VAI TRÒ NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG ĐỜI SỐNG GIÁO HỘI VÀ GIA ĐÌNH
Hơn bao giờ hết xã hội hôm nay đang
nỗ lực đề cao vai trò phụ nữ, và đang cố gắng xóa bỏ những hố cách biệt giữa
người nam và người nữ trong các sinh hoạt xã hội. Tuy nhiên không dựa vào những
nỗ lực đó của các tổ chức chính trị trần thế mà Giáo hội công giáo mới bàn đến
vai trò của người phụ nữ trong đời sống Giáo hội. Thực ra phẩm giá ngang nhau
giữa người nam và người nữ đã được trình bày trong Thánh Kinh, ngay trong cuốn
sách Sáng Thế sử, chúng ta đã tìm thầy phẩm giá ngang nhau đó trong tường thuật
tạo dựng con người: “Thiên Chúa sáng tạo con người giống hình ảnh Thiên Chúa,
Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ” (St 1, 27), “….Đây là xương
bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi … cả hai trở thành một xương một thịt” (St 2,
23 – 24). Qua hình ảnh tạo dựng về con người, sách khôn ngoan cổ Do Thái đã
nói: Thiên Chúa đã không tạo dựng người đàn bà từ khúc xương đầu của của
người đàn ông, bởi vì như thế bà ta sẽ cai trị chồng; Thiên Chúa cũng không tạo
dựng người đàn bà bởi khúc xương ngón chân của người đàn ông, vì như thế bà sẽ
trở nên nô lệ của chồng; nhưng Thiên Chúa đã tạo dựng nên bà từ khúc xương
sườn, điều đó có nghĩa là hai người cùng có một phẩm giá ngang nhau. Mặc dầu
lịch sử cứu độ được khởi sự từ một dân tộc, mà vai trò của người phụ nữ không
chiếm một vị trí đáng kể nào trong đời sống chính trị xã hội, nhưng trong lịch
sử đó Thiên Chúa đã thể hiện sự trung tín với công trình tạo dựng của mình, có
nghĩa là người phụ nữ không bị đặt ra ngoài, nhưng trái lại họ đóng góp một
cách đáng kể vào chương trình đó.
1- Lịch sử
cứu độ với sự đóng góp của những người nữ “thấp hèn”
a) Tường
thuật gia phả Chúa Giêsu nơi Matthêu
Thánh sử Matthêu khởi sự cuốn Phúc
âm của ngài với bài tường thuật về gia phả của Chúa Giêsu, và thánh sử đã xếp
tên 5 người phụ nữ: Thamar, Rachab, Ruth , bà Batseba vợ ông Urias và Đức Maria
nằm trong gia phả kế bên các tổ phụ. Đây là một điểm đáng quan tâm, vì theo tập
tục của Israel thời đó, trong gia phả chỉ có tên người đàn ông được viết vào
như là “người bảo tồn nòi giống”. Thế mà Matthêu đã đi ra ngoài luật lệ khi
viết tên 5 người phụ nữ vào trong gia phả Chúa Giêsu. Như vậy rõ ràng,
Matthêu muốn trình bày chủ đích cuốn Phúc Âm của ngài. Ngài không có ý định
viết về tiểu sử con người Đức Kitô, nhưng ngài muốn trình bày về lịch sử
cứu độ được cụ thể hóa nơi con người của Đức Kitô, cho nên, gia phả của Chúa
Giêsu mà Matthêu trình bày, không là gia phả của một hệ tộc, nhưng là gia phả
của lịch sử cứu độ. Qua đó Matthêu cho thấy trong lịch sử này Thiên Chúa hoàn
toàn tự do hành động theo ý muốn của Ngài, một hành động không bị chi phối bởi
những qui ước của con người. Và trong lịch sử này, không ai có thể tìm thấy
một thái độ kỳ thị phụ nữ nào của Thiên Chúa, Ngài tôn trọng người nữ lẫn người
nam, vì cả hai được tạo dựng giống hình ảnh Ngài. Thiên Chúa mời gọi người nam
lẫn người nữ cộng tác vào chương trình cứu độ của Ngài. Thánh sử Matthêu đã
trình bày ý định đó của Thiên Chúa qua 5 khuôn mặt của những người nữ
tiêu biểu, được coi là “thấp bé” trong dân Israel:
- Thamar, con dâu ông Giuda,
mang tiếng là sát chồng, bị trả về nhà. Rồi giả làm điếm để ngủ với cha chồng,
dĩ nhiên, nàng không làm vì để trả thù ba chồng đã không chịu cho nàng làm vợ
Sêla, em của E, chồng nàng, theo như lời đã hứa. (St 38)
- Rachab là một cô gái điếm
thuộc thành Giêricô, cô không thuộc về dân Israel, được coi như người ngoại,
nhưng nhờ cô giúp đỡ mà Giôsuê đã chiếm được thành Giêricô (Gs 2, 8-21). Sau
nầy bà được Salmon thuộc chi tộc Giuđa cưới làm vợ và là mẹ của Booz.
- Ruth: là con dâu của bà
Naomi. Bà Ruth thuộc người Môáp. Bà góa chồng khi còn trẻ và chưa một lần sinh
nở. Bà sống với mẹ chồng trong hoàn cảnh nghèo túng, chỉ đi mót lúa mà sống,
nhưng bà được tiếng là dâu thảo, trung thành với mẹ chồng. Bà được ông Booz,
một trong nhữn người ”bảo tồn dòng dõi” của gia đình bà Naomi, cưới làm vợ, và
sau này là bà cố của vua Davit.(R 2 – 3)
- Batseba, vợ Urias, người phụ
nữ phạm tội ngoại tình với vua Davit, bà là mẹ của vua Salomon (2 Sm 11)
- Đức trinh nữ Maria, Mẹ Chúa
Giêsu, người thôn nữ miền Galia, gọi là Nadaret (Lc 1, 26). Mẹ Maria không chỉ
là mẹ Chúa Giêsu lịch sử, mà Mẹ còn được Giáo Hội ban tặng tước hiệu Mẹ Thiên
Chúa, để khẳng định vai trò lớn lao không thể thay thế của Mẹ trong lịch sử cứu
độ.
