
GỢI Ý SUY NIỆM LỜI CHÚA
Chúa nhật 28 Thường Niên C
(2V 5,14-17; 2Tm 2,8-13; Lc 17,11-19)
Lm Trầm Phúc
Thánh Luca tường thuật một phép lạ của Chúa Giêsu mà không kể ra những chi tiết cần thiết như nơi chỗ, chỉ nói ngắn gọn là ở giữa biên giới Samari và Galilê. Lúc Ngài vào làng kia, làng nào? chúng ta cũng không biết. Chúng ta không thể tìm ra manh mối của phép lạ này, chỉ biết rằng đó là lúc Chúa đang đi về Giêrusalem mà thôi.
Phép lạ này cũng không rõ ràng như các phép lạ chúng ta đã nghe tường thuật. Số người được chữa lành là mười người, trong đó có một người Samari. Theo Luật Môsê, những người bị phong cùi hay một bệnh gì lan rộng trên cơ thể thì phải bị cách ly ra khỏi cộng đoàn và phải sống ở những nơi không có người để khỏi lây cho người khác. Vì thế, những người phong cùi này tự họp với nhau để sống. Thấy Chúa Giêsu, họ không dám đến gần mà chỉ đứng xa lên tiếng xin Người chữa cho mình. Làm sao họ biết được là Chúa Giêsu có thể chữa cho họ? Thánh sử cũng không nói rõ mà chỉ nói rằng họ xin Chúa chữa cho họ. Họ đứng xa và lớn tiếng kêu xin: “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi!” Tên Giêsu này rất hiếm xuất hiện trong Tin Mừng Luca, đây là lần thứ nhất, lần thứ hai là từ môi miệng của tên trộm lành bị đóng đinh cùng với Chúa trên đỉnh đồi Canvê.
Mấy anh cùi này đã cầu xin Chúa với danh nghĩa là Giêsu, tức là tin Ngài là Đấng Chúa sai đến, có thể chữa các anh khỏi bệnh. Lòng tin của các anh đã được đáp lại. Chúa Giêsu không chữa cho các anh ngay lúc đó mà chỉ bảo: “Hãy đi trình diện với các tư tế”. Theo luật thì khi khỏi bệnh, bệnh nhân đến trình diện tư tế để kiểm tra. Vậy những người này chưa được lành bệnh làm sao đi trình diện tư tế? Nhưng họ đã tin và trong lúc đi, mọi người đều được lành bệnh. Một trong số họ, khi thấy mình lành bệnh, liền trở lại với Chúa Giêsu. Anh sấp mình dưới chân Chúa Giêsu và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh này lại là một người Samari. Thánh Luca hình như có cảm tình với người Samari và xem người Samari là gương mẫu cho người Do thái. Điều này cũng dễ hiểu vì thánh nhân không phải là người Do thái. Ngài chú ý đến vấn đề phổ cập hơn và cởi mở hơn. Ơn cứu rỗi không dành ưu tiên cho người Do thái mà cho hết mọi người.
Người Samari sấp mình dưới chân Chúa Giêsu để tỏ lòng biết ơn. Đó cũng là một cử chỉ của kẻ tin. Anh tin rằng Chúa Giêsu không chỉ là con người tầm thường như mọi người mà là một Đấng cao cả. Chúa Giêsu ngạc nhiên không thấy chín người kia đâu. Ngài tỏ ra như ngạc nhiên: “Còn mấy người kia đâu, sao không thấy trở lại tôn vinh Thiên Chúa mà chỉ có người ngoại bang này?” Đối với Chúa Giêsu, Ngài chữa lành cho mười người tật phong này là một hành vi có tính cách tôn vinh Chúa chứ không chỉ làm cho vinh danh Ngài. Ngài muốn cho thấy rằng quyền năng của Ngài là cứu vớt mọi người. Ngài nói với anh cùi: “Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu lấy anh”. Anh được cứu vớt? Câu này xem ra không rõ nghĩa lắm, nhưng chúng ta có thể hiểu rằng anh đã lành bệnh phần xác nhưng tâm hồn anh cũng được cứu thoát nhờ niềm tin.
Chúng ta cũng hãy xin Chúa chữa lành tật phong của tâm hồn chúng ta, đổi mới tư tưởng, lời nói, hành động chúng ta cho phú hợp với thánh ý Chúa. Hãy dùng cuộc sống hôm nay của chúng ta để tôn vinh Chúa. Chúng ta không mang thêm gì cho Chúa, nhưng chúng ta có thể làm cho những người cùng sống với chúng ta hiểu biết và yêu mến Chúa hơn. Chỉ cần Chúa được yêu thương hơn là đủ, vì Chúa vẫn thương chúng ta trước. Ngài dám tự biến mình thành tấm bánh để nhờ đó vào tận trong con người chúng ta, nên một với chúng ta, chia sẻ cuộc sống đầy lo âu lao nhọc của chúng ta. Hạnh phúc của chúng ta là luôn được sống với Ngài và yêu mến Ngài. Còn hạnh phúc nào hơn?
Lm. Tôma-Thiện Trần Quốc Hưng
SỐNG LÒNG BIẾT ƠN KITÔ GIÁO
Hôm nay, chúng ta cùng với Chúa Giêsu đi lên Giêrusalem để thực hiện cuộc Vượt qua, nghĩa là thực hiện thánh ý của Thiên Chúa qua cuộc Thương khó và khổ nạn thập giá trong tâm tình vâng phục, tình yêu để tôn vinh và tạ ơn Thiên Chúa vì ơn cứu độ của con người chúng ta. Phần Thiên Chúa, chính Ngài cũng tôn vinh người Con của Ngài bằng cuộc phục sinh vinh hiển từ cõi chết. Nói theo ngôn từ của thánh Phaolô : Thiên Chúa đã siêu tôn Chúa Giêsu và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn danh hiệu trên trời dưới đất.
