31/07/2024
751
Bài giảng Lễ Chúa Nhật XVIII Thường Niên - Giáo phận Mỹ Tho











 







GỢI Ý SUY NIỆM

LỄ CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN - NĂM B

Xh 16,2-.12-15; Ep 4,17.20-24; Ga 6,24-35



Lm. Đaminh Lê Minh Cảnh

Bánh Hằng Sống

Vào năm 2015 ở Hà Tĩnh, có một bé gái 10 tuổi tên Nhung, đã bị chết vì đói. Do nhà nghèo, nên thường ngày em đi học với cái bụng trống rỗng. Thời gian nhịn đói kéo dài quá lâu, khiến Nhung bị suy dinh dưỡng nặng đến độ kiệt sức. Trên đường đi học về, em bị ngất xỉu khi cố đạp xe qua cầu; sau đó té xuống sông và chết đuối.

Khi nghe tin, phóng viên Đài truyền hình VTC 14 đến để tìm hiểu sự việc. Ba bé Nhung (anh Vân) có 4 đứa con, Nhung là đứa lớn nhất trong nhà.

Anh phóng viên hỏi 1 trong 3 đứa em của Nhung: “Chiều nay, nhà con ăn cơm với gì?”

Bé trả lời: “Dạ, ăn cơm với rau luộc!”

Tò mò, anh hỏi tiếp: “Bộ ngày nào nhà con cũng ăn cơm với rau luộc hả?”

Bé trả lời rằng: “Dạ vâng ạ”.

Cái chuyện “ăn cơm rau luộc mỗi ngày”, nếu đặt đúng vào cái hoàn cảnh nghèo đói chung của cả nước, vào thời điểm năm 78-80, thì ta còn hiểu được; vì lúc đó ai cũng đói, ai cũng khổ hết.

Nhưng mà, thưa anh chị em “cả gia đình anh Vân, ăn rau luộc mỗi ngày” và bé Nhung bị chết do kiệt sức vì đói lại xảy ra vào năm 2015, đáng cho chúng ta suy nghĩ. Lẽ ra trong thời hiện đại, sẽ không còn có ai phải chết vì đói nữa, bởi lẽ, lương thực của thế giới do con người tạo ra, phải nói là từ đủ đến dư thừa, chứ không có thiếu. Vậy mà, bé Nhung chịu chết vì đói như vậy? Thật đáng thương thay! Phải chăng câu nói “tối lửa, tắt đèn có nhau” nay đã không còn; đến lúc em qua đời thì mọi người mới tạm rơi những giọt nước mắt, gọi là yêu thương muộn màng.

Từ cảnh tượng “nghèo đói và thiếu ăn” của câu chuyện, gợi lại cho ta hình ảnh đói khát của đoàn dân Do Thái (Tk 13 Tcn), băng qua sa mạc trên đường về nước, sau thời gian làm nô lệ bên Ai Cập.

Trong hoàn cảnh khó khăn đó, lẽ ra có Manna và chim cút từ trời rơi xuống để ăn, cho đỡ đói, là may lắm rồi. Và khi khát nước, có ông Môisen làm theo lời Chúa dạy, lấy cây gậy đập vào tảng đá để nước phun ra cho uống thoả thuê; vậy mà, dân vẫn không hài lòng, mở miệng chê bai điều này, điều nọ.

Như Bài đọc 1 tả lại dân trách ông Môisen: “thà ông để chúng tôi, tiếp tục làm nô lệ bên đất Ai Cập, mà chúng tôi được ăn no nê với rượu thịt đầy đủ, còn hơn, ông đưa chúng tôi vào sa mạc này, để chúng tôi chịu đói, chịu khát, và chịu thiếu thốn như thế này”.

Với vai trò lãnh đạo, Môisen vẫn chịu đựng làm thinh, khi dân than phiền, trách móc. Khi về đến quê nhà thì dân mới hiểu, và nhận thức rằng trong sa mạc Thiên Chúa đã không bỏ rơi họ; vì Người vẫn yêu thương và ban cho họ, những thứ cần thiết, để cứu sống họ.