Năm khuôn mặt phụ nữ mang 5 dấu ấn
khác nhau trong đời sống xã hội: Một bà Thamar bị gia đình khinh chê, Rachab bị
xã hội loại trừ, bà Ruth không được dự phầnn vào các sinh hoạt của Israel, vỉ
bà không thuộc thành phần của Dân được Chúa chọn, bà Batseba được coi là người
bất chính vì ngoại tình và đồng lõa trong việc giết chồng, Đức Maria một thiếu
nữ thấp hèn thuộc miền đất mà xã hội thời đó đánh giá thấp: “Từ Nazareth, làm
sao có cái gì hay được” (Ga 1, 46). Năm khuôn mặt phụ nữ “tầm thường” thế đấy,
nhưng Thiên Chúa đã giao cho họ nhiệm vụ cộng tác vào lịch sử cứu chuộc, đặc
biệt đối với Mẹ Maria.
b) Bà Maria
Madalena
Một tên gọi được các thánh sử nhắc
đến trong Phúc Âm mang một tầm vóc quan trọng đặc biệt.
Luca 7, 36 – 49 tường thuật về một người phụ nữ như là một cô gái điếm đã
xức thuốc thơm vào chân Chúa Giêsu và lấy tóc mình mà lau chân Người tại nhà
ông Simon. Người phụ nữ ấy có tên bà Maria Madalêna, người đã xức thuốc thơm
tẩm liệm thân xác Chúa trước khi chôn cất vào trong mồ (Mt 27, 59 -61; Mc
15, 47), và là người đầu tiên được diễm phúc nhìn thấy Chúa Phục sinh và là
người đầu tiên nhận lãnh sứ vụ mang Tin Mừng Phục sinh đến cho anh em (Ga 20,
11 -18; Mt 28, 9 -10; Mc 16, 9- 11). Luca cũng nói đến Maria Madalena được Chúa
Giêsu giải thoát khỏi bảy quỉ (Lc 8, 2), có thể đó cũng là bà Maria em của
Matta tại làng Bêtania mà thánh sử Luca và Gioan nói đến (Lc 10, 38 – 41;
11, 1 -44).
Mặc dầu các sách Tin Mừng không bảo đảm Maria Madalena xức dầu, Maria Madalena
được trừ khỏi bảy quỉ và Maria Madalena em của Matta là một, thế nhưng Giáo hội
Tây Phương từ thế kỷ thứ VI đã thống nhất ba khuôn mặt là một. Việc thống nhất
đó được suy tư trong một cái nhìn thông suốt. Maria Madalena, con người tội lỗi
được diễn tả bằng việc bị bảy quỉ dữ chiếm ngự, con người tội lỗi đó chính là
một cô gái điếm khét tiếng, sau khi được Chúa chữa trị, bà đã cất bước theo
Chúa, bà đã biến đổi tình yêu nhục thể thành tình yêu trao tặng, phục vụ. Bà đã
đã trở thành người đầu tiên loan báo Tin Mừng Phục sinh.
Như vậy rõ ràng trong lịch sử cứu độ
Thiên Chúa đã trao cho phụ nữ những trọng trách đáng kể, mà nếu như không có sự
cộng tác của họ chắc chắn Lịch sử cứu độ sẽ gặp vấn đề. Hành động của Chúa thật
lạ lùng, Chúa chọn những kẻ thấp hèn để cộng tác vào trong lịch sử cứu độ của
Chúa. Chúa tôn trọng hết mọi người, nam cũng như nữ, vì tất cả là công trình
tạo dựng của Chúa. Trước mặt Chúa mọi người đều mang lấy dáng dấp hình ảnh của
Chúa, mọi người đều có phẩm giá như nhau. Như vậy trong lịch sử cứu độ không có
một sự kỳ thị nam – nữ, không loại trừ vai trò của người phụ nữ ra khỏi những
trang sử của việc Thiên Chúa cứu chuộc con người.
2- Phụ nữ trong Giáo huấn của
Giáo hội
Giáo hội luôn đề cao phẩm giá người
phụ nữ, và đấu tranh chống lại mợi đối xử bất công hay miệt thị phụ nữ. Chúng
ta có thể tìm thấy những nỗ lực đó trong các Giáo huấn của Giáo hội
2.1 Theo Công đồng Vat. II.
Tại Công đồng Vat. II, vấn đề về giá trị và vai trò
của người phụ nữ trong Giáo hội Công giáo được đề cập tới như là nhu cầu thúc
bách cần phải làm sáng tỏ. Mặc dầu các nghị phụ đã không dành riêng cho vấn đề
này trong một chủ đề riêng biệt tại các buổi nghị trình, nhưng trong các bản
văn của Công đồng chúng ta có thể tìm được câu trả lời về vai trò và vị trí của
phụ nữ trong Giáo hội. Công đồng đã nhấn mạnh trong hiến Chế “Vui mừng và Hy
vọng” (GS) số 9, số 29, và trong Hiến chế “Giáo hội” (LG) số 32 về sự bình
đẳng của mọi người trong xã hội và Giáo hội, mặc dầu “mọi người không bằng nhau
vì không có khả năng thể chất như nhau và những năng lực trí tuệ và tinh thần
như nhau”, nhưng “phải vượt lên trên và loại bỏ mọi hình thức kỳ thị về những
quyền lợi căn bản của con người, hoặc trong phạm vi văn hóa, kỳ thị vì phái
tính…, vì như vậy là trái với ý định của Thiên Chúa” (GS 29).