Trên đường lên Giêrusalem hôm nay, Chúa Giêsu đi ngang qua một khu vực cách ly dành cho những người bị bệnh phong nam và ở cách xa làng của những người mạnh khỏe như luật Môsê đã qui định trong sách Lv 13,46. Những con người khốn khổ bị ô uế, bị loại trừ khỏi cộng đoàn và các nơi thờ tự; tình cảnh của những con người bị bỏ rơi này thật thê thảm: đầu tóc, râu ria bù xù, quần áo rách rưới, thân tàn ma dại phải la to lên khi thấy có người đang đi về phía mình để cảnh báo không được đến gần và đụng vào họ vì nếu ai đụng đến người bệnh phong sẽ bị ô uế theo luật tôn giáo. Khu vực cách ly này có 10 người bệnh, những người này đứng đàng xa và hô to: Lạy thầy Giêsu, xin thương xót chữa lành cho chúng tôi! Chúa Giêsu không chữa lành họ cách trực tiếp nhưng nói với họ: Hãy đi trình diện tư tế vì tư tế có quyền thẩm định và chứng nhận một người nào đó bị bệnh hay đã được hết bệnh phong. Người bị bệnh phải đi cách ly còn người được lành sẽ được hội nhập lại cộng đồng. Cả 10 người bệnh đều đi trình diện tư tế và trên đường đi cả 10 người đã được chữa lành nhưng chỉ có 01 người quay trở lại tôn vinh Thiên Chúa và cảm ơn Chúa Giêsu bằng cử chỉ sấp mình dưới chân Ngài. Chỉ có 1/10 nhận ra ơn lành của Thiên Chúa ban cho mình và tỏ lòng biết ơn và người này lại là người Samaria, một người ngoài Do thái giáo.
Lòng biết ơn vừa là một đức tính nhân bản vừa là một nhân đức Kitô giáo. Về mặt nhân bản: người ta biểu lộ lòng biết ơn có thể bằng tiếng cám ơn thật lòng, hay bằng nhiều cử chỉ khác nhau diễn tả mức độ biết ơn đối với người làm ơn cho mình. Người Việt Nam chúng ta có nhiều cách nói diễn tả lòng biết ơn với nhiều cung bậc lạ lùng như: cám ơn, biết ơn, mang ơn, ghi ơn, nhớ ơn và đội ơn. Bài học về lòng biết ơn, biết nói lời cám ơn với những cung bậc khác nhau không phải mọi người đều thuộc và thực hành như một đức tính nhân bản. Có những người lý luận: tại sao tôi phải biết ơn người khác khi tôi phải trả tiền sòng phẳng? Người làm công phải biết ơn tôi chứ sao tôi lại phải biết ơn họ? Vô lý! Anh chị em nghĩ sao? Những con người với những suy nghĩ như thế, thật sự là những con người bất hạnh và tàn nhẫn với một trái tim khô cằn, cứng cỏi và tuyệt đối thực dụng. Khi ơn nghĩa bị chối bỏ hay không nhận ra tầm quan trọng trong tương quan nhân sinh, thì các tương quan khác trở nên lạnh lùng, tầm thường và thực dụng, làm băng hoại nhân tính và xã hội. Ngược lại, những con người với tấm lòng biết ơn chân thành trước những điều rất nhỏ về tinh thần hay vật chất mà người khác làm cho mình dù trực tiếp hay gián tiếp luôn là những con người nhạy bén, khiêm tốn và dễ mến trước mắt người khác. Họ góp phần làm cho tương quan nhân sinh được thăng tiến và nhiều tình người hơn. Lời cám ơn, tiếng xin lỗi trở thành nền tảng và là cầu nối trong xã hội. Thái độ biết ơn, lòng mang ơn, đội ơn càng cao quí biết bao thì thái độ vô ơn càng tệ bạc bấy nhiêu. Vô ơn tương ứng với vô giáo dục. Cho nên, cha mẹ, người lớn luôn biết nói lời cám ơn con cái, trẻ nhỏ và dạy cho các em cũng luôn nói cám ơn khi nhận sự giúp đỡ của người khác dù rất nhỏ và thông thường. Cách giáo dục tốt nhất và hiệu quả nhất luôn là làm gương sáng với lòng kiên nhẫn yêu thương. Với lòng biết ơn sâu sắc, đôi mắt trong đôi mắt của chúng ta sẽ mở ra và nhìn thấy những điều lạ lùng và có sức biến đổi tận căn trước những bất hạnh, khiếm khuyết, trái ý và những điều tương tự đều trở thành hồng phúc: những khiếm khuyết, vết hằn gây khó chịu hồng phúc làm cho ta biết ta có đôi mắt nhìn ra những điều hoàn hảo; hỡi đôi mắt may mắn, bất luận ngươi nhìn thấy gì, bất luận nó giống chi, vẫn đẹp đẽ vô cùng! Thật tuyệt vời phải không anh chị em?
Về nhân đức Kitô giáo, lòng biết ơn, cử chỉ tạ ơn Thiên Chúa về tất cả những gì xảy ra trong cuộc đời là thái độ của đức tin, đức cậy và đức mến. Với ba nhân đức đối thần này, người Kitô hữu nhìn nhận thật lòng rằng: tất cả những gì tôi có, đều do ân ban của Thiên Chúa hay nói cách khác, tất cả đều lãnh nhận từ lòng nhân lành của Thiên Chúa như lời của thánh Phaolô: Bạn có gì mà không do nhận lãnh! Trước hết và trên hết, Chúa Giêsu chân nhận rằng Ngài đã nhận tất cả từ Thiên Chúa là Cha của Ngài: ngôi vị Con, tên gọi Giêsu, sứ vụ cứu thế, những lời Ngài rao giảng, sức mạnh trừ quỷ, chữa lành, tha tội, thánh hóa… Ngài cảm tạ Cha đã mạc khải những mầu nhiệm Nước Trời cho những người bé mọn, cảm tạ Cha về các tông đồ và những người khác đến với Ngài… Hơn nữa, ngài đã sống lòng biết ơn Thiên Chúa cách trọn vẹn khi hoàn thành Ý định cứu độ của Thiên Chúa nhờ mầu nhiệm Vượt qua của Ngài và Ngài truyền cho các thế hệ môn đệ phải tưởng niệm mầu nhiệm Vượt qua của Ngài mà tạ ơn Thiên Chúa. Chính vì thế mà bí tích Thánh Thể có một tên gọi khác: Bí tích Tạ Ơn và là một hành động tạ ơn tuyệt đỉnh. Như vậy, hành vi tạ ơn và tôn vinh đẹp lòng Chúa là toàn thể Hội thánh và từng cá nhân kết hợp và nên một với hiến lễ tạ ơn của Chúa Giêsu trong việc cử hành Thánh Thể. Tóm lại, toàn bộ cuộc sống của Chúa Giêsu là một bài ca tạ ơn Thiên Chúa cho dù phải trải qua những cám dỗ, thử thách, đau khổ và cái chết. Đến lượt Thiên Chúa Cha lại tôn vinh Con của Người bằng việc phục sinh và siêu tôn người Con và đặt ngự bên hữu Người và truyền rằng: những người nào muốn tạ ơn và tôn vinh Thiên Chúa phải tung hô rằng Đức Giêsu Kitô là Chúa.
