
GỢI Ý SUY NIỆM
LỄ CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY - NĂM C
Gs 5,9a.10-12; 2Cr 5,17-21; Lc 15,1-3.11-32
Tôma Lê Duy Khang
Tuần rồi Chúa nhật thứ 1 mùa chay, tin mừng kể câu chuyện Chúa Giêsu chịu ma quỷ cám dỗ.
Tại sao Chúa Giêsu lại chịu ma quỷ cám dỗ vậy? Thánh Augustino trong bài diễn giải thánh vịnh được trích đọc trong bài đọc 2 giờ kinh sách chúa nhật I mùa chay đã nói: Chúng ta hãy để ý, nhiều khi chúng ta chỉ để ý đến việc Chúa Giêsu chịu qua quỷ cám dỗ mà không để ý đến việc Người chiến thắng ma quỷ.
Người có thể cấm không cho ma quỷ đến gần mình; nhưng nếu người không chịu ma quỷ cám dỗ thì người không dạy cho chúng ta biết thế nào là chiến thắng khi chúng ta chịu cám dỗ.
Chúng ta thấy một ý tưởng rất sâu sắc, để chúng ta tin rằng Chúa đã chiến thắng các cơn cám dỗ, còn phần chúng ta, nếu chúng ta bị cám dỗ, thì chúng ta cũng có thể chiến thắng các cơn cám dỗ như Chúa Giêsu, biết mình cũng sẽ chiến thắng.
Trong ý tưởng đó, hôm nay chúng ta thấy Chúa Giêsu kể dụ ngôn người con hoang đàng, hay người cha nhân hậu, hình ảnh người cha đó là hình ảnh của Thiên Chúa, vậy tại sao Thiên Chúa lại dễ dãi với con người như vậy?
Thưa cũng muốn để cho con người thấy được tình thương của Chúa, thấy được hình ảnh của người con thứ biết sám hối ăn ăn, để chính mình khi sa ngã phạm tội biết sám hối trước mặt Chúa.
Chúng ta biết khi tạo dựng con người Thiên Chúa lấy bùn đất tạo ra con người, Thiên Chúa thổi sinh khí vào lỗ mũi, để cho con người có sự sống, và Thiên Chúa cho con người có lý trí, có ý chí và có tự do, nhưng con người đã lạm dụng tự do của mình làm mất lòng Chúa.
Có người người ta đặt câu hỏi đó là Chúa toàn năng, Chúa biết con người sẽ phạm tội, tại sau khi tạo dựng không đặt cây biết lành biết dữ ở nơi khác mà đặt ở giữa vườn địa đàng? Chúng ta biết hình ảnh cây biết lành biết dữ đặt ở giữa vườn địa đàng là hình ảnh Thiên Chúa đặt tự do ở trong mỗi con người, nếu như Chúa đặt cây ở nơi khác, thì cũng giống như con người không có tự do, nên Chúa muốn cho con người có tự do.
Chính vì có tự do mà con người thay vì dùng tự do đó đáp lại lời mời gọi của Chúa, mà lại sa ngã phạm tội mất lòng Chúa, nên Chúa muốn cho con người thấy hình ảnh lòng thương xót của Chúa, muốn cho con người thấy được hình ảnh của con người biết sám hối ăn năn, khi chính con người phải sa ngã phạm tội.
Chúng ta thấy, người con thứ khi lâm vào cảnh khó khăn, anh đã làm gì? Thưa anh nhớ lại hình ảnh nhân hậu của người cha, người cha đã đối xử tốt với các đầy tớ: biết bao nhiêu người ở nhà cha ta được cơm dư gạo thừa, còn ta đây thì chịu cảnh chết đói.
Nếu người cha không đối với tốt với các đầy tớ, thì chắc chắn anh ta sẽ không trở về với người cha, nếu người cha không tốt, thì về làm gì, về cũng chết thôi, vì người cha độc ác.
Áp dụng điều này về đời sống của mỗi người chúng ta, chúng ta được mời gọi sống tốt lành thánh thiện, để qua chúng ta người ta thấy được hình ảnh của lòng nhân hậu của Chúa.
