
GỢI Ý SUY NIỆM
LỄ CHÚA NHẬT XIV THƯỜNG NIÊN - NĂM B
Ed 2,2-5; 2Cr 12,7-10; Mc 6,1-6
Lm Trầm Phúc
Chúa Giêsu rao giảng khắp nơi và thỉnh thoảng Ngài về quê trước là để thăm Mẹ Ngài, thứ hai là để rao giảng cho anh em trong nơi quê quán Ngài. Ngày Sabat, Ngài vào Hội đường. Ngài bắt đầu rao giảng tại đó. Dân chúng nghe Ngài giảng, rất đỗi ngạc nhiên, vì từ lúc Ngài còn ở Nadaret, Ngài chỉ là một người thợ mộc vườn, thế nhưng hôm nay, Ngài giảng như một nhà thông luật. Họ bàn tán xôn xao. Nhờ đâu mà ông nầy giỏi như thế? Đáng lý ra họ phải cảm thấy hãnh diện vì một người anh em trong làng được giỏi như thế. Nhưng họ lại ganh tỵ và tìm cách hạ giá Ngài bằng cách nêu tên tất cả anh em dòng họ để cho mọi người thấy rằng ông ấy không ra gì, ông chỉ là một ông thợ mộc vườn chẳng là gì cả.
Chúng ta không lạ gì về việc đó, vì chúng ta cũng đang sống trong những hoàn cảnh tương tự. Thế giới chúng ta đang sống là một thế giới ganh tỵ, tranh đua chứ không là một thế giới đầy tình thương. Các nước đua nhau chế tạo vũ khí, và giành giựt những mối lợi vật chất. Chiến tranh nổ ra trên khắp thế giới, vì một số người làm giàu do chiến tranh, buôn vũ khí. Người ta biến thế giới thành bãi chiến trường khốn khổ và đẫm máu. Chúng ta làm được gì trong một thế giới như thế?
Hãy trở về với Chúa, lắng nghe lời Chúa, nếu không chúng ta sẽ không còn hy vọng nào. Ở Nadaret, Chúa Giêsu không làm phép lạ nào ngoại trừ đặt tay cho một vài bệnh nhân, vì họ không tin vào Ngài. Dân Nadaret không tin vì họ biết quá rõ về gia thế của Chúa Giêsu, họ căn cứ vào đó chứ không căn cứ vào những gì họ nghe. Chúa Giêsu chỉ có thể làm phép lạ khi người ta tin. Những anh mù ở Giêrikhô, ông Giai-ia và người đàn bà mắc bệnh loạn huyết đều là những kẻ tin vô điều kiện và chính niềm tin đã cứu lấy họ như Chúa Giêsu thường nói: Lòng tin của con đã cứu lấy con”. Chúng ta có tin Chúa không? Chúng ta quả quyết rằng mình tin, nhưng thực sự chúng ta tin không? Niềm tin của chúng ta có ảnh hưởng gì đến cuộc sống của chúng ta không, có điều khiển những phản ứng tự nhiên của chúng ta không? Vì, như thánh Gioan nói: đức tin không hành động là đức tin chết.
Ngày nay, Chúa Giêsu không còn hiện diện một cách hữu hình giữa chúng ta như khi xưa ở Nadaret, Ngài đòi hỏi chúng ta tin mà không thấy. Ngài đến với chúng ta qua những dấu hiệu, qua những thực tại đơn thường nhất là một tấm bánh, một ít rượu nho trong tay một linh mục. Chúng ta dám tin đó là Chúa Giêsu, Đấng là nguồn sống của chúng ta không? Chúa sử dụng những vật rất nhỏ để làm những chuyện lớn lao. Chúa chỉ cần một tấm bánh nhỏ để biến thành nguồn sống vĩnh cửu của chúng ta, để chứng tỏ quyền phép và tình yêu vô biên của Ngài đối với chúng ta. Chúng ta chỉ cần tin thôi. Và chính niềm tin sẽ buộc Ngài ra tay. Dân Nadaret không tin nên Ngài không thể làm phép lạ. Nhiều đấng thánh đã tin và nhờ đó các ngài đã làm được nhiều việc hữu ích cho các linh hồn. Hãy nhìn xem gương lành của các thánh để tiến bước. Chúng ta cũng cầu xin cho đức tin của chúng ta ngày càng xác thực hơn, để nhờ đó, chúng ta phục vụ Chúa và các linh hồn hữu hiệu hơn.
Hãy ăn lấy Chúa để sống với Chúa mật thiết hơn, tin tưởng hơn. Xin Ngài giúp cho niềm tin chúng ta ngày càng vững chắc trước một thế giới càng ngày càng xa lạ với niềm tin.