Các thánh là những người đã sống trọn vẹn lòng biết ơn Thiên Chúa trong mọi trạng huống, mọi cung bậc đời sống của mình với niềm xác tín: con luôn luôn cần Chúa và chỉ có Chúa là đủ cho con! Hồi đầu tháng 10, chúng ta kính nhớ Thánh nữ tiến sĩ Hội thánh là thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu. Ngài đã trải qua cuộc đời 24 năm với 15 năm trong hạnh phúc gia đình và trong lòng nhân hậu của Thiên Chúa nhân lành và 9 năm trong đời sống của một đan sĩ Cát minh không phải lúc nào cũng êm ả, ngọt ngào nhưng đan xen những đau khổ, tổn thương từ những chị em trong nhà dòng, những cơn bệnh đau đớn, những thử thách đức tin, đức cậy cho đến trước khi tắt thở. Trong nhật ký – Chuyện một tâm hồn, thánh nữ đã nhìn lại cuộc đời cá nhân và đúc kết trong 5 chữ tiếng Việt: Tất cả là hồng ân – Tout est grâce! Và Chúa nhật vừa qua, chúng ta cử hành trọng thể lễ Đức Mẹ Mân côi, hòa chung với lời tán dương và tạ ơn Thiên Chúa của Mẹ, chúng ta hát lên : Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa là Đấng cứu độ của tôi… vì Đấng toàn năng đã làm cho tôi muôn việc lạ lùng, cao cả.
Giữa một xã hội thực dụng, lòng ghen ghét, tranh chấp, bạo lực, vô cảm, nghi ngờ, tham lam, hẹp hòi, nhỏ nhen… Lời Chúa mời gọi chúng ta sống lòng biết ơn chân thành dành cho nhau, dành cho Chúa, cho Mẹ thiên nhiên và mọi vật xung quanh. Với lòng biết ơn sâu sắc, chúng ta sẽ biết đón nhận mọi chuyện xảy đến trong cuộc đời cách thanh thản, nhẹ nhàng và siêu thoát. Và khi đã đón nhận tất cả với lời Thank you, I love you – Cám ơn, thương lắm, chúng ta sẽ được giải thoát và chữa lành khỏi những vết thương của càm ràm, tức giận, buồn nản, bất hạnh.... Đây là bí kíp mà Đức Mẹ và thánh Têrêsa truyền lại cho chúng ta. Ước gì anh chị em luôn biết đem ra thực hành mỗi khi gặp chuyện không như mình ước mong, chờ đợi. Xin Đức Mẹ Fatima chuyển cầu giúp chúng ta sống tâm tình biết ơn Thiên Chúa và mọi người. Amen.
Lm. Phêrô Trần Trọng Khương
Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?
Chúa Giêsu đã chữa lành cho mười người phong hủi được lành sạch, thế nhưng chỉ có một người biết quay trở lại nói lời tạ ơn Chúa, người này là người ngoại giáo.
Vấn đề của Chúa Giêsu đặt ra không phải là sự hơn thua về đức tin, hay về lòng đạo đức giữa người Samari (ngoại giáo) và người Do thái, nhưng là sự ngạc nhiên về thái độ phản ứng giữa người Do thái sau khi được Chúa chữa lành bệnh, với thái độ người ngoại giáo khi được Chúa chữa lành.
Người Do thái – được mệnh danh là dân tộc được Chúa tuyển chọn, là con cưng của Chúa, thế mà phản ứng của họ trước phép lạ của Chúa lại quá tầm thường: Dửng dưng, thờ ơ, lạnh nhạt… Xem như đó là việc Chúa phải làm đối với họ.
Người Samari – được gọi là người ngoại bang, những kẻ tội lỗi, bị người Do thái xa tránh vì sợ ô uế, thế mà phản ứng của anh ta trước phép lạ của Chúa lại trở nên sâu sắc và tinh tế: Anh nhanh chân quay trở lại gặp Chúa, gặp Chúa rồi thị sụp lạy dưới chân Chúa mà cất tiếng tôn vinh, tạ ơn, chúc tụng, ngợi khen Chúa… đến độ Chúa Giêsu phải khen anh: Anh về đi, lòng tin của anh đã cứu chữa anh.
Có thể gọi phản ứng của chín người Do thái được Chúa Giêsu chữa lành phong hủi là: Gần Chùa gọi bụt bằng anh. Còn phản ứng của anh ngoại giáo được Chúa chữa lành là: Có thờ có thiêng, có kiêng có lành.
Thái độ và phản ứng: Gần chùa gọi bụt bằng anh vẫn đang tiếp tục tràn lan, ngập tràn trong đời sống của nhiều người. Biểu hiện cụ thể là thiếu tôn trọng các linh mục, tu sĩ, và các chức sắc. Xa hơn: Là thái độ giữ đạo theo kiểu hời hợt, thiếu xác tín, muốn đi lễ thì đi muốn bỏ thì bỏ, sẵn sàng làm những tội tày trời và sau đó chỉnh chu ăn chay đọc kinh cầu nguyện, không phải là đi tham dự thánh lễ mà là đi xem lễ, xem coi nhà thờ, ông cha, giáo dân…. có gì mới, có tin tức gì giật gân, có quyết định nào …. Chỉ để ra về bàn tán, chỉ trích, bài trừ, lên án.
Cần nhanh chóng điều chính thái độ và phản ứng với đức tin của mình. Đó là: Thờ kính Thiên Chúa cách thành tâm thiện chí, kiêng giữ những điều luật Hội thánh chỉ dạy. Nhất là cần loại bỏ tư tưởng giữ đạo để được Chúa ban cho những lợi lộc, hoặc giữ đạo để nhận được những quyền lợi từ nhà thờ, chẳng hạn như: Chết có chỗ chôn, có hội đoàn đến đọc kinh cầu lễ, được cộng đoàn giáo xứ nâng đỡ, được hưởng những quyền lợi do từ thiện bác ái của nhà thờ mang đến, được nở mày nở mặt trong ngày hôn phối…
Thái độ và phản ứng như thế nào đối với đức tin vào Chúa của mỗi người, đó là câu trả lời cho câu hỏi của Chúa: Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?