Công đồng cũng quan tâm đến vai trò
tích cực của người phụ nữ trong việc dạy dỗ con cái, tuy nhiên “vẫn không được
coi thường sự thăng tiến hợp lý của người phụ nữ trên bình diện xã hội” (GS
52). Vì thế, Công đồng khuyến khích người phụ nữ tham gia vào đời sống văn hóa:
“bổn phận của tất cả mọi người là thừa nhận và cổ võ sự tham gia đặc biệt và
cần thiết của nữ giới trong sinh hoạt văn hóa” (GS 60). Trong phạm vi thuộc về
đời sống Giáo hội, Công đồng cũng khuyến khích nên để phụ nữ tham gia nhiều hơn
vào trong những lãnh vực tông đồ của Giáo hội (AA 9). Công đồng cũng chỉ ra
rằng, người phụ nữ không chỉ đóng vai trò thiết yếu trong phạm vi gia đình,
nhưng trong các hoạt động xã hội họ cũng đóng một vai trò quan trọng, và ủng hộ
việc công nhận cũng như hiện thực yêu cầu chính đáng của phụ nữ về quyền thụ
hưởng văn hóa (GS 60). Công đồng cũng đã nhấn mạnh đến sự bình đẳng trong tương
quan vợ chồng và ủng hộ việc giải phóng phụ nữ (x. M. Wagner, Hình ảnh mới về
người nữ mới hay hình ảnh cũ về người nữ đối trong hình thức bạo lực mới? –
(Neues Frauenbild oder altec Frauenbild im neuen Gewand?)- , trong: StZ, 212
(1995) 777).
Trong thông điệp gởi cho phụ nữ vào
ngày 8.12.1965, các nghị phụ Công đồng đã bày tỏ rõ ràng về chính kiến
của mình đối với phụ nữ: “Đã đến giờ, và trong giờ đó, ơn gọi của phụ
nữ được thực hiện cách trọn vẹn, giờ mà người phụ nữ tạo được ảnh hưởng,
sự phát triển và sức mạnh trong xã hội, điều mà cho đến bây giờ họ chưa có
được. Vì thế nhờ bởi tinh thần Phúc âm người phụ nữ có thể cộng tác cộng tác
vào nhiều lãnh vực với ý thức về một sự thay đổi sâu rộng, hầu giúp nhân lọai
đạt tới cùng đích của mình”.
Nhưng chỗ trong Giáo hội phụ nữ có
chỗ đứng nào? Mặc dầu Công đồng không đưa ra một chỉ dẫn cụ thể riêng dành cho
phụ nữ, nhưng câu trả lời vẫn có thể tìm thấy trong những bản văn của Công đồng
về một sự bình đẳng trong Giáo hội: “Trong Chúa Kitô và trong Giáo hội không có
một sự bất bình đẳng vì nguồn gốc và dân tộc, vì địa vị xã hội hay giới tính”
(LG 32). Tuy nhiên không có một đoạn văn nào nói về vị trí ngang hàng của người
nữ với người nam như là cơ chế với một cấu trúc xã hội rõ ràng. Đức Phaolô VI
đã khước từ sự tham dự của người nữ vào một số nhiệm vụ trong Giáo hội với lý
do: Chúa Giêsu đã thiết định như thế, Người đã tô điểm Giáo hội với qui chế nền
tảng và với nhân học mang tính thần học của Giáo hội (X. Đức Phaolô VI. Diễn
văn về “Vai trò của phụ nữ trong chương trình cứu chuộc”, ngày 30.1.1977). Giữa
những người đã lãnh nhận Phép Rửa có một sự bình đẳng đích thật, thế nhưng “sự
bình đẳng không là đồng nhất như nhau, thật vậy Giáo hội là một thân thể đa
dạng, trong thân thể này mỗi một chi thể có một nhiệm vụ riêng biệt. Các nhiệm
vụ riêng biệt và không thể trộn lẫn với nhau” (Giải thích của Thánh bộ Đức Tin
về việc chuẩn y cho phụ nữ tiến tới chức linh mục, ngày 15.10.1976). Tuy nhiên
người ta cũng công nhận rằng, ngày nay vị trí của người phụ nữ trong Giáo
hội có sự phát triển tích cực. Nhiều phụ nữ đã đóng vai trò quan trọng trong
công tác tông đồ, một số được bổ nhiệm là thành viên hội đồng mục vụ giáo phận,
giáo xứ. Ngày nay cũng một số chị em phụ nữ được Đức giáo Hoàng bổ nhiệm vào
một số chức vụ trong Tòa Thánh.
2.2 Theo Giáo luật CIC/ 1983
“Bình đẳng giữa mọi người với nhau”,
và quyền căn bản của mọi người, tất cả không có sự phân biệt về giới tính hay
nguồn gốc (GS 29) có nguồn gốc trong luật tự nhiên Kitô giáo . Công đồng Vat.
II cũng đã nỗ lực cụ thể hóa sự bình đẳng của mọi Kitô hữu trong Giáo hội qua
việc công bố bộ luật mới CIC /1983 . So với bộ luật CIC/ 1917, bộ
luật mới có nhiều điều tích cực dành cho người phụ nữ. Bộ luật CIC / 1917 không
cho phép người phụ nữ bước lên gian cung thánh. Bộ lậu CIC / 1983 đã thay đổi
quan niệm cũ, cho phép người phụ nữ tham dự tích cực vào công việc phuc vụ
Phụng vụ. Người phụ nữ được nhận nhiệm vụ đọc sách, chú giải hay ca trưởng hoặc
các công tác khác (c. 230 § 2).Người phụ nữ cũng có thể hướng dẫn giờ kinh
Phụng vụ, trao ban Bí tích Thánh Tẩy và trao ban Thánh Thể như thừa tác viên
Thánh Thể ngoại thường (c. 230 § 3). Có thể được Hội Đồng Giám Mục chấp thuận
và Tòa Thánh ban phép chứng hôn khi nhu cầu cần (c. 1112) và có thể ban một số
Á bí tích (1168). Nếu thiếu linh mục, người phụ nữ cũng có thể được phép đảm
nhiệm một số công tác mục vụ (c 517 § 2).Ngoài ra người phụ nữ cón có thể được
bổ nhiệm làm thẩm phán trong các Tòa án Giáo hội (c. 1421 § 2) hoặc là làm
phụ thẩm hay dự thẩm (cc. 1424, 1428).
