
Hành hương trong lòng Giáo hội - phần 4: hành hương với Đức Mẹ Maria
Lm. Giuse Phạm Đình Ngọc, SJ
Ý NGHĨA VÀ LỊCH SỬ CỦA HÀNH HƯƠNG
CHƯƠNG 3: HÀNH HƯƠNG TRONG LÒNG GIÁO HỘI
Phần 4: HÀNH HƯƠNG VỚI ĐỨC MẸ MARIA
Chia tay thời Trung Cổ, chúng ta bước sang thời hiện đại với sự sụt giảm đáng kể về những chuyến hành hương. Lý do?
Theo nghiên cứu của Giáo hội: “Việc hành hương suy giảm trong thời kỳ hiện đại vì hoàn cảnh văn hóa thay đổi, những sự kiện xung quanh phong trào Tin lành và cũng vì ảnh hưởng của Thời kỳ Khai Sáng”. Phong trào Khai Sáng thường được gọi là Phong trào Duy lí (the Enlightenment), một phong trào tri thức triết học chi phối tư tưởng châu Âu vào thế kỷ 17 và 18. Họ lấy lý trí, theo đuổi hạnh phúc, và sự nhận biết của giác quan làm nền móng. Họ chủ trương tự do, tiến bộ loài người, khoan dung, bác ái, chính phủ lập hiến, phân biệt Giáo hội với nhà nước. Thậm chí Nhà thờ Đức Bà Paris được xác nhận tôn thờ lý trí và tự do thay cho Công giáo. Việc thờ phượng Nữ thần Lý trí được tấn phong tại nhà thờ vào ngày 10/11/1793.
Trong bối cảnh này, hành hương liên quan đến Đức Maria lại đua nở. Tuy Đất Thánh cũng có nhiều nơi liên quan đến Đức Mẹ, nhưng phải nói thời Cận Đại đánh dấu một bước ngoặt quan trọng với những nơi Đức Mẹ hiện ra. Tại sao Đức Mẹ hiện ra luôn là câu hỏi thách đố nhiều người. Dẫu sao nơi nào Đức Mẹ hiện ra, nơi ấy là mảnh đất của hành hương. Đoàn người đổ về để gặp gỡ Đức Mẹ mỗi lúc một đông. Họ cầu nguyện và nhận được rất nhiều ơn lành, kể cả những phép lạ.
Chúng ta có thể chỉ ra ba động lực khiến nhiều người hành hương đến với Mẹ:
1) Mẹ và con luôn có cảm thức gần gũi và dễ tâm sự. Trên con đường hành hương, chúng ta có Mẹ Maria là Ngôi sao dẫn đường.
2) Người hành hương hy vọng Đức Mẹ chữa bệnh phần xác. Bằng chứng là đã có vô số phép lạ Đức Mẹ đã làm! Hoặc nói như lời của Giáo hội: “Tại nhiều đền thờ Đức Mẹ, chúng ta có thể thấy Mẹ Maria tập họp đông đảo các con cái Mẹ, những người con hết sức cố gắng hành hương đến đó để được nhìn thấy Đức Mẹ và được Đức Mẹ nhìn thấy mình. Tại đây họ tìm được sức mạnh Thiên Chúa ban để chịu đựng những vất vả mệt nhọc và những đau khổ trong cuộc sống.”[1]
3) Người hành hương muốn lãnh ơn ân xá[2], hay được tha một hình phạt nào đó.
Rất nhiều nước trên thế giới đều có hiện tượng Đức Maria hiện ra. Việt Nam cũng không thiếu những nơi như thế mà chúng ta đã có dịp hành hương (xem bài sau). Ở tầm mức ngoại quốc, chúng ta ước mơ được đến thăm những nơi hành hương Đức Mẹ sau:
Medjugorje (Mễ Du), Bosnia và Herzegovina: Từ năm 1981, một loạt các sự kiện tôn thánh được ghi nhận ở Medjugorje, trong đó Đức Maria xuất hiện cho một số người dân địa phương. Nơi này đã trở thành điểm hành hương quan trọng cho rất nhiều tín đồ.
Guadalupe, Mexico: Đức Mẹ của Guadalupe là bức hình trên áo choàng của Juan Diego, người da đỏ, vào năm 1531. Nơi này được xem là một trong những nơi thánh kính quan trọng nhất ở châu Mỹ Latinh và có sự hiện diện của Đức Maria trong lịch sử Công giáo tại Mỹ Latinh.
Czestochowa, Ba Lan: Czestochowa là nơi lưu giữ bức tranh Đức Mẹ Czestochowa, còn gọi là Nữ hoàng Ba Lan, được tôn thờ rộng rãi tại Ba Lan. Bức tranh này được cho là có khả năng thực hiện các phép lạ và đã thu hút hàng triệu tín hữu.
