ rằng chính Đức Chúa – chứ không phải thần Ba-an – là Đấng phân phát đích thật những của cải trần gian. Chính Ngài ban cho những ai tin tưởng phó thác vào Ngài, ngay cả vào lúc túng thiếu.

BÀI ĐỌC II (Dt 9: 24-28)

Tác giả thư gởi tín hữu Do thái tiếp tục chứng minh chức tư tế của Đức Ki-tô cao trọng hơn bội phần chức tư tế của vị Thượng Tế Cựu Ước. Tác giả định vị viễn cảnh trên hai bình diện: bình diện “trên trời”: Đức Ki-tô vinh quang là Đấng Trung Gian bên cạnh Chúa Cha, và bình diện “dưới thế”: chức vụ trung gian đòi hỏi Đức Ki-tô phải vượt qua cuộc Tử Nạn.  Như trước đây, tác giả sử dụng những so sánh của mình, mặc nhiên hay minh nhiên – nghi lễ Đền Tội ở đó vị thượng tế Cựu Ước dâng hy lễ lên Thiên Chúa để cầu xin Thiên Chúa tha thứ tội lỗi cho mình và toàn thể cộng đoàn con cái Ít-ra-en vì đã trót phạm trong năm qua.

Chức vụ cao trọng của Vị Thượng Tế Tân Ước

Vào ngày đại lễ Đền Tội, để lời chuyển cầu của mình có thể thấu đến Thiên Chúa chừng nào có thể, vị thượng tế Cựu Ước vào tận nơi cực thánh Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, “do bàn tay người phàm làm ra”; trong khi Đức Ki-tô “đã vào chính cõi trời”. Vị thượng tế Cựu Ước không thể đến tận nơi Thiên Chúa ngự, nhưng chỉ đến chỗ mà xưa kia đặt Hòm Bia Giao Ước, biểu tượng nơi ở cõi thế của Đức Chúa; trong khi Đức Ki-tô “đứng trước mặt Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta”.

Phẩm chất cao trọng của Hy Lễ Tân Ước

Vị thượng tế Cựu Ước dâng máu của tế vật chứ không phải máu của chính mình, trong khi Đức Ki-tô dâng máu của chính mình. Thế mà người ta có thể dâng hiến mạng sống mình chỉ một lần. Vì thế, hiến lễ tự nguyện và tự hiến của Đức Giê-su có một hiệu quả dứt khoát. Những hy lễ được vị thượng tế Cựu Ước hằng năm dâng lên để xin ơn tha thứ tội lỗi, trong khi hy lễ của Đức Giê-su có giá trị cho mọi thời và mọi thế hệ.

Một thế giới mới không bóng dáng tội lỗi

Việc Đức Ki-tô nhập thể đã đặt Ngài vào trong mối liên đới với các tội nhân, nhằm tiêu diệt tội lỗi, như sấm ngôn về người tôi trung của Đức Chúa “đã hiến thân chịu chết, đã bị liệt vào hàng tội nhân; nhưng thực ra, nó đã mang lấy tội muôn người và can thiệp cho những kẻ tội lỗi” (Is 53: 12). Việc Đức Ki-tô xuất hiện vào Ngày Quang Lâm sẽ không còn bất kỳ liên hệ nào với tội lỗi. Đức Ki-tô sẽ phục hồi một thế giới không bóng dáng của sự chết và tội lỗi. Ngài sẽ cứu độ những ai trông cậy vào Ngài.

TIN MỪNG (Mc 12: 38-44)

Mới đây, những người Biệt Phái đã ca ngợi nhân cách của Đức Giê-su: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật. Thầy chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta, nhưng theo sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa” (Mc 12: 14). Tiếc thay họ đã sử dụng lời ngợi ca này để gày bẫy Đức Giê-su, nhưng lời ca ngợi này càng minh chứng đây là nhân cách thường hằng của Ngài mà đoạn Tin Mừng hôm nay bày tỏ rõ nét nhất.

Khi đặt hai lời dạy của Chúa Giê-su bên cạnh nhau: tránh xa thói giả hình của người Biệt Phái (12: 38-40) và noi gương cách sống đạo của một bà góa (12: 41-44), thánh Mác-cô muốn nêu bật sự tương phản giữa cách sống đạo của các kinh sư, tiêu biểu cho thành phần trí thức có quyền thế và địa vị, với thái độ khiêm hạ và quảng đại của một bà góa, đại diện cho thành phần hèn mọn nhất.

Tránh xa thói giả hình của những kinh sư (12: 38-40):

Các kinh sư là những người học rộng biết nhiều về Kinh Thánh và về truyền thống các tiền nhân, vì thế họ là những nhà chú giải có thẩm quyền. Nhưng vì tự hào và tự phụ về kiến thức của mình, họ tự hình thành nên một giai cấp tách biệt quần chúng. Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su thẳng thắn vạch mặt chỉ tên họ và phác họa chân dung của họ với vài nét tiêu biểu mang tính châm biếm: “Những ông kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng. Họ ưa thích chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cổ nhất trong đám tiệc”.

Nhưng lời tố cáo nghiêm khắc nhất mà Ngài gởi đến các kinh sư chính là: “Họ nuốt hết tài sản của các bà góa”. Bản văn không nói cho chúng biết làm thế nào những kinh sư nuốt hết tài sản của các bà góa. Phải chăng họ đã khai thác sự nhẹ dạ cả tin của những người hiền lành chất phát mà thu góp tiền của cho riêng mình? Hay họ lợi dụng uy tín của những người giải thích lề luật có thẩm quyền mà giải thích lề luật theo chiều hướng có lợi cho mình? Hoặc với tư cách những nhà thông luật, họ biết rất rõ luật Mô-sê lên án nghiêm khắc những ai ức hiếp mẹ góa con côi và hứa cơn thịnh nộ của Đức Chúa (Xh 22: 21), nhưng lại nhắm mắt làm ngơ trước thực trạng bất công của những kẻ có thế có quyền hà hiếp bóc lột những người thấp cổ bé miệng? Chúng ta không biết chính xác, nhưng quả thật, ngôn sứ I-sai-a đã nghiêm khắc tố cáo thái độ này rồi: “Khốn thay những kẻ đặt ra các luật lệ bất công, những kẻ viết nên các chỉ thị áp bức, để cản người yếu hèn hưởng công lý, tước đoạt quyền lợi người nghèo trong dân tôi, để biến bà góa thành mồi ngon cho chúng, và bóc lột kẻ mồ côi” (Is 10: 1-2).

Về đời sống tôn giáo, “họ còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ”. Việc đọc kinh cầu nguyện lâu giờ là một nhu cầu tâm linh tất yếu của bất cứ tín hữu đạo hạnh nào; nhưng điều đáng nói ở đây chính là “họ làm bộ” chứ không thực tâm, chỉ cốt phô trương nếp sống đạo hạnh của mình trước mặt người đời. Quả thật, họ cầu nguyện tại những nơi và theo những cách để ai cũng phải thấy rằng họ là những người đạo hạnh. Ngay từ bài diễn từ trên núi của Ngài, Đức Giê-su đã lên án nghiêm khắc thói đạo đức giả này rồi: “Khi cầu nguyện, anh em đừng làm như bọn đạo đức giả: chúng thích cầu nguyện trong các hội đường, hoặc ngoài các ngã ba ngã tư, cho người ta thấy” (Mt 6: 5).

Đức Giê-su kết thúc những lời lên án thói giả hình của kinh sư như sau: “Cho nên, họ sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn” mà Ngài đã khai triển trong phần kết thúc dụ ngôn “Người đầy tớ trung thành đợi chủ trở về”: “Đầy tớ nào đã biết ý chủ mà không chuẩn bị sẵn sàng, hoặc không làm theo ý chủ, thì sẽ bị đòn nhiều… Hễ ai đã được cho nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều, và được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn” (Lc 12: 47-48).

Lời kết án của Đức Giê-su xem ra quá cứng rắn, nếu không muốn nói vơ đũa cả nắm, bởi vì ngay trước đoạn Tin Mừng này, thánh Mác-cô kể cho chúng ta một người kinh sư thành tâm thiện chí tìm kiếm Nước Thiên Chúa đến nổi Đức Giê-su đã khen: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!” (12: 34). Dĩ nhiên, chúng ta không phủ nhận tính lịch sử của đoạn Tin Mừng này, chính vì sự xung đột giữa Đức Giê-su và những giai cấp lãnh đạo Do thái đã dẫn đến cuộc Tử Nạn của Ngài. Nhưng đoạn Tin Mừng này khó thoát khỏi ảnh hưởng của những cuộc khẩu chiến giữa Giáo Hội tiên khởi và Hội Đường Do thái khi Tin Mừng được biên soạn.

Tuy nhiên, khi đoạn Tin Mừng được công bố trong cộng đoàn Ki-tô hữu tiên khởi, nó mang tính thời sự và vẫn tiếp tục mang tính thời sự xuyên suốt lịch sử của Giáo Hội tại thế. Việc Đức Giê-su lên án nghiêm khắc thói giả hình của các kinh sư là những lời nhắc nhở cho các môn đệ của Ngài. Đến phiên mình, các môn đệ của Ngài sẽ là những người có nguy cơ đi lại lối mòn xưa cũ của những người kinh sư này, tự hào tự phụ vì đã được sống mật thiết với Thầy, đã nhận được trực tiếp lời giáo huấn của Thầy, nên đòi hỏi được hưởng những đặc quyền đặc lợi trong các cộng đoàn Ki-tô hữu. Các môn đệ của Đức Giê-su phải tránh xa đừng để mình rơi vào những thói giả hình của các kinh sư này bằng cách noi gương cách sống đạo đơn sơ, chân thành và quảng đại của một bà góa nghèo. Sứ vụ của họ phải là phục vụ một cách khiêm tốn và vô vị lợi… Đây là bài học mà các môn đệ của Đức Giê-su sẽ không bao giờ được quên.

Noi gương cách sống đạo của một bà góa (12: 41-44):

Xét về hình thức, thánh Mác-cô đã nối kết rất khéo hai lời dạy khác nhau của Đức Giê-su vào cùng một đơn vị. Lời dạy về các kinh sư đóng lại với việc lên án “nuốt hết tài sản của các bà góa”, thì cũng chính “một bà góa” mở ra lời dạy thứ hai. Xét về nội dung, việc liên kết hai lời dạy thành một đem lại một bài học nhớ đời. Các môn đệ phải tránh xa cách sống đạo giả hình của các kinh sư, những người đại diện hàng lãnh đạo của dân Chúa chọn; trái lại cách sống đạo đơn sơ, chân thành và quảng đại của một bà góa, đại diện hạng người rốt hết, lại trở nên mẫu gương cho các môn đệ Ngài noi theo.

Khi cùng với các môn đệ đang ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng, Đức Giê-su quan sát thấy nhiều người giàu có đến dâng cúng những món tiền lớn, nhưng Ngài chỉ để ý đến một bà góa nghèo đến dâng cúng hai đồng xu. Theo Kinh Thánh, các bà góa được liệt vào số những người nghèo nhất cùng với những kẻ mồ côi và những kẻ tha phương cầu thực (Đnl 24: 17-22). Số tiền bà bỏ vào thùng dâng cúng chẳng đáng là bao so với những món tiền lớn của những người giàu có. Nhưng Chúa Giê-su không đánh giá của dâng cúng dựa trên số lượng mà trên chất lượng. Ngài muốn các môn đệ của Ngài phải ghi khắc điều này: “Thầy bảo thật anh em: bà góa nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết. Quả vậy, mọi người đều rút ra từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi sống mình”. Của dâng cúng của bà góa này, xét về số lượng, chẳng có nghĩa lý gì, nhưng xét về chất lượng, lại chất nặng đức tin, đức cậy và đức mến của bà, vì bà đã đặt mọi ngày sắp đến của mình vào tình yêu quan phòng của Chúa.

Dung mạo của bà góa này là dung mạo sau cùng xuất hiện trong sứ vụ công khai của Đức Giê-su. Giáo huấn của Ngài đã bắt đầu với “Phúc cho những người nghèo khó” và kết thúc với lời ca ngợi một người nghèo khó biết cho tất cả những gì mình có để đón nhận tất cả từ Thiên Chúa và để Thiên Chúa trở nên tất cả cho cuộc đời mình.

 

54. Đồng xu bà góa

(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)

Chúng ta hãy cho đi, hãy ban phát tình yêu chúng ta đã lãnh nhận cho những người xung quanh. Hãy cho đi, cho đến khi nó trở thành một việc hy sinh, vì tình yêu đích thực luôn đòi hỏi hy sinh. Đó là lý do vì sao các bạn phải yêu cho đến khi chính tình yêu đó làm các bạn đau khổ.

Các bạn hãy yêu với thời gian, với đôi bàn tay, với con tim của các bạn. Các bạn cần phải cho đi hết tất cả những gì các bạn có. Trước đây, đường rất hiếm ở Calcutta. Ngày kia, một cậu bé Ấn Độ, chừng bốn tuổi, cùng với bố mẹ, đem đến cho tôi một tách đường. Cậu bé nói: “Em đã nhịn đường trong ba ngày. Bà hãy lấy phần đường của em cho các em nhỏ của bà.” Cậu bé đã yêu đến độ phải hy sinh.

Lần khác, một người thanh niên đến nhà chúng tôi và nói: “Có một gia đình người Ấn với 3 đứa con, đã khá lâu họ không có gì ăn.” Tôi vớ ngay túi gạo dành nấu bữa tối, đi với người thanh niên tìm đến gia đình này. Tới nơi, tôi thấy ngay bóng dáng của thần chết hiện rõ trên khuôn mặt những đứa trẻ. Thân hình chúng chỉ còn da bọc xương. Tuy bị cơn đói hành hạ, người mẹ cầm lấy túi gạo chúng tôi đem đến, chia làm hai phần, ra khỏi nhà, đem theo một phần gạo.

Lúc trở về nhà, tôi hỏi bà: “Bà vừa đi đâu về? Bà đã làm gì?” Bà trả lời tôi: “Họ cũng rất đói.” Tôi hỏi: “Họ là ai?” Hình như đó là một gia đình Hồi giáo cùng 8 đứa con, đang sống bên kia đường. Bà ấy thừa biết họ cũng rất đói. Bà ấy biết, nên bà cho đi đến độ phải hy sinh. Đó là điều đánh động tôi. Một nghĩa cử quá cao đẹp phải không các bạn? Đó chính là tình yêu đang hành động. Người mẹ ấy đã chia sẻ cho người khác đến phải rướm máu trong lòng. Tối hôm đó, tôi đã không đem thêm gạo cho gia đình bà, vì tôi muốn họ cảm nghiệm được niềm vui của một tình yêu chia sẻ. Ước gì các bạn thấy được nét mặt của những đứa con bà! Chúng chỉ hiểu rất sơ sài những gì mẹ chúng đã làm, tuy nhiên nét mặt sáng lên trong nụ cười. Khi tôi đến trở lại, chúng trông vẫn rất đói và buồn. Nhưng mẹ chúng đã dạy cho chúng hiểu thế nào là yêu thương. Người nghèo khổ của chúng tôi đã là như vậy đó thưa các bạn. (Thiên Phúc biên dịch, Têrêsa Calcutta, Con Tim Tràn Đầy Yêu Thương)

Trong Tin Mừng Thánh Máccô trong Chúa Nhật hôm nay, Đức Giêsu chỉ cho các môn đệ thấy hành động dũng cảm của một bà góa làm công quả. Người ca ngợi bà đã dâng hai đồng tiền là một phần tư xu vào thùng công phúc. Chắc chắn hai đồng tiến bà góa giá trị không kém túi gạo bà mẹ kia chia sẻ cho láng giềng đồng cảnh ngộ, vì bà góa cho đi cả tấm lòng và cả mạng sống.

Cho đi cả tấm lòng

Người liền gọi các môn đệ và bảo: “Thầy nói thật với các con: Trong những người đã bỏ tiền vào hòm, bà goá nghèo này đã bỏ nhiều hơn hết.” Giữa những thầy kinh sư, thầy tư tế, thầy Biệt Phái giàu sụ, rủng rỉnh tiền bạc, xênh sang mũ áo, rổn rảng ném những đồng tiền vào thùng công quả, bỗng dưng xuất hiện một bà góa nghèo nàn, lôi thôi, lếch thếch, tiều tụy, rón rén bỏ vào thùng hai đồng kẽm, chỉ bằng một phần tư xu của đế quốc La Mã. Nếu Đức Giêsu không chỉ cho các môn đệ thấy, có lẽ chẳng ai kịp nhận ra bà góa gầy gò, nhỏ thó, thầm lặng đó.

Thiên Chúa luôn nhìn thấu suốt mọi sự, dù nhỏ bé, tầm thường, thô kệch, quê mùa, nhếch nhác, xác xơ, giữa những cái lớn lao, vĩ đại, hào nhoáng. Hơn nữa, Ngài còn rất quan tâm, ưu ái và yêu thương những thân phận bị quẳng ra bên ngoài lề xã hội, những kẻ nghèo nàn, côi cút, góa bụa, đau khổ, bệnh hoạn, tật nguyền,…

Đức Giêsu ca ngợi bà góa quảng đại dâng cúng, vì hai đồng tiền ít ỏi đó là cả một tài sản rất lớn so với thu nhập quá bèo của bà. Như thế bà góa đã cho đi với tất cả tấm lòng chân thành. Chẳng mảy may khoa trương, chẳng chút kiêu căng, chẳng háo danh, mà chỉ vì lòng mến Chúa, đóng góp hết sức vào xây dựng Nhà Chúa.

Mặt khác, bà góa đó còn phản ảnh phần nào chính dung mạo của Đấng Cứu Thế, như Thánh Phaolô đã xác quyết: “Quả thật, anh em biết Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, đã có lòng quảng đại như thế nào: Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có.” (2 Cr 8, 9). Đức Giêsu nhập thế đã từ bỏ vinh quang, để mặc lấy thân phận nghèo khó, thấp kém, xoàng xĩnh, bị từ chối, bị xua đuổi ngay từ khi còn chưa được sinh ra, rồi chịu đố kỵ, ganh ghét, miệt thị, còn bị vu oan cáo vạ đủ điều.

“Dùng của cải cách quảng đại, trọng của cải cách tế nhị, xa của cải cách anh hùng. Vì không phải của con, chính là của Chúa trao cho con sử dụng.” (Đường Hy Vọng, số 414)

Cho đi cả mạng sống

“Vì tất cả những người kia bỏ của mình dư thừa, còn bà này đang túng thiếu, đã bỏ tất cả những gì mình có để nuôi sống mình.” Đức Giêsu không chỉ thấy chân dung thảm thương, hành vi quảng đại của bà góa, mà còn thấu suốt cuộc đời khó khăn, chật vật, vất vả mưu sinh, chạy gạo từng ngày. Bà góa can đảm cho đi hai đồng xu, nhờ trung kiên đức Tin, nồng nàn đức Mến, dám cho đi ngay chén cơm, miếng bánh độ nhật, vì mãnh liệt đức Cậy. Như thế bà góa đã hoàn toàn phó thác vào Lòng Thương Xót vô bờ, vô tận của Chúa. Đấng không bao giờ chịu thua lòng quảng đại của con người.

Mặc dù thiếu thốn, bà góa nghèo khổ vẫn thầm lặng hy sinh, sẵn lòng chịu đói khát để dâng lên Thiên Chúa của cải cần thiết để nuôi sống mình. Tấm gương bà góa hiến dâng dẫn dắt người Kitô hữu hướng đến cuộc hy tế vô cùng trọng đại: Đó là “Đức Giêsu đã tự hiến tế như lễ vật vẹn toàn, dâng lên Thiên Chúa. Máu của Người thanh tẩy lương tâm chúng ta khỏi những việc đưa tới sự chết, để chúng ta xứng đáng phụng thờ Thiên Chúa hằng sống.”(Dt 9, 14)

“Đây là bằng chứng để ta biết được lòng mến: là Đấng ấy đã thí mạng mình vì ta. Và ta, ta cũng phải thí mạng mình vì anh em.” (1Ga 3,16) Con hỏi Cha: “Đâu là mức độ dấn thân?” Hãy làm như Chúa Giêsu: “Thí mạng.” (Đường Hy Vọng, số 612)

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã tự nguyện từ bỏ Thiên Quốc xuống trần, trở nên tặng phẩm cho nhân loại, cho đi từ cuộc đời rao giảng đến cả cuộc sống, để cứu chuộc con người khỏi phải chết đời đời. Xin dạy chúng con noi gương Người, yêu thương tha nhân biết cho đi, biết dâng hiến cuộc đời cho Chúa và mọi người.

Mẹ Maria ơi, Mẹ đã tận hiến cả cuộc đời cho Chúa và tha nhân, xin hướng dẫn, chỉ dạy, nhắc nhủ chúng con luôn biết sống cho tha nhân, luôn chia sẻ từ vật chất đến tinh thần, luôn trao nụ cười cùng dấn thân phục vụ mọi người khốn khó chung quanh. Amen.

 

55. Chúa Nhật 32 Thường Niên

(Suy niệm của Achille Degeest)

NGƯỜI TA CHỈ HIẾN TẤT CẢ KHI NÀO HIẾN CHÍNH BẢN THÂN.

(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)

Đoạn Phúc Âm này là kết thúc một cuộc tranh luận dài giữa Chúa Giêsu và đám ký lục, biệt phái. Với mục đích giáo huấn môn đệ Chúa tố giác điều khiến những đối thủ của Ngừơi ra như mù lòa, và Chúa lấy ví dụ một chuyện nhỏ để giảng cho môn đệ biết lòng thành thật về tôn giáo là gì.

1) Những quyền lực làm cho mù lòa trước Phúc Âm là gì? Là chuộng hư danh, tham lam và giả đạo đức. Ba tật xấu đó, xét theo tâm lý chúng cấu kết với nhau. Ở căn bản, có một nhu cầu muốn tự đề cao trong con mắt kẻ khác, hơn là nhớ đến vị trí của mình trước mặt Thiên Chúa. Thiên Chúa nhìn rõ tâm khảm bản thể con người; loài người chỉ nhìn thấy dáng vẻ bề ngoài. Người ta không thể đánh lừa Thiên Chúa, mà chỉ có thể đánh lừa kẻ khác. Nếu lơ là không nghĩ đến tương quan giữa con người với Thiên Chúa, tất bị cám dỗ muốn tự suy tôn trước mặt tha nhân. Những ký lục và biệt phái ngả theo chước cám dỗ ấy và để được người đời trọng nể, họ làm ra vẻ đạo đức, thông thái hơn nữa.

Chúa tố giác rất mạnh việc đưa ra những hành vi đạo đức bề ngoài hòng thu nút sự nể vì của người đời. Tật xấu đó tuy mất dạng trong xã hội chúng ta, nhưng rễ nó vẫn sống dai. Ngày nay có một thái độ tân biệt phái cũng giả dối như thái độ biệt phái thời Phúc Âm. Thái độ giả hình lối mới này chủ trương tự cao bằng những kiểu cách khoa trương cho người khác thấy mình bắt kịp trào lưu, mình theo đúng thị hiếu, trong những lãnh vực liên quan đến học thuật tư tưởng tôn giáo, đến vấn đề thời trang và những dư luận hằng ngày. Đào sâu để cố hiểu thái độ ấy, thường chỉ bắt gặp sự rỗng tuếch, sự thiếu vắng một liên hệ sống động với Thiên Chúa, sự thiếu sót một độ lượng thiêng liêng đích thật. Như vậy người ta đứng trước những dáng vẻ chẳng che đậy một thực chất nào, chỉ thấy bộ mặt của sự giả nhân giả nghĩa.

2) Một ví dụ về lòng thành thật đạo đức sâu xa: đồng tiền bố thí của bà góa. Chúa lưu ý đến thái độ người giàu có bỏ vào quỹ đền thờ cái thăng dư của cải họ có, trong khi bà góa dâng tất cả số tiền cần thiết để sinh sống. Ta tự hỏi cái gì nấp sau sự khác biệt lớn giữa việc đem cho cái mình có và việc hiến dâng chính bản thân mình.

Đem cho cái mình có, là một điều tốt. Tuy vậy cũng cần nhớ rằng phải cho cách thanh khiết. Kẻ giàu nào ném một cách khoa trương hàng nắm tiền vào quỹ đền thờ, kẻ ấy muốn thu hút sự trầm trồ khen ngợi của công chúng. Đó là lối cư xử của kẻ giàu mà xấu. Cũng có những người giàu rộng tay làm phúc trong âm thầm lặng lẽ. Và nếu trong Phúc Âm không thấy những từ ngữ ‘kẻ giàu tốt’ cũng như ‘kẻ nghèo tốt’, Phúc Âm cũng thuật lại tấm gương của mấy người tư sản súc tích tới được rất gần Chúa nhờ một sự vận dụng rộng rãi thành tâm. Bằng cách nào? Họ không những chỉ phân phát của cải, lại còn hiến dâng một sự gì từ chính con người họ. Có thể ông Giuse quê xứ Arimathia ở trong số người này.

Tới đây, chúng ta nhìn rõ cái nền sâu ở dưới tấm lòng rộng rãi của bà góa phụ. Bà đem dâng tất cả số tiền cần thiết để sinh sống, nghĩa là bà ấy hoàn toàn trông cậy Thiên Chúa về miếng ăn manh áo hằng ngày. Bà phó thác mình trong tay Thiên Chúa bằng hành vi lột bỏ, thành tay không, đểt trở nên hoàn toàn khó nghèo trước Đấng Tối Cao, hoàn toàn hiến mình cho Thiên Chúa. Tự hiến mình, bà đã dâng cúng nhiều hơn cả tài sản nào to lớn nhất.

Chúng ta hiến dâng Thiên Chúa sự gì? Lời cầu nguyện của chúng ta dâng lên Người sự gì? Phải chăng là những tư tưởng cao đẹp, những tình cảm cao đẹp, những ý nghĩ cao đẹp, để cầu nguyện xong là chúng ta vẫn giữ lại tâm hồn chúng ta? Chúng ta đem phân phát cái phần nào trong tài sản chúng ta? Phải chăng sự vận dụng của chúng ta để tiến đến gần Thiên Chúa là toàn hiến mình ta cho Người, cho dù chúng ta chẳng đáng giá hơn một đồng xu?

 

56. Những tấm lòng vàng

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Tổng thống Wilson của Hoa Kỳ, người đã đưa Đế Quốc Mỹ can thiệp vào Thế Chiến Thứ Nhất, là người rất trân trọng đối với những kỷ niệm nhỏ.

Một lần kia Tổng Thống và phu nhân cùng nhiều nhân vật cấp cao trong chính phủ dừng lại tại một thành phố thuộc tiểu bang Montana. Cảnh sát làm hàng rào không cho bất cứ ai đến gần vị Tổng Thống. Thế nhưng không hiểu làm thế nào mà có hai cậu bé đã chui lọt hàng rào cảnh sát để đến gần chỗ ngồi của Tổng Thống. Hai cậu bé ngắm nhìn một cách say sưa vị nguyên thủ quốc gia của mình. Một cậu bé đã tặng cho ông lá cờ nhỏ bé của nước Mỹ mà cậu đang cầm trong tay. Cảnh sát cố tình ngăn chặn cậu bé, nhưng bà Wilson đã đưa tay đón lấy lá cờ và vẫy tay chào cám ơn em một cách nhiệt tình. Cậu bé kia thấy buồn thiu, vì em không có gì để dâng lên tặng Tổng Thống. Em cố gắng mò mãi trong túi quần và cuối cùng lôi ra được một đồng xu nhỏ. Em cố gắng vượt qua mọi chướng ngại để chạy đến trao cho Tổng Thống. Em sung sướng vô cùng vì chính Tổng Thống Wilson là người chìa tay ra để đón nhận món quà của em với tất cả trang trọng…

Năm năm sau, Tổng Thống Wilson qua đời, bà Wilson xếp lại các đồ dùng quen thuộc của chồng. Mở chiếc ví của ông, bà thấy một bọc giấy giữ gìn cẩn thận. Tháo chiếc bọc giấy, bà nhận được ngay tức khắc đồng xu nhỏ mà cậu bé đã tặng cho chồng bà cách đây 5 năm. Ông Wilson quý đồng xu nhỏ ấy đến độ đi đâu ông cũng mang nó theo.

Thưa anh chị em,

Thiên Chúa cũng đối xử với chúng ta như thế. Ngài giàu có biết bao, nhưng những đồng xu nhỏ mà chúng ta trao tặng cho Ngài, Thiên Chúa đón nhận và cất giữ như báu vật. Một Thiên Chúa giàu sang dường như không ưa thích của cải dư dật của chúng ta bằng những đồng xu nhỏ của lòng thành, sự quảng đại, những âm thầm hy sinh phục vụ quên mình của chúng ta. Đức Giêsu đã cho chúng ta thấy được cái nhìn trang trọng của Chúa đối với lòng thành của con người.

Tin Mừng hôm nay kể lại, lần kia, Đức Giêsu vào Đền Thờ và quan sát những người đang dâng cúng tiền của. Ai ai cũng bỏ tiền vào thùng tiền. Chợt có người đàn bà góa nọ chỉ bỏ có một đồng xu nhỏ. Thế mà Đức Giêsu đã tuyên bố: “Người đàn bà này đã dâng cúng nhiều hơn ai hết, bởi vì trong khi mọi người bố thí những gì dư thừa của mình, người đàn bà nghèo này dâng tất cả những gì bà có để sống qua ngày”.

Anh chị em thân mến,

Thiên Chúa luôn trân trọng và quí mến tất cả những gì chúng ta dâng tặng cho Ngài. Những lễ vật càng đơn sơ nhỏ bé dưới mắt người đời thì lại càng có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Chỉ có Chúa mới thấy được giá trị của những âm thầm đau khổ, của những hy sinh quên mình từng ngày, của những việc làm vô danh.

Một đứa bé vẫn có thể trao tặng cho người khác một quà tặng quí giá, quí giá không phải ở giá trị của món quà, mà ở giá trị của tấm lòng ngưỡng mộ, yêu mến. Nghĩa cử yêu thương, cảm thông thật có giá trị hơn tặng vật. “Cách cho quí hơn của cho”.

Trong một tháng cứu trợ đồng bào bị lũ lụt ở các tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu Long, nhân dân thành phố ta đã đóng góp hơn 6 tỷ đồng (?)… Có những em bé nhịn ăn quà, những cậu học sinh đập con heo đất đã dành dụm để chia sẻ những nỗi đau thương của đồng bào ruột thịt. Đó là những người đã đóng góp nhiều hơn hết, vì đó là những tấm lòng vàng hơn là những đồng tiền vàng.

Thưa anh chị em,

Thiên Chúa kêu gọi lòng yêu mến quảng đại của chúng ta. Nhưng Thiên Chúa lại cao sang tuyệt đối. Ngài là chủ tể mọi loài mọi vật. Mọi sự chúng ta có đều bởi Chúa và thuộc về Chúa. Vì thế, chúng ta có gì đáng để dâng Chúa đâu! Chúng ta quá bé bỏng, nghèo nàn trước Thiên Chúa cao sang. Chúng ta có thể nghèo tiền của, thiếu thốn nhiều thứ, nhưng không ai trong chúng ta có thể sống mà không có trái tim với những khả năng yêu thương. Đó là cốt lõi, là cái làm cho chúng nên giá trị trước mặt Thiên Chúa và xứng đáng sống trong cộng đồng nhân loại. Lễ dâng của chúng ta chỉ đáng Chúa chấp nhận khi nói lên lòng mến và là chính lòng mến của chúng ta.

Ở bài đọc 1, bà góa ở Sarepta cũng đã dâng cho Ngôn Sứ Êlia một chút còn sót lại trong hũ, là khẩu phần cuối cùng của bà và đứa con côi cút của bà. Đối với bà, trong lúc cả nước đói kém và nắng hạn, thì một chút bột này là cả một tài sản đắt giá có thể cứu được mạng sống của bà và con bà. Thế nhưng bà đã nhường lại khẩu phần cuối cùng của mẹ con bà cho Ngôn Sứ Êlia ăn trước. Và Chúa đã trả ơn bà bằng cách cho hũ bột và bình dầu ăn của bà không bao giờ vơi cạn cho đến khi trời hết hạn và mưa lại đổ xuống. Lòng quảng đại dâng hiến sẽ được Thiên Chúa đền bù gấp bội.

Ước gì mẫu gương những tấm lòng vàng và nhất là món quà lớn nhất mà Chúa Cha ban tặng cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô, Người Con Chí Ái của Ngài, giúp chúng ta được thêm can đảm và quảng đại theo gương Chúa Giêsu và cùng với Chúa Giêsu không ngừng dâng lên Thiên Chúa và trao tặng mọi người của lễ tình yêu cao đẹp nhất của chúng ta.

 

57. Ca tụng bà góa

(Suy niệm của Gm. Arthur Tonne)

Tôi muốn kể cho các bạn nghe một bà góa đẹp và nổi tiếng. Nàng sinh tại thành phố New York năm 1774. Năm 20 tuổi nàng kết hôn với một người New York danh tiếng. Cả hai thuộc phái tân giáo. Khi chồng nàng mắc bệnh phổi. Hai vợ chồng và 5 đứa con chuyển về Ý, hy vọng khí hậu mát mẻ sẽ giúp chồng nàng. Nhưng chỉ ít năm sau chồng nàng qua đời. Một gia đình hào hiệp người Ý đã giúp góa phụ này và các con của nàng ở chung và giúp trở vế Mỹ. Lòng tốt của gia đình người Ý đã dẫn người góa phụ trẻ này tìm hiểu và trở lại Công giáo năm 1805. Việc này khiến bà con và bạn bè từ bỏ nàng. Nàng kiếm sống cho các con bằng nghề dạy học. Năm 1810 nàng sáng lập chi nhánh các chị em Bác ái Hoa Kỳ, họ bắt đầu mở trường miễn phí cho con em Công giáo mở đường cho hệ thống học đường giáo xứ Hoa Kỳ. Người phụ nữ phi thường này qua đời ngày 4 tháng giêng năm 1321, thọ 46 tuổi. Ngày nay nhiều người các bạn đã biết Elisabeth Bayley Seton, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã ghi tên nàng vào sổ bộ các Thánh năm 1975. Một vị Thánh đầu tiên sinh tại Hoa Kỳ nổi danh với tên Mẹ Seton.

Trong Tin Mừng hôm nay, một góa phụ, bỏ tất cả số tiền dành được vào hòm của Đền Thờ, Chúa Giêsu khen bà.

Elisabeth Bayley Seton dâng chính mình để làm vinh danh Chúa. Đã đến lúc chúng ta phải tỏ lòng tôn kính các góa phụ cách chung. Và đặc biệt, với những bà đã hy sinh thời giờ, sức lực, tài năng và tiền bạc để giúp gia đình Chúa Giáo Hội Công giáo.

Có nhiều lớp góa bụa: già, trẻ, giàu, nghèo, khỏe, mạnh, yếu đau. Có bà vững mạnh, có bà yếu đức tin. Có bà tự thích hợp với hoàn cảnh mới, có bà chưa. Chúng ta hãy thông cảm với các bà. Xin Chúa xoa dịu nỗi buồn khổ và cô đơn của các bà. Xin Chúa soi sáng các bà trong nỗi lo âu, thêm sức mạnh cho các bà trong cơn thử thách. Các bà đừng quên những lời khích lệ trong ca vịnh xướng đáp: “Chúa nâng đỡ các cô nhi, quả phụ”. Trong suốt cuốn Kinh Thánh, Chúa cho chúng ta thấy Người săn sóc và quan tâm đến các quả phụ.

Hãy cảm tạ Chúa vì nhiều quả phụ (và chúng ta cũng nói được như vậy với những người đàn ông góa vợ) họ được kéo đến gần Chúa hơn vì họ cô đơn. Nhiều người tham dự Thánh Lễ trong tuần. Nhiều người tham gia tích cực trong tổ chức họ đạo. Nhiều người thăm viếng bệnh nhân, người tù tội. Nhiều người hy sinh lớn lao giữ nhà cho con cái họ. Nhiều người quảng đại nâng đỡ gia đình Chúa. Hơn hết các bạn đã cầu nguyện cho người thân yêu, cho họ đạo, cho cha sở, cho Đức Thánh Cha, cho việc truyền giáo, cho mọi sự gần trái tim Chúa Kitô.

Như bà quả phụ trong bài Tin Mừng, như Elisabeth Bayley Seton, bạn hãy quảng đại dâng mình, trong và qua hy lễ của Chúa Giêsu trong Thánh Lễ này. Ước chi Chúa Giêsu mỉm cười nhìn bạn và khen thưởng bạn đời đời.

Xin Chúa chúc lành bạn.

 

58. Chúa Nhật 32 Thường Niên

(Suy niệm của Noel Quesson)

BÀ GÓA NGHÈO ĐÃ BỎ THÙNG NHIỀU HƠN MỌI NGƯỜI

Bé Tôma (Thomas Carlyle) sáu tuổi ở nhà một mình, bỗng thấy một cụ già gõ cửa ăn xin. Xúc động vì lời van nài của cụ hành khất. Tôma đem con heo đất đập ra và đổ hết tiền cắc cho cụ già. Cụ run rung xòe tay đón nhận, và rơm rớm nước mắt cám ơn. Về sau Tôma trở nên một nhà văn nổi tiếng của nước Anh, có lần ông kể lại câu chuyện nhỏ này và nói: Chưa bao giờ tôi cảm thấy sung sướng như lần đó.

Khi chúng ta chia sẻ cho người khác, nhất là khi chia sẻ cho người nghèo, chúng ta sẽ cảm thấy vui. Đặc biệt là khi sự chia sẻ đòi chúng ta cố gắng nhiều, chắc chắn chúng ta càng cảm thấy vui hơn. Và niềm vui đó chính là phần thưởng Chúa ban. Vì Chúa không bao giờ bỏ quên những cử chỉ bác ái của chúng ta dù nhỏ bé đến đâu chăng nữa.

Tin Mừng kể chuyện Chúa Giêsu ngồi trước thùng tiền của Đền Thờ coi người ta dâng cúng. Bao nhiêu người giàu có bỏ những đồng tiền lớn, nhưng Chúa bảo các môn đệ: Người dân cúng nhiều nhất là bà góa nghèo bỏ vào thùng hai xu nhỏ. Những người khác quyên góp phần dư thừa, còn bà góa nghèo đã dâng cúng cả số tiền nuôi sống bà.

Chúng ta đã biết Thiên Chúa nhìn nơi tâm hồn chư không như con người chỉ nhìn vào hiện tượng bên ngoài. Một quà tặng quý không phải chỉ ở trị giá món quà, mà còn ở tấm lòng của người tặng quà nữa. Người ta không thể che mắt Chúa, Chúa nhìn thấu mọi két sắt, và tài khoản ngân hàng. Chúa biết những toan tính trong tâm tư và quý trọng việc chia sẻ ngay những thứ cần thiết cho cuộc sống mỗi người.

Nếu chỉ quan tâm tới những con số thì chúng ta thấy nhiều hiện tượng cay đắng. Mức sống trên thế giới còn bao nhiêu chênh lệch, một đồng ở chỗ này hoàn toàn khác với một đồng ở chỗ kia. Số tiền một nhà giàu xài cho một bữa ăn ở khách sạn, đủ nuôi một gia đình nghèo cả tháng, chưa kể đồng tiền của nước này so với nước kia.

Con người còn thấy được chuyện đó, huống chi Thiên Chúa, Đấng nhìn thấu lòng người. Đối lập với sự dâng cúng của những người nghèo là thói keo kiệt của các luật sĩ và Biệt phái, những người chỉ hám danh, hám lợi và thu quén vào mình. Nếp sống của họ thiên về trình diễn, mũ áo xênh xang, ăn trên ngồi trước, kinh kệ rậm ran, dài dòng, nhưng thực chất lại vơ vét hưởng thụ, bòn rút của người nghèo đói góa bụa.

Câu chuyện bà góa nghèo này được kể ngay trước khi Chúa Giêsu đi vào cuộc thương khó, đó cũng là một dấu chỉ, Chúa Cứu Thế là Đấng đã cống hiến tất cả cho chúng ta, kể cả mạng sống của Người để làm giá cứu chuộc nhân loại.

Chúa muốn chúng ta bắt chước bà góa nghèo ấy. Dù ở địa vị nào, chúng ta cũng phải thờ Chúa trong tin yêu, chân thành và quảng đại, tránh phô trương và trục lợi cho cá nhân hay phe nhóm của mình. Nên ghi nhớ lời Chúa: “Khi chia sẻ cho người nghèo khó, đừng phô trương như quân giả hình quen làm giữa hội đường hay ngoài phố xá… để việc con chia sẻ âm thầm kín đáo, được Cha, Đấng thấu suốt những gì kín đáo sẽ trả công cho con” (Mt 6,4).

Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết dâng hiến và trao tặng với lòng quảng đại vì tin vào Cha trên trời luôn đoái nhìn chúng con.

 

59. Cho con tim

Chuyện kể rằng có đôi vợ chồng mới cưới đi về một vùng quê xa xôi thì bị một cơn mưa dữ dội không thể đi xa hơn được nữa, họ liền rời khỏi xe và đi bộ đến hướng một ngôi nhà có ánh đèn leo lét. Trong nhà có đôi vợ chồng già. Người thanh niên trình bày tình trạng khó khăn đoạn yêu cầu: “Quý ngài có thể cho chúng tôi trú ngụ đến sáng được không? Nằm trên sàn nhà hay trên ghế bành cũng được?” Đôi vợ chồng già đưa mắt nhìn thông cảm và nói: “Được chứ các cháu. Chúng tôi vừa có được một căn phòng trống. Nào hãy ra thu xếp đồ đạc trong xe, để tôi và chồng tôi dọn dẹp căn phòng cho tươm tất một chút”.

Sáng hôm sau đôi tân hôn thức dậy sớm và chuẩn bị ra đi, vì không muốn quấy rối hai vợ chồng già. Khi mở cánh cửa thông qua phòng khách, họ bỡ ngỡ nhìn thấy đôi vợ chồng nằm trên chiếc ghế dựa, còn giường của họ thì đã nhường cho khách ngủ.

Cách cư xử của hai vợ chồng giá cũng tương tự như bà góa trong bài Tin Mừng hôm nay, không phải chỉ cho phần thừa thải mà cho tất cả những gì mình có. Như vậy trong cả hai trường hợp cho đều có điểm tương đồng là cho một cách quảng đại, cho một cách vui vẻ và tận đáy lòng. Trong cuộc sống có rất nhiều cách cho; có người cho vì bất đắc dĩ thì phải miễn cưỡng bực mình để mà cho. Người cho vì bổn phận thì cũng cho một cách miễn cưỡng vì bị bổn phận trói buộc. Còn người cho vì tình thương thì mới thật lòng. Hình ảnh hai vợ chồng già và bà góa trong bài Tin Mừng hôm nay là hình ảnh tuyệt hảo về sự trao tặng. Cả hai đều cho mà không phải bị ép buộc, hay bị bổn phận thúc đẩy, cả hai đều cho với tất cả tấm lòng.

Khi người ta đã cho vì tấm lòng thì không nghĩ thiệt hơn, không tính toán. Cho nên hành động của họ cũng không còn lố bịch nữa. Khác hẳn với bộ dạng của các luật sĩ vì họ làm việc này việc kia chỉ nhằm cho người ta thấy. Điều đó đã tố cáo họ làm việc chỉ nhằm cho bản thân chứ không phải cho Thiên Chúa… hơn nữa họ làm việc đó một cách khôn khéo do lòng vị kỷ thúc đẩy như: lễ phục lượt thượt, giả bộ đạo đức, thích được người ta đón chào… Họ ích kỷ một cách trắng trợn, thay vì phải nhắm đến giá trị cao siêu bên trong, thì họ lại lo những điều thuần túy bên ngoài.

Tấm gương và lối cư xử của các biệt phái tương phản với hành động khiêm nhường thật lòng của bà góa hôm nay. Bà góa tuy chỉ dâng cúng hai đồng tiền kẽm, nhưng việc làm của bà có giá trị hơn các việc kia gấp bội. Tính về giá trị vật chất thì không thấm vào đâu so với người khác, nhưng đối với bà thì là cả một gia tài. Còn những người khác giàu có cho dù có bố thí nhiều hơn bà thì cũng là của dư bạc thừa. Bà góa đã dâng hiến tất cả vì lòng kính phục Thiên Chúa, thế mà người ta khinh khi bà, chỉ có một mình Đức Giêsu biểu dương và tôn trọng bà.

Sự trao ban thật ra không chỉ nằm ở giá trị vật chất tiền bạc mà còn cho đi chính bản thân và thời gian nữa. Chẳng hạn như chúng ta dám hy sinh công việc nhà để đến với Chúa trong ngày Chúa Nhật. Dám hy sinh thời gian để thắm viếng người nghèo bệnh tật…. Đặc biệt là những người dám hy sinh bản thân qua việc giúp các bệnh nhân phong, họ ăn chung ở, tắm rửa cho các bệnh nhân phong mà họ không hề tính toán e dè họ đã cho đi tường lai và con người họ một cách đích thực. Họ đã bỏ vào thùng tiền dâng cúng cho đền thờ cả con người của họ. Ôi! Quý biết bao những con người cao thượng, những tâm hồn đẹp đẽ, có thể nói không còn mỹ từ nào có thể diễn tả về ho được.

Những tấm gương ấy như ngọn đèn soi cho ta bước, họ đã cho chúng ta tất cả những gì họ có. Còn chúng ta thì sao? Nếu chúng ta chưa biết cho, chưa biết trao tặng bằng con tim như bà góa nghèo trong bài Tin Mừng hôm nay, thì chúng ta hãy nghe lời Chúa Giêsu nhắn nhủ như một động lực thúc đẩy ta: “Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại, Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào thì Thiên Chúa cũng sẽ đong lại cho enh em bằng đấu ấy.

Lạy Chúa, xin cho con biết hành động bằng tình yêu. Vì chỉ khi nào biết yêu thì con mới dám cho đi bằng cả con tim và bản thân con. Amen.

 

60. Đồng tiền của bà góa.

Qua phần phụng vụ lời Chúa hôm nay, chúng ta thấy nổi bật khuôn mặt của hai bà góa.

Khuôn mặt thứ nhất, đó là bà góa tại Sarepta.

Thực vậy, năm đó trời hạn hán, khiến cho mùa màng bị thất thu và nạn đói đe dọa ở nhiều nơi. Gia đình bà góa này cũng chỉ còn lại có một chút dầu và bột, đủ cho một bữa ăn mà thôi. Thế nhưng, trước lời yêu cầu của Êlia. Bà đã hy sinh phần bột cuối cùng để làm một bánh cho nhà tiên tri. Nhờ đó, bà và con bà đã được cứu thoát, đúng như lời tiên tri Êlia đã nói:

– Hũ bột sẽ không cạn và bình dầu sẽ không vơi cho đến ngày Chúa làm mưa xuống trên mặt đất.

Khuôn mặt thứ hai là bà góa dâng tiền vào đền thờ.

Chúa Giêsu lúc bấy giờ đứng trong đền thờ và quan sát. Những người Do Thái giàu có thường tỏ ra rộng rãi trong việc dâng cúng. Họ bỏ vào hòm những đồng tiền vàng sáng chói. Thế nhưng điều đáng trách nơi họ, đó là họ muốn cho mọi người biết đến và lên tiếng ca tụng họ.

Trong khi đó, một bà góa nghèo tiến đến, gương mặt thì già nua, áo quần thì cũ kỹ, tất cả đều nói lên thân phận túng cực của bà. Bà bỏ vào hòm hai đồng xu nhỏ. Có lẽ chính bà cũng cảm thấy xấu hổ, vì số tiền không đáng là bao nhiêu, thế nhưng bà tin tưởng rằng Chúa sẽ biết, bởi vì cái chẳng là bao nhiêu ấy lại là tất cả những gì bà thu quén được.

Trước cảnh tượng trái ngược ấy, Chúa Giêsu đã gọi các môn đệ lại và nói cho các ông hay, chính bà góa này mới là người bỏ nhiều nhất, bởi vì tất cả những người kia chỉ bỏ phần nào cái dư thừa của mình. Còn bà góa này đang cơn túng thiếu, đã bỏ tất cả những gì mình có để nuôi sống.

Từ những điều vừa trình bày, chúng ta dễ dàng thấy được điểm giống nhau giữa hai bà góa. Đó là các bà đã dâng hiến cả những cái cần thiết nhất cho cuộc sống của mình và gia đình. Bà góa tại Sarepta thì dâng nắm bột cuối cùng. Còn bà góa tại đền thờ thì dâng những đồng tiền cần thiết nhất của mình.

Sở dĩ như vậy là vì lòng yêu mến đối với người của Chúa hay đối với nhà của Chúa. Nói cách khác, các bà hành động như vậy vì lòng yêu mến Chúa.

Chính yếu tố lòng yêu mến này đã làm cho những hành động của các bà có được một giá trị to lớn trước mặt Chúa, và rồi chính Chúa đã lên tiếng ca ngợi các bà. Các bà đã hành động đúng như câu tục ngữ chúng ta thường nghe nói:

– Của ít lòng nhiều.

Hay nói đúng hơn, các bà đã hành động với hết khả năng của mình.

Đó cũng chính là điều tôi mong muốn tất cả mọi người chúng ta hãy noi gương bắt chước. Dù gặp phải những chuyện bực bội buồn phiền, dù gặp phải những chuyện trái ý, chúng ta cũng hãy chấp nhận tất cả vì lòng yêu mến Chúa, chúng ta cũng hãy làm tất cả những công việc nhỏ bé và tầm thường nhất vì lòng yêu mến Chúa.

Bởi vì lòng yêu mến sẽ là như cây đũa thần, biến những hy sinh nhỏ bé và những công việc tầm thường của chúng ta trở thành những sợi chỉ vàng, dệt nên tấm vải cuộc đời và làm cho cuộc đời chúng ta thực sự có được một giá trị to lớn trước mặt Thiên Chúa.

 

61. Can đảm cho đi

“Còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để sống” (Mc 12, 44).

Khi tin tưởng hoàn toàn vào Thiên Chúa, chúng ta sẽ can đảm cho đi tất cả những gì mình đang sở hữu và những thứ làm cho mình tồn tại.

Sách các Vua quyển thứ nhất kể câu chuyện nạn đói xảy ra thời tiên tri Êlia, đời vua Akháp, tại Xarépta thuộc xứ Xiđôn và đối với dân Israel nó làø vùng đất của dân ngoại. Nạn đói hoành hành đến mức nguy hiểm, mọi người trong vùng sẽ phải chết đói. Tiên tri Êlia cũng không ngoại lệ nhưng Thiên Chúa đã cho ông ta gặp một bà goá mà hủ bột trong nhà bà này chỉ còn duy nhất một phần ăn, ăn xong rồi chờ chết. Êlia đến xin bà ta một phần ăn để cho qua cơn đói, một yêu cầu thật sự khó khăn cho bà goá nghèo này nhưng vì niềm tin vào Thiên Chúa và sự can đảm cho đi phép lạ đã xảy ra, hủ bột và dầu trong nhà không hề vơi. Êlia và cả gia đình bà goá được cứu sống.

