08/07/2025
583
Bài giảng Lễ Chúa Nhật XV TN - Giáo phận Mỹ Tho















 




GỢI Ý SUY NIỆM

CHÚA NHẬT XV THƯỜNG NIÊN - C

Lc 10,25-37

Tôma Lê Duy Khang

Bài đọc 1 trích sách Đệ Nhị Luật có nói về việc tuân giữ luật của Chúa, tuân giữ lời của Chúa như thế này: “Quả thế, mệnh lệnh tôi truyền cho anh (em) hôm nay đây, không vượt quá sức lực hay ngoài tầm tay anh (em). Mệnh lệnh đó không ở trên trời, khiến anh (em) phải nói: "Ai sẽ lên trời lấy xuống cho chúng tôi và nói cho chúng tôi nghe, để chúng tôi đem ra thực hành? Mệnh lệnh đó cũng không ở bên kia biển, khiến anh (em) phải nói: "Ai sẽ sang bên kia biển lấy về cho chúng tôi và nói cho chúng tôi nghe, để chúng tôi đem ra thực hành? Thật vậy, lời đó ở rất gần anh (em), ngay trong miệng, trong lòng anh (em), để anh (em) đem ra thực hành.”

Tại sao lại có lời dạy này, thưa vì con người tưởng rằng lời dạy của Chúa rất xa, khó mà đạt tới.

Nhưng có nguyên nhân nữa đó là vì con người muốn chối bỏ không thực hiện lời Chúa dạy, chỉ muốn thực hiện điều mình muốn, nên dù lời Chúa rất gần ngay trong miệng, ngay trong lòng mà không thực hiện được.

Cụ thể trong bài tin mừng chúng ta vừa nghe, ông thông luật hỏi Chúa Giêsu làm gì để có được sự sống đời đời, thì được cho biết là muốn có sự sống đời đời thì phải có lòng yêu mến Chúa, và yêu mến người thân cận như chính mình.

Ông ta tiếp tục hỏi Chúa Giêsu ai là người thân cận của tôi, nghĩa là ông ta muốn thoái thác trách nhiệm, nếu những người không thân cận thì mình không có bổn phận phải yêu thương, nghĩa là muốn chối bỏ trách nhiệm của mình.

Chính vì thế mà Chúa Giêsu đã kể câu chuyện dụ ngôn người Samari nhân hậu, để cho thấy rằng trong đời sống con người không phải chỉ thực hiện bổn phận của mình, thầy lêvi, thầy tư tế không chỉ biết có thực thi bổn phận của mình, mà còn phải làm hơn bổn phận đó nữa là cứu giúp người bị nạn, hoặc mẫu gương của người Samari anh đâu có bổn phận phải cứu giúp người bị nạn nếu như theo lý luận của ông thông luật, nhưng ông đã làm hơn bổn phận của mình, không chỉ cứu giúp người bị nạn, mà còn ân cần săn sóc, đưa về quán trọ, gởi tiền cho chủ quán trọ: Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém bao nhiêu, thì khi trở về, tôi sẽ hoàn lại bác”.

Áp dụng vào đời sống thực tế của chúng ta đó là có nhiều người giữ đạo rất tốt lành, có thể nói là có thể hy sinh để bảo vệ đức tin, thế nhưng khi xích mích với anh chị em mình thì dù chết cũng không chịu nói chuyện, không chịu bỏ qua.

Hay có những cặp vợ chồng rất yêu thương con cái, sẵn sàng hy sinh mọi thứ cho con cái, thế mà trong đời sống vợ chồng lại không biết nhượng bộ với nhau.

Trong đời sống đạo của chúng ta cũng vậy, có những người đi xưng tội khi hỏi lý do thì nói vì con cái sắp được lãnh bí tích nên đi xưng tội, nhưng hãy nhớ rằng đó chỉ là cái bề ngoài, vì nếu con không lãnh bí tích chắc sẽ không đi xưng tội, nhưng khi người ta ý thức được việc tội vậy là tốt, và đó xem như là cơ hội để sửa mình.

