02/04/2023
690
Ủy Ban Giáo Dân: Các bài thường huấn tháng 03-2023
























 

CÁC BÀI THƯỜNG HUẤN THÁNG 03-2023
 

BAN NGHIÊN HUẤN

UỶ BAN GIÁO DÂN TRỰC THUỘC HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM

BIÊN SOẠN

BÀI I

NGƯỜI GIÁO DÂN ĐỒNG TRÁCH NHIỆM TRONG SỨ VỤ CỦA GIÁO HỘI

 

Lm Antôn Hà Văn Minh

 

Công đồng Vat.II trong Hiến chế tín lý “Lumen Gentium” đã nói về Giáo Hội như Dân Thiên Chúa, Công Đồng đã triển khai một cái nhìn toàn diện về người giáo dân. Công Đồng đã nỗ lực vượt qua quan điểm cũ được trình bày trong bản dự thảo của Hiến chế này. Theo đó linh mục và giáo dân vẫn là hai thành phần hoàn toàn đối nghịch nhau, linh mục đứng trên giáo dân, và ngược lại giáo dân là “thứ dân”. Hàng giáo phẩm mới là Giáo Hội, còn giáo dân chỉ là “dân”[1]

Trong chương hai của Hiến chế Công Đồng nỗ lực đưa ra cái nhìn đúng đắn về bản chất của chức linh mục và giáo dân: Hàng giáo phẩm là dân, và giáo dân cũng là Giáo Hội. Cả hai tạo nên một Dân Chúa mới, Dân Thiên sai, Dân Chúa trong Đức Kitô. Dân này không phải được kiến tạo bởi phẩm trật hay bởi giáo dân, nhưng bởi chính Chúa Giêsu Kitô. Người kêu gọi cả hai, Người thấm nhập vào đời sống của cả toàn Dân Chúa. Người chính là niềm hy vọng của Dân mới này. Qua Phép Rửa, Người nâng toàn Dân Chúa lên cao. Như là Tiên tri, Người dạy dân Người, như là vương đế, Người hướng dẫn dân và như là linh mục, Người thánh hoá dân. Do đó, Giáo Hội không tự mình thiết lập nên mình, nhưng chính Đức Kitô. Thật vậy, “Giáo Hội không hiện hữu vì chính mình; mà đúng hơn, Giáo Hội là dụng cụ Thiên Chúa dùng để tụ họp nhân loại lại nơi Người và để chuẩn bị cho thời điểm khi ‘Thiên Chúa là tất cả cho tất cả’ (1Cor 15:28)”[2]. Giáo Hội tồn tại nhờ tham dự vào chức vụ của Đức Kitô. Chính Người thánh hoá, hướng dẫn và dạy dỗ Dân Người qua Giáo Hội. Các tác vụ của Giáo Hội là các tác vụ của Đức Kitô, các nhiệm vụ của Giáo Hội là thiết chế tiếp tục trao ban sự sống và giáo huấn của Người. Con người được tháp nhập vào Giáo Hội qua việc gặp gỡ với Đức Kitô. Người chính là “Nhiệm vụ” của Giáo Hội. 

 

1. “Tính trần thế” của người giáo dân

Công đồng minh định rằng, Nhiệm vụ của Giáo hội không dành riêng cho các mục tử, nhưng thuộc về toàn thể Dân Chúa. Công đồng trình bày một yếu tố cơ bản nơi giáo dân: tính trần thế . Đó như một đặc tính của người tín hữu giáo dân. “Tính chất trần thế đặc tính riêng biệt và đặc thù của giáo dân”. Đôi khi “tính trần thế” này đã được giải thích như là một yếu tố tạo ra sự phân biệt: giáo dân thực hiện những nhiệm vụ liên quan đến đời sống trần thế, trong khi các giáo sĩ và tu sĩ được trao phó  chức năng phục vụ cho những nhu cầu thiêng liêng, mặc dù trên thực tế vẫn có những người không phải là giáo dân cũng có thể đảm nhiệm một nghề nghiệp mang tính trần thế, nhưng tự bản chất điều này không làm cho họ trở nên “trần thế”

Chắc chắn tính thế trần góp phần vào sự khác biệt nhất định giữa giáo dân, giáo sĩ và đời sống thánh hiến. Và điều gì liên kết mọi thành phần Dân Chúa mạnh mẽ đến nỗi vượt qua được mọi ranh giới của sự phân biệt này? Công đồng cố gắng giải thích đằng sau lối sống của giáo dân có kế hoạch của Thiên Chúa, một kế hoạch của riêng Ngài như thế nào. Thật vậy, chúng ta nói về ơn gọi, về ơn gọi của Thiên Chúa, về một nhiệm vụ cụ thể: sắp đặt các thực tại. thuận theo ý trời, sống ở thế gian

Giáo sư Luis Navarro đã nhận định: “Tùy theo ơn gọi của mình, người giáo dân phải tìm kiếm Nước Thiên Chúa bằng cách xử dụng những điều thuộc về thế gian và sắp đặt theo ý Thiên Chúa. Họ sống trên đời, tức là tham gia vào mọi bổn phận và công việc khác nhau của thế giới và trong những điều kiện bình thường của đời sống gia đình và xã hội, mà sự tồn tại của họ là như dệt. Ở đó, họ được Chúa mời gọi đóng góp, hầu như từ bên trong theo một cách nào đó để trở thành men, hầu thánh hóa thế giới bằng cách thi hành chức vụ của mình dưới sự hướng dẫn của tinh thần Phúc âm, qua đó, họ bày tỏ Chúa Kitô cho những người khác, chủ yếu là gương sáng bằng chính cuộc sống của họ, một gương sáng chói ngời  đức tin, đức cậy và đức ái” [3].