Ước mong câu trả lời của bạn và tôi sẽ nhận được lời khích lệ, động viên của Chúa: Con về đi, lòng tin của con vào Ta đã cứu giúp con.
Lm. Tôma Lê Duy Khang
Bài 1
Có một câu chuyện kể rằng: một lần nọ, cha xứ đến thăm một giáo dân có một nông trại rất lớn, cha được chủ nông trại dẫn đi xem các loại gia súc ông nuôi, đi ngang qua một đàn heo, cha xứ rất ngạc nhiên khi thấy 1 con heo chỉ có 3 chân. Cha xứ hỏi: “con heo kia lạ thật, sao nó chỉ có 3 chân vậy?” Ông chủ trả lời: “ồ, đó là con heo rất lạ lùng của con đấy!”
Cha xứ hỏi: “tại sao lại gọi là lạ lùng, phải chăng nó có 3 chân.” “Không phải đâu thưa cha, năm ngoái trong lúc cả nhà đang ngủ say không ai biết căn nhà của con đang bị cháy, thì con heo này thấy lửa, nó kêu lớn tiếng khiến con thức dậy kịp thời, nên mọi người trong gia đình mới sống sót và căn nhà cũng vì thế mà tránh được ngọn lửa thiêu rụi.” “ồ thật lạ lùng,” cha xứ nói.
“Chưa hết đâu cha, cách đây độ 6 tháng, đứa con trai út của con bị rớt xuống cái ao cá sau nhà, trong nhà chẳng ai thấy cả, ngoại trừ con heo này, thế là nó chạy vào nhà kêu lớn tiếng, làm mọi người đều chú ý, rồi nó lại chạy ra ngoài sau nhà đến gần cái ao, chúng con chạy theo, và thấy mặt nước có bong bóng nổi lên, nên biết là có người vừa rơi xuống ao, nhờ vậy mà chúng con cứu được đứa con trai út của mình.” Cha xứ la lên: “thật là một con heo lạ lùng.”
“Nhưng hai câu chuyện này có liên quan gì đến chuyện con heo bị mất một cái chân đâu chứ?” Ông chủ nói: “cha nghĩ coi, con heo này cứu gia đình chúng con như vậy, nên chúng con đâu có nỡ làm thịt nó một lần nguyên con được, do đó lần đầu chúng con chỉ ăn một chân của nó thôi, rồi lần sau mới ăn tiếp.”
Đây chỉ là một câu chuyện, nhưng nó muốn truyền tải cho chúng ta một thông điệp thường hay xảy ra trong cuộc sống, đó là sự vô ơn, vô ơn một cách trực tiếp đối với những người đã giúp đỡ chúng ta, hoặc là nhiều khi chúng ta vô ơn đối với những người âm thầm giúp đỡ mình.
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy, có mười người phong cùi đến xin Chúa Giêsu chữa lành, thấy vậy Chúa Giêsu kêu họ hãy đi trình diện tư tế. Trên đường đi thì họ được sạch, thấy mình được sạch 1 người trong số 10 người đó đã quay lại tạ ơn Chúa. Chúa Giêsu nói: “không phải cả 10 người đều được sạch sao, thế thì 9 người kia đâu không trở lại để tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?”
Chúng ta nhớ Chúa Giêsu từng nói khi làm bất cứ việc gì thì hãy nói tôi chỉ là đầy tớ vô dụng, tôi chỉ làm việc bổn phận đấy thôi, nghĩa là người làm ơn không cần người ta phải trả ơn, thế nhưng mặc dầu người ta không cần, nhưng người được làm ơn phải có lòng biết ơn người đã làm ơn cho mình, đó là điều mà Chúa muốn dạy mỗi người chúng ta.
Chúng ta thấy, Chúa có cần chúng ta cám ơn Chúa không? Thưa không cần, bởi vì những gì chúng ta ca tụng chẳng thêm gì cho Chúa, nhưng Chúa muốn chúng ta ca tụng Chúa, vì điều gì? Thưa vì những gì chúng ta ca tụng Chúa sẽ đem lại ơn cứu độ cho chúng ta, bằng chứng là khi người Samari thấy mình được sạch, anh đã quay lại tạ ơn Chúa, và sau đó Chúa đã nói gì? Chúa nói: “Đứng dậy về đi, lòng tin của con đã cứu chữa con,” nghĩa là lúc Chúa chữa lành là chỉ chữa lành phần xác thôi, nhưng khi anh ta trở lại tạ ơn Chúa, thì Chúa đã ban ơn chữa lành phần linh hồn cho anh nữa.
Nên lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta cám ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời chúng ta, để chúng ta được ơn cứu độ, mà để cám ơn Chúa thì phải đến với Chúa, nếu Chúa cho chúng ta có sức khỏe.
Không những chúng ta cám ơn Chúa, mà chúng ta còn cám ơn những dụng cụ mà Chúa gởi đến cho chúng ta, đó là những người đã trực tiếp giúp đỡ chúng ta, cũng như những người giúp đỡ chúng ta một cách âm thầm bằng cách này hay cách khác.
Có bao giờ chúng ta tự đặt câu hỏi rằng nhờ ai mà tôi có được ngày hôm nay không? Sở dĩ chúng ta có được ngày hôm nay, chúng ta vẫn còn trung thành với Chúa một mặt do sự cố gắng của chúng ta, mặt khác là do nhiều người đã trực tiếp hay đã âm thầm giúp đỡ chúng ta, mà những người âm thầm này thường chúng ta không biết được.