Loreto, Ý: Loreto nổi tiếng với Nhà thánh gốc Nazareth (Nhà thánh gia của Đức Maria) được chuyển từ Nazareth tới Loreto theo truyền thuyết. Nơi này là một trong những nơi hành hương quan trọng ở Ý.
Riêng với người Việt, có lẽ Lộ Đức và Fatima là địa điểm ưa thích hơn cả. Do đó, chúng ta thử tìm những ý nghĩa của hai nơi này:
1. Hành hương về Lộ Đức
Câu hỏi đầu tiên chúng ta có thể hỏi Đức Maria: “Tại sao Mẹ lại hiện ra ở Lourdes (Lộ Đức)?”
Đức Mẹ Maria hiện ra tại Lourdes vào thế kỷ 19, một thời kỳ quan trọng trong lịch sử nước Pháp với nhiều biến động xã hội và chính trị. Dưới đây là một số điểm quan trọng về bối cảnh chính trị tại Pháp vào thời điểm đó:
Cách mạng Công nghiệp và thay đổi xã hội: Thế kỷ 19 chứng kiến sự xuất hiện và phát triển mạnh mẽ của Cách mạng Công nghiệp. Cuộc cách mạng này đã thay đổi đáng kể cách sống và làm việc của người dân. Các thành thị lớn đã nở rộ, và người dân thường phải làm việc trong điều kiện lao động khắc nghiệt.
Biến động chính trị và xã hội: Pháp đã trải qua nhiều thay đổi chính trị trong thời kỳ này, bao gồm các cuộc cách mạng và chính trị nội chiến. Sự đối đầu giữa các lực lượng cộng hòa và các lực lượng quân đội, đặc biệt là trong giai đoạn của Cách mạng Tháng 5 năm 1968, Cách mạng Pháp (1789–1799) đã tạo ra sự không ổn định chính trị và xã hội.
Sự tách biệt giữa Nhà thờ và Nhà nước: Thế kỷ 19 cũng là thời kỳ sự tách biệt giữa Giáo hội và chính quyền tại Pháp[3]. Nhiều người ví đây như là một cuộc “ly giáo”. Chính phủ Pháp đã đưa ra các biện pháp giới hạn quyền và ảnh hưởng của Giáo hội. Điều này đã tạo ra sự căng thẳng giữa Giáo hội và chính quyền. Một số người tin rằng sự hiện ra tại Lourdes có ý nghĩa đặc biệt trong bối cảnh này.
Tình trạng kinh tế khó khăn: Nhiều người dân Pháp phải đối mặt với tình trạng kinh tế khó khăn và nghèo đói trong thời kỳ này. Đức Mẹ hiện ra Lourdes như là nguồn hy vọng và sự an ủi đoàn con của Mẹ.
Những lần Đức Mẹ Lộ Đức hiện ra
Cuộc xuất hiện đầu tiên (11 tháng 2, 1858): Bernadette Soubirous là một thiếu nữ mới 14 tuổi đang tìm cỏ khô ở gần một hang động gọi là Massabielle, gần làng Lourdes. Trong lúc này, cô thấy một ánh sáng lạ kỳ; và sau đó, Đức Mẹ Maria được cho là đã xuất hiện với cô trong một ánh sáng rạng ngời, đồng thời nhắn với cô hãy đến Massabielle trong 15 ngày liên tiếp. Những lần đó Đức Maria giới thiệu mình là “Đấng vô nhiễm nguyên tội”.
Các cuộc xuất hiện tiếp theo: Bernadette trung thành với lời dặn của Đức Mẹ và đến hang Massabielle theo lịch trình. Trong những lần xuất hiện sau này, Đức Mẹ được cho là đã tiết lộ một số thông điệp riêng tư cho Bernadette và yêu cầu xây dựng một nhà thờ tại đó. Giống như ở Fatima, cô thiếu nữ này cũng bị áp lực và thách thức về sự thật của sự kiện này từ các quan chức Công giáo, dân làng và kể cả chính quyền đang đối đầu với Giáo hội.
Phát hiện nguồn nước thiêng liêng (25 tháng 2, 1858): Trong một lần, Đức Mẹ dặn Bernadette đào một lỗ ở gần hang Massabielle, và một nguồn nước bắt đầu chảy ra từ đó. Nước từ nguồn này được cho là đã có khả năng chữa lành nhiều bệnh tật và tạo nên nhiều phép lạ. Đây cũng là động lực nhiều người hành hương đến xin nước thánh này.