Trong Tin Mừng Maccô cũng thuật lại hai thái độ trái ngược trong một việc làm. Đó là việc bố thí và thái độ của những người giàu với một người đàn bà nghèo. Một bên phô trương và cho đi những của dư thừa, một bên trong âm thầm và cho đi tất cả những gì mình có để sống. Chúa Giêsu đã đề cao việc làm và thái độ bà goá nghèo.

So sánh hai thái độ, hành động của bà goá trong Cựu Ước và Tân Ước, họ có chung một điểm đó là tinh thần can đảm cho đi và tâm hồn hoàn toàn tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa. Kết quả là họ không mất gì cả mà được tất cả. Bà goá ở Xarépta được một hủ bột và dầu không hề vơi, đời sống của bà được bảo đảm và an toàn, còn bà goá nghèo trong Tin Mừng Máccô tuy chúng ta không biết kết quả sau này của bà ta như thế nào nhưng việc làm của bà lại đẹp lòng Thiên Chúa, như vậy đã đủ đối với một con người tin tưởng vào Chúa. Đây cũng là lời mời gọi cho cách sống của mỗi người chúng ta ngày hôm nay vì đời sống của người kitô hữu không phải sống là để đẹp lòng Thiên Chúa hay sao? Đó là cách sống người kitô hữu phải sốâng và thực hành tinh thần này trong mỗi ngày sống của chúng ta. Cách sống mà Chúa Giêsu đề cao như đối với bà goá nghèo.

Thiên Chúa không đòi hỏi quá sức của chúng ta, điều cần thiết không phải là cho đi bao nhiêu và cái gì. Vì cho đi bao nhiêu là đủ và làm sao đáp ứng mọi nhu cầu của người khác nhưng quan trọng là chúng ta có can đảm cho đi và cách cho của chúng ta như thế nào. Khiêm tốn, dám cho đi tất cả những gì mình có thể cho, không giữ lại cho mình điều gì, dù chúng ta đang thiếu thốn.

Đây là một bài học và tinh thần sống đòi hỏi chúng ta phải sống, rèn luyện và thực hành hằng ngày. Dù chúng ta có thể hiểu và xác tín lời mời gọi này, cho đi tất cả để được tất cả nhưng xem ra rất mạo hiểm, mất mát. Chúa không bao giờ phụ người có lòng, Ngài luôn công bằng và sẽ đền bù gấp bội những gì chúng ta dám cho đi, ngay cả những thứ chúng ta không cho.

Nhiều lúc chúng ta tưởng, chúng ta cho rất nhiều, cho cả những thứ quý giá và quan trọng nhất đời mình nhưng thật sự đối với Chúa và nhu cầu của tha nhân thì nó thật nhỏ bé.

Chúng ta vẫn biết rằng những gì chúng ta có đều là của Chúa, Ngài chỉ mời gọi chúng có chia sẻ cho những người xung quanh mà thôi. Đời sống chúng ta có Chúa thì chúng ta sẽ can đảm cho đi tất cả, không nệ hà, so đo và tính toán.

Ước gì mỗi người chúng ta dám cho đi những gì mình có, sức khoẻ, thời gian, của cải và ngay cả mạng sống mình vì lợi ích tha nhân và đó là điều mong muốn của Chúa.

 

62. Chúa Nhật 32 Thường Niên

THÁI ĐỘ SỐNG CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ ĐÍCH THỰC

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)

Trong việc giảng dạy, Chúa Giêsu luôn tỏ ra là một nhà sư phạm tuyệt vời. Phương pháp Ngài sử dụng rất sống động, và bài học cũng rất thiết thực. Hôm nay, bài học mà Ngài muốn dạy những kẻ đi theo Ngài, đó là thái độ sống đích thực của người môn đệ Chúa Kitô. Vậy cụ thể đó là thái độ nào?

Chắc chắn đó không phải thái độ sống của những người Biệt Phái: thái độ háo danh, hám lợi: “Thích được người ta chào hỏi nơi phố chợ, ưa chiếm chỗ nhất trong các hội đường…”; thái độ tham lam tiền bạc: “Muốn nuốt hết tài sản của các bà goá…”; thái độ giả hình giả bộ: “Làm ra vẻ đọc kinh dài dòng…”. Đây là thái độ mà Chúa Giêsu cho biết sẽ bị kết án nặng nề. Chắc chắn đó cũng không phải là thái độ sống của những người giàu có, keo kiệt. Họ chỉ dâng cúng tiền dư bạc thừa. Và nếu có dâng cúng nhiều đi chăng nữa cũng chỉ vì họ thích phô trương công đức hơn là vì lòng yêu mến Chúa.

Nhưng đó là thái độ sống của bà goá nghèo: dám sống bằng cả tấm lòng của mình. Một tấm lòng quảng đại: bà đã cho đi tất cả những gì bà có để nuôi sống mình. Hai đồng xu chính là sự sống của bà. Một tấm lòng tín thác: tín thác hoàn toàn vào Thiên Chúa và đặt trọn sự sống của mình cho Thiên Chúa định đoạt. Đức Giêsu đã khen ngợi tấm lòng của bà và Ngài đã nêu lên cho các môn đệ thấy để bắt chước thái độ của bà, thái độ sống của người môn đệ đích thực.

Đây chính là thái độ sống phản chiếu hình ảnh của Đức Giêsu, Đấng đã trao ban tất cả mạng sống của mình và phó thác hoàn toàn cho Thiên Chúa Cha trong tâm tình xin vâng.

Chúng ta đang sống thái độ nào của người môn đệ Đức Kitô? Phải chăng là thái độ háo danh, ham lợi, chuộng hình thức như những người Luật sĩ và Biệt phái? Phải chăng là thái độ tính toán hẹp hòi của những người giàu có ích kỉ?

Ước gì trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống, chúng ta luôn có thái độ quảng đại biết cho đi với tất cả lòng yêu mến và tín thác trọn vẹn như bà goá nghèo trong Tin mừng hôm nay.

 

63. Trao ban

Giáo hội luôn mời gọi con cái mình sống bác ái. Chúng ta luôn luôn được mời gọi quan tâm đến tha nhân và chia sẻ với họ. Đề tài hôm nay mở rộng thách đố này qua việc đòi hỏi những hy sinh. Chúa Giêsu không chỉ trông đợi nơi chúng ta một sự trao ban một cách đơn giản. Việc trao ban của chúng ta thật sự phải là một sự hy sinh. Người ta vẫn nói: “Trao ban chưa phải là trao ban thật sự nếu nó chưa làm người trao ban bị tổn thương”.

Bà góa trong bài Tin Mừng hôm nay đã dâng hiến tất cả những gì bà có. Của bà dâng cúng hầu như không có gì đáng kể, nhưng hai đồng xu đó là tất cả những gì bà có để nuôi thân.

Khi Chúa Kitô hiến dâng chính mạng sống mình làm của lễ chuộc tội cho nhiều người, Người đã dâng hiến trọn vẹn cuộc sống của Người. Thánh Phaolô đã viết: “Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự”.

Những người theo Chúa Kitô cũng phải noi theo gương tự hiến của Người. William Barclay đã kể lại câu chuyện sau đây: “Có một anh lính kia bị trọng thương ngoài chiến trường. Vị tuyên úy bò tới bên anh và làm tất cả những gì có thể làm được. Ngài ở lại với anh khi mà đội quân đã rút lui hết. Trong cái nóng nực của ban trưa, ngài đã cho anh tất cả số nước trong bình của ngài, trong khi chính ngài cũng đang bị nung nấu bởi cái khát. Đêm đến, khi sương giá lạnh lẽo ập xuống, ngài lấy chiếc áo khoác của mình mà đắp cho anh lính. Cuối cùng, anh lính ngước nhìn lên vị tuyên úy và hỏi: “Thưa tuyên úy, ông là Kitô hữu phải không?” Vị tuyên úy trả lời: “Tôi cố gắng để là người Kitô hữu”. Anh lính nói: “Nếu Kitô giáo dạy người ta làm cho người khác những việc mà ông đã làm cho tôi, thì ông hãy dạy cho tôi biết đạo Kitô giáo đi. Vì tôi cũng muốn trở thành kitô hữu”.

Người ta thường nói, muốn biết lòng quảng đại của một người nào thì đừng xét xem người đó đã cho đi những gì, nhưng hãy xem người ấy còn lại những gì sau khi đã cho đi. Vị tuyên úy đã dám liều mất mạng sống mình khi cho đi tất cả. Hành động của ngài và của bà góa trong bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy rõ nhất về ý nghĩa của việc trao ban đến hy sinh. Nếu chúng ta không trao ban chính bản thân mình, nghĩa là chỉ cho đi những gì dư thừa, thì Thiên Chúa còn tiếp tục đòi hỏi chúng ta nhiều hơn nữa. Người muốn chúng ta dấn thân nhiều hơn. Người muốn chúng ta dâng hiến cả chính bản thân mình một cách trọn vẹn. Người muốn một sự dâng hiến đến mức hy sinh. Lạy Chúa, con đã nhiều lần không dám dấn thân cho đi trọn vẹn, con còn sợ mất mát quá nhiều. Xin Chúa giúp con biết can đảm trao đến hy sinh chính mình để đáp lại tình yêu của Chúa đã trao ban đến chết cho con trên thập giá.

 

64. Dám cho đi tất cả

Dường như một trong những nỗi lo lớn của con người là phòng thân. Ai cũng tranh thủ lo tích trữ chút đỉnh tiền bạc của cải để lo cho bản thân mình phòng khi có chuyện bất trắc xảy ra. Khi cần giúp đỡ ai người ta cũng dành lại chút ít chứ khó có trường hợp nào mà người ta dám cho đi tất cả. Đó là cái nhìn bình thường và tự nhiên ai cũng công nhận.

Đoạn tin mừng hôm nay cho ta thấy một người dám sống ngược lại với cái nhìn và suy nghĩ bình thường này. Người này đã dám cho đi tất cả. Một người đàn góa nghèo đã dám bỏ vào hòm tiền dâng cúng trong Đền Thờ một phần tư xu. Số tiền tuy ít ỏi nhưng là cả tấm lòng của bà.

Chúng ta biết người đàn bà theo xã hội Á Đông phải chu toàn Tam tòng Tứ đức. Người đàn bà này có thể không còn chỗ nương tựa. Bởi lẽ, bà đã xuất giá theo chồng mà chồng lại chết. Và có lẽ bà cũng không có con trai để nương tựa. Do đó, cuộc sống của bà trở nên nghèo khó.

Dầu vậy, chúng ta thấy bà nghèo tiền của vật chất nhưng tấm lòng của bà lại không nghèo. Chúa Giêsu đã ngồi quan sát những người bỏ tiền vào thùng. Đã có nhiều người bỏ vào thùng này nhưng Người không nói câu gì. Đến lượt bà Chúa Giêsu đã vội lên tiếng: “Thầy bảo thật anh em: bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết. Quả vậy, mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi sống mình.” (Mc 12, 43b – 44)

Chúa Giêsu nhìn thấu cõi lòng con người. Chúa không đánh giá con người theo dáng vẻ bên ngoài. Chúa Giêsu không dựa vào tiêu chuẩn những gì con người có mà Người dựa vào tận thâm sâu tâm hồn mỗi người. Chắc chắn người đàn bà góa nghèo này có lòng tin tưởng thật sự vào Chúa nên bà mới dám cho đi tất cả. Dù rằng một phần tư xu đó là phần nuôi sống bà ngày hôm đó nhưng bà vẫn không giữ lại cho riêng mình.

Mối thứ ba trong cải tội bảy đức dạy chúng ta rộng rãi chớ hà tiện. Rộng rãi với Chúa, rộng rãi với anh chị em. Thế nhưng thực tế chúng ta thấy có nhiều người lại không dám cho đi dù là phần dư thừa. Với Chúa thì họ không dám cho Chúa thời giờ đi dự lễ ngày Chúa nhật cũng như giờ kinh hôm, kinh mai mỗi ngày. Với anh chị em thì họ sống theo châm ngôn “mọi người phải vì mình”.

Hãy xin Chúa Giêsu cho chúng ta biết dám cho đi tất cả vì Chúa và vì anh chị em. Chắc chắn Chúa sẽ không bao giờ thua sự rộng rãi quảng đại của chúng ta.

 

65. Tấm lòng

Lời Chúa hôm nay trình bày cho chúng ta tấm gương đạo đức chân thành của hai người phụ nữ nghèo của nhưng giàu lòng: một người thời ngôn sứ Êlia và một người thời Chúa Giêsu.

Thời ngôn sứ Êlia, khi Thiên Chúa làm hạn hán trên đất nước Do Thái để phạt vua tôi của nước này, ngôn sứ Êlia được lệnh Chúa tạm lánh sang xứ Sarépta. Ở đó ngôn sứ đã gặp một phụ nữ đầy lòng tin cậy vào lời hứa của Chúa, bà đã liều chết đói, hy sinh chút bột và dầu còn lại làm bánh nuôi ngôn sứ, nhưng Chúa đã trả công bội hậu cho bà và đứa con trai duy nhất thoát cảnh đói khổ. Câu chuyện này đã được Chúa Giêsu nhắc tới rõ rệt một lần và lần khác Ngài ám chỉ đến.

Một phụ nữ khác thời Chúa Giêsu, đang sống trong cảnh túng thiếu, thế mà bà đã đem cả số tiền lương công nhật, tức là những gì bà có để nuôi sống mình, bỏ vào hòm tiền dâng cúng cho nhà thờ, và Chúa đã khen bà là bỏ nhiều, dâng cúng nhiều hơn những người giàu khác, tại sao vậy? Bởi vì trước mặt Chúa, những công việc từ thiện, và cả những việc đạo đức mà những người giàu có, cụ thể là giới kinh sư và Pharisêu, chỉ là những phương tiện trục lợi, hay xây dựng danh giá và địa vị cho họ, chứ không phải do lòng kính mến Chúa hay thương yêu người mà phát xuất. Hạng người như thế ở thời đại nào và ở nơi nào cũng có với những cách thức khác nhau. Họ là tỷ phú hay triệu phú, họ bỏ ra một vài triệu để đóng góp vào công việc từ thiện hay xây cất những công trình lớn thì động lực chính có khi không phải là đức ái, mến Chúa yêu người, mà chỉ là giá mua danh vọng. Không nên chờ đợi những người như thế hành động một cách âm thầm, ẩn danh. Thành thử số tiền hay công lao khó nhọc họ bỏ ra có thể là nhiều nhưng thực sự họ chẳng cho hoặc dâng hiến được bao nhiêu. Đó là cuộc đầu tư một vốn bốn lời, đó là sự lợi dụng tôn giáo và bác ái chứ không phải là phục vụ.

Trái lại, người đàn bà góa trong Tin Mừng tỏ ra biết phục vụ tôn giáo hết mình: hòm tiền ở hành lang nhà thờ, chắc là thu góp để xây cất hoặc bảo trì bảo quản đền thờ, vì thời Chúa Giêsu đền thờ vẫn chưa hoàn thành. Bà không cần biết ai đóng góp bao nhiêu, bà chỉ thấy có bổn phận đóng góp để tỏ lòng tôn thờ kính mến Chúa theo khả năng của mình. Cho nên, bà có bao nhiêu thì dâng cúng bấy nhiêu mà không hề lo đến tương lai, đến ban chiều, đến ngày mai sẽ ra sao, bà chỉ biết phụng sự mà không biết lợi dụng tôn giáo hay Thiên Chúa.

Chính vì thế Chúa Giêsu khen bà đã dâng cúng nhiều hơn những người khác: xét về số lượng khách quan thì số tiền một phần tư xu so với năm, ba chục ngàn hoặc từng mấy trăm ngàn hay một triệu thì thật mỉa mai, đáng tức cười. Nhưng vì căn cứ trên ý hướng để đánh giá trị công việc, cho nên Chúa thấy hai đồng tiền nhỏ của người phụ nữ vô danh này nhiều hơn hết. Điều có nghĩa là những công việc đạo đức và từ thiện, bác ái hơn nhau ở động lực và lý do hay mục đích chứ không phải ở số lượng: người đàn bà này đang túng thiếu, nhưng bà đã thực sự quên mình để chỉ nghĩ đến Chúa, tới ích lợi chung, trong khi đó những người dâng cúng nhiều lại chỉ đi tìm mình, tìm danh tiếng vẻ vang cho mình mà quên Chúa. Số tiền họ dâng cúng tuy nhiều nhưng họ có mất mát gì đâu, trái lại còn được lời về danh giá và tiếng khen. Chính vì những lý do đó mà Chúa Giêsu đã cho rằng bà ta dâng cúng nhiều hơn những người khác.

Hơn nữa, đối với Thiên Chúa, điều quan trọng không phải là bao nhiêu, nhiều hay ít, miễn là với cả tấm lòng. Đúng vậy, của cải thì có hạn, người nhiều người ít, công sức cũng có hạn, kẻ nhiều khả năng, kẻ ít khả năng, nhưng tấm lòng thì kể như vô biên giới, và Chúa nhìn vào nơi thẳm sâu của cõi lòng từng người, cõi lòng vô biên giới ấy cân đo những gì là trong sáng, những gì là u tối, những gì là thẳng thắn, những gì là cong queo, để rồi Chúa đánh giá và thưởng công. Vì thế, số lượng nhiều ít của cải vật chất đem ra để chia sẻ không có giá trị nhiều, chính tấm lòng yêu thương quảng đại bên trong mới quan trọng và có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Người ta nhìn bên ngoài, còn Thiên Chúa nhìn bên trong, đó là trường hợp bà góa, bà dâng của và dâng cả tấm lòng. Cách cho quý hơn của cho. Của cho kèm theo tấm lòng là của cho quý hóa nhất.

Như vậy, bài học chúng ta cần ghi nhớ và suy nghĩ là cách chúng ta làm việc bác ái từ thiện thế nào. Thường thường ai cũng muốn làm việc để được người khác đề cao khen thưởng, nhưng trong việc bác ái, cụ thể là việc bố thí, thì Tin Mừng nói rõ: “Cha ngươi, Đấng thấu suốt cả nơi kín nhiệm sẽ thưởng công cho ngươi”, nghĩa là làm phúc bố thí để cho Chúa biết, Chúa thấy, đó mới là mục đích, đó mới là quan trọng. Điều quan trọng ở đây là chính Chúa thấy trong sự kín nhiệm, kín đáo, loài người không thấy, không biết, nhưng Chúa thấy và Chúa biết tất cả và Chúa có phần thưởng của Ngài. Ở đời, ai làm gì cho chúng ta, chúng ta cũng dành một phần thưởng tương xứng cho họ, huống chi Thiên Chúa. Nhưng có điều chắc chắn là Chúa sẽ thưởng đời sau, cũng có khi Chúa thưởng ngay đời này. Như vậy, rõ ràng làm việc lành để ca tụng Chúa chứ không phải để ca tụng mình, nếu được người ta ca tụng là đã lãnh phần thưởng rồi, và như thế có thể sẽ không còn công phúc trước Thiên Chúa nữa.

Chúng ta hãy nghĩ xem: chúng ta thường làm những việc đạo đức, những việc bác ái, chia sẻ, những cách đối xử với người khác như thế nào? Có phải với tấm lòng chân thực hay vì những lý do gì khác? Chúng ta hãy nhớ: Chúa căn cứ vào tấm lòng chúng ta mà thưởng công cho chúng ta.

 

66. Nghèo túng

Dưới mắt người đời, thì nghèo túng là một điều bất hạnh. Chẳng đặng thì đừng mới phải cúi đầu chấp nhận tình cảnh hẩm hiu ấy.

Hình ảnh bà góa trong phần phụng vụ Lời Chúa hôm nay là một tiêu biểu cho thân phận nghèo túng. Thế nhưng, theo Kinh thánn, người nghèo túng thường được Chúa ca tụng và chúc phúc.

Đúng thế, trong những ngày hạn hán, chỉ riêng bà góa thành Sarepta được Chúa sai tiên tri Êlia tới ban phúc lành. Rồi trong Phúc âm, chúng ta thấy Chúa khen ngợi bà góa đã bỏ vào hòm tiền có hai đồng xèng, là đã bỏ nhiều nhất, vì bà dám hy sinh cả những cái cần thiết cho cuộc sống của mình. Lần khác Chúa đã làm phép lạ, cứu sống cậu thanh niên con trai của một bà góa thành Naim.

Sở dĩ Chúa ca ngợi và chúc phúc như thế là vì họ đã rộng rãi với Chúa. Thực vậy, dù phải cho đi đến miếng bánh cuối cùng, dù phải dâng cúng ngay cả những đồng xu cần thiết…họ cũng không tiếc xót.

Nghèo túng tự nó chẳng bao giờ là điều đáng ước mong, nhưng Chúa đã ca ngợi và chúc phúc cho họ không phải vì họ nghèo túng, nhưng vì người nghèo túng thường có tâm hồn độ lượng, biết chia sẻ và cảm thông với những người cùng sống trong một cảnh ngộ như mình.

Trong cơn hoạn nạn, kinh nghiệm cho thấy, họ là những người có mặt đầu tiên và ra tay giúp đỡ nhiều hơn cả.

Hơn thế nữa, họ còn biết tin tưởng vào Chúa, sẵn sàng chịu đựng cảnh nghèo túng trong niềm kính sợ Chúa như người ăn xin tên là Lagiarô, không than thân trách phận như ông Giob, vì họ tin tưởng rằng sau những gian nguy thử thách ấy, Chúa sẽ ân thưởng bội hậu cho họ như lời Ngài đã phán:

– Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước trời là của họ.

Chúa Giêsu đã không những đã ca ngợi và chúc phúc cho những người nghèo túng, mà hơn thế nữa, Ngài đã chọn con đường nghèo túng để đến với chúng ta và cứu độ chúng ta. Sinh ra tại Bêlem không nhà không cửa. Lớn lên tại Nagiarét với những công việc cực nhọc. Lang thang rao giảng Tin Mừng:

– Con cáo có hang chim trời có tổ nhưng Con Người thì không có chỗ tựa đầu.

Và sau cùng, đã chết đi một cách trần trụi và tủi nhục trên thập giá.

Chúng ta có thể tóm kết về cuộc đời Ngài như thế này:

– Sinh ra nghèo túng, lớn lên nghèo túng hơn và chết đi một cách vô cùng nghèo túng.

Sở dĩ như vậy vì Ngài là một vị Thiên Chúa giàu sang, đã mặc lấy thân phận nghèo hèn để biến chúng ta, những tạo vật nghèo hèn, được trở nên giàu sang.

Có một câu chuyện kể lại rằng:

Ngày kia, gặp một anh ăn mày, Chúa đã xin anh ta một chút gì đó. Miễn cưỡng anh ta phải vét bị đưa cho Chúa một nắm gạo. Chúa nhận lấy, nhưng rồi sau đó đã trả lại ngay. Tuy nhiên, lạ lùng thay, trên bàn tay anh ta không phải là những hạt gạo gẫy nát mà là những hạt vàng sáng chói. Anh ta tiếc rẻ vì đã không đưa cả bị cho Chúa.

Trong đời sống đạo đức, chúng ta chỉ để ý xin Chúa, mà ít để ý đến những điều chúng ta có thể làm cho Ngài. Tuy nhiên, cũng có những người đã hiểu và họ đã dâng cho Chúa: có thể là một vài đồng xu hay một nắm gạo, có thể là tất cả bị gạo và ngay cả mạng sống của chính mình. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta đã dâng gì cho Chúa? Chúa sẽ chẳng bao giờ chịu thua lòng rộng rãi và quảng đại của chúng ta đâu.

 

67. Hôn nhân trên Thiên Đàng

(Bài giải thích của cha giảng Phủ Giáo Hoàng, Cha Capuchin Raniero Cantalamessa, về các bài đọc từ phụng vụ Chúa nhật 32 thường niên – Đ.Ô. Nguyễn Quang Sách)

Ngày kia, Chúa Giêsu đứng trước thùng tiền đền thờ, quan sát xem đám đông dâng cúng tiền. Người thấy một bà góa đến và bỏ vào thùng tất cả những gì bà có, hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng bạc Roma. Người quay về các môn đệ của Người và nói, “Thầy bảo thật anh em, bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết.Mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó, còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để sống.”

Chúng ta có thể gọi Chúa Nhật này là “Chúa Nhật những bà góa.” Truyện một bà góa cũng được tường thuật trong bài đọc thứ nhất, bà góa thành Zarephath, kẻ đã cho tất cả những gì bà có để ăn (một nắm bột và một giọt dầu) đễ dọn một bữa ăn cho tiên tri Elia.

Đây là một dịp tốt để lưu ý đến hai bà goá đó và những ông goá vợ ngày nay. Nếu Kinh Thánh thường nói về những bà góa và không bao giờ nói về các ông góa, là vì trong xã hội ngày xưa người phụ nữ bị bỏ lại một mình là một sự bất lợi lớn hơn người nam bị bỏ lại một mình. Ngày nay không còn sự khác biệt này nữa. Thực sự, nói chung thì bây giờ xem ra những người nữ ở một mình xoay sở tốt hơn người nam.

Trong dịp này tôi muốn đề cập một chủ đề đáng quan tâm dứt khoát không những cho các bà goá và ông góa, nhưng cũng cho tất cả những ai đã kết hôn, cách riêng trong tháng này tháng chúng ta nhớ đến người chết. Có phải sự chết của một người chồng hay bà vợ, đem lại sự chấm dứt hợp pháp của một cuộc hôn nhân, cũng mang theo nó sự chấm dứt hoàn toàn hiệp thông giữa hai người? Có phải một sự gì của dây ràn buộc này đã hiệp nhất rất mãnh liệt hai người trên mặt đất, vẫn tồn tại trên trời, hay là tất cả bỉ lãng quên một khi chúng ta bước qua ngưỡng cửa vào sự sống đời đời?

Ngày kia, một số người Sadducé trình bày với Chúa Giêsu trường hợp hi hữu về một người nữ vợ liên tiếp của bảy anh em, hỏi Chúa bà ấy sẽ là vợ của ai sau ngày sống lại. Chúa Giêsu trả lời: “Khi người ta từ cõi chết sống lại, thì chẳng còn lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời” (Mc 12:25).

Vì giải thích sai lạc lời nói này của Chúa Giêsu, nên một số người chủ trương rằng hôn nhân sẽ không có tiếp tục trên trời. Nhưng với sự đáp trả này Chúa Giêsu loại trừ tranh biếm họa những người Sadducé trình bày về thiên đàng, dường như trên thiên đàng sẽ tiếp tục quan hệ trần tục của vợ chồng. Chúa Giêsu không loại bỏ khả năng họ có thể tái khám phá trong Thiên Chúa dây ràn buộc đã liên kết họ dưới thế.

Theo quan niệm nầy, hôn nhân không chấm dứt hẳn lúc chết nhưng được biến đổi, thiêng liêng hóa, giải phóng khỏi những giới hạn đánh dấu sự sống trên mặt đất, cũng như những sự ràn buộc giữa cha mẹ và con cái hay là giữa bạn hữu sẽ không bị bỏ quên. Trong một kinh tiền tụng cho người chết phụng vụ công bố: “Sự sống được thay đổi chớ không mất đi.” Cả hôn nhân, là thành phần của sự sống, sẽ được thay đổi, chớ không bị hủy bỏ.

Nhưng cái gì xảy ra cho những kẻ đã có một kinh nghiệm tiêu cực vế hôn nhân trần tục, một kinh nghiệm về sự hiểu lầm và đau khổ? Ý niệm giây hôn nhân không dứt cho họ lúc chết, có phải thay cho một niềm an ủi, lại là một lý do làm cho họ sợ chăng? Tình yêu đã liên kết họ, có lẽ chỉ một thời gian ngắn, vẫn tồn tại; những khuyết điểm, những hiểu lầm, sự đau khổ mà họ giáng cho nhau, sẽ tiêu tan.

Thật sự, chính sự đau khổ này, chấp nhận với đức tin, sẽ được biến đổi thành vinh quang. Nhiều vợ chồng sẽ cảm nghiệm tình yêu thật cho nhau chỉ khi họ sẽ được tái hiệp nhất “trong Thiên Chúa,” và với tình yêu này sẽ có niềm vui và sự hiệp nhất trọn vẹn mà họ không biết được dưới đất. Trong Thiên Chúa mọi sự sẽ được hiểu, mọi sự sẽ được tha thứ, mọi sự sẽ được bỏ qua.

Dĩ nhiên nhiều người sẽ hỏi về những kẻ đã kết hôn hợp pháp với những người khác nhau, những ông goá và những bà góa đã tái kết hôn. (Đây là trường hợp được trình bày cho Chúa Giêsu về bảy anh em lần lượt cưới cũng một người nữ làm vợ). Cả đối với họ chúng ta phải lập lại cũng một sự: tình yêu và sự trao thân cho nhau thực sự giữa mỗi người chồng và vợ, vì khách quan là một sự lành đến từ Thiên Chúa, sẽ không bị phá hủy. Trên thiên đàng sẽ không có sự tranh đua trong tình yêu hay sự ganh tị. Những sự này không thuộc về tình yêu thật nhưng thuộc về những giới hạn nội tại của tạo vật.

 

68. Chúa Nhật 32 Thường Niên

(Suy niệm của Lm. GB. Phạm Hồng Thái)

Mồ côi góa bụa là thân phận của một số người trong xã hội. Mẹ góa con côi thường phải chịu nhiều thiệt thòi và cần được xã hội nâng đỡ. Tuy thế chúng ta thấy có những bà góa rất tốt, có tấm lòng như hai tấm gương bà góa trong phần Phụng vụ Lời Chúa hôm nay:

1) Bà góa Sarepta: Bà góa này may mắn còn một đứa con nhưng đứa con này chưa có nuôi được mẹ, mà bà còn phải lo từng bữa ăn cho nó nữa; trong thời kỳ nạn đói hoành hành khắp xứ, mẹ con bà lâm vào tình cảnh vô cùng khó khăn. Nhà bà chỉ còn một ít bột trong hũ và chút dầu trong bình. Bà đi kiếm củi  về làm chiếc bánh nho nhỏ để mẹ con bà ăn rồi chờ chết thôi! vì đâu có kiếm ra được lương thực giữa thời kì đói kém khốc liệt này. Nhưng tiên tri Elia lại yêu cầu bà làm một cái bánh đưa cho ông ăn trước rồi mới tới phần mẹ con bà! Bà vâng nghe vị tiên tri và nhờ vậy Chúa cho hũ bột của nhà bà không hề cạn và bình dầu không hề vơi cho đến khi nạn đói chấm dứt. Ở đây chúng ta thấy được tấm lòng quảng đại của bà góa này: bà sẵn sàng hi sinh cả cái phần thiết yếu cho sự sống của mẹ con bà, nên bà đã được Chúa trả công bội hậu!

Chuyện hũ bột không vơi và bình dầu không cạn cho tới khi nạn đói chấm dứt có lần tôi áp dụng vào việc xây dựng nhà thờ như sau: Ban đầu khi khởi công, thì kinh phí xây dựng khiêm tốn như lượng bột trong hũ và  dầu trong bình của bà góa Sarepta nhưng qua quá trình xây dựng, với lòng tin tưởng cầu xin, Chúa cho có nhiều vị ân nhân dâng cúng và nhà thờ cứ tiếp tục được xây lên, xây lên cho tới ngày hoàn thành!

2) Bà góa trong Tin Mừng. Bà góa này cũng rất nghèo: trong túi bà chỉ còn có hai đồng tiền kẽm giá trị bà 1/4 đồng tiền Roma, thế mà bà lấy ra bỏ trọn vào hòm tiền đền thờ dâng cúng cho Chúa. Chúa Giêsu quan tâm tới bà. Chúa khen bà là bỏ tiền nhiều hơn bất cứ ai khác trong cuộc lễ ngày hôm đó. Xét về số lượng thì bà thua xa những người giầu có bỏ tiền vào hòm nhưng xét về lòng quảng đại thì Chúa Giêsu phán đoán là bỏ nhiều hơn bất cứ ai. Lí do Chúa đưa ra là những người khác chỉ bỏ cái dư thừa của mình, còn bà bỏ cả cái phần  thiết yếu. Bỏ vào chỉ có 1/4 xu nhưng chắc chắc hôm đó bà phải ăn chay để hi sinh bỏ vào. Đúng thực là của ít lòng nhiều! Người đời chỉ nhìn bề ngoài, chỉ phán đoán theo số lượng, nhưng Chúa Giêsu nhìn thấu tâm hồn, Chúa phán đoán theo tấm lòng và phẩm chất của người dâng vì thế Chúa Giêsu đã nói với người Do thái: “Ta muốn lòng nhân từ chứ không  muốn hi lễ (Mt 12, 7)”

Chúa muốn chúng ta đến với Chúa bằng cả tấm lòng: Chúa từng khiển trách người Do thái với lời tiên tri Isaia: “Dân này kính ta bằng môi miệng còn lòng chúng lại xa Ta”(Mc 7, 6). Vậy được lời Chúa nhắc nhở, chúng ta hãy đến với Chúa với tất cả tấm lòng thành. Trong thánh lễ chúng ta đối đáp thưa kinh, chúng ta hát thánh ca và tấm lòng chúng ta cần phải đặt vào đó thì lời kinh tiếng hát mới nâng tâm hồn ta lên và mới đẹp lòng Chúa.

Khi bố thí cho người nghèo hoặc khi dâng cúng cho Chúa, chúng ta dâng cúng phần dư thừa của mình đã đành, nhưng nhiều khi cũng phải sẵn lòng cho đi cả cái thiết yếu nữa như câu nói gần đây chúng ta thường nghe: “Áo lành đùm áo rách và áo rách ít đùm áo rách nhiều”. Mẹ Têrêsa nói: “Khi ta trao tặng một món quà mà nó là một sự mất mát, là sự hi sinh đối với ta thì đó mới là món quà giá trị”.

Người ta thường nói: “Cách cho quí hơn của cho” Cho đi với cả tấm lòng với sự tự nguyện hi sinh cùng với tinh thần tôn trọng người nhận thì rất đáng trân trọng. Có thể kể ra ba cách cho sau đây:

Cho bất đắc dĩ: Vì người xin gây bực bội cho ta: cho họ như để đuổi họ đi khỏi làm rầy rà ta.

Cho vì bổn phận: Vì vị thế đòi buộc ta phải cho.

Cho vì tình thương: không phải miễn cưỡng hay ép buộc nhưng vì lòng bác ái.

Thánh Phaolô  nói: “Thiên Chúa yêu người dâng của cách vui lòng” (2 Cor 9,7)

Câu chuyện: Bà Oseala Mc Cathy vào tháng 7 năm 1995 tặng cho đại học Missisipi 150.000 đô la Mỹ vào quĩ học bổng giúp các  sinh viên nghèo và bà xin ông hiệu trưởng đừng có công bố danh tính bà. Ít năm sau (1999), bà qua đời,  trường đại học mới công bố. Điều đáng nói là bà chỉ là người làm nghề giặt ủi và số tiền đó là do sự dành dụm tiết kiệm thời gian dài của bà. Nhà Tỷ phú Ted Turner rất cảm kích trước nghĩa cử của bà, ông tuyên bố: nếu bà này đóng góp được 180.000 đô cho quĩ học bổng thì tôi phải theo gương bà đóng góp 1 tỷ đô!

Nguyện xin Chúa cho chúng con biết sống tinh thần quảng đại, chân thành đối với Chúa và với mọi người như thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu lấy lời sau đây như châm ngôn cho đời sống mình là: “Sống mỗi giây phút hiện tại với tất cả lòng yêu thương”. Amen.

 

69. Đồng tiền

Có một ông già giàu gặp một vị đạo sĩ ngồi ở gốc cây bên lề đường, liền hỏi: “Ông ngồi đây làm gì vậy? Nhà tôi đang cần người giúp việc, về làm cho tôi ông sẽ có tiền”. Vị đạo sĩ trả lời: “Cám ơn ông, tôi rất sợ tiền bạc, vì ở đâu có tiền bạc ở đó có tội ác”. Ông nhà giàu nói: “Ông rất lầm nên mới yếm thế bi quan. Thế gian có tiền là có tất cả. Có tiền mua tiên cũng được, khắp đông tây đều công nhận như vậy”. Vị đạo sĩ trả lời: “Ông càng lầm hơn tôi, tiền bạc mở được mọi cửa trừ cửa thiên đàng. Đó là câu nói của các nhà đạo đức phương tây. Còn đông phương thì cho rằng: tiền bạc mua được tất cả nhưng không thể mua được lương tâm của người quân tử”. Ông nhà giàu lại nói: “Ông biết chứ, lịch sử chứng tỏ tiền bạc đi tới đâu thì ở đấy phồn thịnh. Có phải tiền bạc đã biến đổi thế giới khổ cực thành xa hoa sung sướng không?”. Vị đạo sĩ trả lời: “Ông chỉ thấy tiền bạc có một mặt, ông không thấy mặt trái của nó, lịch sử cũng ghi rõ: tiền bạc đi tới đâu thì gieo chia rẽ giàu nghèo, gây nên cảnh bất công, ghen tương, tranh chấp và chết chóc”. Ông nhà giàu không nói thêm gì nữa.

Cuộc đàm thoại giữa ông nhà giàu và vị đạo sĩ trên đây chỉ xác nhận những điều mà có lẽ tất cả chúng ta đều đã biết và công nhận như vậy. Bởi vì tự nó tiền bạc chỉ có một giá trị rất nhỏ. Theo cách đánh giá này thì tờ 500 đồng cũng giống như tờ 1 đồng, chỉ là một tờ giấy có in hình khác nhau, đáng giá vài xu do tiền giấy và công in. Nhưng theo giá trị định ước, thì tờ 500 gấp 500 lần tờ 1 đồng. Chính vì giá trị định ước này mà tiền bạc dù rách, dù hôi, nó vẫn được quí trọng, dù đẹp dù xấu, dù mới dù cũ, nó vẫn được người ta dành cho nhiều cảm tình. Nó được chuyền qua biết bao nhiêu bàn tay và được sử dụng vào muôn vàn việc khác nhau.

Tiền bạc là phương tiện giúp cho người ta trao đổi để dễ dàng sinh hoạt trong cuộc sống hằng ngày. Nên tiền bạc tự nó không xấu mà trái lại là đàng khác. Nhưng nó trở nên tốt hay xấu là do con người sử dụng nó. Nó có thể được dùng vào những việc gian manh, bất lương, xảo trá, gây nguy hiểm và tai hại cũng như được dùng vào những công việc bác ái, xây dựng tình yêu, tạo nên tình bạn hay đem lại những lợi ích vật chất và tinh thần.

Như vậy, tất cả chúng ta đều nhất trí rằng: tiền bạc tự nó là tốt và luôn luôn có giá trị rất thực tế theo như định ước người ta gán cho nó. Tờ 1000 đồng chắc chắn phải hơn tờ 50 đồng, tờ 100 đồng, tờ 500 đồng. Nhưng tại sao trong bài Tin Mừng Chúa Giêsu lại nói hai đồng tiền kẽm, chỉ đáng một phần tư đồng xu Rô ma của người đàn bà góa nghèo bỏ vào thùng tiền dâng cúng ở đền thờ lại quí hơn những số tiền lớn của những người giàu?

Xét về số lượng thì chắc chắn hai đồng tiền của bà góa thua kém xa số tiền lớn của những người khác. Nhưng xét theo tỷ lệ tương quan, nghĩa là về hoàn cảnh, về lý do, về mục đích thì người đàn bà này đã bỏ vào thùng tiền nhiều hơn, bà ấy đã cho nhiều hơn hết, vì bà không dâng những thứ dư thừa mà dâng những cái rất cần thiết để nuôi sống. Có thể số tiền đó chính là một ổ bánh mì, một lon gạo, một bó rau đủ để nuôi sống bà trong ngày hôm đó. Nhưng không, bà không lo đến tương lai, không lo ngày mai sẽ ra sao, bà chỉ biết phụng sự mà không biết lợi dụng tôn giáo hay lợi dụng Thiên Chúa. Trái lại, những người dâng cúng nhiều chỉ khoe khoang để tìm danh vọng tiếng khen. Số tiền họ dâng cúng tuy nhiều nhưng so với cơ nghiệp và gia tài của họ thì có thấm thía gì. Họ chỉ mất một ít tiền bạc nhưng lại được lời về danh giá và tiếng khen. Cho nên, thực sự họ chẳng cho hoặc dâng hiến được bao nhiêu. Đó là một cuộc đầu tư một vốn bốn lời. Đó là một sự lợi dụng tôn giáo và bác ái chứ không phải phục vụ. Chính vì lý do đó mà Chúa Giêsu đã đánh giá bà góa nghèo dâng cúng nhiều hơn mọi người.

Hơn nữa, đối với Thiên Chúa, điều quan trọng không phải là bao nhiêu, nhiều hay ít, miễn là với tất cả tấm lòng. Ngài không ham của cải Ngài đã ban cho loài người, nhưng chỉ muốn lòng thành thực của con người mà thôi. Cho nên, người ta có thể dâng thật nhiều cho Thiên Chúa, nhưng bao lâu người ta chưa dâng chính mình hay ít nữa những gì thuộc về bản thân, những gì liên hệ tới chính con người của mình thì kể là người ta chưa dâng hiến gì cả.

Qua bài Tin Mừng với việc làm của người đàn bà góa nghèo, Chúa Giêsu dạy cho chúng ta biết ý nghĩa và giá trị của tiền bạc đối với người sử dụng nó và qua đó chúng ta rút ra được một bài học, đó là hãy biết cho đi. Bởi vì thương yêu là cho đi. Càng cho nhiều là dấu càng yêu thương nhiều, nhất là cho đi với một lòng thành thực thiết tha. Nhưng không phải chỉ cho những gì là vật chất như của cải, tiền bạc mới là cho. Chúng ta có thể cho những gì là siêu nhiên cao quí như lời cầu nguyện; và cho những gì là tinh thần như một nụ cười, một cái nhìn thiện cảm, một lời nói vui vẻ hiền hòa hay những lời an ủi chân thành…

 

70. Cho đi

Người ta trắc nghiệm một quà tặng không phải bằng số lượng của nó, nhưng bằng sự mất mát mà người cho phải chịu.

Chúng ta phải cho điều gì thật sự có một giá trị đối với chúng ta. Đó không phải là cho cái nếu không có chúng ta vẫn sống được mà là cho cái nếu không có, chúng ta không thể sống được hoặc chúng ta không muốn thiếu nó trong cuộc sống: Loại cho này làm chúng ta bị tổn thương. Nhưng đó chính là tình yêu đang hành động. Khi người cho cũng rất cần của cho như người nhận. Đó mới là sự cho thật. Và lúc đó, sự cho thành một sự hy sinh.

Mẹ Têrêxa kể lại một câu chuyện. Một ngày nọ, mẹ đi xuống phố và một người ăn mày đến gặp mẹ và nói: “Thưa mẹ Têrêxa, mọi người đều cho mẹ tiền. Tôi cũng muốn cho mẹ tiền. Hôm nay, suốt cả ngày, tôi chỉ có được ba mươi xu. Tôi muốn cho mẹ số tiền ấy”.

Mẹ Têrêxa suy nghĩ một lúc: “Nếu tôi lấy ba mươi xu thì tối nay anh ta sẽ phải nhịn ăn; còn nếu tôi không lấy, tôi sẽ làm tình cảm anh ta tổn thương. Vì thế tôi đưa tay ra để lấy số tiền ấy. Tôi chưa bao giờ thấy được niềm vui như thế trên khuôn mặt ai như trên khuôn mặt của người ăn mày đó khi anh ta nghĩ rằng mình cũng đã cho tiền mẹ Têrêxa”.

Mẹ Têrêxa nói tiếp: “Đối với người đàn ông nghèo này, phải ngồi suốt cả ngày để chỉ xin được ba mươi xu. Đẹp biết bao: ba mươi xu như thế là một món tiền nhỏ, và có thể tôi chẳng mua được gì nhưng vì anh ta đã cho nó và tôi đã lấy nó, nó trở nên gấp ngàn lần bởi vì nó đã được cho với bao yêu thương. Thiên Chúa nhìn thấy không phải là sự to tát của công việc, mà vào tình yêu thương qua đó công việc được hoàn thành”.

Các bài đọc hôm nay kể lại những câu chuyện tương tự về lòng quảng đại. Hai bài nói về hai con người rất nghèo: hai bà góa. Chúng ta tự hỏi làm thế nào mà một người nghèo như bà góa trong Tin Mừng lại có thể làm được một hành động tốt lành tự phát đến như thế. Người ta cần phải trung tín thực hành lòng quảng đại trong nhiều năm để có được tấm lòng nhân hậu như bà. Nó được hình thành không phải bằng một ít công việc lớn lao mà bằng nhiều công việc nhỏ bé.

Nếu bạn chiếm được một địa vị cao trong đời sống, bạn có một cái danh phải giữ. Bạn ý thức sự hiện hữu của mình trong con mắt của quần chúng. Vì thế khi bạn làm một điều tốt bạn phải làm thế nào để nó gây ấn tượng cho những người khác hơn là để cho điều tốt ấy xuất phát từ lòng nhân hậu của tâm hồn bạn. Điều này đưa vào một yếu tố cho việc hoàn thành – bạn hoàn thành cho một số khán giả.

Có một địa vị thấp (như bà góa) có thể có lợi ích. Nó có nghĩa bạn không bị để ý nhiều. Bằng cách đó, những gì bạn làm hoặc cho có cơ may là những sự việc vô danh. Công việc bạn làm càng dễ dàng xuất phát từ tâm hồn của bạn.

Mặc dù không ai khác nhận ra việc bà góa đã làm, Đức Giêsu nhận ra nó và ca ngợi bà. Biết rằng một việc làm yêu thương dù nhỏ không thoát khỏi ánh mắt dõi theo của Người là một điều thích thú. Chúng ta tốt biết bao khi nhận ra công việc những người khác làm và khẳng định chúng! Đáng buồn là thật ra chúng ta quá chú tâm về mình đến nỗi chúng ta không còn nhận ra cũng không quan tâm đến những công việc ấy.

Bà góa trong câu chuyện Tin Mừng đã cho tất cả những gì thuộc về bà. Bà cho đi mọi sự an toàn nhỏ nhặt nhất và phó thác hoàn toàn chính mình cho Thiên Chúa. Vì thế, câu chuyện ấy vừa là câu chuyện về sự tín thác vào Thiên Chúa, vừa là câu chuyện về lòng quảng đại.

 

71. Chúa Nhật 32 Thường Niên

TINH THẦN NGƯỜI ĐÀN BÀ GÓA NGHÈO

(Suy niệm của Lm. Nguyễn Hữu Thy)

Trọng tâm của biến cố là chính Đức Giêsu. Người đã gọi các môn đệ lại và nói cho họ điều Người vừa quan sát thấy. Người nói cho họ về một người đàn bà góa nghèo. Bà đã đi qua gần chỗ Người đang đứng và bà đã làm một việc, mà Đức Giêsu lấy làm tâm đắc và cho là rất đáng đề cao. Đó là bà đã bỏ vào một trong mười ba hòm tiền quyên góp của đền thờ để gần đó hai đồng xu nhỏ. Những đồng xu được đúc bằng đồng đỏ này là những đồng tiền nhỏ nhất ở Do-thái vào lúc bấy giờ và được gọi là Pê-ru-ta. Nhưng vì thánh sử Mác-cô viết Phúc Âm này cho một cộng đoàn tín hữu không hiểu tiếng Do-thái, nên ngài đã gọi đồng tiền đó bằng tiếng Hy-lạp là Lép-ta, để khi họ nghe câu chuyện, có thể tưởng tượng được số tiền bà góa dâng cúng là bao nhiêu!

Thuộc về khung cảnh của câu chuyện còn có một điều gây thắc mắc. Đó là câu: “Đức Giêsu ngồi đối diện với hòm tiền dâng cúng cho đền thờ” (Mc 12,41). Nhưng trên thực tế, ở trong đền thờ Giê-ru-sa-lem không hề thiết kế chỗ ngồi. Điều đó có thể giải thích là sau thời Đức Giêsu việc ngồi trong đền thờ mới bị cấm, hay cũng rất có thể là thánh sử Mác-cô, một người ngoại giáo mới trở lại đạo, đã không biết rõ được tất cả những tục lệ và thói quen trong đền thờ chăng!

Một câu hỏi khác nữa, là làm thế nào Đức Giêsu có thể biết được người ta đã bỏ bao nhiêu tiền vào hòm tiền đền thờ? – Nhưng điều này đã tìm được sự giải thích: Trong việc dâng cúng ở đền thờ Giê-ru-sa-lem xưa kia, người ta không trực tiếp bỏ tiền vào hòm tiền đền thờ, nhưng họ trao số tiền cho vị Thầy cả đứng gần đó, vị này sẽ kiểm soát giá trị của tiền dâng cúng và nêu lên mục đích xử dụng. Sau đó số tiền mới được bỏ vào hòm tiền. Một việc làm quá quen thuộc như thế hầu như ai cũng đều có thể nhìn thấy, chứ không thể che mắt quần chúng đang đứng chung quanh được. Vì thế, khi có một người giàu có nào đến dâng cúng một số lượng tiền to lớn, thì đều được hô to lên và đương nhiên gây được sự ngạc nhiên và khâm phục của đại chúng. Còn đối với trường hợp của người đàn bà góa nghèo là cả một việc thật tế nhị! Nếu vị Thầy cả khi nhận hai đồng xu quá ít ỏi của bà, mà biết thông cảm hoàn cảnh của bà, không rao lên mục đích xử dụng hay chỉ nói nho nhỏ, thì mới hy vọng là những người đứng đầy chung quanh không nghe biết được.

Bây giờ chúng ta quay về người đàn bà: Bà là một người góa chồng và được nói đến như là một người nghèo đói. Vâng, khác với ngày nay, xưa kia ở Do-thái những người đàn bà góa và các trẻ con mồ côi là những thành phần xã hội bất hạnh và bị mất mát thua thiệt nhất.

Trước hết, qua cách ăn mặc người ta nhận ra ngay bà là một người góa; Còn hai đồng Lép-ta thực ra chỉ có một giá trị tối thiểu. Đó là điều không lấy gì làm ngạc nhiên cả. Bởi vì người đàn bà goá không hề có lương thưởng lợi nhuận riêng. Khi chồng bà chết, bà phải trở về nhà cha mẹ đẻ của mình. Nếu người cha đẻ của bà cũng không còn nữa, thì còn lại một cách là đi ăn mày của bố thí. Và dĩ nhiên, cuộc đời của một người đành phải ngửa tay đi ăn mày kẻ khác như thế, éo le và nhục nhã như thế nào, những người đương thời ai cũng đều biết.