Nói đến đây tôi nhớ đến lời của thi sĩ Tagor viết rằng hãy cảm ơn ngọn đèn vì ánh sáng của nó, nhưng chớ quên người cầm đèn đang kiên nhẫn đứng trong đêm. Câu nói này ngụ ý nói rằng: ánh sáng của ngọn đèn rọi sáng bóng đêm, giúp ta soi rõ mọi vật và không bị lạc lõng trong màn đen u tối, nhưng ngọn đèn ấy không phải tự nhiên mà có, đằng sau nó là sự đóng góp thầm lặng của những người cầm đèn kiên nhẫn đứng trong đêm, những người cầm đèn ấy chính là những vị ân nhân trong cuộc đời của chúng ta đấy, họ đã góp phần không nhỏ làm nên hạnh phúc trong cuộc đời ta, khiến ta không còn có cảm giác sợ hãi trong đêm tối.
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta hiểu được điều đó, để chúng ta luôn luôn cám ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời chúng ta, để đến với Chúa, dù gần nhà thờ hay xa nhà thờ, nhất là những người gần nhà thờ cần phải đến với Chúa hằng ngày, rồi chúng ta cám ơn những người đã trực tiếp cũng như đã âm thầm giúp đỡ cho chúng ta, đó là điều mà Chúa muốn chúng ta thực hiện trong cuộc đời của mình. Amen.
Bài 2
Tin Mừng hôm nay thường hay đọc trong thánh lễ tạ ơn, tạ ơn tân linh mục, tạ ơn khấn dòng, tạ ơn kỷ niệm hôn phối, để gợi lên lòng biết ơn của con người dành cho Thiên Chúa.
Nhưng vấn đề đặt ra với mỗi người chúng ta, đó là tại sao phải sống lòng biết ơn? Chúng ta bỏ qua yếu tố biết ơn là nhân bản cần thiết nhất của con người, mà chúng ta tìm hiểu một yếu tố khác, đó là có phải khi một người hạnh phúc thì người đó tức khắc biết sống lòng biết ơn? Hay nói cách khác, có phải những người hạnh phúc là những người luôn biết sống lòng biết ơn hay không?
Nếu câu trả lời đó hiện lên trong tâm trí của mỗi người chúng ta là đúng rồi, nghĩa là người ta hạnh phúc là người ta biết sống lòng biết ơn, nếu chúng ta suy nghĩ như thế, thì có thể chúng ta sẽ phải suy nghĩ lại.
Tin Mừng hôm nay đã cho chúng ta thấy được điều đó, có mười người phong cùi đón gặp Chúa Giêsu, khi gặp Chúa thì họ kêu xin Người: “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương tôi.” Thấy vậy, Chúa Giêsu bảo họ hãy đi trình diện tư tế, trên đường đi như thế thì cả mười người được sạch, thế nhưng chỉ có 1 người dân ngoại là người Samari quay trở lại để tạ ơn Chúa mà thôi. Như vậy, chúng ta thấy 9 người còn lại khi được chữa lành, họ có hạnh phúc hay không? Thưa có, thế nhưng khi họ hạnh phúc, họ không quay lại để tạ ơn Chúa, nghĩa là khi họ hạnh phúc, họ đâu có sống lòng biết ơn.
Nếu nhìn vào đời sống hằng ngày, chúng ta cũng thấy có rất nhiều người giàu có và hoàn toàn có thể hạnh phúc, nhưng họ lại không hề hạnh phúc, bởi vì họ cứ muốn có thêm và có thêm mãi.
Thế nhưng có những người xem ra đời sống hằng ngày của họ không có gì là sang chảnh cả, ăn bữa nay lo bữa mai, chẳng có gì là may mắn hay số đỏ cả, thế mà họ lại thực sự hạnh phúc, nơi họ toát ra hạnh phúc và đôi khi làm cho người khác ghen tỵ, làm cho người khác ngạc nhiên. Tại sao vậy? Thưa tại vì họ có lòng biết ơn, nói cách khác, họ biết sống lòng biết ơn trong cuộc đời của mình.
Như vậy, chúng ta thấy không phải hạnh phúc làm cho người ta có lòng biết ơn, nhưng khi sống lòng biết ơn mới làm cho người ta có hạnh phúc. Nếu đọc tiếp Tin Mừng ở đoạn cuối chúng ta sẽ thấy, khi quay trở lại tạ ơn Chúa, Chúa Giêsu đã nói với người Samari: “Đứng dậy về đi, lòng tin của anh đã cứu chữa anh,” đó là điều hạnh phúc, còn 9 người còn lại không có được hạnh phúc này.
Rồi trong kinh Tiền Tụng IV cũng có nói: Lạy Chúa, những gì chúng con ca tụng chẳng thêm gì cho Chúa, nhưng đem lại ơn cứu độ cho chúng con.
Nên trong đời sống, chúng ta được mời gọi sống lòng biết ơn, thì tự khắc hạnh phúc sẽ đến với chúng ta mà thôi.
Ở đây xin được kể một câu chuyện rất thực tế trong đời sống. Có một gia đình kia mới cưới nhau, hai vợ chồng rất yêu thương nhau, nhưng mà khổ nỗi là họ ở chung với bà mẹ chồng (ở đây có ai ở với mẹ chồng không, ở với mẹ chồng có dễ không, không dễ chút nào, để nghe xong câu chuyện ta xem bà mẹ này dễ hay khó).
Một ngày nọ khi anh chồng chuẩn bị đi làm, thì người vợ chạy lại với vẻ mặt rất là bực bội và nói với chồng: Tôi chịu không nổi nữa rồi, mẹ của anh phiền quá, tôi chịu không nổi.
Bây giờ anh phải quyết định, một là bà đi, hai là tôi đi, và chị ta đi vào phòng đóng cửa cái rầm lại. Anh chồng thản nhiên mở cửa đi vào gặp vợ, thôi thì bây giờ mình soạn đồ đi, cho mẹ đi viện dưỡng lão.
Nhưng mà trước khi đưa mẹ đi tới viện dưỡng lão, anh sẽ kể cho em nghe một câu chuyện, để cho em biết mẹ của anh phiền như thế nào, và anh ta lục ở dưới gầm giường lấy ra một cái hộp gỗ, bọc kỹ lắm, mở ra thì có ba tấm hình.
Tấm hình thứ nhất, anh đưa cho vợ coi và nói: em biết không đây là tấm hình ngày anh mới sinh ra đời, mẹ anh phiền lắm, ba anh kể lúc ấy bác sĩ nói rằng hãy mổ đứa con ra hoặc là hãy chích thuốc tê đi để không thôi sẽ đau đớn lắm, nhưng mẹ nói không, tôi không muốn chích thuốc tê, tôi muốn đứa bé nó được ra đời bình an, tôi không muốn nó bị thuốc gì làm hại cả, tôi thà chịu đau, để cho con tôi nó ra đời được lành mạnh, em thấy không mẹ anh phiền như vậy đấy.