Theo Công đồng Vaticano II, người giáo dân thể hiện đời sống Giáo Hội không chỉ đối với các bổn phận trong trần gian, nhưng còn  đối với những nhiệm vụ trong Giáo Hội. Công Đồng khẳng định chỗ đứng cơ bản của mỗi một người Kitô hữu trong Giáo Hội, và chỗ đứng đó luôn bao gồm các nhiệm vụ của Đức Kitô. Mọi hành động mang tính Giáo Hội của người giáo dân đều thuộc về Giáo Hội, các hành động này bắt nguồn từ bí tích Rửa tội. Thật vậy, qua Bí tích Rửa tội mọi Kitô hữu đều được dự phần vào ba chức vụ của Chúa Kitô: Ngôn sứ, tư tế và vương đế. Vì thế, mặc dầu người Giáo dân là những người không có chức thánh, nhưng họ cũng được ủy thác thi hành nhiệm vụ Giáo Hội theo cách thức của họ, có nghĩa họ thi hành sứ mệnh của toàn thể dân Kitô giáo trong Giáo Hội và trên trần gian theo phận vụ riêng của mình (x. LG số 31)[4]. Chẳng hạn, đối với việc thực thi nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng, cha mẹ trong khi dưỡng dục con cái, cũng đã thực thi nhiệm vụ này [5], vì dưỡng dục cũng chính là một nhiệm vụ thiêng liêng. Người ta chu toàn nhiệm vụ này nhân danh Đức Kitô, và chính Chúa cho cha mẹ cái thẩm quyền ấy. Bổn phận như thế có nghĩa là nhiệm vụ trong Giáo Hội. Đó là nhiệm vụ cơ bản của Giáo Hội. Và đó cũng chính là Giáo Hội.

(còn tiếp)

 BÀI II

Sự Dấn Thân Của Kitô Hữu Theo GHXHCG

(Tóm lược GHXHCG số 541 – 574)

LM Giuse Lê Quốc Thăng

(Tiếp theo)

3. Phục vụ trong lĩnh vực kinh tế: Đối diện với những phức tạp của bối cảnh kinh tế ngày nay, tín hữu giáo dân sẽ được các nguyên tắc của Huấn Quyền về xã hội dẫn dắt trong những hành động của họ. Nhất thiết phải biết đến và chấp nhận các nguyên tắc này trong chính lĩnh vực hoạt động kinh tế. Khi không biết đến các nguyên tắc ấy, trên hết là nguyên tắc con người phải là trọng tâm của mọi hoạt động kinh tế, thì phẩm chất của hoạt động kinh tế bị tổn thương.

Sự dấn thân của các Kitô hữu cũng sẽ được diễn tả thành một nỗ lực tư duy có tính văn hoá mà mục tiêu là phân định những mô hình phát triển kinh tế và xã hội đương thời. Giản lược chủ đề phát triển hoàn toàn vào vấn đề kỹ thuật sẽ tước đoạt nội dung đích thực của phát triển, một nội dung liên quan đến “phẩm giá của các cá nhân và dân tộc”.

Các nhà kinh tế, những người làm việc trong lĩnh vực này và những nhà lãnh đạo chính trị phải ý thức được nhu cầu cấp bách là phải xem xét lại nền kinh tế, một mặt là xét đến sự nghèo túng bi thảm về vật chất của hàng tỷ người, và mặt khác, xét đến một sự thật là “các cơ cấu kinh tế, xã hội, văn hoá hiện nay không được trang bị đầy đủ để đáp ứng những đòi hỏi của sự phát triển chính đáng”. Những yêu cầu hợp lý về năng suất kinh tế cần phải làm cho hài hoà hơn với những yêu cầu tham gia chính trị và công bằng xã hội. Nói một cách cụ thể, điều này có nghĩa là sự liên đới phải là thành phần không thể thiếu trong mạng lưới lệ thuộc lẫn nhau về kinh tế, chính trị và xã hội mà tiến trình toàn cầu hoá hiện nay đang có khuynh hướng củng cố. Trong nỗ lực xem xét lại này, người ta thấy các thực thể kinh tế được tổ chức tốt và đang mang lại hiệu quả, các hiệp hội có nguồn cảm hứng Kitô giáo năng động trong lĩnh vực kinh tế – chẳng hạn như các tổ chức công nhân, các nhà lãnh đạo doanh nghiệp và các nhà kinh tế – đóng một vai trò quý giá.