Xác minh và công nhận: Cuộc kiểm tra khoa học liên quan đến sự kiện tại Lourdes đã được tiến hành sau đó. Ngày 19 tháng 11 năm 1858, Ủy ban điều tra của Tòa giám mục đến hang đá lần đầu tiên. Sau khi xem xét tỉ mỉ các biến cố, tìm hiểu về Bernadette cũng như các phép lạ lành bệnh xảy ra mà các tín hữu nhận được tại hang đá Đức Mẹ, vị giám mục thừa nhận tính cách đích thực của các lần hiện ra và tuyên bố: “Mẹ Maria đã thực sự hiện ra với Bernadette Soubirous”. Cuộc hành hương chính thức đầu tiên được tổ chức ngày mùng 4 tháng 4 năm 1864 nhân dịp khánh thành và đặt bức tượng Đức Mẹ vào hang đá trong sự hiện diện của 20.000 khách hành hương.
Từ 1-3 tháng 7 năm 1876 diễn ra lễ thánh hiến Vương cung thánh đường và đội triều thiên cho tượng Đức Mẹ bởi Giáo hoàng Piô IX. Ngày 16 tháng 7 năm 1883 kỷ niệm 25 năm Đức Mẹ hiện ra và lễ đặt viên đá đầu tiên xây Vương cung thánh đường Mân Côi. Trong năm đó đã có 230 cuộc hành hương. Năm 1908 kỷ niệm 50 năm Đức Mẹ hiện ra có 157 cuộc hành hương, trong đó 76 cuộc hành hương là của các tín hữu đến từ nước ngoài, tổng cộng có hơn 1 triệu người[4].
Lộ Đức từ đó là địa điểm hành hương nổi tiếng trên thế giới. Các giáo hoàng cũng thường đến đây. Chẳng hạn Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã đến thăm Lourdes ba lần. Năm 2004 trong cuộc viếng thăm Lourdes, ngài nói: “Từ tảng đá ở động Massabielle, Trinh Nữ Maria đã hiện ra với Bernadette. Tỏ mình ra như Đấng đầy ơn phúc của Thiên Chúa, Mẹ đã kêu gọi thống hối và nguyện cầu. Mẹ đã chỉ cho Bernadette một mạch nước, và xin em uống mạch nước này. Mạch nước mới mẻ ấy đã trở thành một trong những biểu hiệu của Lộ Đức: một biểu hiệu của sự sống mới được Chúa Kitô ban cho tất cả những ai hướng về Người.”[5]
Tại sao người Việt thích hành hương về Lourdes, Pháp?
Nước Pháp nói chung và Giáo hội Pháp nói riêng có liên hệ chặt chẽ với Giáo hội Việt Nam. Chúng ta không đi vào chi tiết câu chuyện này, nhưng có thể chỉ ra vài lý do sau:
Sự tôn vinh Đức Mẹ Maria: Đức Mẹ Maria có một vị trí đặc biệt và quan trọng trong đời sống tâm linh của người Việt Nam. Lourdes là nơi mà Đức Mẹ được cho là đã xuất hiện và truyền đạt những thông điệp tới con người, và điều này tạo ra một sự kết nối mạnh mẽ với Đức Mẹ Maria và lòng tôn kính của người Việt Nam đối với Mẹ.
Sự chữa lành và niềm tin: Lourdes nổi tiếng với nước thiêng liêng được cho là có khả năng chữa lành nhiều bệnh tật và mang lại ơn thiêng. Người Việt Nam, giống như nhiều tín hữu khác trên khắp thế giới, đến Lourdes để tìm kiếm sự chữa lành cho mình hoặc người thân trong gia đình. Nhất là chúng ta cũng tin vào sự can thiệp của Đức Mẹ Maria vào lịch sử nhân loại.
Hành hương là trải nghiệm thú vị: Hành hương đến Lourdes không chỉ là một chuyến đi thiêng liêng mà còn là cơ hội để người Việt Nam kết nối với cộng đồng Công giáo quốc tế và cùng nhau tôn vinh Đức Mẹ. Nó cũng giúp họ tìm kiếm sự bình an và tăng cường niềm tin của mình.
Truyền thống và văn hóa tôn thờ: Tôn kính Đức Mẹ Maria là một phần quan trọng trong tâm thức người Công giáo Việt Nam. Ở đây, tôi dùng chữ “tôn kính”, vì chúng ta chỉ thờ một mình Thiên Chúa. Trong Hội thánh, việc tôn kính này được diễn ra một cách độc đáo trong các trung tâm hành hương kính Đức Mẹ. Chẳng hạn đến Lourdes là một cách để thể hiện lòng tôn kính và tình yêu đối với Đức Mẹ Maria và tham gia vào truyền thống thiêng liêng của Công giáo.