Chính vì thế mà từ đó về sau, vào những dịp đại lễ người Do thái vẫn nhắc cho con cháu nhớ rằng: Manna đã từng cứu sống họ, khỏi những cơn đói trong sa mạc, nên không bao giờ, được phép quên tấm bánh Manna (vì đó như là vị cứu tinh của dân tộc).

Bước sang thời Tân ước vẫn thế, giá trị của chiếc bánh Manna được Chúa Giêsu nâng lên 1 tầm cao mới, với tên gọi mới: “Bí Tích Thánh Thể”. Nghĩa là Mình Máu Chúa Giêsu là lương thực dưỡng nuôi phần xác, và cả phần hồn cho những ai tin vào lời Chúa nói. Trong Tin Mừng “Chúa là bánh hằng sống từ trời xuống, ai đến với Chúa, không hề phải đói, ai tin vào Chúa, chẳng khát bao giờ”.

Cho nên, mỗi lần lên rước lễ ta tin rằng Mình Thánh Chúa trên tay mà ta đón nhận, không phải là một tấm bánh bình thường như bao nhiêu tấm bánh khác, mà đó là một “Đấng” đã hoá nên của ăn để ban sự sống thần linh cho ta.

Chính vì thế mà mỗi khi lên rước Mình Thánh Chúa: “bàn tay trái, ta đặt trên bàn tay phải, nâng lên ngang tầm vai một cách trang trọng, và miệng thưa “Amen”, khi thừa tác viên trao Mình Thánh Chúa Kitô.

Khi nói đến Mình Thánh Chúa Kitô là thần lương, nuôi sống con người, cách kỳ diệu tôi nhớ đến trường hợp của cô Louis Lateau, một người Công giáo, người Bỉ. Cô rất đạo đức, được Chúa in Năm Dấu Thánh vào thân thể của cô vào năm 1868. Mặc dù đau yếu, không ăn uống được gì, nhưng nhờ rước Chúa hàng ngày, mà kéo dài sự sống đến 7 năm.

Hay là trường hợp của Têrêxa Niu-Man và Matta Robin, cũng tương tự. Trong nhiều năm, không ăn uống gì mà 2 người vẫn sống, nhờ rước Mình Thánh Chúa mỗi ngày (đúng là phép lạ Thánh Thể).

Qua những sự kiện lạ đó, có lẽ Chúa muốn nhắc mỗi người chúng ta nhớ lại lời Chúa dạy rằng: “người ta sống, không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời, do miệng Thiên Chúa phán ra.”

“Lời do miệng Thiên Chúa phán ra, nếu hiểu theo cách thánh Phaolô nói, trong thư Do Thái (4,12) thì đó là Lời Hằng Sống”. Mà Lời Hằng Sống là lời luôn luôn có giá trị, theo thời gian (từ trong quá khứ, xuyên qua hiện tại và hướng đến tương lai).

Nghĩa là ngày xưa Chúa dạy các Tông đồ bằng những lời nói nào, thì hôm nay những lời dạy đó của Chúa vẫn mãi là bài học quý báu, cho con người ở mọi nơi, trên thế giới học lấy. Bởi vì Lời của Chúa luôn xuất phát từ trái tim vốn “rất từ bi và nhân hậu” của một Thiên Chúa làm người, mang bản chất “yêu thương”.

Nói đến đây, có thể tóm tắt lại rằng mỗi Thánh lễ gồm có 2 phần:

Phần 1: Lời Chúa (với các bài đọc),

Phần 2: Mình Chúa (trong phần Hiệp lễ)

Cả 2 phần (Lời Chúa và Mình Chúa) đều là của ăn thiêng liêng, nuôi dưỡng và thánh hóa hồn và xác chúng ta. Cho nên ước gì chúng ta luôn ý thức Chúa vẫn luôn hiện diện và ban ơn lành cho ta, mỗi khi ta kết hiệp với ngài trong thánh lễ. Amen




Tôma Lê Duy Khang

Tin mừng hôm nay trình bày khi dân đi theo, Chúa Giêsu nói: “Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê. Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận.” Tại sao Chúa Giêsu không ban cho họ thứ bánh trường sinh mà phải bắt họ đi tìm?