4. Phục vụ trong lĩnh vực chính trị : Đối với tín hữu giáo dân, việc tham gia vào chính trị là một hành động thích đáng và đòi hỏi nhiều nỗ lực để biểu lộ sự dấn thân của Kitô hữu trong việc phục vụ người khác. Việc theo đuổi công ích trong tinh thần phục vụ, việc phát triển công lý với sự quan tâm đặc biệt đến những tình trạng đói nghèo và đau khổ, việc tôn trọng quyền tự trị của các thực tại trần thế, nguyên tắc bổ trợ, việc cổ vũ đối thoại và hoà bình trong bối cảnh của tình liên đới: đó là những tiêu chuẩn phải gợi hứng cho người giáo dân trong hoạt động chính trị của họ. Tất cả các tín hữu, trong tư cách là người có quyền lợi và bổn phận công dân, đều buộc phải tuân thủ những nguyên tắc hướng dẫn này. Còn những ai đang nắm giữ những vị trí trong các tổ chức xử lý các vấn đề phức tạp thuộc lĩnh vực công, bất kể trong bộ máy hành chính địa phương hay trong những cơ quan quốc gia và quốc tế, cần phải quan tâm đặc biệt để tuân thủ các nguyên tắc đó.

- Đối mặt với những tình huống liên quan tới những bổn phận căn bản và hết sức cần thiết của luân lý, cần nhắc lại rằng việc làm chứng của Kitô hữu được coi là một bổn phận nền tảng, bổn phận này thậm chí có thể dẫn tới việc hy sinh mạng sống mình, tới việc tử vì đạo nhân danh tình yêu và phẩm giá con người. Lịch sử của 20 thế kỷ đã qua, cũng như thế kỷ vừa qua, đầy dẫy những vị tử vì đạo cho sự thật Kitô giáo. Họ là những chứng nhân của niềm tin, của hy vọng và tình yêu được xây dựng trên nền tảng Tin Mừng. Ân phúc tử vì đạo là một bằng chứng của người được đồng hình đồng dạng với Đức Kitô chịu đóng đinh, biểu hiện bằng hình thức cao cả nhất là đổ máu mình ra theo đúng giáo huấn của Tin Mừng: “Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất và chết đi... nó sẽ sinh nhiều bông hạt.

- Sự dấn thân về mặt chính trị của những tín hữu Công giáo thường được đặt trong bối cảnh “quyền tự chủ” của Nhà Nước, nghĩa là phân biệt giữa các lĩnh vực chính trị và tôn giáo. Sự phân biệt ấy “là một giá trị mà Giáo hội Công giáo đã đạt được và nhìn nhận, và thuộc về di sản của một nền văn minh hiện đại”. Tuy nhiên, học thuyết xã hội bác bỏ một cách rõ ràng những viễn tượng của quyền tự chủ được hiểu theo nghĩa độc lập với luật luân lý: “Sự ‘tự chủ’ này trước tiên quy chiếu tất cả về thái độ của con người tôn trọng những sự thật phát xuất từ sự hiểu biết tự nhiên có liên quan đến đời sống con người trong xã hội, ngay cả khi những sự thật ấy có thể được dạy bởi một tôn giáo riêng biệt, vì sự thật là chỉ có một”. Việc chân thành truy tìm sự thật, sử dụng những phương tiện hợp pháp nhằm đẩy mạnh và bảo vệ những sự thật luân lý liên quan đến đời sống xã hội – công lý, tự do, tôn trọng sự sống và những quyền lợi của người khác – là một quyền lợi và bổn phận của mọi thành viên của cộng đồng xã hội và chính trị.

- Nguyên tắc tự chủ liên quan đến việc Nhà Nước phải tôn trọng mọi niềm tin tôn giáo, sự tôn trọng này “bảo đảm cho những cộng đồng tín hữu được tự do thi hành những sinh hoạt nghi lễ tâm linh, văn hoá và bác ái của mình. Trong một xã hội đa nguyên, thế tục là một nơi dành cho sự giao lưu giữa những truyền thống tâm linh khác nhau với Nhà Nước”. Tiếc thay, ngay cả trong xã hội dân chủ, vẫn còn những biểu hiện bất bao dung mang tính thế tục, thù nghịch đến độ từ chối bất cứ hình thức nào liên quan đến niềm tin tôn giáo về mặt chính trị và văn hoá. Một sự bất bao dung như thế tìm cách khai trừ hoạt động của các Kitô hữu ra khỏi các lĩnh vực xã hội và chính trị, vì những Kitô hữu cố gắng gìn giữ những sự thật được Giáo Hội chỉ dạy và tuân thủ bổn phận luân lý để hành động cho phù hợp với lương tâm của họ. Những thái độ thù nghịch đó thậm chí đã tiến xa tới mức phủ nhận cách cực đoan nền tảng của luân lý tự nhiên. Sự phủ nhận này là dấu hiệu báo trước sự hỗn loạn về luân lý với hậu quả đương nhiên là kẻ mạnh sẽ lấn át người yếu, điều đó không thể được chấp nhận dưới bất cứ hình thức nào bởi chủ nghĩa đa nguyên hợp pháp, vì nó làm xói mòn những nền móng thực sự của xã hội loài người. Trong sự hiểu biết tình trạng của những sự việc này, “việc gạt Kitô giáo ra bên lề… không báo trước điềm hay cho tương lai hay cho sự đồng thuận giữa các dân tộc; thực ra, nó còn đe doạ chính những nền tảng tinh thần và văn hoá của nền văn minh”