Cũng như nơi mỗi người chúng ta phải tập cái nhìn để nhìn về điểm tốt của người khác, có như vậy đó như là một điểm tựa để giúp chúng ta có động lực sống trong cuộc đời của mình, không bi quan, không thất vọng.
Xin cho mỗi người chúng ta hiểu được như vậy để cám ơn Chúa, vì Chúa đã cho chúng ta thấy được tình thương, thấy được hình ảnh của người biết sám hối được Chúa thứ tha, để chúng ta cũng bắt chước noi gương khi chính mình sa ngã phạm tội biết chạy đến với Chúa. Amen.
Lm. Thái Nguyên
Trở về
Những người biệt phái và kinh sư vẫn coi khinh những người thu thuế và tội lỗi. khi thấy Chúa Giêsu lui tới với những hạng người đó thì họ xầm xì khó chịu. Trước cái nhìn ngặt nghèo của nhóm biệt phái và luật sĩ, Đức Giêsu nêu lên dụ ngôn về Thiên Chúa như “Người cha nhân hậu”. Đó là người cha chấp nhận chia gia tài để người con thứ ra đi, dù biết nó sẽ rơi vào cảnh sa đà, trụy lạc, nhưng tin nó sẽ quay về sau khi vỡ mộng. Thế nên người cha từng ngày mong nó sẽ trở về, và chuẩn bị mọi thứ để đón rước. Thông thường, cha mẹ chỉ chuẩn bị đón rước và ăn mừng đứa con sắp thành tài, sắp thăng quan tiến chức; chứ ai lại mừng cho một thằng nghịch tử; một đứa con bất hiếu bao giờ!
Đúng như người cha đã dự đoán, sau một thời gian "sống phóng đãng, phung phí hết tài sản", rơi vào cảnh cùng cực, người con đã hồi tâm chuyển ý, thấy mình quá đắc tội với cha nên đã quay về. Tưởng đâu cha sẽ trách mắng, nghiêm phạt, ai ngờ khi vừa thấy bóng dáng con từ xa, thì ông động lòng thương, chạy ra ôm chầm lấy anh và hôn lấy hôn để. Lòng yêu thương và chờ đợi từng ngày khiến ông quên hết lỗi lầm của đứa con hoang đàng. Ông thật là một người cha phung phí vì đã chia gia tài cho một đứa con còn non lòng trẻ dạ. Và giờ đây ông lại đem áo mới, giầy mới, nhẫn vàng cho con. Hơn nữa còn vui mừng mở tiệc liên hoan, đàn ca múa hát để ăn mừng. Một cuộc đón tiếp quá nồng hậu, ngoài sức tưởng tượng của mọi người. Ông đã phung phí tình yêu thương cách quá độ đến mức vô lý. Đúng là "Con tim có những lý lẽ của nó mà lý trí không hề biết đến." (Pascal).
Người anh cả đi làm về thấy cảnh tượng như vậy liền nổi giận, không chịu vào nhà, nặng lời trách móc cha già, vì hành xử như vậy là bất công với anh ta. Anh cho cha thấy bao nhiêu công lao của mình đối với cha mà chưa từng được khen thưởng, đang khi “thằng con của cha đó", nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về thì lại ăn mừng. Anh không thể vui với cha, nên càng không thể vui với em. Anh tức giận vì thấy quyền lợi mình bị xâm phạm. Anh đối chọi với cha và không muốn vào nhà để gặp em. Anh nghĩ cha đã sai lầm khi thưởng kẻ đáng phạt mà không thưởng người đáng công.