Kết nối với nơi hành hương khác: Ngoài việc hành hương đến Lourdes, người Việt Nam cũng thường kết hợp chuyến đi tới các điểm hành hương khác trên khắp châu Âu hoặc thế giới, chẳng hạn như Fatima ở Bồ Đào Nha, Rôma, hoặc Santiago de Compostela ở Tây Ban Nha. Điều này cho phép họ trải nghiệm và thể hiện lòng thành kính đối với Đức Mẹ và Chúa Kitô tại nhiều nơi khác nhau.
“Lạy Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa, Đấng Trinh nữ vô nhiễm nguyên tội. Mẹ đã hiện ra 18 lần với thánh Bernadette tại hang đá Lộ Đức để nhắc nhở các Kitô hữu về sự thật mà Tin Mừng đòi hỏi. Mẹ kêu gọi chúng con cầu nguyện, sám hối, tham dự Thánh Thể và sống đời sống của Hội thánh. Để đáp lại lời kêu cầu của Mẹ, con xin dâng hiến thân xác con cho con Mẹ là Đức Giêsu. Xin hãy làm cho con sẵn lòng thực hiện những gì Người dạy bảo. Nhiệt thành trong đức tin, thánh hóa trong việc làm, tận tâm với những người đau yếu, an ủi người đau khổ, giải hòa giữa mọi người và cho thế giới được hòa bình. Tất cả những điều con kêu cầu, con tin rằng sẽ được Mẹ nhận lời. Chúc tụng Maria, Mẹ Thiên Chúa, Đấng Đầu Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội, Đức Mẹ Lộ Đức, cầu nguyện cho chúng con. Thánh Bernadette, cầu cho chúng con.”
2. Về với Mẹ Fatima
Hè 2023 tôi diễm phúc được hành hương về với Đức Mẹ Fatima. Đây là một ngôi làng yên bình cách Lisbon (Bồ Đào Nha) chừng 2 giờ đi xe bus. Ngày nay là một địa điểm đón vô số phái đoàn đến cầu nguyện với Đức Mẹ. Tuy nhiên khoảng 100 năm về trước, đây là ngôi làng không ai biết đến.
Những lần Đức Maria hiện ra tại Fatima diễn ra trong sáu lần, thường được gọi là “sáu tháng liên tiếp” từ tháng 5 đến tháng 10 năm 1917. Ba trẻ, là Francisco Marto, Jacinta Marto và Lucia Santos, cho biết họ đã nhìn thấy hình ảnh Đức Mẹ xuất hiện và trò chuyện với họ. Thông điệp của Mẹ Maria nhắn cho ba trẻ rất rõ ràng: “Hãy siêng năng lần hạt; hãy cải thiện đời sống; hãy tôn sùng Trái Tim Mẹ”. Đừng quên năm Đức Mẹ hiện ra đang là thời kỳ của thế chiến thứ nhất (1914-1918).
Mẹ kêu gọi đến cầu nguyện: Đức Mẹ Fatima nhiều lần kêu gọi ba đứa trẻ và tất cả những người tin vào Chúa cầu nguyện hàng ngày. Đức Mẹ ước mong tất cả mọi người thường xuyên dâng lời cầu nguyện để giữ cho thế giới và linh hồn của họ được bình an.
Lời tiên tri về Thế chiến thứ hai: Trong sứ điệp Fatima, Đức Mẹ đã tiên đoán về cuộc Thế chiến thứ hai, cảnh báo về một thảm kịch toàn cầu và kêu gọi mọi người cầu nguyện và sám hối để ngăn chặn sự xảy ra của nó.
Bí mật Fatima: Trong khi Đức Mẹ Fatima hiện ra giữa tháng 5 và tháng 10 năm 1917, Đức Trinh nữ Maria trao cho ba trẻ chăn chiên ba bí mật[6].
Bí mật đầu tiên: là một thị kiến về hỏa ngục vốn rất gây sốc cho ba trẻ nhỏ. Sau đó, các em thành tâm cầu nguyện để các tội nhân được hoán cải. Dù thị kiến này xảy ra khoảnh khắc chỉ một lần, nhưng cũng đủ để ta nhớ mãi. Lời tiên tri vĩ đại nhất này nhắc nhớ rằng:
“Có ma quỷ và có các linh hồn rơi vào biển lửa khủng khiếp với những tiếng khóc than đau đớn và tiếng kêu ngào tuyệt vọng. Nó gây nên nỗi kinh khiếp và khiến họ run rẩy sợ hãi.”
Thứ hai là bí mật tiên tri. Đức Maria nói với các trẻ chăn cừu rằng nếu con người tiếp tục xúc phạm đến Thiên Chúa, Chiến tranh thế giới thứ hai sẽ xảy ra. Mẹ cũng thông báo về sự sụp đổ của chế độ độc tài thời đó, và hệ quả là Giáo hội và Đức Giáo Hoàng bị bắt hại.