Việc phong chức linh mục cho
phụ nữ thì tuyệt đối hoàn toàn bị cấm. Lý do từ chối phong chức linh mục cho
phụ nữ đã được Thánh bộ Đức tin giải thích vào ngày 15.10.1976: “Giáo hội luôn
trung thành tuân thủ những việc làm của Chúa như là mẫu mực trong việc không cho
phép phu nữ lãnh nhận chức linh mục”. Đây không là hành vi kỳ thị nhưng là hành
động tuân thủ ý định của Đấng là tác giả quyền tự do và bình đẳng của con
người.”
Bà Jennifer Ferrara một mục sư
Tin Lành sau khi trở lại đạo công giáo đã chia sẻ: “linh mục hành động thay mặt
Chúa Kitô". Chúa Kitô chính là vị hôn phu, và Giáo Hội chính là vị hiền
thê của Ngài. Mầu nhiệm lễ cưới này đã được công bố qua các sách Cựu và Tân
Ước. Theo hiểu biết về đời sống linh mục trong Giáo Hội Công Giáo, thì linh mục
chính là hiện thân của Chúa Kitô, là chủ thể vạn vật, là vị hôn phu và là đầu
của Giáo Hội. Điều này thật sự đúng đặc biệt là trong trường hợp của Phép Thánh
Thể, khi Chúa Kitô thực hiện công cuộc cứu rỗi của Ngài. Ai đó phải chắc là
hoàn toàn xem thường tầm quan trọng của mầu nhiệm lể cưới vì công cuộc cứu rỗi
để cố mà biện minh cho vấn đề truyền chức linh mục cho phụ nữ. Nếu Giáo Hội
truyền chức cho phụ nữ, thì toàn bộ sự hiểu biết về tầm quan trọng của nữ tính
và nam tính qua công cuộc cứu rỗi sẽ bị mất đi”.
Như vậy giữa bộ luật CIC/ 1917 và
CIC / 1983 có sự thay đổi rõ rệt về vai trò của phu nữ trong đời sống Giáo hội.
Họ không là những thành phần thụ động, nhưng như mọi thành viên khác trong Giáo
hội, họ được mời gọi cộng tác tích cực trong việc xây dựng Giáo hội như là thân
thể Đức Kitô, để thân thể này càng ngày càng lớn mạnh. Việc cộng tác của họ
không chỉ dừng lại nơi gia đình trong việc giáo dục Đức tin cho con cái, hay
nơi môi trường xã hội trong việc làm chứng cho Đức Kitô, nhưng họ còn là những
cộng sự viên của hàng linh mục trong các công việc mục vụ.
3- Vai trò người nữ trong gia đình
qua vai trò người mẹ
3.1 Mẹ
sức sống của con cái
Ca dao Việt Nam đã ví von:
“Con không cha như nhà không nóc
Con không mẹ như nọc nòng đứt đuôi.”
Nhà không nóc còn có thể giữ được
cuộc sống, còn nòng nọc đứt đuôi có nghĩa là cái chết gần kề, vì không đuôi
nòng nọc làm sao có thể bơi đi kiếm ăn được. Như thế, cuộc sống của ngừơi mẹ
chính là cuộc sống của ngừơi con.
Hay là:
“Mồ côi cha ăn cơm với cá
Mồ côi mẹ liếm lá đầu chợ”
Như thế, rõ ràng vắng bóng mẹ trong
gia đình qủa là một điều bất hạnh lớn lao cho con cái. Điều đó cũng khẳng định
vai trò quan trọng của người mẹ trong gia đình, như hòang đế Napoléon đệ nhất
đã qủa quyết: “tương lai của đứa con là công trình của người mẹ”. Điều quan
trọng nhất chính người mẹ trao ban cho người con phẩm hạnh của một con người.
Người mẹ chính là thầy dạy đầu tiên của việc hình thành nhân bản nơi đứa con.
Thánh Alphônsô Ligouri, Đấng Sáng Lập Dòng Chúa Cứu Thế, đã khẳng quyết: “Tất
cả những gì tôi có, đều do mẹ tôi ban cho”. Người ta có thể
nói rằng, tính nết của người con được hình thành từ nơi ngừơi mẹ. Từ trong dạ
mẹ, đứa bé đã biết cười khi mẹ nó vui, đã biết buồn khi mẹ tơi giọt lệ, đã biết
giận dỗi khi ngừơi mẹ không quan tâm đến. Các nhà khoa học đã chứng minh: Từ
trong bụng mẹ các cơ quan cảm nhận của đứa bé đã sớm phát triển và chúng có thể
nhận biết thế giới bên ngoài qua các giác quan khi được 5-6 tháng. Trước khi
sinh ra, bé đã nghe được tiếng động, rất nhạy cảm với mùi, vị, và có cả xúc
giác nữa. Cùng với sự tăng trưởng và việc “tự thu xếp” cho mình khi ở trong
bụng mẹ, bé còn phát triển những khả năng cảm nhận không thể ngờ được. Thai nhi
có thể nghe và rất nhạy cảm về vị giác, thính giác .
Từ khi lọt lòng đứa bé gắn kết với
mẹ qua dòng sữa mẹ. Đó không chỉ là chất dinh dưỡng qúi báu làm phát triển thí
thông minh đứa bé, và tạo ra sức miễn dịch ngăn ngừa nhiễm bệnh ở đứa bé, nhưng
đó còn là những giọt sữa tình yêu của ngừơi mẹ trao cho con. Những giọt sữa tạo
nên một mối tương quan rất đặc thù giữa đứa bé và ngừơi mẹ. Mối tương quan này
chỉ có được trong thiên chức làm mẹ. Từ mối tương quan nấy ngừơi mẹ nhận ra
tiến ho của ngừơi con giữa muôn vàn tiếng động, nhận tiếng cựa mình của bé nằm
trong nôi ngay khi ngừơi mẹ ngủ say.