- Một lĩnh vực đặc biệt cho sự phân định về phía tín hữu giáo dân liên quan tới việc lựa chọn những phương tiện chính trị, nghĩa là việc làm thành viên trong một đảng phái hay trong những hình thức tham gia chính trị khác. Đây phải là một lựa chọn nhất quán với các giá trị và lưu tâm đến những hoàn cảnh hiện nay. Trong bất cứ trường hợp nào, mỗi lựa chọn được thực hiện phải bắt nguồn từ lòng bác ái và hướng tới việc đạt được công ích. Một thực thể chính trị duy nhất khó có thể đáp ứng đầy đủ những mối quan tâm của niềm tin Kitô giáo; việc yêu cầu một đảng phái hay một liên minh chính trị đáp ứng đầy đủ những đòi hỏi của niềm tin hoặc của đời sống Kitô hữu có thể làm tăng lên những sai lầm nguy hiểm. Các Kitô hữu không thể tìm được một đảng phái hoàn toàn phù hợp với tất cả những yêu cầu đạo đức phát xuất từ niềm tin và từ tư cách là thành phần trong Giáo Hội. Sự gắn bó của họ với một tổ chức chính trị sẽ không bao giờ mang tính ý thức hệ nhưng luôn với tinh thần phê phán; bằng cách này, đảng phái và chính trường của đảng phái sẽ được thúc bách để càng ý thức hơn trong việc đem đến công ích thật sự, bao gồm cả cứu cánh thiêng liêng của con người.

- Cần phải phân biệt một bên là những đòi hỏi của niềm tin và những lựa chọn chính trị - xã hội, và bên kia là những lựa chọn được thực hiện bởi các cá nhân Kitô hữu và cộng đồng tín hữu với đầy đủ tư cách của nó. Sự phân biệt ấy có nghĩa là việc gia nhập làm thành viên trong một đảng phái hoặc trong một liên minh chính trị phải được coi như một quyết định cá nhân, mang tính hợp pháp ít là trong giới hạn của các đảng phái và của những lập trường không đối nghịch với niềm tin và các giá trị Kitô giáo. Tuy nhiên, việc chọn lựa một đảng phái, một liên minh chính trị, và cả những con người mà cuộc sống công chúng được trao phó cho họ tuy có liên quan đến lương tâm của mỗi người, nhưng không bao giờ có thể là một lựa chọn hoàn toàn cá nhân. “Đây là việc của cộng đồng Kitô hữu để phân tích một cách khách quan tình trạng đặc biệt của riêng đất nước họ, để chiếu rọi lên tình trạng đó ánh sáng của lời bất diệt là chính Tin Mừng và để rút ra từ giáo huấn xã hội của Giáo Hội những nguyên tắc tư duy, những tiêu chuẩn phán đoán và những hướng dẫn cho hành động”. Trong bất cứ trường hợp nào, “không ai được phép khẳng định rằng ý kiến của riêng mình chính là ý kiến của thẩm quyền trong Giáo Hội”; các tín hữu tốt hơn là nên “cố gắng hướng dẫn nhau qua đối thoại chân thành trong tinh thần bác ái hỗ tương và với mối bận tâm lo tìm công ích trước tiên.

5. Phục Vụ trong Lãnh Vực Giáo Dục

Giáo dục là vấn đề quan trọng nhất trong việc đào tạo con người. Việc đào tạo con người phải mang tính toàn diện. Mục tiêu của việc giáo dục luôn hướng con người tới sự trưởng thành và vươn tới toàn thiện theo Giáo huấn của Chúa Giêsu : “ Các con phải nên hoàn thiện như Cha các con trên Trời là Đấng Hoàn Thiện.” (Mt 5, 48). Do đó, sự nghiệp giáo dục phải nhắm đào tạo những con người trưởng thành biết sống đúng phẩm giá làm người và còn hơn thế nữa là làm con Thiên Chúa. Ngay từ khi còn nhỏ, trẻ em cần phải được thụ hường một môi trường giáo dục tốt đẹp từ gia đình cho đến xã hội  để phát triển đúng phẩm giá làm người. Điều này đòi hỏi toàn thể xã hội, các gia đình phải chú tâm vào việc phát triển công ích. Việc giáo dục không chỉ thuần túy hướng đến việc thu nạp các kiến thức khoa học nhân văn, kỹ thuật, văn hóa ... mà trước hết là nên người. Một nền giáo dục đúng đắn không nhắm mục tiêu đào tạo ra những công cụ để phục vụ cho bất cứ một định chế xã hội, một ý thức hệ hay đảng phái chính trị nhưng phải luôn tiên quyết với mục tiêu đào tạo con người, nên người, thành người, một con người trưởng thành nhân cách, biết sử dụng tự do để cộng tác và mưu cầu những ích lợi cho bản thân, gia đình và cộng đồng với tinh thần trách nhiệm thực sự. Nền giáo dục ấy phải mang tính nhân bản, dân tộc và khai phóng. Ngày nay, trong lãnh vực giáo dục tại Việt Nam đang gặp nhiều bất cập, thận chí sai lầm khiến cho nền giáo dục rơi vào khủng hoảng, bế tắc dẫn tới hậu quả trần trọng. Đời sống luân lý đạo đức suy đồi nơi con người và xã hội. Giới trẻ mất định hướng, sống không có lý tưởng... Sự dấn thân của Kitô hữu giáo dân vào lãnh vực giáo dục rất cần thiết. Không chỉ trong môi trường giáo dục thuần túy như tại nhà trường mà ngay chính từ gia đình, xứ đạo.