Để tránh ba tai họa này, Đức Mẹ đề nghị hãy thiết lập việc tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ Maria trên toàn thế giới và chính Đức Giáo Hoàng dâng nước Nga cho Mẹ vốn là điều Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã làm vào tháng 3 năm 1984.
Bí mật thứ ba của Fatima gồm thị kiến khác. Các mục tử thấy một đức giám mục trong trang phục màu trắng vốn ám chỉ Đức Giáo Hoàng bị giết cùng với các linh mục, tu sĩ và giáo dân trong nhiều tầng lớp của xã hội.
Bí mật này đã sáng tỏ khi những bách hại mà Giáo hội phải chịu đau khổ trong suốt thế kỷ 20, đặc biệt dưới bàn tay những nhà độc tài. Chính Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nhận ra thị kiến này ngang qua cuộc tấn công ám sát ngài.
Dù những bí mật này nói về những sự kiện trong quá khứ, nhưng luôn có một sợi chỉ đỏ trong ba bí mật này là: ăn năn hoán cải và trở về với Thiên Chúa. Đây là sứ điệp trường tồn của thông điệp Fatima, và cũng là ý nghĩa đích thực của hành hương.
Sứ điệp Fatima đã có sự tác động rất lớn đên người Công giáo trên toàn thế giới. Nó đã thúc đẩy nhiều người cầu nguyện và tham gia hoạt động bác ái và sám hối. Ngoài ra, Đức Mẹ Fatima cũng được tôn vinh qua việc xây dựng các nhà thờ và đền thờ tại nhiều nơi trên thế giới. Tại Việt Nam có nhà nơi hành hương Fatima Bình Triệu.
Mẹ Fatima với các tín hữu Việt Nam?
Mẹ Fatima có một vai trò đặc biệt trong lòng các tín hữu Công giáo tại Việt Nam. Đức Mẹ Fatima được tôn vinh và yêu mến sâu sắc trong cộng đồng Công giáo Việt Nam, và các cuộc hành hương đến Fatima cũng được tổ chức từ Việt Nam để tôn vinh và cầu nguyện trước Đức Mẹ Maria tại Fatima, Bồ Đào Nha.
Có một số lý do mà Đức Mẹ Fatima có tầm quan trọng đối với các tín hữu Việt Nam:
Bối cảnh: Trong thời kỳ đối diện với những khó khăn và thách thức trong lịch sử, các tín hữu Công giáo Việt Nam đã tìm sự động viên và niềm tin trong thông điệp của Đức Mẹ Fatima. Đặc biệt là trong thời kỳ chiến tranh và cuộc khủng hoảng, Mẹ Fatima đã được coi là nguồn tinh thần và hy vọng.
Sự ủng hộ và bảo vệ: Đức Mẹ Fatima được xem là Mẹ bảo vệ và sự che chở cho các tín hữu Việt Nam trong những thời kỳ khó khăn. Các tín đồ Công giáo Việt Nam thường cầu nguyện và đón nhận sự ủng hộ của Mẹ Fatima trong cuộc sống hàng ngày và trong những nghi thức tôn giáo.
Cuộc hành hương: Các tín hữu Việt Nam thường tổ chức các cuộc hành hương đến Fatima như một dịp để tôn vinh và cầu nguyện trước Đức Mẹ Maria. Các cuộc hành hương này thường diễn ra vào những ngày lễ đặc biệt, và họ đến Fatima để cầu nguyện cho sự bình an và ơn lành cho mình và cho quê hương.
Hoặc mới đây, khi làm phép nhà hành hương Đức Mẹ Lavang tại Fatima[7], Đức Tổng Giuse cũng nêu bật một lý do khác: “Dân Chúa tại Việt Nam từ lâu đã có lòng sùng kính đặc biệt đối với Đức Mẹ Fatima”, chính vì lý do chính yếu ấy, Đức Tổng cầu mong rằng Nhà Mẹ Lavang-Fatima sẽ “là nơi mọi tín hữu Công Giáo Việt Nam khắp bốn phương có thể đến kín múc tình thương và ơn cứu độ của Chúa qua bàn tay từ mẫu của Đức Mẹ”.
Vài điều nhỏ giúp đến gần Đức Maria
Khi bạn đi hành hương đến Đức Mẹ Fatima hoặc bất kỳ nơi hành hương nào, có một số điều lưu ý quan trọng để đảm bảo bạn có trải nghiệm an lành, tôn trọng và thiêng liêng. Dưới đây là một số điều bạn nên lưu ý:
Trang phục: Hãy mặc trang phục kín đáo và tôn trọng khi tham quan các địa điểm linh thiêng. Tránh mặc áo quá ngắn hoặc quá hở, và nếu cần, đội nón hoặc che đầu nếu yêu cầu.
