
GỢI Ý SUY NIỆM LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XXI năm C_ Lm Trầm Phúc
Lời Chúa: Lc 13,22-30
Nhờ một thắc mắc của một người, Chúa Giêsu đưa ra cho chúng ta một cảnh báo: Hãy vào của hẹp”.
Cửa nào là cửa hẹp?Ai trong chúng ta cũng muốn dễ dàng và sung sướng. Ai cũng mong thành công mà không phải cực khổ. Chúa Giêsu thì khác. Hãy nhìn vào Chúa Giêsu. Ngài là Con Thiên Chúa, là Đấng nắm quyền trên trời dưới đất. Ngài đã đến trong trần gian, mang thân nghèo hèn, không nơi tựa đầu. Để làm gì? Chắc là không phải để làm giàu, tìm sung sướng, nhưng là để phục vụ và ban mạng sống làm giá chuộc cho muôn người. Sau cùng, hiến dâng mạng sống, chết treo trên thập giá… Cửa hẹp là đây, là sống như Ngài, phục vụ như Ngài, yêu thương như Ngài. Cửa hẹp là bỏ mình, vác thập giá và theo Ngài. Chúng ta dám không? Nếu chúng ta không dám đi vào cửa hẹp đó thì cuộc sống chúng ta sẽ là gì? Muốn thôi chưa đủ, phải dấn thân, phải dám liều. Chúa không dùng những người chỉ kêu: “Lạy Chúa, lạy Chúa” mà không làm gì cả. Một tác giả đã nói: “Hỏa ngục được lót bằng những thiện chí”. Chúa bảo: “Phải chiến đấu để qua được cửa hẹp” chứ Chúa không bảo ngồi đợi manna trên trời rơi xuống. Chúa muốn chúng ta luôn dám như Phêrô ngày nào, chỉ cần Gioan nói: “Thầy đó” là ông đã nhào xuống biển, đi trên mặt nước mà đến với Thầy. Hơn nữa, Chúa cũng bảo đừng chờ đợi mà hãy mau mắn bước tới. Đừng đợi khi chủ khóa cửa rồi đứng ngoài mà kêu. Chủ nhà sẽ không nhìn nhận chúng ta đâu. Dù chúng ta có ăn cùng với Ngài hay nghe Ngài giảng, Ngài không nhận ra chúng ta. Hãy mau mắn chứ không chần chờ. Nước Trời không dành cho những hạng người làm điều bất chính.
Với những lời như thế, Chúa cũng cảnh báo dân Do Thái, những người đã nhận được lời hứa, Giao Ước, Lề Luật, và tưởng rằng bao nhiêu đó đủ để được dự vào bàn tiệc của Chúa. Dù đã nhận được Lề Luật, Giao Ước, dân Do Thái đã không nhận sứ điệp của Chúa Giêsu. Họ đã quyết liệt từ chối Tin Mừng và cuối cùng đã giết Chúa. Họ đã nhìn thấy Chúa, nhưng họ không chấp nhận Ngài vì họ chỉ bám vào địa vị của họ là dân được Chúa chọn. Họ sẽ bị loại trừ khỏi Nước Chúa đang lúc các dân tộc khác sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa. Hãy tạ ơn Chúa vì đã cho chúng ta biết Chúa và hưởng ơn cứu độ của Ngài. Đó là kho tàng quí báu của chúng ta.
Nhưng chúng ta không giữ cho riêng mình mà phải loan báo cho mọi người, đem mọi người về với Chúa. Thánh Phaolô đã bôn ba khắp nơi để rao giảng Tin Mừng. Mẹ thánh Têrêxa Cancutta đã ước mong và làm bất cứ điều gì có thể để đem mọi người đến với Chúa, dù phải hy sinh đến kiệt sức.
Quanh chúng ta, kề bên chúng ta, biết bao nhiêu người chưa bao giờ biết Chúa. Chúng ta đã làm gì để giúp họ biết Chúa? Chúng ta thường ngày vẫn cầu xin cho danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, chúng ta đã làm gì? Chúng ta không giữ đạo cho riêng mình. Chúa Giêsu đã chết cho mọi người chứ không chỉ cho chúng ta. Chúng ta có nghĩa vụ phải loan truyền Tin Mừng của Chúa cho mọi người, giúp mọi người biết Chúa. Ai trong chúng ta cũng biết điều đó, nhưng chúng ta ngại, không biết phải làm sao. Chúng ta khoán trắng cho các linh mục và tu sĩ. Mỗi người chúng ta phải là một chiến sĩ truyền giáo. Các Kitô-hữu đầu tiên đã truyền giáo một cách hữu hiệu, không bằng lời nói mà bằng bác ái. Họ yêu thương nhau và nhờ đó, mọi người đều muốn được yêu thương như thế. Chúa Giêsu đã tha thiết mời gọi chúng ta: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Cứ dấu này mà mọi người nhận biết anh em là môn đệ Thầy”. Chỉ cần bao nhiêu đó, nhưng chúng ta vẫn chưa làm được. Thiên Chúa là Tình Yêu, người ta chỉ nhìn thấy khuôn mặt của Chúa khi nhìn thấy tình yêu. Không có cách nào giới thiệu Chúa ngoài tình yêu. Và điều này ai cũng có thể làm được. Yêu như Thầy đã yêu.
Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta trước. Ngài không ngại biến mình thành tấm bánh để tiếp cận chúng ta, cùng sống với chúng ta, tan biến trong chúng ta. Còn tình yêu nào sâu đậm hơn không? Chúng ta ngần ngại gì mà không đến lãnh lấy tình yêu để sống cho tình yêu?
Suy niệm Chúa Nhật XXI Thường Niên
Lm. Tôma Lê Duy Khang
Bài 1
Nguyễn Công Trứ từng nói: “Ví thử đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai,” hay “Muốn thành công phải trải qua thất bại, trong cuộc đời có dại mới có khôn,” để cho chúng ta biết muốn đạt được điều gì mình mong ước, thì không phải chỉ mong ước trong tư tưởng là có được, nhưng là phải thực hiện điều mình mong ước, và khi thực hiện điều mình mong ước thì chắc chắn không dễ chút nào, chắc chắn phải trả qua đau khổ và khó khăn. Nói cách dễ hiểu là trên cuộc đời này không luôn là thảm đỏ, không luôn là màu hồng, đó là điều mà chúng ta kinh nghiệm được trong cuộc đời này.
Điều mà chúng ta kinh nghiệm, Chúa Giêsu cũng dạy cho mỗi người chúng ta qua trang Tin Mừng hôm nay. Khi có người hỏi Chúa: “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải thế không?” nghĩa là người này hỏi có bao nhiêu người được cứu độ, vấn đề của ông là cứu độ. Mà ai mới có thể cứu độ? Thưa Chúa mới có thể cứu độ, quy trách nhiệm về cho Chúa.
Chúng ta thấy, Chúa Giêsu trả lời như thế nào? Thưa, Chúa không trả lời trực tiếp câu hỏi bao nhiêu người được cứu độ, nhưng Chúa nêu ra phương cách để được cứu độ, đó là: “Hãy chiến đấu để qua cửa hẹp mà vào, vì Tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được,” nghĩa là mời gọi con người cộng tác vào, con người phải muốn được cứu độ, nếu con người không muốn, thì Chúa cũng không làm gì được. Nói theo thánh Augustinô: “Chúa dựng nên con, không cần đến con, nhưng cứu độ con, Chúa cần con đáp lời.”
Như vậy, chúng ta thấy để có thể được cứu độ thì điều kiện đầu tiên là con người phải muốn, phải ao ước mới có thể thực hiện được, hay nói theo ngôn ngữ của thánh Augustinô thì: “Yêu đi rồi muốn làm gì thì làm.” Có người nói: “Người ta có thể không thực hiện được những điều mà mình mơ ước, nhưng tất cả những gì mà người ta thực hiện được, thì trước đó họ đã xây dựng nó trên nền tảng những ước mơ.”
THIÊN ĐÀNG LÀ CỦA CON: Một cô gái bị cám dỗ rất nặng nề về sự tuyệt vọng. Với những tội lỗi của mình, cô nghĩ rằng cô đã có chỗ trong Hỏa ngục đời đời, không còn hy vọng gì được Thiên Chúa yêu thương và hưởng phúc Thiên đàng nữa.
Ngày kia, thánh Philipphê Mesi đến thăm cô. Sau khi nghe cô thổ lộ tâm hồn, thánh nhân nói: “Thật là tai hại, con gái yêu của ta, khi con tin rằng con đã được dành cho lửa đời đời, Thiên đàng mới là của con.”
Cô gái tội nghiệp nức nở thưa: “Cha ơi, con không thể tin được điều ấy.” “Đó là vì con khờ dại. Cha sẽ chứng minh cho con thấy. Chúa Giêsu đã chịu chết cho ai?”
Cô gái đáp: “Cho người tội lỗi.” “Đúng lắm, thế bây giờ con nghĩ con là một vị thánh sao?” Cô gái vừa khóc vừa trả lời: “Không, con là một kẻ đầy tội lỗi.”
- Như vậy, chính vì con mà Chúa Giêsu đã chết, và chắc chắn Chúa chết là để cho con được vào Thiên đàng. Vậy thì Thiên đàng là của con, bởi con đã gớm ghét tội lỗi, con đừng nghi ngờ chi nữa.
Những lời của thánh Philipphê Mesi bắt đầu thấm vào tâm hồn cô gái. Và từ lúc ấy, lời nói “Thiên đàng là của con” đã không ngừng an ủi cô và khiến cô không còn mất lòng tin tưởng vào tình yêu thương vô biên của Thiên Chúa nữa. (Thánh Anphongsô. Nguồn: Tinmung.net).
Chúng ta thấy, khi con người có ước mơ, khi con người muốn, thì có khó khăn cách trở như thế nào đi chăng nữa thì cũng sẽ cố gắng thực hiện cho bằng được, còn khi không có ước mơ thì không thể làm được gì cả.
Điều kiện thứ hai là khi có ước mơ rồi, chúng ta phải chiến đấu để đạt được ước mơ đó.
Vậy Chúa kêu gọi chúng ta chiến đấu, nhưng chiến đấu với cái gì, phải có mục tiêu rõ ràng cuộc chiến mới có thể dành thắng lợi được?
Có phải chúng ta chiến đấu, giảm ăn giảm uống để ốm bớt mới qua cửa hẹp được hay không? Thưa không, nhưng Chúa muốn chúng ta phải chiến đấu với tự do của chính mình, bởi chính khi tạo dựng nên con người Chúa đã ban cho con người có tự do, và con người đã lạm dụng tự do này để làm điều xấu, chính vì thế mới có tội lỗi, đau khổ, sự chết.
Chúng ta biết, theo cách nghĩ thông thường của con người khi nói đến tự do, thì họ cho rằng tự do là muốn làm gì thì làm, muốn ngủ lúc nào thì ngủ, muốn chơi lúc nào thì chơi, muốn lấy cái gì của ai thì lấy. Đó đúng là tự do, nhưng là tự do của sự phóng túng, tự do của sự dễ dãi, và sự dễ dãi đó sẽ dễ đưa con người đánh mất tự do.
Chính vì thế, chúng ta phải chiến đấu với tự do muốn làm gì thì làm đó, để sống theo ý muốn của Thiên Chúa, và vũ khí giúp chúng ta chiến đấu là các giới răn của Chúa, là ơn Chúa, là những dụng cụ mà Chúa gởi đến cho chúng ta.
Nhưng đặc biệt, chúng ta phải tin tưởng vào ơn Chúa, mặc dù chính chúng ta phải đứng ra chiến đấu, đứng ra đương đầu, nhưng cần sự trợ lực của Chúa.
Chúng ta hãy nhớ lại câu chuyện của Đavit đấu với Goliat, sách Samuen quyển thứ nhất đã mô tả: “Goliat mình cao sáu xích một gang, đầu đội mũ chiến bằng đồng, mình mặc áo giáp vảy cá, áo giáp ấy bằng đồng, nặng 5 ngàn seken. Chân nó mang tấm che bằng đồng, vai đeo cây lao bằng đồng. cán giáo của nó như trục khung cửi thợ dệt, và mũi giáo của nó bằng sắt, nặng 6 trăm seken. Đi trước mặt nó là người mang thuẫn.”
Còn Đavit thì như thế nào? Thưa không có gì cả, chỉ là một thằng bé con, có mái tóc hung và đẹp trai, khi vua Saun đưa áo giáp, đưa gươm của ông cho Đavit, Đavit vì không quen nên đã bỏ tất cả, cậu chỉ cầm cây gậy, chọn lấy 5 hòn đá. Thế nhưng tại sao Đavit lại thắng được Goloat?
Chúng ta biết, khi hai người sáp chiến, thì Đavit nói với Goliat: “Mày mang gươm, mang giáo, cầm lao mà đến với tao. Còn tao, tao đến với mày nhân danh Đức Chúa các đạo binh là Thiên Chúa các hàng ngũ Israen mà mày thách thức. Ngay hôm nay, Đức Chúa sẽ nộp mày vào tay tao, tao sẽ hạ mày và làm cho đầu may lìa khỏi thân” (x. 1Sm 17,1-10.32.38-51).
Như vậy, để được cứu độ, mỗi người chúng ta phải ước muốn mình được cứu độ, và khi ước muốn mình được cứu độ thì chúng ta phải chiến đấu với tự do của chính mình để sống theo những gì mà Chúa dạy mỗi người chúng ta, và để có thể chiến thắng, chúng ta phải biết cậy dựa vào ơn Chúa, bởi vì nếu không có ơn Chúa giúp thì chúng ta sẽ không làm gì được. Amen.
Bài 2
Ông bà ta thường nói muốn biết phải hỏi, muốn giỏi phải học, để nói về sự ham học hỏi của con người, cố gắng tìm tòi học hỏi những điều mình chưa biết, vì không ai sinh ra đã là một thiên tài.
Hôm nay chúng ta thấy, khi Chúa Giêsu lên Giêrusalem, thì có một số người Do thái cũng muốn học hỏi, nên đã thắc mắc với Chúa: “Thưa Thầy, phải chăng có một số ít người được ơn cứu độ”. Với câu hỏi này, họ muốn hỏi Chúa: Phải chăng người được cứu độ chỉ có hạn theo nghĩa số lượng.
Chúa Giêsu không trả lời cách trực tiếp câu hỏi này, nhưng Chúa nói: “Các ngươi hãy cố gắng hãy qua cửa hẹp, vì Ta bảo các người nhiều người sẽ tìm vào mà không được”. Nghĩa là Chúa nhắm đến chất lượng chứ không nhắm đến số lượng, và được vào hay không được vào là do sự chọn lựa của con người, chứ ý muốn của Chúa là tất cả mọi người được ơn cứu độ, nói như thánh Augustinô: “Chúa dựng nên con không cần đến con, nhưng cứu độ con Chúa cần con đáp lời”.
Như vậy, nhờ câu hỏi đó mà chúng ta biết được rằng, Chúa cần chất lượng hơn là cần số lượng.
Nhưng để có được chất lượng chúng ta cần phải chọn lựa. Nhưng chọn lựa thế nào? Thưa phải chọn lựa qua cửa hẹp, mà cửa hẹp này là gì? Thưa là đời sống tốt lành bác ái, hy sinh của chúng ta. Và tất cả mọi người đều có quyền để chọn lựa chứ không loại trừ ai cả.
Có một bài viết mang tên: CÔNG BẰNG Ở ĐÂU? được chia sẻ như thế này:
Người ta đặt một câu hỏi như sau: Trên đời này có cái gì gọi là công bằng hay không?
Câu trả lời là: Có. Đó là Thời Gian.
Tất cả mọi người đều có 24 tiếng/ngày. Và đó là sự công bằng.
Vì vậy:
- Nếu mình nghèo, đừng đổ lỗi cho thế giới vì mình cũng có 24 tiếng để làm giàu.
- Nếu mình kém, đừng đổ lỗi cho thế giới vì mình cũng có 24 tiếng để học hỏi.
- Nếu mình ốm, đừng đổ lỗi cho thế giới vì mình cũng có 24 tiếng để xây dựng sức khoẻ.
Chúng ta đều có 24 tiếng, nhưng có người lựa chọn ngủ nướng, có người lựa chọn làm việc, có người lựa chọn suy nghĩ tích cực, có người lại lựa chọn những suy nghĩ tiêu cực, có người lựa chọn can đảm làm việc khó, có người lựa chọn sự sợ hãi không dám làm... và có lẽ nào chúng ta đã nhầm?
Bài viết kết luận: Cuộc sống rất công bằng, nhưng lựa chọn của mỗi người mới chính là điều không công bằng. Nếu lựa chọn đúng thì phận số của ta sẽ thay đổi, nên hãy lựa chọn cho đúng!
Trong đời sống đức tin, Chúa cũng rất công bằng với mỗi người chúng ta, chọn con đường hẹp là chọn lựa của con người, không có sự phân biệt bất cứ một ai hết, nhưng liệu rằng con người có chọn lựa để được cứu độ hay không? Đó là tự do của con người, và khi mỗi người chúng ta còn sống ở trần gian này là Thiên Chúa đã cho con người có thời gian để chọn lựa.
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta ý thức được điều đó, để tất cả mọi người chúng ta dù nghèo, hay giàu, dù già hay trẻ, dù linh mục, giám mục, dù tu sĩ hay giáo dân đều có thể chọn lựa đi con đường hẹp của Chúa, chứ Chúa không loại trừ, chọn lọc bất cứ ai cả, mà Chúa luôn công bằng, Chúa ban cho con người tự do, Chúa cho con người có thời gian, để chính họ được ơn cứu độ.
Xin Chúa chúc lành cho mỗi người chúng ta. Amen.
TÂM TÌNH ĐỌC TIN MỪNG CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN C
Lm. Phêrô Trần Trọng Khương
Lc 13,22-30
CUỘC SỐNG LÀ CUỘC CHIẾN
Cho dù bạn là người không tin vào thần thánh, mơ hồ về đời sau, nhưng chắc rằng từ sâu thẳm trong tâm hồn bạn luôn khắc khoải một điều gì đó sau khi chết. Tâm trí bạn luôn đặt câu hỏi: Tôi chết rồi có còn điều gì nữa không? Và chắc rằng: Tự bạn cũng tin rằng phải còn một điều gì đó sau khi kết thúc cuộc sống dương gian này. Tin như vậy sẽ an ủi và là động lực cho cuộc sống trần gian của chính mình.
Không phải hễ chết là có được sự sống đời sau cách hạnh phúc. Không phải kết thúc cuộc sống trần gian này là bước vào hạnh phúc thiên đàng. Không! Không phải như vậy. Sự sống hạnh phúc vĩnh cửu đời sau phải chiến đấu mới có được. Chúa Giêsu nói: Hãy chiến đấu để qua cửa hẹp mà vào.
Chiến đấu để giữ vững đức tin: Đức tin là ơn Chúa ban, Chúa ban cho người nào thì người đó mới nhận biết Chúa, tin Chúa. Chúa ban đức tin là việc của Chúa, còn nuôi dưỡng đức tin lại là việc của con người.
Thời nay đức tin luôn phải chịu thử thách. Trong hoàn cảnh bình thường ấm no hạnh phúc, việc tin Chúa, trông cậy vào Chúa xem ra khá dễ dàng. Nhưng khi cuộc sống gặp sóng gió, thất bại, bệnh tật, bị lừa dối, bị loại trừ… Trong hoàn cảnh như vậy đức tin chịu thử thách, trở nên nao núng. Vì tin Chúa nhưng sao Chúa cứ im lặng, Chúa muốn con người hạnh phúc nhưng sao khổ đau lại chồng chất triền miên?
Chiến đấu để giữ vững đức tin trong những hoàn cảnh như vậy, là cả một sự cố gắng liên lỉ không biết mệt mỏi.
Chiến đấu để trở nên người: Không ai vừa sinh ra lại trở nên người. Lớn lên thành người là một quá trình nhiều năm tu tâm dưỡng tánh, tu thân tích đức. Quá trình thành người phải trả bằng nước mắt, mồ hôi, tủi nhục, thất bại, và biết bao công sức vun trồng nuôi dưỡng của nhiều người.
Nếu không chiến đấu để thắng chính mình, thì cho dù có sống lâu đến đâu đi chăng nữa cũng sẽ không lớn nổi thành người.
Chiến đấu để trở nên thánh trong cuộc sống đời thường: Chỉ tin thôi chưa đủ, đức tin phải biến thành hành động, hành động đó là quá trình tích lũy công đức bằng những việc làm đạo đức, suy nghĩ thánh thiện, lời nói phù hợp với việc làm lành thánh…
Chiến đấu để sống không làm tổn hại đến ai là chưa đủ, mà còn phải là chiến đấu để sống tốt với chính mình và với mọi người. Chiến đấu để tránh sa lầy tội lỗi là chưa đủ, nhưng còn là chiến đấu để không trốn tránh những việc làm thiện ích phải làm. Đây được gọi là chiến đấu để trở nên thánh ngay trong cuộc sống hằng ngày của chính mình.
Nước Trời là quà tặng cao quý mà Chúa ban cho con người, nhưng cũng hàm chứa trong đó: Con người phải chiến đấu để nhận món quà này cách xứng đáng.
Điều gì xảy ra nếu như bạn không chiến đấu hằng ngày trong cuộc sống của mình? Chắc chắn rằng: Cửa hẹp sẽ càng hẹp hơn nữa.
Nếu hoàn cảnh của bạn rơi vào trạng thái: Buông xuôi tất cả, không còn sức chiến đấu nữa. Xin bạn hãy giữ vững sự tin tưởng: Chỉ có Chúa mới mở được cánh cửa hẹp cho bạn bước vào mà thôi.
CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN C
Lm. FX. Nguyễn Văn Thượng
Đời sống đức tin như một con đường dẫn đến Thiên Chúa. Trên con đường đức tin, ai nấy cần phải chiến đấu hết sức mình. Thánh Phaolô đã so sánh cuộc hành trình đức tin của người Ki-tô hữu với vận động trường, bởi thế, nếu muốn đạt thành tích tốt nhất chỉ có cách dày công luyện tập. Con đường vào Nước Trời là một con đường chật hẹp, đòi hỏi nhiều hy sinh chiến đấu, những hình ảnh của sự hy sinh chiến đấu dễ đưa chúng ta đến chỗ ngộ nhận về niềm tin Kitô giáo. Lời Chúa kêu gọi hành động, bởi lẽ, các nguyên tắc của Nước Trời là những gì đòi hỏi một quyết định và một cam kết. Đây là một mệnh lệnh không thể nào trốn tránh được.
BÀI ĐỌC I: Isaia 66,18-21
Thiên Chúa sẽ tập hợp mọi quốc gia và mọi thứ tiếng; và họ sẽ đến và chiêm ngưỡng sự vinh hiển của Ngài. Tiên tri Isaia loan báo Đức Chúa đã hứa một cuộc hiệu triệu vĩ đại giữa dân Israel; nhưng Ngài cũng sẽ quy tụ cư dân trên khắp thế giới, một số người từ mọi quốc gia và mọi thứ tiếng để nhìn thấy sự vinh hiển của Ngài. Như thị kiến của Thánh Gioan trong sách Khải Huyền: “Ngài cũng làm cho họ thành một vương quốc, thành những tư tế, để phụng thờ Thiên Chúa chúng ta, và họ sẽ làm chủ mặt đất này.” (Kh 5,9). Trong Tin Mừng Mat-thêu, hình ảnh tương tự: “Bấy giờ, dấu hiệu của Con Người sẽ xuất hiện trên trời; bấy giờ, mọi chi tộc trên mặt đất sẽ đấm ngực và sẽ thấy Con Người rất uy nghi vinh hiển ngự giá mây trời mà đến. Người sẽ sai các thiên sứ của Người thổi loa vang dậy, tập hợp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương, từ chân trời này đến chân trời kia” (Mt 24,30-31).
“Ta sẽ đặt giữa họ một dấu hiệu và sai những kẻ sống sót của họ đến các dân tộc: Tác-sít, Pút, Lút, là những dân thạo nghề cung nỏ, đến dân Tu-van, Gia-van, đến những hải đảo xa xăm chưa hề được nghe nói đến Ta và chưa hề thấy vinh quang của Ta. Họ sẽ loan báo vinh quang của Ta giữa các dân tộc.” Tiên tri Isaia đề cập đến lời tiên tri về mệnh lệnh truyền giáo là công việc của những kẻ được tuyển chọn sống sót. Tất nhiên, Thiên Chúa muốn cho dân Israel biết rằng họ sẽ trở thành một dân tư tế giữa các quốc gia (x. Xh 19,6) và là ánh sáng cho muôn dân. Nhưng rõ ràng hơn nữa, Thiên Chúa, bởi Đức Ki-tô đã truyền lệnh cho Hội thánh đem Tin Mừng – lời hiệu triệu của Nước Chúa đến các dân tộc, công bố vinh quang Thiên Chúa giữa các quốc gia. Những vùng đất Tác-sit (nay là Tây Ban Nha, Pháp và Ý) đến Pút (một khu vực ở châu Phi) và đến Lút, theo một số người là giống như Libya, Tu-van là một người con của Japheth, con của Nô-ê, có hậu duệ của họ định cư ở Đông Bắc Âu hoặc Nga và Gia-van là tên trong Kinh thánh của xứ Hy-lạp. Vậy thì, theo một nghĩa nào đó, điều này được thực hiện bởi tiếp nối sứ mệnh truyền giáo của Hội Thánh qua nhiều thế kỷ. “ĐỨC CHÚA phán: giống như con cái Ít-ra-en mang lễ phẩm trên chén dĩa thanh sạch đến Nhà ĐỨC CHÚA, người ta cũng sẽ đưa tất cả những anh em các ngươi thuộc mọi dân tộc về làm lễ phẩm tiến dâng ĐỨC CHÚA – đưa bằng ngựa, xe, võng cáng, lừa và lạc đà – về trên núi thánh của Ta là Giê-ru-sa-lem.” Đây là một phần công việc tối thượng của Đức Chúa, khi những người truyền giáo ra đi, dân Israel cuối cùng cũng quay trở lại, trong một cuộc tụ họp tuyệt vời. Điều này đã được hoàn thành một phần; nhưng cuối cùng sẽ được hoàn thành trong ngàn năm mới của Đấng Mê-si-a. “Và cả trong bọn họ, Ta sẽ chọn lấy một số làm tư tế, làm thầy Lê-vi - ĐỨC CHÚA phán như vậy.” Ý tưởng là vào ngày đó, Đức Chúa sẽ mở rộng chức tư tế vượt ra ngoài ranh giới trước đây. Cũng như vào thời của Isaia, chỉ có một số là thầy tư tế và thầy Lê-vi, nhưng qua họ, dân Israel được thành lập thành dân tư tế của Chúa, nên giờ đây ông thấy trước những người ngoại bang được kết hợp theo những điều kiện bình đẳng, thành những đặc quyền như nhau, thông dự vào cuộc tế lễ và trở thành dân chuyên lo tế tự cho Thiên Chúa.
2. BÀI ĐỌC II: Dt 12,5-7.11-13
“Anh em đã quên lời khuyên nhủ được nói với anh em như với những người con: Con ơi, đừng coi nhẹ lời Chúa sửa dạy, chớ nản lòng khi Người khiển trách.” Thánh Phao-lô nói theo cách một người cha khoan nhượng như tiếp thêm một động lực để các tín hữu hãy kiên trì chịu thử thách kéo dài. Trích dẫn từ Châm ngôn: “Này con, chớ khinh thường khi ĐỨC CHÚA sửa dạy con, đừng chán ngán khi Người khiển trách. Vì ĐỨC CHÚA khiển trách kẻ Người thương, như người cha xử với con yêu quý” (x. Cn 3,11.12). Một lý do hay ho dẫn đến sự chán nản của những Ki-tô hữu gốc Do-thái này là vì họ không thấy lý do hợp lý nào khiến cho Đức Chúa cho phép những thời điểm khó khăn xuất hiện. Họ quên các nguyên tắc liên quan đến sự tinh tuyền, thánh thiện của CHÚA. Nhiều khó khăn trong đời sống Ki-tô hữu đến từ các từ ngữ trách yêu này của Thánh Phao-lô: “anh em đã quên.” Có lẽ đó là một số nguyên tắc chúng ta ghi nhớ trong tâm trí, nhưng đã quên trong trái tim - và chúng ta phải nhớ lại nó. Trong thời gian thử thách hoặc căng thẳng, nhiều Ki-tô hữu quên một số điều cơ bản. Chúng ta phải thừa nhận rằng Đức Chúa cho phép mọi điều xảy ra. Tất nhiên, Đức Chúa không bao giờ có thể là tác giả của điều ác. Nhưng Người cho phép người khác lựa chọn điều ác, và Người có thể sử dụng sự lựa chọn gian ác mà người khác đưa ra để thực hiện mục đích tốt đẹp cuối cùng của Người, ngay cả khi chỉ để chứng tỏ công lý và lẽ phải của Người trái ngược với điều ác. “Người đối xử với anh em như với những người con”: lời này diễn tả một sự thật cơ bản về Thiên Chúa như một người cha nhân từ, nhân hậu đối với những đứa con trai hay con gái của mình. Một số người gặp khó khăn khi tiếp nhận điều này bởi vì họ chưa từng biết một người cha nhân hậu, nhân ái theo kinh nghiệm của chính họ. Tuy nhiên, ngay cả những người này vẫn có thể nhận được tình yêu thương của Thiên Chúa là Cha nhân từ. Tất cả chúng ta đều không biết thế nào là một người cha kiểu mẫu, nhưng chúng ta đều biết thế nào là một người cha tốt. Thiên Chúa là người Cha hoàn hảo đó, và Người ban cho chúng ta trực giác đó. Người ta cảm thấy bị lừa dối hoặc thất vọng bởi một người cha tồi vì họ trực giác so sánh những kẻ tệ hại đó với Cha nhân lành của chúng ta ở trên trời.
Đối với Thánh Phao-lô, sự sửa dạy của Thiên Chúa không bao giờ để trừng phạt chúng ta hoặc bắt chúng ta phải trả giá cho tội lỗi của mình. Điều đó đã được thực hiện một lần và mãi mãi với Thập Giá Đức Ki-tô. Sự sửa dạy của Người chỉ được thúc đẩy bởi tình yêu thương của Người, không phải bởi sự công bình của Người; Người trừng phạt chúng ta mà không giận dữ. “…Những người chịu rèn luyện như thế sẽ gặt được hoa trái là bình an và công chính”: Hoa trái này phải được hiển nhiên trong đời sống của người Ki-tô hữu. Lý do tại sao nhiều người trải qua cơn khủng hoảng này đến cuộc khủng hoảng khác trong cuộc sống là vì họ mù quáng trước sự thánh thiện của Thiên Chúa hoặc họ chống lại điều đó. Họ không được huấn luyện qua những thử thách từ sự thánh thiện vô biên của Thiên Chúa và do đó hoa trái bình an và công chính không được hiển nhiên. Từ “đào tạo” trong ngôn ngữ Hy-lạp cổ đại là một từ trong thế giới của điền kinh. Việc đào tạo một vận động viên được đánh dấu bằng một số đau đớn và việc đào tạo của chúng ta với tư cách là “vận động viên thiêng liêng” của Thiên Chúa cũng vậy. Chúa có một mục đích để đào tạo chúng ta. Hãy nghĩ đến Đa-vít sau khi bị sư tử tấn công khi ông chỉ là một cậu bé chăn cừu. Ông có thể dễ dàng tuyệt vọng và hỏi, “Tại sao Chúa lại cho phép một điều khủng khiếp như vậy xảy ra với tôi? Tôi gần như trốn thoát!” Nếu Đa-vít có thể nhìn thấy phía trước, ông có thể thấy Thiên Chúa có một người khổng lồ tên là Goliath mà Người bày cuộc đối mặt và trận chiến với sư tử để chuẩn bị cho Đa-vít trước thời hạn. Chúa luôn có một mục đích. Chúng ta có thể tin cậy Người.
3. TIN MỪNG: Lc 13,22-30.
Thánh Lu-ca nhắc lại cho chúng ta rằng Chúa Giê-su đang trên đường đến Giê-ru-sa-lem, nơi Người sẽ tử nạn. Người đã tham gia cuộc hành trình này kể từ phân đoạn 9,51 và sẽ tiếp tục nó cho đến khi Khải hoàn ở phân đoạn 19,28. Không rõ liệu người đặt câu hỏi là vì để giải tỏa thắc mắc về cương vực vương quốc Thiên Chúa là nhỏ hay lớn để chỉ có thể chứa được một số ít người hay chăng? Có lẽ anh ta chỉ nghe nói rằng vương quốc có vẻ nhỏ, và bày tỏ câu hỏi của mình một cách lo lắng. Cũng có lẽ anh ta đã nghe những lời của Chúa Giê-su về sức mạnh của vương quốc và đặt câu hỏi với niềm hy vọng. Có một sự căng thẳng trong câu chuyện, và sự căng thẳng đó được phản ánh trong câu hỏi về việc ai sẽ được cứu. Chúa Giê-su bắt đầu câu trả lời của mình bằng hai ẩn dụ về cánh cửa. Trong phần đầu tiên (câu 24), cánh cửa (dẫn đến vương quốc hoặc sự cứu rỗi) là hẹp, nhưng vẫn có thể vào qua lối đó - ít nhất là phù hợp với đời sống tâm linh. Trong câu thứ hai (câu 25), cửa đóng lại. Đây không phải là những ẩn dụ loại trừ lẫn nhau, bởi vì một cánh cửa hẹp có thể mở ra trong một khoảng thời gian và sau đó sẽ đóng lại. Tuy nhiên, hai hình ảnh khác nhau - hẹp và khép kín - đòi hỏi chúng ta phải cẩn thận kẻo gây nhầm lẫn.
“Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào” (câu 24). Ở những chỗ khác trong Tân ước, Phao-lô dùng từ này để nói về việc thi đấu trên vận động trường (x. 1Cr 9,25), rèn luyện chuyên sâu về sự thánh khiết (x. 1Tm 4,10), và chiến đấu giỏi giang (x.1Tm 6,12; 2 Tm 4,7). Mặc dù ơn cứu rỗi là một món quà của Thiên Chúa, nhưng rõ ràng Thiên Chúa mong đợi chúng ta trân trọng nó như một vận động viên nâng niu chiếc vương miện của kẻ chiến thắng - điều đó gợi ý rằng chúng ta cần có kỷ luật và quyết tâm của một vận động viên khi theo đuổi lối vào cửa hẹp. “nhiều người… sẽ tìm cách vào, nhưng không được” (câu 24). Cũng giống như chúng ta không thể ăn những khẩu phần siêu to khổng lồ mà còn mơ ước mặc vừa bộ quần áo của năm ngoái, chúng ta không thể mong đợi tinh thần vô kỷ luật mà lại vượt qua khe cửa hẹp. Trong phân đoạn Mat-thêu 7,13-14, Chúa Giê-su đối lập cổng hẹp dẫn đến sự sống với cổng rộng và con đường dễ dẫn đến sự hủy diệt. Giống như điều kiện vật chất, điều kiện tinh thần đòi hỏi kỷ luật, và nhiều người không sẵn sàng trả giá. Chúng ta đang sống trong thời kỳ mà nhiều người tin rằng mọi con đường đều dẫn đến Chúa - rằng mọi tín ngưỡng và niềm tin đều có giá trị như nhau - rằng tin vào điều gì không quan trọng bằng cái tâm. Tin Mừng dạy hoàn toàn ngược lại. Kẻ cám dỗ không cần thuyết phục chúng ta phạm tội giết người hoặc một số tội ác ghê tởm khác miễn là hắn có thể thuyết phục chúng ta rằng niềm tin vào Thiên Chúa không quan trọng hoặc rằng không có gì khẩn cấp đối với đời sống tâm linh. Khi đã bị thuyết phục, chúng ta sẽ thấy mình đang ở trên con dốc thoai thoải dẫn xuống không thể tránh khỏi.
“Một khi chủ nhà đã đứng dậy và khoá cửa lại” (câu 25). Lưu ý sự giống nhau giữa các câu 25-27 và Dụ ngôn về những trinh nữ khôn ngoan và khờ dại trong đoạn Tin Mừng Mat-thêu 25,1-13. Vấn đề là Cha Trên Trời cho chúng ta một khoảng thời gian để chúng ta có thể chuẩn bị cho vương quốc, sau đó là thời gian phán xét. Một khi cánh cửa đóng lại, không còn chỗ cho việc chuẩn bị hoặc thương lượng. Nó giống như việc một người ngồi trong lớp học nghe giảng, về nhà làm bài tập, rồi đến giờ kiểm tra, vị giáo sư sẽ nói: “Hãy lấy một tờ giấy ra và cất sách của bạn đi.” Hầu hết chúng ta đều có cảm giác sợ khi nghe những từ đó, bởi vì chúng ta cảm thấy chưa chuẩn bị cho một bài kiểm tra. Tuy nhiên, một số đã học bài kỹ lưỡng sẽ thực hiện bài làm rất tốt. Vấn đề là, khi giáo sư nói “Hãy lấy một tờ giấy ra” thì cái chết đã tới. Chúng ta đã sẵn sàng hoặc chưa sẵn sàng. Đột nhiên, số phận của chúng ta nằm ở cách chúng ta chuẩn bị ngày hôm qua. Đối với một số người, cái chết sẽ đến đột ngột và không báo trước. Vào thời điểm đó, tương lai vĩnh cửu của họ sẽ phụ thuộc vào các kỷ luật tâm linh của họ và mối quan hệ mà họ đã rèn luyện với Đấng Ki-tô trong suốt cuộc đời của họ. “Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi” (câu 26). Người ngồi chung bàn với Chúa Giê-su và nghe Người giảng dạy có mọi cơ hội để trở thành môn đồ của Người. Nhưng lời đáp lại hoàn toàn lạnh lùng: “Nhưng ông sẽ đáp lại: “Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính!” (câu 27).
“Bấy giờ anh em sẽ khóc lóc nghiến răng, khi thấy các ông Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp cùng tất cả các ngôn sứ được ở trong Nước Thiên Chúa, còn mình lại bị đuổi ra ngoài” (câu 28). Chúa Giê-su đang nói với các con cháu tổ phụ Áp-ra-ham, nhưng Người cảnh báo rằng một số người trong số họ sẽ thấy mình ở bên ngoài nhìn vào bữa tiệc cánh chung lớn. Họ sẽ thấy những tổ phụ thiêng liêng vĩ đại, Áp-ra-ham, I-sa-ac, Gia-cóp và các thánh tiên tri, nhưng sẽ không thể ngồi cùng bàn hoặc trò chuyện với họ. Điều đó thậm chí còn khó khăn hơn là không bao giờ nhìn thấy họ. Một số người tự coi mình là người được cứu rỗi nhưng thay vào đó sẽ thấy mình ở bên ngoài nhìn vào. Nếu một số người được xem là thánh của Israel - kinh sư, người Pha-ri-sêu và tư tế - nằm trong số những người sẽ kinh ngạc, dĩ nhiên là nhà lãnh đạo tôn giáo ngày nay cũng không ngoại lệ.
Các câu 29-30 cho thấy một số ứng viên được đoán là không chắc được tập họp xung quanh bàn cánh chung theo quan điểm của Pharisêu, nhưng sẽ được hưởng thông công đầy đủ. Đối với những kẻ bị loại ra phải ở bên ngoài nhìn vào, điều đó chắc chắn tăng gấp đôi nỗi đau - bị loại trừ trong khi nhìn thấy những người mình nghĩ là không xứng đáng. Quả thật, đây là số phận của họ trong cuộc phán xét: bị loại trừ khỏi niềm vui của lễ cánh chung. Với họ, đây thật sự là tang tóc và tuyệt vọng. “Và kìa có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót” (câu 30). Trong suốt sứ vụ của mình, Chúa Giê-su là bạn của những người thu thuế và tội nhân, đồng thời chia sẻ mối thông công với họ (x. Lc 5,30; 7,34; 15,1) - một sự thật đã gây ra rất nhiều lời chỉ trích. Tuy nhiên, Chúa Giê-su đang báo hiệu rằng tình yêu thương của Thiên Chúa vẫn dành cho những ứng cử viên Nước Trời xem ra không có cơ hội này và cũng đang báo hiệu rằng sự đồng hành trong bàn tiệc cánh chung sẽ khác xa so với những gì con người thời nay vẫn hình dung. Không phải tất cả dân Israel hoặc thậm chí tất cả các kinh sư hoặc người Pha-ri-sêu sẽ bị từ chối tham dự lễ cánh chung, và không phải tất cả dân ngoại đều được phép vào.
4. CÂU HỎI GỢI Ý SUY NGHĨ
– Không có gì quan trọng hơn là đạt được cuộc sống đời sau, bạn đã làm gì để đạt được mục đích này?
– Thiên Chúa là Cha nhân từ mở rộng cửa cho chúng ta được sống đời đời với Ngài, nhưng Ngài cũng nhiều lần dùng việc sửa phạt để chúng ta xứng đáng với sự thánh thiện của Ngài, bạn có nhận ra những thách đố trong đời sống riêng của bạn đến từ ý định của Thiên Chúa để bạn vâng lời làm theo, và biết sửa trị các lỗi lầm?
– Danh xưng Kitô hữu không đủ cho chúng ta đạt tới Nước Trời; nhưng chúng ta cần phải đáp ứng những đòi hỏi của Tin Mừng. Chúng ta đừng dễ rơi vào bẫy của ma quỷ để chọn lựa những đạo nào đòi hỏi việc giữ luật ít, hay không cần giữ luật, hay chỉ cần giữ đạo tại tâm.