Và anh ta lấy tấm hình thứ hai là lúc anh ta ra trường, và anh nói rằng: em biết không khi anh lên 10 tuổi thì bố đã bỏ 2 mẹ con anh, để đi theo người đàn bà khác và lúc ấy mẹ anh khóc hết nước mắt, bà buồn lắm, nhưng mà nghĩ tới con, bà phải bắt buộc làm phận sự của người mẹ và người cha nữa, bà phải làm ba buổi trong ngày, sáng sớm thì đi bán xôi, chiều đến thì phải đi giúp cho những bà nhà giàu làm ôsin, tối đến mẹ đi phụ quét đường, mẹ anh phiền vậy đấy, và để làm gì vậy? Để cho anh có tiền đi học thêm tiếng anh, mẹ anh phiền như vậy đấy, và anh thấy bà vợ bây giờ thinh lặng, mặt tái mét.
Rồi anh lấy tấm hình cuối cùng, tấm hình khi anh đám cưới: em biết không khi trước ngày đám cưới, mẹ anh đã vào gặp anh, mẹ nói, bây giờ mẹ không còn ước muốn gì nữa rồi, bởi vì bây giờ con đã thành đạt, con đã lập gia đình, mẹ chỉ mong ước một điều mà thôi, là xin cho mẹ được ở với con, để mẹ lo lắng cho con, lo cho vợ của con, rồi lo cho những đứa con của con, đó là ước mơ lớn nhất trong cuộc đời của mẹ.
Và anh nhìn qua thì thấy người vợ chợt khóc, chị ta nhận ra được một điều là ở nơi người mẹ này, hằng ngày bà ta bị bệnh lãng trí, cứ dẹp cái này rồi thì lại bày ra, nhưng mà ở sau những cái sự phiền toái ấy lại là một người đàn bà vĩ đại, và chị ta khóc, nhìn chồng và nói: cám ơn mẹ đã sinh ra một người con vĩ đại như vậy và cho em một người chồng quá là tuyệt vời. Bây giờ em chỉ muốn một điều là em làm phiền mẹ thay vì để mẹ làm phiền em.
Câu chuyện này cho chúng ta thấy được một điểm, đó là ở nơi người con trai, luôn mang trong mình một tâm thức của lòng biết ơn, và anh ta luôn cầm theo 3 tấm hình, 3 tấm hình tượng trưng cho một cuộc đời dài của anh ta. Mỗi một chặng đường của cuộc đời xuất hiện một sự hy sinh của người mẹ đã dành cho anh ta, và không có người mẹ đó thì không có anh ngày hôm nay. Khi anh biết ơn mẹ đồng thời anh trở thành một người con hiếu thảo như vậy, nên cũng giúp cho người vợ hiểu được đây là một con người vĩ đại để chị ta cũng hiếu thảo với người mẹ này. Chính vì thế mà hạnh phúc đã ở lại gia đình của anh.
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta hiểu được được đó, để luôn luôn sống lòng biết ơn trong cuộc đời mình, chúng ta tạ ơn Chúa, chúng ta biết ơn cha mẹ chúng ta, chúng ta biết ơn những người đã giúp đỡ chúng ta một cách trực tiếp hay âm thầm, khi chúng ta sống lòng biết ơn như thế trong cuộc đời mình, chắc chắn hạnh phúc sẽ đi theo sau chúng ta mà thôi. Amen.
Bài 3
Trong truyện Lục Vân Tiên Kiều Nguyệt Nga của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu, có một chi tiết như thế này, đó là sau khi Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga khỏi tay bọn cướp, Kiều Nguyệt Nga tính bước xuống kiệu để tạ ơn tráng sĩ, thì Lục Vân Tiên đưa tay ra và bảo “khoan khoan ngồi đó chớ ra, nàng là phận gái ta là phân trai”, lúc đó Nguyệt Nga muốn đền ơn nên mới nói “Gặp đây đương lúc giữa đàng, Của tiền không có, bạc vàng cũng không. Ngẫm câu báo đức thù công, Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi. Vân Tiên nghe nói liền cười: Làm ơn há dễ trông người trả ơn. Này đà rõ đặng nguồn cơn, Nào ai tính thiệt so hơn làm gì? Nhớ câu kiến ngãi bất vi, Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.” Nghĩa là làm ơn không cần phải trả ơn, không mong người khác báo ơn.
Hoặc trong Tin Mừng theo thánh Luca, có đoạn Chúa Giêsu đã nói: “Đối với anh em cũng vậy: khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi” (Lc 17,10).
Thế tại sao trang Tin Mừng hôm nay, Chúa lại thắc mắc về 9 người kia không quay lại tạ ơn Thiên Chúa?
Chúng ta biết những gì chúng ta ca ngợi, những gì chúng ta cám ơn chẳng thêm gì cho Chúa, nhưng sẽ mang lại ơn cứu độ cho chúng ta, bằng chứng là sau khi người xứ Samari quay lại tạ ơn Chúa thì Chúa đã nói với anh: “Ngươi hãy đứng dậy mà về, vì lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi”. Nên Chúa đòi hỏi chúng ta cám ơn Chúa là vì muốn tốt cho chúng ta, và khi nói lời cám ơn là chúng ta đang xác tín đức tin vào Chúa.
Đó là việc của Thiên Chúa, cám ơn Chúa là việc thể hiện đức tin, là vì phần rỗi linh hồn của chúng ta, còn đối với con người chúng ta thì sao? Khi làm ơn cho người khác chúng ta có cần người khác phải cám ơn chúng ta hay không?