Vì thế, Đức Giêsu đã can thiệp. Người giải thích cho các môn đệ điều Người vừa quan sát thấy. Nhưng Đức Giêsu lại không đưa ra một lời kết luận rõ rệt về câu chuyện này. Cả đến một hướng dẫn thực dụng về đạo đức cũng không. Chúng ta còn nhớ trong câu chuyện người Sa-ma-ri-ta-nô nhân hậu, Người đã nói: “Ngươi hãy đi và cũng hãy hành động như vậy” (Lc 10,37). Còn ở đây, Đức Giêsu lại không hề khuyên các môn đệ của Người hãy hành động giống như bà góa nghèo kia, tức đem trút hết số tiên bạc họ có vào trong hòm tiền đền thờ! Hơn nữa, Người cũng không hề phê bình những người giàu có dâng cúng tiền cho đền thờ, trái lại chúng ta còn có cảm tưởng là Người cũng coi việc những người giàu đổ tiền vào đền thờ là một việc chính đáng!

Vậy, chúng ta phải nghĩ gì về sự việc đó? Sự việc là có kẻ thì tiền bạc dư thừa, còn có kẻ khác lại hầu như chẳng có gì cả! Phải chăng những số tiền to lớn được dâng cúng cho đền thờ là không nhất thiết quan trọng? – Ở đây, câu trả lời đã quá rõ ràng: Mục đích được xử dụng đã được ghi rõ rệt; tất cả mười ba hòm tiền chứa đựng tiền bạc dâng cúng của khách thập phương là cốt để phục vụ đền thờ và để trang trải những tốn kém trong việc thờ phượng trong đền thờ. Nói cách khác, việc dâng cúng tiền của cho đền thờ là một việc chính đáng, cần thiết và rất đáng khuyến khích. Vậy, chỉ còn lại sự khác biệt thuộc lãnh vực tinh thần. Đức Giêsu biết rõ điều đó, nhưng Người không nêu danh ra. Đó là ý nghĩ và tâm tình của người dâng cúng.

Nhưng nếu bảo người đàn bà góa nghèo đã dâng cúng nhiều hơn những người giàu có, thì người ta phải hiểu điều đó như thế nào? Rất có thể Đức Giêsu cho rằng trước mặt Thiên Chúa, giá trị thực sự của một lễ vật không nằm trong số lượng hay giá trị tiền bạc do người đời thiết định, nhưng ở một chỗ khác!

Nếu người ta không thể căn cứ vào tiền bạc để phân biệt giữa giàu nghèo, thì có lẽ tư cách và phẩm chất của người dâng cúng mới đáng được đánh giá? Trong câu chuyện chúng ta đề cập tới ở đây, có lẽ nhà triết học Erich Fromm đã phẩm định rất đúng, là: Một người có một cái gì đó, còn một người khác là một cái gì đó! Chắc chắn Đức Giêsu cũng có một ý nghĩ tương tự. Trên thực tế, Người đã không đòi hỏi các môn đệ của Người: Các con cũng hãy hành động như bà góa nghèo! Nếu không, điều đó sẽ có nghĩa là: Khi các con đã dâng cúng mọi sự cho đền thờ, bấy giờ các con mới là môn đệ đích thực của Thầy! Theo thiển ý, tôi nghĩ rằng Đức Giêsu có thể kết luận câu chuyện: Các con hãy trở nên giống như bà góa! Bà đã chứng tỏ cuộc sống của bà hoàn toàn thuộc về một mình Thiên Chúa. Bà không có của cải gì cả để có thể dâng cúng cho đền thờ Thiên Chúa. Thực ra, bà không cần phải lo dâng cúng gì cho Thiên Chúa nữa cả, bởi lẽ bà đã thuộc về Người hoàn toàn rồi. Bà cho đi một cách thảnh thơi và trọn vẹn, không san sẻ, vì bà không lo sợ trước cuộc sống, v,v…! Đúng vậy, Đức Giêsu có thể lý luận một cách tương tự. Nhưng trên thực tế, Người đã không nói gì cả!

Chúng ta đã từng đọc thấy trong Phúc Âm là trong mỗi giờ giáo huấn Đức Giêsu thường nêu lên một đòi hỏi gì đó về việc đạo đức hay đưa ra một hướng dẫn cụ thể về luân lý, để giúp con người định hướng được đời mình một cách đúng đắn! Thế nhưng, trong câu chuyện người đàn bà góa nghèo này, người ta không cần phải áy náy lương tâm, không cần phải nóng nảy thúc bách gì cả. Chỉ cần phải bình tĩnh kiểm điểm lại tư cách và trạng thái của tâm hồn mình trước mặt Thiên Chúa.

Câu chuyện người đàn bà góa dâng cúng tiền vào hòm tiền đền thờ này được kết thúc không bằng một lời dạy luân lý, cũng không bằng một lời khuyên cụ thể về phương thức hành xử nào cả. Tuy nhiên qua câu chuyện, người ta có thể tự đoán biết Đức Kitô muốn nhắc bảo ta điều gì: Con hãy sống và hành động chân thành, nhiệt tâm và bền vững. Nếu con giúp đỡ ai, con hãy giúp đỡ cách thành tâm và hết lòng, theo khả năng con cho phép. Nếu dâng cúng tiền của hay bất cứ điều gì cho Thiên Chúa và Giáo Hội Người, con hãy dâng cúng theo khả năng của con, nhưng phải dâng một cách thành tâm. Bởi vì trước mặt Thiên Chúa, của lễ cũng như số lượng của lễ hoàn toàn không quan trọng. Chính tâm tình con thảo và tấm lòng trung hậu của con người mới là điều Thiên Chúa muốn và vì thế mới là yếu tố có tính cách quyết định.

 

72. Chúa Nhật 32 Thường Niên

(Suy niệm của Lm. Gioan Phan Tiến Dũng)

Thưa anh chị em, với biết bao đau khổ, tang thương vì đại dịch, đặc biệt trong những ngày qua, khi tình hình xã hội phần nào được nới lỏng ra, thế nhưng, hệ lụy của nó, số người bị nhiễm bệnh lại tăng cao. Thật vậy, khi đối diện với những nghịch cảnh, nhiều người dường như bị mất niềm hy vọng vào cuộc sống, có người không thể vượt qua được những đau khổ, nên đã bị trầm cảm, bị stress, số khác thì lại thì không có cơ hội để sống và thực hành niềm tin cũng như đời sống đạo của mình…trong hoàn cảnh như vậy, là những người con cái Chúa, những Kitô hữu chúng ta có còn tin vào Thiên Chúa là người Cha, Đấng giàu lòng thương xót, hằng quan tâm chăm sóc và quan phòng cho cuộc đời của con người chúng ta hay không? Thưa ACE, phương cách tốt nhất cho chúng ta trong cuộc sống hiện nay, không gì hữu ích hơn, là phải để cho lòng trí chúng ta được lắng đọng và hãy để cho ánh sáng của Lời Chúa soi dẫn, hầu giúp gia tăng sức mạnh ơn thánh Chúa cho chúng ta. Thánh vịnh 87 trong bài ca nhập lễ như gói gọn tâm tình của Giáo hội dành cho chúng ta: “Hãy cầu nguyện và kêu xin Chúa và xin Ngài lắng nghe”. Đây cũng chính là tâm tình của các bài đọc Lời Chúa hôm nay.

Bài đọc một (1 V 17, 10-16) thuật lại cho chúng ta câu chuyện của Tiên tri Êlia với một bà góa nghèo. Hai con người này xuất phát từ hai hoàn cảnh khác nhau, thế nhưng, họ đều là những người nghèo của Thiên Chúa, con người luôn biết đặt trọn niềm tin tưởng, tín thác vào Thiên Chúa. Thế nên, trong mọi việc họ luôn cầu nguyện và hoàn toàn vâng theo để thực thi những gì mà Chúa muốn. Dẫu phải đối diện với nghèo đói, thiếu thốn và ngay cả với cái chết gần kề, họ vẫn một niềm tín thác vào Chúa và sống quảng đại yêu thương, quan tâm chia sẻ cho những người cần và thiếu thốn hơn mình. Việc bà góa ưu tiên làm cho Êlia một cái bánh, chiếc bánh cuối cùng để có thể giúp bà kéo dài thêm sự sống của bà được một chút. Thế nhưng, đều tuyệt vời và đáng trân quý nơi con người này: Bà đã quảng đại cho đi với lòng tin tưởng tuyệt đối vào ơn thánh quan phòng của Chúa. Thế nên: “Hũ bột đã không vơi, và bình dầu đã không cạn”. Thưa anh chị em, nếu hiện nay trong lúc khó khăn và đói nghèo này, đặt chúng ta vào tình huống của bà góa nghèo này, với chút lương thực mà chúng ta còn lại, liệu rằng, chúng ta có chia sẻ và dành phần ưu tiên cho vị Ngôn sứ? Thiết nghĩ nhiều người sẽ không dại gì mà làm theo, vì nếu theo suy luận của chúng ta, nếu có chia sẻ, thì chúng ta cũng sẽ cho một chút thôi, chúng ta sẽ dành lại phần nhiều cho mình, hay quá lắm thì cho một nữa mà thôi.

Bài Tin Mừng hôm nay (Mc 12, 38-44) cũng thuật lại cho chúng ta một câu chuyện rất cảm động của một bà góa nghèo. Với sự tinh tế và nhạy cảm, Chúa Giêsu đã thấy được lòng quảng đại hy sinh của bà góa. Dẫu cho bà chỉ dâng cúng có hai đồng xu nhỏ, với một chút xíu tiền hy sinh như vậy, nếu xét và so sánh với số tiền dâng cúng của những người khác thì bà góa nghèo chẳng có công trạng gì. Thế nhưng, Chúa lại khen ngợi, tôn vinh cử chỉ và hành động phi thường của bà góa. Dẫu rất ít, nhưng đây chính là những gì còn sót lại cuối cùng để có thể nuôi sống bản thân bà. Nhưng bà đã không giữ lại cho mình mà đã quảng đại dâng cúng cho Chúa và cho đền thờ. Chúng ta sẽ tự hỏi, bà góa này có liều lĩnh quá hay không, vì theo sự suy luận của con người, thì có vẻ bà đã không khôn khoan khi dâng cúng hết những gì mình có, mà không giữ lại chút gì để lo cho bản thân, vì nếu bà không tự lo cho mình thì ai sẽ lo cho bà?…Thưa anh chị em, thật đúng vậy, với sự suy luận hơn thiệt của con người, thì bà góa nghèo đã không khôn ngoan và quá liều lĩnh. Nhưng trên bình diện đức tin, điều mà Chúa Giêsu đang muốn các môn đệ và mỗi người chúng ta hãy noi gương con người sống hoàn toàn tín thác vào tình thương, lòng quảng đại và sự quan phòng của Thiên Chúa dành cho chúng ta.

Thưa anh chị em, giữa những lúc khó khăn, đau khổ của đại dịch trong suốt thời gian qua, bản thân tôi, phần nào cũng cảm nhận được tình yêu thương qua lòng quảng đại sẻ chia của biết bao vị ân nhân xa gần dành cho những người kém may mắn đang gặp đau khổ hơn mình. Điều này đang mời gọi mỗi người chúng ta hãy tự hỏi lại chính bản thân mình: Chúa đang muốn điều gì nơi chúng ta, phải chăng điều Ngài muốn là tiền bạc, của cải, thời giờ, tài sức hay năng lực của chúng ta đây? Nếu giờ đây, Chúa đang muốn chúng ta hãy dành ưu tiên cho Ngài qua những con người phận nhỏ, những người đau khổ và người nghèo, thì liệu rằng chúng ta có dám tín thác để cộng tác với Chúa, để dâng cho Chúa, để Ngài hành động chăng?

Thật ra, chúng ta chỉ có thể sống quảng đại yêu thương sẻ chia, khi chúng ta ý thức được rằng, những gì mà chúng ta có được chính là ơn ban của Chúa, chính là sự quan phòng cách đặc biệt mà Chúa đã và đang thương dành cho chúng ta. Thế nên, việc chúng ta dâng tiến cho Thiên Chúa hay sẻ chia cho tha nhân, chính là lúc mà Chúa cho chúng ta có cơ hội để được cộng tác với Ngài, để làm lan tỏa tình yêu thương và ơn thánh của Chúa cho anh chị em mình. Thật vậy, đây chính là điều mà trong bài đọc hai (Dt 9, 24-28) đã dạy chúng ta. Hạnh phúc cho ai khi được kết hiệp với Của Lễ, với Hy Tế là Đức Giêsu Kitô, dẫu Ngài chỉ một lần hiến dâng, nhưng với ơn phúc của Chúa ban, có giá trị cho đến muôn đời cho những ai tin vào Ngài và sống kết hiệp với Ngài.

Lạy Chúa, trước tình yêu và ơn thánh của Chúa, chúng con thường quá so đo, tính toán hơn thiệt, chúng con chỉ muốn lãnh nhận nhưng không dám dấn thân cho đi. Xin cho chúng con qua bài học và gương mẫu của hai bà góa cũng như của chính Chúa Giêsu, để luôn sống cảm tạ, tri ân với những gì Chúa đang ban cho chúng con. Xin Chúa hãy dùng chúng con như khí cụ ơn thánh và tình thương của Chúa cho tha nhân qua cách sống quảng đại hy sinh phục vụ vì tình yêu thương của chúng con. Amen.

 

73. Cho mà không mất

Trên một bình diện nào đó, câu chuyện của bài đọc một có vẻ như vô nghĩa. Xem ra nó có vẻ khôi hài và không thể có. Thật thế, nếu chúng ta hiểu nó theo nghĩa đen. Dĩ nhiên chúng ta có thể hiểu nó theo nghĩa đen – tức là nghĩa của một phép lạ. Nhưng nó có thể có một ý nghĩa khác. Lúc đó nó trở nên rất thật và mở ra toàn bộ chân trời ý nghĩa và áp dụng.

Bà góa không còn gì ngoài một ít lương thực sau cùng. Mọi thứ bà còn là một nắm bột trong hũ và một ít dầu trong bình. Tuy nhiên, khi chia sẻ lương thực ấy với vị ngôn sứ, nó còn mãi không hết. Điểm quan trọng ở đây là có thể cho mà không mất. Thật vậy, cho là một cách để có được chắc chắn, cho không phải là để mất.

Hãy lấy ví dụ một hạt lúa mì. Nếu cứ để trong kho thóc nó vẫn chỉ là hạt lúa mì, trong thời gian đó, nó sẽ bị mốc meo và thối mục, và rồi không để lại gì. Nhưng nếu nó được đưa ra ngoài và đem gieo trồng, nó sẽ chết, nhưng như thế, nó sẽ sinh ra rất nhiều hạt khác.

Một ví dụ khác. Nếu bạn đốt một ngọn nến, bạn có thể thắp sáng hàng trăm ngọn nến từ ngọn nến ban đầu mà không làm cho nó giảm đi ánh sáng. Nó có thể chia sẻ ánh sáng mà không mất đi ánh sáng của mình.

Như thế, có một ý nghĩa là chúng ta có thể chia sẻ những gì mình có mà không làm mình nghèo đi. Thật vậy, dường như chúng ta còn giàu có thêm khi làm thế. Dĩ nhiên, ở đây chúng ta không nói về của cải vật chất. Một người thầy không mất gì trong kiến thức của mình khi chia sẻ kiến thức cho học sinh. Một người mẹ không mất gì trong tình yêu của mình khi chia sẻ tình yêu với con cái.

Vậy, chúng ta có thể chia sẻ những thứ như kiến thức, tình yêu và hòa bình với những người khác mà nguồn dự trữ những thứ ấy không hề bị giảm bớt. Sự cho sẽ giải phóng tâm hồn của người cho. Người cho được phong phú như là người nhận. Chúng ta thấy điều này trong trường hợp của bà góa trong bài đọc 1. Khi chúng ta cho một cách vui vẻ, phấn khởi, và nhận với lòng biết ơn thì mỗi người đều được chúc lành.

Brian Keénan, người bị bắt làm con tin trong nhiều năm ở Libăng cho chúng ta một ví dụ sâu xa. Ông nói rằng nếu một người bám víu vào chính mình, tỏ ra bực dọc không nghĩ đến những người cùng bị bắt làm con tin, hoặc không chăm sóc đến họ, hoặc không chia sẻ với họ… đó là một cách dẫn đến tai họa. Nó đưa người ta vào chính mình và trở thành u sầu và chỉ nghĩ đến mình. Ông nói: “Chúng ta sống còn qua những gì chúng ta cho”.

“Tình yêu giống như một cái rổ quyên tiền: Bạn sẽ không bao giờ có đủ cho tới khi bạn bắt đầu cho đi” (Anon).

 

74. Phẩm giá đời sống

(Suy niệm của Lm. Bênađô Nguyễn Tiến Huân)

Bài Phúc Âm hôm nay có thể chia hai phần:

Phần 1: Chúa Giêsu chê những người luật sĩ kênh kiệu, giả hình và ham danh. Trong xã hội Do Thái bấy giờ đang bị thống trị bởi ách đô hộ ngoại bang Roma có ba lập trường khác nhau:

  1. Lập trường cộng tác với chính phủ ngoại bang của các gia đình quý phái tư tế, giữ các chức vị Thượng tế, cai quản đền thờ và bè Sadoc.
  2. Lập trường chống đối của các nhà ái quốc tự mệnh danh là nhiệt thành như Yuda người Galilê đã cầm đầu nổi loạn và bị đàn áp cách tàn nhẫn hồi Chúa Giêsu còn bé, hay Baraba được dân xin Philatô cho phóng thích (Mt 27,21).
  3. Lập trường hàng phục thụ động của biệt phái, ký lục và luật sĩ. Đám dân đen còn lại thì bị hoang mang bơ vơ như “đàn chiên không người chăn dẫn” (Mc 6,34). Đám luật sĩ bị Chúa Giêsu chỉ trích trong bài Phúc âm hôm nay thuộc phe hàng phục thụ động ngoại bang để vớt vát những tư lợi của cá nhân mình. Đồng thời họ lại là những kênh kiệu ham danh, giả hình. Họ giống như “những mồ mả tô vôi mã ngoài đẹp đẽ nhưng bên trong thì đầy xương cốt thây ma xú uế” (Mt 23,27).

Phần 2: Chúa Giêsu khen sự dâng cúng quảng đại của một bà góa nghèo vì tuy chỉ bỏ có hai đồng tiền nhưng thực sự đã dâng cúng nhiều hơn hết vì “những người khác bỏ của mình dư thừa còn bà này đã bỏ tất cả những gì mình có để nuôi sống” (Mc 12,44).

Như thế phẩm tính đời sống con người và nhất là lòng đạo đức không thể được thẩm định bằng cách sống hình thức bên ngoài nhưng chính là bằng sự cố gắng và thành tâm bên trong. Chính Chúa Giêsu đã dạy: “Không phải kẻ chỉ kêu lạy Chúa mà vào được nước thiên đàng, nhưng là kẻ thực thi Thánh ý Chúa” (Mt 7,21). Vì thực thi Thánh ý Chúa mới là yêu mến Chúa thật: “Ai yêu mến Ta thì tuân giữ giới luật Ta” (Ga 14,05).

Nhân đọc bài Phúc âm này chúng ta phải xét lại việc sống đạo của chúng ta: giả hình bên ngoài hay thực tâm bên trong.

Lạy Chúa, tuần này con quyết tâm xa tránh cách sống phô trương giả hình bên ngoài.

 

75. Kết quả

Một con cáo mẹ có ba con cáo con. Một lần kia, nó ngã bệnh, vì thế nó đã sai các con cáo con ra ngoài tìm thức ăn ban đêm. Nó nói với chúng chia ra và đi theo nhiều hướng khác nhau. Chúng không được đi về hướng Nam bởi vì thị trấn nằm ở hướng này.

Con cáo con đầu tiên mạnh khỏe nhưng rất lười biếng. Nó chọn con đường dễ nhất. Nó đi theo hướng đông qua một mảnh đất bằng phẳng. Nó không phải đi xa đã thấy mình ở trong một cánh đồng bị những con thỏ quậy phá. Nó giết chết một con, và ăn. Rồi nó bắt một con khác để đem về nhà.

Nó trở về nhà trong nửa giờ, không có vết trầy xước nào trên mình. “Ồ về rồi đấy ư?” Cáo mẹ nói. “Và có cả một con thỏ đẹp làm sao. Con làm tốt thật!” Và cáo mẹ liếm lên má nó một cái.

Con cáo con thứ hai rất thông minh. Nó đi theo hướng tây băng qua những cánh đồng lồi lõm. Nhìn thấy ánh sáng của một nông trại phía trước, nó đến gần một cách thận trọng. Nó thấy có một cái lỗ trống trong hàng rào mà nó có thể lọt vào nhà đầy những gà tây. Nhà không có nuôi chó giữ nhà. Con cáo con lẻn vào, giết chết hai con gà tơ và lôi ra ngoài. Khi thấy đã an toàn, nó ăn một nửa con. Nó chôn một nửa kia định hôm sau quay lại ăn nốt.

Nó trở về nhà đúng một giờ sau với con gà kia, sau khi cẩn thận rửa sạch máu dính vào mình nó trong một dòng suối. “Làm tốt đấy!” Mẹ cáo nói. “Con đã đem về một con gà tây tuyệt vời” và mẹ cáo liếm lên má nó hai cái.

Con cáo con thứ ba yếu ớt và có vẻ bị bệnh. Nó không có chọn lựa nào khác là đi theo hướng bắc vào trong vùng có nhiều đồi. Ở đây có ít nông trại mà lại cách xa nhau. Các nông trại mà nó gặp đều có chó dữ canh gác. Một con chó làm nó rách mặt qua lưới thép. Một người chủ trại tức giận đã nổ súng, và viên đạn chỉ trượt đi trong gang tấc.

Đêm trôi qua nhanh. Nó không biết làm gì ngoài việc quay đầu về nhà. Trên đường về nhà, nó cũng xoay xở bắt được một con chim sẻ. Mặc dù bị cơn đói thúc giục nó ăn con chim, nhưng nó quyết định đem con chim về cho mẹ nó. Nó về đến nhà lúc bình minh, mình dính đầy bùn, thân thể bầm xước. Khi nhìn thấy nó, cáo mẹ nói: “Con thế nào rồi? Sao trông con thảm hại thế!”

“Con đã vào nơi khó khăn”, cáo con nhỏ nhẹ đáp.

“Mẹ đã chẳng báo trước cho con phải cẩn thận sao” cáo mẹ ngắt lời. “Và con mang gì về cho mẹ sau một đêm đi lang thang?”

Với một đêm mà nó chỉ đem về một con chim sẻ. Hai cáo con kia phải bật cười.

“Cái gì? Một con chim sẻ ư? Đó là tất cả những gì mày đem về sao? Một con chim sẻ!”

“Đó là điều tốt nhất con có thể làm được!” Con cáo con nói.

“Lấy nó đi cho khuất mắt ta. Rõ ràng là tao đã uổng công nuôi dưỡng và chăm sóc mày”.

Sau khi đuổi cáo con ra khỏi hang. Cáo mẹ bày bàn tiệc, thực đơn gồm thỏ và gà tây. Cáo mẹ đặt cáo con khỏe mạnh ngồi ở bên phải, còn cáo con thông minh ngồi ở bên trái. Nhưng không có chỗ ở bàn tiệc cho cáo con nhỏ bé, bởi vì trong con mắt của cáo mẹ chỉ có kết quả mới là quan trọng.

Trong một chiều hướng nào đó, cáo mẹ có lý. Nếu dựa vào kết quả để phán đoán, thì cáo con nhỏ bé đã đi một đoạn đường dài sau hai con cáo kia. Nhưng trong một chiều hướng khác cáo mẹ không có gì sai lầm hơn. Nếu căn cứ vào nỗ lực thực hiện và tinh thần hy sinh thì con cáo con yếu ớt dẫn đầu hai con kia.

Câu chuyện cáo con nhỏ bé nhắc chúng ta nhớ đến bà góa trong Tin Mừng hôm nay. Chúng ta đang sống trong một thế giới trong đó kết quả là điều duy nhất quan trọng. Phần thưởng và bằng cấp trao cho những kết quả, không bao giờ trao cho nỗ lực. Nhưng Đức Giêsu có một tiêu chuẩn so sánh khác, như chúng ta thấy trong câu chuyện bà góa nghèo. Đối với Người, không phải tầm mức của việc trao ban mới đáng kể, nhưng là cái giá phải trả cho việc trao ban ấy. Nói cách khác, không phải kết quả đáng kể mà là nỗ lực thực hiện và tinh thần thể hiện.

Với quan điểm đó, chúng ta có thể kết thúc câu chuyện của các con cáo như sau: Con cáo con ốm yếu về nhà vào lúc bình minh, mình dính đầy bùn, với các vết trầy xước và tím bầm. Đưa con chim sẻ cho cáo mẹ và nói: “Mẹ ơi, tiếc thật, nhưng con đã làm hết sức mình”. Khi nhìn con chim sẻ hai người anh của nó bật cười. Nhưng cáo mẹ không nhìn con chim sẻ mà nhìn vào vết thương của cáo con: “Tốt rồi”, cáo mẹ nói to “Con là con cáo nhỏ bé nhưng vĩ đại. Mẹ tự hào về con”. Rồi bà ôm chặt lấy nó, lấy lưỡi mà lau sạch vết thương cho nó, rồi bà cho nó ngồi ở chính giữa bàn tiệc.

 

76. Chúa Nhật 32 Thường Niên

(Suy niệm của Jaime L. Waters)

KHÔNG NÊN KIẾM LỢI DO BIỂN THỦ MÀ BỎ MẶC NGƯỜI DỄ BỊ TỔN THƯƠNG

Các bài đọc trong những tuần vừa qua đã làm nổi bật các đặc điểm của người môn đệ, nhấn mạnh đến sự khiêm nhường, khôn ngoan và phục vụ.  Qua Phụng vụ Lời Chúa hôm nay, chúng ta bắt gặp một phẩm chất quan trọng khác: lòng quảng đại. Bài đọc thứ nhất và bài Tin mừng giới thiệu cho chúng ta cách thức hai phụ nữ gương mẫu sống thánh thiện, vị tha, nhân ái đối với người khác.

Bài đọc một trích sách Các Vua quyển thứ nhất mô tả cuộc gặp gỡ giữa ngôn sứ Êlia với một bà góa. Trước trình thuật về cuộc gặp gỡ này, Thiên Chúa đã cung cấp thức ăn và nước uống để nuôi sống Êlia trong một trận hạn hán, khi mô tả con quạ mang bánh và thịt cho vị ngôn sứ. Bài đọc hôm nay là một thí dụ khác về sự quan phòng của Thiên Chúa qua việc bà góa chia sẻ đồ ăn, thức uống cho Êlia. Khi vị ngôn sứ xin nước uống, bà đã cho, nhưng khi ông hỏi xin bánh, bà nói rằng mình không còn gì ngoài ít bột. Ông lại thúc giục và bảo bà đừng sợ vì hũ bột, bình dầu để làm bánh sẽ không vơi. Thật vậy, như bản văn cho biết, điều may mắn này trở thành hiện thực, bà và con trai đã đủ ăn trong nhiều ngày.

Bài Tin mừng theo thánh Maccô cũng trình bày một thí dụ tương tự. Đức Giêsu và các môn đệ chứng kiến cảnh người ta dâng cúng vào hòm tiền tại đền thờ. Nhiều người giàu có đã bỏ vào số tiền lớn. Có một bà góa nghèo dâng cúng hai đồng tiền nhỏ giá trị chỉ bằng vài xu. Đức Giêsu tuyên bố chính bà góa nghèo đã đóng góp nhiều hơn hết so với tất cả những người dâng cúng số tiền lớn hơn, vì bà đã cho tất cả những gì bà có.

Lòng quảng đại của bà góa được đặt bên cạnh hành động của các luật sĩ. Nơi bài Tin mừng dài trong sách Bài đọc, Đức Giêsu lên án hành động áp bức của các luật sĩ đối với những người dễ bị tổn thương, họ giả vờ đọc những lời kinh dài để “nuốt hết tài sản của các bà góa”. Đức Giêsu lên án lòng đạo đức giả tạo của họ, Ngài chỉ ra việc phô trương lòng đạo không thể bù đắp cho việc bóc lột tài sản những người nghèo khổ. Lời trách cứ mạnh mẽ của Đức Giêsu đối với những người lạm dụng quyền lực đáng để lưu tâm và cũng nhắc nhở chúng ta về sự cần thiết phải chỉnh đốn hơn là hưởng lợi từ việc biển thủ mà không kể đến người dễ bị tổn thương.

Các góa phụ thường thuộc nhóm người nghèo, có ít nguồn lợi và cơ hội làm ăn. Truyền thống Kinh thánh xác nhận sự cần thiết phải chăm sóc các góa phụ, xây dựng những luật lệ để bảo vệ họ và thường nói đến sự chăm sóc đặc biệt của Thiên Chúa dành cho họ. Hai phụ nữ trong các bài đọc Chúa nhật hôm nay đều thiệt thòi về tài chính và mưu sinh trong một hệ thống có lẽ nhiều áp bức, như được nêu bật khi đề cập đến những góa phụ mất nhà cửa.

Kinh Thánh trình bày nhiều người nữ như những nhân vật kém quan trọng, vô danh trong những câu chuyện xảy ra chung quanh họ. Các bài đọc hôm nay nêu cao người nữ lên hàng đầu để chúng ta nhìn thấy, khen ngợi và noi gương. Họ là hiện thân của tinh thần quảng đại và quan tâm đến người khác, ngay cả khi họ đang cần sự giúp đỡ.

Các bài đọc cần truyền cảm hứng để chúng ta suy nghĩ và hành động, cũng như khuyến khích chúng ta giúp đỡ những người có nhu cầu, dành thời gian, tài nguyên hiện có để đến gần họ với tinh thần cởi mở. Bà góa đã không từ chối cho bánh; đúng hơn, còn chia sẻ thời gian và những gì bà có khi gặp ngôn sứ Êlia. Tương tự, một bà góa khác đã đóng góp vào hòm tiền đền thờ dù sống trong cảnh nghèo khó. Trong khi chỉ trích mạnh mẽ những kẻ bóc lột người nghèo, Đức Giêsu còn mạnh mẽ hơn nữa khi ca ngợi người phụ nữ “từ cảnh túng thiếu, đã đóng góp tất cả những gì bà có”. Đức Giêsu không chỉ xem bà như là một người cần được quan tâm, nhưng còn ca ngợi lòng quảng đại của bà trong việc quan tâm đến người khác.

———–

Ban học tập Sao Biển chuyển ngừ từ America Magazine

 

77. Tâm tình hiến dâng

(Suy niệm của Lm. Anmai)

Người ta vẫn thường bé cái lầm với nhau là những người khá giả, giàu có thì dễ dâng hiến, dễ trao tặng hơn người nghèo nhưng không, thực tế hoàn toàn trái ngược. Những người nghèo, những người hơi kha khá một chút thì lại dễ biết chia sẻ, biết dâng hiến hơn những người giàu. Chuyện thực tế ấy ngày hôm nay được vẽ nên bởi hai bức tranh của hai bà goá: một bà thời Cựu Ước và một bà của thời Tân Ước. Hai bức tranh, hai hình ảnh, hai bà goá ấy nhưng tựu trung chỉ có một đó là tâm tình dâng hiến của một con người nghèo, một con người mà thường thì bị xã hội xếp vào hàng thứ yếu.

Bà goá ở cái thành Xarepta ngày xưa thật là hay. Có sao nói vậy, bà đã nói với “kẻ xin ăn” là Êlia rằng bà chỉ còn có một nắm bột trong hũ và một chút dầu trong vò. Dầu và bột đó có chăng chỉ đủ cho một bữa cho hai mẹ con thôi. Bi đát nhất cái câu của bà là “chúng tôi sẽ ăn rồi sẽ chết”. Quá bi đát bởi vì thời đó đang bị hạn hán, chẳng có gì mà ăn hết. Mẹ goá con côi chỉ có chút bột, chút dầu ấy vậy mà một chàng thanh niên đến để xin ăn. Sức khoẻ của chàng thanh niên ấy mà ăn mớ bột và dầu được làm thành bánh thì chắc hai mẹ con chẳng còn gì để mà ăn nữa.

Sau khi nghe lời trần tình của chàng thanh niên, bà goá đã chia sẻ bánh cho chàng thanh niên và rồi hũ bột không vơi và bình dầu không cạn như lời Chúa đã phán qua miệng ngôn sứ Êlia.

Với trang Tin mừng theo Thánh Maccô hôm nay thật là hay. Nơi trình thuật này, Maccô đã khéo léo vẽ lên một hình ảnh đẹp của bà goá nghèo ở đền thờ.

Trình thuật nhỏ này cũng được ghi lại nơi Luca 21,1-4, song không thấy nơi Matthêu. Điều này cũng dễ hiểu, vì đối với Thánh Matthêu, những cuộc tranh luận của Chúa Giêsu về phe ký lục giữ một tầm vóc quan trọng. Nên chi, thánh ký bỏ đi câu chuyện về bà goá nghèo này. Đang khi đó, Tin Mừng Luca lưu ý nhiều đến góc cạnh xã hội. Như vậy, câu chuyện này sẽ luôn là một thứ chủ đề hấp dẫn.

Trở lại với Maccô, câu chuyện hấp dẫn này được phác hoạ như một hình ảnh đối chọi lại với cuộc sống ích kỷ và giả tạo của ký lục mà Chúa Giêsu vừa phác họa.

Xét về nguồn tài liệu, câu chuyện đại loại như thế khá quen thuộc trong truyền thống Do Thái và cả thế giới ngoại giáo. Khiến chúng ta nhớ lại câu chăm ngôn quen thuộc mà các bậc khôn ngoan thởi đó ưa sử dụng: “Hai con chim câu được hiến dâng bởi một kẻ nghèo khó có giá trị hơn 1.000 hy lễ của vua Agrippa”

Có một câu chuyện rất phù hợp với bản văn Maccô như sau: ngày kia có một người đàn bà nghèo đến dâng một nắm bột bé nhỏ. Vị tư tế nhận lễ vật với thái độ khinh bỉ và sau đó ông ta đã ném đi. Ban đêm trong giấc ngủ, ông nghe có tiếng quở trách: “Đừng khinh bỉ bà ta. Đó dường thể bà ấy đã dâng hiến cả cuộc sống mình”.

Ngồi đối diện với hòm tiền. Người xin dân chúng bỏ tiền vào hòm tiền như thế nào. Lắm người giàu có bõ nhiều. Bà góa nghèo khó nọ cũng đến và bỏ vào hai trinh, tức một xu (c. 41-42).

Hòm tiền: Hồi đó ở khu tiền đường phụ nữ, người ta xây một “phòng Hòm tiền” gồm 13 hộc, như thể thứ hộc bỏ thư ở bưu điện. Đây là nơi dành cho việc dâng cúng của các tín hữu Do Thái.

Cũng theo thông lệ thời đó, các khách hành hương Đền thờ sẽ không tự ý bỏ vào đó tiền bạc hay lễ vật. Họ trao của dâng cúng cho vị tư tế phụ trách và vị tư tế này sẽ đặt lễ dâng vào một trong các hòm tiền, tùy theo ý lễ.

Bởi thế, Chúa Giêsu có thể ngồi đó và quan sát được số tiền hay lễ vật dâng cúng. Người thấy bà góa nghèo đến bỏ vào hai trinh, tức một xu (c. 42).

Hai trinh, tức một xu.

Thời đó 1 lepton là đồng tiền nhỏ nhất được lưu hành. Nó bằng ½ kodrantes.

Hạn từ kodrantes dịch từ La ngữ quadrans. Như vậy 2 lepta khoảng 1 quadrantes. Lương công nhật của người thợ trung bình là 64 quadrans tức là 128 lepta.

Như vậy, hai trinh của bà góa là một số tiền quá ít oi bé nhỏ.

Người gọi môn đệ lại mà nói: Quả thật, Ta bảo các ngươi, bà góa nghèo khó ấy đã bỏ vào nhiều hơn hết thảy. Vì mọi người đều lấy của dư bỏ vào, còn bà ấy lấy túng thiếu mà bỏ vào mọi sự mình có, tất cả của độ thân (c. 43-44)

Hơn… hết thảy Người phụ nữ góa và nghèo này được Chúa Giêsu đánh giá cao nhất: Bà đã dâng cúng hơn mọi người khác, đang khi mà nếu xét theo cái nhìn của người đời, thì 2 trinh của bà là ít nhất. Vì chưng, bà đã “lấy túng thiếu mà bỏ vào mọi sự mình có”; Bà dã dâng hiến tất cả của độ thân.

Lồng kết vào trong nhãn quan thần học Maccô, sự dâng hiến đó của người góa phụ là biểu tượng của một thứ lòng đạo hạnh đích thực, khác hẳn với phe ký lục và các thành phần Do Thái tự mãn khác. Vì bởi, sự đạo đức đúng nghĩa là một sự phó thác toàn vẹn cho Thiên Chúa, một thái độ mà qua đó người ta để cho Thiên Chú hoàn toàn thu xếp, không giữ lại sự tính toán nào.

Y hệt như hình ảnh người phụ nữ lấy ngay cả sự túng thiếu của mình mà hiến dâng.

Cách diễn tả đó gợi nhắc đến giới luật trọng nhất mà Chúa Giêsu nêu lên ở trước: yêu Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực. Và yêu đồng loại như chính mình (Mc 12,29-31).

Trong truyền thống Do Thái, thành ngữ hết sức lực ám chỉ tới mọi nguồn lợi vật chất mà kẻ ấy có.

Bà góa chỉ có 2 lepton. Nếu bà muốn giữ lại 1 lepton chẳng hạn, chẳng ai trách cứ gì bà. Song le, bà đã cho đi tất cả, cho đi chính mình. Một con người như thế ắt sẽ dễ dàng nhìn thấy khổ đau và thiều thốn của đồng loại và cũng sẽ yêu thương đồng loại như chính mình.

Đến đây, chúng ta có thể hiểu rằng: bà góa còn là một thứ biểu tượng của kẻ dám hiến dâng tất cả, dám hy sinh cả mạng sống cho Thiên Chúa cho đồng loại.

Trong bối cảnh kết thúc sứ vụ rao giảng của Chúa Giêsu với viễn tượng tử nạn cận kề, hình ảnh của bà góa phải chăng là sự gợi nhắc trước đến sự hiến dâng mạng sống của Người cho Thiên Chúa ngõ hầu cứu độ nhân loại.

Trong đời sống thường ngày, Thiên Chúa luôn luôn mời gọi con người biết cho đi, biết trao tặng và cũng phải nói rằng có quá nhiều quá nhiều cơ hội để cho đi, để trao tặng. Khi cuộc sống đầy đủ, dư giả mà trao tặng ắt hẳn sẽ không có ý nghĩa cho bằng khi cuộc sống vẫn còn đó trong cái cảnh thiếu trước hụt sau.

Một anh chàng nghèo, vợ mới sinh con đầu lòng được vài tháng cầm 200.000 đồng vào biếu cha để phụ Cha sửa chữa trường cho các em khuyết tật trong giáo điểm của anh. Ngày hôm nay, 200.000 ấy chẳng thấm là bao so với công trình sửa chữa nhưng tấm lòng của anh chàng ấy quá lớn. Chàng thanh niên ấy sống đắp đổi qua ngày với cái nghề buôn bán quần áo sida. Vì hoàn cảnh sinh nhai, chàng thanh niên phải lội ngược lội xuôi về Sài Gòn mua quần áo rồi chạy mãi ra các khu công nghiệp như Nhơn Trạch, Bình Dương để bán. Do đi lại như vậy chàng ít có thời gian ở nhà nhưng ngày nào có ở nhà là ngày ấy chàng đi dự lễ.

Hôm ấy, chàng về đúng cái ngày mà cha đang sửa nhà cho các em khuyết tật, thế là chàng ghé nhỏ vào tai cha: Cha cho vợ chồng con phụ với cha một ít để cha lo cho các em!

Không nỡ cầm 200.000 của chàng thanh niên nghèo nên đã từ chối nhưng không thể nào từ chối được trước cái lòng thành của anh.

Hình ảnh của anh chàng bán quần áo si-da phải chăng là hình ảnh của bà goá nghèo hôm nay trong Tin mừng? Anh chàng đã cho số tiền thật sự chẳng là bao so với xã hội bây giờ nhưng anh cho với hết cả tấm lòng của anh.

Trong cuộc sống đời thường, có thể nói tâm tình hiến dâng là một tâm tình hết sức là đẹp. Chưa nói đến chuyện dâng hiến cho Chúa mà chỉ cần nói đến chuyện dâng hiến cho nhau. Vợ có dám dâng hiến tất cả những gì mình có cho chồng cho con hay không? Chồng có dám dâng hiến tất cả những gì mình có cho vợ cho con hay không? Con cái có dám dâng hết tất cả những gì mình có cho cha mẹ không?

Khi nói đến dâng hiến, người ta sẽ bảo là người ta đâu có gì để mà dâng hiến để biện luận, để bào chữa cho thái độ ích kỷ của người ta. Có đấy chứ nhưng không chịu dâng hiến đấy thôi. Chẳng lẽ ai trong chúng ta không có sức khoẻ, không có thời gian và không có tiền bạc. Chúng ta có cả một cái quỹ về thời gian, về sức khoẻ, về tiền bạc nhưng chúng ta cứ khư khư giữ cho mình mà chúng ta không dám mở lòng ra để mà dâng hiến, để mà chia sẻ đấy thôi.

Gọi là không có cũng được nhưng chẳng lẽ chúng ta không có tấm lòng? Chúng ta cứ dâng hiến, chúng ta cứ cho đi tấm lòng của chúng ta cho những người sống chung quanh chúng ta. Mỗi khi chúng ta dốc hết “hầu bao” để dâng hiến cho anh chị em đồng loại chính là lúc chúng ta dâng hiến cho Chúa vậy. Chúng ta cứ quảng đại mở lòng ra dâng hiến cho Chúa như hai bà goá hôm nay trong bài đọc cũng như trong Tin mừng, chúng ta sẽ được Thiên Chúa sẽ ghi nhận cũng như sẽ ban những ơn lành cần thiết cho mỗi người chúng ta.

Nguyện xin Chúa là Cha giàu lòng từ bi nhân ái đến và ở lại với mỗi người chúng ta, mở lòng chúng ta ra để chúng ta cũng biết quảng đại để dâng hiến, để trao dâng tất cả những gì mình có cho Chúa như bà goá ngày hôm nay trong Tin mừng vậy.

 

78. Chúa Nhật 32 Thường Niên

(Suy niệm của Lm. Xuân Hy Vọng)

NHIỀU VỀ SỐ LƯỢNG CHƯA HẲN ĐÃ NHIỀU

Có lẽ, chúng ta đã nghe câu nói: “Tất cả là hồng ân” không ít lần rồi. Nhưng để áp dụng và sống trọn vẹn câu nói này trong việc quảng đại dâng cúng, quyên góp xây dựng cộng đoàn giáo xứ, cũng như giúp đỡ những ai túng thiếu về vật chất lẫn tinh thần thì trên thực tế, rất nhiều điều cần suy ngẫm.

Các bài đọc Phụng vụ hôm nay, đặc biệt bài I trích sách các Vua quyển thứ nhất và bài Tin Mừng, có nét chung nói về nghĩa cử tín thác, hy sinh, dám làm theo lòng tin tưởng, và không quản ngại chia san của hai bà goá nghèo. Như chúng ta biết, theo quan niệm Do Thái, phụ nữ và trẻ em là phụ phần, chẳng được kể đến (x. phép lạ hoá bánh ra nhiều cho năm ngàn người nam ăn, không tính đàn bà, con trẻ); nhưng càng không được tôn trọng nếu là quả phụ! Phải chăng vì muốn cho dân Is-ra-el và con người chúng ta biết tôn trọng phụ nữ, mà Thiên Chúa chỉ sai ngôn sứ Ê-li-ah đến với bà goá miền Sa-rép-ta khi nạn đói kém xảy ra (x. 1V 17, 10)! Cũng vậy, bà goá nghèo chẳng ai để ý, chẳng ai đoái hoài trước cửa đền thờ, ngay hòm tiền dâng cúng, thì lại được Đức Giê-su khen tặng và dùng mẫu gương bà mà dạy dỗ các Tông đồ, quả quyết rằng: “Trong những người đã bỏ tiền vào hòm, bà goá nghèo này đã bỏ nhiều hơn hết” (Mc 12, 43).

Đối với chúng ta, nhiều về số lượng là nhiều; nhưng đối với Thiên Chúa thì đó chưa hẳn đã nhiều. Vì nếu chỉ nhiều về số lượng, mà không thật tâm thì chưa phải là nhiều. Vì nếu chỉ nhiều về số lượng, mà ‘lòng rỗng’, tâm trí đầy động cơ xấu xa hoặc chỉ muốn phô trương, khoe khoang, thì chắc chắn không nhiều, mà chỉ ‘kêu to như thùng thiếc’ thôi.

‘Tất cả là hồng ân!’ nghĩa là mọi sự đều nhờ bởi ơn Chúa, mọi sự đều khởi sự từ Ngài, và mọi sự do bàn tay, khối óc mình làm ra chăng nữa, nói cho cùng, cũng chỉ do ơn phúc, ơn lành Chúa ban cho mà thôi. Nếu nghĩ được như vậy, mọi sự chúng ta có được, chúng ta đang tận hưởng, đang sở hữu chẳng phải từ Chúa mà ra hay sao? Mà mọi sự đều nhờ Chúa mà ra, thì việc dâng cúng, quảng đại chia sẻ, cho đi, giúp đỡ người khác là lẽ thường tình, vì chưng “các con đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho đi nhưng không” (x. Mt 10, 8). Thật vậy, Thiên Chúa hằng trao ban cho chúng ta vô điều kiện qua hình ảnh bà goá miền Sa-rép-ta mặc dù đối diện với nạn đói, đối diện với cái chết sắp xảy ra, bà vẫn tin tưởng và làm theo lời tiên tri Ê-li-ah (người của Thiên Chúa), kết quả “chính ông và bà cùng cả nhà đều đủ ăn; vì từ ngày đó hũ bột không cạn và bình dầu không vơi như lời Chúa đã dùng Ê-li-ah mà phán” (1V 17, 15-16). Trên hết, Thiên Chúa trao ban cả Con Một yếu dấu của Ngài cho chúng ta, hầu cứu độ chúng ta khỏi sự chết đời đời, mà tác giả thư gửi cho tín hữu Do Thái xác quyết: “Đức Ki-tô hiến tế một lần như vậy, để xoá tội lỗi của nhiều người. Ngài sẽ xuất hiện lần thứ hai, không phải để chuộc tội, nhưng để cứu độ những ai trông đợi Ngài” (Dt 9, 28). Là Thượng Tế tối cao, Đức Giê-su không còn hiến dâng chính mình nhiều lần như các vị thượng tế vào cung thánh mỗi năm một lần với máu không phải của mình, mà Ngài chỉ xuất hiện một lần tế lễ chính mình để huỷ diệt tội lỗi (x. Dt 9, 25-26). 

Vì tất cả mọi sự đều nhờ bởi ơn Chúa, nên khi dâng cúng, cho đi, chia san cũng cần một tấm lòng tín thác, cậy trông, tin yêu. Vì mọi điều đều do bởi hồng ân Chúa, nên khi dâng tiến, sẻ chia, cần một tâm hồn cảm tạ, một động cơ trong sáng, và lòng quảng đại hy sinh, dám cho đi, dám chia sẻ với người khác như bà goá dâng cúng ở đền thờ chỉ vỏn vẹn hai đồng tiền (tức là một phần tư xu). Một số lượng quá ít ỏi, nhưng với cả tấm lòng hy sinh dâng tiến, mặc dù bà đang túng thiếu, và có lẽ sẽ chẳng còn gì để nuôi sống bản thân mình vì “đã bỏ tất cả những gì bà có” (x. Mc 12, 44). Giả sử, được Chúa ban nhiều thứ, mà chúng ta rộng lượng chia san với giáo xứ, với cộng đoàn, với người khác, không chút phô trương, chẳng đòi hỏi tán dương hay ghi khắc bia tri ân hoặc được ghi tên vào sổ vàng ân nhân, v.v…thì đó là điều làm đẹp lòng Chúa hơn cả. Nếu chúng ta dám cho đi không phải của dư thừa, mà là những điều quý giá và gắn kết thiết thực với đời sống bản thân thì còn gì bằng! Lúc ấy, quả thật, “tất cả là hồng ân” trở nên lối sống của chúng ta, chứ không lặp đi lặp lại hoặc chỉ nghe qua rồi bỏ!

Lạy Chúa, xin giúp con

Sống trọn đời hiến trao

Cho đi không đòi hỏi

Quảng đại dám chia san

Hy sinh hết thân mình

Tin-cậy-mến thuần khiết. Amen!

 

79. Tâm tình

Trong bài Tin Mừng hôm nay, ta thấy hai mẫu người:

. Mẫu thứ nhất là các luật sĩ: bề ngoài họ rất đạo đức: họ giữ luật chín chắn, họ đọc kinh nhiều và đọc thật dài. Vì thế họ được người ta kính trọng: ra ngoài đường ai gặp họ cũng kính chào, khi họ dự một buổi hội họp thì ai cũng nhường cho họ những chỗ danh dự nhất. Nhưng thực ra bên trong họ chẳng đạo đức chút nào: họ chỉ làm ra bộ đạo đức như thế để được người ta kính trọng và dâng cúng tiền bạc.

. Mẫu người thứ hai là người đàn bà góa: bề ngoài bà rất nghèo nàn, hèn hạ. Không ai tôn trọng bà, thậm chí chẳng thèm để ý tới bà. Nhưng tâm hồn bà rất cao quí: mặc dù nghèo nàn, bà cũng không tiếc lấy ra phần tiền tuy nhỏ nhưng rất cần thiết để dâng cúng vào đền thờ.

Như thế, bài Tin Mừng này đặt ra vấn đề hình thức và tâm tình. Đó là hai mặt của một thái độ. Nhưng mặt nào trọng hơn? Theo cách đánh giá của Chúa Giêsu thì mặt tâm tình trọng hơn mặt hình thức: Chúa đã gọi các môn đệ đến chỉ cho họ thấy thái độ của bà góa và nhận xét: “Thầy nói thật với các con: trong những người đã bỏ tiền vào hòm, bà góa này đã bỏ nhiều hơn hết. Vì tất cả những người kia bỏ của mình dư thừa. Còn bà này đang túng thiếu, đã bỏ tất cả những gì mình có để nuôi sống”.

Cách đánh giá của Chúa Giêsu thật là đúng: bởi vì nếu có hình thức mà không có tâm tình thì cũng giống như có một cái đèn mà không có dầu không có điện, giống như có một chiếc xe gắn máy mà không có xăng, giống như có một cái xác mà không có hồn… tất cả sẽ vô ích, vô dụng.

. Một người giáo dân đeo ảnh Thánh Giá thật đẹp, ngày nào cũng dự lễ rước lễ… nhưng trong lòng không mến Chúa không yêu người… thì cũng đáng xếp vào loại giả hình như bọn luật sĩ trong Tin Mừng mà thôi.