Lm. Đaminh Lê Minh Cảnh
Mở đầu bài chia sẻ hôm nay, tôi xin nhắc đến tên một nhà thơ, nhà văn, nhà viết kịch, nhạc sĩ và họa sĩ Ấn Độ tên Tagore (1861-1941). Ông đã từng đoạt giải Nobel văn chương năm 1913.
Chuyện kể về Tagore lúc thời niên thiếu khá éo le thế này: khi nhỏ, Tagore có viết một vài bài thơ gửi cho toà soạn báo để mong được đăng lên báo chí cho người ta xem. Toà soạn báo này do bố Tagore làm giám đốc. Với suy nghĩ bình thường, Tagore tự tin cho rằng thơ của mình chắc chắn sẽ được bố ưu tiên đăng lên trang nhất. Nhưng sự việc hoàn toàn trái ngược, khi nhìn phía dưới những bài thơ thấy người ký tên là Tagore (con của mình) thì ngay lập tức, ông bố giám đốc quăng thơ của Tagore vào sọt rác, chẳng thèm đọc, vì nghĩ rằng: con của mình còn quá nhỏ, nó đâu có khả năng viết thơ, viết văn gì.
Thế là Tagore rất buồn, nhưng quyết không bỏ cuộc, không nản lòng. Do đam mê nên Tagore chịu khó chép lại, những bài thơ đó. Rồi một lần nữa, ông gửi những bài thơ đến toà soạn báo, nhưng lần này ông không ký tên thật của mình mà lấy một bút danh khác. Ông bố làm giám đốc của Tagore đọc đi, đọc lại bài thơ đến những 3 lần và lần nào ông cũng cảm thấy tuyệt vời, nên cho đăng ngay lên báo, mà không hề biết những bài thơ đó là của con trai mình và những bài thơ đó, mình đã từng quăng chúng vào sọt rác, vứt đi.
Thưa anh chị em,
Như người ta nói: "Bụt nhà không thiêng", bố của Tagore cũng nghĩ rằng: “Con mình không thể nào hay, không thể nào là thiên tài được”. Ông in trí giống như những người bà con lối xóm của Chúa Giêsu. Đang lúc tiếng tăm của Chúa vang khắp cả đất nước Do Thái, bằng những lời giảng khôn ngoan, uy quyền và ấn tượng, có thể xua trừ ma quỉ, chữa lành bệnh tật và làm cho kẻ chết sống lại. Vậy mà khi trở về quê hương, Chúa không được người thân, hay bà con lối xóm ủng hộ, vì họ không tin và cũng không chấp nhận. Có thể nói rằng, trong đầu của họ giống như một cái Laptop (máy vi tính) lập trình sẵn, một thành kiến, một định kiến về gia đình của Chúa Giêsu “con ông Giuse, một thợ mộc nghèo nàn ở làng quê Nazareth, con bà Maria, bà con với chúng ta, làm gì có chuyện biết làm phép lạ. Sự xầm xì, ác cảm của họ lọt đến tai Chúa Giêsu. Có vẻ Chúa buồn và thất vọng về những người bà con ruột thịt với mình, như Chúa đã nói: "Ngôn sứ có bị từ chối cũng chỉ là ở quê hương mình, do bà con thân thuộc có thành kiến xấu, không biết đón nhận thôi" (x. Mc 6, 4).
Chính vì thế, hầu như Chúa không làm một phép lạ nào lớn lao tại quê hương Nadareth của Ngài. Bởi vì, họ không tin, nên Chúa chỉ muốn rao giảng và làm phép lạ ở những nơi khác thôi. Đối với dân làng Nazareth, rất tiếc cho họ vì đã đánh giá quá thấp về tài năng của Chúa Giêsu, họ coi thường khả năng siêu phàm của Chúa, nên họ không có cơ hội chứng kiến những phép lạ Chúa có thể ưu tiên dành cho người đồng hương.
Trong cuộc sống, rất thường khi ta giống với những người bà con lối xóm của Chúa khi có cái nhìn chẳng mấy thiện cảm với những người bên ngoài, xem ra: tầm thường, với những nét đơn sơ, nghèo khổ. Với cái nhìn thấp hèn đó, chẳng khác nào ta đang đeo 1 cặp mắt kiếng màu đen để đánh giá một con người. Nghĩa là, ta chỉ thấy nơi họ toàn là những điều xấu xa, tội lỗi, mà không hề nhận ra nơi họ có những điều dễ thương, dễ mến. Công Đồng Vaticano II lên tiếng, nhắc nhỡ chúng ta rằng: "Giá trị của con người không hệ tại ở bên ngoài mà tuỳ thuộc vào phẩm chất ở bên trong của mỗi một người".