Người mẹ còn là thầy dạy đầu tiên
cho của ngừơi con qua những tiếng ầu ơ ru con. Những lời ru của em êm đềm đưa
con vào giấc ngủ cũng là lúc ngừơi mẹ gieo vào lòng con những lời yêu thương
dành cho con, những kỳ vọng ngừơi mẹ đặt vào con, dạy con biết về lòng chung
thủy vợ chồng, yêu quê hương:
Hò ơi…Bên ngoài gió thổi nam non
Con đà say giấc…
Con đà say giấc… hò ơi…
Con đà say giấc Mẹ còn hát ru
Đêm về gió ru hời…nghe lời hát ru
Xưa Mẹ hát ru rằng
Những khổ đau cưu mang Mẹ gánh
Nên lời hát ru buồn
Như tiếng buồn nước non
Nay con đã lớn khôn
Những lời ru thấm sâu vào lòng.
Chính ngừơi mẹ đã hứơng dẫn con bứơc
vào đời, thế nhưng thời đại hôm nay, trong cơn lốc xoáy của chủ nghĩa đề cao tự
do, cá nhân chủ nghĩa, nam nữ bình quyền hầu như đang làm mất đi vai trò “ngừơi
mẹ” trong gia đình. Với chủ trương giải phóng phụ nữ, đưa ngừơi phụ nữ ra khỏi
gia đình, tham gia vào các lãnh vực chính trị kinh tế, xã hội như nam giới.
Ngừơi ta lấy làm hài lòng với con số phụ nữ ngày càng tăng trong các lãnh vực.
Các chính trị gia hoan hỷ khi Liên đòan lưỡng quốc hội có trụ sở đạt tại Geneve
vào ngày 27.02.2006 công bố: hiện thời có hơn 30% phụ nữ tham chánh tại 20
Thương viện, trong số này có 10 quốc gia tại Châu Âu và 5 tại Châu phi, và 5
tại Châu Mỹ La Tinh. Ngày 08.03.2006 Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Kofi Annan cho
biết hiện nay có 11 nguyên thủ quốc gia là nữ giới. Và càng ngày người ta
càng có khuynh hướng chọn phụ nữ vào chức vụ tổng thống hay thủ tứơng. Các công
ty cũng đang đua nhau cắt cử phụ nữ vào trong hội đồng quản trị. Một tin vui
cho phụ nữ!
Trong khi người ta nỗ lực đưa phụ nữ
vào giữ những chức vụ cao cấp trong chánh quyền hay trong các công ty kêu gọi
phụ nữ tham gia vào các họat động xã hội để đáp ứng lại với trào lưu nam nữ
bình quyền, giải phóng phụ nữ khỏi chuyện bếp núc, giặt giũ, quét dọn, nói
chung là “nội trợ”, người ta vô tình đang “chôn cất” thiên chức làm mẹ, một ơn
gọi không ai có thể thay thế được. Hậu qủa là gì? Xã hội đang ngày càng có thêm
nhiều tội phạm là thanh thiếu niên. Gia đình không còn là mái ấm, nhưng chỉ còn
là quán trọ. Người con thiếu vắng sự chăm lo dạy dỗ đúng mực của ngừơi mẹ. Đứa
bé không còn lớn lên trong những lời ru chất chứa yêu thương, nhưng là lớn lên
trong sự canh chừng của người giữ trẻ. Lời yêu thương của mẹ nắn đúc nên những
đức tính làm người của con không còn nữa, thay vào đó là những lới cảnh cáo, hù
dọa của ngừơi giữ trẻ. Đứa trẻ lơn lên trong sợ hãi, tránh né, từ nó nẩy sinh
sự lừa dối. Thật đau lòng khi đứa trẻ 14 bị bắt vì phạm pháp đã trả lời trước
tòa: con mồ côi không cha không mẹ, mặc dầu cha mẹ đang ngồi trong phòng xử án,
họ là những ngừơi đang giữ những chức vụ quan trọng trong các công ty. Em khẳng
định em không có cha mẹ, vì em lớn lên trong sự coi sóc của ngừơi giúp việc.
Ngừơi giúp việc làm tất cả những công việc thuộc bổn phận của ngừơi cha ngừơi
mẹ. Nứơc mắt ràn rụa em kể khi cô giáo chủ nhiệm mời phụ huynh lên họp, thì
ngừơi giúp việc đi thế cho ba má. Em phạm tôi vì em không có vóng tay ôm ấp của
mẹ, lời yêu thương của cha.
