ĐIỂM TIN THÁNG
Từ Thứ Bảy (01/11/2025) – Chúa Nhật (30/11/2025)

Thực hiện: Vp. Truyền thông

 


TIN GIÁO PHẬN MỸ THO

1. Lòng thảo hiếu

(WGPMT) Giáo Hội dành riêng tháng 11, để cầu cho các tín hữu đã qua đời giúp chúng ta nhớ cầu nguyện cho những người thân của mình, và để tỏ lòng thảo hiếu với đấng sinh thành.

Giáo Hội dành riêng tháng 11, để cầu cho các tín hữu đã qua đời giúp chúng ta nhớ cầu nguyện cho những người thân của mình, và để tỏ lòng thảo hiếu với đấng sinh thành. Hình ảnh những người con đến bên mộ ba mẹ, ông bà lau những phần mộ, thắp những nén hương, sửa soạn lại mộ phần làm tôi không khỏi nghẹn lòng. Tuy rằng đó là những hành vi thảo hiếu, nhưng đây đó cũng có linh hồn không được nhớ tới nhất là không được ai cầu nguyện.

“Công cha như núi Thái sơn,

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.

Một lòng thờ mẹ kính cha,

Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.

Những câu thơ trên chắc chắn ai cũng thuộc nằm lòng, đó là lòng hiếu kính của những người con đối với ông bà cha mẹ, những bậc sinh thành. Khi còn sống, chúng ta thể hiện lòng thảo hiếu ấy bằng việc chăm sóc, vâng lời, tôn trọng và kính mến các ngài. Khi các ngài đã khuất, chúng ta cầu nguyện, thắp hương, tổ chức lễ giỗ để tưởng nhớ các ngài. Với truyền thống tốt đẹp đó, Giáo Hội dành trọn tháng 11 để mọi tín hữu tỏ lòng biết ơn đấng sinh thành, những người đã khuất, cách đặc biệt ngày 2.11 hằng năm để cầu nguyện cho tất cả mọi tín hữu đã qua đời. Với những ý nghĩa đó, tại Giáo xứ thánh Phaolô, một giáo xứ truyền giáo nơi vùng quê nghèo cũng theo lời mời gọi của cha sở tỏ lòng hiếu kính với ông bà tổ tiên, những người đã khuất với thánh lễ long trọng cho bà con giáo dân tham dự trong khuôn viên giáo xứ thật ấm cúng.

Hình ảnh làm tôi không khỏi khâm phục là giáo dân mang hình của ông bà, cha mẹ, người thân đến nhà thờ để cùng với giáo xứ dâng thánh lễ cầu nguyện. Một hành động nhỏ như vậy nhưng đã mang lại không ít những lợi ích thiêng liêng và có người đã theo Đạo vì hành động này của người chồng, bà Hai tâm sự: “Tôi cảm thấy xúc động và khóc khi thấy chồng mang hình của cha mẹ chồng đi lễ, và suy nghĩ sao Đạo gì mà có hiếu với cha mẹ vậy, và tôi quyết định theo Đạo”.

Trước thánh lễ, mọi người cùng với cha sở thắp hương trước những di ảnh của ông bà tổ tiên, thay cho những lời cầu nguyện. Giảng trong thánh lễ, cha sở cũng nhắc nhở mọi người giáo dân phải có trách nhiệm đối với các đấng sinh thành: trách nhiệm thảo hiếu. Vì khi những người đã khuất không còn cơ hội làm việc bác ái, hy sinh hãm mình, dâng lễ nên nhờ những lời cầu nguyện và những việc lành của những người còn sống như chúng ta, họ trông ngóng chúng ta giống như những người tù trông ngày người thân thăm tù, cho gì thì hưởng nấy. Cha còn nhấn mạnh, mỗi người chúng ta ai cũng phải chết, nhưng chúng ta chết trong tư thế nào, chúng ta cố gắng sống tốt, nhất là sạch tội trọng, cầu nguyện cho bản thân mình nữa, để rồi chúng ta được biến đổi trở nên một người mới.

Thảo kính cha mẹ, cầu nguyện cho những người đã khuất cũng là chu toàn luật Chúa, không phải là việc tổ chức bên ngoài nhưng sâu xa hơn là lòng hiếu thảo thực sự. Ước gì mỗi chúng ta khi nhớ tới những người đã khuất chúng ta cầu nguyện cho họ thật nhiều, nhất là những người không được ai nhớ tới. “Xin nhớ đến chúng tôi, hỡi người đang ở dương thế. Xin nhớ đến chúng tôi, đây những linh hồn ngày đêm than khóc. Xin nhớ đến chúng tôi, bằng muôn việc lành nhỏ bé hy sinh. Xin nhớ đến chúng tôi, bằng những lời kinh tha thiết tâm tình…” (Xin nhớ đến chúng tôi-Dấu Chân)

Têrêsa Mai An

Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/chi-tiet/long-thao-hieu

 

***

2. Thánh lễ cầu nguyện cho các linh mục đã qua đời

Bài viết: Maria Kim Anh

Hình: Gioan Linh

Ban TT hạt Mỹ Tho và Cái Bè

(WGPMT) Lúc 10g00 ngày 05.11.2025 Cha Phaolô Trần Kỳ Minh – Tổng Đại diện (TĐD) Giáo phận Mỹ Tho cùng quý cha hai hạt Mỹ Tho và Cái Bè dâng thánh lễ cầu nguyện cho quý Đức Cha, quý cha đã qua đời tại Nhà thờ An Đức.

Cùng với toàn thể Giáo Hội bước vào tháng 11, tháng cầu nguyện cho các đẳng linh hồn. Trước khi cử hành thánh lễ, quý cha và cộng đoàn đã tiến ra Đất thánh Giáo xứ An Đức để kính viếng, thắp hương tại mộ phần của quý linh mục và đọc kinh cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời. “Lạy Chúa, xin cho các linh mục được chiêm ngưỡng Thánh Nhan Chúa muôn đời.” Sau đó, lúc 10g00 cha TĐD Phaolô đã chủ tế thánh lễ cầu nguyện cho các linh mục đã qua đời. Đồng tế với ngài có cha Giacôbê Hà Văn Xung - Quản hạt Mỹ Tho và cha Phêrô Lê Tấn Bảo - Quản hạt Cái Bè, cùng hơn 52 cha trong hai giáo hạt. Hiệp dâng thánh lễ có quý thầy phó tế, các tu sĩ và đông đảo giáo dân tham dự trong bầu khí trang nghiêm, sốt sắng.

Đầu thánh lễ, cha TĐD mời gọi cộng đoàn cùng hiệp ý cầu nguyện cho 82 vị linh mục trong Giáo phận đã qua đời, cách riêng quý giám mục từng phục vụ tại Giáo phận Mỹ Tho, quý linh mục, tu sĩ nam nữ và đặc biệt các linh mục đang yên nghỉ tại Đất thánh Giáo xứ An Đức.

Mở đầu bài giảng, cha TĐD gợi mở cho mọi người thấy thời đại ngày nay thời gian qua nhanh và rất vội, đồng nghĩa là chúng ta ít quan tâm sự hiện diện của những người thân, những người trong gia đình. Cha nói tiếp, tháng 11 đã về là cơ hội cho chúng ta nhìn lại chính thân phận của mình và cầu nguyện cho những linh hồn đã qua đời. Cái chết đến với bất cứ ai đã trở thành quy luật dù chúng ta muốn tránh hay chạy trốn, rồi ngày qua ngày chúng ta vô tình hay ý thức thì chúng ta cũng đang đến gần với nấm mồ của chúng ta. Những người có niềm tin thì cho rằng đó là điều huyền bí, còn những người khác lại khó chấp nhận. Nhưng với niềm tin của người Kitô hữu, cái chết là do tội lỗi của con người mà ra. Chúa muốn chúng ta sống mãi trong tình yêu của Ngài nhưng tội lỗi đã xen vào làm chúng ta phải chết. Chúa không bỏ chúng ta, Chúa đã ban cho chúng ta Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô đến trần gian này để yêu thương và cứu độ chúng ta: “Tất cả những người Chúa Cha ban cho tôi đều sẽ đến với tôi, và ai đến với tôi, tôi sẽ không loại ra ngoài” (Ga 6,35-40) và “Thầy đi dọn chỗ cho anh em.Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14, 3-4). Cha TĐD gợi ý cộng đoàn hãy tham dự thánh lễ cách sốt sắng, cùng dâng lời cầu nguyện cho những người đã ra đi trước chúng ta, cách riêng nhớ đến quý Đức Cha, quý cha đã qua đời. Thánh lễ là hồng ân cứu độ của Chúa, ngày xưa Chúa giang tay cử hành thánh lễ trên đồi Golgotha ban ơn cứu độ cho con người như thế nào, thì ngày nay các linh mục giang tay cử hành thánh lễ trên bàn thờ cũng ban ơn cứu độ cho chúng ta y như vậy.

Sau bài giảng, thánh lễ diễn ra như thường lệ và kết thúc lúc 11g00 trong bầu khí linh thiêng và tràn đầy hy vọng nơi Mầu nhiệm Chúa Phục Sinh.

Lạy Chúa, xin cho các linh hồn được nghỉ yên muôn đời.

 

Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/chi-tiet/thanh-le-cau-nguyen-cho-cac-linh-muc-da-qua-doi

 

***

3. Cộng đoàn hạt Cù Lao Tây hành hương Năm Thánh

Bài viết và hình: Jb Trần Thái

(WGPMT) Thứ Sáu, ngày 07.11.2025, cộng đoàn hạt Cù Lao Tây thuộc Giáo phận Mỹ Tho hành hương Năm Thánh tại Trung tâm Hành hương (TTHH) Ba Giồng – nơi kính nhớ các Thánh Tử Đạo, và Trung tâm Mục vụ (TTMV) – nơi tôn kính Lòng Chúa Thương Xót.

Mang trong lòng tâm tình tri ân và tưởng nhớ ông bà tổ tiên, cha mẹ, cùng các linh hồn đã an nghỉ trong Chúa, đoàn hành hương quy tụ để cầu nguyện, xin ơn hoán cải, và lãnh nhận ơn toàn xá Năm Thánh nhường cho các tín hữu đã qua đời trong tháng 11 này.

Lúc 14g00 cùng ngày, hơn 1000 giáo dân thuộc các giáo xứ trong hạt Cù Lao Tây đã quy tụ về TTHH Ba Giồng. Dưới sự hướng dẫn của cha Giuse Nguyễn Huỳnh Bảo Sơn – Cha phó xứ Ba Giồng cộng đoàn đã cung nghinh và thắp hương kính Cha Thánh Phêrô Nguyễn Văn Lựu cùng các thánh tử đạo.

Sau nghi thức kính viếng, Cha Giuse đã có lời chia sẻ ngắn gọn nhưng sâu sắc về ý cầu nguyện trong tháng 11 theo ý Đức Giáo Hoàng: “Cầu cho việc ngăn chặn nạn tự tử”. Tiếp đó, cộng đoàn đọc kinh, hôn kính xương Thánh Cha Phêrô Nguyễn Văn Lựu, và di chuyển đến Lễ đài Lòng Chúa Thương Xót tại TTMV để tiếp tục chương trình hành hương.

Lúc 16g00, mọi người đã tề tựu đông đủ và sốt sắng cùng nhau lần chuỗi Mân Côi kính Lòng Chúa Thương Xót. Tuy nhiên, do điều kiện thời tiết không thuận lợi, chương trình được chuyển vào bên trong Nhà thờ Nữ Vương Hòa Bình, nằm trong khuôn viên TTMV.

Thánh lễ được cử hành vào lúc 17g00, do Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm – Giám mục Giáo phận Mỹ Tho chủ tế. Đồng tế với ngài có Cha Phaolô Trần Kỳ Minh – Tổng Đại diện, Cha Phaolô Nguyễn Thành Sang – Giám đốc TTMV cùng 18 cha trong giáo phận. Thánh lễ còn có sự hiện diện của quý tu sĩ nam nữ và đông đảo tín hữu từ khắp nơi.