Bài đọc 1 trích sách Xuất hành là một minh họa cho chúng ta, chính Thiên Chúa đã ban Manna và chim cút cho dân. Chúng ta biết chỉ trong một tháng sau khi rời bỏ Ai cập, cuộc sống trong sa mạc đã ảnh hưởng xấu đến tâm trạng người Do thái. Họ bắt đầu than vãn và thèm thuồng nồi thịt bên Ai cập, chứ không chăm chú vào đất hứa nữa. Từ đó họ kêu trách Môse và Aharon: “Tại sao các ông lại dẫn chúng tôi lên sa mạc này, để cả lũ phải chết đói như vậy?” Chúa liền cho Môse biết: Ngài sẽ ban cho họ bánh và thịt dư dật, để xem họ có tuân giữ lề luật của Ngài không.

Ngay chiều hôm đó, Chúa cho chim cút bay đến, rợp các trại, dân mặc sức bắt về làm thịt. Sự lạ này chỉ xảy ra hai lần ở sa mạc Xin hôm nay và ở Sinai sau này (x. Ds 11,31-34). Sáng hôm sau, Chúa cho Manna từ trời rơi xuống, đây là một loại hạt, giống như hạt ngô, có mùi như bánh ngọt pha mật ong. Người Do thái mỗi sáng lượm về, cho vào cối, xay nhỏ ra, rồi làm bánh, loại thực phẩm này, Chúa ban cho dân suốt 40 năm, tới khi vào đất hứa.

Tại sao trong Tin mừng hôm nay Chúa lại bắt dân phải ra công làm việc để có được thứ bánh trường sinh? Chúng ta biết con người thường rất thích hạnh phúc, không ai muốn đau khổ cả, lúc hạnh phúc thì chạy đến, lúc đau khổ thì tháo lui, các thánh tông đồ ngày xưa cũng vậy, khi Chúa biến hình trên núi, khi Chúa làm phép lạ kỳ diệu thì chạy đến với Chúa, còn khi Chúa loan báo cuộc khổ nạn thì mắt các ông bị che khuất, không ai hiểu, thậm chí là không ai muốn hiểu. Các môn đệ đi theo Chúa là để hưởng mọi sự may mắn tốt lành ở đời này, muốn Chúa bảo vệ mình để mình được hưởng hạnh phúc đời này, và hưởng hạnh phúc thiên đàng đời sau, thánh Phêro nói: “Lạy Thầy, chúng con bỏ mọi sự mà theo thầy thì chúng con được cái gì?” nghĩa là muốn sung sướng mà không cần phải qua đau khổ. Chúa từ khổ giá đau thương mới đến vinh quang phục sinh, còn chúng ta, chúng ta muốn đi thẳng một cái, điều này là không thể.

Tôi nhớ khi xem phim Tây du ký, kể câu chuyện Đường Tăng đi tây thiên thỉnh kinh, mà đường đi là 1 vạn tám ngàn dặm, khi biết được điều này Tề Thiên mới nói với Đường Tăng, để mình cõng thầy, lộn 1 vòng là tới, khỏi phải đi, Đường Tăng không chịu, đi như vậy không có lòng thành, đi như vậy thì còn gì là đi. Nên có người nói: đừng nhặt con ốc vàng, sóng xô vào tận bãi, những điều gì dễ dãi, có bao giờ bền lâu. Hãy nhặt con ốc nâu, nằm sâu dưới đáy biển, những cái gì khó kiếm, mới thật sự bền lâu.

Nghĩa là Chúa muốn người Do thái ý thức được sự cao trọng của thứ bánh trường sinh mà Chúa sẽ ban cho con người, bánh trường sinh này không phải là loại bánh thường tình, mà cho dù là loại bánh thường tình đi chăng nữa, chúng ta cũng phải biết trân trọng.

Chúng ta biết có người nói như thế này: cuộc đời sao lắm bất công, kẻ ăn không hết, người lần không ra. Chính vì cái ăn không hết đó nên chúng ta không biết trân trọng, nên Chúa Giêsu muốn con người phải ra công làm việc để đạt được bánh trường sinh, để ý thức sự cao trọng của bánh trường sinh mà không để lãng phí, lãng phí ở đây là dùng một cách bất kính, nhiều người không ý thức được việc này nên đã lãng phí, lãng phí vì mình có tội mà lại lên rước lễ, lãng phí vì nhiều người không còn sức khỏe muốn đi tham dự thánh lễ để được rước lễ mà không được, lãng phí vì nhiều người bị ngăn trở luân lý không thể rước lễ, còn chúng ta rước lễ mà không ý thức được đó là Mình và Máu Thánh Chúa, để rồi mang tâm trạng có cũng được, không có cũng không sao.