. Một công nhân viên giỏi nhất phát biểu hùng biện, giỏi viết những bản báo cáo thành tích nghe rất kêu… nhưng làm việc thì lờ đờ, biếng nhác… thì chẳng ích lợi gì cho việc phát triển xã hội.

Cho nên cái tâm tình, cái thực chất, cái bên trong thì quan trọng và quí giá hơn cái hình thức, cái dáng vẻ bề ngoài. Trong việc sống đạo cũng vậy: đọc kinh, dự lễ… không quí giá, không quan trọng bằng tâm tình mến Chúa yêu người.

Nhưng từ nhận định rất đúng đắn, rất căn bản trên, có nhiều người đi đến chủ trương bất cần hình thức. Họ bảo rằng: “Đạo tại tâm”: sống đạo cốt là ở tâm hồn, chẳng cần đọc kinh, dự lễ, xưng tội gì hết.

. Một ông nọ, nhà ở sát bên nhà thờ nhưng không bao giờ đến nhà thờ. Ông bảo “tôi thờ Chúa trong lòng”.

. Một cặp vợ chồng kia tuy đều có đạo nhưng cưới nhau chẳng có phép hôn phối chi hết. Họ bảo “chẳng cần đến hình thức bên ngoài”.

Có lẽ đôi khi chúng ta cũng có những ý nghĩ tương tự. Bây giờ xin đặt ra một số trường hợp để chúng ta cùng suy nghĩ xem sao:

. Trường hợp thứ nhất là chuyện làm đẹp, chưng diện: quần áo cốt yếu chỉ là để che thân, mặt mày tóc tai cốt yếu chỉ là đủ sạch sẽ thôi. Nhưng chúng ta đâu chỉ muốn cái cốt yếu đó, mà còn muốn sao cho đẹp, cho đúng thời trang nữa. Vì thế chúng ta chọn lựa màu áo, kiểu quần, kiểu tóc… đó là chưa kể đến phấn son, sơn móng tay móng chân nữa… Như thế có phải là chúng ta bất cần hình thức bên ngoài không?

. Trường hợp thứ hai là chuyện tình yêu: nếu thực sự yêu nhau chỉ cốt yêu trong lòng là đủ thì cần gì người ta phải hẹn nhau đi chơi, cần gì phải viết thư cho nhau, cần gì phải tặng quà cho nhau, cần gì phải âu yếm nhau?

Hai trường hợp như thế đủ cho chúng ta thấy rằng tuy hình thức không quan trọng bằng tâm tình, nhưng nó cũng rất cần. Chính hình thức biểu lộ tâm tình và nuôi dưỡng tâm tình. Những lời nói, những nụ cười biểu lộ cho người ta biết rằng mình yêu thương người ta, và cũng những lời nói nụ cười đó làm cho tình yêu giữa hai người ngày càng lớn lên, thắm thiết hơn. Không có hình thức thì tâm tình sẽ dần dần héo khô, chết dần mòn đi.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu mặc dù coi trọng tâm tình hơn hình thức nhưng cũng không chủ trương bất cần hình thức. Vì thế, bà góa trong Tin Mừng này không phải chỉ có lòng đạo đức bên trong, bà còn biểu lộ lòng đạo đức ấy qua cử chỉ dâng cúng đồng tiền nhỏ mọn của bà trong hòm tiền.

Ngày nay không ít người chủ trương “Đạo tại tâm” và coi thường những hình thức đạo đức như đọc kinh cầu nguyện, dự lễ, dự các bí tích…Những suy nghĩ của chúng ta nãy giờ dựa vào bài Tin Mừng cho thấy đó chỉ là một thứ ngụy biện: ngụy biện của những kẻ ghét đạo và muốn phá đạo; ngụy biện của những người có đạo nhưng lười biếng thi hành những bổn phận đạo đức. Chúng ta đừng để thứ ngụy biện ấy ám ảnh tâm trí chúng ta và làm hại cho lòng đạo đức của chúng ta.

 

80. Chúa Nhật 32 Thường Niên

ĐẠO ĐỨC GIẢ VÀ QUẢNG ĐẠI THẬT

(Giải thích và suy niệm của Lm. PX. Vũ Phan Long)

1.- Ngữ cảnh

Giáo huấn của Đức Giêsu và lời nhắc đến các kinh sư đi với nhau, khiến chúng ta nhớ đến đoạn văn trước (Mc 12,35). Bản văn này là như bức tranh bộ đôi trong đó nổi rõ những nét tương phản. Các kinh sư khoe khoang và đạo đức giả bị chỉ trích trong đoạn văn này là hình ảnh ngược lại với hình ảnh người môn đệ của Đức Giêsu.

2.- Bố cục

Bản văn có thể chia thành hai phần:

1) Lối sống đạo đức giả của các kinh sư (12,38-40);

2) Câu truyện bà goá nghèo (12,41-44).

Hai phần này được liên kết với nhau bằng từ móc nối “bà góa” (cc. 40.42).

3.- Vài điểm chú giải

– Anh em phải coi chừng những ông kinh sư ưa … thích … (38): Các lời cáo buộc của Đức Giêsu được nêu theo một mức độ trầm trọng tiệm tiến: xúng xính trong áo thụng, thích được chào và thích ghế danh dự. “Áo thụng” (HL. stolê) là áo choàng các kinh sư thường mặc để vận dụng trong một số trường hợp. Mt 23,5 trách là họ đã nối dài tua áo. Thật ra chính bộ áo cũng đã “thụng”, khi đi thì kéo lê sát đất. Cũng có thể đây là cử chỉ quấn mình vào trong áo khi cầu nguyện, khi tuyên một bản án hoặc khi giải gỡ các lời khấn. Dù thế nào, đây cũng là một lối khoe khoang áo xống, nhằm được tôn kính. “Ưa được chào hỏi” tại các nơi công cộng cũng là một tật xấu, cùng với tật “ưa chiếm chỗ danh dự” trong các hội đường hay các đám tiệc. Chỗ nhất trong hội đường là vị trí ở trước hòm chứa tôrah, chỗ này được dành cho những nhân vật cao trọng và các quan chức. Chỗ danh dự trong bữa tiệc là chỗ bên cạnh chủ nhà hoặc người khách đặc biệt.

– Họ nuốt hết tài sản của các bà goá (41): bản văn Hy Lạp viết là “nuốt trửng các nhà”. Vào thời ấy, các kinh sư có thể được cậy nhờ quản lý giúp số tài sản nhỏ nhoi của các bà goá. Nhờ đó, họ có thể trục lợi. Cũng có thể là họ tư vấn về pháp luật cho các bà góa rồi đòi một thù lao cắt cổ. Dưới mắt một số chuyên pháp lý và các ngôn sứ Cựu Ước, bóc lột bà goá, người ít được luật bảo vệ nhất (vì: 1) là phụ nữ; 2) đại diện cho tình trạng nghèo túng), là một tội đặc biệt đáng ghét (Xh 22,21tt; Đnl 27,19; Is 1,7.23; 10,2; Gr 7,6; 22,3; Tv 93/94,6), còn nâng đỡ cô nhi quả phụ theo gương Thiên Chúa (Đnl 10,18t; 24,17-22; 26,12t; G 29,13; 31,16) là một việc lành được kể ở hàng đầu.

– làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ: x. Mt 6,5. Đức Giêsu không kết án việc cầu nguyện lâu giờ, nhưng kết án việc cầu nguyện để cho người ta thấy. Các kinh sư đã làm hỏng hành vi tôn giáo là cầu nguyện khi nối kết nó với thái độ khoe khoang kệch cỡm của họ.

– thùng tiền (41): Từ Hy Lạp gazophylakion (do từ ngữ Ba Tư gaza = kho tàng). Đây có thể là phòng tàng trữ của cải ở bên trong khuôn viên Đền Thờ; khuôn viên này, chỉ người Do Thái mới được vào. Trong căn phòng này, có đặt mười ba hòm đựng của dâng cúng. Theo 2 Mcb 36, vào thời vua Sêlêukhô IV, phòng này đầy ứ những của cải. Theo Phl. Gioxép (Chiến tranh Do Thái 6,282), vào năm 70 sau CG, khi Đền Thờ bị thiêu hủy, phòng này đã bị thiêu rụi cùng với vàng bạc châu báu, xiêm y, tiền bạc.

– Người quan sát xem (41): Đức Giêsu ngồi đó như một khán giả xem (etheôrei) cảnh sinh hoạt. Thật ra lối mô tả của Mc không rõ ràng: Trong khi Đức Giêsu ngồi đối diện với phòng tàng trữ của cải (gazophylakion), dân chúng ném tiền vào trong các hòm của dâng cúng (gazophylakion); mà dường như người ta không được phép ngồi ở đây, nhất là lại ngồi để xem như xem trình diễn!

– đám đông bỏ tiền: “Tiền” đây dịch từ Hy Lạp chalcos, “tiền đồng”, nhưng ở đây có nghĩa là “tiền bạc nói chung.

– một bà goá nghèo (42): Tác giả dùng từ chỉ số lượng mia (one) thay vì dùng tis (a certain), nhưng đấy là lối viết thông thường thời đó. Tuy vậy, hẳn là ngài cũng muốn lưu ý đến một sự cố đặc biệt (“một bà goá nghèo đến bỏ vào đó…”).

– hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng bạc: Hai đồng tiền kẽm”, lepta (số ít: lepton), bằng một kodrantês; một kodrantês bằng ¼ as hoặc assarion; một assarion bằng 1/6 quan (một quan, denarius, là lương công nhật một người thợ).

– Mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa … , bà này thì rút từ cái túng thiếu … (44): Ở đây không có một bài học luân lý nào được minh nhiên rút ra. Nhưng vì đã quen với giáo huấn của Thầy, hẳn các môn đệ Đức Giêsu có thể rút ra được nhiều bài học như: đừng phê phán ngưòi ta dựa vào dáng vẻ bề ngoài (x. Mc 12,40; Mt 23,27); những người quảng đại nhất cũng như những người đạo đức nhất không nhất thiết là những người đã tỏ ra như thế; chỉ một mình Thiên Chúa thấy trong nơi bí ẩn (Mt 6,4.6.18) và biết các cõi lòng (Lc 16,15; x. Cv 1,24; 15,8)…

4.- Ý nghĩa của bản văn

* Lối sống đạo đức giả của các kinh sư (38-40)

Giáo huấn của Đức Giêsu được chia thành một lời khuyến cáo mở đầu (c. 38b), một lời mô tả các kinh sư (cc. 38c-40b), và một lời kết đe dọa phán xét (c. 40c). Lời chỉ trích đầu tiên nhắm đến cao vọng diễn tả ra trong cố gắng tìm cho được dân chúng nhìn nhận. Họ phô trương phẩm giá của họ bằng cách mặc những áo dài đại lễ và yêu cầu được người ta cung kính chào tại các quảng trường và được có những chỗ danh dự trong các cử hành tôn giáo và tại bữa tiệc. Đau xót hơn, đó là lời chỉ trích thứ hai liên hệ đến sự tham lam của các kinh sư. Lối sống của họ càng đáng trách hơn nữa khi họ nối kết hành vi bóc lột với việc cầu nguyện lâu dài và giả hình.

Họ sẽ bị kết án nghiêm khắc tại cuộc xử án cánh chung, tức là mất ân ban sự sống đời đời (x. Mc 10,30).

* Câu truyện bà goá nghèo (41-44)

Khung cảnh Đền Thờ, phòng tàng trữ của cải, cùng với những người giàu dâng cúng thật nhiều tiền, càng làm nổi bật sự nhỏ bé, bần khốn của bà góa, một con người không được luật lệ quan tâm bảo vệ. Nhưng Đức Giêsu thấy được tấm lòng của bà. Lời giáo huấn Ngài ban cho các môn đệ bắt đầu bằng câu “Thầy bảo thật (amên) anh em” cho thấy rằng Đức Giêsu ở trong thế có thể thật sự lượng định giá trị của lối xử sự của loài người. Không phải là nguyên sự tự do thanh thoát đối với của cải đã đưa lại giá trị cho hành vi dâng cúng, nhưng là tình yêu đối với Thiên Chúa được diễn tả qua hành vi đó.

+ Kết luận

Đấng “dò thấu lòng dạ” (Xh 2,23; x. Tv 7,10; 17,10), và không bị đánh lừa bởi những dáng vẻ bề ngoài, mời gọi các môn đệ đừng để bị lừa bởi một bộ mặt đạo đức che đậy sự khoe khoang, tham lam và đạo đức giả, hoặc bởi vẻ không đáng kể của những hành vi bác ái do những người nghèo và những người thất học thực hiện. Mỗi người được mời gọi ý thức về sự mỏng dòn của mình mà cậy dựa vào ân sủng của Thiên Chúa, và học biết trân trọng thiện chí của kẻ khác.

5.- Gợi ý suy niệm

  1. Lời lẽ Đức Giêsu phê phán các kinh sư có thể có phần phóng đại. Tuy thế, những người đang có trách nhiệm phục vụ dân Chúa ở các cấp vẫn cảm thấy được mời gọi đánh giá lại phong cách, lời ăn tiếng nói của mình, cũng như ý hướng của mình khi làm các công việc phục vụ.
  2. Sự lừa dối đã là đáng trách, nhưng càng đáng trách hơn nữa hành vi lừa dối bằng cách vận dụng những yếu tố liên hệ đến sự thánh thiện (như đọc kinh cầu nguyện, thánh lễ, viếng nhà thờ…) để che giấu một thực trạng tiêu cực.
  3. Tấm gương bà góa mời gọi các Kitô hữu đừng đánh giá con người theo bề ngoài. Trước nhan Thiên Chúa, điều quan trọng không phải là của dâng cúng to lớn, nhưng là tâm tình trung thực khi dâng cúng. “Của cho không bằng cách cho”!
  4. Vì ý thức rằng người nghèo được Thiên Chúa kính trọng, cộng đoàn Kitô hữu không những cần nghiền ngẫm tấm gương của bà góa, không những âm thầm kín đáo làm các hành vi đạo đức, mà còn san sàng giúp đỡ những người đang sống cảnh cô độc neo đơn.

 

81. Chúa Nhật 32 Thường Niên

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê)

GIÊSU: NGƯỜI HIỀN ĐƯỢC CHÚA BAN ƠN CỨU ĐỘ

Kính thưa quý anh chị em,

Hiền lành là một ý niệm đạo đức chỉ tính khí của một con người: dịu dàng trong lời nói, cử chỉ, tế nhị trong mọi tình huống để không làm tổn thương những người xung quanh, biết quan tâm, chạnh lòng thương xót, nhất là những ai lâm cảnh ngặt nghèo, bất hạnh, khổ đau. Sự hiện diện của họ như dòng suối mát, như làn gió dịu êm làm phấn khởi lòng người. Tựu trung, người hiền lành, dịu dàng, là người thợ hòa bình, là người kiến tạo sự bình an, thuận hòa, tạo sự cảm thông và hiểu biết lẫn nhau. Họ là tài sản của Đấng tạo hóa dành cho thế gian.

Vì được tạo thành giống hình ảnh Thiên Chúa (cf. St 1, 27), con người mang trong mình đặc tính “nhân tri sơ, tính bản thiện” (ca dao): dịu dàng, hiền lành, khiêm tốn, từ tâm…, nhưng tội lỗi đã len vào, phá vỡ bản tính toàn thiện, bôi nhọ sự thánh thiện tinh tuyền nguyên thủy. Con người mất đi sự dịu dàng, hiền lành, khiêm nhường, trở nên độc ác, đối kháng với chính mình và với nhau.

Thật là thảm họa diệt vong! Ai sẽ cứu chúng ta khỏi tình trạng chết dở này? Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng ta, mà bây giờ chúng ta được lãnh ơn giao hòa.

Phụng vụ Lời Chúa hôm nay đề cao mẫu gương dịu dàng, nhân lành, khiêm tốn, tụ đậu lại nơi Chúa Giê-su, Đấng dịu hiền thật trong lòng, đã được Thiên Chúa cứu độ bằng sự phục sinh vinh hiển, trở nên nguyên nhân phần rỗi đời đời cho tất cả những ai tùng phục Người.

Bài đọc I, trích sách Các Vua quyển thứ I, ghi lại cuộc đối thoại giữa Ê-li-a và bà góa Sa-rép-ta về vấn đề sẻ chia trong cơn bĩ cực, đói khát. Ca hai đều là những người nghèo. Vị ngôn sứ vừa đói lại vừa khát mở lời xin bánh và nước uống với một bà góa thành Sa-rép-ta. Đối lại, bà góa bần cùng, đói khổ, nhưng có trái tim đầy từ tâm, nhân hậu, dù chỉ còn một ít bột trong hũ và chút dầu trong bình, vẫn sẵn sàng sẻ chia cho người của Thiên Chúa.

Lòng quảng đại, nhân lành của cả hai, đã thấu tận trời cao. Chúa đã làm phép lạ cho hũ bột không bị vơi và bình dầu sẽ không cạn cho đến khi Chúa ban mưa xuống trên mặt đất.

Kết quả đã xẩy ra đúng như lời vị ngôn sứ đã báo trước: hũ bột không vơi, bình dầu không cạn; Ê-li-a và gia đình bà góa no đủ cho đến khi thời kỳ hạn hán, đói khát, chấm dứt.

Sứ điệp được chuyển tải trong câu truyện hôm nay là gì?

Đó là cuộc trao đổi quá ư diệu kỳ được hình thành giữa lòng quảng đại vô biên của Thiên Chúa và sự mở lòng của con người trước lời mời gọi của Chúa. Nếu Chúa không đi bước trước đến tìm gặp bà góa Sa-rép-ta và nếu bà góa không mở lòng dịu dàng sẻ chia, thì phép lạ đâu có thể xẩy ra. Bà góa là típ người quảng đại, không so đo tính toán, nên đáng được lãnh nhận phần thưởng gấp trăm, cụ thể: không bị đói khát đe dọa tính mạng cho đến khi Chúa ban mưa xuống trên mặt đất.

Cuộc đối thoại giữa Ê-li-a và bà góa Sa-rép-ta là hình ảnh tiền trưng cuộc đối thoại nhiệm mầu kỳ diệu diễn ra trong chính Ngôi Lời nhập thể, theo đó: bản tính Thiên Chúa đảm nhận lấy nhân tính Đức Giê-su, trong một ngôi vị duy nhất Ngôi Hai Thiên Chúa. Trong cuộc trao đổi này Thiên Chúa đã chọn phần tồi tệ nhất, để con người được vinh quang, Thiên Chúa đã chọn mang thân tội, để con người được công chính hóa, Thiên Chúa đã chọn phải chết, để con người được sống đời.

Sự dịu dàng, hiền hậu, khiêm tốn của Chúa Giê-su, là sự mở lòng trọn vẹn để Thiên Chúa làm nên những việc lạ lùng. Giê-su là “Con” yêu dấu nhất hằng làm đẹp lòng Cha mọi đàng, nên Cha đã siêu tôn Người trên các tầng trời với mọi danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu.

Trong Giê-su, nhân loại được tràn đầy ân sủng, đến nỗi không còn phải thiếu ơn nào khác nữa, cho đến ngày Đức Giê-su quang lâm. Lời mạc khải này, cho phép chúng ta hiểu thấu đáo hơn lời sách thánh: hũ bột không vơi, bình dầu không cạn cho đến khi Chúa ban mưa xuống trên mặt đất.

Bài Tin Mừng vừa tuyên đọc dùng hình ảnh đối chọi đặc trưng giữa giới luật sỹ, biệt phái và bà góa nghèo hèn, bé mọn. Các vị kinh sư: tự cao, tự đại, phô trương cái trống rỗng của mình, bằng cách lạm dụng Lời Chúa để thỏa mãn túi tham. Họ thích được bái chào, ưa ngồi cỗ nhất, kinh kệ triền miên nhằm che mắt thiên hạ, cốt để hưởng lợi: “chiếm đoạt hết tài sản các bà góa” (Mc 12, 40). Họ không phải là người dịu dàng, hiền lành, khiêm tốn nên: “sẽ bị kết án cách nghiêm khắc hơn” (Mc 12, 40).

Đối lại, là dung mạo của một bà góa nghèo hèn, dáng vẻ chất phác, rụt rè trước đám đông. Muốn bỏ chút tiền vào nhà Chúa, nhưng ngại ngùng, mặc cảm vì số tiền ít ỏi. Bà lướt qua hòm tiền, vội nhét vào đó hai đồng kẽm, giá trị bằng ¼ xu.

Chúa thấy tâm hồn bà thật lớn lao, vĩ đại hơn tất cả những người có mặt tại nơi dâng cúng. Quả thật, bà có tấm lòng thật dịu dàng, hiền hậu, khiêm tốn, đáng được Chúa khen thưởng, nêu gương. Giê-su gọi các môn đệ lại và nói: “Thầy bảo thật các con: bà góa nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết” (Mc 12, 43).

Suy gẫm đoạn Tin Mừng, chúng ta thấy, Chúa không đánh giá con người theo dáng vẻ, địa vị, chức quyền, nhưng theo tâm tình yêu mến được nội tâm hóa bằng sự dịu dàng, hiền hậu, nhân từ: “Ta muốn lòng nhân từ, chứ không cần hy lễ” (Mt 12, 7). Đúng là: “người hiền được Chúa ban ơn cứu độ” (Tv 36, 39a).

Thưa anh chị em,

Nếu người hiền được Chúa ban ơn cứu độ, thì Giê-su là người dịu dàng, hiền lành, nhân từ, khiêm tốn nhất, nhân tính Ngài phải là hoa quả đầu mùa của ơn cứu độ, rồi mới đến những kẻ thuộc về Chúa.

Nên biết, cứu độ nhân tính Giê-su, không hiểu theo chiều kích pháp lý: “tội lỗi được thứ tha”. Giê-su vô tội, hiến mình chịu nạn chịu chết, không phải để đền tội mình, nhưng liên đới với tội nhân và nhờ sự vâng phục trọn vẹn ý Cha, Người đã làm cho cả thế gian được công chính hóa, được ơn cứu độ.

Tác giả thư Do thái, trong bài đọc II, tôn vinh nhân tính Giê-su như một cung thánh tuyệt diệu. Nhờ sự chết và sự phục sinh, Người đã được siêu tôn trên trời, ngự bên hữu Cha, để chuyển cầu mọi phúc lành cho thế gian.

Hy tế vâng phục dịu hiền, nhân từ của Chúa Giê-su đã tiêu diệt tội lỗi và sự chết, tháp nhập con người vào sự sống của chính Thiên Chúa.

Do vậy, mầu nhiệm Nhập Thể, Tử Nạn và Phục Sinh, không nhằm kết án, luận phạt thế gian, nhưng để tha thứ và cứu độ những ai trông cậy Người.

Thưa anh chị em,

Giáo huấn Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta:

Một là: vui mừng phấn khởi đối thoại với Chúa! Hãy tìm Chúa khi Người còn cho gặp, kiên trì kêu cầu khi Người còn ở kề bên, nhất là: trao vào tay Chúa gánh nặng cuộc đời, vì Người luôn lo lắng cho chúng ta.

Hai là: chuyên chăm học nơi Chúa tinh thần dịu dàng, hiền lành, khiêm tốn, vì đó là chìa khóa của sự thành công, vừa trong cuộc sống hiện tại, vừa trong cõi phúc thiêng liêng trên trời. Luôn thâm tín và tâm niệm Lời Chúa dạy: “Người hiền được Chúa ban ơn cứu độ” (Tv 36, 39a).

Xin Chúa thương nâng đỡ và chúc lành cho mỗi người chúng ta trong ngày chúa nhật hôm nay. Amen!

 

82. Chúa Nhật 32 Thường Niên

(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)

BÀ GÓA NGHÈO NẦY ĐÃ BỎ VÀO THÙNG NHIỀU HƠN HẾT

Đoạn Tin Mừng chúng ta suy niệm hôm nay rất dễ hiểu và là một bài học hết sức thực tế cho chúng ta. Thánh Maccô nói rằng trong lúc giảng dạy dân chúng, Chúa Giêsu nói đến các ông kinh sư và khuyến cáo mọi người: “Hãy coi chừng các ông kinh sư.” Tại sao phải coi chừng những người đó? Họ nguy hiểm lắm sao mà phải coi chừng? Và Chúa đã vẽ ra khuôn mặt của họ. “Họ ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi nơi công cộng, chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi chỗ nhất trong đám tiệc, nuốt hết tài sản của các bà góa và đọc kinh lâu giờ”.

Một bức chân dung không mấy đẹp. Và Ngài kết luận bằng những lời hết sức nghiêm ngặt: “Họ sẽ bị kết án nghiêm ngặt”.

Thực ra, không phải tất cả các ông kinh sư đều như thế, nhưng đa số đã tỏ ra phô trương, lợi dụng chức vụ của mình để trục lợi, lừa dối những người nhẹ dạ như các bà góa giàu có.

Những lời Chúa nói hôm nay vẫn còn hợp thời. Trong Giáo Hội hôm nay vẫn còn nhiều kinh sư như thế, xem chức vụ của mình như một thành đạt và lợi dụng chức vụ Chúa ban để trục lợi. Tuy không là đa số, nhưng cũng làm cho Giáo Hội mất đi nét trong sáng thánh thiện của mình và làm nản lòng giáo dân. Chúa Giêsu vẫn mạnh mẽ lên án những thái độ giả hình đó.

Chúng ta hãy khiêm nhường cầu xin cho những ai được Chúa gọi tham dự vào chương trình cứu độ của Chúa, biết chân thành dấn thân cứu rỗi các linh hồn, biết quên mình phục vụ chứ không là để được phục vụ, hiền lành và khiêm nhường như Thầy Chí Thánh của mình, tế hiến đời mình cho danh Cha cả sáng.

Lên án những lạm dụng của các kinh sư, Chúa Giêsu cũng chú ý đến những người vô danh nhưng cao thượng như bà góa nghèo nàn kia, đã dâng cho Chúa tất cả những gì mình có để sống.

Chúa Giêsu và các môn đệ ngồi xem người ta dâng cúng tiền cho Đền Thờ. Ngài nhìn thấy nhiều người giàu có bỏ tiền rổn rảng vào thùng tiền. Chúa để ý đến một bà góa nghèo bỏ vào thùng tiền chỉ hai đồng tiền kẽm, nghĩa là một số tiền quá ít, và điều nầy chỉ có Ngài biết, vì Ngài soi thấu tận tâm can.

Tìm hết mọi dịp để huấn luyện các môn đệ, Ngài chỉ cho các ông thấy hành động khiêm tốn của bà góa kia: “Thầy nói thật với anh em (một cách nói long trọng), bà góa nầy đã bỏ vào thùng tiền nhiều hơn ai hết”.

Chúa Giêsu thấy rõ tấm lòng của bà góa đó. Ngài cũng cho thấy cách dâng cúng của những người khác: họ chỉ cho Chúa cái thừa cái cặn của họ thôi, “còn bà nầy đã túng thiếu, lại còn bỏ vào đó tất cả những gì bà có, tất cả những gì để nuôi thân”.

Chúa Giêsu cho các môn đệ một bài học hết sức quí báu. Bà góa dám cho tất cả, tại sao? Vì bà đã yêu mến Chúa thành thật. Bà dám cho vì bà không tiếc gì với Chúa. Đó là dấu hiệu của một tình yêu chân thành. Yêu là cho đi, là cho hết và cho không, cho mà không đòi hỏi lại. Không có tình yêu, mọi sự đều vô nghĩa.

Những người giàu có cho cái cặn cái thừa của họ, chứng tỏ họ không yêu. Người đời sẽ ca tụng họ, nhưng trước mặt Chúa, họ chẳng có công trạng gì. Tình yêu mới thực sự là giá trị.

Bà góa nầy mới thực sự là con Thiên Chúa vì bà đã làm như Thiên Chúa. Thiên Chúa là Tình Yêu. Ngài đã cho chúng ta tất cả, kể cả Người Con Một của Người. Vì chúng ta, Người đã trao nộp Người Con yêu quí của Người. Chúa Giêsu đến trong trần gian, Ngài cũng làm như thế, là cho hết, là yêu thương đến tận cùng. Bà góa nầy đã sống như Chúa, bà xứng đáng là một người con của Thiên Chúa đích danh.

Còn chúng ta?

Chúng ta giống các ông kinh sư hơn giống Thiên Chúa. Cho ai được cái gì, chúng ta rêu rao khắp xóm.

Tại sao chúng ta không truyền giáo được? Tại sao không ai biết đến Chúa? Vì chúng ta chưa yêu, không biết cho đi và nếu có thì cũng chỉ là cặn thừa.

Có mấy người như ông Bill Gates, một nhà tỷ phú người Mỹ, dám cho đi 90% tài sản của mình để cứu giúp những dân tộc nghèo đói, tài trợ cho nhiều chương trình y tế để giúp các nước nghèo? Sự hẹp hòi của chúng ta đã đóng cửa lòng nhân từ của Chúa.

Các Kitô hữu đầu tiên đã dám sống yêu thương thực sự. Họ đã dám yêu thương nhau đến mức độ để chung những gì họ có, vì thế, họ đã chinh phục được những người chung quanh. Nhờ tình yêu thành thực đó, Tin Mừng đã lan rộng khắp nơi.

Giáo Hội luôn không ngừng kêu gọi chúng ta sống như một gia đình, gia đình của Chúa trong trần gian. Giáo Hội luôn xem giáo xứ là một gia đình. Nhưng điều đó chỉ là ước mơ đẹp mà không bao giờ thực hiện, có chăng là những nhóm người ít ỏi dám sống như các Kitô hữu đầu tiên. Chúng ta không dám cho đi vô điều kiện như bà góa nghèo kia.

Tóm lại, chúng ta chưa dám yêu thương. Chúng ta giữ một thứ đạo nào, có phải là đạo yêu thương của Chúa không? Chúng ta chỉ dám cho cái thừa, cái cặn thì đến bao giờ chúng ta mới thực sự là con của Chúa, là Kitô hữu? Nếu chúng ta chỉ là Pharisêu thì chừng nào Giáo Hội mới chinh phục được thế giới? Có lẽ trong số chúng ta, cũng có vài người dám cho đi thật tình, dám âm thầm cho đi tất cả, dám đứng ra cứu vớt những anh em nghèo đói, chia xẻ tất cả, nhưng con số đó chỉ đếm trên đầu ngón tay. Đa số sống như thế gian: sống chết mặc bây, thì làm sao Tin Mừng Tình Yêu có thể thấm vào thế giới vô cảm nầy?

Hãy nhìn vào khuôn mặt của bà góa nghèo kia để quảng đại hơn. Hơn thế nữa, hãy nhìn vào Chúa Giêsu, chúng ta mới thấy được sự cách biệt giữa Ngài với chúng ta. Ngài là Thiên Chúa, thế nhưng Ngài đã cho đi tất cả, đã dám yêu thương đến tận cùng. Ngài đã sống và đã chết vì yêu. Ngài chính là khuôn mặt của Kitô hữu đích thực. Ngài đang khao khát tìm được những Kitô hữu đích thực. Ngài đã dạy chúng ta một bài học thực tế, nhưng Ngài sẽ có được bao nhiêu môn đệ thực sự là môn đệ?

Hơn thế nữa, Ngài chẳng những sống và chết cho chúng ta mà thôi, Ngài đã tự biến mình thành của ăn nuôi dưỡng chúng ta. Phải chăng Ngài đã không tiếc gì với chúng ta, chúng ta sẽ đáp lại như thế nào? Chỉ cho Ngài cái thừa cái cặn hay sao? Chàng thanh niên giàu có đã buồn rầu rút lui. Hôm nay Ngài cũng hỏi chúng ta: “Chúng con bỏ Thầy nữa sao?” Chúng ta sẽ trả lời sao với Ngài. Hãy xin Chúa thương xót chúng ta vì chúng ta không đáp ứng những đòi hỏi của Ngài. Hãy ăn lấy Ngài để có Ngài trong xương thịt chúng ta, chúng ta sẽ can đảm hơn, quảng đại hơn, dám cho không cuộc sống, cho không tất cả như Ngài.

 

83. Chúa Nhật 32 Thường Niên

(Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux)

CHÚA GIÊSU VÀ GIỚI KINH SƯ (12,35-42)

Chúa Giêsu lại một lần nữa lên tiếng tố cáo các đối thủ là biệt phái và kinh sư. Ngài miệt thị những người hướng dẫn tâm linh quá kiêu căng này. Họ là những người có uy tín trong dân Do Thái những thái độ của họ khiếm nhã. Chúa Giêsu lên án sự phô trương phù phiếm của giới “thượng lưu” này khi họ tìm sự ngưỡng mộ nơi dân chúng (38b-39). Chưa hết, “Họ giành giật tài sản của các bà góa và làm bộ cầu nguyện lâu dài” (40a). Như thế còn hệ tại hơn là thiếu khiêm tốn. Đó là thói đạo đức giả. Các vị lãnh đạo này không ngần ngại bóc lột những kẻ bần cùng cô thế. Những lời cầu nguyện lê thê của họ nhằm mục đích che đậy tội lỗi của họ, để phình lừa dân chúng. Ta thấy lời kết án của Chúa Giêsu có vẻ quá cứng rắn. Nhiều khi Chúa Giêsu cùng quan điểm với nhóm biệt phái và các thủ lãnh của họ là các kinh sư. Ta cũng đã có lần chứng kiến một số người trong họ thành tâm kiếm tìm Nước Thiên Chúa (12,28-34).

Nhưng nên nhớ rằng mãi 40 năm, Maccô mới viết những đoạn Tin Mừng này. Trong khoảng thời gian trôi qua đó, hình ảnh giới hữu trách Do Thái đã thay đổi. Khi thuật lời đả kích nghiêm khắc của Chúa Giêsu đối với ký lục, Maccô muốn cho độc giả của mình, là các Kitô hữu Rôma thấu đáo về não trạng lẫn hành vi của các thủ lãnh Israel sau khi họ đã bắt bớ Chúa Giêsu. Cuộc khẩu chiến giữa Chúa Giêsu và các kinh sư đã nổ ra ngay từ đầu cũng như sự thù nghịch ngày càng tăng giữa Giáo Hội Kitô giáo non trẻ và hội đường (Do Thái giáo) xảy ra trong những năm 80-90. Ở Luca (11,42-54), và nhất là ở Matthêu (23,13-32), sự phê phán gay gắt giới biệt phái và kinh sư diễn ra theo một tiến trình dễ chấp nhận và phù hợp hơn với lối viết Tin Mừng.

ĐỒNG XU CỦA BÀ GÓA (12,41-44)

Đây là hồi cuối thuật lại cảnh Chúa Giêsu ở Đền thờ. Một hồi thật cảm động. Maccô vừa mới phác họa hình ảnh tàn nhẫn của nhóm kinh sư (“Họ bóc lột của cải các bà góa”) (12,40a) xong, liền đưa ngay ra hình ảnh một bà góa rộng rãi đặc biệt. Hai hình ảnh tương phản hoàn toàn. Những từ “bà góa” nối kết hai đoạn văn thật tài tình.

Cảnh tượng diễn ra trong nơi thánh của Đền thờ, gần bên kho tàng. Đó không phải là nơi chứa tài sản đền thờ, mà là nơi cất chứa lễ vật các tín đồ dâng cúng (2V 12,10). Ở cuối phòng người ta đặt các hòm tiền. Những kẻ giàu có, chiếm phần lớn, bỏ vào đấy “các số tiền lớn” (c. 41b). Nhưng Chúa Giêsu chỉ đưa mắt nhìn một sự kiến đáng lưu tâm mà thôi. “Một người đàn bà góa tiền đến và bỏ vào đó 2 đồng xu” (x. 42). Đó là một bà góa, nghĩa là một phụ nữ, một người đáng thương hại dưới con mắt củ nam giới vốn có ưu thế trong gia đình và xã hội thời ấy. Vì không còn sự bao bọc của chồng, người góa phụ chỉ còn nhờ vào tàn sản chính mình, không ai giúp đỡ. Theo Thánh kinh các bà góa được liệt vào số những người nghèo khổ nhất cùng với những kẻ mồ côi và những kẻ tha phương cầu thực (Đnl 24,17-22). Chính vì vậy Maccô mới nói: “Người góa phụ khốn khổ”. Số tiền bà bỏ vào thùng chẳng có đáng là bao: hai đồng xu (theo đơn vị tiền tệ Do Thái), một món tiền không nghĩa lý gì. Tuy nhiên Chúa Giêsu đã nắm lấy cơ hội này hầu qua cử chỉ khiêm tốn đó, Ngài dạy cho các môn đệ một bài học quan trọng (43-44). Ngài nhấn mạnh đến sự trái ngược này kẻ giàu có cho đi “cái dư thừa” của họ, còn người góa phụ bần cùng lại cho chính cái mình đang cần đến nhất, cho luôn chính bản thân mình. Còn gương nào đẹp hơn? Các bạn hữu Chúa Giêsu hẳn phải nhận ra, nơi góa phụ tuy cơ bần mà độ lượng hình ảnh của một “môn đệ” chân thực. Ta nên lưu ý đặc biệt đến sự thể trong Tin Mừng là Chúa Giêsu thường làm nổi bật đức tính của giới phụ nữ (Lc 10,38-42): Martha và Maria; Ga 4,1-42: người đàn bà Samari) cho các “ông” môn đệ thấy. Sau khi dạy dỗ các môn đệ về sự kiện đời thường này, Chúa Giêsu rời đền thờ (13,1) và Ngài không còn trả lời đó lần nào nữa.

 

84. Chúa Nhật 32 Thường Niên

(Chú giải của Noel Quesson)

Đức Giêsu nói rằng: “Anh em phải coi chừng những ông kinh sư

“Kinh Sư” là những nhà chuyên môn và những người giải đáp chính thức Kinh Thánh. Sau một thời gian dài học tập vào khoảng 40 tuổi, họ được công nhận thi hành chức vụ của họ và trở nên những người cố vấn chính thức trong những quyết định tư pháp. Đức Giêsu và các tông đồ đã không được đào tạo như thế.

Ngay từ đầu, các “Kinh Sư” luôn tỏ ra chống đối Đức Giêsu. Chỉ trong Tin Mừng Maccô, chúng ta đã thấy nhiều cuộc xung đột (Mc 2,6; 3,22; 7,1; 11,18). Ở đây, Đức Giêsu nghiêm chỉnh cảnh giác chúng ta. Đây là lần cuối cùng Người nói trước công chúng, khoảng vài tuần lễ trước khi Người bước vào cuộc thương khó và bị kết án bởi Thượng Hội đồng mà các Kinh sư thường chủ trì xét xử.

Matthêu đã quy tụ lại thành một diễn từ của Đức Giêsu về đề tài này: “Khốn cho các Kinh sư” (Mt 23). Sự hiểu biết không nhất thiết mang lại cho ta đức hạnh… và than ôi, kể cả sự hiểu biết tôn giáo cũng thế.

Những ông kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng. Họ ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc.

Vẫn còn những Kitô hữu bực tức vì Giáo Hội đang cố gắng gột bỏ mọi vẻ huy hoàng. Tuy vậy, chúng ta phải nhìn nhận rằng sự cố gắng đó dù chưa hoàn tất, nhưng hoàn toàn phù hợp với đòi hỏi của Đức Giêsu. Giáo Hội trong mọi thời đại; có nguy cơ rơi vào cám dỗ khủng khiếp của uy thế, đặc quyền những “vẻ bề ngoài sang trọng” những tước vị và những chỗ ngồi danh dự. Lạy Chúa, xin cho chúng con càng ngày càng làm quen với một Giáo Hội, biết gột bỏ những danh dự, chấp nhận nghèo khó. Với các linh mục, biết sống như mọi người, không dành đặc quyền đặc lợi nào cả.

Tính cách Pharisêu mà Đức Giêsu lên án, đó là việc sử dụng những “dấu hiệu bề ngoài” để làm cho người khác nể trọng mình và được hưởng những đặc quyền. Ngày nay, có một phong trào tân Pharisêu cũng giả dối như thế, cốt làm tăng giá trị của mình bằng cách làm ra vẻ “thông thạo thời sự”, “giữ đúng thời trang” bằng cách theo nhưng “quan điểm tiến bộ nhất”, dù là những quan điểm rỗng tuếch.

Họ nuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ

Điều mà Đức Giêsu quở trách kinh sư thời ấy, đó là thái độ “khoa trương”, lòng “tham lam”, nếp sống “giả hình” của họ. Có lẽ họ đã đòi hỏi những khoản thù lao rất cao đối với những người đến hỏi ý kiến họ, và điều này rất nghiêm trọng vì họ được coi như những người đạo đức, cầu nguyện lâu giờ. Kẻ nào muốn loan truyền những đòi hỏi của Lời Chúa, cũng phải tỏ ra rất khắt khe với chính mình. Khi các Kitô hữu, hay phẩm trật Giáo Hội phạm những bất công xã hội thì đó là điều đặc biệt nghiêm trọng. Thiên Chúa nghe thấy tiếng kêu của những người nghèo khổ bất hạnh, Người ban “công lý” cho kẻ bị áp bức, nâng đỡ góa phụ và cô nhi (Tv 1,45).

Kẻ nào muốn thuộc phe Chúa, thì nhờ cầu nguyện, phải đặc biệt trở nên liêm khiết và công bằng.

Những người ấy sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn

Cộng đoàn của Đức Kitô là Giáo Hội phải nghe lời cảnh cáo này: Người sẽ càng khắt khe hơn với chúng ta, khi chúng ta càng được nhận lãnh nhiều. Chúng ta không thể lừa dối Thiên Chúa! Người thấy tận đáy các sự việc và những sự giả dối của chúng ta sẽ bị lột trần trước mắt Người.

Đức Giêsu ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ. Người quan sát xem đám đông bỏ tiền vào đó ra sao

Maccô là một nhà quay phim tài tình. Chúng ta hãy thưởng thức sự chính xác của thiên phóng sự này. Đức Giêsu đã chọn một điểm quan sát tốt, ngồi trên các bậc thềm, đối diện với các hòm tiền. Người nhìn xem. Đám đông những người hành hương diễn qua trước mặt Người. Chúng ta hãy ghi nhận lòng nhân ái của Đức Giêsu: Người chú ý đến những đám đông, chú ý đến những gì xảy ra chung quanh Người. Chúng ta có biết chú ý không? Chúng ta có biết ngắm nhìn không?

Có lắm người giàu bỏ thật nhiều tiền.

Vào thời Đức Giêsu cũng như ngày nay các tầng lớp xã hội luôn có những mức lợi tức rất chênh lệch. Điền chủ, thương gia, luật gia, giới tư tế thường là giàu có và là sở hữu chủ tại Giê-ru-sa-lem những dinh thự với tất cả tiện nghi và xa hoa: Nhiều gian phòng, hồ tắm, sân vườn, cột nhà cẩm thạch… Trong khu ở riêng của các người quyền quý một khu đẹp và sang trọng! Còn những người nghèo thì chạy sống từng ngày và ở trong “khu vực thấp hèn” tại Giêrusalem.

Nếu lưu ý đến bản văn của Maccô, chúng ta sẽ thấy ông đã viết “một số” người giàu… nhiều người giàu, đã cống hiến ‘những số tiền lớn’ như vậy, họ cũng thiết thân làm nghĩa vụ đối với Đền Thánh.

Ở đây Maccô không chú thích gì cả, nhưng ông vẫn không thể không so sánh:

Cũng có một bà góa nghèo đến.

Bây giờ nhà quay phim cống hiến cho ta một cận cảnh:

Người đàn bà nghèo khó bước tới gương mặt khiêm tốn giữa các khuôn mặt khác. Không có một chỗ danh dự, không danh tiếng gì. Một người không quen biết. Đó là một người đàn bà, trong thế giới mà người đàn ông thống trị, một góa phụ trong thế giới mà chỉ có người đàn ông mới có quyền được luật pháp công nhận. Một người đàn bà nghèo, không lợi tức. Đức Giêsu đưa mắt nhìn bà.

Bà goá nghèo đến bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm.

Thật là trái ngược với “số tiền lớn” của những kẻ khác!

Tôi muốn nhìn ngắm hai đồng tiền nhỏ này, hai đồng xu đút giấu kín trong lòng bàn tay bà.

Đức Giêsu liền gọi các môn đệ lại và nói: “Thầy bảo thật anh em: bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết.

Cách tính tiền thật là kỳ cục? Bà này đã cho “nhiều hơn” tất cả mọi người. Đức Giêsu đã nói thế. Người làm đảo lộn mọi hệ thống xã hội của chúng ta. Người coi thường hệ thống phân loại, những giai cấp xã hội của chúng ta, với những bậc thang phân biệt rõ ràng mà người ta phải leo lên để “thăng tiến”. Ở bậc thang xã hội “cao”, thì giàu có được người khác trọng nể; mặc y phục lộng lẫy, được người ta chào hỏi công cộng, có chỗ ngồi danh dự trong những bữa tiệc, tất cả những điều này không làm Chúa Giêsu quan tâm đến. Còn chúng ta thì sao?

Phản ứng của chúng ta trước trang Tin Mừng này như thế nào? Hay nó vẫn làm chúng ta thản nhiên, không chút bận tâm?

Trong một xã hội dồi dào của cải mà chúng ta đang sống chúng ta có thái độ nào đối với một số nghề nghiệp dành cho người nghèo? Có những người nào mà tôi khinh khi vì chủng tộc, vì môi trường xã hội, nghề nghiệp hay sự nghèo khó của họ không?

Mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản

Người ta không thể đánh lừa Chúa được. Người thấy tận đáy lòng chúng ta. Bà này đã cho “nhiều hơn”, vì bà đã cho “tất cả”. Muốn biết giá trị của một quà tặng, ta không nên chỉ nhìn vào đồ vật đó, mà còn, phải để ý đến người cho. Thiên Chúa đã nhìn như thế. Người nhìn thấy những gì còn lại trong két sắt hay trong trương mục ngân hàng.

Chúng ta cần suy niệm hai từ mà Đức Giêsu đã dùng. Đó là hai ý niệm đơn giản: ‘Sự túng nghèo’ là tình trạng của người không có đủ yếu tố cần thiết để sống; ‘Điều cần thiết’ là những gì tương xứng cho đời sống bình thường. ‘Của cải thừa’ là những gì chúng ta có nhiều hơn cái cần thiết.

Chắc chắn đó không phải là những giá trị toán học cố định. Vì ta có thể thắc mắc: “Sự cần thiết sẽ dừng lại ở mức nào?”. “Sự dư thừa” bắt đầu từ đâu? Nhưng thực tế khiến chúng ta phải nhìn nhận rằng có quá nhiều khác biệt giữa điều kiện sống của con người trong cùng một xứ sở nhất là giữa quốc gia này với quốc gia khác. Với những đồ vứt bỏ trong thùng rác ở New York, người ta cũng có thể cứu sống cho một thành phố với số dân tương đương thuộc thế giới thứ ba. Những phí phạm của chúng ta kêu lên tới Thiên Chúa, và trước mặt người nghèo. Vào thời đó, Đức Giêsu đã dám tố cáo một số người sống quá ‘dư thừa’, còn ngày nay Người sẽ phải nói sao đây?

Tất cả những gì bà có để nuôi sống mình.

Đức Giêsu không nhìn sự việc như chúng ta. Chính Người cũng là một kẻ nghèo.

Người đã nhìn ngắm và thấy tâm hồn cho đi tất cả. Chúa để mắt trên người nghèo. Họ đang làm vui lòng Thiên Chúa.

Đức Giêsu đã ca ngợi người đàn bà góa nghèo, cống hiến hai đồng tiền nhỏ. Lạy Chúa, Chúa nghĩ gì về lòng quảng đại của con? Tôi có “cho đi” không? Bao nhiêu? Như thế nào? Ngày nay ta có thể cho rằng người đàn bà này có lý do chính đáng để giữ lại số tiền đó và để cho kẻ khác “cống hiến” thôi! Nhưng Thánh Vinh Sơn đã nói: May thay cho những người nghèo, vì vẫn còn có những người nghèo ‘biết cho’.

Trước khi khởi sự bước vào cuộc thụ khổ, Đức Giêsu cho chúng ta biết bí mật cái chết của Người sắp đến gần: Người đàn bà này là “hình tượng” của Thiên Chúa, Đấng trao ban tất cả, tất cả những gì Người có để sống! “Thiên Chúa dù giàu có, đã trở nên khó nghèo để làm giàu cho chúng ta”. Thánh Phaolô đã dám nói như vậy (2 Cr 8,9). Tình yêu không biết tính toán. Chúa là tình yêu. Người đã không tính toán, Người đã cho đi tất cả. Nếu Giáo Hội nguyên thủy đã ghi lại đoạn này bề ngoài xem ra không quan trọng ngay trước cuộc thương khó, là vì Giáo Hội đã tự nhủ: Vâng, Đức Giêsu đã tự nhận ra chính Người nơi người đàn bà này, vì bà đã “cho đi tất cả”.

 

85. Chúa Nhật 32 Thường Niên

(Gợi ý bài giảng của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt)

THÓI ĐẠO ĐỨC GIẢ VÀ LÒNG QUẢNG ĐẠI THỰC

CÂU HỎI GỢI Ý

  1. Hai đoạn văn này (cc.38-40 và 41-44) được liên kết với nhau ra sao trên hình thức?
  2. Ở đây Chúa Giêsu quở trách các ký lục về mấy điểm?
  3. Đâu là ý nghĩa xét riêng của trình thuật bà góa?
  4. Tại sao Mc ghi chú nơi c.43: Chúa Giêsu gọi các môn đồ và giải thích cho họ về cảnh tượng?
  5. Lấy ý niệm nào để tổng hợp cả hai đoạn văn?

Hai đoạn văn của Mc về thói quen của các ký lục và về đồng tiền của bà góa ít nhất được liên kết với nhau bằng một tiếng móc, phương pháp đặc biệt của “thể văn nói từ “những bà góa” mà các ký lục bóc lột hết nhà cửa, người ta đi sang “bà góa” bỏ hai đồng vào Hòm tiền. Ngoài ra hai giai thoại đều được định vị tại Giêrusalem và rõ rệt hơn trong Đền thờ; nơi Chúa Giêsu được coi như không rời khỏi từ Mc 11,27 trở đi (x. 12,35 và Lc 20, 1). Phải chăng không có một ý tưởng ngầm nào liên kết hai bản văn ấy?

Hai cảnh cũng gặp lại trong Luca (20,45-21,4) với  những từ ngữ khá như nhau và một thứ tự in hệt; Lc 20,46 còn gần với Mc 12,38b-39 hơn là chính bản văn của ông nữa (11, 43), bản văn nằm chen trong trình thuật “du hành” (9,51-18,14). Chắc chắn là Lc 20,45-21,4 đã theo Mc hoặc một  nguồn chung cho cả hai (bản Mt Aram được dịch?) hoặc theo  Mc lẫn nguồn chung đó. Những thay đổi nhẹ nhàng mà Lc hình như đã làm đối với bản văn của Mc hoặc nguồn chung, chỉ nằm trên phương diện bút pháp; nhưng nội dung chung của bản văn làm nổi bật những chủ đề quen thuộc với ông hơn là với Mc.