Trong bài giảng, Đức Cha Phêrô mời gọi cộng đoàn, “Hôm nay, chúng ta thực hiện cuộc hành hương Năm Thánh – Năm Thánh Hy Vọng, trong bối cảnh tháng 11, tháng Các Đẳng, tháng cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời. Chúng ta có bổn phận cầu nguyện cho các ngài là những người thân yêu của chúng ta. Xin anh chị em, khi đi hành hương hôm nay, lãnh nhận ơn toàn xá nhường ơn ấy cho các linh hồn. Đồng thời, trong suốt tháng 11 này, anh chị em hãy thường xuyên, mỗi ngày, nhớ cầu nguyện cho các đẳng: dâng lễ, đọc kinh, làm việc lành với ý chỉ cầu cho các linh hồn. Đó chính là cách chúng ta sống tâm tình của mầu nhiệm Các Thánh Thông Công. Khi sống tâm tình ấy, chính chúng ta cũng được hưởng ơn Chúa trong mối hiệp thông phong phú của đời sống hằng ngày.”

Trước khi kết thúc, Đức Cha gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến toàn thể cộng đoàn tham dự, vì đã không ngại mưa gió, hy sinh thời gian để cùng nhau thực hiện những cuộc hành hương trong Năm Thánh. Ngài cũng bày tỏ lòng biết ơn đến Cha Hạt trưởng cùng quý Cha đã đồng hành, nâng đỡ và cùng với giáo dân thực hiện cuộc hành hương này.

Cuối cùng, Đức Cha Phêrô ban phép lành cuối lễ và ơn toàn xá cho cộng đoàn. Thánh lễ kết thúc lúc 18g10, khép lại một ngày hành hương tràn đầy ơn phúc và sốt sắng trong tinh thần Năm Thánh.

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/cong-doan-hat-cu-lao-tay-hanh-huong-nam-thanh

 

***

4. Tình hình lũ lụt ảnh hưởng đến tinh thần, thiệt hại về vật chất của bà con giáo dân trên địa bàn Giáo phận Mỹ Tho hiện nay

Marcel Văn Phương

(WGPMT) Ý thức bảo vệ môi trường, tôn tạo không gian sống và cùng chung tay với mọi người để góp phần tạo nên một hành tinh của chúng ta mỗi ngày thêm xanh-sạch-đẹp hơn.

Theo thông tin từ Trung tâm khí tượng thủy văn vùng Nam bộ, cho biết: năm 2025 là năm có diễn biến thời tiết phức tạp nhất so với các năm gần đây. Qua các phương tiện truyền thông, chúng ta cũng nắm bắt những thông tin về tình hình mưa bão, lũ lụt diễn ra từ bắc chí nam trên đất nước chúng ta. Theo phân tích từ nguồn khoa học thiên văn, trong hệ thống khí quyển đại dương, thuật ngữ “ENSO” được chia thành ba pha:

- Pha nóng là EL NINO: gây ra các hiện tượng cực đoan liên quan đến nhiệt độ, điển hình năm 2024 chúng ta nhận thấy rõ hiện tượng này, khi khí hậu oi bức, nóng kéo dài, khô hạn và gây hiện tượng xâm ngập mặn ở nhiều nơi, đặc biệt tại các vùng khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.

- Pha lạnh là LA NINA: thường gắn liền với hiện tượng mưa nhiều và bão lũ tập trung nhiều hơn mà chúng ta dễ dàng nhận ra tình hình thực tại ở nhiều nơi trên đất nước chúng ta trong những tháng gần đây.

- Pha trung tính là ENSO: là trạng thái trung gian với các biểu hiện thời tiết không nghiên hẳn nóng hay lạnh nhưng mang tính chất cân bằng giữa hai pha nóng và lạnh.

Dưới tác động của biến đổi khí hậu đã gây nên những hậu quả về môi trường như hiện nay. Cụ thể, trên địa bàn của Giáo phận Mỹ Tho bao gồm: tỉnh Long An, Tiền Giang và 2/3 tỉnh Đồng Tháp cũ – nay là tỉnh Đồng Tháp và Tây Ninh mới. Qua thông tin truyền thông chính thống cho biết: “đỉnh lũ 2025 tại các tỉnh Đồng Tháp và Tây Ninh mới đã vượt mức báo động, đe dọa hàng ngàn hét-ta đất sản xuất nông nghiệp, ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của hàng ngàn hộ dân”.

Nhìn vào thực tế, Giáo phận Mỹ Tho trải dài trên một địa bàn rộng lớn, đời sống kinh tế của bà con giáo dân trong giáo phận sinh chủ yếu là canh tác nông nghiệp, trồng trọt và chăn nuôi, nhất là thời điểm hiện nay đang chuẩn bị vào mùa thu hoạch thu đông. Tuy nhiên, đứng trước những diễn biến thời tiết phức tạp của thời tiết, ảnh hưởng rất lớn đến tinh thần, vật chất, nhất là bà con ở vùng lũ lụt đã và đang gặp rất nhiều khó khăn: nhiều nơi mưa, lũ kéo dài tại các khu vực Đồng Tháp Mười, hay đó là tình trạng lưu lượng nước từ thượng nguồn đổ về, gây ngập úng, sạc lở ở nhiều nơi tại các vùng trũng ven sông Vàm Cỏ Đông, Vàm Cỏ Tây, hoặc thảm cảnh vở đê bao, sạt cống ngầm tại nhiều nơi thuộc khu vực huyện Tân Hưng (Long An cũ) đe dọa hàng ngàn hét-ta vụ lúa Đông Xuân năm 2025-2026,… đứng trước những thách thức trên, bà con tại các vùng này phải ngày đêm chóng chọi với thiên nhiên, tranh thủ thu vén tài sản, hoa màu “chạy lũ” với mong mỏi “được chút nào hay chút ấy”, cùng với đó phải đương đầu với thực trạng tìm đầu ra cho nông sản thu hoạch vội vàng, đang bị thiệt hại và nhiều nơi khác cũng bị thiệt hại cũng không kém. Chẳng hạn, theo thông tin từ Sở Nông nghiệp và Môi trường của tỉnh Đồng Tháp mới hiện nay cho biết: “tổng thiệt hại do thời tiết cực đoan gây ra cho năm 2025 ước tính 21.83 tỷ đồng” và còn nhiều thiệt hại về tài sản khác mà chưa thống kê chi tiết được.

Quả thế, những diễn biến phức tạp của thiên nhiên trong những năm qua có tác hại rất lớn đến đời sống con người. Điều đó, đã được Đức cố Giáo hoàng Phanxicô cảnh báo trong Thông điệp Laudato Si’, ban hành ngày 18/6/2015, Ngài nhấn mạnh: “Chúng ta thấy rằng, ngôi nhà chung của chúng ta đang rơi vào tình trạng hư hỏng trầm trọng” (trích Thông điệp Laudato Si’ số 61). Ngài nói tiếp, những vấn đề: “ô nhiễm, chất thải, biến đổi khí hậu,… khan hiếm nhiên liệu, đặc biệt là nước và mất đa dạng sinh thái,…” (trích Thông điệp Laudato Si’ số 15) là một trong những vấn đề gây mất sự cân đối trong môi trường mà chúng ta đang sinh sống. Vì thế, đứng trước lời mời gọi của Lời Chúa và Giáo huấn của Giáo hội thúc đẩy mỗi người chúng ta, cách riêng là các Kitô hữu phải ý thức bảo vệ môi trường, tôn tạo không gian sống và cùng chung tay với mọi người góp phần tạo nên một hành tinh của chúng ta mỗi ngày thêm xanh-sạch-đẹp hơn.

Đứng trước những thực trạng của thời tiết cực đoan nêu trên, người dân vùng lũ phải gánh chịu những thiệt hại không nhỏ về tinh thần lẫn vật chất, nhất là bà con giáo dân trên địa bàn Giáo phận Mỹ Tho tại những khu vực kể trên, rất cần những vòng tay yêu thương, nâng đỡ và chia sẻ của tất cả mọi người. Cùng với đó, trong tình hiệp thông, chính lời cầu nguyện của mọi người sẽ là động lực giúp họ thêm nghị lực vượt qua khó khăn và giúp họ thêm niềm tin cậy trông tín thác vào tình thương của Thiên Chúa trong tình hình khó khăn hiện nay là rất cần thiết.

 

Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/chi-tiet/tinh-hinh-lu-lut-anh-huong-den-tinh-than-thiet-hai-ve-vat-chat-cua-ba-con-giao-dan-tren-dia-ban-giao-phan-my-tho-hien-nay

 

***

5. LỄ CÁC ĐẲNG LINH HỒN 02/11/2025

(WGPMT) Lạy Chúa Giêsu, Đấng đã nói: “Ta là sự sống lại và là sự sống”, xin thương đến các linh hồn đang mong chờ ơn giải thoát.

Lễ Cầu cho các Đẳng Linh Hồn, thường được gọi là Lễ Cầu Hồnhay Lễ Các Linh Hồn, là một trong những ngày lễ mang ý nghĩa sâu xa trong đời sống Đức tin Công giáo. Mỗi năm, vào ngày 02 tháng 11, toàn thể Giáo Hội cùng hiệp ý dâng lời cầu nguyện cho những người đã qua đời, đặc biệt là những linh hồn đang ở trong luyện ngục, nơi họ được thanh luyện để xứng đáng hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trong Thiên Đàng. Lễ Các Đẳng Linh Hồn là một trong những ngày linh thiêng nhất của năm phụng vụ – ngày mà Giáo Hội mời gọi toàn thể tín hữu hướng lòng mình về những người đã khuất, đặc biệt là những linh hồn đang được thanh luyện trong luyện ngục. Đây không phải chỉ là một ngày tưởng niệm đơn thuần, mà là một hành động đức tin sâu sắc: tin vào sự sống lại, tin vào lòng thương xót của Thiên Chúa, và tin vào sức mạnh cứu độ của lời cầu nguyện.

Ngày lễ này là thời khắc thiêng liêng để con cái Giáo Hội thể hiện lòng hiếu kính và tình bác ái thiêng liêng đối với những người đã khuất. Trong các thánh lễ, các giờ cầu nguyện, và những việc lành phúc đức, người tín hữu dâng lên Thiên Chúa lời khẩn cầu tha thứ, xin ơn giải thoát cho các linh hồn đang mong chờ được chiêm ngắm Thánh Nhan Ngài.

Không chỉ là một truyền thống lâu đời, Lễ Cầu cho các Đẳng Linh Hồn còn là dịp giúp người Kitô hữu ý thức sâu sắc về sự sống đời sau, về thân phận mỏng giòn của kiếp người, và về niềm hy vọng phục sinh trong Đức Kitô. Qua việc tưởng nhớ và cầu nguyện cho người đã khuất, mỗi tín hữu được mời gọi sống trọn vẹn tình yêu thương, củng cố đức tin, và bày tỏ sự gắn bó trong mầu nhiệm Hiệp thông các Thánh – giữa Hội Thánh lữ hành nơi trần thế, Hội Thánh đau khổ trong luyện ngục, và Hội Thánh khải hoàn trên Thiên Đàng.

Giáo huấn của Hội Thánh qua các Công đồng Florence và Trentô khẳng định rằng: những ai qua đời trong ân sủng của Thiên Chúa nhưng vẫn còn vướng mắc tội nhẹ, hoặc chưa đền trả đầy đủ những hậu quả của tội lỗi khi còn sống, thì cần phải được thanh luyện để đạt đến mức thánh thiện xứng hợp với sự tinh tuyền tuyệt đối của Thiên Chúa. Trạng thái thanh luyện này được gọi là luyện ngục – nơi linh hồn được tẩy sạch để có thể bước vào hưởng vinh quang Thiên Đàng.

Giáo Hội dạy rằng luyện ngục không phải là hình phạt như hỏa ngục, nhưng là sự thanh luyện cuối cùng của những người được chọngiúp linh hồn được chữa lành và biến đổi bởi tình yêu Thiên Chúa. Dựa trên lời Chúa Giêsu trong Tin Mừng Mátthêu: “Ai nói phạm đến Chúa Thánh Thần thì sẽ không được tha cả đời này lẫn đời sau” (Mt 12,32), các Giáo phụ hiểu rằng có một số tội được tha thứ trong đời này, còn một số khác sẽ được tha trong đời sau.