Tôn trọng lễ nghi: Nếu có các lễ nghi diễn ra trong thời gian bạn đi hành hương, hãy tham gia và thể hiện sự tôn trọng. Tắt chuông điện thoại và giữ im lặng.
Đọc và tìm hiểu: Trước khi đi hành hương, hãy đọc và tìm hiểu về lịch sử và thông điệp của nơi linh thiêng đó. Điều này sẽ giúp bạn hiểu hơn về ý nghĩa của nơi đó và cách tham gia một cách tôn trọng.
Cầu nguyện và tôn vinh: Khi đến nơi hành hương, hãy dành thời gian để cầu nguyện, tôn vinh và cảm ơn. Đây là cơ hội để bạn thể hiện lòng kính trọng và tình cảm đối với nơi linh thiêng và Đức Mẹ Fatima.
Giữ vệ sinh: Đảm bảo giữ gìn vệ sinh cá nhân và không làm bẩn hoặc gây hại đến môi trường xung quanh.
Tôn trọng người khác: Khi tham quan nơi hành hương, hãy tôn trọng người khác và không gây phiền họ. Hãy chú ý đến hướng dẫn và quy tắc của nơi đó.
Mang theo nhu yếu phẩm: Hãy mang theo nhu yếu phẩm như nước uống, thức ăn nhẹ và một chút tiền mặt nếu cần. Tuy nhiên, hãy nhớ không xả rác.
Tuân theo quy định: Tuân theo mọi quy định và hướng dẫn của nơi hành hương. Điều này bao gồm việc chấp nhận việc kiểm tra an ninh nếu cần.
Giữ bầu khí tĩnh lặng: Hầu hết các nơi hành hương yêu cầu sự yên tĩnh và tĩnh lặng. Hãy tuân theo các quy tắc này và không làm ồn hoặc gây ra tiếng ồn không cần thiết.
Sau cùng trong thiên niên kỷ thứ ba, Mẹ Maria vẫn hướng dẫn cuộc hành hương của những người theo Chúa Giêsu, như Mẹ đã làm cách đây một thế kỷ tại Bồ Đào Nha, ở Fatima, khi Mẹ ngỏ lời với ba trẻ em, trao phó cho các em sứ điệp đức tin và hy vọng cho Giáo hội và trong thế giới. Theo đó, Đức Thánh Cha Phanxicô chia sẻ rằng: “Tôi đã trở lại Fatima, đến nơi Đức Mẹ hiện ra, và cùng với một số bệnh nhân trẻ, tôi đã cầu xin Thiên Chúa chữa lành thế giới khỏi những bệnh tật của tâm hồn: sự kiêu ngạo, dối trá, thù hận, bạo lực, là những căn bệnh tâm hồn và thế giới bị nhiễm những thứ bệnh này. Và chúng tôi đã tái thánh hiến châu Âu, thế giới cho Trái tim của Mẹ Maria, Trái tim vẹn sạch Mẹ Maria. Tôi đã cầu nguyện cho hòa bình bởi vì có nhiều cuộc chiến ở khắp các nơi trên thế giới”.[8]
3. Vài nguyên nhân khác giúp dậy sóng các cuộc hành hương Đức Mẹ
- Công giáo Tiến hành
Người hành hương tự bản chất muốn đến cầu nguyện với hai địa điểm liên quan đến Đức Maria trên đây. Tuy nhiên trong lòng Giáo hội cũng có những thay đổi trong thời kỳ này nơi Đức Giáo Hoàng Piô XI và Piô XII. Số là sau thế chiến thứ I (1918), Giáo hội có những hoạt động chuyên biệt cho người giáo dân, bổ túc cho hoạt động giáo sĩ, và trong hoạt động này người giáo dân có một vai trò không thể thay thế. Đức Piô XI đặc biệt xem trọng vai trò của giáo dân trong tổ chức “Công Giáo tiến hành”[9]. Có lần ngài viết: “Công giáo Tiến hành không gì khác hơn là hoạt động tông đồ của giáo dân, dưới sự hướng dẫn của giám mục, họ sẵn sàng giúp Giáo hội của Thiên Chúa và bằng một cách nào đó, họ bổ túc hoạt động mục vụ.” Một trong những mục vụ phổ biết là tổ chức những cuộc hành hương.