Có một bài viết như thế này: Trong thánh lễ ban phép Thêm sức tại nhà thờ giáo họ, sau khi nghe vị đại diện cộng đoàn phát biểu cám ơn với đại ý là Đức cha dù bận bịu trăm công ngàn việc, đường sá xa xôi, nắng nóng oi ả…nhưng ngài vẫn đến giáo xứ ban bí tích Thêm sức cho các em… Sau đó, đến lượt Đức cha đáp từ. Ngài đã thẳng thắn góp ý với vị đại diện là lần sau không nên cám ơn như thế nữa, vì đối với vị mục tử của giáo phận, đây là bổn phận, nhiệm vụ chính yếu của chủ chăn, nếu không làm công việc này thì không còn là chủ chăn nữa. Không nên khách sáo với nhau làm gì mà cứ thật lòng ứng xử với nhau, đừng dùng sáo ngữ hay xông hương nhau nữa. Dịp này, Đức cha cũng nhấn mạnh thêm là, làm mục tử là để phục vụ vô vị lợi. Chúa đã ban chức mục tử cho các vị mục tử cách vô vị lợi. Khi xã hội chạy theo bề ngoài, hình thức thì Giáo hội hơn bao giờ hết cần nội dung và lòng chân thành. Nếu không thì Giáo hội chẳng khác gì xã hội. Nếu không thì Giáo hội chẳng phát triển được. Xin hãy cám ơn nhau bằng những lời mộc mạc, đơn sơ, chân thành tự tận đáy lòng. Giám mục mà không ban phép Thêm sức cách nhưng không, thì không còn là Giám mục nữa. Linh mục mà không thi hành trách nhiệm của mình cách nhưng không, thì không còn là linh mục nữa.
Trong hầu hết các phát biểu, giáo dân thường bày tỏ lòng quý mến và cám ơn quý cha thế này thế kia. Tuy nhiên, đáng lẽ ra quý cha phải cám ơn giáo dân mới là hợp lẽ. Chẳng hạn, dịp lễ bổn mạng Hội đồng Mục vụ giáo xứ, lễ bổn mạng các ca đoàn, ban giáo lý viên, ban lễ sinh… Cha xứ phải cám ơn họ, vì họ là cánh tay nối dài của cha xứ trong việc phục vụ giáo xứ, vì họ là những thành phần ưu tuyển của giáo xứ mà nếu không có họ cha xứ khó hoàn thành vai trò mục tử trong cộng đoàn.
Đức cha Giuse Nguyễn Chí Linh, trong bài giảng tĩnh tâm các linh mục giáo phận Đà lạt tháng 2-2009, đã mở đầu như sau: “Sau cuộc tĩnh tâm, chúng ta lại trở về với đời thường của chúng ta. Đối với đa số các cha, trở về đời thường có nghĩa là trở về với giáo dân. Có thể nói được rằng giáo dân chính là cuộc đời, là bổn phận, là gia đình thiết thân nhất của linh mục. Xét cho cùng thì chúng ta làm linh mục là vì giáo dân, cho giáo dân và với giáo dân. Vì thế, thành hay bại đời linh mục phần lớn tùy thuộc cách ứng xử của linh mục đối với giáo dân.”
Xét như vậy thì cái “địa chỉ thân thương” mà quý cha nhắm tới chính là giáo dân, là cộng đoàn nơi các ngài đang phục vụ. Việc giáo dân tỏ lòng tri ân các ngài là việc bình thường của người được chăm sóc, nâng đỡ. Nhưng các mục tử cũng không thể bỏ qua việc khơi gợi những công sức âm thầm của rất nhiều tín hữu trong giáo xứ, mà nếu vắng họ thì mọi việc sẽ ngừng trệ và không hoàn thành. Cách này hay cách khác, họ là những người đáng tri ân.
Nói như vậy, không có nghĩa là mời gọi chúng ta dẹp bỏ đi lời cám ơn, lời cám ơn đó cũng rất cần thiết, nhưng chúng ta đừng để nó quá mang nặng về hình thức bề ngoài, mà bên trong thì trống rỗng, cám ơn thì vẫn cám ơn, người nhận lời cám ơn thì cũng nhận lời cám ơn, nhưng khi nhận lời cám ơn của ai chúng ta đừng tự kiêu, nhưng hãy ý thức“chúng tôi chỉ là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi chỉ làm những việc bổn phận đấy thôi” nghĩa là không có mình thì vẫn có nhiều người khác nữa, thậm chí là làm tốt hơn chúng ta nữa.
Còn nếu chúng ta quá chú trọng đến lời cám ơn, lời tôn vinh, thì khi đối diện với những lời phê phán, những quan điểm khác biệt, chúng ta khó có thể chấp nhận được, nhiều khi điều đó làm cho chúng ta buồn phiền, khó chịu đối với mọi người xung quanh, nên hãy cẩn thận, đừng để cho những thứ hư danh mê hoặc chúng ta, để rồi đánh mất đi lòng tốt đích thực của mình. Amen.
Tâm Thư
TẠ ƠN LÀ DẤU CHỈ CỦA LÒNG TIN
Bài đọc 1 trong sách các Vua quyển thứ 2 trình thuật, tướng chỉ huy Naaman, người sứ Syria mắc bệnh phong cùi. Naaman nghe tin bên Israel, Elise có thể chữa được bệnh. Ông tìm đến xin Elise giúp ông. Elise bảo Naaman xuống sông Gio-đan tắm 7 lần sẽ được lành bệnh. Ông không tin bởi nước sống Gio-đan có gì hơn nước sông xứ ông. Nhờ người hầu gái khuyên nhủ, ông đã xuống sông Gio-đan tắm 7 lần và được lành bệnh. Naaman tìm Elise tạ ơn, nhưng Elise không nhận của lễ. Elise muốn Naaman tạ ơn Thiên Chúa. Naaman nghe lời và ông nói rằng: tôi tớ ngài sẽ không dâng của lễ toàn thiêu và hy lễ cho thần nào khác ngoài Đức Chúa.
Trang tin mừng theo thánh Luca nối tiếp dòng tư tưởng đó. Qua việc chữa lành những người cùi, Chúa Giêsu muốn dạy cho những người Do-thái, cách riêng là cho các biệt phái, luật sĩ, những người dựa vào danh nghĩa dân riêng của Chúa, bài học về tâm tình tạ ơn.
Khi Đức Giêsu đang giảng dạy giữa miền Samari và Galilê, thì có 10 người bị phong cùi tìm gặp. Họ đứng đằng xa và kêu lớn tiếng: “Lạy ông Giêsu xin rủ lòng thương xót chúng tôi. Thấy vậy Đức Giêsu bảo họ đi trình diện các tư tế. Đang khi đi, thì họ được sạch. Một người trong bọn thấy mình được sạch liền quay lại và lớn tiếng tôn vinh Người.” Tại sao chỉ có người Samari quay lại?