3.2 Mẹ : nhà
truyền giáo không thể thay thế trong gia đình
Trong bài huấn dụ tại buổi tiếp kiến
chung sáng thứ tư 14-2-2007 Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã nói :Anh chị em thân
mến, vào cuối lộ trình tìm hiểu các chứng nhân thời Kitô giáo khai sinh, chúng
ta hãy dừng lại nơi vài gương mặt nữ giới đã nắm giữ một vai trò quý báu trong
việc loan báo Tin Mừng. Nhiều người đã hoạt động trong khung cảnh sứ mệnh của
Chúa Giêsu. Trước hết và một cách đặc biệt là Đức Trinh Nữ Maria, nhưng cũng có
nhiều phụ nữ khác theo Chúa Giêsu như các bà Giovanna, Suzanna, Marta và Maria
là chị và em gái của Ladarô, và Maria Madalena là người có một thế đứng đặc
biệt, vì là nhân chứng đầu tiên của Chúa Kitô phục sinh. Bà được thánh Toma
thành Aquino gọi là ”tông đồ của các Tông Đồ”. Đức Thánh Cha kết luận bài huấn
dụ: lịch sử Kitô giáo đã kết thúc một cách khác nếu đã không có nhiều chị em
phụ nữ quảng đại góp phần. Vì thế như Đức Gioan Phaolo II vị tiền nhiệm đáng
kính của tôi đã viết trong tông thư Phẩm giá phụ nữ: ”Giáo Hội cảm tạ Chúa vì
tất cả các phụ nữ và vì từng người một... Giáo Hội cám ơn vì tất cả những biểu
lộ của ”thiên tài nữ giới” xuất hiện trong dòng lịch sử, giữa tất cả mọi dân
tộc và quốc gia; Giáo Hội cám ơn vì tất cả các đặc sủng Chúa Thánh Thần rộng
ban cho các chị em phụ nữ trong lịch sử Dân Chúa, vì tất cả những chiến thắng
mà Giáo Hội có được nhờ lòng tin lòng cậy và lòng mến của nữ giới; Giáo Hội cám
ơn vì tất cả mọi hoa trái thánh thiện của nữ giới” (s. 31). Như chúng ta thấy
lời ca tụng liên quan tới các phụ nữ trong dòng lịch sử Giáo Hội và được nói
lên nhân danh toàn Giáo Hội. Chúng ta cũng kết hiệp với lời qúy trọng ấy và cảm
tạ Chúa vì Người hướng dẫn Giáo Hội từ đời này sang đời nọ, bằng cách sử dụng
các người nam nữ không phân biệt ai, những người biết sinh hoa trái lòng tin và
bí tich rửa tội cho thiện ích của toàn thân mình Giáo Hội để cho danh Chúa được
cả sáng hơn.
Từ góc cạnh đó, một mặt Giáo hội
luôn nhấn mạnh đến phẩm giá ngang nhau giữa người nam và ngừơi nữ (x.
Familiaris consortio, số 22), cả hai đều được tạo dựng nên giống hình ảnh Thiên
Chúa; đàng khác Giáo hội đặc biệt quan tâm đến vai trò người vợ và người mẹ trong
gia đình của người nữ. Giáo hội luôn khẳng định đến tầm quan trọng của thiên
chức làm me, ơn gọi làm mẹ là ơn gọi cao qúi không thể thay thế (x. Mulieris
dignitatem, số 18). Giáo hội mời gọi các ngừơi mẹ Kitô hữu ý thức được vai trò
thánh thiêng của người mẹ: “chúng ta phải đặc biệt quan tâm đến việc làm rất
quan trọng của các người phụ nữ, những người mẹ trong lòng gia đình… Lòng mong
ước hợp lý đóng góp bằng những khả năng của mình chi thiện ích chung, và chính
bối cảnh xã hội, kinh tế thường đưa người phụ nữ đến một họat động nghề nghiệp.
Tuy nhiên cần tránh cho gia đình và nhân loại phải chịu một sự mất mát và nghèo
nàn hơn, bởi vì người phụ nữ không thể thay thế trong việc sinh sản và
giáo dục con cái. Bởi vậy, các chính quyền cần phải đưa ra những luật lệ thuận
lợi cho việc thăng tiến nghề nghiệp của người phụ nữ và đồng thời bảo vệ cho ơn
gọi làm mẹ và làm nhà giáo dục của họ” (Gioan Phaolô II, huấn từ ngày
19.03.1994, số 3).
Với thiên chức làm mẹ, người phụ nữ
được giao phó trọng trách loan báo Tin Mừng cách đặc biệt qua việc giáo dục con
cái. Thật vậy “trong việc giáo dục con cái, ngừơi mẹ có một vai trò ưu việt
nhất. Vì mối tương quan đặc biệt nối kết nàng với đứa con, nhất là trong những
năm đầu đời…mối tương quan nguyên thủy giữa mẹ và con này còn có một gía trị
giáo dục đặc biệt trên lãnh vực tôn giáo, bởi vì nó giúp hướng trí lòng con cái
về Thiên Chúa rất sớm, cả trứơc khi chính thức bắt đầu việc giáo dục con cái”
(Gioan Phaolô II, Sứ điệp Ngày Hòa Bình Thế Giới lần XXVIII. – 01.01.1995).
Viêc loan báo Tin Mừng trước tiên
chính là chuyển giáo đức tin và giáo dục đức tin cho con cái. “những bậc làm
cha mẹ, những kẻ tham dự vào tình phụ tử của Thiên Chúa, là những kẻ đầu tiên
chịu trách nhiệm giáo dục con cái và là những kẻ đầu tiên rao giảng đức tin cho
con cái. Cha mẹ có bổn phận yêu thương và tôn trọng con cái như là những nhân
vị và như là những con cái của Thiên Chúa. Ðặc biệt, các ngài có sứ mạng giáo
dục chúng sống đức tin kitô” (Đức Bênêđictô XVI., diễn văn bế mặc Đại hội Gia
đình Thế giới lần V. tại Valencia, Tây Ban Nha, 9.7.2006).