Hay nói cách khác là chỉ sống có một mặt mà thôi, trước mặt Chúa là như vậy thôi, nhưng đối với nhau, đối với người đời thì lại khác, chỉ thích đến với ai mà mình thích mà thôi, theo cảm tính cá nhân riêng tư của mình, như vậy việc bổn phận của mình mình làm chưa xong nữa thì lấy đâu ra làm hơn bổn phận của mình.

Chúng ta hãy nhìn lại đời sống của mình xem, mình có rơi vào trường hợp đó bao giờ chưa, chắc chắn ai trong chúng ta cũng có, nếu vậy thì chúng ta chỉ giữ luật Chúa trên môi miệng của chúng ta mà thôi, chứ chưa đem ra thực hành.

Xin cho mỗi người chúng ta biết giữ luật Chúa và đem ra thực hành trong đời sống của chúng ta, đừng viện lý do này hay lý do kia, vì luật Chúa rất gần ai cũng có thể thực hiện được, nếu chúng ta muốn, thì chúng ta sẽ thực hiện được không chỉ là việc bổn phận của mình, mà còn hơn bổn phận của mình nữa. Amen.




Lm. Tôma Lê Uy Vũ

“Hãy đi và cũng hãy làm như vậy.” (Lc 10, 25-37)

Kính thưa quý ÔBACE, Có một bộ phim rất cảm động mà con muốn chia sẻ với quý ÔBACE hôm nay, đó là bộ phim “The Book Thief – Kẻ trộm sách”, một tác phẩm điện ảnh hợp tác giữa Mỹ và Đức, ra mắt năm 2013. Bộ phim không dùng nhiều kỹ xảo điện ảnh, không bi tráng, nhưng lặng lẽ khắc họa lại ánh sáng của tình người giữa bóng đêm chiến tranh.

Nội dung của bộ phim lấy bối cảnh nước Đức trong thời gian Thế chiến thứ hai. Nhân vật chính là Liesel, một bé gái mồ côi được một cặp vợ chồng nghèo nhận nuôi. Dù sống trong cảnh thiếu thốn nhưng ngôi nhà nhỏ ấy lại có một trái tim rộng mở.

Một ngày nọ, người cha nuôi của Liesel tên là Hans đã âm thầm che giấu Max, một thanh niên Do Thái đang trốn chạy sự truy sát của Đức Quốc Xã. Hans biết rất rõ: “nếu bị phát hiện, không chỉ ông mà cả gia đình sẽ bị hành quyết”. Nhưng ông vẫn chọn mở cửa căn hầm và mở cửa trái tim mình để cứu một người hoàn toàn xa lạ. Khi Max bị ốm nặng, Liesel – cô bé vốn nhút nhát và sợ hãi chiến tranh đã từng đêm đọc sách cho Max nghe. Từng trang sách, từng lời đọc như là một hạt giống hy vọng được gieo vào một tâm hồn đang tuyệt vọng. Rồi một đêm nọ, trong một cuộc oanh tạc bất ngờ, toàn bộ gia đình Liesel thiệt mạng, chỉ riêng cô bé sống sót vì đang trú trong căn hầm nơi Max từng ẩn náu. Liesel đã mất đi cha mẹ nuôi, gia đình nhưng cô không mất niềm tin.

Nhiều năm sau, Max sống sót sau trại tập trung và trở lại tìm Liesel. Cái ôm của họ trong ngày tái ngộ không chỉ là niềm vui riêng, mà còn là minh chứng cho một tình thương vượt qua hận thù, vượt qua cái chết. Liesel đã sống phần đời còn lại của mình một cách âm thầm và sâu sắc như một nhân chứng của lòng nhân ái và để cho thấy rằng: “Một trái tim nhỏ bé nhưng đầy tình thương vẫn có thể thắp sáng cả thế giới.”

Kính thưa quý ÔBACE, trong thời đại mà người ta dễ dàng quay lưng trước nỗi đau khổ của tha nhân thì gia đình nhỏ của cô bé Liesel đã chọn tình thương thay vì sợ hãi. Chính điều đó đã làm thắp sáng lên tình người giữa một thế giới đầy hận thù của chiến tranh - và câu chuyện cảm động này cũng có thể như là một minh họa để dẫn chúng ta đến với câu chuyện dụ ngôn “Người Samaritanô nhân hậu” của Chúa Giêsu trong Tin Mừng của Chúa Nhật hôm nay.