  1. THÓI GIẢ HÌNH CỦA CÁC KÝ LỤC (12 , 37b – 40)

Lời kết án các ký lục, theo đoạn này của Mc và theo đoạn song song Lc 20,45tt, có nhiều điểm giống lời kết án Biệt phái cùng luật sĩ trong Lc 11,37-54; đặc biệt Lc 11,43 song song với Lc 20,46. Các dữ kiện của hai đoạn văn Lc đều được nhập lại và khai triển trong chương 23 của Mt, với ít nhiều dị biệt trong những câu song song. Theo một phương pháp thông thường, Mt đã tổng hợp lại các lời Chúa Giêsu quở trách ký lục và biệt phái, trong lúc Lc để riêng ra các đóng góp của hai nguồn chính của ông, mà một có lẽ là Mc hay (vài tác giả nói “và”) một nguồn chung cho cả ba thánh sử. Ở đây không có gì cho phép giải quyết ngay “vấn đề Nhất lãm” được. Nhưng các câu song song của Lc và Mt đặt ra một câu hỏi kép: các địch thủ thật sự của Chúa Giêsu trong dịp này là ai; người đã nói những lời đó khi nào?

  1. Các địch thủ của Chúa Giêsu

Một khi lưu ý đến các hoàn cảnh lịch sử, ta sẽ thấy các lời quở trách ký lục ở Mc 12 (Lc 20 ; Mt 23) nằm đúng chỗ hơn là trong Lc 11, nơi mà chúng ta tìm thấy phần lên chất liệu được sưu tập bởi Mt 23. Các lời quở trách đó được đặt trong khung cảnh tuần lễ sau cùng, ở điểm đoạn tuyệt giữa Chúa Giêsu với các địch thủ, những kẻ đã chúng tỏ dứt khoát dã tâm của họ và đã âm mưu giết người (Mc 11,18; Lc 19,47, Mt 21 ,46). Thành ra không phải là vô lý mà Mc và Lc chỉ giữ lại ở đây những lời cáo trách tương đối nhỏ, để biến đoạn này thành phần bổ túc và kết luận cho loạt đấu khẩu trước đó (Mc 11, 27-12,37a và ss) {“Y như đã tấn công giáo huấn của các ký lục nơi 12,35-37a, ở đây người ta lên án các thói quen của họ. Mục đích thích đáng này giải thích tại sao chỉ có những lời cáo trách vừa nói trên được ghi lại. Mc hoặc một tiền nhân đã muốn cho thấy sự đoạn tuyệt giữa Chúa Giêsu với các giáo sĩ nên trọn vẹn ở điểm nào”, V.Taylor, The Gospel according to St Mark, Londres, 1957, tr.493t. Ngoài ra, bản văn này còn làm nên một dẫn nhập hay cho diễn từ về sự điêu tàn của Giêrusalem, mà nguyên nhân là sự cứng lòng của các thủ lãnh dân Do thái.

Các thủ lãnh nào vậy? Mc cũng như Lc 20,46 ở đây chỉ nói là các ký lục, trong lúc nơi đoạn song song Lc 11,43, các lời quở trách nhắm đến Biệt phái. Mt liên kết cả hai: “các ký lục và Biệt phái” (23,2). Điều đó vẫn không cho phép ta lẫn lộn họ. Lc đã phòng xa việc lẫn lộn này bằng cách để riêng một diễn từ lên án các Biệt phái (11,39-44) và một diễn từ lên án các ký lục (11,40-52). Tuy nhiên, chính vì phỏng ước, nếu không muốn nói là do lầm lẫn” (J. Jeremies, Jérusalem aux tomps de Jésus; hán dịch Pháp ngữ. Paris,1967, tr.340, chú thích 56) mà cũng đoạn Lc này (11,43) đã cho nhắm vào Biệt phái lời quở trách ham tìm chỗ nhất: đúng ra lời quở trách áp dụng vào các ký lục, như bản văn Mc của chúng ta đây (c.39) và Lc 20,46 xác nhận. Sở dĩ truyền thống Tín Mừng có nhưng lộn xộn đó là do ở chỗ các ký lục, chuyên viên giải thích lề luật phần lớn thuộc phiệt phái, và do ở chỗ các Biệt phái quèn, đoàn viên các công hội mà thủ lãnh và các ký lục, “thường tổ chức đời sống theo những nguyên tắc và quy luật của các ký lục Biệt phái” (A. Michel và J. le Moyne, Dictionnaire de la Bible (supplément) mục pharisiens, 1965, cột 1071).

  1. Cử tọa của Chúa Giêsu (cc. 37b-38a)

“Và dân chúng đông đảo vui thích nghe Người. Và trong khi giảng dạy, Người nói…”. Chúng tôi liên kết c.37b vào câu sau hơn là vào câu trước, theo đoạn song song trong Lc 20,45: “Trong khi toàn dân nghe Người thì Người nói với môn đồ như sau:

Mc không đề cập tới các môn đồ, xem ra họ vắng mặt, lát nữa Chúa Giêsu sẽ phải gọi họ (12,43). Mt, vốn ưa lối dồn tụ, đã liên kết “đám đông và các môn đồ” (23,1) cũng như liên kết trong câu tiếp theo “các ký lục và Biệt phái”: ta có thể vẽ lại quang cảnh với nhiều khuôn mặt đặc biệt chăm chú giữa đám đông. Trên bức tranh được cảm hứng từ trình thuật Lc, dân chúng đóng vai trò làm nền, cón Chúa Giê-su  thì nói với các môn đồ đang quy tụ trước mặt Người, riêng một nhóm. Khi hạn chế đám thính giả trực tiếp như vậy, có lẽ Lc muốn làm nổi bật tính cách hiện thực của lời Chúa Giêsu cảnh giác đối với các môn đồ thời ông. Kitô hữu không được coi những cảnh giác của Thầy là lỗi thời; họ chẳng tránh được những thói xấu tương tự như các ký lục đâu.

Còn Mátcô, ông không quá bận tâm áp dụng các giáo huấn luân lý của Chúa Giêsu vào đời sống Kitô hữu thường nhật. Tuy nhiên, “đã không ai hơn Mc trong việc liên kết Chúa Giê-su với các môn đồ” (B. Rigaux, l’émoignage de l’evangile Marc, Bruges, 1965, tr. 157, xem (và so sánh vai các đoạn song song) Mc 1,21.23.36; 3,7; 5,37; 6,1; 8,34; 10,23.40; 11,11.27; 12,43; 14,26.32), Ông đã trình bày các môn đồ dấn thân với Chúa Ciêsu trong việc rao giảng Tin Mừng và chia sẻ thập giá. Sở dĩ ông không đề cập đến các vị ở đây, là vì chỉ muốn nhấn mạnh cuộc tranh chấp ngày càng gia tăng giữa Chúa Giêsu với các tư tế cùng các nhà thần học, cuộc tranh chấp mà ở điểm này của trình thuật, sắp đưa đến thảm kịch Canvê (x. 11,18 và 14,1: “các thượng tế và các ký lục” ). Trong những điều kiện ấy, việc đề cập tới dân chúng (ochlos, dân chúng theo nghĩa trần tục, không phải laos, toàn dân, như  trong Lc 20,5) mặc một màu sắc hơi đáng quan ngại. Nơi Mc, dân chúng khá thiện cảm với Chúa Giêsu cho đến ngày xảy ra vụ án; tuy nhiên đôi khi ông mô tả họ như những kẻ chờ thời, dễ xấu hổ vì Con Người (8,38), cứng tin (9,19). Ông sẽ cho họ xuất hiện lần nữa ở 15,11-14, nơi người ta thấy các thượng tế xúi dục họ xin giết Chúa Giêsu (c.14), sau khi đã hội nghị với hàng niên trưởng và ký lục. Phải chăng thánh sử đã nghĩ đến quang cảnh này rồi khi nhắc lại việc Chúa Giêsu, lúc kết thúc sứ vụ ở Giêrusalem, đã kêu xin dân  chúng đề phòng các ký lục nhưng vô ích)? Niềm vui lắng nghe Chúa Giêsu chẳng bén rễ sâu trong họ (Mc 4,16tt), và chắc chắn không phải ngẫu nhiên mà trong toàn bộ các Tin Mừng, từ ngữ “thích thú lắng nghe” chỉ xuất hiện ở đây và ở mặc 6,20 là đoạn nói Hêrôđê, dù cảm phục sự thánh thiện và lời giảng huấn của Gioan Tẩy Giả, nhưng rồi vẫn không chống cưỡng lại được giản kế của Hêrôđiađê.

  1. Thói chuộng hư vinh của các ký lục (cc. 38t-39)

Những lời Chúa Giêsu quở trách các ký lục được trình bày theo một thứ tự đi lên: từ những lối ham chuộng hư vinh (khoe áo khoe quần, thích được chào kính và ngồi chỗ danh dự), người ta đi sang việc bóc lột các bà góa, rồi đến thói giả đạo đức đúng nghĩa, thói đạo đức mà tính cách xấu xa được nhấn mạnh trong câu cuối cùng của đoạn văn. Ở đây chúng ta không cần hỏi các ký lục có hoàn toàn xứng đáng bị tố cáo như  thế không: nhiều sử gia nhất là Do thái, đã phủ nhận điều đó; nhưng chính cuốn Talmud (sách chú giải lề luật Do thái) đã công nhận những lời ấy đúng với một số người trong họ và giọng điệu ngôn sứ của các lời cảnh giác hay đúng hơn “các lời nguyền rủa” này cho thấy có một sự ứng quát hóa hơi hơi. Vả lại, toàn thể các Tin mừng có đưa nhiều điểm khiến ta phải điều hòa đôi chút, như  Lc đôi khi ghi chú rằng chỉ “một vài ký lục hay Biệt phái” có liên hệ (ví dụ 6,2; 11,15, so sánh với các bản văn song song); Mátcô thì cho thấy (12,28-34) Chúa Giêsu đã có lầu khen một ký lục đầy khôn ngoan; thỉnh thoảng ta gặp vài người phiệt phải “tốt” Nicôđêlnô, Giuse …) và theo Mt (13,52; 23,34; 8, 19), Chúa Giê-su tán dương lý tưởng của người ký lục Kitô giáo.

Trước tiên các ký lục thấy mình bị khiển trách là ưa “dạo quanh, áo quần xúng xính”. Đây chắc là áo talith, một loại áo choàng các giáo sĩ đặc biệt sử dụng. Ví nó phải mang phết đất và vì đoạn song song Mt 23.5 quở trách các ký lục nối dài tua của nó ra (x. Ds 15,37; Đnl 22, 12), nên người ta đã nghĩ rằng lời quở trách ở đây cũng vậy? dạo quanh áo quần xúng xít, nghĩa là nối dài tua áo Talith để tỏ ra là kẻ giữ luật đàng choàng và lôi kéo sự tôn kính. Tuy nhiên, công thức tổng quát hơn của Mc và Lc có thể cũng nói đến độ rộng bắt buộc của áo choàng và phẩm chất của vải. Dầu sao, đây vẫn là sự khoe khoang quần áo: một thói xấu rất phổ thông, xưa cũng như nay, nhưng đặc biệt gây khó chịu và bực mình nơi những người chuyên lo việc thánh bởi vì họ khai thác một uy tín tôn giáo để tìm kiếm vinh dự.

Thói ưa được bái chào nơi công trường là một xấu cùng loại. Trên các công trường xưa ở Đông phương, đầy  những kẻ bán hàng và người đi dạo cà ròng, các luật sĩ có nhiều thì giờ để ngây ngất với những cử chỉ tôn kính sâu sắc mà dân chúng coi như một bổn phận phải làm đối với họ. Khai thác uy tín các chức vụ thánh ban cho với một mục đích ích kỷ cùng tầm phào như thế làm cho thói chuộng hư vinh đó tăng thêm sự  xấu xa.

Cũng phải nói như vậy về hình thức phô trương thứ ba: “ ưa chỗ nhất trong hội đường và ghế nhất nơi bàn tiệc”. Theo lời chứng của các giáo sĩ về sau thì các ký lục, thừa kế quyền giải thích luật trên “tòa Môisen” (Mt 23,2), thường chiếm trong hội đường những chỗ đặc biệt, quay mặt về phía dân chúng. Nên chẳng lạ gì khi nhiều người đã chiều theo cám dỗ lợi dụng những dấu kính tôn mà họ được hưởng. Và vì sự tôn kính này theo họ khắp nơi nên họ không những tự đắc khoe khoang trong các hội đường, mà còn trong các buổi họp mặt thông thường như yến tiệc. Ở những nơi này thứ tự chỗ ngồi được thu xếp tùy theo danh giá, nên sự tìm kiếm hay mối ưu tư thứ vị có thể mặc sức tung hoành.

Đoạn văn chúng ta đây không phải là chứng từ duy nhất về những lời Chúa Giêsu phê bình một thái độ như vậy. Trong một lời cảnh giác phỏng theo Cn 25,6t Người có nói: kẻ được mời dự tiệc coi chừng bị đổi chỗ và bẽ mặt nếu bò lên chỗ nhất; tốt hơn hãy chọn chỗ chót và gia chủ sẽ làm cho mình được vinh dự khi đưa mình lên chỗ cao hơn. (Lc 14,7-11) [Cũng có một lời cảnh giác trương tự nơi giáo sĩ Shimon Ben Azzai (khoảng 100 năm sau (Chúa Ki-tô): “Hãy tụt xuống dưới chỗ của ngươi hai hoặc ba hàng và ngồi đó; vì thà người ta nói với ngươi: mời ông lên, hơn là: xin ông xuống” (Aboth của Rabbi Nathan 25, được trích dẫn trong DBS, mục đã dẫn, cột 1080]. Nói vậy, Chúa Giêsu chắc không có ý tán thành thời chuộng hư vinh của con người và những tính toán của thói đó, vì đây chỉ là một dụ ngôn (mashal) (c.7) có hình thức nghịch lý mà trong đó cái đáng kể là bài học khiêng tốn cuối cùng, cái bài học nguyên thủy ở đây: “Ai nhắc mình lên sẽ bị hạ xuống và ai hạ mình xuống sẽ được nhắc lên” (c. 11). Vả lại Lc đã tạo ra quang cảnh gây nên trình thuật như sau: đang khi dùng bữa tại nhà một người Biệt phái, Chúa Giêsu đã nhận xét thấy làm sao các thực khách háo hức chọn lựa chỗ nhất. Một khung cảnh lịch sử như vậy chắc là khó có thể xảy ra, nhưng lời Chúa Giêsu kết án hình thức của hư vinh ấy của Biệt phái và thái độ quỵ ngã ẩn tàng bên trong đã được c.39 của mặc xác nhận rõ. Ai dám bảo lời quở trách này không còn hợp thời, nhất là đối với những người của Giáo Hội? Mt ở đây nhắc lại cách thích  thời cho các Kitô hữu một huấn lệnh mà chắc Chúa Giêsu đã nói vào những dịp khác: “Kẻ lớn nhất trong các ngươi sẽ là tôi tớ của các ngươi” (23,11).

  1. Bóc lột các bà góa và giả bộ đạo đức (c.40).

Những lời công kích trên đây ít nhất nhắm đến giai cấp đầu tiên trong 7 giai cấp Biệt phái mà sách Talmud có nói rõ: “các Biệt phái vai”, những kẻ mang trên vai các công việc của mình, nghĩa là phô trương để được khen ngợi. Những lời đó tương ứng với câu nói tổng quát hóa cách khắt khe của Mt: “Họ làm mọi việc để được người ta chú ý”(23,5). Tuy nhiên, sau đây còn nhiều lời quở trách nặng hơn.

  1. Bóc lột các bà góa

Trước tiên các ký lục ngốn cả nhà cửa của các bà  góa”. Thân phận mà lề luật dành cho các bà góa chẳng đáng ao ước bao nhiêu, vì họ không có quyền hưởng gia sản của chồng (x. Ds 27,9-11 ; Lv 17,8-15; 2V 4,1-7). Nhưng ở đây Chúa Giêsu không đổ lỗi cho chính lề luật, Người chỉ lên án các lạm dụng thôi. Người ta đã nghĩ rằng các ký lục, nhờ quá am tường các lý sự vụn luật pháp, đã thành công trong việc tránh né pháp chế hiện hành, gây thiệt hại cho những bà góa đã ký thác tài sản cho họ (x. Mt 15.3-9 và ss); hoặc vì được những bà tận tâm giúp đỡ vật chất cho như  Chúa Giê-su (Lc 8,3), họ đã đâm ra lợi dụng lòng quảng lại của các bà ấy. J Jérémias có nói là “nhiều ký lục ăn chực chất lên khai thác lòng hiếu khách của những người nghèo khổ” (J.. Jérémias. sdd, tr.166). Dù sao, khai thác nguồn lợi của các bà góa, hạng người dễ bị tổn thương nhất, là một tội đặc biệt ghê tởm trước mắt nhà làm luật và các ngôn sứ Cựu ước (Xh 22,21tt; Đnl 27, 19; Ds 1,23-10,2; Gr 7,6; 22,3; Tv 94,6) trong khi theo gương Thiên Chúa nâng đỡ cô nhi quả phụ (Đnl 10, 18tt; Tv 68; 146,9; Hc 35,14tt) là một việc thiện đứng hàng đầu (Đnl 14,28tt; 24, 17-22; 26, 12tt; G 29, 1 3; 31,16; Gc 1.27).

Tiếp theo những bài giáo lý Ki-tô giáo đầu tiên có ghi lại lời cảnh giác của Chúa Giê-su, chúng ta có thể áp dụng lời đó cho chính thái độ của chúng ta đối với hết thảy những người yếu đuối, nghèo khổ trong xã hội, và cho mọi bất công mà chúng ta đã có thể khôn khéo biện minh.

  1. Giả bộ đạo đức

Lời quở trách sau cùng của Chúa Giêsu cũng là lời nặng nhất: “Họ làm bộ cầu nguyện lâu dài”. Là những kẻ đạo đức giả chính hiệu, một số các ký lục che dấu thói chuộng hư  vinh và tội bóc lột dưới một mặt nạ đạo đức; hay ít nhất làm mất ý nghĩa của việc cầu nguyện bằng sự ham muốn được để ý. Lời trách cứ gần giống với Mt 6,5: khi các người cầu nguyện, thì chớ bắt chước bọn giả hình; chúng ưa đứng cầu nguyện trong hội đường và các ngã tư hầu được người ta thấy” Chúa Giêsu không quở trách các ký lục cầu nguyện công khai (chắc Người cũng đã từng làm vậy, ít nhất tại Đền thờ, mặc dầu Tin Mừng không bao giờ nói), hay cầu nguyện lâu giờ, nhưng là đóng kịch đạo đức, hay ít nhất biến hành vi cầu nguyện ra xấu, bằng cách muốn dung hợp với thói phô trương phù phiếm của họ hết thảy những ai có đến thờ phượng chu đáo nhưng vụ hình thức và thiếu nội tâm, đều dễ tìm kiếm sự dung hợp bất khả này và do đó lừa gạt chính mình cũng như lừa gạt kẻ khác.

Lời đe dọa phạt nặng (vào lúc Chung thẩm) ở cuối  đoạn văn xem ra áp dụng cho hai câu quở trách sau cùng. Khi lòng ưa chuộng hư vinh chưa đến thói giả đạo đức, và khi thói giả đạo đức này che đậy một tính tham lam muốn tấn công các bà góa hay những kẻ không người bảo vệ, thì các tội nhân đã đạt đến tột đỉnh xấu xa nhất. Đó là chưa nói đến thái độ của họ đối với Chúa Giê-su.

  1. ĐỒNG TIỀN CỦA BÀ GÓA (12,41-44)
  2. Ý nghĩa xét riêng của trình thuật

Đầu bài khảo cứu hôm nay, chúng ta đã thấy là người ta đi từ tràng chửi rủa ký lục sang giai thoại kế tiếp nhờ tiếng móc “bà góa” và nhờ sự trùng hợp địa điểm. Theo Alberz và Vincent Taylor, chính Mátcô – được Lc noi theo – đã đem câu chuyện bà góa thêm vào một loạt câu chuyện đi trước (=Mc 11, 15-17 + 11 ,27-33 + 12,13-40). Nhưng nhiều kẻ khác nghĩ rằng loạt câu chuyện từ Mc 1 1,27 đến 12,44 dã có trước Mátcô.

Đây là một trình thuật ngắn về đời sống Chúa Giê-su xoay quanh câu tuyên phán đáng ghi nhớ nằn sau cùng “ap()pthtegme biographique”). Trình thuật được rút gọn xuống mức tối thiểu và còn bị giản lược hơn nơi Lc. Theo Luca. Chúa Giêsu thấy nhiều người giàu có bỏ tiền cúng vào Hòm tiền, rồi thấy một bà góa nghèo khổ đến bỏ và đó hai trinh. Nghĩa là đơn vị tiền tệ nhỏ nhất. Mc thì nói rõ: Chúa Giê-su ngồi đối diện với Hòm tiền, quan sát dân chúng và có lắm người giàu có nhiều đồng bạc; ông cũng cho biết giá trị tương đương theo bạc Rôma của số tiền bà góa cúng (1/4 xu, nghĩa là 8 lần nhỏ hơn khẩu phần bánh phát mỗi ngày cho người nghèo). Tất cả những điều ấy phù hợp với môi trường Palestin, và chúng ta không thấy làm sao một vài tương tự của trình thuật chúng ta với một bản văn Phật giáo lại có thể hủy đi lịch sử tính của nó.

Tuy nhiên, trong cả hai Tin Mừng, người ta không biết phải đặt quang cảnh ở đâu cho đúng: phải chăng là nơi 13 cây cột mà sách Mishna nói là nằm trong tiền đường phụ nữ, hay nơi chính Hòm tiền? Trong trường hợp sau, có thể nghĩ là những người dâng cúng đã nói lớn cho tư tế biết mục đích bà và tổng số tiền dâng cúng của họ (điều giải thích được việc Chúa Giê-su biết bà goá đã dâng bao nhiêu); nhưng các chi tiết này đã biến mất khỏi trình thuật Tin Mừng (Strack- Bill, Kommentar zum N.T. aus Talmud und Midrash, Munich, 1924, t.H, tr.37 đến 45). Nếu giả thiết như thế, thì một số người dâng cúng đã có thể làm mất giá trị cử chỉ của họ vì thói khoe khoang; tuy nhiên, bản văn không có ý nói đến tật xấu này.

Một lần nữa, tất cả đều hướng về câu sau cùng, và không có vấn đề mắng nhiếc những người giàu có vì của cải biết đâu bất chính hay nguy biếm của họ, hoặc vì thói phô trương biết đâu có trong thái độ rộng rãi của họ. Duy tổng số tiền dâng cúng rõ liệt nhỏ nhoi, bà góa đã “bỏ nhiều hơn hết”: tỷ lệ giữa số tiền bố thí và tài nguyên của bà đã làm bà vượt lên trên những người đã bỏ nhiều hơn và cho thấy lòng bà sốt sắng hơn họ, vì bà đã dâng tất cả những gì bà có để sống. Không một bài học luân lý nào được minh nhiên suy diễn từ nhận xét này; nhưng những môn đồ quen với lối giảng dạy của Tôn sư có thể rút ra nhiều bài học. Phải coi chừng đừng đoán xét tha nhân và hành vi của họ qua những vẻ bên ngoài (điều mà lời cảnh cáo trước đã ngụ ý: Mc 12,40; x. Mc 23,27tt); Những kẻ quảng đại nhất cũng như những người đạo đức nhất không hẳn là những ai lộ ra bên ngoài như thế; chỉ mình Thiên Chúa mới thấy rõ bí mật (Mt 6,4.6.18) và thấu hiểu mọi tâm hồn (Lc 16,15; x. Cv 1,24; 15,8). Vì thật ra chính ý hưởng của tâm hồn”, của nội tâm” mỗi định giá các hành vi con người thực hiện (Mt 15, 19ss) chứ không phải vẻ bên ngoài của chúng. Mà trong số các hành vi con người thực hiện với ý ngay lành, thì việc bố thí, hành vi bác ái là từ bỏ, là một trong những điều đẹp lòng Thiên Chúa hơn hết (Mc 9,41 ss. Mt 6,3tt; 25,31-46; Mc 10,21 ss v.v…).

  1. Viễn tượng của Mátcô và Luca
  2. Cộng đoàn tiên khởi và Mátcô

Có lẽ Giáo Hội sơ khai đã đề ra thái độ của bà góa đặc biệt quảng đại này theo gương nhiều bà goá Ki-tô giáo, như là những bà đã ghi danh vào nhóm góa phụ, sau khi đã “chuyên cần vào mọi thứ việc lành” (1Tm 5,10) và đã cam kết giữ mãi thói quen đó.

Nhưng chính toàn thể cộng đoàn Ki-tô hữu phải cảm thấy liên hệ với trình thuật này và với bài học có thể từ đó rút ra. Mc có lẽ nhấn mạnh điều ấy khi ghi chú rằng (c.43) Chúa Giêsu, Sau kết đã nói với dân chúng, thì gọi lại các môn đồ, cái nhân của Giáo Hội tương lai, để mặc khải cho họ thấy giá trị cử chỉ của người đàn bà nghèo khó.

Mátcô cũng là người duy nhất nói đến việc dân chúng đi đi lại lại; chính là với họ (chứ không chỉ với những kẻ giàu như  Lc) mà Chúa Giê-su đặt đối chọi bà góa: phải chăng ông không muốn ngụ ý là phải coi bà này như gương mẫu của một lòng đạo bên trong, lòng đạo của một tâm hồn biết giữ mình (hơn dân chúng) khỏi ảnh hưởng của các ký lục có lòng đạo vụ hình thức sao? Nếu thế thì mối dây liên kết giai thoại chúng ta với lời tố cáo các ký lục trước, lời tố cáo kết thúc loạt tranh luận, không phải chỉ có tính cách ngôn từ, nhưng còn là sự chuyển tiếp tinh vi, trên bình diện ý tưởng, giữa lời loan báo án phạt trên các tiến sĩ luật (c.40) và lời loan báo ngày tàn của Đền thờ.

  1. Luca

Về phần Luca, vì nhấn mạnh nhiều đến việc bố thí (6,30; 11,41; 12,33; 16,9; 19,8; 21,1-4; Cv 9,36; 10,2; 11,29). Và sự từ bỏ của cải, nên có lẽ đã lưu tâm đến câu chuyện bà góa một cách khác: nếu rộng tay bố thí để một cách nào đó tránh tai họa đe dọa kẻ giàu (Lc 6,24) là một điều tốt đẹp, thì còn đáng ca ngợi hơn biết bao việc bố thí của người đàn bà, mà như góa phụ thành Sarepta (1V17,9-15 ; Lc 4 ,2tt) đã biết hy sinh hoàn toàn cái ít ỏi mình còn lại.

Ngược lại, “cái dư thừa” của những người dân cúng (Lc 21,4) không khiến ta nghĩ tới cái dư thừa của kẻ giàu khờ dại mà câu chuyện được dẫn nhập bằng lời huấn dụ sau đây sao: “Hãy lo giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, vì không phải ai được sung túc là đời sống kẻ ấy được chắc chắn nhờ của cải” (Lc 12,15)? Người đàn bà nghèo khó hiến dâng cả sự bần cùng của mình là đối ảnh chính xác của ông phú hộ “chỉ biết thu tích cho bản thân” (12,21) và của kẻ giàu có (Biệt phái?) không nghĩ tới ngay cả chuyện để cho người nghèo Ladarô  lượm những vụn bánh từ bàn ăn của mình (16,21).

KẾT LUẬN

Đấng “dò thấu can trường lòng dạ” (Kh 2,23; x. Tv 1,10; Gr 11,20; 17,10) và không để bị gạt bởi cái bên ngoài cũng mời gọi môn đồ mình đừng để bị gạt bởi một cái vỏ đạo đức che dấu thói chuộng hư vinh, ham hố giả hình, cũng như bởi sự vô nghĩa bên ngoài của những hành vi bác ái phát xuất từ nhiều kẻ nghèo hèn, vô học. Họ hãy đề phòng những ông thầy lợi dụng, chuyên che dấu thói phô trương, sự bất công của mình dưới mặt nạ đạo đức nghiêm cách: không cần trở thành những Biệt phái chống lại Biệt phái, nhưng dựa vào ân sủng của Thiên Chúa và khiêm tốn ý thức sự yếu đuối của mình (Lc 18, 13), họ hãy cố gắng “đừng bắt chước” (Mt 6,5) và “đừng làm theo hành vi” của hạng người đó (Mt 23,3). Nhưng ngược lại hãy biết khám phá, trong của dâng cúng rất khiêm tốn của một bà góa nghèo, sức nặng của một tình yêu anh dũng dấu ẩn bên trong và hãy noi gương đó để cũng biết từ bỏ những “sở hữu” của họ.

Paul Ternant, Assemblées du Seigneur 63. tr. 53-63.

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

  1. Nếu phải tránh lối mị dân dễ dãi, cho rằng những người có thân phận khiêm tốn đương nhiên sẵn sàng đối với Vương Quốc Thiên Chúa, thì cũng không nên quả quyết rằng bao người giàu có là bấy nhiêu công dân của vương quốc ma quy. Có những kẻ nghèo nàn nhưng lòng đầy ham hố, tham lam keo kiệt, cũng như có lắm kẻ giàu sang nhưng rộng rãi, biết thi ân và lòng chẳng dính bén. Sự “nghèo khó Tin mừng” không tất nhiên nằm nơi chỗ thiếu thốn của cải, nhưng nằm nơi thái độ từ bỏ, không xem của cải làm cùng đích để lao lực lao tâm, nhưng coi như là phương tiện để phụng sự Thiên Chúa và kẻ khác, và sẵn sàng chịu mất khi cần. Tuy nhiên, sự từ bỏ nơi kẻ giàu vẫn khó hơn nơi người ít của. Hãy cám ơn Chúa vì đã cho xảy đến bao nhiêu hoàn cảnh khiến của cải chúng ta ít đi để ta dễ hướng tâm về của đích thật, sự bảo đảm đích thật là Người.
  2. Đoạn Tin Mừng nói về việc bà góa dâng hiến tất cả tài sản của bà tuy ngắn gọn nhưng rất thâm thúy, thật đáng chúng ta lưu tâm. Qua cử chỉ này, như người ta thường nói, bà đã đặt mình vào tình trạng hoàn toàn khó nghèo trước mặt Thiên Chúa. Bà hết mình phó thác cho Thiên Chúa. Những người giàu có cho một phần gia sản của họ; còn bà góa này, bà cho tất cả gia sản của bà và từ đó bà đặt mình dưới sự quan phòng của Chúa. Điều đó có nghĩa là bà đặt tất cả trong niềm hy vọng vào Chúa, cơm ăn cũng như cuộc sống của bà.
  3. Thâm sâu hơn nữa, cử chỉ của bà nói rằng bà đi tới Thiên Chúa như tới một kẻ mà bà hết lòng yêu mến và bà tin chắc Ngài có dư khả năng lo lắng cho bà. Bà không chỉ đi thi hành bổn phận tầm thường là đóng góp vào quỹ Đền thờ. Bà không chỉ muốn thi hành một nhiệm vụ. Bà đi quá cả phạm vi bổn phận, phạm vi chu toàn Lề luật. Bà không nghĩ tới vấn đề chu toàn Lề luật, nhưng nghĩ rằng Thiên Chúa rất xứng để bà dâng cho Ngài tất cả và đồng thời chờ đợi nơi Ngài tất cả.

 

86. Chúa Nhật 32 Thường Niên

(Chú giải mục vụ của William Barclay)

LUẬT TÔN GIÁO SAI LẦM (12,37-40)

Có thể câu đầu của đoạn sách này cùng đi với đoạn này chứ không phải với đoạn trước như bản Kinh Thánh của chúng ta. Cách phân chia câu trong Tân Ước chỉ bắt đầu vào thế kỷ thứ 16 do Stephanus. Người ta kể rằng ông ta đã làm công việc ấy trong khi cỡi ngựa đi từ nhà đến xưởng in của mình. Do đó, cách phân chia không phải luôn thích đáng và dường như đây là một trong nhiều phân đoạn cần phải điều chỉnh lại. Nói cách đúng hơn là dân chúng thích nghe Chúa Giêsu tố giác các Kinh sư hơn là thích nghe một đoạn lý luận thần học. Có nhiều người vẫn bị thu hút bởi những lời công kích.

Trong đoạn này, Chúa Giêsu nêu một loạt nhiều lời tố cáo các Kinh sư. Họ thích mặc áo dài để đi dạo. Bên phương Đông, mặc áo dài quét đất là dấu hiệu của một người khả kính. Và đây là loại áo mà kẻ mặc nó không thể tỏ ra hấp tấp, cũng không thể mặc để làm việc, nên đó là dấu hiệu của kẻ nhàn nhã, khả kính. Có thể câu này cũng có một nghĩa khác. Theo sách Dân số 15,38, người Do Thái mang thêm tua áo ở vạt áo ngoài của họ. Các tua áo ấy nhắc cho họ nhớ rằng họ là dân Chúa. Rất có thể các Kinh sư này mặc những tua áo quá khổ để chứng tỏ địa vị cao trọng đặc biệt của họ. Dầu sao, thì họ cũng thích ăn mặc như vậy để tự hào về vinh dự mà thiên hạ dành cho mình.

Họ thích được người ta chào mình giữa chợ cách kính trọng. Chính danh hiệu Rabbi có nghĩa là “Đại nhân của tôi”. Được chào như vậy thì lòng cao ngạo khoe khoang của họ được thỏa mãn.

Họ thích ngồi chỗ cao nhất trong hội đường. Trong hội đường có một chiếc ghế danh dự đặt trước cái rương nơi đựng các sách kinh, đối diện với dân chúng là chỗ ngồi dành cho những người đặc biệt ngồi. Lợi điểm của chỗ này là ai ngồi đây thì không bao giờ bị khuất cả, mọi người trong cộng đoàn đều nhìn thấy.

Họ thích ngồi chỗ cao trong các đám tiệc. Trong đám tiệc vị trí chỗ ngồi được sắp xếp kỹ lưỡng. Chỗ danh dự nhất là ở bên phải chủ nhà, chỗ thứ hai là bên trái và tiếp tục như vậy từ phải sang trái chung quanh bàn ăn. Người ta dễ dàng nhận ra ngay thứ bậc của một người căn cứ vào chỗ ngồi sắp xếp cho họ trong một bữa tiệc.

Họ nuốt tài sản của các bà góa. Đây là một tố cáo nặng lời. Josephus vốn là một người Pharisêu, nói về một số lần âm mưu trong lịch sử dân Do Thái rằng “Người Pharisêu tự đánh giá rất cao về sự hiểu biết chính xác luật lệ tổ tiên họ và phô trương cho người ta thấy họ (người Pharisêu) được Thiên Chúa mến chuộng. Họ dụ dỗ “Nhiều phụ nữ trong các âm mưu tạo phản” của họ. Ý niệm ẩn sâu việc này là, theo quy định, một Kinh sư không hề nhận tiền công khi giảng dạy. Ông ta phải dạy dỗ miễn phí và vẫn làm một nghề bằng lao động chân tay để mưu sinh. Nhưng các Kinh sư có ý giàn cảnh để mọi người hiểu rằng không có bổn phận nào được kể là cao quý, được ưu đãi hơn bổn phận cung cấp nhu cầu cho một Rabbi, việc cung cấp ấy chắc chắn sẽ đem lại cho người làm việc đó một chỗ cao trên thiên đàng. Trong các vấn đề liên hệ đến tôn giáo, có một sự kiện đáng buồn là phụ nữ vẫn thường bị các tay lang băm tôn giáo bắt nạt và dường như các Kinh sư và người Pharisêu ở đây cũng lợi dụng những người chất phác để được cung cấp mọi sự như vậy.

Việc các Kinh sư và người Pharisêu hay cầu nguyện dài dòng thì ai ai cũng rõ. Người ta bảo rằng những bài cầu nguyện ấy không nhắm dâng lên cho Chúa mà nhằm phô trương trước mặt người ta. Họ cầu nguyện tại những nơi và theo những cách mà ai cũng thấy rằng họ là những người ngoan đạo.

Đây là một trong những đoạn sách cho thấy Chúa Giêsu tỏ ra nghiêm khắc, cảnh cáo chúng ta về ba điểm:

1/ Cảnh cáo việc muốn được chức vị cao. Ngày nay điều này hãy còn đúng, nhiều những nhận một chức vụ trong Hội Thánh, vì nghĩ nhờ có công lao mà mình xứng đáng được chức vị ấy chứ không phải vì muốn phục vụ Chúa và anh em trong Chúa một cách bất vị kỷ. Người ta vẫn còn xem chức vụ trong Hội Thánh như một đặc quyền chứ không phải như một trọng trách.

2/ Cảnh cáo việc muốn được coi trọng. Hầu hết mọi người đều muốn được người khác kính trọng mình. Thế nhưng sự kiện căn bản trong Kitô giáo, là người ta phải tự giấu mình đi, chứ không phải tự tôn mình lên.có chuyện kể rằng ngày xưa có một tu sĩ nhân đức, thánh thiện, được giao cho chức tu viện trưởng một tu viện nọ. Ông ta khiêm hạ đến nỗi khi mới đến, người ta sai ông đi rửa chén trong nhà bếp và chẳng có ai nhận ra ông. Chẳng phản đối nửa lời, ông ta đi làm bổn phận rửa chén đĩa và nhiều việc tay chân khác. Sau một thời gian rất lâu, khi vị Giám Mục Giáo Phận đến, người ta mới phát giác ra sự sai lầm của mình, và người tu sĩ khiêm hạ nọ được đặt làm địa vị thật sự của ông ta. Một người bước vào chức vụ, đòi sự kính trọng dành cho mình thì đã bắt đầu sai lầm, và nếu không chịu thay đổi, sẽ chẳng bao giờ trở thành tôi tớ của Chúa và của anh em mình theo đúng nghĩa.

3/ Cảnh cáo việc buôn thần bán thánh. Ngày nay, thiên hạ vẫn có thể lợi dụng tôn giáo để tìm tư lợi, để được thăng quan tiến chức. Câu chuyện trên đây là một lời cảnh cáo những ai trong Hội Thánh về những gì họ mong có thể lợi dụng chứ không nhằm đầu tư công sức, tài sản nào đó.

CỦA DÂNG NHIỀU NHẤT (12,41-44)

Giữa sân dành cho người ngoại và sân dành cho phụ nữ có Cửa Đẹp. Chúa Giêsu đã đến ngồi yên lặng tại đó sau khi đã tranh luận gay gắt trong sân dành cho người ngoại và các hành lang. trong sân dành cho phụ nữ, có 13 thùng thu tiền mà theo hình dạng của chúng, người ta gọi là “kèn đồng”. Mỗi thùng nhằm một việc phục vụ riêng, chẳng hạn để nhận tiền mua lúa mì, rượu hoặc dầu cho việc tế lễ. Những thùng này đựng của đóng góp cho chi phí tế lễ hàng ngày và chi phí của Đền Thờ. Nhiều người dâng vào đó những số tiền rất lớn. Bấy giờ, có một bà góa nghèo đến, bà ta bỏ vào hai đồng tiền nhỏ. Đó là đồng gọi là Lépton, nghĩa đen là một đồng mỏng, là đồng có giá trị nhỏ nhất trong các đồng tiền. Vậy mà Chúa Giêsu nói bà đã đóng góp nhiều hơn tất cả mọi người khác, vì những người khác chỉ bỏ vào đó số tiền họ đã dành dụm được khá dễ dàng và vẫn còn giữ lại khá nhiều, trong khi quả phụ này đã bỏ vào tất cả những gì bà có. Đây là bài học về việc dâng cúng.

1/ Muốn của dâng trở thành một của dâng đích thực, thì phải là một của dâng do lòng hy sinh. Vấn đề không nằm ở số tiền dâng mà ở cái giá người dâng phải trả, không phải là tầm cỡ của lễ vật, nhưng là sự hy sinh. Lòng hào hiệp chân chính là dâng hiến cho đến khi nào chính mình phải chịu tổn thiệt. Phải xét lại xem việc dâng hiến cho công việc của Chúa, chúng ta có chút hy sinh nào không. Có rất ít người muốn sẵn sàng dâng nhiều hơn nữa cho công việc của Chúa. Có thể dấu hiệu về sự suy thoái của Hội Thánh và về sự thất bại của Kitô giáo, là của dâng không còn là tự nguyện nữa và tín hữu sẽ không dâng gì cả nếu không được lại một điều gì. Nhiều người trong chúng ta khi đọc chuyện này không khỏi cảm thấy xấu hổ!

2/ Dâng hiến trọn vẹn. Bà góa này có thể giữ lại một đồng tiền. Một đồng tiền nhỏ thì cũng chẳng bao nhiêu, nhưng dầu sao nó cùng còn một chút gì, dù vậy bà ta đã dâng hết những gì bà ta có. Ở đây có một chân lý biểu tượng quan trọng. Có một điều bi thảm trong đời sống chúng ta là thường vẫn còn một phần nào đó trong đời sống không được chúng ta dâng cho Chúa. Dù sao chúng ta vẫn còn giữ lại một chút gì đó. Chúng ta ít khi chịu tiến đến chỗ thực hiện hy sinh và vâng phục trọn vẹn.

3/ Điều vô cùng lạ lùng và đẹp đẽ, ấy là người được Tân Ước và Chúa Giêsu nêu lên cho lịch sử như một gương mẫu về lòng hào hiệp, lại là một người chỉ dâng có hai đồng tiền nhỏ, bằng một phần tư xu. Chúng ta có thể cảm nhận chúng ta không có gì nhiều trong lãnh vực của dâng vật chất. Nhưng nếu chúng ta sẵn lòng dâng hết những gì mình có cho Chúa, Ngài sẽ dùng làm được nhiều việc quá sức tưởng tượng của chúng ta.

 

87. Sự quảng đại của bà góa

(Suy niệm của Montfort Nguyễn Xuân Pháp. OCist)

  1. Tóm Lược

Bài Đọc 1: 1V 17, 10- 16

Qua bài đọc Cựu Ước hôm nay, chúng ta rút ra được ba ý chính:

Thứ Nhất: Bà góa là người ngoại đạo. Bà đang ở vùng đất Xarepta thuộc Xiđôn; vùng đất này không thuộc về Do thái, không có cùng một niềm tin, cũng không thờ phượng Thiên Chúa như người Do thái. Thứ Hai: Sự quảng đại của bà góa. Bà đã cho ông Elia nước uống và đã làm bánh cho ông ăn. Bánh này không được làm từ lương thực dồi dào, nhưng là những chiếc bánh cuối cùng mà bà cùng đứa con ăn xong rồi chết. Thứ Ba: Niềm tin. Dầu biết rằng mình đang đối diện với cái chết, bà vẫn tin vào lời Thiên Chúa phán qua ông Elia: hũ bột sẽ chẳng vơi, vò dầu sẽ không cạn; niền tin này đã được đền đáp cách xứng đáng.

Bài Đọc 2: Dt 9, 24- 28

Bài đọc trong thư Do thái cho ta ba ý chính:

Thứ Nhất: Đức Kitô không vào cung thánh do tay người phàm làm ra, nhưng Người đã vào cõi trời, ra đứng trước mặt Thiên Chúa để chuyển cầu cho ta. Thứ Hai: Người không dâng chính mình làm của lễ nhiều lần, nhưng đã hiến tế chỉ một lần để xóa bỏ tội lỗi muôn người. Thứ Ba: Người sẽ xuất hiện lần thứ hai, không phải để xóa bỏ tội lỗi, mà để cứu độ những ai trông đợi Người.

Bài Đọc Tin Mừng: Mc 12, 38- 44

Lời Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay nêu lên cho chúng ta hai hình ảnh đối nghịch nhau:

Hình Ảnh Thứ Nhất: Những người Kinh Sư. Họ ưa xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi, ưa chiếm nghế danh dự trong hội đường, thích ngồi chỗ nhất trong đám tiệc, nuốt hết tài sản của bà góa. Hình ảnh thứ hai là bà góa: Một con người vô danh tiểu tốt, nghèo vật chất nhưng lại quảng đại, sẵn sàng dâng cho đền thờ tất cả tài sản của mình.

  1. Suy Niệm

Vào một ngày trung tuần tháng 7/1995, ông hiệu trưởng trường đại học phía Bắc Mssisippi đã vô cùng ngạc nhiên khi một phụ nữ xa lạ tên là Osenola Mc Carty tặng 150.000 đô la làm quỹ học bỗng cho các sinh viên nghèo của trường. Khi trao số tiền lớn này, bà không cần nhà trường ghi danh tưởng niệm hay tuyên bố công khai. Lúc tìm hiểu, nhà trường càng sửng sốt hơn khi biết người phụ nữ này làm nghề giặt ủi, và số tiền kia được dành dụm cả cuộc đời. Sau khi biết câu chuyện này, tỷ phú Ted Turner, trùm kinh doanh truyền hình cáp ở Mỹ đã tuyên bố góp thêm một tỷ đô la cho quỹ. Ông nói: Người phụ nữ nhỏ bé ấy đã dám ban tặng tất cả những gì bà có, thì tôi thấy mình cũng phải đóng góp phần của tôi là một tỷ đô la.

Bà Mc Carty qua đời ngày 3/10/1999, hưởng thọ 91 tuổi. Bà đã trở thành biểu tượng “Lòng Từ Thiện” của nước Mỹ.

Điểm nỗi bật trong Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay cũng nói đến hai bà góa: Một bài trong sách Các Vua mà bài đọc một nhắc tới; một bà góa khác được Tin Mừng thánh Maccô thuật lại; một bà đã được Chúa Giêsu gặp ở đền thờ, một bà được tiên tri Elia gặp ở Xarepta; một bà bỏ vào thùng tiền Đền Thờ hai đồng kẽm, còn bà khác đã cho ông Elia một chiếc bánh nhỏ. Các bà được đề cao không phải hệ tại ở giá trị vật chất mà họ đang có, nhưng ở sự quảng đại và phó thác: hai đồng tiền kẽm của bà góa bỏ vào thùng tiền đền thờ là cả tài sản của bà; cũng vậy, chiếc bánh nhỏ mà bà góa xứ Xarepta cho tiên tri Elia là cả cuộc sống của hai mẹ con đang đối diện với cái chết. Các bà đã cho đi tất cả, cho dầu biết rằng hành động này sẽ làm cho cuộc sống gặp muôn vàn gian khó.

Vậy qua tấm gương về sự quảng đại của hai bà góa, chúng ta rút ra những điểm chính sau:

*  Lòng Quảng Đại

Mỗi người cần có những phương tiện cần thiết để duy trì cuộc sống. Do đó, khuynh hướng ky cóp, thu gom đã trở thành căn bệnh kinh niên nơi con người. Tuy nhiên, hai bà góa trong Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay cho ta một cái nhìn khác. Các bà đã sẵn sàng trao ban tất cả: khi biết ông Elia là tiên tri của Thiên Chúa, bà góa thành Xarepta đã cho đi nhu cầu cần thiết nhất để duy trì sự sống, và bà góa trong bài Tin Mừng cũng đã dâng cho đền thờ tài sản duy nhất là hai đồng tiền kẽm. Như vậy, mặc dầu niềm tin khác nhau, nhưng qua hành động đầy quảng đại và chất chứa niềm tin này, các bà đã lấy Thiên Chúa làm gia nghiệp và hy vọng Ngài sẽ làm tất cả sinh ích cho ai yêu mến và tín thác nơi Ngài.

* Yêu Thương

Không phải sỉ diện mà hai bà góa đã cho đi những gì mình có, mà được thúc đẩy bởi tình yêu: tình yêu Thiên Chúa và  tha nhân. Chính tình yêu là chìa khóa mở lòng bà góa thành Xarepta để trao cho ông Elia chiếc bánh, và như vậy đã trao cho ông mạng sống của hai mẹ con. Cũng chính tình yêu và đặt niềm tin vào Thiên Chúa, bà góa thành Giêrusalem đã dâng cho Thiên Chúa tài sản của mình, cũng là trao dâng cho Thiên Chúa bước đường tương lai của mình. Tuy bà dâng cho đền thờ ít, nhưng lại hy sinh rất nhiều. Cho nên, bà được Đức Giêsu khen là đã bỏ vào thùng tiền đền thờ nhiều nhất, vì đã rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi sống mình (Mc 12, 44).

Qua câu chuyện của bà Mc Carty và hai bà góa hôm nay, chúng ta chân nhận rằng của cải vật chất chưa hẳn đã mang lại ý nghĩa hay sự đảm bảo cuộc sống. Đàng  khác, giá trị của việc cho đi cũng không thể đông đếm bằng giá trị vật chất mà hệ tại ở sự quảng đại trao ban. Với tấm lòng quảng đại và tình yêu chân thành, người ta có thể biến những cái nhỏ bé, tầm thường thành chiếc phao cứu sinh cho người khác, thành ngọn lửa yêu thương sưởi ấm lòng người, thành chiếc cầu nối của tình bác ái mang lại niềm vui và an hòa cho tha nhân. Amen.

 

88. Hai bà goá

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

Phụng vụ Lời Chúa hôm nay đề cao hai bà goá. Một bà trong bài Tin Mừng một bà trong bài Sách Các Vua. Chúa Giêsu gặp bà góa trong sân Đền Thờ Giêrusalem. Tiên tri Êlia gặp bà góa ở xứ Serepta. Một bà đã dâng vào thùng tiền Đền thờ hai đồng kẽm và một bà đã cho tiên tri Êlia một chiếc bánh nhỏ.

Thời ngôn sứ Êlia, khi Thiên Chúa làm hạn hán trên đất nước Do Thái để phạt vua tôi của nước này, ngôn sứ Êlia được lệnh Chúa tạm lánh sang xứ Sarepta. Ở đó ngôn sứ đã gặp một phụ nữ đầy lòng tin cậy vào lời hứa của Chúa. Bà đã dâng chút bột và dầu ít ỏi làm bánh nuôi ngôn sứ. Lương thực còn lại để nuôi sống gia đình, bà đã giúp Êlia. Chúa đã trả công bội hậu cho bà và đứa con trai duy nhất thoát cảnh đói khổ.

Một bà góa thời Chúa Giêsu. Gầy gò bé nhỏ, ăn mặc rất đơn sơ. Nghèo nàn nhưng bà đem tất cả số tiền mình có, hai đồng tiền kẽm là những gì bà có để nuôi sống mình. Bà dâng vào đền thờ giữa đám đông nhiều người bỏ nhiều tiền vào hòm tiền. Chúa đã khen bà là bỏ nhiều, dâng cúng nhiều hơn những người giàu khác.

Hai bà góa có một đặc điểm giống nhau. Đó là họ đã dâng cả những gì cần thiết nhất cho cuộc sống của mình và gia đình. Bà góa tại Sarepta dâng nắm bột chút dầu cuối cùng. Bà góa tại đền thờ dâng những đồng tiền cần thiết nhất của mình.