Đức Giêsu bảo những người bị phong cùi đi trình diện các tư tế vì trong sách Lêvi có viết: “người nào có vết thương phong hủi thì phải đưa nó đến với các tư tế” (Lv 13,9). Sâu xa hơn, Đức Giêsu bảo họ đi trình diện các tư tế vì muốn họ biết rằng khi tin vào lời Chúa truyền dạy và thực thi, thì sự ra đi ấy sẽ mang lại một ơn ích – ơn chữa lành. Điều làm cho câu chuyện trở nên hấp dẫn và ý nghĩa là sự trở lại của người Samari. Anh ta trở lại cũng phải vì anh là dân ngoại. Dân ngoại làm gì được vào đền thờ mà trình diện các tư tế. Điều làm cho cuộc trở lại ý nghĩa chính là hành động của anh: “Anh sấp mình dưới chân Đức Giêsu và tạ ơn Người”. Anh tạ ơn Đức Giêsu vì Đức Giêsu đã cứu chữa anh, đã cho anh hội nhập vào xã hội loài người. Bấy lâu nay, anh bị người đời xa lánh, khinh tởm. Anh sống không giống như một kiếp người. Chính Đức Giêsu đã phục hồi nhân phẩm và tước vị cho anh. Anh tạ ơn Đức Giêsu vì anh nhận được lòng thương xót của Thiên Chúa như Naaman người Syria. Anh không nghĩ Thiên Chúa sẽ xót thương người dân ngoại khốn cùng như anh. Anh tạ ơn Đức Giêsu vì anh được gặp gỡ Thiên Chúa qua Người đã chữa lành anh. Cử chỉ sấp mình dưới chân Đức Giêsu là cử chỉ của lòng tin. Anh tin Đức Giêsu chính là Thiên Chúa. Cử chỉ sấp mình dưới chân Đức Giêsu còn là cử chỉ của sự quy phục, anh trở nên người môn đệ trước mặt Thầy, trở nên người tôi tớ trước Đấng Chí Tôn. Đức Giêsu đã dùng Thánh Thần mà tẩy rửa anh: “lòng tin của anh đã cứu chữa anh”. Chắc chắn khi trở về, anh sẽ trở nên nhân chứng giữa dân ngoại. Anh sẽ kể cho mọi người nghe điều anh đã nhìn thấy. Anh sẽ sống điều anh đã lãnh nhận. Và anh sẽ loan báo về tình thương của Thiên Chúa cho mọi người. Vì thế tạ ơn là dấu chỉ của lòng tin.
Điều chúng ta cần suy gẫm trong đoạn Tin mừng này là cách sống của những người Do-thái. Tại sao 9 người Do-thái bị phong cùi không quay trở lại tạ ơn Đức Giêsu, tạ ơn Thiên Chúa? Phải chăng họ xem việc Thiên Chúa ban ơn cho họ là điều đương nhiên vì họ là dân thánh? Hay họ xem vệc trình diện các tư tế để hội nhập vào xã hội là điều quan trọng hơn việc tạ ơn Thiên Chúa? Họ suy nghĩ như vậy nên đi trình diện các tư tế rồi sau đó mới quay lại tạ ơn Đức Giêsu!? Vậy có khi nào chúng ta sống giống như những người Do-thái đó không?
Có hai người hành khất lang thang trên hè phố để xin ăn. Trên đường, họ thường đi qua cung điện của vua và vẫn nhận được lòng từ thiện. Một trong hai người xin ăn hay cầu nguyện cho vua vì lòng tốt và sự độ lượng của vua. Còn người kia thì cám ơn Chúa vì Chúa đã ban sự độ lượng và lòng nhân từ cho đức vua để đức vua giúp đỡ ông ta. Điều này đến tai vua, làm người tức giận.
Một lần vua gọi người ăn xin đến và bảo:
- Chính ta là người đã cho ngươi đồ ăn thức uống hằng ngày. Vậy ngươi còn cảm ơn ai nữa?
- Nếu Chúa không hào phóng, thì bệ hạ cũng không thể giúp được gì cho kẻ nghèo hèn này.
Một hôm vua ra lệnh cho người làm bánh làm hai ổ bánh mì giống nhau và đặt những viên đá quý vào một ổ bánh. Sau đó cho người đem chiếc bánh có nhân là những viên đá quý đến cho người ăn xin cầu nguyện cho vua. Còn chiếc bánh kia đem đến cho người ăn xin kia và đều nói là quà của vua gửi.
Người làm bánh cẩn thận làm theo lệnh vua. Khi hai người ăn xin ra khỏi cung điện, người ăn xin vẫn cầu nguyện cho vua bỗng cảm thấy cái bánh của mình nặng, và hình như không được ngon. Ông ta bèn đổi cho người ăn xin kia. Người kia muốn điều tốt cho bạn mình nên đồng ý đổi. Sau đó mỗi người đi một ngả.
Một lúc sau người ăn xin vẫn cầu nguyện Chúa bẻ bánh ra và tất nhiên ông ta thấy của quý trong chiếc bánh. Ông ta quỳ xuống cảm ơn Chúa đã giúp ông ta và từ hôm đó ông ta không phải hằng ngày đến cung điện hoặc lang thang ngoài phố để xin của bố thí nữa.
Nhà vua lấy làm ngạc nhiên khi thấy đã lâu người ăn xin kia không đến cung điện nữa. Ông bèn hỏi người làm bánh:
- Ngươi có nhầm lẫn khi đưa hai chiếc bánh cho hai người ăn xin không?
- Thưa bệ hạ! Đúng như bệ hạ đã ra lệnh.
Nhà vua bèn hỏi người ăn xin mà bây giờ vẫn đi một mình qua cung điện:
- Ngươi có ăn cái bánh mì hôm đó ta sai gửi cho không?
Người ăn xin trả lời thành thật:
- Cái bánh đó nặng quá. Hình như nó không được nướng kĩ thần đã đổi cho người bạn cùng đi.
Lúc bấy giờ vua mới thấm thía một điều: “Chỉ có Chúa mới có thể biến một người giàu thành nghèo và một người nghèo trở nên giàu có.”
Ước gì, chúng ta luôn biết tạ ơn Chúa, vì chỉ có Chúa mới là cứu cánh của chúng ta. Amen.