Khi trung thành bước đi trong ánh sáng Tin Mừng bằng sự soi sáng cụ thể và nhất quán của  GHXH, người tín hữu giáo dân sẽ biết vận dụng tất cả năng lực, trí tuệ và công sức của mình để góp phần tích cực vào công cuộc Loan báo tin Mừng, mà qua đó, xây dựng xã hội ngày càng tốt đẹp hơn, một xã hội, mà Giáo Hội theo lời dạy của Thầy Chí Thánh luôn nỗ lực rao giảng và kiến tạo Nước Trời giữa lòng trần thế. Trong xã hội ấy phẩm giá con người luôn được tôn trọng và được phát triển ở mức cao nhất, quyền con người được nhìn nhận và phát huy mạnh mẽ để tất cả biết cống hiến vì mọt cộng đồng nhân ái, thịnh vượng và phát triển. Và người ta thực sự biết sống cho nhau, vì nhau và với nhau. Chính vì thế, Đức Giáo Hoàng Bênidictô XVI khi Huấn từ cho các Đức Giám Mục Việt Nam nhân dịp Ad Limina ngày 27/ 06/ 2009 đã nhắn nhủ tín hữu Việt nam: “ Bằng đời sống xây nền trên đức ái, sự liêm chính, việc quí trọng công ích, anh chị em phải chứng tỏ rằng : là người Công giáo tốt cũng là người công dân tốt.”  Hiện nay xem ra người ta thích tranh cãi với nhau thế nào là người Công giáo tốt, thế nào là người Công dân tốt để rồi đưa ra vấn nạn về sự xung khắc, xung đột giữa việc sống đạo và việc thực thi nghi nghĩa vụ hay quyền công dân để biện minh cho việc không dám sống Tin Mừng hay tìm cách bóp méo ý tưởng của Đức Giáo Hoàng phục vụ cho mưu đồ ích lợi riêng. Điều đó làm cho người ta quên đi rằng dù là công giáo tốt hay công dân tốt, tất cả là hoa quả của việc chính tự thân mỗi người phải rèn luyện, tu dưỡng bản thân có được lòng yêu thương bao dung biết sống vì người khác, có lương tâm trong sạch, biết sống trung thực và luôn sẵn lòng hy sinh phục vụ vì  ích lợi chung. Ở đây, lời nhắn nhủ của Đức Thánh Cha là muốn nhấn mạnh đến việc tu dưỡng rèn luyện bản thân : “Bằng đời sống xây nền trên đức ái, sự liêm chính, việc qúi trọng công ích,” không có vế này đi trước, làm trước thì không thể có vế sau :“anh chị em phải chứng tỏ rằng : là người Công giáo tốt cũng là người công dân tốt.”  Vế trước là tiền đề để chứng minh cho vế sau; vế trước là nền tảng để đạt tới vế sau. Việc làm chứng của tín hữu giáo dân được phát sinh từ ân huệ Chúa ban, được công nhận, nuôi dưỡng và dẫn tới sự trưởng thành (Tông huấn Kitô Hữu Giáo Dân số 24).

Kết Luận : Nên thánh và làm cho người khác nên thánh bằng sự dấn thân phục vụ của mình trong xã hội trần thế. Mảnh đất nhân bản và sinh hoạt trần thế trở thành môi trường riêng biệt của Giáo dân. Bởi vì, Bí tích Thanh Tẩy đã trao phó cho họ một thiên chức liên quan mật thiết vời tình trạng của họ giữa lòng đời. Họ được gọi, để nhờ sự hướng dẫn của Tin Mừng, tác động như men dậy lên từ bên trong, ngõ hầu thánh hóa thế giới bằng việc thực thi các nhiệm vụ của mình.(x. Tông Huấn Kitô Hữu Giáo Dân số 15)

Ngày nay, trong bối cảnh thế giới toàn cầu hóa, trong bối cảnh của xã hội Việt Nam còn nhiều khó khăn, trì trệ, bất công, nghèo đói  đã và đang nảy sinh  nhiều vấn đề xã hội phức tạp làm nhức nhối lương tâm của bao triệu con tim khao khát vươn lên, khao khát tình yêu và công lý, khao khát chân lý và tự do, con người cần phải được tiếp cận, cần phải được lắng nghe công bố Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô, Tin Mừng đem lại sự cứu độ, tình yêu, công lý và hòa bình. Chính trong bối cảnh này, GHXH của Giáo Hội sẽ giúp người ta khám phá những giá trị cao quí của Tin Mừng. Khi mọi người, cách riêng các tín hữu giáo dân sống theo sự hướng dẫn, soi sáng của GHXH trước những vấn nạn, thách đố của xã hội sẽ có khả năng và cũng giúp cho anh chị em chung quanh có khả năng gia tăng niềm tin vào Thiên Chúa, khả năng thắp sáng niềm hy vọng vào tương lai tươi sáng và khả năng mở rộng con tim để yêu thương. GHXH của Giáo Hội quả thực đóng vai trò quan trọng và cần thiết cho đời sống Giáo Hội nói chung và đời sống của người tín hữu giáo dân nói riêng.