Hai bà góa được đề cao có phải vì quà tặng mà họ đã cho không? Hiển nhiên là không. Hai đồng kẽm thì có đáng là bao. Một chiếc bánh nhỏ thì có thấm tháp gì! Thánh Kinh đề cao họ là vì quà tặng ấy tuy nhỏ mọn mà gói ghém cả tấm lòng người dâng. Đồng kẽm của bà goá bỏ vào thùng tiền Đền thờ là cả một tấm lòng của một bà già nghèo, là cả tài sản của bà. Chiếc bánh nhỏ của bà goá xứ Sarepte là cả một cuộc sống của hai mẹ con trong lúc sắp chết đói.

Của cho không bằng tấm lòng người cho. Cho của mình dư thừa thì chẳng quý gì. Cho cái mình đang cần mới là quý. Và cho cái mình vừa cần vừa tiếc mới là quý nhất.

Của cho không bằng tấm lòng người cho. Của nhiều mà lòng ít thì không quý cho bằng của ít mà lòng nhiều. Hai bà góa được đề cao là vì lòng yêu mến đối với người của Chúa và đối với nhà của Chúa. Họ được đề cao nhờ lòng yêu mến Chúa. Chính lòng yêu mến đã làm cho những hành động của hai bà góa có được một giá trị to lớn trước mặt Chúa. Và chính Chúa đã lên tiếng ca ngợi các bà. Chúa khen bà góa đã cho nhiều hơn tất cả những người khác đã bỏ tiền vào thùng hôm đó. Vì những người kia đã cho cái mà họ dư thừa, còn bà goá này cho tất cả tài sản của bà.

Biết bao người giàu có quý phái sang trọng bỏ tiền vào đền thờ, nhưng Chúa chẳng khen. Chúa chỉ khen bà góa và cho rằng bà này bỏ nhiều hơn những người khác “Quả vậy, mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để sống”. Bà goá bỏ tiền ít hơn mọi người, nhưng dưới mắt Chúa Giêsu, bà đã bỏ nhiều hơn cả, vì bà đã bỏ tất cả. Chúa đánh giá không dựa theo khối lượng nhưng dựa theo chất lượng. Chúa không nhìn bề ngoài nhưng nhìn vào tấm lòng.

Lối đánh giá của Chúa Giêsu đòi ta xét lại lối đánh giá của mình về người khác.

Có khi chúng ta ca ngợi một người chỉ vì người ấy đã có những đóng góp lớn lao, đã đem lại những kết quả cụ thể, rõ ràng.

Có khi chúng ta chê một người vì người đó kém cỏi, thiếu năng lực. Tiếng khen chê của ta thường dựa trên hiệu quả bề ngoài, và ít đụng đến phần nội tâm sâu thẳm.

Lối đánh giá của Chúa Giêsu cũng đòi ta xét lại lối đánh giá của mình về chính mình.Tôi xao xuyến khi bị chê, tự mãn khi được khen. Tôi quá trọng dư luận đến nỗi trở nên nô lệ cho dư luận. Thật ra tôi cần đánh giá mình dựa trên cái nhìn của Chúa. Chúa thấy tôi thế nào thì tôi là thế ấy.

Điều quan trọng khiến tôi bận tâm đó là tôi có dâng tất cả bản thân cho Chúa không, chẳng giữ lại gì cho mình, dù chỉ một xu nhỏ. Cần rất nhiều liều lĩnh khi bỏ nốt đồng xu cuối cùng để thực sự trở nên người tín thác trọn vẹn vào Chúa. (Mana).

Việc từ thiện, việc đạo đức, nếu không có lòng yêu mến thì chỉ là phương tiện tìm danh giá và tìm lợi nhuận. Hạng người như thế ở thời đại nào và ở đâu cũng có với những cách thức khác nhau. Họ là tỷ phú hay triệu phú, họ bỏ ra một vài triệu để đóng góp vào công việc từ thiện hay xây cất những công trình công cộng với động lực chính là mua tiếng tăm.

Đối với Thiên Chúa, điều quan trọng không phải là bao nhiêu, nhiều hay ít, mà là với cả tấm lòng. Cách cho quý hơn của cho. Của cho kèm theo tấm lòng là của cho quý hóa nhất.

Yêu mến thì phải cho. Nhưng của cho không bằng tấm lòng người cho. Và cho chính cái mình quý nhất mới là cái cho lớn nhất, giá trị nhất. Bà góa đã cho nhiều nhất vì đã cho cả tấm lòng.Xét về số lượng khách quan thì số tiền một phần tư xu so với năm, ba chục ngàn hoặc từng mấy trăm ngàn hay một triệu thì thật mỉa mai, thật tức cười. Nhưng với Chúa Giêsu hai đồng tiền nhỏ của người phụ nữ vô danh lại nhiều hơn hết. Điều có nghĩa là những công việc đạo đức và từ thiện, bác ái hơn nhau ở động lực và lý do hay mục đích chứ không phải ở số lượng. Giá trị của việc dâng cúng, việc bác ái không hệ tại ở số lượng của cải nhiều hay ít, có giá trị hay không, mà chính là tùy thuộc vào tấm lòng chân thành của người dâng cúng.Muốn của dâng trở thành một của dâng đích thực thì phải là của dâng do lòng hy sinh. Vấn đề không nằm ở số tiền dâng mà ở cái giá người dâng phải trả, không phải là tầm cỡ của lễ vật, nhưng là sự hy sinh. MẹTêrêsa Calcutta nói: “Khi ta trao tặng một món quà, mà nếu là một mất mát hy sinh lớn đối với ta, thì đó mới thật là món quà”. Thiên Chúa nhận định giá trị về một con người không dựa trên những gì họ có mà dựa trên những gì họ đã cho đi. Ai không bao giờ biết cho đi mới thực sự là người nghèo khốn cùng. Chính lúc cho đi là lúc lãnh nhận. Câu chuyện “Một ly sữa” như một chứng từ minh họa cho chân lý ấy.

Trước đây, có một cậu bé nghèo bán hàng rong để kiếm tiền đi học. Một hôm cậu không có được một đồng bạc dính túi mà bụng thì đói.

Cậu quyết định sẽ đến xin ăn tại căn nhà gần đó. Tuy nhiên, khi một cô gái trong nhà ra mở cửa thì cậu ngại quá nên thay vì xin ăn, cậu xin một ly nước lã! Cô gái nhìn thấy dáng vẻ của cậu thì biết rằng cậu đang đói, nên đem cho cậu một ly sữa lớn. Cậu uống chậm rãi, rồi hỏi: “Tôi phải trả bao nhiêu tiền?” Cô gái cười nhẹ và trả lời: “Cậu chẳng phải trả gì cả. Mẹ chúng tôi dạy rằng không bao giờ nhận tiền công khi làm một hành vi tử tế!” Cậu bé nói: “Vậy thế thì… tôi hết lòng cám ơn cô.”

Khi cậu rời ngôi nhà ấy thì chẳng những cậu cảm thấy thân thể mình khỏe mạnh hơn, mà lòng tin vào Thiên Chúa và con người cũng tăng mạnh thêm lên. Cậu từng nghĩ rằng cuộc đời mình khổ cực quá nên nhiều lần có ý muốn bỏ học.

Nhiều năm sau, cô gái ấy trở thành một phụ nữ và mắc bệnh hiểm nghèo. Các bác sĩ gần như bó tay. Cuối cùng họ gửi cô đến một thành phố lớn để mong tìm những chuyên viên chữa trị căn bệnh lạ của cô. Bác sĩ Howard Kelly được mời đến để chẩn bệnh. Khi nghe nói đến tên thành phố cũ của mình, mắt ông ánh lên một cách lạ lùng. Ông đứng dậy ngay để xuống phòng khám. Trong chiếc áo trắng của bác sĩ, ông đến gặp và nhận ra cô ngay. Ông trở về phòng khám và quyết tâm chữa cứu người phụ nữ ấy cho bằng được. Kể từ ngày hôm đó, ông nghiên cứu và theo dõi kỹ tình trạng sức khoẻ của cô. Sau những ngày cam go, căn bệnh đã thua cuộc.

Bác sĩ yêu cầu phòng tài chánh chuyển hoá đơn tính tiền viện phí của cô để cho ông phê trước. Ông nhìn vào tờ hóa đơn, rồi ghi vài chữ bên lề trước khi gửi đến cho cô. Cô rất sợ phải mở tờ hóa đơn ấy ra, vì cô biết rằng cô sẽ trả món nợ ấy suốt cả đời mình. Cuối cùng, cô cũng phải nhìn xuống hoá đơn và dừng lại để ý đến hàng chữ bên lề. Cô đọc thấy: “Đã thanh toán đầy đủ bằng một ly sữa!” Ký tên: Bác sĩ Howard Kelly.

Mắt cô đẫm lệ vì vui mừng và từ trái tim ngập tràn hạnh phúc vươn lên lời nguyện cầu: “Tạ ơn Chúa! Chính Tình Yêu của Chúa đã lan truyền sang quả tim và bàn tay của con người.”

Cậu bé ngày xưa được tặng một ly sữa trong cơn đói đã trở thành Tiến Sĩ y khoa Howard Kelly, ông đã từng là một bác sĩ lỗi lạc tài ba. Năm 1895 chính ông là người sáng lập Johns Hopkins Division of Gynecologic Oncology (Phân khoa Ung Thư Phụ Sản) tại Đại Học Johns Hopkins, trường Đại Học đầu tiên của Hoa Kỳ dành cho việc nghiên cứu y khoa, được thiết lập năm 1876, tại Baltimore, Maryland.

Bạn, có bao giờ trong cơn đói bạn đã nhận được một hành vi tử tế, và bạn đã đền đáp thế nào với cuộc đời và con người đã tử tế với bạn? Hoặc bạn đã và sẽ làm gì cho một ai đó trong nỗi đói khát tinh thần hay vật chất của một người thân thương hoặc tha nhân Chúa đang gửi đến trong đời?

 

89. Bà già bán rau

(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)

Ăn rau không chú ơi, ăn hộ mớ rau đi!

Một giọng khàn khàn, run run của một bà cụ già yếu, lưng còng cố ngước lên nhìn gã đàn ông, bên cạnh là mẹt rau chỉ có vài mớ rau muống xấu mà có lẽ có cho cũng không ai thèm lấy.

Gã liếc xuống nhìn xuống những mớ rau rồi đáp nhanh: Dạ cháu không bà ạ! Rồi phóng xe nhanh. Hắn nghĩ, mình thương người thì ai thương mình. Tiếng vọng của bà cụ vẫn con đó.

Lại có một cô gái nghe bà cụ mời mua rau. Rau như thế thì heo cũng không thèm ăn, nói chi người. Tiếng chát chua phát ra từ miệng cô.

Rồi có một người đàn ông khác đi đến, nghe thấy thế, liền hỏi giá bán rau, và mua hết số rau của bà già, nhưng cũng không quên dặn rằng: cho tôi gửi, khi về sẽ ghé lấy.

Ít hôm sau, người đàn ông ghé lại chỗ bà cụ bán rau. Người ta đang bàn tán về bà.

Anh hỏi có chuyện gì vậy, bà cụ bán rau đâu rồi?

Họ trả lời: Tội nghiệp bà cụ, già cả rồi, vậy mà hôm nọ có người mua rau rồi gửi lại, bà cố ngồi chờ để chủ đến lấy rau nhưng chẳng thấy họ đâu cả. Hôm đó trời lại mưa dữ dội suốt ngày, bà cụ cứ ngồi chờ đợi hoài trong giá rét. Vì lạnh quá bà già chịu không nổi, nên ngã bệnh và đã qua đời. (sưu tầm).

Câu truyện thật cảm động về cảnh nghèo của cụ bà. Tuổi già, đáng lẽ bà được nghỉ ngơi sống an nhàn bên đoàn con cháu. Vậy mà bà vẫn phải tần tảo bán rau kiếm sống qua ngày. Cảnh nghèo của bà thật cảm thương.

Đọc chuyện ai cũng cảm phục thái độ sống của bà. Bà không thất hứa cho dù mưa gió bà vẫn chờ đợi để trao tận tay những bó rau đã bán. Có lẽ đây cũng là một bà góa quá nghèo. Bà sống nghèo và chân thành. Bà giữ chữ tín nên đã chết trong mưa rét.

Phụng vụ Lời Chúa hôm nay kể chuyện hai bà goá. Một bà trong bài Tin Mừng một bà trong bài Sách Các Vua. Chúa Giêsu gặp bà góa trong sân Đền Thờ Giêrusalem. Tiên tri Êlia gặp bà góa ở xứ Serepta. Một bà đã dâng vào thùng tiền Đền thờ hai đồng kẽm và một bà đã cho tiên tri Êlia một chiếc bánh nhỏ.

Thời Êlia, khi Thiên Chúa làm hạn hán trên đất nước Do Thái để phạt vua tôi của nước này, vị ngôn sứ được lệnh Chúa tạm lánh sang xứ Sarepta. Ở đó, Êlia gặp một phụ nữ đầy lòng tin cậy vào lời hứa của Chúa. Bà đã dâng chút bột và dầu ít ỏi làm bánh nuôi ngôn sứ. Lương thực còn lại để nuôi sống gia đình, bà đã giúp Êlia. Bà góa có tấm lòng quảng đại nên Chúa đã chúc phúc cho bà: “Hũ bột đã không vơi, vò dầu đã chẳng cạn, đúng như lời Đức Chúa đã dùng ông Êlia mà phán”.

Một bà góa thời Chúa Giêsu. Gầy gò bé nhỏ, nghèo nàn. Bà đem hai đồng tiền kẽm là tất cả những gì bà có và dâng vào Đền thờ. Rất nhiều người bỏ nhiều tiền vào hòm tiền. Chúa quan sát và khen bà góa đã bỏ nhiều hơn ai hết.

Hai bà góa có một đặc điểm giống nhau. Đó là họ đã dâng tất cả những gì cần thiết nhất cho cuộc sống của gia đình. Bà góa tại Sarepta dâng nắm bột chút dầu cuối cùng. Bà góa tại đền thờ dâng những đồng tiền cần thiết nhất của mình.

Hai bà góa được đề cao có phải vì quà tặng mà họ đã cho không? Hiển nhiên là không. Hai đồng kẽm thì có đáng là bao. Một chiếc bánh nhỏ thì có thấm tháp gì! Thánh Kinh đề cao họ là vì quà tặng ấy tuy nhỏ mọn mà gói ghém cả tấm lòng người dâng. Đồng kẽm của bà goá bỏ vào thùng tiền Đền thờ là cả tấm lòng của một bà già nghèo, là cả tài sản của bà. Chiếc bánh nhỏ của bà goá xứ Sarepte là cả một cuộc sống của hai mẹ con trong lúc sắp chết đói.

Của cho không bằng tấm lòng người cho. Cho của mình dư thừa thì chẳng đáng quý. Cho cái mình đang cần mới là thật quý. Cho cái mình vừa cần vừa tiếc mới là quý nhất. Của cho không bằng tấm lòng người cho. Của nhiều mà lòng ít thì không quý cho bằng của ít mà lòng nhiều.

Hai bà góa được đề cao là vì lòng yêu mến đối với người của Chúa và đối với nhà của Chúa. Họ được đề cao nhờ lòng yêu mến Chúa. Chính lòng yêu mến đã làm cho những hành động của hai bà góa có được một giá trị to lớn trước mặt Chúa.

Biết bao người giàu có quý phái sang trọng bỏ tiền vào Đền thờ, thế mà Chúa chẳng khen ai. Chúa chỉ khen bà góa và cho rằng bà này bỏ nhiều hơn những người khác: “Quả vậy, mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để sống”. Bà goá bỏ tiền ít hơn mọi người, nhưng dưới mắt Chúa Giêsu, bà đã bỏ nhiều hơn cả, vì bà đã bỏ tất cả. Của dâng cúng của bà góa, xét về số lượng chẳng có là bao, nhưng về chất lượng lại đong đầy đức tin, đức cậy và đức mến.Chúa đánh giá không dựa theo khối lượng nhưng dựa theo chất lượng. Chúa không nhìn bề ngoài nhưng nhìn vào tấm lòng.

Lối đánh giá của Chúa Giêsu giúp ta xét lại lối đánh giá của mình về người khác. Lắm khi ta cứ theo hình dáng bề ngoài, theo y phục, theo tiền của mà đánh giá. Chuộng hình thức hơn nội dung. Thích thành tích hơn thực chất.

Thời đại ngày nay, người ta bị hấp dẫn về mẫu mã, quảng cáo, tuyên truyền, hơn là chất lượng sản phẩm. Hàng hóa thực phẩm giả dối lan tràn khắp nơi, gây nên biết bao tai họa.

Lối đánh giá của Chúa Giêsu cũng đòi ta xét lại lối đánh giá của mình về chính mình.Nhiều khi làm điều tốt cho ai, ta cũng mong được hoàn trả cách này cách khác.Có khi mong được trả lại tương đương hay hậu hỹ hơn.Có khi mong trả lại bằng một bia đá ghi công hay một lời tri ân. Ta cảm thấy buồn, đau khổ khi bị chê, tự mãn khi được người khác khen.

Đối với Thiên Chúa, điều quan trọng không phải là bao nhiêu, nhiều hay ít, mà là với trọn tấm lòng. Cách cho quý hơn của cho. Của cho kèm theo tấm lòng là quà tặng quý hóa nhất. Của cho không bằng tấm lòng người cho. Và cho chính cái mình quý nhất mới là cái cho lớn nhất, giá trị nhất. Bà góa đã cho nhiều nhất vì đã cho cả tấm lòng. Theo số lượng thì một phần tư đồng xu là quá ít ỏi. Có thể hai đồng đồng kẽm mua được một ổ bánh mì, một lon gạo, một bó rau đủ để nuôi sống bà trong ngày hôm đó. Bà góa cũng không sợ bị chê cười vì bỏ quá ít so với người khác. Bà chấp nhận mình thấp hèn thua kém người khác. Nhưng với Chúa Giêsu, hai đồng tiền nhỏ của bà lại nhiều hơn hết. Không phải số lượng việc làm hay tiền của dâng cúng mà Thiên Chúa yêu thích, nhưng là một tấm lòng thuộc trọn vẹn về Người.

Thánh Maccô mô tả sự tương phản: các Kinh sư xúng xính trong bộ áo thụng, bà goá đơn sơ nghèo nàn. Bà góa không lo lắng cho chính mình mà chỉ hướng về Thiên Chúa. Bà dâng cúng tất cả những gì đang có vào đền thờ. Bà không lo đến tương lai, không lo ngày mai sẽ ra sao, bà chỉ biết phụng sự. Bà thật là người thành tâm, thiện chí. Các Kinh sư làm việc đạo đức chỉ vì muốn có danh lợi và địa vị. Họ mặc lễ phục trịnh trọng, làm bộ đọc kinh nguyện lâu giờ chỉ để cầu mong được kính trọng chào hỏi, muốn ngồi chỗ danh dự nhất, lo kiếm được nhiều tiền của biếu tặng. Các Kinh sư chỉ nghĩ đến mình và tận dụng mọi sự, mọi người và ngay cả việc thờ phượng Thiên Chúa để làm giàu cho riêng mình.

Việc từ thiện, việc đạo đức, nếu không có lòng yêu mến thì chỉ là phương tiện tìm danh giá và tìm lợi nhuận. Hạng người như thế ở thời đại nào và ở đâu cũng có với những cách thức khác nhau. Họ là tỷ phú hay triệu phú, họ bỏ ra một vài triệu để đóng góp vào công việc từ thiện hay xây cất những công trình công cộng với động lực chính là mua tiếng tăm.

Lắm người có địa vị cao nhưng tâm hồn lại thấp. Có những người nghèo khó nhưng tâm hồn rất cao thượng. Có những người giàu có nhưng rất bủn xỉn. Có những người nghèo khổ nhưng rất quảng đại.

Nhiều người giàu tiền giàu của nhưng lại rất nghèo vì họ không có gì để cho người khác. Họ nghèo lòng nhân ái, nghèo sự cảm thông và nghèo lòng trắc ẩn. Ngược lại, có những người rất nghèo vật chất nhưng lại thật giàu có vì họ luôn có gì đó để sẻ chia. Họ giàu lòng nhân ái, giàu lòng vị tha, giàu tình thương mến.

Mẹ Têrêxa kể lại một câu chuyện. Một ngày nọ, mẹ đi xuống phố và một người ăn mày đến gặp mẹ và nói: “Thưa mẹ Têrêxa, mọi người đều cho mẹ tiền. Tôi cũng muốn cho mẹ tiền. Hôm nay, suốt cả ngày, tôi chỉ có được ba mươi xu. Tôi muốn cho mẹ số tiền ấy”.

Mẹ Têrêxa suy nghĩ một lúc: “Nếu tôi lấy ba mươi xu thì tối nay anh ta sẽ phải nhịn ăn; còn nếu tôi không lấy, tôi sẽ làm tình cảm anh ta tổn thương. Vì thế tôi đưa tay ra để lấy số tiền ấy. Tôi chưa bao giờ thấy được niềm vui như thế trên khuôn mặt ai như trên khuôn mặt của người ăn mày đó khi anh ta nghĩ rằng mình cũng đã cho tiền mẹ Têrêxa”.

Mẹ Têrêxa nói tiếp: “Đối với người đàn ông nghèo này, phải ngồi suốt cả ngày để chỉ xin được ba mươi xu. Đẹp biết bao, ba mươi xu như thế là một món tiền nhỏ, và có thể tôi chẳng mua được gì nhưng vì anh ta đã cho nó và tôi đã lấy nó, nó trở nên gấp ngàn lần bởi vì nó đã được cho với bao yêu thương. Thiên Chúa nhìn thấy không phải là sự to tát của công việc, mà vào tình yêu thương qua đó công việc được hoàn thành”.

Thiên Chúa nhận định giá trị về một con người không dựa trên những gì họ có mà dựa trên những gì họ đã cho đi. Ai không bao giờ biết cho đi mới thực sự là người nghèo khốn cùng. Người ta có thể dâng thật nhiều cho Thiên Chúa, nhưng bao lâu người ta chưa dâng chính mình hay ít nữa những gì thuộc về bản thân, những gì liên hệ tới chính con người của mình thì kể là người ta chưa dâng hiến gì cả.Mẹ Têrêxa nói: “Khi ta trao tặng một món quà, mà nếu là một mất mát hy sinh lớn đối với ta, thì đó mới thật là món quà”.

Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết sống quảng đại với Chúa và với tha nhân. Amen.

 

90. Chuyện sang, hèn

(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)

Người Việt thường dùng cách nói: Giàu sang và nghèo hèn. “Giàu” thường kèm theo “sang”, còn “nghèo” thường kèm theo “hèn”. Nhưng thực ra có khi “giàu” mà không “sang”, hoặc “nghèo” mà không “hèn”.

Chắc hẳn không ai muốn nghèo, và càng chắc chắn hơn là chẳng ai muốn hèn. Cũng vậy, ai cũng muốn mình giàu và sang. Nhưng người chịu cảnh “đời hèn” khác hẳn với người “sống hèn”. Người nghèo bị coi là hèn, nhưng có thể người đó không hề sống hèn; còn người giàu luôn được coi là sang, nhưng chưa hẳn đã “sống sang” mà thậm chí còn “sống hèn”. Đó mới là chuyện đáng nói!

Người ta nói vui: “Đi xe lẹ hơn đi bộ, đi bộ ngộ hơn đi xe”. Chưa chắc ai hơn ai! Tiền nhân cũng đã phân tích và xác định rõ ràng:

Chớ thấy áo rách mà cười

Những giống gà nòi lông nó lơ thơ

Ở đời, người ta không chỉ “đi” bằng đôi chân mà còn phải “đi” bằng cái đầu. Hơn thua nhau là “cách đi”.

Một hôm, ông Êlia đi Xarépta. Khi đến cổng thành, ông thấy có một bà goá đang lượm củi. Ông gọi bà ấy và nói: “Bà làm ơn đem bình lấy cho tôi chút nước để tôi uống” (1 V 17:10). Bà ấy liền đi lấy nước. Ông gọi bà và nói: “Bà làm ơn lấy cho tôi miếng bánh nữa!” (1V17:11). Bà trả lời: “Có Đức Chúa, Thiên Chúa hằng sống của ông, tôi thề là tôi không có bánh. Tôi chỉ còn nắm bột trong hũ và chút dầu trong vò. Tôi đang đi lượm vài thanh củi, rồi về nhà nấu nướng cho tôi và con tôi. Chúng tôi sẽ ăn rồi chết” (1 V 17:12). Nhưng ông Êlia liền nói: “Bà đừng sợ, cứ về làm như bà vừa nói. Nhưng trước tiên, bà hãy lấy những thứ đó mà làm cho tôi một chiếc bánh nhỏ, và đem ra cho tôi, rồi sau đó bà sẽ làm cho bà và con bà” (1 V 17:13). Rồi ông nhắc lại lời hứa của Thiên Chúa: “Hũ bột sẽ không vơi, vò dầu sẽ chẳng cạn, cho đến ngày Đức Chúa đổ mưa xuống trên mặt đất” (1 V 17:14).

Bà góa ấy đi và làm như ông Êlia nói, không hề đắn đo hoặc so hơn tính thiệt. Điều đó chứng tỏ bà ấy có lòng tin mạnh mẽ, vì bà ấy tin ông Êlia nói thật, đặc biệt là bà ấy vững tin vào lời Chúa hứa. Và phép lạ đã xảy ra đúng như vậy: Bà ấy cùng với ông Êlia và con bà có đủ ăn lâu ngày. Hũ bột đã không vơi, vò dầu đã chẳng cạn, đúng như lời Đức Chúa đã dùng ông Êlia mà phán. Quả thật, bà góa này nghèo khổ nhưng vẫn “sống sang”, vẫn trọn lòng yêu thương và bác ái.

Cấp độ yêu thương đó mới là bác ái – bình thường thì chúng ta chỉ ở mức bố thí (cho để tránh bị quấy rầy) hoặc công bằng (dư thì cho, thậm chí chỉ là đồ thừa). Bác ái cho cái mà mình vẫn cần, đó là cấp độ yêu thương cao nhất. Những người sống bác ái thực sự mới đúng là thánh nhân!

Thiên Chúa là nguồn sống và nguồn yêu thương: “Ngài là Đấng giữ lòng trung tín mãi muôn đời, xử công minh cho người bị áp bức, ban lương thực cho kẻ đói ăn” (Tv 146:7a). Chính Ngài “giải phóng những ai tù tội, mở mắt cho kẻ mù loà, cho kẻ bị dìm xuống đứng thẳng lên, yêu chuộng những người công chính, phù trợ những khách ngoại kiều, nâng đỡ cô nhi quả phụ, phá vỡ mưu đồ bọn ác nhân” (Tv 146:7b-9). Thiên Chúa yêu quý và tôn trọng những người nghèo khổ và hèn mọn, không thích “quen thân” với những người giàu có và sang trọng. Thế còn chúng ta thì sao?

Tình yêu của Ngài là thế đấy, Thánh Tâm Chúa Giêsu là vậy đó, theo cách gọi mới của ngày nay là Lòng Chúa Thương Xót. Tất cả vẫn chỉ là một. Vâng, chính Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, là Đấng “nắm giữ vương quyền muôn muôn thuở và hiển trị ngàn đời” (Tv 146:10), cao sang là thế, uy quyền là thế, giàu có là thế, nhưng Ngài lại chỉ thân thiện với những người bị xã hội ruồng bỏ. Ai sống như Ngài mới đích thực là đệ tử của Ngài.

Thánh Phaolô minh định: “Đức Kitô đã chẳng vào một cung thánh do tay người phàm làm ra, vì cung thánh ấy chỉ là hình bóng của cung thánh thật. Nhưng Ngài đã vào chính cõi trời, để giờ đây ra đứng trước mặt Thiên Chúa chuyển cầu cho chúng ta” (Dt 9:24). Ngài vào đó, không phải để dâng chính mình làm của lễ nhiều lần, như vị thượng tế mỗi năm phải đem theo máu của loài khác mà vào cung thánh. Chẳng vậy, “Ngài đã phải chịu khổ hình nhiều lần, từ khi thế giới được tạo thành” (Dt 9:26a).

Thánh Phaolô cho biết thêm: “Vào kỳ kết thúc thời gian, Ngài đã xuất hiện chỉ một lần, để tiêu diệt tội lỗi bằng việc hiến tế chính mình” (Dt 9:26b). Con Thiên Chúa đã chịu chết để cho phàm nhân chúng ta biết thân phận mình cũng phải chết, chết cho tội lỗi: “Phận con người là phải chết một lần, rồi sau đó chịu phán xét” (Dt 9:27). Chính Đức Kitô đã “tự hiến tế chỉ một lần để xoá bỏ tội lỗi muôn người” (Dt 9:28a). Và Ngài sẽ xuất hiện lần thứ hai, nhưng lần này “không phải để xoá bỏ tội lỗi, mà để cứu độ những ai trông đợi Ngài” (Dt 9:28b).

Những người trông đợi Đức Kitô giáng lâm là ai? Đó là những người tín thác vào Chúa, ai tín thác vào Chúa thì phải sống đức tin, mà người có đức tin thì phải yêu thương tha nhân, nhưng yêu tha nhân không phải yêu thương người cùng phe với mình, người giàu sang, người có địa vị, người có quyền thế,… mà PHẢI thành tâm yêu thương những người khốn cùng trong xã hội, yêu bằng hành động thực tế chứ không yêu bằng lời nói suông. Đó là thể hiện đức tin, là thực hành Lòng Chúa Thương Xót, và cũng là thực hành Giáo huấn Xã hội Công giáo!

Trong một lần giảng dạy, Đức Giêsu nói: “Anh em phải coi chừng những ông kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng. Họ ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc. Họ nuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ. Những người ấy sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn” (Mc 12:38-40). Đọc câu này của Chúa Giêsu, có lẽ chúng ta nghĩ Ngài nói người khác chứ mình không liên quan. Lầm to. Ngài nói thẳng với mỗi chúng ta chứ “còn ai trồng khoai đất này” nữa? Chúng ta không có vẻ vênh vang ra mặt, nhưng chúng ta có cách thể hiện “ta đây” một cách rất tinh vi, người ngoài khó có thể nhận ra.

Người xưa thường mặc khăn đóng và áo dài, nhất là người có chức có quyền, nhưng họ có hai loại áo dài: Một loại có vạt trước ngắn (vạt sau dài), một loại có vạt sau ngắn (vạt trước dài). Áo gì kỳ vậy, và để làm gì?

Khi đứng trước vua chúa hoặc ông quan lớn hơn mình, họ mặc áo-dài-vạt-trước-ngắn. Nghĩa là họ phải khom lưng, phải qụy lụy, chịu “lép vế”, chịu luồn cúi,… Nhưng khi đứng trước đám dân đen, họ mặc áo-dài-vạt-sau-ngắn. Nghĩa là họ ưỡn ngực, cao ngạo, vênh vang, hống hách, thị uy, truyền lệnh, hét ra lửa,…

Mỗi chúng ta cũng thường có hai loại áo ấy để… “tùy cơ ứng biến”. Nhưng những loại “áo đặc biệt” đó ngày nay là loại “siêu trang phục”, khó phát hiện vạt nào dài và vạt nào ngắn!

Vào Đền Thờ hôm đó, Đức Giêsu ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ. Ngài quan sát xem đám đông bỏ tiền vào đó ra sao. Có lắm người giàu bỏ thật nhiều tiền. Cũng có một bà goá nghèo đến bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng xu Rôma.

Thấy vậy, Ngài liền gọi các môn đệ lại và nói: “Thầy bảo thật anh em: bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết” (Mc 12:43). Quá “sốc”! Quá khó lọt tai! Nhưng lại hoàn toàn đúng, vì “mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi sống mình” (Mc 12:44).

Có nhiều người trong chúng ta vẫn ảo tưỏng đi làm từ thiện hoặc làm những việc mà chúng ta gọi là “việc bác ái” hoặc “việc tông đồ”, cho rằng như vậy là “oai” lắm, nhưng đôi khi chỉ là “chiếc áo tàng hình”. Lời Chúa hôm nay khiến chúng ta phải tự minh định lại động lực thúc đẩy mình hành động.

Đáng lưu ý là website CWN ngày 29-10-2012 đưa một tin ngắn về việc Đức TGM Socrates Villegas, TGP Lingayen-Dagupan (Philippines), viết thư gởi các linh mục thuộc giáo phận của ngài, trong đó ngài nhấn mạnh: “Chư huynh linh mục thân mến, các bí tích không được cử hành để lấy tiền. Thương mại hóa sự thánh thiêng là buôn thần bán thánh (practice of simony). Đó là tội lỗi”. Giám mục cương quyết như vậy mới đúng là chủ chăn đích thực của Chúa, vì lợi ích cho Chúa và dân Chúa.

Đó là một trong những điều khiến chúng ta phải “giật mình” mà phải “xét mình” nghiêm túc hơn, trước khi Đức Kitô đến thế gian lần thứ hai để xét xử!

Lạy Thiên Chúa, chúng con cúi đầu và đấm ngực mà xin lỗi Chúa, xin giúp chúng con biết noi gương Con Chúa là sẵn sàng chia sẻ mọi nỗi đau những con người nhỏ bé nhất hằng ngày ở bên cạnh chúng con, bằng cách mở rộng tấm lòng và mở rộng đôi tay để sáng danh Chúa chứ không vì danh tiếng của chúng con, để cứu các linh hồn, và để đền tội riêng của chúng con. Xin cậy nhờ công nghiệp của Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.

 

91. Đồng tiền bà góa nghèo

(Suy niệm của Lm. John Nguyễn)

Mẹ Têrêsa Calcutta kể lại câu chuyện về lòng quảng đại của người ăn xin. Vào một ngày nọ, mẹ đi bộ xuống các con đường thăm sóc những người vô gia cư thì gặp được một người ăn xin chạy đến nói với mẹ rằng: “Thưa mẹ Têrêsa, nhiều người đưa tiền cho mẹ để giúp đỡ những người nghèo đói, và con cũng muốn đưa cho mẹ số tiền này. Cả ngày hôm nay, con chỉ xin được 30 cents, con xin đưa cho mẹ”. Mẹ suy nghĩ trong giây lát, rồi nói: “Nếu tôi nhận 30 cents của ông thì ông có gì để ăn tối nay, và nếu tôi từ chối thì ông rất buồn”. Sau đó, mẹ Têrêsa đón nhận món quà của ông, mẹ nhìn thấy gương mặt của ông ta rất vui vẻ và phấn khởi chưa bao giờ mẹ gặp một người nào có thái độ vui mừng như vậy.

Người ăn xin này rất vui khi được góp một phần nhỏ bé của mình khi trao món tiền nhỏ bé của ông ta cho mẹ Têrêsa, điều này có lẽ khác với cách suy nghĩ của nhiều người hôm nay. Một người ăn xin lại cho đi cái mình xin từ người khác. Với cuộc sống cơm áo gạo tiền, chúng ta hiếm thấy có những người cho đi chính cái mình đang cần để nuôi thân. Xã hội ngày nay đang biến con người ta chạy theo đồng tiền, hưởng thụ và danh vọng thì đâu đó cũng có những con người cao thượng và lòng quảng đại với những người kém may mắn hơn mình. Trong thời đại nào cũng có kẻ giàu người nghèo; người tốt kẻ xấu, người lương thiện kẻ bất lương; người thật kẻ giả dối. Câu chuyện của bà góa là đại diện cho tầng lớp nghèo nhưng lại có một tấm lòng quảng đại. Bà được Chúa Giêsu khen ngợi là người dâng cúng nhiều nhất trong số đám đông người giàu bỏ tiền vào thùng dâng cúng cho đền thờ, bởi vì bà cho đi tất cả những gì bà có, bà đang cần. Chúa Giêsu nhìn đến tấm lòng của bà hơn là số tiền bà bỏ vào.

Có lẽ, điều này đi ngược lại với con mắt của đám đông, họ coi việc bà góa bỏ hai đồng tiền có đáng là bao so với họ, họ nghĩ việc làm của họ có công đức trước mặt Chúa, nhưng trong con mắt của Chúa Giêsu thì bà là người bỏ nhiều nhất. Ngài gọi các tông đồ đến để giải thích cho họ hiểu ý nghĩa của việc dâng cúng và việc làm bác ái của dân chúng. Trong số đám đông đó có cả các kinh sư, họ là người bị Chúa Giêsu lên án bởi cách sống giả tạo, họ mặc bộ áo thụng xúng xính, thích người ta chào hỏi nơi công cộng, chiếm chỗ nhất trong đám tiệc, nuốt tiền của các bà góa nhẹ dạ, làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ. Họ sẽ bị kết án nghiêm trọng hơn.

Đối chiếu với những gì Chúa Giêsu lên án các kinh sư trong bài Tin Mừng hôm nay, tôi nhìn thấy bóng dáng mình trong số đám đông này chăng! Và đây có phải là điều nghịch lý với cách suy nghĩ của chúng ta hiện nay không? Chúng ta có cảm thấy đau khi bị Chúa đụng chạm nơi thẳm sâu của lòng tham lam tiền bạc, chức quyền, và của hố sâu của tội lỗi bởi dục vọng, ích kỷ, mưu mô và tính toán của chúng ta không?

Tôi thường sống theo cách đánh giá bởi người chung hơn là kính sợ Chúa nhìn về mình. Theo cách đáng giá con người của người đời bảo tôi là người có công đức trước mặt Chúa, vì tôi dâng cúng cho nhà Chúa nhiều, tôi làm việc bác cho người nghèo, đọc kinh dự lễ đầy đủ và biết bao nhiêu công trạng khác, tôi đã và đang làm, tôi được ghi tên đứng đầu trong hàng ghế danh dự trong nhà thờ, được khắc tên trên tường, được mọi người tôn vinh công đức trước công đoàn. Điều này không có gì sai, đó là cách đánh giá theo số lượng về tiền cải, công sức và vật chất, nhưng tất cả những điều đó chưa đủ, bởi vì cách tôi ban tặng chỉ là cái dư thừa, tôi làm để được người khác đánh giá và nhìn nhận, chứ không phải vì lòng mến, thì nó chẳng có công trạng gì trước mặt Chúa, mà nhiều lần Chúa đã cảnh cáo bọn biệt phái:” Dân này thờ kính Ta bằng môi miệng, nhưng lòng chúng lại xa Ta.” Chúa nói những người giàu có chỉ cho cái dư thừa, mà họ đem bỏ vào vào đó, còn người đàn bà góa bỏ vào đó tất cả những gì bà có, ngay cả khi bà đang túng thiếu, bà cần cái để nuôi thân. Tiêu chuẩn đánh giá của Giêsu dường như đại diện cho tiêu chuẩn của Thiên Chúa, đó là, không phải qua số lượng tiền mà là tính cách toàn thể của những gì được dâng và tương quan của những gì được dâng đối với người dâng cúng. Giêsu nói rằng, bà đã “bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi sống mình” như là cách ám chỉ việc tích trữ kho tàng trên trời. Một người ăn xin cho mẹ Têsêsa 30 cent, mà ông ta xin được cả ngày giữa trời năng so với một nhà giàu cho 300 đô. Chắc chắn mẹ Têrêsa vẫn quý và trân trọng với 30 cent của người ăn xin này.

Đối với Chúa Giêsu, Ngài cần tấm lòng hơn của lễ. Vì của lễ chúng ta chẳng mang lại gì cho Chúa, nhưng tấm lòng đó để biết chia sẻ với anh em đồng loại. Đó là giới luật yêu thương. “Kính Chúa yêu người.” Ngài cần chúng ta làm điều đó với con mắt thánh thiện thì mới có thể nhìn ra giá trị của lòng bác ái khi ta cho đi, chính là sự trân trọng và tình yêu thương. Việc làm nhỏ bé của bà góa nghèo hôm nay có thể là một bài học cao quý cho mọi người chúng ta biết cho đi mà không tính toán, biết làm việc mà không cần đền đáp.

Tóm lại, Chúa Giêsu dùng hình ảnh bà góa này, để dạy chúng ta cách đánh giá và nhìn nhận về việc dâng cúng tiền của cho Giáo hội cũng như trong công việc bác ái chúng ta làm. Hãy làm vì danh Chúa, chứ đừng làm vì sáng danh mình, muốn được ghi danh và người đời ca tụng, nó giống như vỏ chấu cuốn đi và chẳng mang lại lợi ích cho phần rỗi linh hồn. Lòng bác ái chỉ có giá trị đích thực khi con tim ta thuộc về Trái Tim của Chúa. Amen.

 

92. Chúa Nhật 32 Thường Niên

(Suy niệm của Lm. Sean O’Brien – JB. Đào Ngọc Điệp, chuyển ngữ)

Chúng ta có thể thấy một chút ngộ nghĩnh vì bài đọc I và bài Tin Mừng đi song song với nhau. Trong bài Phúc âm (bài đọc dài), Đức Kytô cực lực chỉ trích đám Pha-ri-si ngày xưa hoặc ngày nay vì họ coi mình là quan trọng hơn khi họ lợi dụng người khác và chiếm đoạt tài sản của người khác. “Họ  nuốt chửng nhà cửa của các bà góa,” vì ngôi nhà có nghĩa là sự sống còn của một người. Đức Kitô lên án những người ấy, đặc biệt là những người lãnh đạo, vì họ chuyên rình rập các góa phụ và những người yếu thế khác.

Thế rồi tiên tri Ê-li-a xuất hiện. Ông đến nhà một bà góa và ông làm gì? Ông xin bà đem cho ông chút lương thực cuối cùng của gia đình bà. “Này bà, hãy cho tôi lương thực của bà. Đó là của tôi.” Ê-li-a không phải là một vị tiên tri xấu. Tuy nhiên, Thiên Chúa muốn sử dụng Ê-li-a và lòng quảng đại đầy tin tường của người phụ nữ kia để nâng đỡ sự thiếu thốn của bà ấy trong hoàn cảnh khó khăn. Người hùng trong câu chuyện này chính là người phụ nữ! Theo kinh nghiệm của bà, càng cho đi nhiều thì càng nhận được lại nhiều hơn.

Thế nên, chúng ta có thể đặt nghi vấn: “Vậy có phải Thiên Chúa ban cho chúng ta Tin Mừng của sự giàu có không? Nếu tôi cho đi, liệu Chúa có hứa sẽ cho tôi còn nhiều hơn không? Tôi có thu hoạch được nhiều hơn những gì tôi đã gieo trồng không?”. Chúng ta tin chắc không phải như vậy. Chúng ta tin rằng bổn phận của chúng ta là vâng lời và quảng đại, còn công việc của Thiên Chúa là ban phát cho chúng ta. Chúng ta không tin rằng Chúa sẽ làm chúng ta nên giàu có, nhưng chúng ta tin rằng chúng ta sẽ có được những gì chúng ta cần. Thí dụ, ở phần kết bài Phúc Âm, bà góa sau khi đã dâng cúng hai đồng tiền kẽm liệu có trở thành một phụ nữ giàu có không? Không. Chúa Giê-su đã không nhân lên số tài sản ít ỏi của bà ấy.

Chúa Giê-su không lên án Ê-li-a. Chúa Giê-su cũng không hứa ban cho chúng ta Tin mừng của sự giàu có. Nhưng đây là những gì Người muốn nói: Bạn hãy cho đi tất cả những gì bạn có. Bà góa đã cho ông Ê-li-a tất cả những gì bà có, cho dù làm như thế là bà sẽ chết đói. Bà đã dâng cho Chúa tất cả những gì bà có. Thế nhưng điều gì đã xảy ra với bà? Sau hành vi bác ái và thực thi đức tin triệt để, bà góa kia được ca tụng hằng ngàn năm nay rồi.

Một số người trong chúng ta có thể đã ý thức việc đóng góp cho Giáo Hội hoặc ý thức về thuế thập phân. Đây là những gì tôi đã nghe: đóng góp 10 phần trăm lợi tức: chia ra 5 phần trăm cho giáo xứ, 2.5 phần trăm cho giáo phận và 2.5 phần trăm cho tổ chức từ thiện. Cũng có những xê xích khác nhau. Khi còn bé, tôi có ba cái lọ: chi tiêu, tiết kiệm và chia sẻ. Điều đó có nghĩa là tôi đã đóng góp 33 phần trăm cho thuế thập phân của mình (từ tithe xuất phát từ chữ “tenth – 10/100” trong tiếng Anh cổ)— như vậy cha mẹ tôi đã để bọn trẻ chúng tôi vượt quá chỉ tiêu rồi!. Tôi không chê trách những điều này. Đây là một linh đạo thực dụng rất hữu ích, nhưng quan trọng là chúng ta đang ở trong chân lý của linh đạo Đức Giê-su. Nếu không có một linh đạo năng động đặt căn bản trên Đức Kytô thì việc cho đi này dễ trở thành trần tục và sòng phẳng tựa như ta trả thuế hay viết ngân phiếu để trả tiền điện.

Chúa Giê-su dạy chúng ta một linh đạo mới về việc cho đi bằng lời nói và việc làm. Trước hết bằng lời nói, Người ca ngợi kẻ biết cho đi “tất cả sự sống còn” của mình. Sự sống còn có nghĩa là tiền bạc, chắc chắn như vậy. Nhưng hãy thử nghĩ xem nó còn nghĩa nào khác nữa không: nó cũng nghĩa là công ăn việc làm của tôi, là cách sống của tôi, là thú cưng của tôi, là gia đình của tôi, là thời gian của tôi. Tôi đã trao phó toàn bộ sự sống còn của mình cho Người chưa? Tôi có để Chúa sắp đặt ngân sách của tôi không? Làm chủ thời khóa biểu hàng ngày và hàng tuần của tôi không? Người có ở trong những ưu tiên cõi lòng tôi không? Đâu là chỗ của Người trong danh sách “việc cần làm” của tôi cho lễ Giáng sinh? Hay tôi đã để thế gian điều khiển sắp xếp các giá trị của tôi? Đôi khi điều này xảy ra từ từ. Mới đây tôi đã nghe câu chuyện cơn nước lụt từ từ dâng cao cuốn trôi một chiếc RV khổng lồ vào đường cao tốc. Có thể chúng ta cười khi nghĩ rằng thế gian dẫn lối và kiểm soát quyết định của tôi, nhưng nếu chúng ta không tỉnh táo thì những dòng nước lũ kia của thế gian sẽ tiếp tục dâng cao đến mức chúng ta bị hoàn toàn mất chân đứng là Đức Kytô, rồi tôi bắt đầu bị trôi dạt đến bất cứ nơi nào dòng nước đó cuốn tôi đi.

Ý niệm Chúa Giê-su dạy chúng ta thực sự quan trọng hơn. Chúng ta đã nghe điều gì trong bài đọc thứ hai trích thư Do-thái? Bài thánh thư nói về chức tư tế muôn đời của Chúa Giêsu. Từ “dâng hiến” được lặp lại hai lần. Điều đó có ý nghĩa gì? Chúa Giê-su có hiến dâng 50 phần trăm cuộc đời Người cho chúng ta không? Xin lỗi vì tôi hơi ngớ ngẩn, nhưng chỉ là ngớ ngẩn khi chúng ta biết những gì Người đã dâng hiến và cách Người dâng hiến như thế nào. Người đã hiến dâng chính thân mình. Và Người đã tự hiến trọn vẹn, vì chỉ nhờ cái chết mới có thể chứng minh điều ấy. Và Người đã làm như vậy vì yêu chúng ta, để cứu chúng ta. Bà góa cứu ngôn sứ Ê-li-a đã dâng sự sống còn của bà cho Ê-li-a vào lúc bà có nguy cơ chết đói. Giờ đây, Chúa Giê-su hoàn tất lòng quảng đại hải hà này. Chúa đã cho đi tất cả vì chúng ta, tất cả vì tình yêu.

Chức tư tế của Chúa Giêsu có ý nghĩa gì đối với chúng ta? Khi chịu Phép Rửa, chúng ta được chia sẻ một phần vào chức tư tế của Người – không phải theo cách thừa tác viên linh mục như tôi, nhưng tất cả chúng ta đều chia sẻ nó theo một cách nào đó. Giống như Đức Kytô đã chết vì tội lỗi chúng ta, chúng ta cũng phải chết đi cho tội lỗi và những sự thuộc thế gian. Những việc này sẽ trở thành một lời kinh nguyện. Sự hy sinh của chúng ta là một lời kinh nguyện. Chúng ta là những người chia sẻ chức tư tế của Người. Chúng ta dâng lên Ngài sự sống còn của chúng ta. Và một trong những cách chúng ta có thể làm được điều đó là thường xuyên dâng cúng cho Giáo hội. Chúng ta dâng lên Người sự sống còn của chúng ta khi chúng ta cố gắng giúp chi trả các hóa đơn y tế cho một gia đình nghèo, khi chúng ta dành thời giờ cho một người chỉ cần ai đó biết lắng nghe họ, khi chúng ta cố gắng hết mình giúp đỡ một người không thể cắt nổi sân cỏ, khi chúng ta quyết tâm đến với ai đó (có thể là một người khá khó ưa) cần người bạn để nói về Chúa Kitô trong cuộc sống của họ.

Do việc xức dầu của Chúa trong bí tích Rửa tội, chúng ta có sức mạnh để vui lòng dâng hiến tất cả sự sống còn của chúng ta cùng với và nhờ chức tư tế của Chúa Giêsu Kytô. Đây mới là việc đóng góp đích thực cho Giáo hội. Tất cả những gì chúng ta đang có đã thuộc về Chúa Kytô rồi. Chúng ta chỉ đang giữ gìn chúng thôi. Nếu Đức Kytô đã làm điều đó cho chúng ta, thì chúng ta cũng phải làm điều đó cho Người. Lạy Chúa, xin nhận lấy tất cả những gì con có và tất cả những gì con là. Con xin đặt chúng trước mặt Chúa tại bàn thờ này, trong Thánh lễ này và vào lúc này. Amen.

Nguồn: https://www.hprweb.com/

 

93. Giá trị thực

(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)

Nhiều người dâng cúng tiền vào trong đền thờ. Đức Kitô ngồi đó quan sát họ. Trong số đó nhiều người giầu có cho những món tiền to; còn bà nghèo này cho gì mà khiến Đức Kitô vừa suy nghĩ lại lên tiếng làm đề tài giáo huấn cho các môn đệ. Rất khiếm có hành động của con người Đức Kitô mượn làm đề tài hướng dẫn, giáo dục, các tông đồ nhưng bà nghèo này đã làm được việc quan trọng đó. Bà đã dâng cúng thứ gì vào Đền thờ khiến Đức Kitô cho đó là quan trọng? Thưa bà dâng cúng hai đồng tiền kẽm có giá trị một xu bạc.