Thời kỳ thế chiến thứ nhất và thứ hai, người ta nhận thấy lòng sùng mộ Ðức Trinh Nữ Maria lan tràn quá mau và quá rộng. Phong trào này thực ra đã âm ỷ tại Pháp, đã phát triển lâu đời không những ở Tây Ban Nha và cả châu Mỹ La Tinh. Bên cạnh Lộ Ðức, một trung tâm quốc tế mới xuất hiện tại Fatima, tầm mức quan trọng của hai trung tâm này không ngừng lớn mạnh dưới triều Đức Piô XII. Thêm vào những hình thức cổ truyền, như phát động những việc đạo đức vào tháng năm, những cuộc hành hương, tổ chức các hội nghị quốc gia và quốc tế về Thánh Mẫu, thiết lập những lễ mới về Ðức Trinh Nữ trong phụng vụ v.v... Phong trào Công giáo Tiến hành luôn đi đầu trong những việc đạo đức bình dân này.
Tại Việt Nam, phong trào này đã và đang phát triển ở hai hình thức như: Công giáo Tiến hành phổ quát gồm các tổ chức, đoàn thể dành cho mọi tín hữu như hội Legio Maria (Ðạo Binh Ðức Mẹ), Gia Đình Phạt Tạ, các Dòng Ba. Ngoài ra phong trào này còn dành cho những giới chuyên biệt hơn: công nhân, giáo chức, sinh viên, thanh sinh công, thiếu nhi Thánh Thể, hùng tâm dũng chí, v.v. Nhất là sau khi Tòa Thánh phê chuẩn Hiến chương Công giáo Tiến hành (tháng 11 năm 1956). Các giám mục Việt Nam khích lệ phong trào này mạnh mẽ hơn.
Chắc tôi không giải thích thêm về những phong trào trên đây. Lý do là quý vị đã và đang sống trong bầu không khi của thời kỳ này. Nhất là trước 1975, phong trào đã ảnh hưởng đến mọi tầng lớp. Hiện nay, phong trào này càng được khôi phục và đang có tác động rất lớn đến đời sống của Giáo hội. Kể cả tâm thức hành hương đến với Mẹ Maria cũng luôn đau đáu trong quý vị.
- Thánh Mẫu học
Trước thế kỷ XX, nền thần học về Đức Maria không phát triển nhiều. Với những lần hiện ra của Mẹ cộng với lòng đạo đức hành hương, tôn kính Đức Mẹ, nền thần học này ngày càng được chú trọng. Từ năm 1926 có nhiều xuất bản về Thánh Mẫu học có đặc tính thần học chuyên biệt. Giáo hội tuyên tín tín điều Ðức Mẹ Lên Trời năm 1950 và kỷ niệm 100 năm tuyên bố Ðức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội năm 1954 đã đánh dấu cao điểm cuối cùng của phong trào Thánh Mẫu. Đó là chưa kể những thay đổi trong phụng tự đã giúp các tín hữu cảm nhận gần hơn nữa sự trìu mến của Đức Maria.
- Hai cuộc thế chiến
Khi con người sống giữa làn tên mũi đạn, tâm tình thiêng liêng có thể được đẩy lên cao. Điều này cũng đúng trong hai cuộc thế chiến. Ai cũng muốn kết thúc chiến tranh, nhưng không biết phải làm cách nào. Ngoài chiến trường mỗi lúc một khốc liệt. Trong cuộc sống nguy hiểm đầy khó khăn ấy, phong trào cầu nguyện mỗi lúc một mạnh hơn. Họ cầu nguyện với Thiên Chúa và Đức Mẹ.
Nguyện cầu cho hòa bình. Trong bối cảnh chiến tranh và khủng bố, sự kính trọng Đức Maria cũng thể hiện qua việc người Công giáo cầu nguyện cho hòa bình thế giới và để kết thúc cuộc chiến. Đức Maria như là biểu tượng của tình yêu và lòng khoan dung, và các người tín hữu tôn vinh Mẹ trong việc cầu nguyện cho hòa bình.
Cầu nguyện cho hòa bình với Đức Maria trong hai Thế chiến thường bao gồm: lần chuỗi Mân côi, ăn năn đền tội, đi hành hương, v.v. Dưới đây là một số cách mà cầu nguyện cho hòa bình với Đức Maria đã thể hiện trong hai cuộc Chiến tranh thế giới:
Thế chiến thứ nhất (1914-1918):
Sự kính trọng Đức Maria qua các lễ hội: Trong nhiều quốc gia Công giáo, các lễ hội và sự kiện tôn vinh Đức Maria thường được tổ chức trong thời gian chiến tranh. Người dân thường tham gia vào các cuộc diễu hành và lễ kính Đức Maria để cầu nguyện cho hòa bình và sự bảo vệ.
Việc nguyện cầu với Đức Maria: Người tín hữu thường cầu nguyện với Đức Maria, van xin Mẹ can thiệp và xin ơn lành để kết thúc cuộc chiến và lặp lại hòa bình.