 

BÀI III

CỦNG CỐ SỰ HIỆP THÔNG TRONG GIÁO HỘI

HỘI ĐỒNG MỤC VỤ GIÁO XỨ: MÔI TRƯỜNG CỦA SỰ HIỆP THÔNG

                                                                                              

  Lm Giuse Nguyễn Ý Định

I. HIỆP THÔNG LÀ ĐIỀU QUAN TRỌNG NHẤT CỦA TIẾN TRÌNH HIỆP HÀNH:

 

Để cất bước hành trình cùng với và ở trong Hội Thánh Hiệp Hành thì điều quan trọng nhất là sống mầu nhiệm hiệp thông.

“ Hành trình này theo ý hướng “ canh tân “ Hội Thánh được Công Đồng Vaticanô II khởi xướng chính là một ân phúc cũng như là một nhiệm vụ: bằng cách cùng nhau cất bước hành trình và cùng nhau suy nghĩ về hành trình đã thực hiện, Hội Thánh sẽ có thể học biết, qua kinh nghiệm của mình, đâu là những tiến trình có thể giúp Hội Thánh sống hiệp thông thực sự hiện diện Tham Gia và mở ra cho việc thi hành xứ vụ”[6].

 

1. Hiệp Thông Là Gì? [7] 

“ Sự hiệp thông là việc các Kitô hữu sống trong tương quan mật thiết với Thiên Chúa và với nhau:

“ Điều chúng tôi đã thấy và đã nghe, chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa, để chính anh em cũng được hiệp thông với chúng tôi, mà chúng tôi thì hiệp thông với chúa Cha và với Đức Giêsu Kitô con của Người “ (1, Ga 3-7 ).

 Ơn hiệp thông đến từ Thiên Chúa, là một lời mời gọi:

“ Thiên Chúa là Đấng trung thành, người đã kêu gọi anh em đến hiệp thông với con của Người là Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta” (1 Cr 1,9 ).

 Sự hiệp thông này phát xuất và đặt nền tảng trên sự hiệp thông  thần linh của chính Chúa Ba Ngôi Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Chúa Cha yêu mến Chúa con và ban tặng tất cả cho Chúa Con, Chúa Con yêu mến Chúa Cha và dâng hiến mọi sự cho Chúa Cha, Chúa Thánh Thần là tình yêu nhiệm xuất từ Chúa Cha và Chúa con. Ba Ngôi hiệp thông và hiệp nhất. Chỉ một Thiên Chúa mà thôi.

 

2. Lời Tuyên Xưng Đức Tin:

Mầu nhiệm Hiệp Thông được tuyên đọc trong kinh Tin Kính của các Thánh Tông Đồ đó là:

“ Tôi tin có Hội Thánh ở khắp thế này, các thánh thông công “ .

Mầu nhiệm “ Các Thánh cùng thông công” là niềm tin vào sự hiệp thông giữa ba thành phần của Hội Thánh duy nhất của Chúa Kitô.

 *- Hội Thánh Vinh Quang: Đức Mẹ, các Thánh nam nữ và mọi linh hồn được hưởng hạnh phúc Thiên Đàng. Hội Thánh này đã chiến thắng và đã giặt sạch áo linh hồn trong máu Con Chiên là Đức Kitô được hưởng phúc muôn đời.

 *- Hội Thánh Lữ Hành: là những người đã lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội còn đang sống trên trần thế, trong đó có chúng ta. Chúng ta còn đang phải chiến đấu, cần đến lòng thương xót, ân sủng của Thiên Chúa và sự hỗ trợ, giúp đỡ của Hội Thánh Vinh Quang.

*- Hội Thánh Thanh Luyện : là những linh hồn được hưởng ơn cứu độ của Thiên Chúa nhưng chưa được hiệp thông trọn vẹn trong tình yêu của Chúa vì còn đang chịu thanh luyện trong chốn luyện hình. 

Ba thành phần của Hội Thánh duy nhất này luôn nhận được ân sủng tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi và luôn hiệp thông với nhau cách mật thiết: 

Hội Thánh Vinh Quang trên Thiên Quốc luôn chuyển cầu cùng Chúa cho chúng ta, hỗ trợ chúng ta trên hành trình Đức Tin, chiến đấu với ba thù, hưởng ơn cứu độ và đạt đến vinh quang muôn đời. 

Chúng ta, những khách lữ hành đức tin hướng về trời cao xin các ngài cầu thay nguyện giúp, và hướng đến các linh hồn nơi luyện hình để xin ơn giải thoát cho thành phần Giáo Hội đang chịu thanh luyện khổ đau.

Đang trong tình trạng chịu thanh luyện, các linh hồn khổ đau vẫn ngập tràn hy vọng được giải thoát nhờ lời cầu nguyện của Hội Thánh trên trần gian. Các ngài không còn khả năng lập công đền tội nữa nhưng các ngài vẫn có thể cầu nguyện cho chúng ta. Lời cầu nguyện của các ngài cũng có hiệu lực rất mạnh mẽ để chúng ta được ơn hiệp thông của Thiên Chúa và hiệp thông với Mẹ Maria và triều thần Thiên Quốc.