Để chứng minh điều đó, tôi xin kể cho quý ông bà anh chị em một câu chuyện:
Có 2 vợ chồng trẻ nọ, làm chủ một khách sạn nhỏ, vào một buổi trưa đang lúc ăn cơm, 2 vợ chồng bỗng nhìn ra bên ngoài thấy một người đàn ông ngồi bệt xuống trước cổng khách sạn. Trong đầu anh chồng lóe lên 1 suy nghĩ: “Chỗ làm ăn mà có người ngồi trước cổng như thế còn mần ăn gì được nữa. Tiếp tục, anh đoán già đoán non, có lẽ là 1 người ăn xin hay 1 kẻ tâm thần hoặc là 1 tên say xỉn nào đó (dù là ai, ta cũng phải ra mời đi thôi).
Nói xong, anh chồng buông đũa xuống bàn, bước ra phía trước để xem coi ai. Thấy cụ già, anh hỏi, với ý định đuổi khéo rằng: "Sao bác lại ngồi ở đây"? Ông cụ quay lại, với gương mặt mệt nhòa, ướt đẫm mồ hôi mở lời nhẹ, cụ nói: "Tôi bán vé số, mệt quá, nên muốn ngồi xuống đây nghỉ 1 tí đỡ mệt rồi đi bán tiếp. Vừa nói, cụ vừa giơ bàn tay run run với những tờ vé số như muốn chứng minh rằng, mình nói thật. Nói xong, ông cụ sợ làm phiền chủ nhà, nên vội đứng lên lau mồ hôi bằng chiếc nón cũ rồi tiếp tục bước đi.
Lúc này, anh chủ khách sạn đứng hình chết lặng, trước sự e ngại của ông cụ nghèo bán vé số kia. Cảm giác của anh bắt đầu thay đổi, từ thái độ ích kỷ chuyển sang tấm lòng bao dung, thương người. Thế nên, anh với gọi kêu cụ: “Cụ ơi, cụ chờ cháu 1 chút...”. Nói xong, anh chạy vào nhà lấy 30 ngàn mua 2 tờ vé số, 10 ngàn biếu cụ mua bánh mì. Cô vợ thấy vậy cũng chạnh lòng không kém. Cô định vào tủ lạnh lấy cái gì đó đem ra biếu cụ. Nhưng khi mang ra 1 chai nước lạnh và 1 chùm nho thì cụ đã đi khuất mất rồi.
Trở vào nhà, anh chồng tỏ vẻ hối hận tâm sự với vợ: Nếu lúc nãy, anh bước ra với thái độ khác, với lời nói nhẹ nhàng hơn, thì có lẽ, ông cụ sẽ ở lại nghỉ mệt thêm được một thời gian nữa, đó em...
Mặc dù, hồi nãy câu anh hỏi không có gì xúc phạm đến cụ, nhưng nó ẩn chứa một sự nghi kỵ nào đó khiến cho cụ e ngại, vì mặc cảm “nghèo hèn của cụ”. Bây giờ, anh hối hận lắm, chỉ muốn gặp để nói với cụ 1 câu: "Cháu xin lỗi bác…".
Qua những tình tiết của câu chuyện muốn khuyên chúng ta rằng: “Đừng bao giờ đánh giá với thành kiến xấu về một ai đó qua vẻ bề ngoài của họ, vì rất dễ sai lầm, giống như những người bà con hiểu sai về Chúa Giêsu, như Tin Mừng đã diễn tả...
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết xoá bỏ mọi thành kiến, để biết nhìn người anh em bằng cặp mắt tôn trọng và chấp nhận những khác biệt nơi họ, để chúng con mỗi ngày mỗi gần nhau hơn, trong tình hiệp thông yêu thương. Amen
Tôma Lê Duy Khang
Tin mừng hôm nay trình bày Chúa Giêsu về quê hương của mình. Một dịp trùng hợp đó là trong ngày Sabat, Người bắt đầu giảng dạy trong hội đường. Nhiều người nghe rất đỗi ngạc nhiên. Họ nói: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì? Ông ta không phải là bác thợ, con bà Ma-ri-a, và anh em của các ông Gia-cô-bê, Giô-xết, Giu-đa và Si-môn sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?” Và họ vấp ngã vì Người. Nghĩa là họ không nhìn thấy được sự cao cả từ trong xuất thân của Chúa, chính khi Chúa hạ mình xuống như vậy mới làm nên sự cao cả của Chúa.