Người cha phải ra tận cổng phân trần và năn nỉ anh ta vào nhà chung vui với ông “vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy". Nhưng xem ra người anh không chấp nhận cho em trở về, vì sợ chiếm mất những gì thuộc về mình. Người cha đã khẳng định với cậu rằng: "Tất cả những gì của cha đều là của con" (Lc 13,31). Hoá ra cả hai người con khác nhau về cách sống bên ngoài nhưng lại rất giống nhau về tâm thế bên trong, vì cả hai đều ở ngoài trái tim của cha, người con thứ vô tình, mà người con cả cũng vô tâm, không cảm nhận được tình yêu thương của cha mà chỉ muốn sống thỏa mãn theo ý riêng mình. Cả hai đều có lối sống như người làm công chứ không phải làm con. Người anh xem ra còn nặng tội hơn em, vì không chấp nhận cha mà cũng không chấp nhận em. Người anh cả phải chăng đại diện cho nhóm Pharisêu và các kinh sư, luôn tự hào về đời sống đạo đức của mình, và muốn cho những kẻ tội lỗi phải chết hơn là được cứu chữa.
Người cha có hai đứa con thật éo le. Người con thứ như tượng trưng cho lối sống của những kẻ đang chạy theo tiền bạc và của cải vật chất, đang tôn thờ ngẫu tượng, đang sống trong ảo tưởng về cuộc đời này. Đó cũng là những người đang mất dần đức tin, không còn sống hiệp thông trong Giáo hội; là những người trẻ bỏ gia đình đi bụi đời; là những thanh niên đang chạy theo tiền tài danh vọng; là những thiếu niên đang nghiện ngập và lo tìm thỏa mãn đam mê dục vọng.
Phải chăng người anh cả cũng tượng trưng cho những người giữ đạo để cho mình được an thân yên vị, chứ không vì tình yêu mến. Không có tình yêu với Chúa nên cũng chẳng có tình yêu với nhau, nên không gần gũi, không thân thiện, không chia sẻ, không cảm thông, và càng không muốn tha thứ. Người con cả phải chăng là những tín hữu xưng mình là đạo gốc nhưng đã tróc gốc mà không hay biết. Đó là những kẻ lười biếng trong việc thờ phượng Chúa, đầy tự ái, kiêu căng, ích kỷ?
Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót. Ngài yêu chúng ta bằng một tình yêu mà lý trí không tài nào hiểu được. Hãy để cho tim mình ra mềm mại và tan chảy trước tình yêu cao siêu đó. Hãy vào hưởng niềm vui của một đứa con hiếu thảo với Cha và đầy tình huynh đệ với nhau.
Cầu nguyện
Lạy Cha là Thiên Chúa tình yêu!
dù đời con đã bao lần sa lạc,
nhưng Cha vẫn nâng đỡ và thứ tha,
con cảm thấy bước chân Cha vội vã,
khi đón con đã sa ngã trở về.
Cha chẳng nề khi thân con ô uế,
giang tay ôm với tình thương tràn trề,
vẫn như xưa con từng được yêu quí,
nhưng dại dột con đã bỏ ra đi.
Tình thương Cha chẳng thể nào sánh ví,
thế mà con có những lần ganh tị,
khi có người bị sa lạc trở về,
con lại tìm mọi cách để khinh chê.
Con quên rằng tình Cha luôn cao cả,
mỗi người có một chỗ trong tim Cha,
Cha yêu con chỉ vì con là con,
cho dù con ngoan hiền hay hư hỏng.
Xem ra con cũng như người anh cả,
ở trong nhà nhưng lòng đã lạc xa,
chưa hiểu nổi mối tình Cha sâu thẳm,
nên chỉ nhắm công bằng và hợp lý,
mà không sống với tất cả trái tim,
quả thật con đã thấy mình thâm hiểm.
Xin cho con một trái tim cháy sáng,
để biết sống tình yêu Cha vô hạn,
một trái tim tha thứ rất dịu dàng,
cách ứng xử nhẹ nhàng và thanh thoát,
không sợ gì những lo toan mất mát,
để mọi người được vui sống bình an. Amen.
Lm. Đaminh Lê Minh Cảnh
Người con đi hoang
- Mahatma Gandhi, người mà dân Ấn độ, coi là một vị Thánh, khi còn sống, Vì bằng phương pháp “Bất bạo động”, ông đã giúp cho dân tộc Ấn Độ của mình, thoát khỏi ách nô lệ của người Anh.