 

3. Lãnh Nhận Ơn Hiệp Thông:

*- Ơn hiệp thông trước hết và trên hết từ Thiên Chúa. Lời chào long trọng đầu thánh lễ nói lên điều đó:

“ Nguyện xin ân sủng Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em”

*- Chúng ta đón nhận nhờ ơn Đức Tin nhưng vì tội lỗi bất xứng chúng ta phải nài xin lời chuyển cầu hiệp thông:

“ Tôi đã phạm tội nhiều…vì vậy tôi xin Đức Bà Maria trọn đời đồng trinh, các thiên thần, các thánh và anh chị em khẩn cầu cho tôi trước tòa Thiên Chúa, Chúa chúng ta”.

*- Ơn hiệp thông của Thiên Chúa như nước mưa tuôn tràn tâm hồn các tín hữu. Điều kiện là phải mở lòng đón nhận bằng lời cầu nguyện, bằng việc lãnh nhận các Bí Tích, nhất là Bí Tích Thánh Thể.[8]

 *- Trong Thánh Lễ, mầu nhiệm hiệp thông được diễn tả đặc biệt rõ ràng cụ thể với chiều kích từ Thiên Chúa Ba Ngôi ban xuốngvà chan hòa cho các thành phần của Hội Thánh.

Trong Kinh Nguyện Thánh Thể chúng ta khẩn xin Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta hiệp thong cầu nguyện với Đức Thánh Cha, Đức Giám Mục, hàng giáo sĩ, toàn thể dân Chúa và cậy nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria, Thánh Cả Giuse, tất cả các thánh. Chúng ta cũng cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện ngục và cao điểm của Hiệp Thông là việc chúng ta rước Mình Thánh Chúa, để được hiệp nhất nên một trong Chúa Kitô.

 

II. HỘI ĐỒNG MỤC VỤ GIÁO XỨ: MÔI TRƯỜNG CỦA SỰ HIỆP THÔNG:

 Đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa, chúng ta trở thành những tông đồ giáo dân trong cơ cầu tổ chức Hội Đồng Mục Vụ Giáo Xứ.

 Mật thiết hơn khi chúng ta ý thức mình thuộc về gia đình của Thiên Chúa. Chúng ta hiệp thông trong Đức Tin, Đức Cậy và Đức Mến để xây dựng gia đình giáo xứ theo ơn gọi và đặc sủng Chúa ban cho từng người.

 Nếu giáo xứ là một gia đình thì linh mục là người cha, người đứng đầu, người lãnh đạo, người mục tử “ linh mục phải săn sóc các các tín hữu như người cha trong Đức Kitô, vì đã hy sinh cho họ cách thiêng liêng, nhờ phép Thánh Tẩy và giáo huấn”. (LG số 28)  

Các thành viên của HĐMVGX là những cộng tác viên của Cha Xứ. Mầu nhiệm Hiệp Thông được diễn tả rõ nét, thường xuyên và sâu sắc giữa Cha Xứ và từng người, giữa mọi người đang phục vụ giáo xứ với nhau, vì mối tương quan đồng trách nhiệm trong môi trường giáo xứ.

 *- Trong Đời Sống Đức Tin: Vì những đòi hỏi của công việc, trách nhiệm, bổn phận các quý chức HĐMVGX dành nhiều thời gian tại nhà thờ. Chúng ta tham dự thánh lễ, các cử hành phụng vụ, cầu nguyện với cha xứ và với nhau. Hiệp thông với nhau trong niềm tin vào Thiên Chúa.

 Dưới cái nhìn Đức Tin HĐMVGX đi đầu trong việc thực hiện điều công đồng Vaticano II chỉ dạy:

“Phần các Kitô hữu hãy ý thức về những bổn phận đối với các linh mục, hãy thể hiện tấm lòng hiếu thảo đối với các ngài như với chủ chăn và những người cha;

Cũng thế, họ phải chia sẻ những nỗi ưu tư của các ngài, hỗ trợ các ngài tối đa bằng lời cầu nguyện và bằng các việc làm, để giúp các ngài thắng vượt khó khăn và chu toàn trách vụ của mình cách hữu hiệu hơn” (PO số 9).

 *- Trong tinh thần trách nhiệm và sống mầu nhiệm hiệp thông chúng ta cộng tác với chủ chăn giáo xứ bằng việc góp ý kiến, góp công sức, xây dựng gia đình giáo xứ nhưng luôn trong tinh thần tôn trọng quyền lãnh đạo, coi sóc cộng đoàn của linh mục đã lãnh nhận từ Chúa và thẩm quyền của Hội Thánh.

HĐMVGX coi nhau như anh chị em thân thiết, trong mối tương quan đồng trách nhiệm. Công đồng Vaticano II dạy rằng:

“Giáo dân phải giúp nhau sống đời thánh thiện nhờ những việc trần thế, để thế gian thấm nhuần tinh thần Chúa Kitô và đạt đến cùng đích cách hữu hiệu hơn trong công lý, bác ái và hòa bình “ (LG số 36). 