Việc chuyển giao đức tin không chỉ
đơn thuần là xin con cái được lãnh nhận Bí tích Rửa tội, nhưng còn trao ban cho
con cái mẫu gương sống đạo của ngừơi mẹ. Người mẹ định hình đời sống đức tin
cho con cái qua đời sống đức tin của chính mình. Vì vậy người mẹ luôn nỗ lực tự
hòan thiện chính mình đễ thực sự trở thành khuôn mẫu hòan hảo nắn đúc đời sống
đạo đức cho con cái. Trên hết mọi sự người mẹ phải là người mang lại nụ cười
hạnh phúc trong gia đình. Đời sống đức tin không chỉ đóng khung trong những
thói quen đạo đức như đọc kinh đi lễ, nhưng đức tin cần phải là nguồn mạch tuôn
chảy niềm vui trong gia đình. Vì vậy trong việc sống đức tin, người mẹ cần vượt
thắng những khó khăn trong đời để nụ cười luôn nở trên môi. Đối diện với những
âu lo buồn bực trên khuôn mặt người mẹ vẫn thể hiện nét tươi sáng. Nụ cười của
ngừơi mẹ là nụ cười của sự tín thác vào tình yêu của Thiên Chúa. Đó là bài học
đầu tiên cho con cái về đức tin. “Nếu con cái nhìn thấy rằng cha mẹ của mình -
và cách chung những người lớn xunh quanh - sống cuộc đời cách vui tươi và hăng
say, cả khi gặp những khó khăn, thì con cái sẽ dễ dàng tăng triển niềm vui sống
sâu xa; và niềm vui sống này sẽ giúp cho con cái thành công vượt qua được những
trở ngại có thể và vượt qua được những nghịch cảnh của đời sống con người” (Đức
Bênêđictô XVI., diễn văn bế mặc Đại hội Gia đình Thế giới lần V. tại Valencia,
Tây Ban Nha, 9.7.2006). Một người mẹ tâm sự: “Tần tảo sớm hôm lo miếng ăn, vừa
phải giữ con, thu xếp công việc nhà trong một ngày qủa là qúa sức nhưng tôi
quyết không kêu than, vì biết mình là trụ cột chính phải đứng vững cho chồng
con yên lòng”, và qủa thật với nụ cười trên môi bà đã giáo dục 10 đứa con thành
công, các ngừơi con của bà hiện nay là bác sĩ, hiệu trưởng, kỹ sư… (Kiều Chinh,
Gánh Ve Chai Nuôi Con Thành Tài, báo Phụ Nữ Chủ Nhật, số 35, ngảy.9.2006, tr.
4).
Niềm vui tín thác của người mẹ dìu
dắt người con hiểu được tầm quan trọng của ơn Chúa trong cuộc đời. Chính ngừơi
mẹ sẽ dạy cho con cái hiểu mọi khả năng trong cuộc sống đều là ân huệ của Thiên
Chúa, không có ơn Chúa con ngừơi không làm được gì. Từ bài học này người con sẽ
thể hiện được đời sống khiêm nhường biết tôn trọng người khác, không khinh chê
hoặc tỏ thái độ cao ngạo với những người chung quanh.
Việc chuyển giao đức tin cho con cái
con được người mẹ thực hiện qua những câu chuyện kể về Kinh Thánh. Việc kể
chuyện có thể được thực hiện trong những lúc mẹ con nằm bên nhau. Những mẫu
chuyện “ngày xửa ngày xưa, có cô công chúa…” được thay thế bằng những câu
chuyện trong Cựu ứơc như việc tạo dựng, lụt đại hồng thủy…, hay trong Tân ước,
như chuyện về người Samaritanô nhân từ… Những câu chuyện Thánh Kinh là những
bài học dạy về đức tin, về luân lý và đức ái Kitô giáo. Qua những mẫu chuyện
Kinh Thánh người mẹ gieo vào mảnh đất đơn sơ của trẻ nhỏ những tâm tình tôn
giáo. Không cần những kiến thức thần học cao sâu, nhưng chỉ cần nghe những
lời êm ái dịu dàng của mẹ trong lúc kể chuyện, chắc chắn nội dung câu chuyện sẽ
khắc ghi sâu đậm trong tâm khảm ngừơi con.
Những giờ kinh tối trong gia đình
chính là phương thế hữu hiệu cho việc giáo dục đức tin cho con cái. Thế nhưng
phương thế này đang bị các gia đình công giáo lãng quên và thay thế vào đó bằng
những phương thế giải trí:phim ành, truyền hình, computer… Bởi đó để củng cố
đức tin cho con cái cần phải tái lập lại những giờ kinh tối trong gia đình, và
chính ngừơi mẹ đóng vai trò quyết định cho vấn đề nẩy. Dầu sao đi nữa cũng
phải nhìn thấy tiếng nói quan trọng của ngừơi mẹ trong đời sống gia đình
Việt Nam. Do đó ngừơi mẹ công giáo Việt Nam nên tận dụng lợi thế này trong công
việc giáo dục đức tin cho con cái. Những lời kinh đơn sơ cùng đọc với cha với
mẹ, người con cảm nhận được sự hiệp thông trong mái ấm gia đình. Chính trong
giây phút này các thành viên trong gia đình sẽ khám phá ra gia đình là mái ấm
chứ không là quán trọ. Và điều quan trọng hơn hết, qua việc qui tụ này sự hiện
diện của Chúa như là bảo chứng cho sự hiệp nhất trong gia đình. Chính Chúa đã
hứa điều đó, ở đâu co hai ba ngừơi họp nhau lại nâhn danh Chúa, thì Chúa sẽ
hiện diện giữa họ. Sự hiện diện của Chúa cũng có nghĩa sự hiện của an bình và
hạnh phúc, của yêu thương và hòa thuận, của thứ tha và cảm thông. Những giờ
kinh tối trong gia đình là những lời tuyên xưng đức tin, và như Đức Bênêđictô
XVI. đã xác quyết “ngôn ngữ của đức tin được học thuộc trong mái ấm gia đình
nơi mà đức tin này được lớn lên và được củng cố nhờ qua lời cầu nguyện và việc
thực hành đạo” (Đức Bênêđictô XVI., diễn văn bế mặc Đại hội Gia đình Thế giới
lần V. tại Valencia, Tây Ban Nha, 9.7.2006).
Một gia đình trẻ đã chia sẻ kinh
nghiệm chuyển giao đức tin cho con cái qua những giờ kính tối trong gia đình:
Chúng tôi là cha mẹ trẻ tuổi của một
gia đình Công Giáo Pháp. Ngay từ khi lấy nhau, cả hai đều thâm tín rằng, trong
vấn đề giáo dục con cái, việc thông truyền Đức Tin là vấn đề quan trọng hàng
đầu. Tuy nhiên chúng tôi không đề ra nguyên tắc hay quy luật nào phải theo.