Có lần, Gandhi kể về tuổi thơ của mình rằng: Lúc 15 tuổi, tôi đã lỡ ăn cắp tiền của bố mẹ, và rồi, tôi cảm thấy rất hối hận vì tội ăn cắp đó, nên tôi quyết định đến bên giường bệnh của bố, mà tự thú Tôi đưa cho bố một tờ giấy: với đôi dòng chữ thú tội, có cả những lời xin lỗi và lời xin tha thứ.
Và sau lời thú tội, tôi ghi một lời cam kết rằng: “Con sẵn sàng chịu mọi hình phạt và xin hứa, sẽ không bao giờ, tái phạm nữa…
Rồi Gandhi kể tiếp: khi trình bảng tự thú xong, tôi ngồi cạnh giường, chờ cha tôi mở lời tuyên án xử phạt Cầm bảng cáo trạng trên tay, cha tôi chậm rãi đọc từng câu, từng chữ, với những giọt nước mắt liên tục rơi, làm nhoè đôi mắt và làm nghẹn lời. Cha tôi khóc và tôi cũng khóc… Tôi khóc rất nhiều…
- Lẽ ra, cha tôi có quyền giận tôi, nhưng không những ông không giận, mà còn ôm tôi vào lòng và nói: Con yêu, cha không phạt con vì con đã biết nhận lỗi và đã hối cải Nghe cha nói thế, “tôi càng khóc nhiều hơn,…
Tôi khóc: một phần vì tôi hối hận; một phần, do tôi cảm thấy hạnh phúc vì vừa nhận được một tình yêu tha thứ, mà cha đã giành cho tôi.
- Tất cả hình ảnh đó, câu chuyện đó và sự tha thứ đó, đã ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc sống của tôi về sau. Tôi coi nó như là một vị thần hộ mệnh, luôn nhắc tôi về một thứ tình yêu vĩ đại, Một tình yêu tha thứ của cha.
Cảm nghiệm về tội lỗi, được người cha tha thứ, của Gandhi, khá giống với cảm nghiệm của đứa con “Đi hoang”, “Bụi đời” mà Tin Mừng Luca nhắc tới Vì cả 2 đều: nhận ra: tình yêu vĩ đại từ người cha của mình.
- Dựa vào câu chuyện, với một vài suy nghĩ, ta thử hỏi:
Nếu gia đình của ta: Có một thằng con “Bướng bỉnh–đi hoang” giống y như người “Con Thứ” trong Tin Mừng Ta thử tưởng tượng: khi nó trở về với thân hình tiều tuỵ, tàn tạ và xơ xát, không còn một xu dính túi… có khi còn nghiện Xì-ke, Ma-tuý, và thậm chí là bị lây nhiễm HIV nữa… Trong trường hợp đó, là cha mẹ, ta nên phản ứng như thế nào?
Ta có làm được những chuyện như người Cha Nhân hậu trong Tin Mừng làm không? Ra tận đầu ngõ để đón đứa con quý tử, ôm hôn con một cách thắm thiết, rồi còn kêu người đi lấy những món đồ mới để chưng diện cho con nữa… Lại còn lăn xăn kêu người mần bê mần bò đãi tiệc ăn mừng…
Hay là ta cho nó một trận để nhớ đời, thì ta mới hả giận? Vì thằng mất dạy, đòi chia gia tài cho đã, tưởng để đi làm ăn, nào ngờ phung phí ăn chơi, đến độ, xin lỗi, nói theo kiểu ngoài đời rằng: trở về với đúng một “cái quần Xà lỏn” dính thân.
- Nếu hỏi: ta nên làm gì, với tình huống đó?
Chắc là đa phần bố mẹ, sẽ trả lời rằng: Dạy cho nó một bài học, để nó chừa!
- Nói thì nói cho mạnh, cho dữ, như thế, chớ còn đụng vào thực tế, không hề đơn giản đâu, khó xử lắm đó, vì cha mẹ nào mà không thương con.
Đúng không thưa ACE.
- Vấn đề ở đây là: Thương con: đến mức độ nào và bằng cách nào?
Thưa điều đó, còn tuỳ vào cái tâm, cái tánh của mỗi người, mà cái cách yêu thương và dạy dỗ con cái của mỗi người cũng khác nhau.