Xin cho mỗi người chúng ta biết ra công làm việc để có được lương thực trường sinh, để chúng ta biết quý trọng lương thực đó, vì chính nhờ lương thực trường sinh đó mới dẫn đưa chúng ta vào cõi sống muôn đời. Amen.



Lm. Thái Nguyên

Bánh Trường Sinh

Suy niệm

Manna vẫn được xem là bánh của Thiên Chúa ban xuống bởi trời để nuôi dân 40 năm trong sa mạc trong cuộc hành trình về Đất Hứa. (Tv 78,24; Xh l6,15). Trong Do Thái giáo, có một niềm tin mạnh mẽ là khi Đấng Mêsia đến, Ngài sẽ lại ban manna cho dân chúng đang mong chờ. Việc ban manna được coi là công việc tối quan trọng đối với vai trò của Môsê, người của Thiên Chúa Với cái nhìn đó, dân chúng nghĩ rằng, nếu thật sự Đức Giêsu là Đấng Mêsia thì phải làm hơn thế nữa.

Miếng ăn là nỗi lo của mọi người trong mọi thời đại, nhất là đối với dân nghèo. Dân chúng vùng Galilê sau khi được Chúa cho một bữa ăn no nê, lại tiếp tục đổ xô đi tìm Ngài. Ðức Giêsu không trách họ về chuyện đó, nhưng Ngài cũng không ngại nói thẳng: “Các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê”. Con người ta vẫn thế, dễ để cho miếng ăn vật chất quyết định về tính cách của mình. Quan niệm của người đời vẫn mang tính cách như thế: “Mạnh vì gạo, bạo vì tiền”. Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng nói lên điều đó:“Còn bạc còn tiền còn đệ tử, hết cơm hết rượu hết ông tôi”. Ngay trong tôn giáo, các tín hữu vẫn nói: có thực mới vực được đạo. Vật chất miếng ăn vẫn chiếm hàng đầu. Còn chúng ta thì sao?

Có thể chúng ta cũng bị yếu tố vật chất tác động mạnh mẽ: khi sung túc thì sốt sắng; khi túng thiếu thì nguội lạnh, thậm chí có người buông bỏ đời sống đức tin khi làm ăn thất bát, cầu xin mãi mà cũng chẳng thấy hơn gì. Cũng như dân Do Thái xưa, muốn quay về Ai Cập để tìm lại miếng ăn xưa, dù phải tiếp tục đem thân làm nô lệ. Đức Giêsu muốn nâng cao phẩm cách của con người nên đã đưa ra lời cảnh giác: “Các ngươi hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh”. 

Rất tiếc, người dân Galilê cũng lại nhớ đến chiếc bánh hôm qua trong sa mạc. Họ dừng lại ở phép lạ hóa bánh bên ngoài, không muốn tìm kiếm hay mơ ước những gì lớn lao hơn, chỉ xin cho được có bánh ăn mãi. Con người ngày nay trong điều kiện kinh tế tiến bộ vượt bực, nhưng có lẽ tâm trạng cũng không khác gì dân Do Thái xưa, chỉ muốn sống với những gì trước mắt. Người nghèo thì bị cuốn hút vào công việc làm ăn, để giải quyết vấn đề cơm áo gạo tiền hằng ngày. Người giàu thì chạy theo tiện nghi và thời trang. Đứng trước cuộc sống hiện đại, ta thấy nhu cầu hưởng thụ ngày càng cao, tìm kiếm sự thỏa mãn ngày càng nhiều. Rốt cuộc, kẻ nghèo người giàu đều có nguy cơ trở nên nô lệ cho vật chất, không nhận ra phẩm giá cao cả của đời mình.