Trước câu hỏi của người thông luật: “ai là người thân cận của tôi?”, Chúa Giêsu đã kể cho ông một câu chuyện dụ ngôn rằng: Trên con đường từ Giêrusalem xuống Giêricô, có một người bị bọn cướp đánh nhừ tử và bỏ mặc nằm bên vệ đường. Một Tư Tế và một thầy Lêvi – hai nhân vật đại diện cho tôn giáo và lề luật cũng đi trên con đường ấy, khi nhìn thấy nạn nhân họ đều tránh qua bên kia mà đi, để mặc người ấy trong đau đớn, hấp hối. Nhưng rồi có một người Samaritanô – kẻ bị coi là dân ngoại, đáng khinh – cũng đi trên con đường ấy và khi nhìn thấy nạn nhân, ông đã chạnh lòng thương xót để rồi dừng lại, băng bó vết thương, đưa lên lưng lừa, và mang đến quán trọ để chăm sóc. Và để kết thúc cuộc đối thoại này, Chúa Giêsu đã đưa ra một lời mời gọi rất rõ ràng cho người thông luật: “Ông hãy đi và cũng hãy làm như vậy.”

Kính thưa quý ÔBACE, đối với Chúa Giêsu “người thân cận” không chỉ là những người thân ruột thịt, bạn bè, những người chúng ta quen biết hay là người cùng niềm tin tôn giáo chúng ta, nhưng còn chính là bất cứ ai đang cần đến lòng thương xót của chúng ta. Và trong góc nhìn đó thì trong cuộc sống của chúng ta hôm nay, phải chăng vẫn còn đó biết bao người “bị đánh nhừ tử” – có thể không phải do bị cướp bóc, nhưng bởi nghèo đói, bệnh tật, bị bỏ rơi, bị tổn thương bởi những lời kết án, hiểu lầm hay cô đơn? Họ nằm đó, ngay bên vệ đường của cuộc đời chúng ta nhưng liệu “chúng ta có dám bước lại gần họ không? Chúng ta có dám cúi xuống để thực thi lòng thương xót dù chỉ là bằng một lời cảm thông an ủi hay một nghĩa cử nhỏ bé không?” Chính vì thế mà ngày hôm nay, Chúa Giêsu vẫn đang mời gọi mỗi người trong chúng ta “hãy sống khác đi” – hãy sống như người Samaritanô nhân hậu và đừng để nỗi sợ hãi, sự vô cảm hay luật lệ ngăn cản lòng thương xót của chúng ta.

Hiệp dâng Thánh Lễ hôm nay, xin Chúa ban cho chúng ta ánh sáng của Đức tin cùng lòng can đảm để chúng ta có thể nhận ra “những người thân cận” trong đời mình mà chạnh lòng thương xót và đưa tay nâng đỡ. Khi đó, chính chúng ta cũng sẽ trở nên là những hiện thân của người Samaritanô nhân hậu khi “dám yêu thương dù không được đáp lại, dám cứu giúp dù có thể sẽ mất mát” và chính khi đó, ánh sáng Tình Yêu của Thiên Chúa sẽ được thắp lên giữa trần gian này. Amen.

 



Lm. Thái Nguyên

Ai là người thân cận

Yêu mến Thiên Chúa hết tình và yêu người thân cận như chính mình là điều kiện để đạt tới sự sống đời đời. Nhưng câu hỏi được nêu lên: "Ai là người thân cận của tôi ?". Người Do Thái vẫn hiểu đó là đồng bào, đồng đạo, thuộc dân Thiên Chúa. Phải chăng vị luật sĩ muốn tìm một câu định nghĩa toàn bích hơn về “người thân cận”? Nhưng đối với Đức Giêsu, định nghĩa về "người thân cận" không quan trọng bằng thực thi bác ái với người thân cận. Thay vì tìm hiểu ai là người thân cận với mình, thì tốt hơn là nên tìm hiểu mình là người thân cận với ai? Nói cách khác, nên tỏ ra mình là người thân cận đối với những ai đang cần mình giúp đỡ. Với ý hướng đó, Đức Giêsu đã đưa ra một dụ ngôn vừa cụ thể vừa sâu sắc, vừa éo le vừa lạ lùng.