Thánh Grêgôriô Cả giải thích rằng một số lỗi nhẹ “sẽ được thanh luyện bằng lửa” trước khi linh hồn được chiêm ngắm Thánh Nhan Thiên Chúa. Còn Thánh Catarina thành Genoa, vị nữ tu huyền nhiệm thế kỷ XV, diễn tả “lửa” của luyện ngục không phải là ngọn lửa hủy diệt, mà chính là tình yêu Thiên Chúa nung nấu linh hồn, khiến họ đau đớn vì khao khát được kết hợp trọn vẹn với Đấng mà họ yêu thương nhưng chưa thể chiếm hữu hoàn toàn.

Theo Giáo lý Hội Thánh Công Giáo (số 1030–1032), những người đã chết trong ân sủng của Thiên Chúa nhưng vẫn còn cần được thanh luyện thì phải trải qua một thời gian trong luyện ngục. Đây là quá trình linh hồn được thanh tẩy khỏi những vết nhơ còn sót lại của tội lỗi, để có thể được chiêm ngưỡng Thiên Nhan trong sự thánh thiện hoàn toàn.

Vì thế, Hội Thánh khuyến khích các tín hữu dâng Thánh lễ, lời cầu nguyện, việc hy sinh và hành động bác áiđể cầu cho các linh hồn. Mỗi lời cầu ấy là một dòng suối ân sủng làm dịu bớt đau khổ của họ, giúp họ sớm được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu. Như vậy, giáo lý về luyện ngục không chỉ bày tỏ công lý và sự thánh thiện của Thiên Chúa, mà còn là biểu hiện cao đẹp của lòng thương xót và mối hiệp thông giữa các tín hữu, khi người sống và người đã qua đời cùng nâng đỡ nhau trong hành trình tiến về Thiên Quốc.

Trong ánh sáng của Kinh Thánh, lễ này là lời đáp lại lời mời gọi yêu thương vượt qua cái chết. Sách Macabê quyển hai đã kể rằng: “Ông Giuđa quyên tiền để xin dâng lễ đền tội cho những người đã chết, để họ được giải thoát khỏi tội lỗi” (2 Mcb 12,46). Cử chỉ ấy, được Thánh Kinh mô tả là “đạo đức và thánh thiện”, trở thành nền tảng cho truyền thống cầu nguyện cho các linh hồn trong luyện ngục. Vì tình yêu không dừng lại nơi huyệt mộ, lòng thương xót không bị chôn vùi theo xác thịt, mà vượt qua ranh giới của sự chết, vươn tới sự sống đời đời.

Trong đức tin Công giáo, chúng ta tin rằng: ai chết trong ân sủng và tình thương của Thiên Chúa nhưng chưa được hoàn toàn thanh sạch thì sẽ được thanh luyện trong luyện ngục. Luyện ngục không phải là nơi hình phạt, nhưng là nơi chữa lành; không phải là ngục tối tuyệt vọng, nhưng là ngọn lửa tình yêu Thiên Chúa đang thiêu đốt tội lỗi còn sót lại nơi linh hồn. Thánh Grêgôriô Cả từng nói: “Một số lỗi nhẹ sẽ được thanh tẩy nhờ lửa, trước khi linh hồn được chiêm ngắm Thiên Nhan.” Còn thánh Catarina thành Genoa mô tả luyện ngục như “ngọn lửa tình yêu của Thiên Chúa nung nấu linh hồn đến tận đáy sâu”, khiến họ khao khát được kết hợp trọn vẹn với Đấng mà họ yêu thương.

Khi chúng ta cầu nguyện cho các linh hồn, chúng ta không chỉ làm một nghĩa vụ đạo đức, mà còn tham dự vào mầu nhiệm hiệp thông các thánh – Communio Sanctorum – nơi Hội Thánh khải hoàn (các thánh trên trời), Hội Thánh đau khổ (các linh hồn trong luyện ngục), và Hội Thánh chiến đấu (chúng ta nơi trần gian) liên kết với nhau bằng tình yêu và ân sủng. Khi ta cầu nguyện cho họ, ân sủng chảy từ Trái Tim Đức Kitô, qua lời cầu của Hội Thánh, mà đến với họ; khi họ được thanh luyện và lên thiên đàng, họ lại cầu nguyện cho ta. Chính trong vòng tuần hoàn yêu thương ấy, Hội Thánh trở thành một thân thể duy nhất trong Chúa Kitô – Đầu và Thân, sống và hiệp thông vượt qua sự chết.

Lời Chúa Giêsu trong Tin Mừng Gioan làm sáng tỏ niềm hy vọng này: “Ai tin vào Ta thì dù có chết cũng sẽ được sống” (Ga 11,25). Cái chết, dưới ánh sáng Đức Tin, không phải là đoạn kết, mà là cánh cửa mở ra cõi vĩnh hằng. Mọi linh hồn đã lìa cõi thế vẫn được bao bọc trong tình thương Thiên Chúa. Nhưng vì sự thánh thiện của Thiên Chúa là trọn hảo, linh hồn phải được thanh luyện để có thể chiêm ngắm Ngài. Và vì thế, Hội Thánh không ngừng cầu xin: “Lạy Chúa, xin cho các linh hồn được nghỉ yên muôn đời, và cho ánh sáng ngàn thu chiếu soi trên các linh hồn ấy.”

Trong tinh thần của Kinh Thánh, lời cầu nguyện cho người đã chết là một hành vi đức ái sâu xa. Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Côrintô nói rằng: “Công trình của mỗi người sẽ được phơi bày; vì ngày đó sẽ tỏ rạng nhờ lửa, và lửa sẽ thử nghiệm giá trị công trình của mỗi người” (1 Cr 3,13). Chính ngọn lửa ấy, theo nghĩa thiêng liêng, là hình ảnh của sự thanh luyện – để linh hồn được tinh sạch như vàng đã được thử lửa. Và lời cầu của Hội Thánh chính là làn gió yêu thương giúp ngọn lửa ấy sưởi ấm chứ không thiêu đốt.

Ngày lễ Các Đẳng Linh Hồn vì thế không phải là một ngày buồn thảm, mà là ngày của niềm hy vọng, ngày của lòng thương xót. Khi đến nghĩa trang, khi thắp lên một ngọn nến hay đọc một kinh Kính Mừng, ta đang nói với những người thân đã khuất rằng: “Bạn vẫn sống, bạn vẫn được yêu, và chúng tôi chưa bao giờ quên bạn.” Ánh sáng ngọn nến nơi mộ phần là biểu tượng của Đức Kitô Phục Sinh, Đấng đã chiến thắng sự chết và mở ra cho nhân loại con đường sự sống đời đời. Mỗi lời kinh đọc lên là một nhịp cầu nối trời và đất, nối lòng người sống và người chết trong cùng một đức tin.

Trong ngày này, Hội Thánh khuyến khích các tín hữu lãnh nhận các ân xá, dâng lễ, làm việc lành phúc đức để cầu cho các linh hồn. Bởi vì ân xá là sự diễn tả cụ thể lòng thương xót của Thiên Chúa, được Hội Thánh trao ban cho những ai kết hiệp với Đức Kitô trong cầu nguyện, sám hối và bác ái. Tình yêu không đứng yên, tình yêu luôn hành động, và chính trong hành động cầu nguyện cho người đã khuất, chúng ta thể hiện lòng trung thành với mầu nhiệm hiệp thông.

Trong đời sống đức tin, lễ Các Đẳng Linh Hồn nhắc chúng ta về thân phận tạm bợ của kiếp người: “Chúng ta không có thành trì vững bền ở trần gian này, nhưng đang tìm kiếm thành trì tương lai” (Dt 13,14). Mọi công danh, tài sản, vinh quang rồi cũng qua đi; chỉ có tình yêu và lòng thương xót tồn tại mãi. Chính khi cầu nguyện cho người đã chết, ta học được cách sống đúng cho người đang sống: sống sao để khi ra đi, ta cũng được người khác nhớ đến bằng lời cầu chứ không bằng nước mắt; được bao phủ bằng lời kinh chứ không chỉ bằng vòng hoa.

Hơn nữa, trong ánh sáng Lời Chúa, ta nhận ra rằng việc cầu nguyện cho các linh hồn cũng là một hành trình hoán cải nội tâm. Khi ta xin Chúa thương xót họ, chính ta cũng được nhắc nhở sám hối, thanh luyện bản thân, để chuẩn bị cho ngày gặp Chúa. Thánh Augustinô đã viết: “Khi cầu nguyện cho người đã chết, ta đang gieo hạt mầm của sự sống đời đời cho chính mình.”

Ngày nay, trong xã hội hiện đại đầy bận rộn, việc nhớ đến người đã khuất có khi bị xem nhẹ. Nhưng người Kitô hữu được mời gọi giữ gìn truyền thống cầu nguyện ấy như một ngọn lửa đức tin không bao giờ tắt. Dù ta cầu nguyện tại nghĩa trang, trong thánh lễ, hay trong thinh lặng của căn phòng nhỏ, Thiên Chúa đều nghe thấy và biến lời cầu ấy thành ân sủng cho các linh hồn. Và khi các linh hồn ấy được giải thoát, họ lại cầu cho ta – để hành trình của ta trên dương thế được bình an, trung tín và bền vững trong ân sủng.

Lạy Chúa Giêsu, Đấng đã nói: “Ta là sự sống lại và là sự sống”, xin thương đến các linh hồn đang mong chờ ơn giải thoát. Xin cho họ được nghỉ yên trong ánh sáng của Chúa. Xin cho chúng con, khi còn ở trần gian, biết sống quảng đại trong lời cầu, trung tín trong đức tin, và biết hướng lòng về quê trời. Xin cho mỗi ngọn nến chúng con thắp lên hôm nay trở thành biểu tượng của niềm tin vào tình yêu mạnh hơn sự chết, để một ngày kia, tất cả chúng con được hợp tiếng với các thánh và các linh hồn mà ca tụng Chúa muôn đời. Amen.

L.M Paul Nguyễn Khiết Minh

 

Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/chi-tiet/cac-dang-linh-hon

 

***

6.  Cộng đoàn hạt Cù Lao Tây hành hương Năm Thánh

Bài viết và hình: Jb Trần Thái

(WGPMT) Thứ Sáu, ngày 07.11.2025, cộng đoàn hạt Cù Lao Tây thuộc Giáo phận Mỹ Tho hành hương Năm Thánh tại Trung tâm Hành hương (TTHH) Ba Giồng – nơi kính nhớ các Thánh Tử Đạo, và Trung tâm Mục vụ (TTMV) – nơi tôn kính Lòng Chúa Thương Xót.

Mang trong lòng tâm tình tri ân và tưởng nhớ ông bà tổ tiên, cha mẹ, cùng các linh hồn đã an nghỉ trong Chúa, đoàn hành hương quy tụ để cầu nguyện, xin ơn hoán cải, và lãnh nhận ơn toàn xá Năm Thánh nhường cho các tín hữu đã qua đời trong tháng 11 này.

Lúc 14g00 cùng ngày, hơn 1000 giáo dân thuộc các giáo xứ trong hạt Cù Lao Tây đã quy tụ về TTHH Ba Giồng. Dưới sự hướng dẫn của cha Giuse Nguyễn Huỳnh Bảo Sơn – Cha phó xứ Ba Giồng cộng đoàn đã cung nghinh và thắp hương kính Cha Thánh Phêrô Nguyễn Văn Lựu cùng các thánh tử đạo.

Sau nghi thức kính viếng, Cha Giuse đã có lời chia sẻ ngắn gọn nhưng sâu sắc về ý cầu nguyện trong tháng 11 theo ý Đức Giáo Hoàng: “Cầu cho việc ngăn chặn nạn tự tử”. Tiếp đó, cộng đoàn đọc kinh, hôn kính xương Thánh Cha Phêrô Nguyễn Văn Lựu, và di chuyển đến Lễ đài Lòng Chúa Thương Xót tại TTMV để tiếp tục chương trình hành hương.