Việc tôn vinh hình ảnh Đức Maria trong các ngôi thánh đường và khuôn viên công cộng: Trong nhiều nơi, hình ảnh Đức Maria được đặt ở các ngôi thánh đường, bảo tàng, và khuôn viên công cộng để thúc đẩy lòng kính trọng và cầu nguyện cho hòa bình.
Thế chiến thứ hai (1939-1945):
Lễ hội và cuộc diễu hành: Trong Thế chiến thứ hai, nhiều nước Công giáo tổ chức các cuộc lễ hội và cuộc diễu hành tôn vinh Đức Maria.
Việc nguyện cầu bằng kinh Mân Côi: Kinh Mân Côi là một biểu tượng quan trọng của Đạo Công giáo và thường được sử dụng trong cầu nguyện cho hòa bình. Đây cũng là lời mời gọi của Mẹ khi Mẹ hiện ra tại Fatima.
Công trình xây dựng và tượng đài tôn vinh Đức Maria: Trong Thế chiến thứ hai, nhiều công trình và tượng đài được xây dựng để tôn vinh Đức Maria và tạo nơi để người dân có thể tập trung cầu nguyện cho hòa bình.
Để kết thúc bài này, chúng ta nghe lại lời mời gọi của Đức Giáo Hoàng Phanxicô:
“Ngày nay, Đức Maria là Người Mẹ luôn trông chừng con cái, là chúng ta, những đứa con của Mẹ, đang bước đi trong cuộc đời, thường mệt mỏi và thiếu thốn, nhưng ước mong rằng ánh sáng hy vọng sẽ không bị tắt. Đó là điều chúng ta mong ước: rằng ánh sáng hy vọng sẽ không bao giờ tắt. Đức Maria, Mẹ chúng ta nhìn đến dân hành hương này: một dân của những người trẻ mà Mẹ yêu thương, một dân đang tìm Mẹ trong thinh lặng của con tim giữa mọi ồn ào, huyên náo và sao lãng của cuộc hành trình. Nhưng dưới cái nhìn của Mẹ chúng ta, chỉ có chỗ cho sự im lặng của hy vọng. Vì thế, Đức Mẹ một lần nữa chiếu sáng tuổi trẻ của chúng ta.” (Tông huấn Christus Vivit, số 48).
Trích trong tập sách Ý nghĩa và lịch sử của hành hương, Nxb Tôn Giáo, 03/2024
______
[1] Tông huấn Niềm vui của Tin mừng - Evangelii Gaudium, số 286, https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/tong-huan-niem-vui-cua-tin-mung-evangelii-gaudium-46656
[2] Ân xá là ơn xóa bỏ các hình phạt tạm thời tội nhân nhân còn phải chịu sau khi tội được tha. Có thể Giáo hội tha một phần (tiểu xá), hoặc tha toàn phần (đại xá) hình phạt mà đáng lẽ hối nhân phải chịu dù đã được tha tội.
[3] Cuộc cách mạng đã đem lại sự chuyển dịch quyền lực lớn từ Giáo hội Công giáo La Mã sang Nhà nước. Luật ban hành năm 1790 bao gồm cả việc bãi bỏ quyền đánh thuế trên vụ mùa (còn được gọi là "dîme") của Giáo hội, việc xóa bỏ những đặc quyền của giới giáo sĩ, và sung công tài sản Giáo hội, người sau đó sở hữu nhiều đất đai nhất trên toàn quốc. Đi cùng với cuộc cách mạng là cú phản đòn dữ dội về phe giáo chức mà kèm theo đó là bắt bớ và thảm sát các linh mục trên toàn đất Pháp. Điều ước năm 1801 giữa Quốc hội và Giáo hội đã chấm dứt thời kỳ bài Công giáo và thiết lập nên những luật lệ cho mối quan hệ giữa Giáo hội Công giáo và Nhà nước Pháp. Điều ước này tồn tại cho đến khi bị hủy bỏ bởi nền Đệ Tam Cộng hòa nước Pháp để tách biệt giữa Giáo hội và nhà cầm quyền vào ngày 11 tháng 12 năm 1905. (theo Wikipedia).
[4] https://vi.wikipedia.org/ (Đức Mẹ Lộ Đức)
[5] Như trên
[6] Chuyển ngữ từ Romereports
[7] Địa chỉ nhà có thể tạm trú cho người Việt tại Fatima: Estrada da Moita do Martinho N. 25, Cova da Iria, 2495-406 FATIMA.
[8] https://www.vaticannews.va/vi/pope/news/2023-08/tiep-kien-chung-09-08-2023.html
[9] Đức Giáo Hoàng Piô XI đã thành lập phong trào này năm 1930 (x. Ubi Arcano, 54).
(Nguồn: WHĐ)