Éo le là vì đứng trước tình cảnh một người đang bị trọng thương trên đường, mà thầy Tư tế và Lê vi lại làm ngơ, giả vờ như không thấy, và tránh qua bên kia đường mà đi. Lạ lùng là người Samari ngoại giáo vừa trông thấy nạn nhân, đã đến cứu giúp tận tình, mà nạn nhân đó có thể là người Do Thái, kẻ thù của dân tộc mình. Người Samari đã sống luật yêu thương một cách trọn vẹn, không chỉ là lòng thương cảm mà "yêu bằng việc làm", và làm với hết khả năng của mình. Những việc làm cụ thể thường hùng hồn hơn những lời nói suông. Con đường dài nhất là con đường từ trái tim đến đôi tay. Chúa Giêsu muốn chúng ta đi hết con đường đó: "Hãy đi và làm như vậy". 

Sở dĩ người ta không dám làm một cái gì đó cho những người anh em, là vì họ không có can đảm vượt qua nỗi sợ. Sở dĩ thầy Tư tế và thầy Lê vi "tránh qua bên kia mà đi" là vì các thầy sợ ô uế khi đụng vào xác chết, sợ bọn cướp còn ẩn nấp đâu đây, sợ rắc rối phiền hà xảy ra cho mình. Những nỗi sợ xem ra rất khôn ngoan và hợp lý, chỉ có điều chẳng có chút tình yêu nào. Sở dĩ chúng ta không dám làm một cái gì đó cho người cần giúp đỡ, là vì chúng ta sợ phải thiệt thòi, sợ tốn công tốn sức, tốn thời giờ, sợ phải trả giá, sợ đụng đến sự an toàn hay tiện nghi của mình. Chúng ta muốn được yên thân! Yên thân là bất động, là sự sống bị tắt nghẽn, nên tình yêu không còn được chuyển thông.

Đứng trước nạn nhân, có lẽ câu hỏi mà hai vị giáo sĩ đặt ra là:“Nếu tôi dừng lại giúp đỡ người này, chuyện gì sẽ xảy ra cho tôi?”. Nhưng xem ra người Samari đảo ngược lại câu hỏi:“Nếu tôi không dừng lại giúp đỡ người này, chuyện gì sẽ xảy ra cho anh ta?”. Hai câu hỏi với hai hướng khác nhau, nên cách thái hành động cũng khác nhau. Một câu hỏi hướng về sự an toàn của bản thân, còn một câu hỏi hướng đến lợi ích của tha nhân. Cách đặt câu hỏi hay cách đặt vấn đề cũng là một cách xác định tâm hồn và tính cách của một con người.

Ở cuối dụ ngôn, Đức Giêsu cũng đảo chiều câu hỏi: “Ai là người thân cận của tôi?” thành câu: “Ai là người thân cận của kẻ bị cướp?” Với lối đặt câu hỏi này, mọi hàng rào ngăn cách và quan niệm lâu đời của người Do Thái bị phá đổ. Tôi không chỉ phục vụ cho người thân cận của tôi, mà tôi trở thành người thân cận với người tôi phục vụ, và người ấy trở thành người thân cận của tôi. Như thế ai cũng có thể thành người thân cận của tôi, và tôi cũng có thể trở thành người thân cận của bất cứ ai, khi tôi dám yêu họ như chính mình.

Yêu thương không phải là cho đi một cái gì, nhưng là cho đi chính bản thân. Kahlil Gibran có một câu nói chí tình: "Bạn cho đi quá ít khi chỉ cho đi của cải. Chỉ khi nào cho đi chính mình, bạn mới thực sự cho đi". Mẹ Têrêsa Calcutta cũng xác định: "Kitô hữu là người trao ban chính bản thân". Đó là ý nghĩa thật nhiệm mầu trong Bí tích Thánh Thể. Tham dự thánh lễ chẳng có ý nghĩa gì khi tôi không sống lòng nhân ái. Càng đi tìm bản thân, tôi càng đánh mất chính mình. Càng co cụm trong vỏ ốc của mình, tôi càng chết dần mòn trong nỗi cô đơn. Càng muốn được yên thân, tôi càng vong thân.