Lúc 16g00, mọi người đã tề tựu đông đủ và sốt sắng cùng nhau lần chuỗi Mân Côi kính Lòng Chúa Thương Xót. Tuy nhiên, do điều kiện thời tiết không thuận lợi, chương trình được chuyển vào bên trong Nhà thờ Nữ Vương Hòa Bình, nằm trong khuôn viên TTMV.

Thánh lễ được cử hành vào lúc 17g00, do Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm – Giám mục Giáo phận Mỹ Tho chủ tế. Đồng tế với ngài có Cha Phaolô Trần Kỳ Minh – Tổng Đại diện, Cha Phaolô Nguyễn Thành Sang – Giám đốc TTMV cùng 18 cha trong giáo phận. Thánh lễ còn có sự hiện diện của quý tu sĩ nam nữ và đông đảo tín hữu từ khắp nơi.

Trong bài giảng, Đức Cha Phêrô mời gọi cộng đoàn, “Hôm nay, chúng ta thực hiện cuộc hành hương Năm Thánh – Năm Thánh Hy Vọng, trong bối cảnh tháng 11, tháng Các Đẳng, tháng cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời. Chúng ta có bổn phận cầu nguyện cho các ngài là những người thân yêu của chúng ta. Xin anh chị em, khi đi hành hương hôm nay, lãnh nhận ơn toàn xá nhường ơn ấy cho các linh hồn. Đồng thời, trong suốt tháng 11 này, anh chị em hãy thường xuyên, mỗi ngày, nhớ cầu nguyện cho các đẳng: dâng lễ, đọc kinh, làm việc lành với ý chỉ cầu cho các linh hồn. Đó chính là cách chúng ta sống tâm tình của mầu nhiệm Các Thánh Thông Công. Khi sống tâm tình ấy, chính chúng ta cũng được hưởng ơn Chúa trong mối hiệp thông phong phú của đời sống hằng ngày.”

Trước khi kết thúc, Đức Cha gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến toàn thể cộng đoàn tham dự, vì đã không ngại mưa gió, hy sinh thời gian để cùng nhau thực hiện những cuộc hành hương trong Năm Thánh. Ngài cũng bày tỏ lòng biết ơn đến Cha Hạt trưởng cùng quý Cha đã đồng hành, nâng đỡ và cùng với giáo dân thực hiện cuộc hành hương này.

Cuối cùng, Đức Cha Phêrô ban phép lành cuối lễ và ơn toàn xá cho cộng đoàn. Thánh lễ kết thúc lúc 18g10, khép lại một ngày hành hương tràn đầy ơn phúc và sốt sắng trong tinh thần Năm Thánh.

 

Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/chi-tiet/cong-doan-hat-cu-lao-tay-hanh-huong-nam-thanh

 

***

7.  Hơn 1000 giáo dân của 2 hạt Cao Lãnh – Cù Lao Tây hành hương Năm Thánh tại Nhà thờ Cao Lãnh

Bài viết và hình ảnh: Cecilia Kim Ngân

BTT Hạt Cao Lãnh

 

(WGPMT) Sáng ngày 12.11.2025, quý Hội Đồng Mục Vụ các Giáo xứ (HĐMV) và hơn 1000 giáo dân của 2 hạt Cao Lãnh – Cù Lao Tây đã quy tụ về Nhà thờ Cao Lãnh để hành hương Năm Thánh 2025.

Vào lúc 08g00 sáng ngày 10.09.2025 có khoảng 1000 giáo dân của 2 hạt Cao Lãnh và Cù Lao Tây đã quy tụ tại Nhà thờ Cao Lãnh để thực hiện ngày hành hương Năm Thánh 2025.

Khai mạc ngày hành hương cộng đoàn dân Chúa đã được Cha Anrê Phạm Ngọc Nhạn – Cha Sở Giáo xứ Anrê, đã chia sẻ về đề tài Năm Thánh. Trong bài chia sẻ ngắn ngủi trọn vẹn 30 phút, ngài đã khơi lên trong lòng mọi tín hữu lòng nhiệt hành, lòng quảng đại, hy sinh. Qua đó, giúp mọi người nâng tâm hồn lên cùng Chúa và dọn tâm hồn sốt sẳn để bước vào Thánh lễ.

Cùng lúc đó, Quý Cha trong hạt Cao Lãnh và Cù Lao Tây đã ngồi tòa giải tội. Giúp các tín hữu được tha thứ tội lỗi, hòa giải với Thiên Chúa, hòa giải với Hội Thánh,...

Sau đó, Thánh lễ được cử hành long trọng lúc 10g00 cùng ngày, do Cha Tổng Đại Diện (TĐD) Phaolô Trần Kỳ Minh chủ sự, cùng với sự đồng tế của 2 Cha hạt Trưởng Cao Lãnh – Cù Lao Tây và hơn 30 Cha trong 2 giáo hạt.

Trong bài chia sẻ của Cha TĐD đã nhấn mạnh đến vai trò của các HĐMV trong Giáo xứ. Giúp các thành viên HĐMV nhìn ra được tầm quan trọng của mình nhờ đó sẽ ý thức hơn về những công việc mình làm để làm sáng danh Chúa. Ngài cũng mời gọi tất cả các giáo dân trong Giáo hạt phải sống tinh thần truyền giáo.

Thánh Lễ kết thúc vào lúc 11h00, một vị đại diện HĐMV đã gửi lời cảm ơn, tri ân sâu sắc nhất đến Cha TĐD, cùng Quý Cha và toàn thể cộng đoàn dân Chúa.

 

Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/chi-tiet/hon-1000-giao-dan-cua-2-hat-cao-lanh-%E2%80%93-cu-lao-tay-hanh-huong-nam-thanh-tai-nha-tho-cao-lanh

 

***

8.  Thánh lễ giỗ giáp năm cha cố Phêrô Võ Hiệp Sĩ

Bài viết và hình: Jb Trần Thái

BTT: Giáo phận

(WGPMT) Lúc 09g30 ngày 14.11.2025, Đức cha Giuse Bùi Công Trác – Giám mục Phụ tá Tổng Giáo phận Sài Gòn đến hiệp dâng Thánh lễ giỗ giáp năm Cha cố Phêrô Võ Hiệp Sĩ tại Giáo xứ Mỹ Điền – Giáo hạt Đức Hòa – Giáo phận Mỹ Tho.

Trước khi bước vào Thánh lễ, Đức cha Giuse đã gửi lời cảm ơn đến Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm – Giám mục Giáo phận Mỹ Tho, cha Phêrô Trương Ngọc Đức – Cha sở Giáo xứ Mỹ Điền, cùng toàn thể cộng đoàn và quý thân nhân trong giáo xứ đã tạo điều kiện để ngài và quý cha có thể đến hiệp dâng Thánh lễ cầu nguyện cho cha cố Phêrô, xin Chúa sớm đón nhận cha vào hưởng Nhan Thánh Chúa, cũng như thương đến các linh hồn thân yêu của mỗi người. Tiếp đến, ngài mời gọi cộng đoàn nhìn nhận những thiếu sót của mình để xứng đáng cử hành mầu nhiệm thánh.

Đồng tế với Đức cha có cha Gabriel Nguyễn Tấn Di – Hạt trưởng Hạt Đức Hòa, cha Phêrô Trương Ngọc Đức – Cha sở Giáo xứ Mỹ Điền, cùng khoảng 30 cha trong và ngoài giáo phận. Thánh lễ còn có sự hiện diện của quý tu sĩ nam nữ và đông đảo giáo dân từ các giáo xứ nơi cha cố Phêrô từng phục vụ.

Trong bài giảng, Đức cha Giuse đã sáng tác và đọc một bài thơ tặng cha cố Phêrô. Bài thơ gợi lại nguồn gốc, hành trình ơn gọi và tâm tình biết ơn đối với đời linh mục của cha cố – người đã tận tụy phục vụ đoàn chiên Chúa trao:

“Cách đây sáu mươi lăm năm về trước,
Tại Mỹ Điền, Cần Đước, Tây Ninh,
Ra đời một cậu bé xinh,
Tên Võ Hiệp Sĩ, gia đình hân hoan.
Làm linh mục rạng danh Thiên Chúa,
Đời dấn thân cứu rỗi muôn người.
Một năm trước, cha lìa đời,
Dịp mừng ngân khánh, về trời hân hoan.”

Kết thúc bài giảng, Đức cha nguyện xin: “Lạy Chúa, chúng con xin dâng linh hồn cha cố Phêrô Võ Hiệp Sĩ trong tay Chúa, với niềm hy vọng rằng Chúa sẽ ban thưởng cho cha sau một đời trung tín phục vụ Chúa. Xin cho mỗi người chúng con biết cố gắng sống tốt lành, với ước mong được chết trong ân nghĩa Chúa. Xin Chúa gìn giữ và che chở tất cả chúng con, và xin cho dù sau đời trần thế chúng con không quen biết nhau, nhưng trên quê trời, chúng con sẽ được gặp nhau, tay bắt mặt mừng, hưởng niềm vui có Chúa, niềm vui ở trong Chúa và hạnh phúc bên Chúa thật lớn lao biết là chừng nào. Amen.”

Sau lời nguyện kết lễ, Đức cha mời gọi cộng đoàn cùng đọc Kinh Lạy Cha và Kinh Tin Kính để lãnh ơn xá nhường cho các linh hồn trong luyện ngục, đặc biệt cho linh hồn cha cố Phêrô và những người thân yêu của mỗi người chúng ta. Tiếp đó, cha Phêrô Võ Minh Thiện người con của Giáo xứ Mỹ Điền, đã đại diện giáo xứ, cũng như gia đình gửi lời cảm ơn chân thành đến Đức cha, cha hạt trưởng, quý cha và cộng đoàn tham dự Thánh lễ đã cầu nguyện cho cha cố Phêrô.

Thánh lễ kết thúc nhưng để lại trong lòng cộng đoàn niềm biết ơn, tình cảm chan chứa và hy vọng phục sinh. “Chúng con cậy vì Danh Chúa nhân từ, xin cho linh hồn cha cố Phêrô Võ Hiệp Sĩ cùng các linh hồn được lên chốn nghỉ ngơi, hằng xem thấy Mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen.”

 

Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/chi-tiet/thanh-le-gio-giap-nam-cha-co-phero-vo-hiep-si

 

***

9.  Gx. Chánh Tòa: Ngày thế giới người nghèo lần thứ IX

Bài viết và hình: Anna Thuỳ Dương

(WGPMT) Sáng ngày 16.11.2025, trong bầu khí yêu thương và hiệp nhất, giáo xứ Chánh Tòa – Giáo phận Mỹ Tho hân hoan đón tiếp khoảng 500 ông bà, anh chị em có hoàn cảnh khó khăn trong và ngoài giáo xứ quy tụ về để nhận những phần quà hỗ trợ nhân ngày “Thế giới Người nghèo”.

Lúc 09g00, nhằm góp phần hỗ trợ đời sống của bà con có hoàn cảnh khó khăn, Cha Giacôbê Hà Văn Xung – Cha sở Giáo xứ Chánh Tòa, đã tổ chức “Ngày Thế giới Người nghèo”, một hoạt động được duy trì hằng năm vào Chúa Nhật XXXIII Thường niên. Đây là dịp để cộng đoàn Kitô hữu cùng nhau nâng cao ý thức và chung tay hành động vì người nghèo.

Tham dự buổi trao quà có sự hiện diện của Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm – Giám mục Giáo phận Mỹ Tho, cha Giacôbê – Cha sở Giáo xứ Chánh Tòa, cha Phêrô Nguyễn Ngọc – Cha phó giáo xứ, ông Ngô Minh Quân – Đại diện Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, cùng quý cô chú trong Hội đồng Mục vụ và các bạn huynh trưởng của giáo xứ.