Xã hội chúng ta thường quan niệm người dâng cúng nhiều tiền vào đền thờ là người hảo tâm vì đã cho nhiều và kẻ cho ít hơn thì ít hảo tâm hơn. Đại đa số định giá trị trên số lượng tiền bạc dâng cúng mà ít quan tâm đến phẩm chất của tấm lòng chân thành người dâng cúng. Điều này không có gì sai trái vì xã hội chúng ta sống ảnh hưởng, lệ thuộc rất nhiều vào đồng tiền. Không có nó mọi sinh hoạt trong xã hội bị đình trệ và cuộc sống hàng ngày cũng gặp khó khăn. Đức Kitô không ngụ í chê trách nghĩa cử bác ái cao đẹp của người giầu có dâng cúng tiền vào đền thờ Ngài đưa ra nhận xét về tấm lòng của những người làm công việc bác ái. Chúng ta chú trọng vào số lượng vật chất dâng cúng, Ngài chú trọng vào tấm lòng của người dâng cúng. Bởi vì không phải tất cả mọi hành động, cử chỉ bác ái đều đến từ con tim yêu mến, đầy tình thương. Nhiều hành động bác ái thúc đẩy bởi hoàn cảnh và ảnh hưởng bởi suy tính của khối óc hơn là đến từ con tim yêu mến.

Đối với Đức Kitô chân giá trị của việc bác ái không được đo lường bằng số lượng vật chất dâng cúng mà đo bằng tấm lòng chân thành phát xuất tự con tim. Vật chất có giá trị vì con người tạo giá trị cho nó trong khi hành động bác ái thúc đẩy bởi con tim chân thành luôn phảng phất tình thương và lòng mến. Hành động đến từ con tim chân thành luôn mang hai giá trị tuyệt vởi thương và mến. Đức Kitô ca ngợi hành động bác ái của bà nghèo khó vì hành động đó đến từ con tim yêu mến, chân thành. Bà dâng cúng chỉ trị giá một xu nhưng đó là tất cả những gì bà có thể cho. Dù có muốn cho hơn nữa cũng không thể vì bà không còn gì để cho. Thực ra bà đã cho tất cả những gì bà có trong khi những người giầu có kia chỉ cho một phần của để dành được. Điều khác biệt nằm ở chỗ cho tất cả, không sót lại và cho một phần của dư để dành. Như thế hành động của bà đến từ tận trong con tim sâu thẳm vả cho tận tình; trong khi hành động của những người giầu có kia rất có thể đến từ con tim nhưng họ không cho tận tình. Nói cách khác người giầu có cho nhưng vẫn còn tính toán lo cho ngày mai, bà nghèo khó cho luôn cả ngày mai, những gì nuôi sống tương lai không được giữ lại nhưng mang cho. Có thể nói bả cho cả tương lai đời mình.

Bà không mặc cảm vì sống nghèo. Bà cũng không lo lắng về phẩn thưởng nhận lại từ việc bác ái. Bà chi biết cho mà không mong nhận trong khi người giầu có cho món tiền lớn nhận tiếng khen của đại chúng. Vì cho đi tất cả những gì mình có bả trở nên dại khùng trước cách lí luận của xã hội nhưng trước mắt Đức Kitô bà là người khôn ngoan biết đặt tương lai mình vào tình yêu Thiên Chúa.

Cách định giá việc làm của Đức Kitô không đặt nặng vào cho nhiều hay ít và cho thứ gì nhưng Ngài chú trọng vào việc làm thúc đẩy bởi con tim. Việc làm đến từ con tim luôn được Ngài cổ võ, khuyến khích. Bà nghèo được ngợi khen vì việc làm của bà thúc đẩy bởi con tim và làm với tâm lòng khiêm nhu.

 

94.  Vay dầu

(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)

Vay dầu là việc rất thường trong giới nông dân. Dầu dùng đốt đèn không mua nhiều. Một năm đi chợ vài lần, mỗi lần mua một lít, dùng hết lần sau đi chợ mua tiếp. Nhà mua hai lít vừa có dầu dùng quanh năm lại có dầu dư dự trữ coi như là giầu, thuộc giới trung lưu.

Gia đình nghèo thường tối thắp đèn mới biết là hết dầu. Trường hợp khẩn cấp như thế mẹ sai con mang cái chai vay mượn dầu, đốt tạm, qua đêm, khi nào ra phố chợ mua dầu về trả lại. Không may nhà kia cũng hết dầu, đành phải sang nhà khác mượn tạm. Dân quê không phải chỉ vay dầu mà đôi khi còn vay cả mỡ, nước mắm, muối. Sau này tình trạng nghèo đói khổ sở hơn nên có thêm tình trạng vay gạo. Không mấy ai vay đường, cafe hay rượu vì chúng thuộc vào hàng xa xỉ, hàng ăn chơi. Thiếu thì chịu khó nhịn, đi vay sợ thiên hạ chê cười. Thiếu ăn uống đã thấy khổ; thiếu ánh sáng, sống trong tối tăm, xem ra khổ sở hơn.

Dầu đốt đèn mang lại ánh sáng cho cả nhà, mặc dù lu mờ nhưng đủ soi sáng trong một vùng giới hạn nào đó. Ánh sáng đèn dầu mang lại tượng trưng cho sự khôn ngoan, ánh sáng trong tâm hồn. Gọi là ơn khôn ngoan vì ơn đó dẫn tâm hồn đến với Chúa. Ơn khôn ngoan soi sáng cho biết tâm hồn ta khao khát Chúa và chỉ trong Chúa linh hồn mới no thoả. Để tâm hồn no thoả không gì bằng sống vâng phục thánh ý Chúa vì thánh ý luôn hướng dẫn ta tới điều thiện hảo. Có thiện hảo là có niềm vui. Niềm vui có được vì tâm hồn bình an, hoan lạc. Tâm hồn an vui no thoả vì được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa, không còn đói khát chi.

Ơn khôn ngoan cần cho cả xã hội lẫn Giáo Hội. Ngoài xã hội ơn khôn ngoan giúp ta sống công chính, việc phải làm, điều phải tránh. Ơn khôn ngoan giúp suy tính hơn thiệt và biết chọn lựa điều tốt lành, ngay cả việc bảo vệ công lí.

Ơn khôn ngoan trong Giáo Hội giúp ta tiến trên đàng nhân đức, đàng lành thánh. Ơn khôn ngoan còn giúp ta biết vững lòng cậy trông vào Chúa khi hoạn nạn, tìm ủi an trong đau yếu bệnh tật, phó thác khi đối diện với gian nan, thất bại trên trường đời. Quan trọng nhất là ơn khôn ngoan giúp ta biết dâng lời cảm tạ khi thành công, mạnh khoẻ, cũng như khi gian nan, khốn khó. Nên nhớ mọi ơn đều do Chúa ban, ngay cả sức khoẻ, sự sống. Không dâng lời cảm tạ là sống vô ơn. Gặp gian khó luôn phó thác, không than phiền, phàn nàn nhưng kết hợp đau khổ đời ta với đau khổ thập giá Đức Kitô để cùng chia sẻ chén đắng với Ngài.

Phúc âm nhắc đến hai nhóm người cùng có chung mục đích là dự tiệc cưới, cùng chịu chung hoàn cảnh, chờ chàng rể đến trễ. Năm cô được liệt vào sổ khôn ngoan vì khi đi mang đèn có dầu kèm theo; năm cô liệt vào số khờ dại vì khi đi chuẩn bị mang đèn mà không mang dầu. Dầu cạn, các cô không biết tìm đâu ra nên bị loại, không được tham dự tiệc cưới. Hình ảnh đèn sáng trong tay trái nghịch hình ảnh cầm đèn hết dầu, u mê, tối tăm. Phải chăng hình ảnh đêm tối gắn liền với thất bại. Lấy gì sưởi ấm, soi sáng lúc mây mù che phủ cuộc đời. Thiếu ánh sáng sao biết đường thoát nạn khi cuộc đời gặp hoạn nạn, lúc gian nan. Mặc dù đèn hết dầu vô dựng mà vẫn phải cầm đèn không thể quẳng nó đi. Đèn hết dầu không giúp ích chi còn trở nên tai vạ, mang kè kè bên mình.

Họ chạy đến kêu cầu cứu, chị em bạn xin lỗi không thể giúp. Hãy lo liệu cách khác thì tốt hơn. Không tin tưởng vào Chúa lúc loài người lắc đầu, bó tay chạy vào đâu. Rơi vào tình trạng của các cô khờ dại, nửa đêm hết dầu. Người có ơn khôn ngoan chạy đến cùng Thiên Chúa nhận ơn trợ lực. Nhờ soi sáng, hướng dẫn, đong đầy dầu vào tâm hồn.

Mọi tư tưởng hành động dẫn ta xa Chúa đều không phải do ơn khôn ngoan soi sáng. Bởi vì tư tưởng đó dẫn đến đường cụt, đường cùng, không lối thoát khi gặp nguy biết kêu cầu, chạy đâu tìm nơi nương tựa. Ai cũng có ngày phải chết, tránh không được. Ngày buồn phiền đó sớm muộn gì cũng tới nhưng kẻ tin vào Chúa được Chúa biến ngày đó thành ngày vui hội ngộ. Ngày niềm tin sáng tỏ, ngày hy vọng được toại nguyện.

Vì nếu chúng ta tin Đức Giêsu đã chết và đã sống lại, thì cũng vậy, những người đã chết nhờ Đức Giêsu, Thiên Chúa sẽ đem họ đến làm một với Người (1Tx 4,14).

Vậy anh em hãy dùng lời đó mà an ủi nhau khi người thân ra đi. Chúng ta cũng xin ơn khôn ngoan, biết chuẩn bị cho tương lai như năm cô khôn ngoan, mang đèn có kèm theo dầu, vì chúng ta không biết ngày giờ nào đèn của mình sẽ tắt.

 

95. Chúa Nhật 32 Thường Niên

ĐỂ “CỦA CHO” THÀNH LỄ DÂNG ĐẸP LÒNG CHÚA

(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)

  1. HỌC LỜI CHÚA

Ý CHÍNH:

Bài Tin Mừng hôm nay được chia làm hai phần tương ứng với hai hạng người tiêu biểu trong đạo Do thái là giới kinh sư và giới bà góa nghèo như sau: Trước hết, Đức Giêsu khiển trách thói đạo đức giả của các kinh sư Do thái, biểu lộ qua 4 thói xấu như: ăn mặc đài các, tìm kiếm hư danh, tranh giành địa vị, đạo đức vụ lợi. Sau đó, Người đề cao lòng đạo đức của một bà góa nghèo, biểu lộ qua việc dâng cúng tiền bạc vào Đền Thờ. Tuy số tiền bà dâng không bao nhiêu, nhưng nhờ có lòng hy sinh, nên bà đã được Đức Giêsu đánh giá là đã bỏ vào thùng nhiều hơn mọi người.

CHÚ THÍCH:

– C 38: + “Anh em phải coi chừng những ông kinh sư”: Đức Giêsu cảnh giác dân chúng coi chừng kẻo bị lây nhiễm các thói xấu của các kinh sư hay luật sĩ. + xúng xính trong bộ áo thụng: Áo thụng là loại áo choàng dài chấm đất mà các tư tế thường xử dụng khi làm việc tế tự. Người Do thái thường tỏ lòng tôn kính đối với các tư tế. Các kinh sư cũng thích mặc loại áo này để tỏ ra mình có lòng đạo đức và cũng mong được dân chúng kính trọng như vậy. Đây là thói xấu kiêu ngạo, tự cao tự đại (x. Mt 23,5). + thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng: Người Do thái hay chào hỏi các kinh sư, là những người giải thích Kinh Thánh tại các hội đường vào ngày Sa-bát. Danh hiệu “ráp-bi” có nghĩa là “đại nhân của tôi”, được dùng để xưng hô khi nói chuyện với các kinh sư. Vì muốn được chào hỏi tôn kính, nên các ông thích đi đi lại lại ở nơi có nhiều người để được thiên hạ bái chào. Đây là thói xấu ham mê danh vọng.

– C 39-40: + chiếm ghế danh dự trong hội đường: Tại mỗi hội đường Do thái đều có một chiếc ghế danh dự đặt trước tủ đựng kinh sách. Đối diện với cộng đoàn là chỗ dành cho những bậc vị vọng. Ai ngồi ở đây thì không bị che khuất và mọi người trong hội đường có thể nhìn thấy họ. Các kinh sư vốn tự cao nên thích ngồi ở hàng ghế danh dự này. Đây là thói xấu ham mê chức quyền. + thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc: Tại đám tiệc của người Do thái, vị trí chỗ ngồi được xếp đặt rõ ràng. Chỗ danh dự nhất là ở bên phải gia chủ. Chỗ thứ hai là bên trái, và tiếp tục như vậy từ phải sang trái chung quanh bàn ăn. Người ta dễ dàng nhận ra thứ bậc của người khách, căn cứ vào chỗ ngồi được gia chủ sắp xếp cho họ trong bữa tiệc. + nuốt hết tài sản của các bà góa: Các bà góa thường thiếu hiểu biết, nhẹ dạ nên được xếp vào hạng người cần được quan tâm giúp đỡ (x. Đnl 24,17.19). Mỗi khi bị bắt nạt chèn ép, các bà góa thường cậy nhờ các kinh sư bênh vực. Đây là cơ hội thuận tiện để một số phần tử xấu trong hàng ngũ kinh sư lợi dụng làm tiền, bằng cách chỉ vẽ Lề luật và hứa cầu nguyện cho. + làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ: Việc các kinh sư và người biệt phái hay cầu nguyện dài dòng thì ai cũng rõ. Người ta bảo rằng: Những bài cầu nguyện ấy không nhằm dâng lên Thiên Chúa tâm tình yêu mến mà chỉ nhằm phô trương công đức trước mặt người đời. Do đó, họ cố tình cầu nguyện tại ngã ba đường, nơi mà người ta dễ thấy mà ca tụng lòng đạo đức của họ. + họ sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn: Luật Môsê coi việc xử tệ với các người cô thế cô thân, trong đó có các bà góa là một trọng tội và sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc (x. Xh 22,21-23). Đức Giêsu cho biết: Những hành vi này của các kinh sư chỉ là hình thức đạo đức giả và vụ lợi, nên họ sẽ bị kết án nghiêm khắc trong ngày tận thế.

– C 41-42: + Đức Giêsu ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ. Người quan sát xem đám đông bỏ tiền vào đó ra sao: Giữa sân dành cho dân ngoại và sân dành cho phụ nữ là cửa Đẹp. Đức Giêsu đã đến ngồi tại đó sau khi đã tranh luận trong sân dành cho dân ngoại và tại hành lang Đền Thờ. Trong sân dành cho phụ nữ có đặt mười ba thùng đựng tiền của dân chúng tự nguyện đóng góp, dùng để làm bánh tế lễ, mua dầu đèn và các chi phí khác.+ bà góa nghèo: Một thân phận đáng thương vì bị cô thế cô thân không nơi nương tựa, nhất là còn nghèo tiền bạc vật chất. + hai đồng tiền kẽm trị giá một phần tư đồng bạc Rô-ma: Đây là đơn vị tiền tệ nhỏ nhất, ám chỉ sự nghèo khó cùng cực của bà này. Sở dĩ tác giả chú thích hai đồng tiền kẽm trị giá một phần tư đồng bạc Rô-ma là nhằm giúp các độc giả La-Hy thời bấy giờ dễ hiểu hơn. Ở đây Mác-cô muốn nhấn mạnh đến sự tương phản giữa hai số tiền dâng cúng của hạng người giàu và kẻ nghèo hèn.

– C 43-44: + Bà góa nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết: Nhiều hơn ai hết là theo cách đánh giá của Đức Giêsu khi xét theo tỷ lệ giữa số tiền bà dâng cúng với tài sản của bà. Bà đã dâng ngay cả những cái cần cho cuợc sống hằng ngày, giống như lời Đức Chúa nói với ngôn sứ Sa-mu-en khi ra lệnh cho ông xức dầu phong Đa-vít lên làm vua thay thế vua Sa-un: “Người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng” (1 Sm 15,7). + mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa: Của dư thừa ám chỉ sự dâng cúng kém giá trị, vì “của nhiều lòng ít”. + còn bà này thì rút từ cái túng thiếu của mình: Bà “của ít lòng nhiều”: Tuy tiền dâng ít nhưng kèm hy sinh bản thân nên đã tăng giá trị lên nhiều lần.

CÂU HỎI:

1) Đức Giêsu đã quở trách bọn kinh sư và biệt phái về các thói xấu nào?

2) Người đánh giá thế nào về hai đồng tiền kẽm mà bà góa nghèo đã dâng trong Đền thờ? Tại sao?

  1. SỐNG LỜI CHÚA
  2. LỜI CHÚA: Thầy bảo thật anh em: “Bà góa nghèo đã bỏ thùng nhiều hơn ai hết” (Mc 12,43).
  3. CÂU CHUYỆN:

1) Tránh làm việc bác ái để tìm hư danh:

Một bà nọ là thành viên của một hội đoàn đạo đức chuyên đi làm công tác bác ái xã hội. Một hôm, bà nhận được giấy mời đến dự buổi họp mặt bất thường để quyên góp giúp đồng bào bị thiên tai lũ lụt vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long. Bà dự tính kỳ họp này sẽ tự nguyện đóng góp số tiền một triệu đồng. Nhưng trong buổi họp, khi thấy có nhiều Hội viên khác cũng đóng góp số tiền một triệu ngang bằng với mình, bà muốn tỏ ra quảng đại hơn người, nên khi tới phiên, bà đã ghi vào sổ vàng cứu trợ số tiền hai triệu đồng. Rồi thay vì rút bao thư chứa hai triệu, thì bà lại rút nhầm bao thư trong đó có số tiền hai trăm USD tương đương năm triệu đồng mà bà định mang đi vào sau buổi họp mặt hôm đó để mừng đám cưới con trai của bà bạn thân đã từng giúp đỡ bà rất nhiều. Khi phát hiện ra đã đưa lộn phong bì, bà muốn đến bàn thu ngân xin lại số tiền đã góp dư kia, nhưng lại sợ bị mất thể diện trước mặt người khác. Cuối cùng bà đành chịu vậy, nhưng tự trách mình đã bất cẩn không kiểm tra phong bì trước khi nộp cho thủ quỹ. Nhiều ngày sau đó mỗi lần nghĩ tới là bà lại cảm thấy nuối tiếc số tiền đã lỡ ủng hộ cho đồng bào bị thiên tai lũ lụt ngoài dự tính kia.

2) Gã bán thịt và lão ăn mày:

Kho tàng cổ tích Ả-rập có câu chuyện vui như sau: Một gã bán thịt nướng kia rất keo kiệt và khó tính. Một hôm một lão ăn mày từ nơi khác đến ngồi ăn xin bên cạnh quán thịt nướng của gã. Lão ăn mày đói bụng nhìn những miếng thịt nướng trên vỉ sắt đang bốc khói, chỉ biết hít thật sâu để đón nhận mùi thịt thơm bay vào mũi và liên tục nuốt nước miếng vì không có tiền mua thịt. Cuối cùng lão nghĩ ra một kế hay: lão ta móc trong bị ra một miếng bánh mì khô mua từ ban sáng, lẳng lặng đến gần lò than hơ miếng bánh trên vỉ thịt, với hy vọng khói thịt bốc lên sẽ ám vào miếng bánh. Sau đó, lão ta vui vẻ ăn hết miếng bánh đã được ám khói. Còn gã bán thịt đang ngồi trong quán thấy vậy liền chạy ra túm lấy áo lão ăn mày đòi trả tiền. Bấy giờ lão ăn mày liền nói: “Lão đâu có lấy thịt nướng nào của anh. Khói thịt bay lên đâu phải là thịt”. Gã bán thịt hét lớn: “Khói từ thịt đang nướng bay ra là thuộc về miếng thịt, nên lão ăn bánh có ám khói thịt bay lên cũng phải trả tiền”. Hai người cự cãi không ai chịu thua ai. Cuối cùng họ đưa nhau ra toà yêu cầu quan tòa cứu xét. Quan tòa liền truyền cho lão ăn mày lấy ra một đồng tiền cắc ném mạnh xuống nền nhà phát ra một tiếng “keng”. Rồi quan toà phán quyết cho hai người như sau: “Lão ăn mày được quyền hưởng khói bay ra từ miếng thịt, còn anh bán thịt sẽ hưởng tiếng “keng” phát ra từ đồng tiền của lão ăn mày”.

3) Cái chết của cô gái bán diêm nghèo khó:

Vào một buổi tối mùa thu, nhà văn Anderson đi dạo phố một mình tại thủ đô Copenhague. Ông bỗng nghe một giọng nói yếu ớt từ đằng sau vọng lại: “ Chú ơi, mua hộ cháu bao diêm.” Nhà văn quay lại, chợt nhận ra một đứa bé gái, gương mặt xanh xao, quần áo nhầu nát bẩn thỉu. “Chú ơi mua hộ cháu bao diêm, cả ngày cháu chưa bán được một bao nào.” Giọng cô bé thật buồn. Nó bùi ngùi kể lại hoàn cảnh đáng thương của nó. Mẹ chết sớm, con bé phải ở với một người cha nghiện ngập và khá cọc cằn, nhưng nó rất thương bố nó. Nó cố lê lết khắp nơi để bán diêm, kiếm chút tiền mang về cho bố những bữa ăn ngon. Anderson xúc động cho con bé ít tiền. Con bé sáng rực đôi mắt và thầm nghĩ nó sẽ mua về cho bố tối nay một ổ bánh mì thật ngon. “Chú ơi sao chú tốt với cháu thế? Chú tên gì, và chú làm nghề gì?” – “Chú tên Anderson, và chú làm nghề này”. Nhà văn vừa nói vừa khoa tay vẽ vào khoảng không hình một cái bút, ám chỉ ông là nhà văn. Đứa bé không hiểu, tưởng ông làm nghề bán bút giống như nó đi bán diêm vậy. Anderson hẹn với đứa bé đến đầu năm tới, ông sẽ trở lại và cho nó một món quà, còn bây giờ đã đến lúc ông phải đi xa.

Nhiều tháng trôi qua, Anderson dường như đã quên lời hứa của mình. Một bữa nọ, tình cờ trở lại Copenhague và ông chợt nhớ con bé bán diêm, nên đã ghé mua cho nó một chiếc áo ấm, và đi tìm để tặng. Tuy nhiên người chủ tiệm bên đường đã cho ông biết con bé bán diêm đã chết rồi: Ngày đầu năm, người ta thấy nó nằm chết cóng bên vệ đường. Nó nằm chết giữa một đống bao diêm, trong đó có một bao đã hết nhẵn. Có lẽ nó đốt diêm để sưởi cho bớt lạnh. Có điều là khi chết, khuôn mặt nó vẫn còn hồng hào và dường như nó đang mỉm cười chờ đợi một ai đó. Anderson đứng chết lặng. Người chủ tiệm nói tiếp: “Khi mang xác nó đi người ta thấy trong túi áo của nó rơi ra một vật giống như chiếc quản bút làm bằng những que diêm. Chắc nó làm để tặng ai đó tên Anderson, vì trên quản bút có viết hàng chữ “tặng chú Anderson”.

Câu chuyện cảm động trên là một kỷ niệm buồn trong cuộc đời của nhà văn Anderson. Câu chuyện này cũng giống như câu chuyện về người đàn bà góa nghèo trong Tin Mừng Marcô hôm nay. Cô bé bán diêm và người đàn bà góa có nét giống nhau: Cả hai đều là những người rất nghèo và bị xã hội bỏ rơi; tuy vậy cả hai đều có lòng quảng đại, biết cho đi những gì mình có. Nhưng điểm giống nhau căn bản là tuy nghèo vật chất, nhưng lại rất giàu về lòng nhân ái khi luôn biết nghĩ đến người khác.

4) Tinh thần nghèo của thánh Phanxicô khó khăn:

Một giai thoại trong cuộc đời thánh Phanxicô Assisi đã được nhà văn Nikos Kazantzakis viết thành cuốn tiểu thuyết nội dung như sau: Sau khi Phanxicô đã phân phát cho người nghèo tất cả của cải của mình, ngài bắt đầu đi lang thang đó đây khất thực, vừa đi đường vừa ca hát. Một anh bạn cũ thân quen thấy vậy đã tỏ vẻ ngỡ ngàng và hỏi: “Này Phanxicô, đôi giày đắt tiền, chiếc đồng hồ quý giá, quần áo sang trọng của anh đâu cả rồi?”. Phanxicô trả lời: “Tất cả những thứ đó là của ma quỷ, tôi đã trả lại cho nó tất cả rồi.” Người bạn hỏi tiếp: “Anh đi lang thang đến đây từ đâu và anh định sẽ đi đâu thế?“ – “Tôi đến từ một nơi rất xa và tôi cũng đang trên đường đi về nơi ấy”. Người bạn lắc đầu không hiểu và hỏi tiếp: “Thế tại sao anh lại vừa đi đường vừa hát nghêu ngao như một thằng điên thế?” – “Tôi hát là để khỏi bị lạc đường đó thôi.”

Là những người đi theo Chúa Giêsu, chúng ta cũng rất dễ bị lạc đường, nếu chúng ta để cho của cải vật chất điều khiển. Điều quan trọng là chúng ta phải phá đổ thới xấu ích kỷ của mình để biết quảng đại cho đi giống như bà góa trong Tin mừng hôm nay.

5) Lòng quảng đại của một đôi vợ chồng nghèo:

Một cặp vợ chồng về quê thăm họ hàng trong ngày nghỉ lễ. Họ lái xe được một quãng đường thì trời đổ mưa tầm tã và xe thình lình bị hư dọc đường. Đêm đã khuya và lạnh mà họ thì lại không quen thuộc đường lối. Sau khi đã hết mưa, họ bèn bỏ xe, đi bộ đến gõ cửa một căn nhà gần đó có ánh đèn hắt ra. Khi họ bước vào thì gặp hai ông bà già. Trước lời xin trú ngụ qua đêm của cặp vợ chồng, hai ông bà đã vui vẻ nói: Được lắm, chúng tôi có sẵn một căn phòng trống. Sáng hôm sau, cặp vợ chồng dậy sớm và chuẩn bị ra đi. Vì không muốn quấy rầy chủ nhà, người vợ để một số tiền lên bàn, rồi rón rén mở cửa bước ra. Và họ thực sự bỡ ngỡ khi nhìn thấy hai ông bà già đang co ro nằm ngủ trên sàn nhà ngoài phòng khách. Thì ra hai ông bà già này đã nhường chỗ cho cặp vợ chồng trẻ, còn mình sẵn sàng nằm ngủ dưới đất. Câu chuyện này giúp chúng ta hiểu được ý nghĩa cao quí của sự hy sinh và tình yêu thương của bà góa thời ngôn sứ Êlia và bà góa trong Tin mừng. Các bà đã cho đi tất cả những gì mình có.

  1. THẢO LUẬN: Trong những ngày này mỗi người chúng ta có thể chia sẻ những gì cụ thể trong tầm tay của mình cho những người nghèo đói bất hạnh và bị bỏ rơi để làm vui lòng Chúa?
  2. SUY NIỆM:

1) Hãy quảng đại dâng cho Chúa mọi sự thuộc về mình:

Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã lên án thái độ giả dối của các kinh sư Do thái và Người đã dạy môn đệ phải quảng đại cho đi, noi gương bà góa nghèo nọ đã dâng hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng bạc Rô-ma, là số tiền nhỏ bé bà dùng để nuôi bản thân mình trong một ngày. Bà đã được Đức Giêsu đánh giá cao việc dâng cúng quảng đại này: “Thầy bảo thật anh em: bà góa nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết. Quả vậy, mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó. Còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để sống” (Mc 12,43b-44).

Câu chuyện cổ tích Ả rập về anh hàng thịt nướng keo kiệt đối xử hà khắc đối với kẻ nghèo nói trên cũng vẫn thường hay xảy ra trong xã hội hôm nay: Nhiều lần chúng ta đã cư xử với người khác cách keo kiệt tương tự. Việt Nam chúng ta có một câu chuyện vui về một ông bố keo kiệt và tham ăn như sau:

Một hôm sau một đêm thức trắng đánh dậm bắt được một giỏ mươi con cá, anh ta về ngồi bên bếp than nướng cá để làm mồi nhậu lai rai một mình. Đứa con trai nhỏ 4 tuổi ngửi thấy mùi thơm của cá liền khóc lóc đòi được ăn cá. Bà mẹ liền dỗ dành cậu con yêu: “Con hãy nín đi để mẹ coi xem có con cá nào nhỏ, mẹ sẽ xin bố cho con ăn nhé!”. Ông bố nghe vậy liền đáp: “Cho cái gì? Không có con cá nào nhỏ cả, con nào cũng to bằng nhau hết!”.

Cũng vậy, nhiều lần chúng ta thường né tránh để khỏi giúp đỡ tha nhân bằng câu nói: “Hãy đợi đấy! Khi nào làm ăn khá hơn, tôi sẽ chia sẻ giúp đỡ cho anh”. Nhưng sự chờ đợi ấy sẽ kéo dài mòn mỏi không biết phải chờ đến bao giờ. Người ta có thể nêu ra cả ngàn lý do để biện minh cho thái độ vô cảm, thiếu yêu thương, không muốn giúp đỡ tha nhân của mình.

2) Giá trị của một hành động bác ái từ thiện hệ tại chỗ nào?

– Của cho không bằng tấm lòng người cho: Của nhiều mà lòng ít thì không quý bằng của ít lòng nhiều. Hai bà góa thời ngôn sứ Ê-li-a và thời Đức Giêsu sở dĩ được đề cao là do lòng yêu mến đối với người của Chúa và với công việc nhà Chúa. Chính lòng yêu mến đã làm cho hành động của hai bà có giá trị trước mặt Chúa. Và Chúa Giêsu đã khen bà góa trong Tin Mừng tuy chỉ bỏ hai đồng kẽm nhưng đã dâng Chúa nhiều hơn tất cả những người khác đã bỏ nhiều tiền. Vì những người kia dâng số tiền dư, còn bà goá này dâng Chúa tất cả những gì bà đang cần.

– Một việc lành của chúng ta chỉ thực sự tốt khi nó được thực hiện với lòng mến. Câu chuyện về người đàn bà ủng hộ đồng bào bị lũ lụt nói trên: Ban đầu bà đã có quyết định tốt khi dự định bỏ thùng ủng hộ một triệu đồng. Nhưng khi thấy nhiều người khác cũng bỏ vào thùng một triệu như vậy, thì bà liền tăng số tiền ủng hộ lên gấp đôi để tỏ ra quảng đại hơn người khác. Sau đó việc rút nhầm bao thơ 200 đôla Mỹ tương đương năm triệu đồng để bỏ vào thùng là ngoài ý muốn của bà, thể hiện qua việc bà tiếc nuối và muốn đến đòi lại số tiền dư kia, nhưng do thói sĩ diện hão, nên đành chấp nhận số tiền đã lỡ bỏ thùng hơn gấp nhiều lần. Số tiền bà góp này cũng không có giá trị về thiêng liêng trước tòa Chúa phán xét sau này vì nó không phát xuất từ tình yêu tha nhân, mà chỉ vì thói sĩ diện hão nhằm để tìm tiếng khen.

3) Về ba loại người cho và giá trị của ba cách cho:

+ Một là người cho cách bất đắc dĩ: Do muốn tránh bị quấy rầy, nên du cho mà trong lòng cảm thấy bực bội. Loại người này thường phân trần với bạn bè: “Mình ghét hắn ta, nhưng đành phải “thí” cho hắn ít tiền cho xong, để hắn mau biến đi khuất mắt!”.

+ Hai là người cho để làm xong bổn phận: Loại người cho này dù đã cho mà vẫn không thấy vui. Họ thường nói với bạn bè: “Mình bị rơi vào hoàn cảnh “tiến thoái lưỡng nan”: “Bỏ thì thương mà vương thì tội!” Thôi thì đành giúp đỡ hắn cho xong của nợ! ”.

+ Ba là cho vì yêu thương: Do tự nguyện cho người nghèo nên trong lòng người cho sẽ cảm thấy vui vẻ. Trường hợp người được cho vì một lý do nào đó không nhận, thì người cho sẽ cảm thấy buồn. Loại người cho này thường hay nói với những người chịu đau khổ bất hạnh: “Tôi có thể giúp gì được cho bạn?” hoặc: “Tôi sẵn sàng chia sẻ những khó khăn bạn đang gặp phải”. Cách cho thứ ba do này mới đẹp lòng Chúa và chúng ta cần gắng thực hiện mỗi ngày, để của lễ chúng ta dâng sẽ bay lên trước tôn nhan Chúa và mang lại hạnh phúc sau này cho chúng ta.

4) Hãy tập quảng đại cho đi noi gương Chúa Cha:

– Thiên Chúa Cha chúng ta đã biểu lộ một tình yêu quảng đại để nêu gương cho chúng ta:

+ Chúng ta chỉ cần một bông hoa, mà Ngài lại ban cả cánh rừng.

+ Chúng ta chỉ cần vài ngụm nước, mà Ngài lại ban cho cả dòng suối.

+ Chúng ta chỉ cần vài hạt cát, mà Ngài lại cho cả bãi biển rộng dài.

+ Chúng ta chỉ xin lương thực hàng ngày, mà Ngài lại ban cả Mình Máu Thánh Chúa Giêsu.

– Chúa Giêsu phán: “Cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20,35). Mỗi ngày chúng ta nên thực hiện một số việc quảng đại như PHĂNG-SÍT BAN-PHUA (Francis Balfour) đã liệt kê một số việc cụ thể mà các tín hữu chúng ta nên thực hiện như sau:

+ “Món quà đẹp nhất tặng cho kẻ thù ghét ta là lòng khoan dung tha thứ;

+ Quà tặng cho bạn bè là thái độ trung tín và chân thành,

+ Quà cho các em nhỏ là tấm gương bác ái và khiêm nhường phục vụ,

+ Quà tặng cho ông bố trong gia đình là thái độ tôn kính và vâng lời,

+ Quà cho bà mẹ là trái tim cháy lửa yêu thương và chia sẻ công việc nội trợ,

+ Và cuối cùng, quà cho mọi người chung quanh là nụ cười thân thiện kèm theo cái bắt tay thân ái, một lời khen thành thật, cùng thái độ lắng nghe và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu noi gương Đức Giêsu”.

  1. NGUYỆN CẦU

Lạy Chúa Giêsu. Cách đánh giá của Chúa trong Tin Mừng hôm nay khác hẳn cách nhìn nhận sự việc của chúng con. Vì “Loài người nhìn mặt, còn Chúa lại nhìn lòng!” (1 Sm 16,7). Chúa khen bà góa nghèo đã bỏ tiền dâng cúng nhiều hơn ai hết. Dù số tiền của bà nhỏ bé, nhưng bà “đã dâng tất cả những gì mình có để nuôi sống mình”. Bà dâng do lòng mến Chúa thôi thúc, nên đã được Chúa đánh giá: “Bà đã bỏ thùng nhiều hơn ai hết” (Mc 12,43).

Về phần chúng con: Nhiều khi chúng con dễ bị chán nản buông xuôi việc tốt, khi không được nhiều người biết và khen ngợi… Xin Chúa thanh luyện ý hướng khí làm việc lành của chúng con. Chúng con tin rằng: “Hữu xạ tự nhiên hương” (x. Mt 6,1-4), nếu công việc chúng con làm thực sự tốt thì sớm muộn cũng sẽ được người chung quanh nhận biết và họ sẽ ca ngợi tình yêu của Thiên Chúa là Cha chúng con (x. Mt 5,14-16).

  1. Hiệp cùng Mẹ Maria. – Đ. Xin Chúa nhậm lời chúng con.

 

96. Dâng hiến trọn lòng

(Suy niệm của Huệ Minh)

Trong những cống hiến âm thầm cho nhân loại, ta phải nghĩ tới những lời nguyện ít ai biết đến, không ai nghe, chẳng ai thấy của những kẻ đau khổ trên giường bệnh, cùng cực trên đường đời, bị áp bức trong nơi tù đày côi cút… Những lời nguyện ấy là sự dâng hiến cho Thiên Chúa cách đáng trân trọng, để Thiên Chúa ban muôn hồng phúc cho mọi người.

Và ta thấy Thiên Chúa nhìn bên trong tâm hồn. Biết bao người giàu sang béo tốt quần là áo lụa, nhưng Chúa không nhìn. Chúa chỉ nhìn người phụ nữ nghèo nàn, gầy gò, rách rưới. Biết bao người dâng cúng tiền rừng bạc biển mà Chúa chẳng khen. Chúa chỉ khen người phụ nữ bỏ vào thùng tiền hai đồng xu nhỏ. Không những khen mà Chúa còn cho rằng bà này bỏ nhiều hơn những người khác.

Hóa ra Chúa đánh giá không dựa theo khối lượng nhưng dựa theo chất lượng. Chúa không nhìn bề ngoài nhưng nhìn vào tấm lòng. Chúa cho biết tại sao Chúa khen bà: “Quả vậy, mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để sống”. Chúa đã nhìn thấu tâm hồn của bà. Một tâm hồn thiết tha yêu mến Chúa và với công việc nhà Chúa. Chúa đã thấy tấm lòng của bà. Một tấm lòng quảng đại dám cho đi tất cả những gì cần thiết cho đời sống của mình.

Quả vậy, mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để sống”. Bà goá bỏ tiền ít hơn mọi người, nhưng dưới mắt Chúa Giêsu, bà đã bỏ nhiều hơn cả, vì bà đã bỏ tất cả. Của dâng cúng của bà góa, xét về số lượng chẳng có là bao, nhưng về chất lượng lại đong đầy đức tin, đức cậy và đức mến.Chúa đánh giá không dựa theo khối lượng nhưng dựa theo chất lượng. Chúa không nhìn bề ngoài nhưng nhìn vào tấm lòng.

Thật vậy, thế gian đã có mấy ai có tấm lòng vàng như bà góa nghèo kia được Chúa Giêsu khen thưởng vì bà đã cho tất cả những gì bà có?. Nhưng không hiểu sao bà góa nghèo ấy lại để trong lòng mọi người một ấn tượng đẹp đẽ nhất, bà đã làm gương cho hết thảy chúng ta biết học cách để “cho”. Bằng chứng cho chúng ta thấy trên thế giới ngày nay vẫn còn rất nhiều người giống như bà chứ đâu có ít, thưa có phải?. Nên chúng ta đừng nản lòng và đừng thiếu lòng tin tưởng vào Thiên Chúa và vào con người.

Nếu bà goá Sareptha không lấy chút bột, chút dầu nhỏ bé kia mà làm bánh cho Êlia ăn, thì mẹ con bà cũng chỉ ăn được trong ngày ấy mà thôi, rồi sẽ chết. Nhưng vì lòng tin và lòng quảng đại, bà nghĩ rằng: nếu ta không lấy chút bột chút dầu kia mà cứu người đang đói là Êlia, thì hẳn Êlia sẽ chết. Việc cần làm ngay là phải cứu người. Còn việc của mình: Chúa sẽ liệu lo.

Tiền bạc là phương tiện giúp cho người ta trao đổi để dễ dàng sinh hoạt trong cuộc sống hằng ngày. Nên tiền bạc tự nó không xấu mà trái lại là đàng khác. Nhưng nó trở nên tốt hay xấu là do con người sử dụng nó. Nó có thể được dùng vào những việc gian manh, bất lương, xảo trá, gây nguy hiểm và tai hại cũng như được dùng vào những công việc bác ái, xây dựng tình yêu, tạo nên tình bạn hay đem lại những lợi ích vật chất và tinh thần.

Như vậy, tất cả chúng ta đều nhất trí rằng: tiền bạc tự nó là tốt và luôn luôn có giá trị rất thực tế theo như định ước người ta gán cho nó. Tờ 1000 đồng chắc chắn phải hơn tờ 50 đồng, tờ 100 đồng, tờ 500 đồng. Nhưng tại sao trong bài Tin Mừng Chúa Giêsu lại nói hai đồng tiền kẽm, chỉ đáng một phần tư đồng xu Rô ma của người đàn bà góa nghèo bỏ vào thùng tiền dâng cúng ở đền thờ lại quí hơn những số tiền lớn của những người giàu?

Với Thiên Chúa, điều quan trọng không phải là bao nhiêu, nhiều hay ít, miễn là với tất cả tấm lòng. Ngài không ham của cải Ngài đã ban cho loài người, nhưng chỉ muốn lòng thành thực của con người mà thôi. Cho nên, người ta có thể dâng thật nhiều cho Thiên Chúa, nhưng bao lâu người ta chưa dâng chính mình hay ít nữa những gì thuộc về bản thân, những gì liên hệ tới chính con người của mình thì kể là người ta chưa dâng hiến gì cả.

Chúa Giêsu dạy cho chúng ta biết ý nghĩa và giá trị của tiền bạc đối với người sử dụng nó và qua đó chúng ta rút ra được một bài học, đó là hãy biết cho đi. Bởi vì thương yêu là cho đi. Càng cho nhiều là dấu càng yêu thương nhiều, nhất là cho đi với một lòng thành thực thiết tha. Nhưng không phải chỉ cho những gì là vật chất như của cải, tiền bạc mới là cho. Chúng ta có thể cho những gì là siêu nhiên cao quí như lời cầu nguyện; và cho những gì là tinh thần như một nụ cười, một cái nhìn thiện cảm, một lời nói vui vẻ hiền hòa hay những lời an ủi chân thành…

Chúa dạy ta đừng chạy theo những người giàu sang phú quý quyền cao chức trọng, nhưng hãy biết chú ý tới những người bé nhỏ nghèo hèn trong xã hội. Đừng xét đoán người theo hình dáng bề ngoài, theo y phục hay theo tiền của. Hãy biết nhìn bên trong tâm hồn con người. Có những người có địa vị cao nhưng tâm hồn lại thấp hèn. Có những người nghèo hèn nhưng tâm hồn rất cao thượng. Có những người giàu có nhưng rất bủn xỉn. Có những người nghèo khó nhưng rất quảng đại.

Với Thiên Chúa, điều quan trọng không phải là bao nhiêu, nhiều hay ít, mà là với trọn tấm lòng. Cách cho quý hơn của cho. Của cho kèm theo tấm lòng là quà tặng quý hóa nhất. Của cho không bằng tấm lòng người cho. Và cho chính cái mình quý nhất mới là cái cho lớn nhất, giá trị nhất. Bà góa đã cho nhiều nhất vì đã cho cả tấm lòng. Theo số lượng thì một phần tư đồng xu là quá ít ỏi. Có thể hai đồng đồng kẽm mua được một ổ bánh mì, một lon gạo, một bó rau đủ để nuôi sống bà trong ngày hôm đó. Bà góa cũng không sợ bị chê cười vì bỏ quá ít so với người khác. Bà chấp nhận mình thấp hèn thua kém người khác. Nhưng với Chúa Giêsu, hai đồng tiền nhỏ của bà lại nhiều hơn hết. Không phải số lượng việc làm hay tiền của dâng cúng mà Thiên Chúa yêu thích, nhưng là một tấm lòng thuộc trọn vẹn về Người.

Sự nghèo khó của cải vật chất không quan trọng bằng sự nghèo khó tâm linh. Đa số những ai nghèo khó vật chất, mà biết tin tưởng vào Thiên Chúa và chân thành cộng tác vào việc nuôi dưỡng nhân sự của Thiên Chúa, thì sẽ được Thiên Chúa ban ơn. Lại nữa, chúng ta thấy, việc Chúa Giêsu khen ngợi bà góa thật là hợp lý, vì, không có người giàu nào dâng cúng ¼ tài sản của mình cho việc dâng cúng cho thiên Chúa. Dù, cho có ai dâng cúng ¼ tài sản của mình cho Thiên Chúa, thì việc dâng cúng của họ cũng vẫn ít hơn bà góa nghèo. Bởi vì, họ chỉ dâng cúng phần dư thừa, còn bà góa nghèo dâng cúng hết những gì bà có trong lúc thiếu thốn.

Ta, như những bà góa nghèo, vì tội lỗi, nhưng chúng ta biết dâng hết cho Thiên Chúa trong Đức Kitô, thì chúng ta sẽ giàu có trong ân sủng của Thiên Chúa. Vì , mọi người đều muốn giàu có, nhưng không biết cách làm giàu ân sủng. Vì , khi và chỉ khi, chúng ta biết dâng cho Thiên Chúa hết thảy, ngay cả chính mình, thì kho tàng siêu nhiên lẫn tự nhiên sẽ không thiếu, như “ hủ bột” bà góa nghèo nuôi tiên tri Êlia xưa.

 

97. Sức mạnh của lòng tin

(Suy niệm của Huệ Minh)

Tin mừng Mc 12:38-44: Lòng tin chính là chìa khóa khai mở mọi khó khăn, mọi vấn đề trong đời sống thường ngày cũng như đời sống tâm linh. Trở về với dòng lịch sử về lòng tin trong Kinh Thánh, chúng ta thấy có hai mẫu gương sáng chói về lòng tin: Apraham và Đức Maria…

Lòng tin là chìa khoá vạn năng có thể mở được những cánh cửa dẫn vào những kho tàng quý báu. Lòng tin cũng là bí quyết để thành công. Đây là bài học quý báu mà Chúa Giêsu dạy chúng ta qua Tin mừng hôm nay. Tiếc thay chúng ta không biết tận dụng bài học này để thu hoạch những thành quả tốt đẹp trong cuộc đời.

Lòng tin chính là chìa khóa khai mở mọi khó khăn, mọi vấn đề trong đời sống thường ngày cũng như đời sống tâm linh. Trở về với dòng lịch sử về lòng tin trong Kinh Thánh, chúng ta thấy có hai mẫu gương sáng chói về lòng tin: Apraham và Đức Maria.

Apraham được kể như Cha kẻ của những kẻ tin. Suốt cả cuộc đời ông đặt trọn niềm tin vào tình thương và bàn tay uy quyền của Thiên Chúa. Ông sẵn sàng rời bỏ quê hương xứ sở để ra đi đến miền đất Thiên Chúa hứa ban, mà ông không hề biết nó như thế nào và cũng không đặt câu hỏi tại sao. Ở tuổi 75, ông được Thiên Chúa hứa sẽ ban cho một dòng dõi hùng cường, đông đúc như sao trên trời, như cát ngoài bãi biển. Vây mà mãi đến 99 tuổi vẫn chưa có được một mụn con nối dòng, ngoại trừ It-ma-en con của người đầy tớ Haga, nhưng Thiên Chúa lại không chúc lành trên người con đó. Thế nhưng, lòng tin và sự kiên trì chờ đợi của ông đã được bồi đắp khi ông ở tuổi một 100, Ixaac do chính bà Xara vợ ông sinh ra. Lòng tín thác vào tình yêu Thiên Chúa của Apraham đã được đền bù xứng.

Đức Maria, khi cất tiếng ‘xin vâng’ thánh ý Thiên Chúa qua lời sứ thần truyền, cũng là thời điểm khai mở cho lòng tin tuyệt đối của Mẹ vào Thiên Chúa quyền năng. Khi đáp tiếng ‘xin vâng’ đồng nghĩa với việc Mẹ chấp nhận mọi khổ đau, hiểu lầm, đố kỵ, khó khăn đến với mình. Thế nhưng, Mẹ tín thác tuyệt đối vào Thiên Chúa, nhờ đó vượt lên tất cả mọi khó khăn, khổ cực ngay cả khi đứng dưới chân Thánh giá, Mẹ cũng không có một lời oán trách.

Tin Mừng hôm nay nói đến sức mạnh của lòng tin. Cuộc sống con người thời nay phải đương đầu với bao nghiệt ngã, nan giải từ chiều kích nội tâm đến đời thường. Do đó con người hay bị rơi vào hoàn cảnh bế tắc không lối thoát, nên có thể đánh đổi từ bạn bè, anh chị em mình, để tìm cái lợi trước mắt, và từ đó con người dần dần dẫn tới tình trạng sống thiếu lòng tin. Chúng ta đang sống trong một xã hội càng phát triển hiện đại bao nhiêu thì đời sống tâm linh con người càng rời xa bấy nhiêu.

Đức tin là quyền năng lớn nhất trong thế giới này nên hôm nay các môn đệ tha thiết xin Chúa: Xin gia tăng đức tin cho chúng con. Đức tin phải được lớn lên mãi để có thể làm được những gì không thể như lời Chúa nói: “Nếu anh em có đức tin bằng hạt cải, anh em có thể nói với cây này: “Hãy bứng rễ và trồng xuống biển và nó sẽ vâng lời anh em.”

Ngày xưa Các Tông Đồ thưa với Chúa Giêsu rằng: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con”. Và ngày nay cũng vậy, Chúa Giêsu luôn hiện diện trong chúng ta mỗi ngày qua Kinh Thánh, hay Giáo Hội hoặc những giáo huấn, dấu chỉ thời đại v.v… Ngài luôn quan phòng và dẫn dắt mọi người qua lời Chúa: “Nếu anh em có lòng tin bằng hạt cải thì anh em có bảo cây dâu này: “ hãy bật rễ lên, xuống biển kia mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời anh em”. Mỗi người nếu sống có lòng tin, là sống luôn có tinh thần phục vụ, niềm tin giúp chúng ta biết sẻ chia cho nhau cảnh túng nghèo, sẻ chia giúp nhau lúc gian nan hiểm nghèo, hay dùm bọc lẫn nhau, nếu có niềm tin có thể làm được từ sự bình thường, ơn Chúa dẫn đến chuyện phi thường, lòng tin có thể thay đổi mọi sự, từ thất bại chuyển tới thành công, mọi hoàn cảnh, mọi tình huống trong cuộc sống.

Đức tin có khả năng làm phép lạ không theo nghĩa phù phép, bùa chú nhưng là một động lực thúc đẩy chúng ta dám nghĩ, dám làm những việc to lớn phi thường, vì người có đức tin thì hành động bằng quyền năng của Thiên Chúa chứ không phải bằng khả năng giới hạn của mình. Do đó người có lòng tin có thể làm được những việc mà chỉ có quyền năng vô biên của Thiên Chúa mới làm được. Thực ra không phải người ấy hành động nhưng là chính Thiên Chúa hành động trong người ấy và qua người ấy.

Hình ảnh hạt cải bé nhỏ nói lên sự phó thác dù nhỏ đến đâu nếu được thực hiện trong đức tin, vẫn có thể làm được những điều lớn lao vì không phải ở sức mình nhưng là ở sức mạnh của Thiên Chúa. Đức Giêsu dùng hình ảnh hạt cải có bộ rễ rất to và khỏe nhưng hạt nó thì nhỏ xíu như đầu kim để nói lên sức mạnh của niềm tin. Để làm bật rễ một cây dâu thật to chỉ cần một chút đức tin bé nhỏ, nhưng phải là một thứ đức tin vững vàng mạnh mẽ.

Đức tin là một ân sủng, nghĩa là một ơn mà Chúa ban cho ta, theo bản tính tự nhiên ta không thể đòi hỏi, có chăng là chỉ cầu mong và hy vọng được ban cho ơn ấy. Đức tin là một ánh sáng chiếu soi cho ta thấy Thiên Chúa và các điều kín nhiệm của Người, nên tin phải phát xuất từ nơi Thiên Chúa. Đức tin từ trời cao ban xuống, là trí tuệ và tình yêu của Thiên Chúa để soi sáng trí khôn con người.