Nỗi khát khao hạnh phúc của tôi chỉ được lấp đầy khi tôi biết coi trọng hạnh phúc của tha nhân. Người tín hữu Kitô chỉ thực sự là con Chúa khi họ dám tiêu hao vì người khác. Muốn vậy, tôi hãy yêu rồi làm. Khi đã yêu rồi tôi mới biết phải làm gì cho người anh em, nhất là những người nghèo hèn đau khổ. Khi đã yêu rồi, tôi mới biết cách làm cho kẻ xa lạ trở nên người thân cận; kẻ thù địch trở nên người bạn tốt; chỉ cần tôi dám dừng lại, đến gần và cúi xuống trước anh em. Tôi cần lột bỏ “cái tôi”, cái “lớp vỏ” an toàn che chắn bản thân mình, để tình yêu Chúa có thể thấm nhập và làm nên con người mới.     

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu!
Đường về quê hương sự sống đời đời,
là đường Chúa đã gọi mời con đi,
nhưng đi với trái tim mới tới đích,
bằng không sẽ dang dở cuộc hành trình.

Thầy Tư tế đã rẽ sang hướng khác,
để tìm đường yên ổn cho riêng mình,
thầy Lê-vi cũng đi theo như vậy,
vì họ không mang theo một trái tim,
chỉ mang theo của lễ ở bên ngoài,
nhưng Chúa chỉ đoái hoài lòng nhân hậu.

Người Sa-ma-ri lên đường không của lễ,
nhưng anh có trái tim để hiến dâng,
với tấm lòng yêu thương người lân cận,
nên anh cảm thấu được nỗi khổ đau,
của những ai đang gặp phải cơ cầu,
và cúi xuống để tận tình hầu hạ.

Con đường đến quê hương sự sống mới,
không khó không dài như phải lên non,
nhưng đường dài khó nhất đối với con,
là đường từ trái tim đến bàn tay.

Xin Chúa đặt tim con trên bàn tay,
thu ngắn lại cho con chặng đường dài,
để con không sợ gì những trở ngại,
mọi cái sẽ dễ lại trước khó khăn.

Xin cho con lên đường với trái tim:
suy nghĩ và nhìn đời với trái tim,
lắng nghe và hành động với trái tim,
một trái tim nên giống Chúa mỗi ngày. Amen

 


Đaminh Lê Minh Cảnh

Thỉnh thoảng, nghe lại giọng hát du dương của ca sĩ Hương Lan cất lên: “Lạy Chúa, con là người không đạo, nhưng tin có Chúa ở trên cao… Một lời khen, mà nhạc sĩ Trần Thiện Thanh dành cho một người ngoại giáo, mà lòng tôi cảm thấy ấm áp, vui sướng, bởi vì được thơm lây. Một người không có đạo, mà lại tin có Chúa, thật đáng ngưỡng mộ.

Điều này, đã gợi lại cho chúng ta, nhớ đến câu chuyện trong Phúc Âm:Khi Chúa Giêsu đi đến thành phố Caphanaum: thì có ông một viên Sĩ quan không có đạo, nhưng ông rất tin Chúa, có khả năng chữa bịnh cho người đầy tớ bại liệt của ông. Vì là người ngoại, ông nghĩ rằng: ông không xứng đáng với Chúa, nên ông chỉ mở lời, gợi ý nhẹ với Chúa 1 câu rằng là: Thưa Ngài, tôi không đáng được Ngài vào nhà tôi, nhưng mà, chỉ cần, Ngài phán một lời, thì chắn chắn đầy tớ của tôi, sẽ hết bịnh. Thế là, Chúa Giêsu khen ông ta một cách công khai rằng: Ta chưa hề thấy một người Israel nào, có lòng tin, mạnh như thế.