Văn hào Leon Tolstoi viết một tiểu thuyết ngắn với tựa đề: “Con người chúng ra sống bằng gì?” Tác giả nêu ra câu hỏi và trả lời ngay sau đó: “Con người chúng ta sống bằng tình yêu”. Có no thỏa bằng vật chất rồi cũng chết, chỉ có tình yêu mới làm cho ta sống mãi, vì “Thiên Chúa là tình yêu”. Cơm bánh không thể thỏa mãn cơn đói của một con người có tâm hồn linh thiêng. Con người còn đói nhiều thứ: đói được tôn trọng, được chấp nhận; đói niềm tin, đói hy vọng, đói được yêu thương, an bình và lẽ sống. Cho dù đã thỏa mãn mọi thứ trong cuộc đời này từ vật chất cho tới tinh thần, thì người ta vẫn cảm thấy thiếu hụt điều gì đó rất sâu xa, mà thiếu nó thì mọi cái khác đều trở thành dư thừa.

Chẳng lạ gì mà các bạn trẻ thành công và ngay cả những người đã thành đạt vẫn rơi vào thất vọng, cô đơn, chán chường, có khi tuyệt vọng, vì không tìm thấy ý nghĩa cho đời mình. Ý nghĩa hay khát vọng sâu xa nhất của con người là chính Thiên Chúa, là sự sống đời đời chứ không phải đứt đoạn với sự sống đời này. Thiên Chúa mới là cùng đích, là chóp đỉnh của mọi khát vọng, là suối nguồn hạnh phúc của đời sống con người. Đó cũng là kinh nghiệm của thánh Augustinô, luôn khắc khoải cho tới khi nào gặp được chính Chúa.

Mọi khát vọng no thỏa của con người cũng chỉ là biểu hiện sự khao khát Tuyệt Đối mà Thiên Chúa đã đặt trong lòng. Đức Giêsu khơi dậy sự khát vọng đó nơi tâm hồn con người. Ngài không cho dân chúng thứ manna ngày xưa, nhưng cho họ thứ bánh đích thực bởi trời, bánh ban sự sống đời đời như Lời Ngài công bố: “Chính tôi là bánh trường sinh, Ai đến với tôi sẽ không đói, ai tin vào tôi sẽ không khát bao giờ”. Chúng ta hãy đến với Chúa Giêsu, hãy tin tưởng tuyệt đối vào Ngài. Hãy để cho Lời Ngài và Mình Ngài nuôi dưỡng ta, thần hóa ta, để ta đạt tới chính Thiên Chúa, Đấng duy nhất lấp đầy khao khát vô biên của con người, mà ngoài Ngài ra, tất cả đều là hư không.

Cầu nguyện

Lạy Chúa!
Kinh nghiệm sống hằng ngày cho con thấy,
càng hưởng thụ con càng khao khát,
thỏa thích rồi nhưng lại cứ khát khao,
mọi thứ trần gian cho dù có đầy tràn,
cũng chẳng thể làm lòng con thỏa mãn.

Bao người đầy thế lực và tiền bạc,
nhưng chẳng tìm thấy được bình an,
cuối cùng rồi cũng đến lúc chán chê,
có khi còn phải gánh lấy những ê chề,
còn cơ may khi ai đó biết quay về,
để tìm cho đời mình một ý nghĩa.

Ý nghĩa của đời con là chính Chúa,
Đấng đã dựng nên con cho chính Ngài,
bởi vì mọi thứ khác sẽ tàn phai,
càng bám níu lại càng thêm hư hại,
chẳng lạ gì con khắc khoải khôn nguôi,
cho tới khi được yên hàn trong Chúa.

Nhìn vào tận thâm tâm con mới thấy,
trái tim người có khoảng trống mênh mông,
mà chỉ có Thiên Chúa mới lấp đầy,
nhưng thực tế chúng con vẫn u mê,
vẫn chạy theo những vinh hoa phù thế,
chưa dám sống cho những gì mình tin.

Xin cho chúng con sớm nhận ra,
chỉ có Chúa mới thật là tất cả,
là bánh ban sự sống đến muôn đời,
mà lòng con khao khát mãi khôn vơi.

Chúa cho con được diễm phúc cao vời,
được rước Chúa ngay trong từng thánh lễ,
xin cho lòng chúng con luôn say mến,
tìm mọi cách để được đến với Ngài. Amen.