 Các thành viên của HĐMVGX không chỉ thân thiết, yêu thương nhau mà còn tương quan hiệp thông với các Hội Đoàn Công Giáo Tiến Hành như Legio Marie, Cursillo, Huynh Đoàn,… Trong môi trường hoạt động của giáo xứ, tất cả cùng hiệp thông và hiệp nhất trong ân sủng và tình yêu Thiên Chúa, cùng làm việc trong vườn nho của Thiên Chúa. Đó cũng chính là điều cần thiết để trở nên chứng tá nhờ sự hiệp thông và hiệp nhất:

“ Điều có thể làm chứng về sự hiện diện của Thiên Chúa hơn cả là đức bác ái huynh đệ của các tín hữu như họ đồng tâm nhất trí cộng tác cho phúc âm, và tỏ ra họ là dấu chỉ hiệp nhất” (GS Số 21 )

 

III. CỦNG CỐ SỰ HIỆP THÔNG:

 

Nền tảng của ơn Hiệp Thông chính là Bí Tích Thánh Tẩy, chúng ta được trở nên chi thể trong thân thể mầu nhiệm Chúa Kitô. Chúng ta gắn bó với một cộng đoàn cơ bản là giáo xứ thân yêu.

Gia nhập và hoạt động trong HĐMVGX chúng ta đáp lại lời mời gọi trở nên những tong đồ giáo dân tích cực làm việc để củng cố, bảo vệ, xây dựng đời sống Đức Tin và Đức Ái cho gia đình giáo xứ và cũng cho cả gia đình riêng của mình. Khi góp phần cho giáo xứ thì mầu nhiệm Hiêp Thông được thể hiện ơn Chúa cũng tuôn tràn đến gia đình mỗi người.

Môi trường giáo xứ ảnh hưởng mạnh mẽ trên đời sống của gia đình. Nơi nào có những gia đình sống đạo tốt, nơi đó sẽ trở thành giáo xứ tốt đẹp, phong phú trong đời sống đức tin.

Anh chị em trong HĐMVGX rất cần ý thức hiệp thông, lien đới trách nhiệm trong đời sống đạo đức, lãnh nhận các bí tích, chuyên chăm cầu nhuyện và sống tình bác ái yêu thương.

Chúng ta, những thành viên của HĐMVGX phải là những nhân tố cơ bản đầu tiên và bền vững trong ý thức đồng trách nhiệm, cộng tác và vâng phục cha xứ, vâng phục Đức Giám Mục, vâng phục Hội Thánh, để sự hiệp thông trong Đức Tin, Đức Cậy, Đức Mến được thực hiện cụ thể và vững mạnh đem lại niềm vui hà hy vọng tràn đầy.

“ Xin cho con được luôn mãi sống trong Ơn Hiệp Thông của Chúa Thánh Thần “


[1] X. Y. Congar, Công đồng chung Vaticanô II., Giáo hội, Dân Thiên Chúa và thân thể của Đức Kitô (le Concile de Vatican II.  Son Église, peuple de Dieu et corps du Christ) ( trong: Thologie historique 71). Paris 1984.

[2] ĐHY Joseph Ratzinger, Bài Mở Đầu cho Hội Nghị Mục Vụ của Giáo Phận Aversa, Italia,  ngày 15/9/2001, đăng trong  tuần san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh Ngữ, N.4- 23/1/2002, trang 5-7.

[3] Giáo sư Luis Navarro, Giáo hoàng học viên Thánh Giá, Đồng trách nhiệm của người giáo dân (La corresponsabilità dei fedeli laici. Fondamento e natura), nguồn: http://www.laityfamilylife.va/

[4] X. Phúc âm hoá thời đại hôm nay và trong tương lai của Mỹ châu La tinh (Die Evangelisierung in der Gegenwart und in der Zukunft Latinamerikas).  Tài  liệu của  hội đồng chung Giám mục Mỹ châu La tinh tại Puebla (Dokumente der  III. Generalkonferenz des lateinamerikanischen Episkopats in Puebla)  (trong: Stimmen der Weltkirche 8), Bonn 1979, tr. 804.

[5] Như trên, Số. 584. Mục từ “nhiệm vụ” có thể mang nhiều ý nghĩa khác nhau. Trong lãnh vực thiêng liêng, nhiệm vụ có nghĩa là bổn của người Kitô hữu trong cuộc sống hàng ngày. Người ta kể câu chuyện về Bernadette Soubirous, bà bị 20 năm nằm ở trên giường với bệnh ung thư xương. Người ta hỏi, bà làm gì trên giường bệnh trong một thời gian dài như thế. Bà trả lời, bà đang chu toàn bổn phận của bà. Được hỏi ngược lại: Bổn phận gì? Bà nói: Bổn phận của tôi là bệnh. Bệnh tật cũng có một nhiệm vụ quan trọng trong tập thể con người. Đối với bà  bệnh là một nhiệm vụ. X. Mục từ „Soubiruos, Bernadette“, in: LThK  cuốn. IX, 899.

[6] Tài liệu chuẩn bị THĐGM số 1

[7] Tự điển Công Giáo

[8] Sách HLHTCG số 980.