Mở đầu buổi gặp gỡ, Đức cha Phêrô thân tình nhắn gửi cộng đoàn:

“Truyền thống văn hóa Việt Nam với tinh thần lá lành đùm lá rách, thương người như thể thương thân vốn rất gần gũi với Giáo hội Công giáo. Chúa dạy người Kitô hữu không chỉ kính mến Thiên Chúa mà còn phải yêu thương tha nhân như chính bản thân mình. Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã thiết lập ‘Ngày Thế giới Người nghèo’, được tổ chức hằng năm trên toàn thế giới, nhằm khuyến khích và thúc đẩy người Công giáo sống tinh thần chia sẻ, yêu thương và quan tâm đến những anh chị em có hoàn cảnh khó khăn.”

Sau đó, Đức Giám mục Phêrô, Cha sở Giacôbê và ông Ngô Minh Quân (Phó Chủ tịch MTTQ) đã đại diện trao tận tay 20 phần quà đến anh chị em có hoàn cảnh khó khăn. Mỗi phần quà gồm một phần cơm hộp, một phong bì và một phần nhu yếu phẩm.

Những nụ cười, cái bắt tay ấm áp cùng những lời thăm hỏi chân tình đã tạo nên bầu khí chan hòa yêu thương. Bên cạnh đó, chương trình còn có rút thăm trúng thưởng với 72 phần quà hấp dẫn, cùng các gian hàng quần áo miễn phí dành cho người lớn và trẻ em.

Khi trò chuyện với chị Đoàn Kim Thoa, 44 tuổi, phải ngồi xe lăn và mưu sinh bằng nghề bán vé số, chị xúc động chia sẻ:
“Hôm nay được mời đến đây, tôi vui lắm. Tôi cảm ơn nghĩa cử cao đẹp của quý Cha ở nhà thờ rất nhiều.”

Chị Nguyệt Trân, 43 tuổi, cũng làm nghề bán vé số, bày tỏ:
“Tôi rất mừng khi được nhận những phần quà hỗ trợ. Tôi mong sao ngày nào cũng có tình thương như vậy giữa con người với nhau.”

Chương trình khép lại trong tâm tình biết ơn và niềm hạnh phúc của mọi người tham dự. Ngày Thế giới Người nghèo không chỉ là dịp trao tặng những hỗ trợ vật chất, nhưng còn là cơ hội để mỗi người sống trọn vẹn hơn tinh thần Tin Mừng yêu thương.

Nguyện xin Chúa tiếp tục chúc lành cho giáo xứ, cho quý ân nhân và đặc biệt là cho những người nghèo, để họ luôn cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa qua sự nâng đỡ của cộng đoàn.

 

Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/chi-tiet/gx-chanh-toa-ngay-the-gioi-nguoi-ngheo-lan-thu-ix

 

***

10.  Gx. Bình Tạo: Thánh lễ Tạ ơn mừng 90 năm thành lập (1935-2025)

Bài viết và hình: Jb Trần Thái

BTT giáo phận

(WGPMT) Sáng ngày 23.11.2025, Giáo xứ Bình Tạo hân hoan cử hành Thánh lễ tạ ơn nhân kỷ niệm 90 năm thành lập giáo xứ (1935–2025). Thánh lễ do Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm – Giám mục Giáo phận Mỹ Tho chủ sự.

Giáo xứ Bình Tạo tọa lạc tại địa chỉ 90/4 Lê Thị Hồng Gấm, phường Thới Sơn, tỉnh Đồng Tháp. Phía Đông giáp bến phà Rạch Miễu cũ, phía Tây giáp cầu Rạch Miễu và tỉnh lộ 22, phía Nam giáp sông Tiền Giang, và phía Bắc giáp đường Lê Thị Hồng Gấm.

Thuở ban đầu, giáo dân nơi đây chủ yếu là các thành phần thuộc gia đình Đốc phủ Mầu. Đến khoảng năm 1950, một số bà con giáo dân từ vùng Bà Bèo (nay thuộc huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang) đã di dời đến khu vực này, khi đó thuộc thị xã Mỹ Tho, tỉnh Định Tường để lánh nạn chiến tranh. Số giáo dân lúc ấy chỉ vào khoảng 60 người.

Tại đây, đã có một ngôi nhà nguyện do Đốc Phủ Mầu xây dựng từ năm 1935, là nơi bà con giáo dân quy tụ để sinh hoạt đạo đức. Các linh mục từ Nhà hưu dưỡng Mỹ Tho luân phiên đến dâng lễ phục vụ đời sống đức tin của cộng đoàn.

Giáo xứ hiện có 615 giáo dân, với 180 gia đình Công giáo.

Trải qua hành trình 90 năm hình thành và phát triển ấy, cộng đoàn Giáo xứ Bình Tạo hân hoan quy tụ trong Thánh lễ tạ ơn được cử hành lúc 09g30. Đồng tế với Đức cha có cha Phaolô Trần Kỳ Minh – Tổng Đại Diện, cha Giacôbê Hà Văn Xung – Quản hạt Mỹ Tho, cha Luy Huỳnh Thanh Tân – cha sở Giáo xứ Bình Tạo, quý cha hưu cùng quý cha trong giáo phận. Hiệp dâng Thánh lễ còn có sự hiện diện của quý tu sĩ nam nữ, hội đồng mục vụ các giáo xứ, cùng toàn thể cộng đoàn dân Chúa trong và ngoài giáo xứ.

Trước khi bước vào Thánh lễ, đại diện giáo xứ Bình Tạo đã trình bày toàn bộ lịch sử hình thành và phát triển của giáo xứ cho cộng đoàn tham dự.

Trong phần huấn dụ, Đức cha Phêrô nhấn mạnh ý nghĩa lễ Chúa Kitô Vua, dịp mà cha sở cùng cộng đoàn giáo dân chọn làm ngày tạ ơn của giáo xứ. Ngài đặt vấn đề: “Chúng ta vừa nghe lại lịch sử nhà thờ và họ đạo Bình Tạo, và hôm nay giáo xứ chọn lễ Chúa Kitô Vua làm ngày tạ ơn. Vậy lễ Chúa Kitô Vua muốn nói gì với chúng ta, và cách riêng với giáo xứ Bình Tạo?”

Từ đó, Đức cha mời gọi cộng đoàn hướng về bài Tin Mừng theo Thánh Luca 23,35-43 vừa được công bố và triển khai bài giảng dựa trên sứ điệp của đoạn Tin Mừng.

Trước khi kết thúc Thánh lễ, cha Quản hạt đã công bố phép lành Tòa Thánh dành cho giáo xứ Bình Tạo. Tiếp đó, cha Luy bày tỏ lòng tri ân sâu sắc đến Đức cha Phêrô, cha Tổng Đại diện, quý cha Quản hạt, quý cha đồng tế, quý tu sĩ nam nữ, cùng tất cả những ai đã âm thầm hoặc trực tiếp đóng góp công sức, chung tay xây dựng và phục vụ giáo xứ trong suốt thời gian qua. Ngài cũng gửi lời cảm ơn chân thành đến quý khách và toàn thể cộng đoàn Dân Chúa đã hiện diện, hiệp dâng lời cầu nguyện trong ngày lễ trọng đại này.

Đáp từ, Đức cha thay lời cho cha Tổng Đại diện và quý cha, bày tỏ niềm vui khi được nghe lại lịch sử hình thành của giáo xứ, đồng thời cầu chúc giáo xứ Bình Tạo tiếp tục phát triển vững mạnh trong đời sống đức tin. Ngài cũng gửi lời chúc mừng đến toàn thể cộng đoàn nhân ngày lễ đặc biệt hôm nay.

 

Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/chi-tiet/gx-binh-tao-thanh-le-ta-on-mung-90-nam-thanh-lap-1935-2025

***

 

11.  Giáo phận Mỹ Tho: Thánh lễ Truyền chức Linh mục

Bài viết và hình: Jb Trần Thái

BTT Giáo phận

(WGPMT) – Ngày 24.11.2025, Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm – Giám mục Giáo phận Mỹ Tho – chủ sự Thánh lễ Truyền chức Linh mục cho 7 thầy phó tế tại Trung tâm Hành hương Ba Giồng, Giáo phận Mỹ Tho.

Thánh lễ được cử hành lúc 09g30, đồng tế với Đức cha có cha Phaolô Trần Kỳ Minh – Tổng Đại Diện, cha Phêrô Phạm Bá Đương – Đặc trách tu sĩ, chủng sinh giáo phận, cha Gioan Baotixita Nguyễn Tấn Sang – Giám đốc Trung tâm Hành hương Ba Giồng, cùng quý cha trong và ngoài giáo phận. Hiện diện trong Thánh lễ còn có quý tu sĩ nam nữ, quý thân nhân của các tiến chức, cùng cộng đoàn dân Chúa đến từ nhiều giáo xứ trong giáo phận.

Lời chào mừng

Trước khi bước vào Thánh lễ, cha Gioan Baotixita Nguyễn Tấn Sang gửi lời chào cộng đoàn: “Lời đầu tiên, con xin thay mặt Trung tâm Hành hương Linh địa Ba Giồng kính chào Đức cha Phêrô, cha Tổng Đại Diện, quý cha trong và ngoài giáo phận, cùng toàn thể ông bà, anh chị em và quý tu sĩ nam nữ đã về đây trong ngày đại lễ kính Các Thánh Tử Đạo Việt Nam.
Hôm nay, chúng ta cùng hiệp ý với Giáo phận Mỹ Tho mừng kính Các Thánh Tử Đạo, là bổn mạng của Giáo hội Việt Nam, cũng là bổn mạng của Giáo phận Mỹ Tho và của Giáo xứ, Trung tâm Hành hương Ba Giồng.
Đặc biệt, trong Thánh lễ sáng nay, Đức cha Phêrô sẽ truyền chức linh mục cho bảy thầy phó tế, đây là hồng ân lớn lao và là niềm vui chung của toàn giáo phận. Xin cộng đoàn hiệp ý cầu nguyện cho Giáo hội Việt Nam, Giáo phận Mỹ Tho và các tân chức linh mục.”

Mở đầu Thánh lễ

Đức cha Phêrô mời gọi cộng đoàn cùng dâng lời tạ ơn Chúa và chia sẻ: “Kính thưa anh chị em, chúng ta đang sống trong Năm Thánh Hy Vọng. Trong Năm Thánh, Giáo hội mời gọi các tín hữu thực hiện những cuộc hành hương. Hôm nay, chúng ta quy tụ về Trung tâm Hành hương Linh địa Ba Giồng để tôn kính Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, cách riêng là Cha thánh Phêrô Nguyễn Văn Lựu. Chúng ta thực hiện cuộc hành hương hôm nay trong niềm vui tạ ơn.”

Nghi thức Truyền chức Linh mục

Nghi thức truyền chức gồm ba phần chính:

1. Tuyển chọn các ứng viên

Cha Phêrô Phạm Bá Đương – Đặc trách Tu sĩ, Chủng sinh Giáo phận, giới thiệu các tiến chức và xin Đức cha phong chức linh mục. Sau khi Đức cha chấp thuận, Ngài giảng lễ, nhấn mạnh ý nghĩa của ngày kính Các Thánh Tử Đạo, ngài nói: “Máu các Thánh Tử Đạo là hạt giống nảy sinh các Kitô hữu.” để nhắn nhủ các tiến chức “khi chịu chức linh mục, chắc chắn các con vui lắm. Bởi vì cách đây có thể không chỉ 10 hay 15 năm, khi các con bước vào đại học, các con đã ấp ủ ước mơ dâng mình cho Chúa, nuôi dưỡng lý tưởng một ngày nào đó được trở thành linh mục của Chúa. Và hôm nay, ước mơ đó đã trở thành hiện thực. Cha hiểu niềm vui ấy, vì chính cha cũng đã từng sống niềm vui đó.

Nhưng cha muốn nói thêm với các con một điều: cùng với niềm vui hôm nay, các con cũng đang bắt đầu một hành trình mới. Trong hành trình ấy, Hội Thánh mong muốn mỗi ngày các con trở nên linh mục đúng nghĩa hơn, đẹp lòng Chúa hơn, và đáp ứng sự kỳ vọng của dân Chúa. Khi đó, đời sống linh mục của các con vừa thể hiện tinh thần tử đạo, tinh thần chứng nhân, vừa tràn ngập niềm vui, niềm vui của đức tin, của tình yêu và của lòng cậy trông.