Chúng tôi muốn tránh lối giáo dục khắt-khe cứng-nhắc mà chúng tôi từng kinh
nghiệm lúc tuổi còn thơ. Với thời gian, lần lượt 4 đứa con chào đời, chúng tôi
bắt đầu khám phá ra việc đọc kinh chung trong gia đình là phương thức tuyệt hảo
để thức tỉnh và xây dựng Đức Tin.
Biến cố quan trọng xảy đến cho gia
đình: đứa con trai đầu lòng lên 8 tuổi chuẩn bị xưng tội rước lễ lần đầu. Dịp
tốt thúc đẩy chúng tôi quyết định đọc kinh tối chung trước khi đi ngủ. Từ đó
chúng tôi thấy rằng, buổi đọc kinh tối chung trong gia đình trở thành giây phút
hạnh phúc. Chúng tôi đặt trọn gia đình dưới cái nhìn yêu thương của THIÊN CHÚA.
Tuy nhiên chúng tôi không ép buộc con cái. Đứa nào không muốn thì thôi. Nhưng
tất cả đều chấp thuận tham dự. Chúng tôi đọc kinh chung trong phòng ngủ của hai
vợ chồng. Chúng tôi dọn chiếc bàn nhỏ, trên đó đặt bức ảnh Đức Mẹ MARIA bồng
Đức Chúa GIÊSU Hài Đồng, một bình hoa và bốn cây nến trắng. Bốn đứa con theo
lượt thắp và thổi tắt bốn cây nến này. Tất cả vợ chồng và 4 đứa con ngồi trên
giường. Chúng tôi bắt đầu bằng dấu Thánh Giá, rồi mỗi đứa con nói: “Con xin
chào Đức Chúa GIÊSU. Con xin dâng cho Chúa lòng con. Con cám ơn Chúa vì một
ngày tốt đẹp trải qua”.
Mỗi người sau đó có thể kể ra
một việc cụ thể, hoặc một niềm vui nào đó, để cám ơn Chúa. Chẳng hạn như học
hành chăm chỉ nơi trường học, ăn bữa trưa ngon, ăn bánh ngọt nơi nhà ông bà
v.v. Rồi chúng tôi cùng đọc hoặc cùng hát kinh Lạy Cha, kinh Kính Mừng. Và
chúng tôi kết thúc buổi đọc kinh bằng dấu Thánh Giá. Buổi cầu nguyện đọc kinh
tối chung với các con trong gia đình khơi dậy trong tôi niềm khao khát cầu
nguyện. Trước đó tôi từng tham gia nhiều hoạt động tông đồ trong giáo xứ, nhưng
không chú ý nhiều đến việc cầu nguyện.
Kể từ khi tôi bắt đầu nghiêm chỉnh
chú ý đến đời sống đạo đức của con cái, tôi cũng ý thức sâu xa rằng, tôi cùng
tiến bước với các con và cùng các con khám phá ra con đường thiêng liêng phải
theo. Tôi cũng ý thức sâu xa rằng, cầu nguyện không phải chỉ dành ra một thời
gian cho THIÊN CHÚA, nhưng còn phải cố gắng sống Phúc Âm nhiều hơn. Ngoài ra
mỗi giây phút trong ngày, cũng còn phải hướng lòng về với Chúa, nghĩ đến Tình
Yêu và lòng trìu mến Ngài dành cho mỗi người.Con cái giúp tôi tìm gặp lại cái
gì là thiết yếu nhất. Chúng cũng dạy tôi biết đặt trọn niềm tin tưởng nơi Chúa,
dù bất cứ điều gì xảy ra; biết yêu thương người khác và biết cám ơn Chúa về tất
cả niềm vui Chúa ban cho chúng ta. (Trích trong”PRIER”, 1+2/1984, trang
23-14. Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt chuyển dịch)
“Phúc đức tại Mẫu” là một quan niệm
đựơc hình thành trong nền văn hóa Việt Nam nói lên tầm quan trọng của ngừơi mẹ
trong gia đình. Và như thế cũng có thể khẳng định đời sống đức tin của con cái
lệ thuộc vào ngừơi mẹ rất nhiều. Nhìn vào lịch sử của Giáo hội, có biết bao vị
thánh, bao vị Giáo hòang và Giám mục thánh thiện đều nhờ đến công lao giáo dục
của các bà mẹ; những tấm lòng quảng đại dấn thân phục vụ cho Giáo hội trong ơn
gọi linh mục, tu sĩ đều nhờ đến lòng đạo đức, sự giáo dục và khích lệ của
các bà mẹ. Do đó Giáo hội luôn cậy nhờ đến sự dấn thân của các bà mẹ trong việc
chuyển giao đức tin và giáo dục đức tin cho con cái, nhất là trong thời đại hôm
nay, nhằm xây dựng một nhân loại yêu thương và hòa bình, một nhân loại không
hận thù và biết tôn trọng sự sống, một nhân loại biết nhìn nhận chủ quyền tối
cao của Đấng Tạo Hóa và biết tuân phục tiếng nói của lương tâm ngay
thẳng. Đó là sứ mệnh quan trọng mà Chúa ủy thác cho các bà mẹ. Đức Giáo
hoàng Gioan Phaolô II đã khích lệ các bà mẹ: “sứ mạng này hối thúc chúng con
trở nên những người đóng vai chính trong việc nhân bản hóa những sức sinh động
đa diện đang chất vấn hoặc quấy nhiễu nhân lọai của thời đại chúng ta. Chúng
con được mời gọi để trở nên những người xây dựng niềm hy vọng thật sự, một niềm
hy vọng được trở nên vững chắc đối với những tín hữu nhờ Chúa Thánh Thần, Đấng
hướng dẫn và nâng đỡ những kẻ khó nhọc để xây dựng một nền văn minh và một lịch
sử luôn được cảm hứng theo các gía trị Tin mừng công lý và tình yêu” (Huấn từ
tại Hội Nghị tòan quốc do Trung tâm Phụ Nữ Ý tổ chức, ngày 6.12.1997).
Lm Hà văn Minh (Gp. Phú
Cường)
UBMV. Gia Đình / HĐGMVN