Rồi hình ảnh của 1 người ngoại giáo khác, ta có thể thấy qua:

Đoạn Chúa Giêsu vác thập giá lên đồi Canvê, để chịu đóng đinh: Đường thì dài, thập giá thì nặng, rồi Ngài còn bị hành hạ đến kiệt sức và phải bị ngã quỵ xuống đất, đến ba lần Đúng lúc đó: một người ngoại giáo, gốc Kyrênê (Bắc Phi), hoàn toàn xa lạ với Chúa, tên là Simon, sẵn sàng kê vai vác đỡ thập giá cho Chúa, đến nơi pháp trường, để chịu tử nạn.

Chưa hết, bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu lại tiếp tục khen một người Samari không đạo, đang khi trách hai thầy tu chính hiệu, Chúa kể: Một người ở Giêrusalem xuống Giêricô, giữa đường bị bọn cướp trấn lột, đánh cho nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết. Thầy Tư Tế đi qua, thấy vậy liền lãng tránh. Thầy Lêvi đi tới cũng chẳng ngó ngàng, bỏ mặc nạn nhân. Sau đó, một người ngoại đạo Samari đi ngang, thấy người lâm nạn, chạnh lòng thương liền băng bó, đặt lên lưng lừa đưa về quán trọ, nhờ chủ quán săn sóc, rồi trả hết mọi phí tổn. Hai ông: Lêvi và Tư thế không dám đụng đến người sắp chết kia, sợ bị ô uế, sợ bị phạm luất, không được dâng lễ trong Đền thờ, nên lòng họ trở nên chay đá trước cảnh đau thương của người bị nạn. Còn người Samari, không đạo kia, lấy hết tình người mà giúp đỡ.., dốc hết tiền túi mà chăm lo cho người không quen biết với mình, Thật tuyệt vời…

Cách nay không lâu, xem truyền hình, tôi thấy có câu chuyện thương tâm, rất phù hợp với Tin Mừng hôm nay, nên xin chia sẻ cho cộng đoàn: Một người ăn xin ngồi bên đường, quận Bình Thạnh, hơn 1 năm trời, nhưng rất ít người, để ý quan tâm giúp đỡ Đến khi, ông quá đói, kiệt sứ, lăn đùng ra đường, ngất xỉu, lúc đó, cũng chẳng thấy ai dám ra tay cứu giúp Chỉ có một cậu sinh viên năm thứ 2, dừng xe lại, móc điện thoại ra chụp hình ông một cái, rồi kêu hô mọi người phụ giúp Nhưng ai cũng làm lơ, vì sợ liên lụy, phiền hà, nên tất cả đều lẫn tránh

Sau đó, cậu sinh viên gọi khẩn cấp 115 (xe cứu thương), và 113 (công an) đến giúp..nhưng 2 cơ quan này, biết rõ đây là người vô gia cư, nên phớt lờ bỏ mặc. Cuối cùng, em sinh viên này, cũng năn nỉ được một người, phụ em đỡ người ăn xin này, lên xe của em đưa đến bệnh viện cấp cứu, nhưng mọi sự như đã quá muộn, ngày hôm sau, ông đã chết Thật thương tâm cho một người bị bỏ rơi, bị đói, bị khát, bị chết, giữa lòng Thành phố, không thiếu thức ăn, thức uống, ở chốn đông người qua lại.

Rõ ràng, thời nay, chỉ biết sống ít kỷ, ngại hy sinh, không biết yêu thương và quan tâm đến người khác, đúng như nhà văn Lê Lựu, với tác phẩm “Thời trống vắng” nhận định rằng: Thời nay, Văn hóa tình làng nghĩa xóm, bị trống vắng, tình yêu ruột thịt cũng bị mất dần thay vào đó là kiểu sống: “MaKênô” = “Mặc kệ nó”. Ông tâm sự rằng: “Hiện ông bị tai biến, liệt một bên người, tài sảng quý giá của gia đình ông không còn nữa, mọi người trong gia đình bỏ rơi ông. Đối với ông, nỗi đau lớn nhất đó là: Người vợ viết lá đơn “Từ chồng, các con cũng viết lá đơn “Từ cha”.

Sau cùng, ông kết luận một câu, đáng cho chúng ta suy gẫm: “Ngày xưa: một người té xuống giếng, mười người nhảy xuống cứu, còn ngày hôm nay, mười người có ngã xuống, không ai muốn cứu giúp. Thật đau đớn cho Lê Lựu, nhà văn một thời nổi tiếng.