Xin tất cả anh chị em cùng chúng tôi trong Thánh lễ này cầu nguyện đặc biệt cho các tiến chức hôm nay, để các con trở thành linh mục của Chúa, luôn cố gắng cộng tác với ơn Chúa, và sống đời linh mục một cách tốt đẹp nhất.”

Trước khi lãnh nhận chức linh mục, các tiến chức phải công khai nói lên quyết tâm sẽ thi hành nhiệm vụ theo ý Đức Kitô và giáo hội dưới sự điều hành của Giám mục giáo phận. Các tiến chức trải qua phần thẩm vấn và lời hứa vâng phục, các tiến chúc phủ phục trong khi cộng đoàn sốt sắng cất lên Kinh Cầu Các Thánh.

2. Đặt tay và lời nguyện truyền chức

Tiếp theo, Đức cha thực hiện nghi thức đặt tay và đọc lời nguyện thánh hiến, biến các ứng viên trở nên linh mục đời đời của Chúa. Cử chỉ đặt tay thể hiện việc thông ban Chúa Thánh Thần. Cùng với Đức Giám mục các linh mục cùng đặt tay trên các tiến chức như dấu hiệu nhận các ngài vào linh mục đoàn. Sau nghi thức đặt tay là lời nguyện truyền chức giúp các tân linh mục tham dự vào sứ mạng của Chúa Kitô, trở thành mục tử phục vụ Dân Chúa.

3. Trao các biểu tượng thừa tác vụ

Các tân linh mục được nhận: Mặc phẩm phục linh mục, Xức dầu bàn tay, biểu thị thánh hiến trong thừa tác vụ, Trao Chén Thánh, dấu chỉ đón nhận vào hàng cộng sự viên Giám mục

Nghi thức kết thúc bằng hôn chúc bình an, diễn tả sự hiệp thông và sứ mạng tư tế vừa lãnh nhận.

Thánh lễ tiếp tục với Phụng vụ Thánh Thể.

Lời cảm ơn và kết lễ

Sau Thánh lễ, một tân linh mục đại diện dâng lời cảm ơn Đức cha, cha Tổng Đại Diện, cha Giám đốc, quý cha giáo, quý cha trong và ngoài giáo phận, quý ông bà cố và mọi người đã góp phần làm nên Thánh lễ trang nghiêm.

Đáp từ, Đức cha Phêrô thay lời quý cha gửi lời cảm ơn đến cha Giám đốc Trung tâm Hành hương Ba Giồng; đồng thời bày tỏ lòng tri ân tới cha Giám đốc và Ban Giáo sư Đại Chủng viện Thánh Giuse Sài Gòn. Trong giáo phận, ngài cũng gửi lời cảm ơn tới cha Giám đốc Chủng viện Dự Bị, quý cha giảng dạy tại chủng viện, cũng như quý cha trong ban đào tạo, những người đã đồng hành cùng các tân linh mục trong suốt chặng đường ơn gọi.

Đặc biệt, Đức cha bày tỏ lòng tri ân tới quý ông bà cố, thân sinh của các tân linh mục. Không chỉ riêng ngài, mà toàn thể Giáo phận Mỹ Tho chân thành biết ơn những hy sinh, lời cầu nguyện, gương sáng và sự nâng đỡ của các gia đình. Nhờ đó, các thầy đã kiên trì và trung thành suốt hơn mười năm trong hành trình chủng viện, để hôm nay được thụ phong linh mục. Ngài mong quý ông bà cố tiếp tục đồng hành và cầu nguyện, để người con linh mục của mình ngày càng chu toàn hơn trong sứ vụ được trao phó.

Ngài cũng mời cộng đoàn đọc kinh để lãnh ơn toàn xá, dâng cho các linh hồn trong tháng 11, và cuối lễ đọc lời nguyện chúc lành trên các tân chức. Các tân linh mục ban phép lành đầu tiên cho Đức cha, quý cha và toàn thể cộng đoàn.

 

Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/chi-tiet/giao-phan-my-tho-thanh-le-truyen-chuc-linh-muc

***

 

12.  Thánh lễ Tạ ơn của tân linh mục Phêrô Trần Thế Anh Tài

Bài viết và hình: Phêrô Văn Gấm

BTT Giáo Phận

(WGPMT) Sáng ngày 26.11.2025 tân linh mục Phêrô Trần Thế Anh Tài dâng Thánh lễ Tạ ơn tại Nhà thờ Cao Lãnh, toạ lạc tại phường Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.

Ngày 24.11.2025, Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm – Giám mục Giáo phận Mỹ Tho đã Truyền chức Linh mục cho thầy phó tế Phêrô Trần Thế Anh Tài và sau hai ngày (26.11) cha mới trở về giáo xứ quê nhà dâng Thánh lễ Tạ ơn tại Nhà thờ Cao Lãnh lúc 09g30.

Đồng tế trong thánh lễ có cha Hạt trưởng Cao Lãnh Nicola Nguyễn Tấn Hoàng - Cha sở Giáo xứ Cao Lãnh, cha Phêrô Phạm Bá Đương - Giám đốc Chủng viện Dự bị Gioan 23, cha Marcel Trần Văn Tốt - Nguyên cha sở Giáo xứ Cao Lãnh, cùng 10 cha trong giáo phận. Tham dự thánh lễ có quý tu sĩ, thân nhân và quý khách mời của cha mới.

Cha Tôma Nguyễn Văn Phong - Cha sở Giáo xứ Tín Đức chia sẻ Lời Chúa cho cộng đoàn tham sự Thánh lễ Tạ ơn của cha mới tại Nhà thờ Cao Lãnh.

Sau lời nguyện hiệp lễ, cha mới nói lên tâm tình tri ân quý cha, quý thân nhân, ân nhân và quý khách mời đã đồng hành và cầu nguyện cho ngài được vững bước trên hành trình ơn gọi. Cha mới cũng xin quý cha và mọi người tiếp tục cầu nguyện trong hành trình linh mục đầy khó khăn và thử thách.

 

Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/chi-tiet/thanh-le-ta-on-cua-tan%C2%A0linh-muc-phero-tran-the-anh-tai

***

 

13. “Không thể tách rời đức tin khỏi tình yêu dành cho người nghèo”

Bài viết và hình: Lm. Giacôbê Phụng

(WGPMT) Ngày 26.11.2025 cha Giacôbê Nguyễn Minh Phụng – Cha sở Giáo xứ Thánh Phaolô (Bà Từ) - Giáo phận Mỹ Tho đã cùng với Ban mục vụ, giới trẻ, ca đoàn, hội các Bà Mẹ Công giáo và một số giáo dân thiện nguyện thực hiện chuyến đi giúp đỡ cho bà con vùng bão lũ.

Bài viết Vatican News đưa tin, ngày 9/10 Đức Thánh Cha Lêô XIV đã công bố Tông huấn “Dilexi te” (Ta đã yêu con) (Kh 3,9), văn kiện đầu tiên của ngài. Trong Tông huấn, Đức Thánh Cha phác họa các gương mặt của nghèo đói: không chỉ là thiếu thốn vật chất mà còn là những nghèo đói luân lý, văn hóa và tinh thần. Ngài phê bình sự dửng dưng của một số tín hữu trước cảnh nghèo khổ, hiếm khi bố thí hoặc coi thường việc bố thí. Đức Thánh Cha mời gọi: “Chúng ta cần thực hành việc bố thí để chạm đến thân xác đau khổ của người nghèo”. Ngài nhắc lại chứng tá của các thánh và nói rằng “có một mối liên kết không thể tách rời giữa đức tin của chúng ta và người nghèo”.

Theo lời mời gọi Đức Thánh Cha, cùng với những tin tức và hình ảnh đau thương của bà con vùng bão lũ trên các phương tiện truyền thông, chỉ trong một năm, miền Trung phải gánh chịu và oằn mình trong lũ chồng lũ. Lúc 16g00 ngày 26.11.2025 cha Giacôbê Nguyễn Minh Phụng – Cha sở Giáo xứ Thánh Phaolô (Bà Từ), Giáo điểm Kinh Nhiếm, Giáo phận Mỹ Tho đã cùng với Ban mục vụ, giới trẻ, ca đoàn, hội các Bà Mẹ Công giáo và một số giáo dân thiện nguyện thực hiện chuyến đi giúp đỡ cho bà con vùng bão lũ nơi các giáo xứ: Mằng Lăng, Hội Tín, Đồng Cháy, Giáo Họ Xóm Mới.

Cha Giacôbê chia sẻ: “Lúc đầu, chỉ xem tin tức và hình ảnh, lòng người xót xa đau nhói, nhưng khi đến nơi tận mắt chứng kiến, lòng càng co thắt lại khi nhìn bà con mất trắng, chỉ còn mấy bộ đồ mang theo, nhìn những cụ già, các em thiếu nhi với đôi mắt ngơ ngát, gương mặt hốc hác vì thiếu ăn, mất ngủ và hoảng sợ. Nhìn thấy những cảnh tượng ấy, cha cảm nhận như “những máng cỏ nghèo tàn” ở miền Trung mưa bão, ngập lụt,… còn đang rất cần những cọng rơm, mãnh tã, và hơi ấm của tình người”.

Những phần quà cha Giacôbê gửi đến bà con vùng bão lũ từ nhiều người đóng góp: Quý ân nhân xa gần, những tấm lòng yêu thương của bà con Giáo xứ Thánh Phaolo Bà Từ, Giáo điểm Kinh Nhiếm và một số bà con lương dân gồm: 10 tấn gạo, 1000 thùng mì tôm, 2 tấn cá khô, 1000 cái mền, 480 lốc sữa, 500 liều thuốc cảm, 500 đòn bánh tét, 500 ổ cơm cháy chà bông, 210 lốc nước đóng chai.

Những phần quà nhỏ này tuy không thể giúp bà con vùng bão lũ vượt qua hết mọi khó khăn nhưng cũng mang đến tình yêu thương, niềm hy vọng cho những con người khốn  khó, theo như lời Đức Thánh Cha đã khẳng định trong Tông huấn “Dilexi te”: Phục vụ người nghèo không phải là hành động “từ trên ban xuống”, nhưng là “cuộc gặp gỡ giữa những người bình đẳng”.

 

Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/chi-tiet/%E2%80%9Ckhong-the-tach-roi-duc-tin-khoi-tinh-yeu-danh-cho-nguoi-ngheo%E2%80%9D

***

 

14. Thánh lễ Cung hiến Bàn thờ và Khánh thành Nhà thờ Cả Ràng

Bài viết và hình: Jb Trần Thái
BTT Giáo phận


(WGPMT) Lúc 09g30, ngày 29.11.2025, Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm – Giám mục Giáo phận Mỹ Tho, chủ sự Thánh lễ Cung hiến Nhà thờ Cả Ràng thuộc Giáo hạt Tân An, Giáo phận Mỹ Tho.

Lược sử Nhà thờ Cả Ràng

Theo kỷ yếu của Giáo phận và các sử liệu được ghi chép lại, đặc biệt trong báo Nam Kỳ Địa Phận xuất bản năm 1918 (mục số 465, trang 537), Giáo xứ Cả Ràng đã hiện hữu từ năm 1907 trên mảnh đất này thuộc xã Tân Tây, huyện Thạnh Hóa, tỉnh Long An(cũ) nay thuộc tỉnh Tây Ninh.

Trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm và liên tiếp các cuộc chiến tranh, Nhà thờ Cả Ràng xưa đã nhiều lần bị thiêu hủy, toàn bộ hồ sơ liên quan đến đất đai và sinh hoạt tôn giáo đều thất lạc. Đến năm 2017, cha Phêrô Đặng Văn Đâu cùng cộng đoàn giáo dân đã bắt đầu tiến trình tái lập lại Giáo xứ Cả Ràng.