Ngày hôm nay niềm tin chúng ta được thể hiện qua hành động của mình, chỉ cần nếu anh em có lòng tin bằng hạt cải thôi, Thiên Chúa vẫn đồng hành, chở che, quan phòng chúng ta, Ngài chờ đợi để nâng đỡ lòng tin yếu hèn của chúng ta trong sự yêu thương từng ngày trong cuộc sống. Nhìn lại xem lòng tin của tôi được ví như chiếc đèn nếu biết dự trữ bình dầu, để chiếu sáng cho bao người chung quanh. Lòng tin giúp tôi từ tội lỗi biết tìm sự hoái cải để làm con cái Thiên Chúa, hay khi tôi có đức tin từ đời sống thật bình thường, nhưng tôi biết sống lạc quan tin tưởng vào biến cố cuộc sống, hướng tôi đến cuộc sống vĩnh cửu mai sau.

Những kết quả chúng ta thực hiện được là nhờ lòng tin nghĩa là chính Thiên Chúa hành động nơi chúng ta và qua chúng ta. Như thế chúng ta đâu dám tự phụ cho nó là công lênh của mình: “ Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi.”

 

98. Suy niệm các ngày trong tuần 32 TN

(Suy niệm của Huệ Minh)

THỨ HAI – Lc 17, 1-6

Sức mạnh của lòng tin

Lòng tin là chìa khoá vạn năng có thể mở được những cánh cửa dẫn vào những kho tàng quý báu. Lòng tin cũng là bí quyết để thành công. Đây là bài học quý báu mà Chúa Giêsu dạy chúng ta qua Tin mừng hôm nay. Tiếc thay chúng ta không biết tận dụng bài học này để thu hoạch những thành quả tốt đẹp trong cuộc đời.

Lòng tin chính là chìa khóa khai mở mọi khó khăn, mọi vấn đề trong đời sống thường ngày cũng như đời sống tâm linh. Trở về với dòng lịch sử về lòng tin trong Kinh Thánh, chúng ta thấy có hai mẫu gương sáng chói về lòng tin: Apraham và Đức Maria.

Apraham được kể như Cha kẻ của những kẻ tin. Suốt cả cuộc đời ông đặt trọn niềm tin vào tình thương và bàn tay uy quyền của Thiên Chúa. Ông sẵn sàng rời bỏ quê hương xứ sở để ra đi đến miền đất Thiên Chúa hứa ban, mà ông không hề biết nó như thế nào và cũng không đặt câu hỏi tại sao. Ở tuổi 75, ông được Thiên Chúa hứa sẽ ban cho một dòng dõi hùng cường, đông đúc như sao trên trời, như cát ngoài bãi biển. Vây mà mãi đến 99 tuổi vẫn chưa có được một mụn con nối dòng, ngoại trừ It-ma-en con của người đầy tớ Haga, nhưng Thiên Chúa lại không chúc lành trên người con đó. Thế nhưng, lòng tin và sự kiên trì chờ đợi của ông đã được bồi đắp khi ông ở tuổi một 100, Ixaac do chính bà Xara vợ ông sinh ra. Lòng tín thác vào tình yêu Thiên Chúa của Apraham đã được đền bù xứng.

Đức Maria, khi cất tiếng ‘xin vâng’ thánh ý Thiên Chúa qua lời sứ thần truyền, cũng là thời điểm khai mở cho lòng tin tuyệt đối của Mẹ vào Thiên Chúa quyền năng. Khi đáp tiếng ‘xin vâng’ đồng nghĩa với việc Mẹ chấp nhận mọi khổ đau, hiểu lầm, đố kỵ, khó khăn đến với mình. Thế nhưng, Mẹ tín thác tuyệt đối vào Thiên Chúa, nhờ đó vượt lên tất cả mọi khó khăn, khổ cực ngay cả khi đứng dưới chân Thánh giá, Mẹ cũng không có một lời oán trách.

Tin Mừng hôm nay nói đến sức mạnh của lòng tin. Cuộc sống con người thời nay phải đương đầu với bao nghiệt ngã, nan giải từ chiều kích nội tâm đến đời thường. Do đó con người hay bị rơi vào hoàn cảnh bế tắc không lối thoát, nên có thể đánh đổi từ bạn bè, anh chị em mình, để tìm cái lợi trước mắt, và từ đó con người dần dần dẫn tới tình trạng sống thiếu lòng tin. Chúng ta đang sống trong một xã hội càng phát triển hiện đại bao nhiêu thì đời sống tâm linh con người càng rời xa bấy nhiêu.

Đức tin là quyền năng lớn nhất trong thế giới này nên hôm nay các môn đệ tha thiết xin Chúa: Xin gia tăng đức tin cho chúng con. Đức tin phải được lớn lên mãi để có thể làm được những gì không thể như lời Chúa nói: “Nếu anh em có đức tin bằng hạt cải, anh em có thể nói với cây này: “Hãy bứng rễ và trồng xuống biển và nó sẽ vâng lời anh em.”

Ngày xưa Các Tông Đồ thưa với Chúa Giêsu rằng: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con”. Và ngày nay cũng vậy, Chúa Giêsu luôn hiện diện trong chúng ta mỗi ngày qua Kinh Thánh, hay Giáo Hội hoặc những giáo huấn, dấu chỉ thời đại v.v… Ngài luôn quan phòng và dẫn dắt mọi người qua lời Chúa: “Nếu anh em có lòng tin bằng hạt cải thì anh em có bảo cây dâu này: “ hãy bật rễ lên, xuống biển kia mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời anh em”. Mỗi người nếu sống có lòng tin, là sống luôn có tinh thần phục vụ, niềm tin giúp chúng ta biết sẻ chia cho nhau cảnh túng nghèo, sẻ chia giúp nhau lúc gian nan hiểm nghèo, hay dùm bọc lẫn nhau, nếu có niềm tin có thể làm được từ sự bình thường, ơn Chúa dẫn đến chuyện phi thường, lòng tin có thể thay đổi mọi sự, từ thất bại chuyển tới thành công, mọi hoàn cảnh, mọi tình huống trong cuộc sống.

Đức tin có khả năng làm phép lạ không theo nghĩa phù phép, bùa chú nhưng là một động lực thúc đẩy chúng ta dám nghĩ, dám làm những việc to lớn phi thường, vì người có đức tin thì hành động bằng quyền năng của Thiên Chúa chứ không phải bằng khả năng giới hạn của mình. Do đó người có lòng tin có thể làm được những việc mà chỉ có quyền năng vô biên của Thiên Chúa mới làm được. Thực ra không phải người ấy hành động nhưng là chính Thiên Chúa hành động trong người ấy và qua người ấy.

Hình ảnh hạt cải bé nhỏ nói lên sự phó thác dù nhỏ đến đâu nếu được thực hiện trong đức tin, vẫn có thể làm được những điều lớn lao vì không phải ở sức mình nhưng là ở sức mạnh của Thiên Chúa. Đức Giêsu dùng hình ảnh hạt cải có bộ rễ rất to và khỏe nhưng hạt nó thì nhỏ xíu như đầu kim để nói lên sức mạnh của niềm tin. Để làm bật rễ một cây dâu thật to chỉ cần một chút đức tin bé nhỏ, nhưng phải là một thứ đức tin vững vàng mạnh mẽ.

Đức tin là một ân sủng, nghĩa là một ơn mà Chúa ban cho ta, theo bản tính tự nhiên ta không thể đòi hỏi, có chăng là chỉ cầu mong và hy vọng được ban cho ơn ấy. Đức tin là một ánh sáng chiếu soi cho ta thấy Thiên Chúa và các điều kín nhiệm của Người, nên tin phải phát xuất từ nơi Thiên Chúa. Đức tin từ trời cao ban xuống, là trí tuệ và tình yêu của Thiên Chúa để soi sáng trí khôn con người.

Ngày hôm nay niềm tin chúng ta được thể hiện qua hành động của mình, chỉ cần nếu anh em có lòng tin bằng hạt cải thôi, Thiên Chúa vẫn đồng hành, chở che, quan phòng chúng ta, Ngài chờ đợi để nâng đỡ lòng tin yếu hèn của chúng ta trong sự yêu thương từng ngày trong cuộc sống. Nhìn lại xem lòng tin của tôi được ví như chiếc đèn nếu biết dự trữ bình dầu, để chiếu sáng cho bao người chung quanh. Lòng tin giúp tôi từ tội lỗi biết tìm sự hoái cải để làm con cái Thiên Chúa, hay khi tôi có đức tin từ đời sống thật bình thường, nhưng tôi biết sống lạc quan tin tưởng vào biến cố cuộc sống, hướng tôi đến cuộc sống vĩnh cửu mai sau.

Những kết quả chúng ta thực hiện được là nhờ lòng tin nghĩa là chính Thiên Chúa hành động nơi chúng ta và qua chúng ta. Như thế chúng ta đâu dám tự phụ cho nó là công lênh của mình: “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi.”

THỨ BA – Lc 17, 7-10

Hãy phục vụ như người đầy tớ vô dụng

Qua trang Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy các môn đệ tinh thần phục vụ đích thực: “Sau khi chu toàn phận vụ, các con hãy tự nhận mình là những đầy tớ vô dụng”.

Phục vụ nổi bật hơn cả là tinh thần trách nhiệm. Trách nhiệm trước tiên nằm trong trách vụ mà mình được giao phó. Điều gì thuộc về trách nhiệm của mình đòi hỏi chúng ta phải quyết liệt hy sinh, cho dù sự hy sinh đó xem ra có vẻ quá lớn lao đang khi kết quả của nó quá nhỏ bé và không chắc chắn.

Tuy nhiên chúng ta phải xét tính cách giá trị của nó trước cái nhìn của Chúa chứ không xét theo thành quả trước sự đánh giá của người đời. Cử chỉ người chăn chiên lặn lội đi tìm một con chiên lạc trong tổng số 100 con chứng minh cho chúng ta thấy điều đó.

Ta luôn ưa thích những thành quả lớn lao và dễ dàng đang khi tinh thần trách nhiệm thì nhiều khi rất khó khăn và thành quả rất âm thầm. Nhưng đó lại là điều biểu hiện tấm lòng nhân hậu mà Chúa ưa thích nhất. Cũng vậy, chúng ta luôn ưa chuộng và chạy theo số đông mà bất chấp những cá nhân nhỏ bé, nhất là những cá nhân sa lạc và làm trì trệ đời sống cộng đoàn. Điều này đi ngược lại với tinh thần trách nhiệm của Chúa Kitô.

Chúa đến cho mọi người nhưng Ngài cũng tha thiết sống cho từng con người, nhất là những người hèn mọn và tội lỗi. Trong tinh thần trách nhiệm chúng ta cần xét theo ý Chúa chứ không phải ý người ta. Vì thế phục vụ trước tiên là phục vụ chính Chúa, Đấng đảm nhiệm mọi ý nghĩa và giá trị của công việc chúng ta làm để đưa nó vào chương trình cứu độ của Ngài.

Trong tinh thần trách nhiệm cũng cần phải luôn biết rằng, mình phục vụ và người khác cũng đang phục vụ. Sự phục vụ trong vai trò của chúng ta không được làm hư hại hay hạ thấp sự phục vụ của người khác. Giá trị của phục vụ không nằm trong công việc lớn nhỏ, trong vai trò hay chức vụ, nhưng nằm trong tâm tình, ý hướng và cách thái của người phục vụ.

Sự phục vụ chân chính trong tinh thần trách nhiệm bao giờ cũng đòi hỏi một sự tế nhị, nhường bước để tạo được hoà khí sinh động, bình đẳng và bổ túc cho nhau trong mọi công việc. Phục vụ mà gây ra bất an, hổn loạn và hư hại cho người khác thì quả là sự phục vụ bất chính.

Khi dạy các môn đệ, cũng như chúng ta như thế, Chúa Giêsu không có ý xem nhẹ chúng ta hay xem nhẹ việc chúng ta làm, nhưng Ngài muốn giúp chúng ta -qua con đường phục vụ vô vị lợi với tất cả tinh thần trách nhiệm và khiêm tốn- sẽ được Thiên Chúa ban dồi dào hồng ân gấp bội.

Đối với Chúa Giêsu, quyền bính là phục vụ và phục vụ là yêu thương. Khi ban điều răn mới, Chúa nói: “Các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 13, 34); và “Nếu Thầy là Chúa, là Thầy mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em.” Cuối cùng qua cuộc khổ nạn trên thập giá, Chúa đã thể hiện lời Chúa nói: “Không có tình yêu nào cao quí hơn tình yêu của Người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.” (Ga 15,13).

Trước khi khuyên chúng ta phục vụ hết mình và tự nhận mình là tôi tớ vô dụng, Chúa Giêsu -Ngôi Hai Thiên Chúa- đã vâng lời Chúa Cha đến trần gian trong thân phận con người hèn mọn. Ngài đến không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống cho con người (Mt 20, 28); Ngài là Thiên Chúa nhưng ở giữa các môn đệ như kẻ hầu bàn (Lc 22, 27); Tuy là Thầy là Chúa, Ngài đã “chỗi dậy, bỏ áo xống đi và cúi xuống rửa chân cho các môn đệ” (Ga 13, 4-5). Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Philippphe cho biết: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang…. Chính vì thế, ngài được Thiên Chúa tôn vinh và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn vàn danh hiệu” (Pl 2, 6-11)

Theo gương Chúa Giêsu, biết bao Kitô hữu đã sống tinh thần phục vụ. Đức Thánh Cha Phaolô VI làm việc miệt mài lo cho Giáo Hội; cuối mỗi văn kiện gửi cho dân Chúa, ngài viết: “Phaolô VI, tôi tớ của các tôi tớ”. Mẹ Têrêsa Calcutta và các chị em trong dòng dong duổi khắp đường phố Ấn Độ để phục vụ những người nghèo hèn khốn khổ nhất. Gương phục vụ của Mẹ Têrêsa được cả thế giới trân trọng và ngưỡng mộ.

Chúng Giêsu muốn chúng ta trở nên khiêm tốn như Ngài đã từng như thế. Ngài không bao giờ khoe khoang chính mình hoặc nhất quyết đòi hỏi cho mình một sự đối xử đặc biệt vì mình là Thiên Chúa. Trái lại, Ngài đã vét rỗng chính mình và mặc lấy thân phận một kẻ nô lệ. Ngài vâng phục Cha của mình trong mọi cách thức. Và bởi vì điều đó, Chúa Giêsu đã được tán dương (Pl 2,6-10).

Chúa Giêsu muốn chúng ta giữ kín tất cả những lời thừa nhận, khen ngợi và chúc mừng mà người ta dành cho chúng ta. Ngài không muốn chúng ta là những người hoặc làm những điều gì đó để huênh hoang. Đây là lý do tại sao Ngài đã khiển trách Giacôbê va Gioan khi họ xin Ngài những chỗ vinh dự trong vương quốc của Ngài (Mc 10,35-40). Đó là lý do tại sao Ngài đã quở trách Phêrô vì đã cho rằng Chúa Giêsu là người quá quan trọng đến nỗi không thể bị đóng đinh (Mt 16,21-23)

Cuối cùng, tất cả chúng ta đều là “những đấy tớ vô dụng” (Lc 17,10). Mỗi hơi thở, chúng ta đều nhận từ Thiên Chúa. Mỗi hành động tốt chúng ta làm là một dấu hiệu của ân sủng Thiên Chúa đang làm việc nơi chúng ta. Nhưng “vô dụng” không hẳn là một điều xấu. Đó chỉ là một sự thừa nhận khiêm tốn rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa, được cứu chuộc, được mời gọi và được trang bị để xây dựng vương quốc của Ngài.

Ở tại giáo xứ, chúng ta cũng nhận thấy nhiều gương phục vụ âm thầm và khiêm tốn. Quý Tu sĩ, Quý Ban Hành Giáo, quý chức các hội đoàn, các anh chị Giáo Lý Viên, ca viên… phục vụ giáo xứ mà không nhận một đồng tiền lương. Có thể họ còn gặp phải nhiều khó khăn, hiểu lầm, trách móc; tuy nhiên, Chúa ban cho lòng họ chan chứa niềm vui vì vinh dự được trở nên “đầy tớ”. Bởi vậy, vô dụng không phải là không làm được việc gì nhưng là làm việc cách cần mẫn mà không kể công lênh.

Ta được mời gọi sống và làm việc như người phục vụ, như người tôi tớ, như người nữ tì khi đi từ sự nhỏ bé, giới hạn, yếu đuối và tội lỗi của chúng ta, khởi đi từ sự thật của chúng ta, và làm cho đời mình, ơn gọi mình trở thành lời tạ ơn và ca tụng Chúa, Đấng là Nguồn và Cùng Đích của mọi sự. Chính kinh nghiệm sâu đậm được yêu thương và được thương xót, sẽ giúp chúng ta sống tâm tình của người tôi tớ và người nữ tì, như Đức Maria, Mẹ của chúng ta.

THỨ TƯ – Lc 17, 11-19

Lòng biết ơn

Lòng biết ơn biểu lộ niềm tin vào Thiên Chúa, Đấng là cội nguồn của mọi sự. Biết ơn là một trong những đức tính tốt đẹp của con người đối với Đấng Tạo Hoá. Vì Ngài đã ban muôn vàn phúc lộc cho chúng ta: từ không khí để ta hít thở, mặt trời để soi sáng ta, cho nước để ta uống, cho muôn loài muôn vật để ta sử dụng và làm thức ăn. Ngài luôn quan phòng, giữ gìn ta trong mọi nơi, mọi lúc… Thiên Chúa còn ban cho ta biết bao điều cao cả qua cha mẹ, qua anh chị, qua thầy cô, qua bạn hữu, qua tất cả những người đã giúp đỡ và làm ơn cho ta… Thể hiện lòng biết ơn là một nghĩa vụ hàng đầu trong cuộc sống con người.

Với truyền thống văn hóa người Việt nam thường nói: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. “Uống nước nhớ nguồn”. “Hòn đất ném đi hòn chì nám lại”. Lời “cám ơn” rất đơn sơ bé nhỏ, nhưng đem lại cho người làm ơn một sự vui thỏa, ấm áp. Đó là phép lịch sự, tế nhị tối thiểu, bình thường, và phải cư xử như vậy mới là người biết điều. Việt Nam cũng có những câu nói diễn tả người vô ơn: “Ăn cháo đá bát”. “Vắt chanh bỏ vỏ”. “Có trăng phụ đèn”. “Ăn mật trả gừng, ăn sung trả ngải”. Kẻ muốn được ơn thì nhiều, kẻ biết ơn thì quá ít. Câu chuyện Phúc âm hôm nay có tỷ số là một phần mười mà thôi.

Tạ ơn là tâm tình của Chúa Giêsu, của Mẹ Maria, và của các tông đồ, tâm tình đó ta thấy đầy dẫy trong Tin Mừng.

Chúa Giêsu luôn là mẫu mực của lòng tri ân. Cả cuộc sống của Chúa Giêsu là một bài ca tạ ơn liên lỉ dâng lên Thiên Chúa: Ngài tạ ơn Chúa Cha trước khi hồi sinh Ladarô, Ngài tạ ơn Chúa Cha khi nhân bánh ra nhiều để nuôi dân chúng. Khi lập bí tích Thánh Thể, Ngài đã cầm bánh và rượu dâng lời tạ ơn Thiên Chúa. Chính vì thế, Chúa Giêsu rất coi trọng lòng biết ơn trong cuộc sống của con người.

Thiên Chúa thi ân một cách nhưng không thì con người cũng phải đáp trả một cách tự do. Một tương quan như thế không thể có được trong một xã hội lề luật, trong đó con người chỉ biết tính toán theo thứ công bình hoán đổi. Người Do thái vốn quen thuộc với tâm thức ấy, họ tính toán chi ly về công đức của mình, họ lượng giá phần thưởng dựa trên công nghiệp của mình. Chúa Giêsu đã đánh đổ một quan niệm như thế về tương quan giữa con người và Thiên Chúa: ơn cứu rỗi mà Ngài loan báo và thực hiện là ơn cứu rỗi nhưng không, đến độ con người chỉ được cứu độ nhờ lòng tin vào lòng từ bi của Thiên Chúa, đến độ những kẻ tội lỗi là những người đầu tiên được vào Nước Chúa.

Và rồi ta thấy Thánh Luca nhắc cho ta nhớ lại phép lạ Chúa Giêsu chữa lành mười người phong hủi, tất cả đều được khỏi bệnh. Nhưng chỉ có một người đến tạ ơn và ca tụng Thiên Chúa. Chúa Giêsu không khỏi buồn lòng trước sự vô ơn của con người, nên Ngài đã thốt lên: “Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này”? (Lc 17, 17-18).

Lời kinh “Magnificat” là lời tạ ơn trọn hảo của Đức Maria dâng lên Thiên Chúa. Đây cũng là lời kinh ca ngợi đẹp lòng Thiên Chúa “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi…” (Lc 1, 47-56).

Trong các thư của Thánh Phaolô, thánh nhân cũng nhấn mạnh đến lời tạ ơn. Hơn nữa, ngài luôn sống trong tâm tình tạ ơn. Ngài nói: “Tôi luôn luôn tạ ơn Thiên Chúa” (Plm 1, 4). Ngài còn nhắc nhở mọi người “Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn” (1 Tx 5, 18).

“Cảm ơn” là tỏ lòng biết ơn với người đã làm điều tốt cho mình. Mỗi khi ta nhận được một ơn huệ gì, thì ta phải biết tạ ơn Chúa và cảm ơn những người làm ơn cho ta. “Cảm ơn” ấy là hai từ mà ta vẫn nói hàng ngày. “Cảm ơn”, lời nói cửa miệng tưởng như có thể nói với bất kỳ ai, bất kỳ lúc nào, nhưng nhiều khi ta không biết nói lời cảm ơn.

Cám ơn Chúa vì những điều may lành như ý thì dễ, nhưng cám ơn về những điều rủi ro trái ý lại không dễ chút nào. Vì thế chúng ta cần tập cám ơn Chúa về mọi điều xảy đến cho ta: vui cũng như buồn, thành công cũng như thất bại, an lành khỏe mạnh cũng như rủi ro tật bệnh… Vì những điều đó đều hữu ích cho phần rỗi đời đời của chúng ta, như thánh nữ Tê-rê-sa Hài Đồng Giêsu đã xác quyết: “Tất cả đều là hồng ân”.

Trong xã hội ngày nay, con số những người biết ơn Chúa, tôn thờ Chúa, vẫn còn là một con số rất khiêm tốn. Còn những kẻ vô ơn thì nhiều vô kể. Chúa luôn ban ơn cho người lành cũng như kẻ dữ, cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất lương. Thế mà con người ngày càng kiêu ngạo, vô ơn đã loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống.

Chúa Giêsu coi trọng và đề cao lòng biết ơn cũng vì ích lợi của kẻ biết ơn mà thôi. Người xứ Samaria trở lại tôn vinh Thiên Chúa vì Đức Giêsu đã chữa lành phần xác cho anh mà còn ban ơn phần hồn cho anh là củng cố niềm tin và xác định tư cách tôn giáo của anh: “Đứng dậy về đi, lòng tin của anh đã chữa anh” (Lc 17,19). Như thế, cám ơn Chúa lại là cơ hội để nhận được thêm ơn phúc. Trong kinh tiền tụng chung thứ 4 đã xác định:

“Tuy Chúa không cần chúng con ca tụng, nhưng việc chúng con cảm tạ Chúa lại là một hồng ân Chúa ban. Vì những lời chúng con ca tụng chẳng thêm gì cho Chúa, nhưng đem lại cho chúng con ơn cứu độ”.

Lòng biết ơn biểu lộ một con người tử tế, đạo đức, có văn hóa, biết cư xử ở đời. Có lẽ không có gì tử tế và tốt đẹp hơn trong cuộc sống làm người bằng hai tiếng cám ơn luôn được thốt lên với tất cả tấm lòng chân thành và trân trọng của mỗi người chúng ta

Hỏi rằng trong chúng ta có mấy người biết cảm tạ Chúa và cảm ơn anh em? Biết bao nhiêu lần chúng ta than vãn, kêu la, trách móc hết việc này đến việc khác, hết người này đến người kia, Hơn thế nữa, nhiều người còn oán trách cả Thiên Chúa. Vậy, Lời Chúa hôm nay dạy mỗi người chúng ta hãy biết nói lời cảm ơn từ những chuyện nhỏ nhất, bởi vì chúng ta đã nhận được biết bao nhiêu hồng ân Chúa ban cho ta qua vũ trụ vạn vật, qua mọi người trên trái đất này và nhất là qua những người thân cận, những người xung quanh ta.

Và trong lắng đọng, ta nhìn lại cuộc đời của ta và mỗi người kitô hữu chúng ta được dệt nên từ biết bao ân huệ Chúa đã thương ban. Ân huệ này nối tiếp ân huệ khác. Chính vì thế, chúng ta hãy sống tâm tình tạ ơn như Thánh Phaolô: “Anh em hãy tạ ơn Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh, vì đó là điều Thiên Chúa muốn” (Tx 5, 18).

THỨ NĂM – Lc 17, 20-25

Nước Thiên Chúa đang ở giữa các ông

Người Do Thái luôn mong ước Nước Thiên Chúa đến như lời đã báo trước. Tuy nhiên, Nước Thiên Chúa không đến như những người Do Thái mong đợi. Họ cho rằng khi Đấng Thiên Sai xuất hiện, Ngài sẽ khôi phục vinh quang thời quá khứ của dân tộc họ.

Qua trang Tin Mừng hôm nay cho ta thấy, Chúa Giêsu chỉnh hướng suy nghĩ của họ về Nước Thiên Chúa. Ngài tuyên bố Nước Thiên Chúa đã hiện diện qua con người của Ngài, qua những gì Ngài làm và giảng dạy. Nước Thiên Chúa giống như hạt giống đầy sức sống được chôn vùi vào lòng đất hay như nắm men được vùi trong ba đấu bột. Nước Thiên Chúa hoạt động trong lòng con người với một sức mạnh vô hình làm biến đổi tâm hồn và tâm trí. Nước Thiên Chúa chỉ đến với những ai tin và theo Chúa Giêsu.

“Nước Thiên Chúa đang ở giữa các ông” (c. 21). Chúa Giêsu đã nói với các ông Pharisêu như vậy khi họ hỏi Ngài khi nào Nước Thiên Chúa đến. Nước ấy không đến một cách lộ liễu ở đây hay ở kia để kiểm tra (c. 20). Người Pharisêu không nhận ra Nước ấy đang ở giữa họ. Chỉ ai biết nhìn, mới nhận ra Nước ấy đang hiện diện và hoạt động nơi lời giảng và các phép lạ của Đức Giêsu. Khi bệnh được khỏi, khi quỷ bị trừ, khi tội được tha, khi con người biết hoán cải để sống những đòi hỏi của Chúa Giêsu, khi ấy Nước Thiên Chúa có mặt và tăng trưởng.

Người Do Thái mong đợi Thiên Chúa thực hiện lời hứa sai Đấng Cứu Thế đến trần gian. Họ gọi đó là thời của Đấng Thiên Sai. Thời Thiên Sai còn được hiểu là Nước Trời, Nước Thiên Chúa hay Triều Đại Thiên Chúa. Tuy nhiên, người ta hiểu về Triều Đại Thiên Chúa một cách hết sức vật chất, cụ thể là một cuộc cách mạng xã hội, lật đổ ách thống trị của người Rôma rồi tiến đến thống trị thế giới. Chúa Giêsu chỉ ra cái sai lầm của quan niệm kia. Người bảo: Triều Đại Thiên Chúa không đến một cách hiển nhiên có thể quan sát được. Nó không phải là cuộc cách mạng xã hội hay chính trị để người ta có thể nói: “Ở đây này” hay “Ở kia kìa!” Khi Chúa Giêsu hiện diện trên trần gian thì đồng thời Triều Đại Thiên Chúa cũng hiện diện, vì Người chính là Triều Đại Thiên Chúa. Người ta phải nhận ra trong lời giảng, các phép lạ và nếp sống của Chúa những dấu chỉ của Triều Đại ấy. Vì thế mà Chúa quả quyết: vì này Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông.

Ngược lại với lời Chúa Giêsu, dường như thói thường chúng ta thường thích xem chuyện lạ, thích xem Chúa, Mẹ hiện ra; nghe ở đâu có chuyện lạ là ùn ùn đến ‘xem’; nhưng lại không muốn tuân giữ những điều Chúa dạy – con người, đời sống chẳng có gì biến đổi. Niềm tin của chúng ta thật mong manh. Chúng ta đang đắm mình và hòa vào một thế giới loại bỏ Thiên Chúa ra ngoài. Cuộc sống chỉ còn là những ganh đua và cạnh tranh, lao theo những nhu cầu vật chất không bao giờ đủ. Vì vậy, lời Chúa hôm nay như một tiếng chuông cảnh tỉnh, mời gọi mỗi người Ki-tô hữu nhìn lại tâm linh, duyệt xét đời sống của mình xem chúng ta có còn tin Chúa thực sự để biết rằng chúng ta là con Thiên Chúa và chúng ta phải sống như là con cái Chúa, như là công dân của nước trời.

Đức Ki-tô là hiện thân của nước Thiên Chúa. Đức Kitô đã đến. Người không những ở trong chúng ta mà còn ở giữa chúng ta nơi những người anh chị em sống chung quanh ta. Và hơn nữa, Người còn đồng hóa mình với những người nghèo nàn, bất hạnh. (Mt 25, 35 – 36) Vì vậy, chúng ta không thể chỉ tôn thờ Chúa trong nhà thờ hay khi đọc kinh cầu nguyện mà còn phải phục vụ Người trong cuộc sống, nơi tha nhân, nhất là những người chúng ta có bổn phận và trách nhiệm. Chúng ta khát khao ước ao nước cha hiển trị bởi vì đó là lẽ sống đích thực của chúng ta – sống trong nước tình yêu.

Bởi vì bộ mặt thế gian này luôn qua đi, nhưng nước tình yêu của Thiên Chúa sẽ tồn tại mãi, nơi ấy chúng ta có Thiên Chúa là Cha và mọi người là anh chị em với nhau. Vì thế nước Thiên Chúa không ở xa, nhưng ở giữa chúng ta, và mỗi người chúng ta có bổn phận trách nhiệm xây dựng nước ấy bằng tình yêu chân thực phát xuất từ tình yêu Thiên Chúa đã dành cho chúng ta. Đồng thời lời kinh lạy Cha mà chúng ta đọc có thể là rất nhiều lần trong một ngày “xin cho nước cha hiển trị” sẽ không là những lời máy móc, vô nghĩa, nhưng là lời khẩn nài tha thiết với ước vọng ơn Cha giúp cho Giáo hội, mọi Ki-tô hữu cũng như chính bản thân ta biết sống như là một công dân của nước trời làm sáng danh Thiên Chúa tình yêu và làm cho tình yêu ngự trị khắp vũ hoàn.

Chúa Giêsu đã khai mở Nước Thiên Chúa. Và Nước đó vẫn lớn lên từ từ qua dòng thời gian. Như hạt giống được gieo trong đất, đêm hay ngày cũng cứ lớn lên, như chút men làm dậy khối bột, như hạt cải thành cây cao rợp bóng, Nước Thiên Chúa cũng cần thời gian để đạt đến chỗ viên mãn. Hai ngàn năm trôi qua, Nước Thiên Chúa đã lớn lên về mọi mặt. Nhưng Kitô hữu chúng ta vẫn thấy còn nhiều điều phải làm để Nước đó được nhìn nhận bởi hơn 7 tỷ người trên trái đất. Ngày nào thế giới còn chiến tranh, bạo động, còn áp bức, bất công, ngày nào nhân loại còn bệnh tật đói nghèo, còn nô lệ cho vật chất, ngày ấy Nước Thiên Chúa chưa ngự trị trên trần gian. Nơi nào công lý và hòa bình, khoan dung và nhân hậu, chi phối trái tim và cách hành xử giữa người với người, nơi đó Nước Thiên Chúa đã đến gần hơn.

Vì tính cách bất ngờ của Ngày Chúa Đến, các tín hữu phải luôn tỉnh thức. Tỉnh thức có nghĩa là dấn thân tích cực trong giây phút hiện tại, chứ không phải là ăn không ngồi rồi mà chờ đợi. Đó cũng là giáo huấn của Chúa Giêsu mỗi khi Ngài nói đến Nước Thiên Chúa thời cánh chung: Nước Thiên Chúa sẽ thành tựu ở một thời điểm mà không ai biết trước được vào ngày Con Người sẽ quang lâm. Một trong những nét cao cả của con người chính là khả năng vượt qua thời gian, chỉ con người mới có thể hồi tưởng quá khứ và dự phóng tương lai, chỉ con người mới có khát vọng được trường sinh bất tử. Thiên Chúa quả thực đã đặt để trong lòng con người hạt giống của sự sống vĩnh cửu, hạt giống ấy chỉ có thể nẩy mầm trên thửa đất của hiện tại mà thôi: không thể đi vào vĩnh cửu mà không bước qua hiện tại, không thể yêu mến vĩnh cửu mà lại khước từ hiện tại.

Nước Thiên Chúa đã thật sự đến với ta là những người mang danh Kitô hữu, nhưng vẫn còn có rất nhiều người chưa được biết nước Thiên Chúa. Khi lãnh nhận bí tích Rửa tội, chúng ta là ngôn sứ của Chúa, và chúng ta cũng có nhiệm vụ loan báo Nước Thiên Chúa cho người khác. Lời loan báo tuyệt hảo nhất đó là chính đời sống chứng nhân của ta. Từng ánh mắt, từng nụ cười, lời nói, hành động trong tình yêu thương của ta là những phương thế hiệu quả để ta minh chứng rằng Thiên Chúa đang hiện diện và Nước Thiên Chúa đã đến.

THỨ SÁU – Lc 17, 26-37

Ngày cánh chung

Ta đang sống trên trần thế, đang hoạt động, đang làm việc, đang vui chơi, đang nghỉ ngơi,… Những gì được gọi là “đang” ấy sẽ có ngày chấm dứt, kết thúc tất cả. Đó là ngày cánh chung.

Ta đã được Chúa Giêsu cảnh báo về các tiên tri giả, điều này được Thánh Mátthêu ghi lại: “Vậy, nếu người ta bảo anh em: ‘Này, Người ở trong hoang địa’, anh em chớ ra đó; ‘Kìa, Người ở trong phòng kín’, anh em cũng đừng tin. Vì, như chớp loé ra từ phương đông và chiếu sáng đến phương tây thế nào thì cuộc quang lâm của Con Người cũng sẽ như vậy. Xác chết nằm đâu, diều hâu tụ đó” (Mt 24:26-28).

Chúa Giêsu dùng những sự tích trong Cựu Ước để cảnh báo tính bất ngờ của một biến cố rất lớn lao và chắc chắn sẽ xảy đến, đó là biến cố cánh chung, biến cố của ngày Chúa lại đến, “ngày Con Người được mạc khải” (c. 30). Lúc đó Chúa Kitô cũng chính là Ngôi Lời (Logos) ngự đến cách chung cuộc để cho ý nghĩa của mọi tạo vật được tỏ hiện, đó là lúc chương trình của Thiên Chúa được hoàn tất, là ngày mà từng người trong nhân loại đối mặt với vấn đề thiết yếu nhất của mình: đó là được cứu độ hay không được cứu độ.

Khi nói về những thực tại cánh chung, Chúa Giêsu đã dùng rất nhiều hình ảnh vốn quen thuộc với người Do thái, nhưng tựu trung chính cái bất ngờ vượt khỏi mọi phạm trù và trí tưởng tượng của con người vẫn là những nét chính của thực tại cánh chung ấy. Tất cả những hình ảnh và thí dụ được Chúa Giêsu sử dụng trong Tin Mừng hôm nay cho thấy rằng thực tại cánh chung, ngày tận thế, ngày của Chúa, vốn là một thực tại mà không ai biết trước được. Bằng nhiều hình ảnh và cách diễn tả khác nhau, Kinh Thánh luôn khẳng định tính bất ngờ của ngày thế mạt; do tính bất ngờ này, các Kitô hữu luôn được mời gọi để sống tỉnh thức.

Thật ra, ngày của Chúa hay thời cánh chung đã thực sự khởi đầu với chính cuộc Phục sinh của Chúa Giêsu. Chúng ta đang thực sự đi vào trong ngày ấy, nếu chúng ta sống kết hiệp với Ngài và trở thành nhân chứng của Ngài trong lịch sử. Chúa Giêsu đã đến để đổi mới mọi sự như thánh Gioan Tông đồ đã viết trong sách Khải huyền, hoặc như thánh Phaolô đã viết trong thư 2Cr: “Ai ở trong Chúa Kitô cũng đều trở thành một tạo vật mới, cái cũ đã qua và cái mới đã có đây rồi”. Chúa Kitô Phục sinh đang có mặt và tác động trong lịch sử loài người; chính Ngài đang phơi bày sức mạnh của tội lỗi là hận thù, ích kỷ, bạo động, và khơi dậy cũng như nâng đỡ những sức mạnh của chân lý, công bằng, liên đới, yêu thương. Bất cứ ai sống theo Ngài, người đó sẽ cảm thấy mình là tạo vật mới có sức thắng vượt quyền lực của sự dữ và tăm tối.

Chúa Giêsu mô tả ngày chấm dứt cuộc sống trần thế của cuộc sống con người bằng câu chuyện thời ông Noe với trận lụt hồng thủy, hoặc câu chuyện lửa đỏ diêm sinh thiêu rụi tất cả thành Sôđôma vào thời ông Lót trong Cựu Ước…thật bất ngờ, ghê gớm và đáng sợ vào ngày Chúa tái lâm để xét xử con người trên trái đất.

Cơn hồng thủy đã bất ngờ ập xuống vào thời ông Nôê,khi “họ đang ăn, họ đang uống, họ đang cưới vợ, họ đang lấy chồng.”Dòng chảy tự nhiên ấy bị cắt đứt đột ngột bởi cơn hồng thủy.Khi Thiên Chúa tiêu diệt thành Xơđôm bằng lửa bởi trời,thì “họ đang ăn, họ đang uống, họ đang mua, họ đang bán,họ đang trồng, họ đang xây” (c. 28).

Cuộc sống tưởng như cứ trôi đều, ai ngờ nó phải dừng lại. Chuyện ăn uống, mua bán, lập gia đình, trồng trọt, xây cất chẳng phải là điều xấu, cần phải tránh xa hay coi thường. Nhưng chúng ta không để mình bị ru ngủbởi cái nhịp tự nhiên và quyến rũ của chúng. Người Kitô hữu sống đời thường như mọi người một cách tỉnh táo.Tận tụy nhưng lại không bị mất hút, hết mình nhưng lại còn chút e dè. Sống tưng bừng giây phút hiện tại nhưng vẫn nhớ đến điểm tới. Hai người nằm một giường, hai phụ nữ xay một cối (cc. 34-35), nhưng số phận chung cuộc của họ lại khác nhau.Có người được đem đi, có người bị bỏ lại. Làm sao tôi đừng tiếc đồ đạc mà xuống lấy hay quay trở lại nhà (c. 31)? Làm sao tôi đừng như vợ ông Lót quay nhìn lại và hóa thành cột muối?

Sự việc xảy ra thật bất ngờ đến độ người ta đang vui chơi, ăn uống, cưới vợ gả chồng,…thì lũ lụt xảy đến, mưa lửa và diêm sinh từ trời đổ xuống.

Sự việc thật bất ngờ khi mà hai người đàn bà đang xay cùng một cối bột, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại; hoặc hai người đàn ông đang ở ngoài đồng, thì một người sẽ được đem đi, còn người kia bị bỏ lại.

Những điều đó sẽ xảy ra trong ngày Chúa quang lâm, hầu cảnh giác con người hãy tỉnh thức và sẵn sàng. Và số phận của con người tùy thuộc vào chính cuộc sống của họ trên trần gian: kẻ lành được chọn, kẻ dữ sẽ bị loại trong ngày quang lâm.

Ngày cánh chung sẽ đến, nhưng bao giờ xảy đến không ai biết. Nhưng Chúa cho sự việc xảy ra như thế nhằm đốc thúc con người đừng quá chăm lo cho cuộc sống hiện tại, đừng quá chểnh mảng, lơ là trong công việc chuẩn bị cho ngày cánh chung, mà cần phải biết chăm lo cho cuộc sống mai sau bằng thái độ chuẩn bị và sẵn sàng.

Ngày cánh chung sẽ đến với từng người, không ai có thể sống mà không thoát khỏi cái chết. Chúa nhắc nhở mọi người: “khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ lên ngai vinh hiển của Người. Các dân thiên hạ sẽ được tập họp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ ra với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê”.

Do đó, mỗi người đừng chăm bẵm, cho cuộc sống hiện tại mà đi tìm vinh quang, bổng lộc của trần thế, đừng lơ là mà hãy biết chăm lo cho cuộc sống đời sau, để cách sống ta được thể hiện qua số phận được định đoạt trong ngày cánh chung, ta được Thiên Chúa tuyển chọn hay sa thải là do cách sống của mình: “Thế là họ sẽ ra đi, bọn này để chịu cực hình muôn kiếp, còn những người công chính, để hưởng sự sống muôn đời”

Hôm nay, Chúa cũng nhắc nhở ta đừng quá bám víu vào thế gian, hoặc vun quén cho sự sống thế tục của mình, nhưng phải lo đến cuộc sống đời đời của mình bằng việc sống đẹp lòng Chúa hơn.

Số phận của chúng ta được định đoạt trong ngày phán xét: được chọn hay bị loại. Tất cả tùy thuộc vào thái độ sống hiện tại của chúng ta: tin hay từ chối đức tin, yêu mến Chúa và phục vụ tha nhân hay khước từ tình yêu với Chúa và với tha nhân.

Chúa Giêsu không muốn đe dọa ta về ngày tận cùng của thế giới, mà Người chỉ muốn nhắc nhở như Đức Thánh Cha Benedictô 16 nhắc lại. Đề ứng phó ngày cánh chung chỉ có hai bửu bối duy nhất và quan trọng nhất, đó là tinh thần sẵn sàng đón nhận với tâm tình cầu nguyện.

Xin Chúa cho ta biết chuẩn bị tâm hồn đón chờ ngày cánh chung. Xin Chúa thúc đẩy chúng ta sống tâm tình tỉnh thức và sẵn sàng. Xin Chúa giúp ta biết sống xứng đáng với phẩm giá làm người và làm con cái Chúa để bảo đảm cho sự sống vĩnh cửu mai sau.

THỨ BẢY – Lc 18, 1-8

Cầu nguyện luôn

Với trang Tin Mừng hôm nay, ta thấy bắt đầu: “Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn, dạy các ông phải cầu nguyện luôn, đừng ngã lòng”. Dụ ngôn nói về một bà goá gây phiền hà. Để trả lời cho câu hỏi “Chúng ta phải cầu nguyện bao lâu?” Chúa Giêsu trả lời, “phải cầu nguyện luôn!” (Lc 18, 1-2).

Bà góa, theo truyền thống và truyền thống của các quốc gia vùng cận đông là người bị áp bức và bị bỏ rơi trong xã hội. Bà không có tiền để hối lộ, làm sao quan tòa có thể mau mắn xét xử cho bà dược.Bà chỉ biết một điều duy nhất là kiên trì, bền bỉ van nài không nản lòng. Bà đã thành công. Cầu nguyện có sức mạnh phi thường như Chúa đã dạy: “Cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ gặp, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho”.

Bà góa trong dụ ngôn tin chắc vào vụ kiện của mình, khi chứng tỏ rằng bà đáng được đền bù, nên không ngại đấu tranh vì điều đó, bà có đủ lý do để khiếu kiện, vì các thẩm phán hành động không theo công lý, “họ không kính sợ Thiên Chúa, cũng không kiêng nể người ta” (Lc 18, 3). Chúa Giêsu không ngại gọi ông là “vị thẩm phán bất lương” (Lc 18, 7), vị này không có ý định xử vụ bà góa kiện, ông chẳng thèm để ý đến vụ kiện của bà. May thay, câu chuyện kết thúc tốt đẹp: từ chối mãi, cuối cùng ông mất kiên nhận vì sự quấy rầy của bà, nên xét xử cho bà, để ông khỏi nhức óc.

Và Chúa Giêsu phán: “Các con hãy nghe lời vị thẩm phán bất lương đó nói”. Cuối cùng vị thẩm phán đó cũng mang lại công lý, hơn nữa chúng ta chắc chắn rằng Thiên Chúa sẽ nghe lời chúng ta. Chúa Giêsu tuyên bố một cách long trọng rằng: “Thầy bảo các con, Chúa lại sẽ kíp giải oan cho họ” (Lc 18, 8).

Kiên trì là bài học mà Chúa Giêsu dạy chúng ta trong việc cầu nguyện. Ông quan tòa bất lương, vô đạo coi thường cả Chúa, khinh khi con người, chỉ biết có tiền bạc, kiêu căng, bất công… thế mà chịu thua sự kiên trì của bà góa nghèo. Thiên Chúa là Đấng tốt lành, giàu lòng thương xót, Ngài sẽ mau chóng bênh vực những kẻ kêu Ngài cách kiên trì trong tin tưởng.

Sự cầu nguyện, như tình yêu, không chịu sự tính toán. Một người mẹ đâu có hỏi bà phải thường yêu con mình bao lâu, hay là một người bạn đâu có hỏi mình phải yêu một người bạn bao lâu? Có thể có những mức độ khác nhau trong sự cân nhắc đối với tình yêu, nhưng không có những khoảng cách nhiều hay ít điều hòa hơn trong sự yêu đương. Với sự cầu nguyện cũng vậy. Lý tưởng của sự cầu nguyện kiên trì này được thực hiện trong nhiều hình thức bên phương Đông và phương Tây. Kitô giáo phương Đông thực hành điều ấy với Kinh cầu nguyện Chúa Giêsu: “Lạy Chúa Giêsu Kitô, xin thương xót con!”

Cầu nguyện trong kiên trì và không nản lòng là nội dung chính của bài tin mừng hôm nay được minh họa bằng dụ ngôn ông quan tòa vô đạo bất lương và bà góa nghèo đến xin ông minh oan, xét xử cho bà. Ở đây cho thấy hiệu quả của sự kiên trì cầu nguyện “Có công mài sắt, có ngày nên kim”.

Cầu nguyện là đặc điểm chung của mọi tôn giáo. Cầu nguyện là cốt lõi của đời sống đức tin. Để lời cầu nguyện mang lại những kết quả như mong muốn, ta cần phải kiên trì. Như người nông phu gieo hạt rồi kiên trì chờ đợi cho cây mọc lên, người tín hữu cũng phải bền bỉ trong lời cầu nguyện. Hình ảnh bà góa được Đức Giêsu nhắc tới trong Tin Mừng hôm nay muốn chứng minh điều ấy. Qua hình ảnh này, Chúa Giêsu khuyên ta cầu nguyện luôn và không nản chí. Nếu ta ngưng cầu nguyện, chúng ta hầu như mất nhiệt tình và bỏ cuộc. Nếu ta cầu nguyện liên tục, chúng ta sẽ không bao giờ mất nhiệt tình.

Môsê đã kiên trì cầu nguyện, cầu nguyện liên lỷ và đã chiến thắng quân Amalec: Có Chúa giúp ta mới chiến thắng. Bà góa nghèo kiên trì, bền bỉ van xin ông quan tòa xét xử minh oan cho mình. Trước sự kiên trì của bà góa; dù có bất nhân, vô đạo như ông quan tòa trong dụ ngôn cũng phải xiêu lòng, chấp nhận xét xử cho bà theo yêu cầu “vì bà góa này cứ quấy rầy ta mãi, ta xét xử cho rồi…” (Lc 18,2).Khí giới duy nhất của bà để đấu tranh thành công là sự kiên trì bền bỉ van xin.

Đức tin là một hồng ân Thiên Chúa ban cho chúng ta một cách nhưng không. Chúng ta không thể tin tưởng, trông cậy, và kiên vững với hy vọng nếu Thiên Chúa không lôi kéo chúng ta đến với Người trước và mặc khải cho chúng ta tình yêu thương xót và sự quan tâm của Người. Nếu chúng ta muốn lớn lên và kiên vững trong niềm tin cho đến phút cuối cùng, thì chúng ta phải nuôi dưỡng đức tin của mình với lời Chúa, và cầu xin Chúa ban thêm niềm tin cho chúng ta (Lc 17,5). Khi các thử thách và thất bại làm bạn nản lòng, bạn đặt niềm hy vọng và tin tưởng của mình vào đâu? Bạn có cầu nguyện với đức tin và lòng trông cậy kiên vững vào sự quan phòng săn sóc đầy thương xót của Chúa dành cho bạn không?

Ta phải cầu nguyện luôn vì chúng ta lệ thuộc vào Chúa, chỉ có Chúa mới giúp được chúng ta. Sự kiên trì cầu nguyện giúp ta luyện đức cậy trông bởi vì có hết lòng cậy trông, con người mới đáng Chúa ban ơn. Kiên trì cầu nguyện là dấu chỉ lòng trung tín của ta với Thiên Chúa. Chúa khoan dãn ban ơn để giúp đức tin của ta vững mạnh và ta tỏ lòng yêu mến Chúa.

Thiên Chúa là Đấng tốt lành không bao giờ làm ngơ trước những lời cầu xin của chúng ta, không bao giờ bỏ mặc chúng ta trong khó khăn. Chúa là Cha Nhân từ. Chúa biết trước những điều chúng ta xin, nhưng Chúa luôn tôn trọng tự do của con người, Chúa không áp đặt lên ta những ân huệ của Ngài, Chúa đáp ứng các ước vọng của ta. Lòng quảng đại của Chúa thỏa mãn vượt quá những lời chúng ta xin.

Vì thế, Chúa Giêsu muốn ta liên lỉ cầu nguyện và cầu nguyện cách kiên trì. Như Môsê quì giang tay suốt ngày cầu nguyện cho dân Do Thái thắng trận, như bà goá suốt bao ngày tháng cầu xin quan toà minh xét cho bà, như thánh Mônica ròng rã 20 năm trường cầu nguyện cho người con là Augustino trở lại, chúng ta hãy cầu nguyện liên tục và bền chí, không nhàm chán, ngay cả khi xem ra Chúa ngoảnh mặt làm ngơ. Hãy cầu nguyện mọi nơi mọi lúc và biến mọi việc chúng ta làm trở nên những lời cầu nguyện. Nghĩa là làm mọi việc vì lòng mến Chúa; làm mọi việc như Chúa muốn.

Cầu nguyện đích thực là việc thực hành đức tin, là gặp gỡ Thiên Chúa, nâng tâm hồn lên cùng Thiên Chúa để đối thoại với Người, van xin Người tiếp tục ban ơn hồn xác để chúng ta đủ sức thực thi thánh ý Chúa trong cuộc sống thường ngày. Như thế, ai biết cầu nguyện, người đó biết sống và sống thánh thiện.