Tuy nhiên, tất cả đều nhìn nhận rằng: mình chưa đủ thánh thiện, để tha cho con cái, một cách vô điều kiện, như người Cha Nhân hậu trong Tin Mừng.
Người Cha trong Tin Mừng được diễn tả một cách rất tuyệt vời:
Người cha này quá đỗi nhân từ. Nhân từ đến độ có người nói rằng: “…đến mức nhu nhược”. Thay vì ra lệnh trừng phạt đứa con bướng bỉnh kia, hay lên tiếng răng đe vài lời, cho nó sợ… Đàng này, người cha mở miệng toàn là những lời dịu dàng, tràn đầy yêu thương, không hề pha trộn một chút giận giữ nào trong đó.
Vừa thấy con về, ông như quên hết lỗi phạm của con, chỉ biết làm những động tác để diễn tả “tình Cha ấm áp như vầng thái dương: Vì lâu ngày, quá nhớ thương con, người cha muốn làm tất cả những gì có thể, ngay cùng một lúc, mọi việc như hối hả và dồn dập, để bù lại những tháng ngày xa cách, không chăm sóc con được.
Hình ảnh người cha Nhân hậu, diễn ta phần nào về Thiên Chúa, là Đấng rất yêu thương và đối xử với ta một cách “rất nhân hậu”.
- Trở lại tiếp câu chuyện của Tin Mừng, ta có thêm một cảm giác tiếc nuối khác:
Ta tiếc cho người anh, không chịu vào nhà, để một lần tha thứ cho người em có lòng sám hối. – Ta tiếc cho người anh mang tâm trạng buồn, vì sợ quyền lợi của mình bị chia đôi một lần nữa. – Ta tiếc cho người anh, với thái độ cáo gắt, không chịu học tấm lòng nhân hậu của người cha.
Bấy lâu nay sống bên cha, mà anh vẫn chưa hiểu cha muốn gì và cha cần gì?
- Anh chỉ biết có anh, chỉ nghĩ về mình, về quyền lợi và về hạnh phúc của mình. Chứ chưa hề có một chút gì, tỏ ra cảm thông với người em lầm lỡ, và nỗi khổ tâm ray rứt của người cha nhân từ, khi mất con.
Nếu xét mình, ta sẽ thấy, hình ảnh của hai người con: Con cả và con thứ, như ẩn ẩn, hiện hiện ở đâu đó trong tâm của mỗi người chúng ta. Có khi vì bướng bỉnh, sẵn sàng làm đau lòng người khác, có khi vì ít kỷ - ganh tỵ, ta không muốn chia sẻ cho bất cứ ai, những gì mà ta muốn nó thuộc về mình…
Mùa chay Thánh, là cơ hội, để ta tập từ bỏ những lối suy nghĩ và cách sống ít kỷ của người anh, cũng như từ bỏ tính đam mê lầm lạc của người em, để ta được ẩn mình trong tình thương của Người Cha: Nhân hậu, bao dung, hay tha thứ và tràn đầy tình yêu thương. Amen.
Lm Trầm Phúc
Dụ ngôn mà Giáo Hội cho chúng ta nghe hôm nay là một trong những dụ ngôn quan trọng nhất của Chúa Giêsu. Tại sao Chúa nói dụ ngôn nầy? Vì mấy ông Pharisêu và ký lục xầm xì vì Chúa ăn uống với những người thu thuế và những người tội lỗi. Chúng ta thường gọi là dụ ngôn về đứa con hoang đàng, nhưng thực ra dụ ngôn nầy chú ý đến người cha nhân từ nhiều hơn.
Một người nọ có hai người con trai. Người con út, khi trưởng thành (vì chưa đến tuổi trưởng thành thì không có quyền đòi chia gia tài), xin cha chia gia tài cho mình. Người cha đồng ý và đứa con út (tức là được cưng chiều hơn người anh) lại gom hết tiền của trẩy đi phương xa, không muốn ở với cha mình nữa. Anh phung phí tiền không tiếc xót cho đến một ngày kia, anh không còn gì trong tay, và xảy ra nạn đói trong vùng, anh bèn xin giúp việc cho một gia đình tại địa phương. Người ta bắt anh chăn heo. (Người Do thái xem con heo là một con vật ô uế). Đó là một nỗi nhục cho anh, nhưng biết làm sao? Thậm chí anh đói đến nỗi muốn ăn thứ muồng người ta cho heo ăn, mà không được phép. Trong nỗi cùng cực như thế, anh nhớ đến nhà cha mình. Ở đó, những người làm công đều no đủ. Thế là anh quyết định trở về.