Qua bài chia sẻ này, chúng ta nên dành một chút thời gian để nghiền ngẫm cách sống đạo của mình: Không nên bắt chước 2 ông: Tư tế và Lêvi trong Tin Mừng, không có tấm lòng yêu thương: nhưng hãy noi gương người ngoại giáo Samaritanô, có lòng nhân hậu, biết sót thương và đồng cảm với người gặp nạn. Vì đó cũng là một phương châm sống của Thánh Augustinô: “Hãy cứ yêu thương đi, rồi sau đó, muốn làm gì thì làm”.

Lạy Chúa, cuộc sống đạo của chúng con sẽ trở nên vô nghĩa, nếu không có tình yêu thương Xin đừng để chúng con loay hoay với những tính toán ích kỷ; chai đá, dửng dưng trước những nỗi khổ đau của anh chị em. Nhưng xin dạy chúng con biết chạnh lòng xót thương và giúp đỡ những ai đang cần đến chúng con. Amen.                                          

 



Lm Trầm Phúc

Hôm nay, Chúa Giêsu cho chúng ta một bài học hết sức quí báu, nhờ một câu hỏi của một thầy thông luật. Chúa Giêsu luôn đối diện với những người Phariseu hay các nhà thông luật. Họ tìm cách để thử Ngài hay đặt Ngài vào những tình huống khó xử. Nhưng họ luôn phải thẹn thùng rút lui vì họ không biết rằng Ngài là Con Thiên Chúa.

Câu hỏi là một vấn nạn thông thường không có gì quan trọng: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đới làm gia nghiệp ?” Chúa Giêsu không trả lời trực tiếp mà chỉ hỏi lại ông: “Trong Luật đã viết gì? Ông đọc thế nào? “Ông đọc lại những gì chép trong Luật. Thế là xong. Nhưng nhà thông luật nầy còn muốn thêm một cái gì nữa vì thế ông thêm một câu hỏi và nhờ dịp nầy Chúa Giêsu cho ông và chúng ta một bài học quí giá.

“Ai là người thân cận của tôi?”

Chúa Giêsu kể một dụ ngôn: người bị cướp đánh nằm giở sống giở chết bên đường. Một thầy tư tế đi ngang qua, thấy nạn nhân, ông đi qua không dám dừng lại cứu giúp. Một thầy Lêvi cũng đi qua, nhìn thấy nạn nhân rồii cũng đi qua luôn. Họ không dám động đến nạn nhân vì sợ động đến một người chết là bị ô uế. Luật quan trọng hơn con người. Nhưng một người Samari đi ngang qua, nhìn thấy nạn nhân, ông liền cứu giúp, băng bó vết thương và mang đến một quán trọ săn sóc.

Chúa Giêsu hỏi: “Ai trong ba người trên đã tỏ ra là người thân cận với người bị cướp?” Tất nhiên ai cũng biết. Chúa Giêsu muốn cho thấy rằng không phải những người có địa vị cao mới thương người, nhưng những người bị khinh miệt như người Samari kia vẫn có thể sống yêu thương thực sự.

Thiên Chúa là Tình Yêu. Ai sống yêu thương là làm đẹp lòng Chúa. Vì Ngài là Tình Yêu vì thế Ngài đã quên mình, xuống trần gian, mang thân một con người nhỏ hèn như chúng ta để cứu chúng ta. Ngài chính là người Samari kia đã nhìn thấy chúng ta quằn quại trong tội lỗi, đã dừng lại, băng bó vết thương và đưa chúng ta vào quán trọ là Hội Thánh để chữa trị.Hơn thế nữa, Ngài hoá thân thành tấm bánh để chúng ta có thế ăn lấy Ngài, nuốt Ngài vào trong chúng ta, trở thành một xương một thịt với chúng ta, chia xẻ cuộc sống nhọc nhằn đau khổ của chúng ta và đưa chúng ta về với Ngài trong vinh quang.

Chúng ta hãy theo bước chân Ngài để trở thành người thân cận của anh em, yêu mến anh em chúng ta, như Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta.