06/09/2010
2647

Một cái nhìn vào cách một số thay đổi trong phụng vụ được đưa vào năm 1964, có thể gợi cho ta những lãnh vực khác thích hợp cho các thay đổi. Susan Benofy đã đưa ra một nghiên cứu như vậy trong Adoremus Bulletin. BTGH xin giới thiệu phần I bài viết sau đây,không phải chỉ để nhìn lại quá trình và chi tiết những thay đổi ‘hình thức’ phụng vụ, đặc biệt về Thánh Lễ, mà còn cho thấy những thay đổi nầy hợp lý,nhưng luôn theo một quy trình có trật tự và kỹ luật, đúng về tín lý và thần học, chứ không phải tự phát và dẫn đến hỗn loạn, như những gì chúng ta đã thấy qua các bài viết ở các số BTGH 201 – 2003.

NGÀY THÁNH LỄ THAY ĐỔI : XẢY RA NHƯ THẾ NÀO VÀ TẠI SAO?

PHẦN I.

 Ngày 29.11.1964 – một năm sau Hiến Chế Công Đồng Vatican II về Phụng Vụ Thánh được ban hành – ‘Thánh Lễ Mới” – người ta gọi nó như vậy lúc bấy giờ – được đưa vào trong các giáo xứ Hoa Kỳ. Một mô tả hoàn toàn đặc thù về những gì các tín hữu Công giáo trải nghiệm tại Thánh Lễ ngày hôm ấy, Chúa Nhật sau lễ Tạ Ơn,là như sau: 

 Sáng hôm ấy, các giáo dân ngồi ở chỗ của mình biết là có một điều gì đó khác, ngay từ lúc Thánh Lễ bắt đầu. Tuần trước đó, vị linh mục và các chú giúp lễ im lặng đi vào; nay mọi người được yêu cầu hát ít nhất hai câu của khúc ca nhập lễ. Những đoạn Kinh Thánh của ngày lễ hôm ấy được đọc to lên bằng bản ngữ…Vị linh mục, đứng phía sau một bàn thờ mới được đặt ở giữa cung thánh, vẫn đọc vài lời nguyện bằng tiếng la-tinh,nhưng dân chúng được khuyến khích đọc những kinh nguyện khác cùng với ngài, và trong ngôn ngữ của họ… Việc rước lễ nay đã khác hẳn. Trong quá khứ, vị linh mục lập đi lập lại một lời nguyện bằng tiếng la-tinh khi ngài đi dọc theo hàng giáo dân đang qùy gối nơi bàn thờ. Nay ngài dừng lại trước mặt mỗi giáo dân, – ở nhiều nơi giáo dân đứng hơn là qùy gối – cầm Mình Thánh sao cho họ có thể nhìn thấy được và nói “Corpus Christi” (Mình Chúa Kitô) và mỗi người rước lễ thưa :”Amen”.  Trong một ít tháng nữa, câu nầy cũng được nói bằng tiếng Anh và bao lơn cung thánh cũng được gỡ bỏ đi…

Giáo Hội Bỉ không dùng tiếng La-tinh vào năm 1969.

Mô tả nầy xuất hiện trong một cuốn sách vừa mới đây do James M. O’Toole, “Người tín hữu : một câu chuyện của các tín hữu Công giáo ở Mỹ” (The Faithful : a history of Catholics in America; NXB Đại học Harvard,2008).

45 năm sau, đa số các bài viết đặc biệt nầy mà O’Toole khám phá mới lạ vào năm 1964, được coi chung chung như một phần không thể thiếu trong cải tổ phụng vụ của Vatican II. Các tín hữu nhớ lại những thực hành mới được đem vào ngày 29.11.1964 nầy, hẳn đồng ý rằng đấy là ‘Ngày Thánh Lễ thay đổi”, dù rằng việc xét duyệt Nghi Thức Thánh Lễ thì phải chờ mãi gần năm năm sau.

Nay vào năm 2010 nầy, chúng ta chờ đợi bản dịch tiếng Anh mới của Sách Lễ [đã được phê chuẩn ngày 23.06.2010 và sẽ áp dụng từ Mùa Vọng 2011. ND] – kinh nghiệm đầu tiên của “thời kỳ mới canh tân phụng vụ”  được hình dung bởi Liturgiam authenticam (§ 7) [Nhằm trợ giúp cho tiến trình dịch thuật sách Missale Romanum, editio typica tertia, năm 2001 Thánh bộ Phụng tự và Kỷ luật các Bí tích đã phổ biến Liturgiam Authenticam, đó là huấn thị thứ 5 về việc dịch thuật phụng vụ Roma ra tiếng bản địa, tóm tắt các nguyên tắc và quy luật khi dịch thuật.BTGH]

Những người chỉ trích bản dịch mới nói rằng nó tượng trưng cho một sự rút lui khỏi những cải tổ của Vatican II. Có thật thế chăng? Điểm lại vắn tắt lịch sử những cải tổ đầu tiên có thể cung cấp một ít hiểu biết thấu đáo hơn.

 SACROSANCTUM CONCILIUM VÀ NHỮNG VĂN KIỆN ĐẦU TIÊN.

Hiến Chế về Phụng Vụ,Sacrosanctum Concilium, do Đức giáo hoàng Phaolô VI công bố ngày 04.12.1963, chắc chắn chuẩn bị sử dụng tiếng bản xứ trong Thánh Lễ,nhưng tiếng la-tinh không bị bỏ (SC 36):

1). Luật đặc biệt vẫn còn hiệu lực,việc sử dụng tiếng la tinh vẫn được duy trì trong các nghi lễ la-tinh

2). Nhưng vì việc sử dụng tiếng mẹ đẻ…thường xuyên có thể có ích lợi to lớn cho dân chúng, những hạn chế sử dụng nó [la tinh] có thể được nới rộng… 

3). Khi các tiêu chí nầy đã được tuân giữ rồi, thì Đấng bản quyền có thẩm quyền được nêu trong điều 22,2 có quyền quyết định liệu có sử dụng tiếng bản ngữ chăng và đến mức độ nào. Các sắc lệnh của các ngài sẽ được phê chuẩn,nghĩa là xác nhận, bởi Tông Toà…

Trong vòng một năm, các văn kiện Vatican II khác đem ra thêm nhiều chi tiết của cuộc cải tổ phụng vụ và đưa ra một số những thực hành khác mà O’Toole liệt kê lại. Hai văn kiện sớm nhất là Sacram LiturgiamInter oecumenici.

Vào ngày 25.01.1964, Đức Phaolô VI đã ban hành tông thư Sacram Liturgiam, đưa ra danh sách những tiêu chí của Hiến Chế Sacrosanctum Concilium có thể được thi hành, mà không cần đợi phát hành những sách phụng vụ được duyệt. Những điều khoản của nó có hiệu lực từ ngày 16.02.1964. Trong 11 đoạn của văn kiện nầy, chỉ có một đoạn duy nhất đề cập trực tiếp đến thánh lễ và quy định buộc phải có bài giảng lễ vào các ngày Chúa Nhật và các Ngày Lễ Trọng.

Văn kiện nầy cũng loan báo rằng Đức Phaolô VI đang lập ra một ủy ban để rà soát lại các nghi thức và phát hành các sách phụng vụ mới. Ủy ban nầy, bao gồm các giám mục và các chuyên gia, được biết với tên Hội Đồng Thi Hành Hiến Chế về Phụng Vụ Thánh và chính thức được Đức giáo hoàng thành lập vào ngày 29.02.1064. Cha Dòng Vinh Sơn Annibale Bugnini làm thư ký Hội Đồng nầy và phó thư ký trong Thánh Bộ Nghi Lễ (1966-1969), khi Thánh Bộ nầy trở thành Thánh Bộ Phương Tự.

 Tại một hội nghị vào tháng tư năm 1964, các giám mục Hoa Kỳ, với tư cách là  “bản quyền giáo hạt tòng thổ có thẩm quyền” , đã quyết định về phạm vi tiếng bản ngữ sẽ được dùng trong Thánh Lễ và nhất trí về một bản dịch tiếng Anh những phần ấy. Quyết định nầy của các giám mục được Toà Thánh xác nhận vào tháng 5 và ngày ấn định cho việc sử dụng lần đầu tiên tiếng bản xứ tring Thánh Lễ tại Hoa Kỳ là Chúa Nhật thứ I Mùa Vọng năm ấy.

Huấn thị thứ nhất về Các Thi hành đúng Hiến Chế về Phụng vụ thánh, Inter Oecumenici, được Thánh Bộ Nghi Lễ ban hành vào ngày 26.09.1964 và có hiệu lực vào ngày 07.03.1965, Chúa Nhật I Mùa Chay.

Inter Oecumenici (§ 57) định rõ những phần nào trong Thánh Lễ có thể dùng tiếng bản xứ như SC § 54 cho phép và những điều khoản tương ứng với những gì các giám mục Hoa Kỳ đã quyết định tại hội nghị của các ngài vào tháng 4. Thêm vào đó một ít thay đổi khác cũng được đưa vào danh sách.

Các bài đọc sẽ được đọc đối diện với dân chúng ( Inter Oecumenici § 49) và có thể do một giáo dân đọc (§ 50). Những điều bỏ đi mà O’Toole lưu ý – đoạn Phúc Âm đọc cuối lễ và những lời nguyện sau Thánh Lễ – được ghi rõ trong  § 48j. Công thức mới để cho rước lễ “Corpus Christi” (Mình Chúa Kitô) ở trong  § 48 i.

Những hồi ức của O’Toole gồm tất cả những thay đổi được ghi rõ trong hai văn kiện nầy (thường được giới thiệu vào hai giai đoạn) nhưng cũng còn cả nhiều thực hành khác nữa: hát các bài thánh ca , linh mục đứng sau ‘bàn thờ mới’ (nghĩa là quay mặt lại với dân chúng), đứng rước lễ và bỏ bao lơn cung thánh.

Ngoài Thánh Lễ quay mặt về phía dân chúng, được nêu lên trong Inter oecumenici, không có cái nào trong các thực hành nầy được nêu ra trong SC hoặc các văn kiện thi hành đầu tiên. Làm sao chúng lại đã được đưa vào gần như ở khắp mọi nơi vào ngày 29.11.1964?

Cuộc cải tổ phụng vụ không phải bắt đầu với Vatican II.

Những thực hành được đưa vào năm 1964 nầy đã được đề ra sớm hơn nhiều.

 PHONG TRÀO PHỤNG VỤ

Ít nhất kể từ giữa thế kỷ 19, đã có một quan tâm về nhiều khía cạnh phụng vụ, lịch sử của nó, các lễ nghi và âm nhạc phụng vụ. Các tu sĩ Dòng Xitô đặc biệt nỗi trội trong Phong Trào Phụng vụ Quốc Tế nầy.

Ở Hoa Kỳ, Đan viện Xitô Thánh Gioan ở Collegeville,Minnesota, nỗi danh là một trung tâm sinh hoạt phụng vụ. Chính ở đó mà một tạp chí có uy tín,Orate Fratres (Anh Em hãy cầu nguyện – về sau đổi tên là Worship – Phụng Tự) phát hành lần đầu năm 1926.

Đan viện nầy có công trong việc sáng lập Hội Đồng Phụng Vụ Dòng Xitô vào năm 1940, để tổ chức các hội nghị toàn quốc được gọi là Tuần Lễ Phụng Vụ. Năm 1943, tổ chức nầy trở thành đơn thuần là Hội Đồng Phụng Vụ và không còn được các tu sĩ Xitô bảo trợ. Các Tuần Lễ Phụng Vụ được hàng ngàn linh mục,tu sĩ và giáo dân quan tâm đến cải tổ phụng vụ,tham dự.

Đầu tiên quan tâm chính yếu của Phong Trào Phụng Vụ là làm sao để dân chúng được giáo dục về phụng vụ, để họ có thể hiểu hơn và tham gia vào phụng vụ. Về sau một số nhà phụng vụ quyết định rằng sự tham gia của dân chúng chỉ có thể có được, nếu có thay đổi trong các nghi thức và bắt đầu biện hộ cho những thay đổi như thế. Do vậy nhiều thực hành liên kết với “Thánh Lễ Mới” sau Công Đồng,trên thực tế đã bắt đầu có từ nhiều thập kỷ trước đó.

 THÁNH LỄ QUAY MẶT VỀ PHÍA DÂN CHÚNG

Mặc dù việc linh mục dâng lễ quay mặt về phía dân chúng không được nêu ra trong Hiến Chế về phụng vụ (SC), nhưng sự chấp thuận được bao hàm trong Huấn Thị Inter oecumenici năm 1964, trong phần nói về “Thiết kế các thánh đường và bàn thờ để tạo thuận lợi cho việc dân chúng tham gia phụng vụ”:

90). Khi xây các nhà thờ mới hoặc tu sửa và sửa lại các nhà thờ cũ cho thích hợp, phải để ý sao cho chúng thật sự phù hợp với việc cử hành các buổi phụng vụ và bảo đảm sự tham gia tích cực của các tín hữu.

91). Bàn thờ chính tốt nhất nên đứng độc lập, để đi lại được xung quanh bàn thờ và dâng lễ quay mặt về phía dân chúng. Vị trí của nó trong nơi thờ phượng phải thật sự ở trung tâm, sao cho sự chú ý của toàn cộng đoàn tập trung một cách tự nhiên vào đó.

Việc đặt ra một bàn thờ mới,tạm thời để có thể dâng thánh lễ quay mặt về phía dân chúng chưa bao giờ được nêu ra. Nhiều tín hữu Công giáo nghĩ rằng Thánh lễ quay mặt về dân chúng là một cách tân  của Vatican II. Tuy nhiên,các nhà phụng vụ đã từng lập luận rằng từ nhiều thập niên rồi điều nầy đã được những hàng chữ đỏ [hướng dẫn] của Sách Lễ cũ cho phép

Chẳng hạn,năm 1937, tạp chí Orate Fratres đã đăng một câu hỏi về một bài viết trước đó nêu lên một thánh lễ do một linh mục dâng quay mặt về phía cộng đoàn và yêu cầu lời giải thích cho thực hành nầy. Câu trả lời cho biết rằng đó là một thói quen thịnh hành thời ấy trong đền thờ Thánh Phêrô và trong các thánh đường khác ở Roma với việc linh mục quay mặt về phía dân chúng, vị trí của bàn thờ và có những hàng chỉ dẫn (chữ ‘đỏ’) cho thánh lễ, hướng dẫn vị linh mục phải làm gì trong những trường hợp như thế. Câu trả lởi kết luận:

Vì thế không phải chỉ không có luật hoặc chỉ dẫn “chữ đỏ’ nào của Giáo Hội cấm việc xây các bàn thờ để chủ lễ có thể quay mặt về phía dân chúng như xưa kia, mà những hướng dẫn ‘chữ đỏ’ hiện nay, như đã nêu ra trên đây, vẫn có điều khoản đối với Thánh Lễ được cửa hành tại một bàn thờ như vậy (Orate Frtares,18.04. 1937)

Năm 1959, cùng tạp chí ấy, – nay đổi tên là Worship (Phụng Tự), đề cập đến cũng câu hỏi đó dưới một dạng khác. Trong bài viết nầy, câu hỏi đặt ra là liệu một bàn thờ tạm thời có thể được đặt đối diện với bàn thờ cũ,sao cho vị linh mục có thể dâng Thánh lễ quay mặt về phía dân chúng chăng.

Cha Frederick McManus, giáo sư giáo luật tại Đại học Công giáo và nỗi tiếng là một diễn giả và một người chuyên viết về luật phụng vụ, đã trả lời câu hỏi nầy. Ngài nói rằng một bàn thờ tạm thời là hoàn toàn đúng luật và gợi ý rằng một bàn thờ như thế nên ở gần sát bao lơn rước lễ. Ngài cũng nói rằng một bàn thờ cố định quay mặt về phía dân chúng có thể được dựng lên và Ngài trích dẫn một bài viết của Cha Annibale Bugnini giải thích rằng ước muốn có Thánh Lễ quay mặt về phía dân chúng là chứng minh cho việc lưu giữ Thánh Thể trên một bàn thờ khác hơn là bàn thờ chính. Ngài nói rằng Toà Thánh ‘khuyến khích”  “phục hồi” Thánh Lễ quay mặt về phía dân chúng; nhưng chứng cứ Ngài nêu nầy lại ít thuyết phục được. Ngài lưu ý rằng tại một hội nghị quốc tế về phụng vụ được tổ chức ở Atxidi vào năm 1956, Đức Piô XII đã nói rằng các chuyên viên sẽ nghiên cứu vấn đề phải làm gì với nhà tạm trên một bàn thờ quay mặt về phía dân chúng; và Ngài cũng trích dẫn một quyết định năm 1957 từ Thánh Bộ Nghi Lễ ( sau 1969 đổi thành Thánh Bộ Phượng Tự.ND), nói rằng nếu trong một nhà thờ chỉ có duy nhất một bàn thờ, thì nó không được dùng cho Thánh Lễ quay mặt về phía dân chúng. Cha McManus nhìn thấy quyết định nầy như là cho phép, vì nó không cấm việc thực hành như thế,nhưng chỉ giải quyết trường hợp của một nhà thờ với duy nhất một bàn thờ – một tình huồng mà ngài cho là hiếm hoi.

Cha McManus sau đó nói rằng sự đáng ao ước có Thánh lễ quay mặt về phía dân chúng  là một vấn đề riêng biệt và rằng những ai cổ vũ nó, thường có những lý do mục vụ và thần học thuyết phục.

Ngay cả từ quan điểm tâm lý học, các tín hữu ý thức được hơn về sự hiệp nhất của họ với linh mục chủ lễ,khi họ nhìn thấy mặt thay vì lưng của Ngài. Nhưng quan trọng hơn, ấy là sự hiệp nhất của Chúa Kitô (nơi con người thừa tác viên của Người) với các chi thể của Người trong hành vi thờ phượng, sẽ mang nhiều ý ngĩa hơn hoặc được biểu thị tốt hơn qua nghi thức Thánh Lễ quay mặt về phía dân chúng.

Theo ý kiến của Ngài, việc ít ra thỉnh thoảng chọn lựa dâng thánh lễ quay mặt về phía dân chúng (versus populum) nên được khuyến khích như một cách giúp dân chúng ý thức rằng Thánh lễ là hy lễ của Giáo Hội và rằng nó sẽ đặc biệt có ích nếu họ có thể nghe Quy Tắc (Canon):

Những lời trong Thánh Lễ liên quan trực tiếp tới cộng đoàn đang thờ phượng, chúng diễn tả sự hiệp nhất của cộng đoàn với Chúa Kitô và vị linh mục chủ lễ trong việc dâng lễ vật, dù dân chúng có thể không nghe thấy và không hiểu. Có thể việc cử hành Thánh Lễ với chủ lễ quay mặt về phiá dân chúng, kể cả khi chỉ làm vì nhu cầu, cũng có thể giúp thu hút dân chúng vào trong hành động linh thánh nầy và dẫn họ vào sự tham dự nội tâm theo như những lời nầy đòi hỏi.

Một số nhà phụng vụ đặc biệt phấn khởi về Thánh Lễ quay mặt về phía dân chúng. Trong họ có Cha Hans Ansgar Reinhold, người đã viết một mục báo đều đặn trong Orate Fratres có tên là “Những Câu Ngắn Đúng Lúc”. Trong số ra ngày 14.04.1940, mục “Thánh Lễ trong Mơ của Tôi” của Ngài, Cha Reinhold đã mô tả một Thánh Lễ mà tác giả tưởng tượng diễn ra hai mươi năm trong tương lai,nghĩa là vào năm 1960,như sau:

…Bàn thờ là một cái bàn bằng đá với những chân nến thấp. Vị linh mục đứng phía sau bàn thờ quay mặt về phía giáo dân Ngài,như nó được làm ở Roma và nhiều thánh đường khác trong đất nước cổ xưa nầy, nhất là Đức và Bỉ. Vị linh mục của tôi không bao giờ quay lưng lại phía dân chúng, bất chấp lý thuyết mới rằng linh mục phải quay về phía các bức tường để tượng trưng tốt hơn những gì ngài nói với Chúa và dâng cho Chúa nhân danh cộng đoàn.

Năm 1960, khi các công tác trù bị cho Công Đồng đang tiến hành, Cha Reinhold phát hành một cuốn sách, Mang Thánh Lễ đến cho Dân Chúng, (NXB Helicon,1960), gợi ý nhiều thay đổi trong Thánh Lễ mà Công Đồng sẽ có thể thực hiện. Trong những lời khuyên của ngài là một bàn thờ quay mặt về phía dân chúng.

Những lý do tín lý,mục vụ và tâm lý để quay về với cách thức cũ là quay mặt về phía cộng đoàn,ngay cả trong Bàn Tiệc Hiến Tế, có sức thuyết phục đến nỗi tôi hy vọng điều nầy sẽ trở thành tư thế bình thường cho vị linh mục.

Thay đổi nầy không còn chỉ là một khả năng có thể có về lý thuyết. Một số linh mục, bị ảnh hưởng bởi các ý kiến nầy, đã cử hành Thánh Lễ quay mặt về phía dân chúng từ lâu trước Công Đồng.

Ngày 25.02.1945, mục Thờ Phượng của Cha Reinhold được gọi tên là “ Các chiến sĩ đang ở phía trước chúng ta!”, tưởng tượng một bức thư từ một tuyên úy quân đội nói rằng ngài muốn thử Thánh Lễ quay mặt về phía cộng đồng “liên tục được gợi ý với tôi ngay khi tôi trở thành tuyên úy”. Vị tuyên úy quân đội nầy tóm tắt lời giải thích của ngài với những người lính. Ngài gợi ý rằng cách làm nầy khuyến khích ý thức lớn hơn về Thánh Lễ và do vậy sẽ làm tăng lòng tôn kính đối với Thánh Lễ và tăng số nngười tham dự Thánh Lễ.

Cha Gerald Ellard, Dòng Tên, là người sáng lập và trợ lý biên tập tờ Orate Fratres/ Worship và là một cây bút viết nhiều về phụng vụ. Trong cuốn sách viết năm 1948, Thánh Lễ của Tương Lai, (Cty Phát Hành Bruce,1948), Ngài quả quyết : Sau Tuần Lễ Phụng Vụ 1947 ở Portland, tất cả các thánh lễ đều được cử hành quay mặt về phía dân chúng với thành công rực rỡ…Trong một số nơi,các giám mục công khai cho phép thực hành nầy. Cha Ellard trích dẫn từ hai thư mục vụ do các giám mục người Pháp viết năm 1945 và 1946, cả hai công khai cho phép Thánh Lễ quay mặt về phía dân chúng. Cha cũng tả lại bàn thờ của một giáo xứ ở Burlington, Vermont, được xây để sao cho linh mục có thể cử hành quay mặt về hướng nào cũng được và bình luận với vẻ đồng tình:

Có thể trong ý kiến kép nầy, đây là nguyên mẫu đích thực của việc bố trí khung cảnh dâng lễ trong tương lai. Hãy lưu ý rằng không một ai trong những người ủng hộ Thánh Lễ quay mặt về phía dân chúng nhắc ra lịch sử hoặc ý nghĩa của việc linh mục quay mặt về hướng Đông, ad orientem. Lý do căn bản của việc linh mục quay mặt về phía dân chúng trong Thánh Lễ, là vì đó là một thực hành cổ xưa hơn.

 CẤT BỎ BAO LƠN VÀ ĐỨNG KHI RƯỚC LỄ

Việc đưa vào thực hành đứng khi rước lễ và cất bỏ bao lơn (qùy rước lễ) cũng đi trước Công Đồng, Một ví dụ đáng lưu ý là nhà thờ đan viện Xitô ở Collegeville,Minnesota. Trong thập niên 1950, Cha Godfrey Diekman,một tu sĩ, tham gia vào việc triển khai các dự án cho một nhà thờ đan viện mới, một nhà phụng vụ xuất sắc và biên tập của tờ Worship, làm chuyên viên tại Công Đồng Vaticanô II và cũng là cố vấn cho Nhóm Công Đồng được lập ra để thi hành các cải tổ phụng vụ của Công Đồng (giống như Cha McManus).

Một số chi tiết các dự án cho thánh đường mới nầy được nói trong Truyện của Thầy Dòng : Tiểu sử của Godfrey Diekmann,OSB (The Monk’s tale :a Biography of Godfrey Diekmann,OSB.NXB Phụng Vụ, Collegeville, 1991), do Soeur Kathleen Hughes,RSCJ, người giảng dạy phụng vụ tại Liên Minh Thần Học Công Giáo ở Chicago và làm việc ở uỷ ban quốc tế về tiếng Anh (dùng) trong phụng vụ. Soeur viết : Những dự án nầy tượng trưng cho một khởi điểm gây ấn tượng sâu sắc từ một số “thành kiến được thừa kế” về những gì một thánh đường phải trông giống như thế…Nhà thờ đan viện nầy đáng chú ý về nhiều khía cạnh. Được lên kế hoạch trong thập niên trước khi Công Đồng Vatican II được loan báo và được cung hiến trước ngày triệu tập khóa thứ nhất, thánh đường nầy trong gần như tất cả mọi mặt đã tiên liệu cuộc cải tổ phụng vụ sẽ sớm ra đời.

Trong các cách tân khác, thánh đường đan viện mới nầy không có bao lơn rước lễ. Cha Diekmann đưa ra những lý do cho điều nầy trong thư gửi Cha Dòng Đa Minh Pierre Marie Gy, thuộc Viện Phụng Vụ Paris, vốn cũng là một chuyên viên tại Công Đồng Vatican II và là cố vấn tại Nhóm Consilium (thi hành các cải tổ phụng vụ) : Chúng tôi đã dứt khoát định loại bỏ bao lơn rước lễ. Chúng tôi cho rằng nó đã đi tới chổ biểu hiện trong tâm trí dân chúng không chỉ có sự phân biệt giữa cung thánh và gian giữa (giáo dân),nghĩa là giữa linh mục và dân chúng, mà trên thực tế là tách biệt. Và chúng tôi cảm thấy điều nầy ít được mong muốn nhất, đặc biệt vì chính việc Hiệp Lễ là bí tích kết hợp và với việc nó được phân phát tại một biểu tượng tách biệt,xem ra không thích hợp chút nào.Chúng tôi biết rằng nó có thể có tính chất rất sơ sài, nhưng trên thực tế nó muốn nói lên sự tách biệt giữa cung thánh và bàn thờ trong tâm trí của dân chúng. Do vậy mà chúng tôi đề nghị trình bày sự phân biệt nầy qua ba bước, căn cứ vào đoạn trong bài nói chuyện của Đức Thánh Cha ở Atxidi, trong đó Người nói rằng Đầu và thân thể không được coi là hai thực thể tách rời nhau,nhưng là làm thành một đơn vị độc nhất cùng hoạt động trong việc thờ phượng. Thay vì bao lơn rước lễ theo thông lệ, chúng tôi dự định sẽ có 4 “bàn” nhỏ, chỉ rộng khoảng 30 cm và dài hơn một thước,cao khoảng 80 cm. Vị chủ lễ sẽ đứng ở một bậc cao hơn dân chúng lên rước lễ và dân chúng sẽ đứng khi rước lễ. Có nhiều bàn như thế trong giáo phận kế cận và kinh nghiệm của riêng tôi là hết sức hài lòng (Truyện Thầy Dòng).

Cha Frederick McManus là một người ủng hộ khác nữa của việc đứng rước lễ. Năm 1960, ngài viết một bài bình luận về những hàng chữ chỉ dẫn mới (chữ ‘đỏ’.ND) cho Thánh Lễ được Đức giáo hoàng Giooan XXIII công bố (Handbook for New Rubrics, NXB Heliocn,1960). Những hàng chữ hướng dẫn nầy chỉ đem lại những thay đổi nhỏ trong nghi thức rước lễ và làm rõ rằng rước lễ được phân phát vào thời gian thích hợp trong Thánh Lễ, không được bắt đầu ở phần dâng lễ,như một số nơi đã làm.

Tuy vậy,những hàng chữ chỉ dẫn mới nầy không có thay đổi nào trong cách thức rước lễ.Nhưng Cha McManus gợi ý rằng việc thực hành cho rước lễ  ngoài thời giờ thích hợp có thể được do những cộng đoàn lớn trong các thánh đường với các thời khoá biểu Thánh Lễ chật ních người. Việc cho rước lễ cũng sẽ mau lẹ hơn nếu dân chúng đứng thay vì qùy gối.

Nơi nào quá đông người và chật ních, thì nên tiến hành việc cho rước lễ bằng cách hướng dẫn người lên rước lễ đứng thay vì qùy gối. Khó khăn và bất tiện thỉnh thoảng gặp phải xem ra đủ để bào chữa cho quy tắc thông thường, tức là giáo dân trong Giáo Hội La Mã qùy rước lễ.

 THÁNH CA BẰNG TIẾNG BẢN XỨ

Việc hát các thánh ca bằng tiếng bản xứ cũng là một nét đặc biệt trong kinh nghiệm của rất nhiều người về “Thánh Lễ Mới”. Cả điều nầy nữa cũng đã được các nhà phụng vụ đẩy mạnh trước Công Đồng. Trong một số quốc gia Châu Âu, nhất là ở những nước nói tiếng Đức, các thánh ca đã được hát trong thánh lễ từ nhiều thế kỷ và một số giáo xứ người thiểu số ở Hoa Kỳ vẫn giữ tục lệ nầy. Dù nó không thông dụng, nhưng một số nhà phụng vụ – nhất là những người làm việc cho việc sử dụng tiếng bản xứ nhiều hơn – bắt đầu khuyền khích hát thánh ca trong Thánh Lễ.

Năm 1956, có một trình bày được gọi là “Làm cho sự tham gia tích cực đi vào đời sống” tại Tuần Lễ Phụng Vụ do Hội Đồng Phụng Vụ tài trợ. Trong đó Cha Eugene Walsh,SS, giáo sư tại Chủng viện Đức Maria ở Baltimore, giới thiệu cái mà ngài quả quyết là “phương tiện hữu ích nhất để làm cho sự tham gia tích cực đi vào cuộc sống, một chương trình vốn phải được dùng trong thánh lễ thường”.

Chương trình nầy gồm có một ‘Thánh Lễ đối thoại” tại đó dân chúng nói những câu thưa bằng tiếng la-tinh và cũng hát các thánh ca bằng tiếng Anh ở phần nhập lễ,dâng lễ,hiệp lễ và kết lễ. Cha Walsh cho rằng phương pháp tham gia nầy tốt hơn là hát các bản văn Thánh Lễ hiện nay bằng nhạc bình ca

Trong cuộc thảo luận sau phần trình bày của Cha Walsh, hai linh mục trong số cử toạ, – cả hai vị đều từ các giáo xứ ở nông thôn, – giải thích làm sao họ đã có thể dạy giáo dân họ hát các bài bình ca căn bản, để giáo dân có thể tham gia đều đặn lễ trọng được hát. Nhưng Cha Walsh đã bênh vực sự ưu việt của “Chương trình Lễ thường” của ngài.

Tôi đến từ một vùng thành thi rộng lớn và tôi cảm thấy chúng ta phải vươn tới tất cả những người nầy, và tôi không nghĩ rằng chúng ta có thể làm điều đó chỉ bằng thánh lễ được hát. Đó là một trong những chương trình khởi đầu thích nghi với sự đơn giản hơn và có lẽ về mặt giáo lý là tốt hơn, vì nó gần với cách diễn đạt của dân chúng hơn..

Năm 1958, Thánh Bộ Nghi Lễ (từ 1969 đổi là Thánh Bộ Phương Tự.ND) công bố “Huấn Thị về Thánh Nhạc và Phụng Vụ Thánh”, công khai cho phép hát bằng tiếng bản xứ như thế,nhưng không coi đó là ‘sự tham gia trực tiếp”, vì nó không bao hàm các bản văn phụng vụ hiện nay được quy định cho những phần đó của Thánh Lễ.

Trong Thánh lễ thường, những tín hữu tham dự trực tiếp các nghi thức phụng vụ với linh mục chủ lễ bằng cách đọc to những phần nào trong Thánh Lễ thuộc phần họ, thì phải cùng với vị linh mục sử dụng tiếng latinh mà thôi.

Nhưng nếu, ngoài sự tham dự trực tiếp nầy vào phụng vụ, các tín hữu muốn thêm một số lời cầu nguyện hoặc các thánh ca quen thuộc, theo tập quán địa phương, thì những lời cầu nguyện hoặc bài thánh ca nầy có thể được đọc hoặc hát bằng tiếng bản xứ.

Các thực hành được đưa vào ngày 29.11.1964 – dùng tiếng bản xứ; linh mục dâng lễ quay mặt về phía dân chúng; hát các bài thánh ca bằng tiếng bản xứ; đứng khi rước lễ và cất bỏ bao lơn rước lễ – gần như được hiểu khắp nơi là thành phần của “Thánh Lễ Mới”. Như chúng ta thấy, không có cái nào trong số nầy được Hiến Chế về Phụng Vụ của Công Đồng Vatican II đòi buộc,nhưng tất cả đều có một lịch sử “tiền Công Đồng” hết sức có ý nghĩa.

Nguyên tác : The Day the Mass Changed, How it Happened and Why

Adoremus Bulletin.

Susan Benofy

BTGH chuyển ngữ

Posted on 06/09/2010 by Xuân Bích Việt Nam