Anh chuẩn bị những gì anh sẽ nói khi về nhà cha. Anh biết phận mình không còn xứng đáng làm con trong nhà nữa, anh chỉ xin làm công thôi để ít ra cũng có thế ăn no. Người cha vẫn nhớ đứa con út của mình. Thánh sử không nói nhưng chúng ta cũng hiểu. Ngày ngày ông ra đường trông chờ may ra đứa con út của ông trở về. Và một ngày trời nắng, ông nhìn thấy bóng đứa con thân yêu trở về. Ông vui mừng chạy đến ôm cổ con, hôn con với tất cả tình thương. Người con út mới mở miệng thú tội, nhưng ông không để ý đến và bảo đầy tớ mang nhẫn và áo cho con ông. Chiếc nhẫn là dấu hiệu của gia đình, mất chiếc nhẫn đó là mất cả tính cách làm con trong gia đình. Ông không nhìn thấy chiếc nhẫn trên ngón tay con, ông trao cho nó một chiếc nhẫn khác, tức là nhận nó làm con trong gia đình. Và ông mở tiệc ăn mừng, mời tất cả bà con hàng xóm đến chung vui.
Nhưng mọi sự không suôn sẻ như ông mong đợi. Đứa con cả ở ngoài đồng về, nghe thấy tiếng đờn ca hát, ngạc nhiên tìm hiểu và biết được rằng bữa tiệc nầy là mừng thằng con út trở về. Anh tức tối và không muốn vào nhà.
Người cha thấy đứa con cả về và không muốn vào nhà, bèn chạy ra đón tiếp. Nhưng người anh nói rõ sự phẫn uất của anh: “Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha…thế mà cha không bao giờ cha cho lấy được một con dê con để ăn mừng với bạn bè, còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại cho giết con bê béo ăn mừng”. Sự bực tức của người anh là phản ứng tự nhiên và tỏ ra ganh tỵ. Nhưng người cha cho thấy tình yêu vượt xa những lý lẽ của con người. Của cải chỉ là tạm bợ, con người mới đáng giá. Phải ăn mừng vì, em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy.”
Phải chăng đây chính là khuôn mặt đáng yêu của Cha chúng ta, Đấng ngự trên trời. Chúng ta chẳng phải là đứa con út bạc tình và vô tâm không? Biết bao nhiêu lần, chúng ta bỏ cha để chạy theo những ảo ảnh trần gian, chạy theo tiền bạc vui sướng thế gian mà không để ý gì đến tình thương của Cha chúng ta. Nhưng Cha vẫn kiên nhẫn đợi chờ và khi chúng ta trở về, Cha không bao giờ trách mắng mà cho chúng ta lại tất cả những gì chúng ta làm mất. Chúng ta có một người cha tuyệt vời như thế mà chúng ta không để ý. Hãy luôn luôn chạy đến với Cha vì lúc nào Cha cũng lo lắng và yêu thương chúng ta. Hạnh phúc biết bao khi chúng ta nép mình bên Cha, vui hưởng tình yêu nhẹ nhàng và đầy đặn của Cha.
Tình yêu của Cha trên trời được diễn tả bằng môt hành động tuyệt vời là ban Con Một cho chúng ta. Và Người Con đó đã làm một điều không thể tưởng tượng là trở nên một tấm bánh cho chúng ta ăn. Chúng ta có thấy được hạnh phúc của chúng ta không? Chúng ta dám sống với Chúa chúng ta hai mươi bốn trên hau mươi bốn không? Có như thế, chúng ta mới hiểu được phần nào tình yêu của Chúa, sự ngọt ngào êm dịu của tình yêu Chúa.