Nhà thờ Giáo xứ Cả Ràng tọa lạc tại ấp 1, xã Tân Tây, huyện Thạnh Hóa, cách Quốc lộ 62 khoảng 3 km và nằm cạnh bờ sông Vàm Cỏ Tây. Giáo xứ hiện có khoảng 300 giáo dân, đời sống còn nhiều khó khăn. Một dấu mốc quan trọng trong lịch sử Giáo xứ Cả Ràng bắt đầu từ ngày 09.02.2021, khi Đức Cha Phêrô ký văn thư thành lập giáo xứ. Đến ngày 21.05.2023, ngài phê duyệt bản quy hoạch và chấp thuận cho xây dựng Nhà thờ Cả Ràng. Tiếp đó, ngày 05.12.2024, Đức Cha Phêrô chủ tế Thánh lễ Tạ ơn và đặt viên đá đầu tiên xây dựng nhà thờ. Hôm nay, ngày 29.11.2025, ngài long trọng chủ sự Thánh lễ khánh thành ngôi thánh đường mới.

Thánh lễ Cung hiến Bàn thờ và Khánh thành Nhà thờ Cả Ràng

Đồng tế với ngài có Đức cha Đaminh Nguyễn Văn Mạnh – Giám mục Giáo phận Đà Lạt, Cha Phaolô Trần Kỳ Minh – Tổng Đại Diện, Cha Phaolô Phạm Minh Thanh – Hạt trưởng hạt Tân An, Cha Phêrô Đặng Văn Đâu – Cha sở Giáo xứ Cả Ràng, cùng quý cha trong và ngoài Giáo phận. Thánh lễ còn quy tụ đông đảo quý tu sĩ nam nữ và cộng đoàn dân Chúa.

Trước khi bước vào Thánh lễ, cộng đoàn cùng quy tụ trước tiền sảnh nhà thờ để tham dự nghi thức cắt băng khánh thành, mở bia lưu niệm và mở cửa chính nhà thờ.

Sau nghi thức, Cha sở trình bày vắn tắt về quá trình xây dựng công trình nhà thờ và gửi lời chào mừng đến quý Đức cha, quý cha và toàn thể cộng đoàn.

Thánh lễ bắt đầu với nghi thức làm phép nước và rảy nước thánh. Đức cha Phêrô làm phép nước, sau đó rảy nước thánh trên cộng đoàn dân Chúa, trên tường Nhà thờ và trên Bàn thờ mới.

Sau bài giảng của Đức cha Phêrô là phần Kinh Tin Kính. Tiếp đến, nghi thức Cung hiến được bắt đầu bằng Kinh cầu các Thánh.

Khi Kinh cầu kết thúc, Đức cha Phêrô và cha sở đặt xương các thánh tử đạo vào bàn thờ mới, rồi đọc lời nguyện Cung hiến Bàn thờ và Nhà thờ.

Sau lời nguyện, Đức cha xức dầu thánh trên bàn thờ, các cha được chỉ định tiến đến xức dầu trên các vách tường Nhà thờ mới. Từ giây phút này, bàn thờ và ngôi thánh đường chính thức được hiến dâng trọn vẹn cho Thiên Chúa, và chỉ được sử dụng trong các cử hành phụng vụ của Hội Thánh.

Tiếp theo, Đức cha bỏ hương và xông hương bàn thờ. Nghi thức Cung hiến được kết thúc bằng phần thắp sáng Bàn thờ và Nhà thờ – biểu trưng cho ánh sáng của Đức Kitô lan tỏa khắp nơi, chiếu soi cộng đoàn dân Chúa.

Kết thúc nghi thức, cha Phaolô Phạm Minh Thanh công bố văn thư Cung hiến Nhà thờ Cả Ràng.

Thánh lễ được tiếp tục với phần Phụng vụ Thánh Thể.

Trước khi Thánh lễ kết thúc, Cha Đâu, thay mặt cộng đoàn dân Chúa Giáo xứ Cả Ràng, dâng lời cảm tạ và tri ân đến Đức cha Phêrô, Đức cha Đaminh, quý cha, quý tu sĩ nam nữ, quý ân nhân, thân nhân, quý khách và toàn thể cộng đoàn hiện diện. Thánh lễ kết thúc lúc 11g30.

 

Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/chi-tiet/thanh-le-cung-hien-ban-tho-va-khanh-thanh-nha-tho-ca-rang

***

 

15.  Cuộc thi Tìm hiểu về Năm Thánh 2025

Cha thánh Phêrô Nguyễn Văn Lựu và 27 Anh hùng tử đạo Ba Giồng

Bài viết: Rôsa Chân Như

Hình: Giuse Quang Thịnh

 

(WGPMT) – Với tinh thần học hỏi và huynh đệ, Chúa Nhật 30.11.2025, các bạn trẻ đã tề tựu về Trung tâm Hành hương (TTHH) Linh địa Ba Giồng để tham gia Cuộc thi Tìm hiểu Năm Thánh 2025, Cha thánh Phêrô Nguyễn Văn Lựu và 27 Anh hùng tử đạo Ba Giồng, TTHH Linh địa Ba Giồng.

Từ 06g30, các bạn thiếu nhi từ các giáo xứ tham gia (Ba Giồng, Trung Lương, Thánh Antôn) đã quy tụ đông đảo, dọn lòng sốt sắng tham dự Thánh lễ do Cha Giuse Nguyễn Huỳnh Bảo Sơn – Cha phó Gx. Ba Giồng – chủ tế, và Cha Antôn Maria Lê Hà Diệp Phúc đồng tế.

Sau giờ ăn sáng cùng nhau, lúc 08g30, Cha Gioan Baotixita Nguyễn Tấn Sang — Giám đốc TTHH, Cha sở Gx. Ba Giồng – tuyên bố chính thức khai mạc cuộc thi. Ngay sau đó, lễ đài rộn ràng với những tiết mục giao lưu văn nghệ từ các giáo xứ, làm nóng bầu khí trước khi bước vào phần thi Trắc nghiệm – Viết.

Tiết mục giao lưu văn nghệ

Các thí sinh thực hiện phần thi Trắc nghiệm - Viết

Đầu giờ chiều, Thầy Phêrô Phạm Xuân Anh công bố 10 bài thi xuất sắc nhất được vào phần thi Thuyết trình. Sau 15 phút sôi động với giờ sinh hoạt chung, cũng là thời gian chuẩn bị thuyết trình, các thí sinh lần lượt trình bày hiểu biết và cảm nghiệm thiêng liêng của mình trước Ban Giám khảo (gồm Cha Antôn Maria Diệp Phúc, Quý Soeurs, Quý Dì) về một trong ba nội dung của chủ đề cuộc thi.

Một đại diện từ Gx. Thánh Antôn thực hiện phần thi Thuyết trình

Các bạn từ Gx. Ba Giồng đại diện dâng lời tạ ơn Thiên Chúa, tri ân Quý Cha, Quý Thầy, Quý Soeurs. Cha phó Giuse đã bế mạc cuộc thi lúc 15g30, cùng gửi tặng phần quà lưu niệm cho các đoàn tham gia. Được biết, kết quả chung cuộc sẽ được công bố sau 2-3 ngày và trao thưởng vào một Chúa Nhật sau.

Trước khi ra về, đoàn thiếu nhi giáo xứ đến phòng thăm viếng, cầu nguyện với Cha thánh Phêrô Lựu, sau đó hôn xương thánh để khép lại một ngày hành hương đặc biệt.

Bạn Maria Ngô Thanh Trúc – thí sinh tham dự cuộc thi – bày tỏ:“Em muốn được gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Ban tổ chức. Quý Cha, Quý Thầy, Quý Soeurs đã tâm huyết tạo nên sân chơi này, nơi chúng em được giao lưu, học hỏi lẫn nhau, thêm kính yêu các Anh hùng Tử đạo.”

Cuộc thi tuy đã kết thúc nhưng dư âm về tinh thần tử đạo oanh liệt, can trường của Cha thánh Phêrô Lựu và 27 tín hữu Ba Giồng vẫn ngân vang trong tâm thức và thôi thúc các thí sinh sống đức tin mạnh mẽ hơn, sốt sắng hơn, không chỉ trong Năm Thánh 2025 mà trong suốt cả cuộc đời. Từ đó, các bạn “tiếp nối truyền thống đức tin của các Anh hùng Tử đạo”, như lời nhắn nhủ của Cha Giuse trong Thánh lễ.

 

Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/chi-tiet/cuoc-thi-tim-hieu-ve-nam-thanh-2025-cha-thanh-phero-nguyen-van-luu-va-27-anh-hung-tu-dao-ba-giong

***

 

 

TIN GIÁO HỘI VIỆT NAM

1. Tóm tắt và nhận định về Tông huấn Dilexi te của Đức Giáo hoàng Lêô XIV

TÓM TẮT VÀ NHẬN ĐỊNH VỀ

TÔNG HUẤN "DILEXI TE - TA ĐÃ YÊU MẾN NGƯƠI"

CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG LÊÔ XIV

 

 

PHẦN A. TÓM TẮT

Lời mở đầu: Tình yêu như khởi điểm và cùng đích của sứ mạng (số 1–4)

Tông huấn Dilexi te – “Ta đã yêu mến ngươi” (Kh 3,9) – được Đức Giáo Hoàng Lêô XIV ban hành ngày 4.10.2025, lễ thánh Phanxicô Assisi, trong bối cảnh thế giới bị rạn nứt bởi chiến tranh, khủng hoảng môi sinh và khoảng cách giàu nghèo ngày càng sâu.

Đức Lêô XIV muốn đánh thức trái tim Tin mừng nơi từng Kitô hữu, để Giáo hội trở về căn tính của mình: Hội thánh của tình yêu và lòng thương xót. Ngài viết: “Khi Hội thánh quên mất người nghèo, Hội thánh đánh mất chính khuôn mặt của Đức Kitô” (số 3).

Tông huấn tiếp nối Evangelii Gaudium (Niềm vui Tin mừng) và Fratelli Tutti (Tất cả là anh em), nhằm trình bày một linh đạo bác ái mới cho thời đại toàn cầu hóa kỹ thuật số: sống đức tin trong hành vi yêu thương: “Đức tin không có tình yêu là đức tin chết” (Fides sine caritate mortua est, x. Gc 2,26).

1. Người nghèo trong kế hoạch cứu độ (số 5-9)

Thiên Chúa đã chọn liên đới với kẻ bé mọn: “Ta đã nghe tiếng kêu than của dân Ta tại Ai Cập” (Xh 3,7).

Đức Kitô, Ngôi Lời Nhập Thể, “đã trở nên nghèo vì chúng ta” (2Cr 8,9). Trong Người, người nghèo trở thành bí tích của sự hiện diện Thiên Chúa (sacramentum Dei), nơi mầu nhiệm cứu độ được tái diễn mỗi ngày.

Do đó, phục vụ người nghèo không chỉ là hành vi luân lý, mà là hành vi thần học, vì “Ai cúi xuống với người nghèo là chạm đến chính thân thể Đức Kitô chịu thương tích” (số 8).

2. Tình yêu thương xót – trung tâm của Tin mừng (số 11-12)

“Yêu người nghèo không phải là một chọn lựa xã hội, mà là criterium fidei – tiêu chuẩn xác thực của đức tin.”

Từ dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu (Lc 10,25–37), Đức Lêô XIV trình bày một caritas in motu – tình yêu luôn lên đường, cúi xuống và chạm đến vết thương nhân loại. Ngài viết: “Không thể có một Kitô giáo vô cảm (apatheia sacra), cũng không thể có một Hội thánh chỉ biết giảng dạy mà không rửa chân cho anh em.” (số 12)

Đức tin và lòng thương xót là “hai mặt của một đồng tiền cứu độ” (duae facies unius salutis). Tin mà không yêu là phủ nhận chính Đức Kitô chịu đóng đinh – Crux amoris.