Chúng ta hãy nhớ lại câu chuyện ba nhà thông thái đi theo ngôi sao lạ để tìm Đấng Cứu Thế, khi đến Giêrusalem, ngôi sao lạ biến mất, họ mới vào hoàng cung để hỏi: “Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người.” Nghe tin ấy, vua Hê-rô-đê bối rối, và cả thành Giê-ru-sa-lem cũng xôn xao. Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Ki-tô phải sinh ra ở đâu. Họ trả lời: “Tại Bê-lem, miền Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng: "Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời” (Mt 2, 2-6). Chúng ta thấy, Bêlem chỉ là vùng đất nhỏ nhất của Giuda, nhưng nơi đó có một vị lãnh tụ sẽ ra đời, đó là sự cao cả của Chúa.
Hay khi Gioan làm phép rửa, Chúa Giêsu cũng đến xin Gioan làm phép rửa, ông một mực can và nói: “Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi!” Nhưng Đức Giê-su trả lời: “Bây giờ cứ thế đã. Vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính.” Bấy giờ ông Gio-an mới chiều theo ý Người. Khi Đức Giê-su chịu phép rửa xong, vừa ở dưới nước lên, thì các tầng trời mở ra. Người thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người. Và có tiếng từ trời phán: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 3, 14-17).
Chúng ta biết khi ông bà nguyên tổ sa ngã phạm tội, Thiên Chúa đuổi hai ông bà ra khỏi vườn địa đàng, lúc đó cửa trời đóng lại, con người và Thiên Chúa hoàn toàn xa cách, nhưng khi Chúa Giêsu hạ mình xuống chịu phép rửa, thì cửa trời mở ra. Hay khi Chúa Giêsu tắt thở, bức màn trong đền thờ xé ra làm hai từ trên xuống dưới, nghĩa là từ nay nhờ Chúa Giêsu hạ mình, nhờ Chúa Giêsu chịu chết, mà con người được hòa giải với Chúa Cha, được đến gần Chúa Cha.
Hay trong thư gởi tín hữu Do Thái cũng có nói: “Quả vậy, thượng tế nào cũng là người được chọn trong số người phàm, và được đặt lên làm đại diện cho loài người, trong các mối tương quan với Thiên Chúa, để dâng lễ phẩm cũng như tế vật đền tội. Vị ấy có khả năng cảm thông với những kẻ ngu muội và những kẻ lầm lạc, bởi vì chính người cũng đầy yếu đuối” (Dt 5, 1-3a)
Thánh Phaolo nói: “Nhưng mỗi người chúng ta đã nhận được ân sủng tuỳ theo mức độ Đức Ki-tô ban cho. Vì thế, có lời Kinh Thánh nói: Người đã lên cao, dẫn theo một đám tù; Người đã ban ân huệ cho loài người. Người đã lên nghĩa là gì, nếu không phải là Người đã xuống tận các vùng sâu thẳm dưới mặt đất? Đấng đã xuống cũng chính là Đấng đã lên cao hơn mọi tầng trời để làm cho vũ trụ được viên mãn. Và chính Người đã ban ơn cho kẻ này làm Tông Đồ, người nọ làm ngôn sứ, kẻ khác làm người loan báo Tin Mừng, kẻ khác nữa làm người coi sóc và dạy dỗ” (Ep 4, 7-11).
Thánh Benado viết trong bài đọc kinh sách ngày 29.12 như thế này: “Người càng tỏ ra yếu hèn trong nhân tính, thì lại càng tỏ ra lớn lao về lòng nhân lành. Người càng tỏ ra hèn hạ vì tôi, lại càng đáng tôi quý mến. Thánh Tông Đồ đã nói: Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, đã biểu lộ lòng nhân hậu và lòng yêu thương của Người. Lượng từ bi và lòng yêu thương của Thiên Chúa thật là rõ ràng, thật là cao cả. Người đã cho chúng ta bằng chứng hùng hồn về lượng từ bi của Người, khi ân cần ban cho con người được mang danh hiệu của Thiên Chúa.”
Nên chúng ta phải thấy được sự cao cả của Chúa Giêsu, cũng như sự cao cả trong xuất thân của những người mà Chúa đã chọn, chứ không phải chỉ nhìn xuất thân, rồi dừng lại ở đó để mà đánh giá.
Xin cho mỗi người chúng ta có được cái nhìn cao thượng, cái nhìn của bậc thánh nhân, để thấy được giá trị đích thực của những việc tầm thường trong đời sống của chúng ta, để qua đó, chúng ta học được những bài học hữu ích đem lại giá trị cho cuộc đời của chúng ta. Amen.