3. Những khuôn mặt mới của người nghèo (số 16-22)

Người nghèo hôm nay không chỉ là kẻ đói khát vật chất, mà còn là người bị cô lập, nghiện kỹ thuật số, di dân, người già bị bỏ rơi, nạn nhân chiến tranh và bạo lực. “Người nghèo hôm nay không chỉ thiếu bánh mà còn thiếu ý nghĩa” (số 19).

Vì thế, Tông huấn kêu gọi hoán cải mục vụ (conversio pastoralis): từ thái độ “ban phát từ trên xuống” sang “hiệp hành với người nghèo” (synodus cum pauperibus).

“Hội thánh không chỉ cho đi, nhưng đi cùng, lắng nghe và học nơi người nghèo bài học Tin mừng” (số 20).

4. Giáo hội của người nghèo – Ecclesia pauperum (số 23-30)

Giáo hội chỉ là chính mình khi trở nên nghèo, phục vụ và gần gũi: “Giáo hội nghèo là Giáo hội tự do, vì chỉ ai nghèo mới có thể yêu mà không đòi lại gì” (số 26). Câu nói nổi tiếng của thánh Gioan XXIII: “Giáo hội của người nghèo” (Ecclesia pauperum) được ngài làm sống lại trong bối cảnh hiện đại.

Các giáo xứ, cộng đoàn, dòng tu và phong trào được mời gọi trở thành “nhà thương của linh hồn” (hospitale animarum), nơi người nghèo được đón tiếp, chữa lành và tôn trọng phẩm giá (humanum dignitas).

Phụng vụ, giáo lý, việc rao giảng và các hoạt động mục vụ cần phản ánh gương mặt của Deus Misericors – Thiên Chúa từ bi. Đức Giáo Hoàng cảnh báo: “Một Hội thánh không còn ngửi thấy ‘mùi chiên’ (sensus ovium) là một Hội thánh đang chết dần trong tháp ngà.”

5. Nền kinh tế hiệp thông và công ích (số 31-37)

Đức Lêô XIV phê bình nền “kinh tế loại trừ” (economia exclusionis) và “văn hóa phế thải” (cultura scarti), nơi con người bị đo bằng lợi nhuận: “Một nền kinh tế không phục vụ con người là nền kinh tế chống lại Tin mừng” (số 33).

Giải pháp được đề nghị là một nền kinh tế hiệp thông (economia communionis), nơi “lợi nhuận phục vụ nhân vị”. Ngài nhấn mạnh: “Bác ái không thể thay thế công bằng, nhưng phải làm cho công bằng trở nên nhân bản hơn” (caritas non substituit iustitiam, số 35).

Giúp người nghèo không dừng ở từ thiện (beneficentia), mà phải chạm đến các cơ cấu sinh ra nghèo đói – chiến tranh, nô lệ tài chính, khai thác môi sinh, và chủ nghĩa tiêu thụ vô cảm.

Tình yêu, nếu không mang tính xã hội và cơ cấu, thì không còn là caritas Christi, mà chỉ là cảm xúc thoáng qua.

6. Truyền thống sống động của Hội thánh (số 38-43)

Tông huấn đặt mình trong dòng chảy của học thuyết xã hội Công giáo – từ Rerum Novarum (1891) đến Fratelli Tutti (2020) – như một sự phát triển hữu cơ (development in continuity).

Đức Lêô XIV trích dẫn các thánh nhân đã làm cho Tin mừng trở nên cụ thể: thánh Lawrence – tử đạo vì bảo vệ người nghèo; Phanxicô Assisi – người anh em của muôn loài; Vinh Sơn Phaolô – cha của lòng bác ái; và Mẹ Têrêsa Calcutta – “người nữ tu của những nẻo đường.”

Ngài khẳng định rằng chứng tá khó nghèo tự nguyện (paupertas voluntaria) là bài giảng hùng hồn nhất về Tin mừng.

Các linh mục, tu sĩ và giáo dân thánh hiến được mời gọi canh tân ơn gọi của mình: trở nên dấu chỉ nghịch lý giữa thế giới duy tiêu thụ – một “Ngôn ngữ thinh lặng (lingua silentii) của tình yêu, là ngôn ngữ mạnh nhất mà thế giới hôm nay cần nghe” (số 42).

7. Thử thách và hy vọng (số 44-48)

Trong một thế giới “nghèo vật chất ít hơn, nhưng nghèo tinh thần nhiều hơn”, Đức Giáo Hoàng nhận định rằng sự cô đơn, trống rỗng và khủng hoảng ý nghĩa là những hình thức nghèo khổ mới. Ngài viết: “Con người hôm nay có mọi phương tiện để sống, nhưng lại không biết vì sao mà sống.” (số 45)

Giữa cơn khủng hoảng niềm tin của thế giới kỹ thuật số, người nghèo trở thành “thần học sống động của hy vọng” (theologia spei viva). “Chính họ – không phải chúng ta – đang rao giảng Tin mừng bằng lòng kiên vững và niềm tin tinh ròng” (số 47).

Vì thế, Giáo hội được mời gọi trở nên “cánh đồng của lòng thương xót” (field hospital of mercy), nơi các tâm hồn được chữa lành.

Kết luận – Tình yêu trở nên xác phàm (số 49-50)

Tông huấn khép lại bằng lời của Chúa Giêsu: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới: hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34).

Đức Lêô XIV mời gọi toàn thể Hội thánh sống tình yêu ấy trong khuôn mặt cụ thể của công bằng, lòng thương xót và chia sẻ. Ngài viết: “Hội thánh sẽ không bao giờ là dấu chỉ Nước Trời nếu không trở nên thân thể đang rướm máu cùng người nghèo.” Tình yêu không phải là cảm xúc nhưng là hành vi cứu độ (actus salutis), là việc để Thiên Chúa yêu thương qua chúng ta.

“Người nghèo là kho báu của Hội thánh – thesaurus Ecclesiae – là nơi Đức Kitô đang chờ được nhận ra, được yêu, và được phục vụ.”

 

PHẦN B. NHẬN ĐỊNH TÔNG HUẤN DILEXI TE LIÊN KẾT VỚI VIỆC TRUYỀN GIÁO

Trong phần nhận định này, mục tiêu không phải thẩm định lại giá trị học thuật của bản văn, nhưng nối kết các nhấn mạnh của Dilexi te với chương trình truyền giáo 3 năm (2025–2028) trong Thư chung của Hội đồng Giám mục Việt Nam (Hội đồng Giám mục Việt Nam).

Cụ thể: (1) lấy các trục thần học – mục vụ của Tông huấn làm nền; (2) đọc lại thực tế Việt Nam dưới ánh sáng ấy; (3) đề ra bước đi mục vụ khả thi; và (4) quy chiếu cách minh bạch đến các định hướng truyền giáo của HĐGMVN.

1. Tình yêu – Cội nguồn của sứ mạng

Giáo huấn

Tông huấn Dilexi te (số 1–3) mở đầu bằng khẳng định: “Tình yêu là khởi điểm và cùng đích của mọi sứ mạng Kitô hữu.” Đức Lêô XIV gọi đó là caritas incarnata – tình yêu nhập thể, được tỏ lộ nơi Đức Kitô “Đấng đã trở nên nghèo vì chúng ta” (2Cr 8,9). Bởi vậy, “Phục vụ người nghèo không chỉ là hành động bác ái, mà là chạm đến chính Thân Thể Mầu Nhiệm của Đức Kitô.” (Dilexi te, số 5).

Thực tế

Ở Việt Nam, lòng bác ái nơi các giáo xứ rất mạnh, nhưng nhiều khi dừng lại ở việc “phát quà” hơn là “trao tình.” Người nghèo ra về với túi quà đầy, nhưng trái tim vẫn trống. Một nền bác ái chỉ dừng lại ở hành động mà không thấm nhuần cầu nguyện và hiệp thông sẽ dễ trở thành phong trào.

Gợi ý thực hành

– Lập “Nhóm Gặp Gỡ Người Nghèo”: thăm viếng, chia sẻ Lời Chúa, cầu nguyện, có khi ở lại như bạn hữu.

– Dành ngân quỹ mục vụ cho “Quỹ Sinh Kế”: dạy nghề, sửa nhà, chữa bệnh để yêu thương bền vững.

– Mỗi chuyến thăm kết bằng cử chỉ loan báo: đọc một đoạn Tin mừng ngắn, trao một quyển Phúc Âm, cùng cầu nguyện.

Tinh thần truyền giáo

Theo Chương trình Mục vụ Truyền giáo 2025–2028 của HĐGMVN, “Mỗi Kitô hữu được mời gọi làm chứng bằng tình yêu cụ thể nơi môi trường sống” (Văn kiện HĐGMVN 2024, số 12). Bác ái không chỉ là việc thiện, mà là lời rao giảng âm thầm: “Không ai rao giảng Tin mừng hữu hiệu hơn người yêu thương trong thinh lặng.”

2. Đức tin và lòng thương xót – Hai mặt của một đồng tiền cứu độ

Giáo huấn

Dilexi te (số 12–14) nhấn mạnh: “Tin mà không yêu là phủ nhận chính Đức Kitô chịu đóng đinh.” Đức tin và lòng thương xót là hai mặt của cùng một thực tại cứu độ. Đức Lêô XIV dùng cụm từ fides sine caritate mortua est – đức tin không có tình yêu là đức tin chết (x. Gc 2,26). Đức tin chân thật phải “mang hình hài của lòng thương xót và biến đổi xã hội từ bên trong.”

Thực tế

Giữa các cộng đoàn Việt Nam, dễ thấy hai khuynh hướng: nhóm đạo đức thì sâu phụng vụ nhưng thiếu dấn thân xã hội; nhóm thiện nguyện thì năng động nhưng xa rời cầu nguyện. Khi đức tin và lòng thương xót tách rời, Tin mừng bị mất uy lực.

Gợi ý thực hành

– Mỗi hội đoàn chọn một việc bác ái lâu dài (thăm bệnh, dạy học, giúp người thất nghiệp).

– Đưa học phần Dilexi te vào lớp giáo lý người trưởng thành: học – thực hành – chứng từ.

– Mỗi mùa Chay, các cộng đoàn tổ chức “Ngày Hoán Cải Mục Vụ”

– nơi mọi người chia sẻ việc bác ái cụ thể đã làm.

Tinh thần truyền giáo

Như HĐGMVN viết: “Truyền giáo hôm nay là sống lòng thương xót giữa thế giới thờ ơ” (HĐGMVN 2023, số 8). Đức tin được rao giảng không bằng miệng, mà bằng “đôi tay biết chạm, đôi mắt biết nhìn và trái tim biết cảm.”

3. Những khuôn mặt mới của người nghèo

Giáo huấn

Dilexi te (số 18–21) mở rộng khái niệm “người nghèo”: không chỉ là người thiếu cơm áo, mà là người bị loại trừ – di dân, người già cô đơn, thanh niên nghiện mạng, nạn nhân chiến tranh, môi trường. Ngài gọi đó là “các biên cương mới của Tin mừng.”

Thực tế

Ở Việt Nam, những “ngoại biên mới” ngày càng rõ: người già không con cái chăm, công nhân xa quê, nông dân mất đất, thanh thiếu niên cô đơn kỹ thuật số. Dù có những sáng kiến như “Bữa cơm 0 đồng”, vẫn thiếu định hướng dài hạn và chiều kích thiêng liêng.

Gợi ý thực hành

– Mỗi giáo xứ nên có “Bàn mục vụ di dân”, nơi đón tiếp, hướng dẫn, và tạo công việc.

– Lập “Phòng tư vấn kỹ thuật số”: giúp bạn trẻ vượt qua nghiện mạng, trầm cảm, khủng hoảng.

– Mỗi Mùa Chay chọn một “ngoại biên mới” để đồng hành – người khuyết tật, trẻ bỏ học, hay gia đình công nhân.

Tinh thần truyền giáo

“Truyền giáo không chỉ là đi xa, mà là đi gần.” (HĐGMVN 2025, định hướng truyền giáo số 4). Chúa vẫn ngồi bên “giếng Giacóp” của thời đại @, chờ ta mang lại “nước hằng sống.” Người nghèo kỹ thuật số chính là vùng đất mới của Tin mừng.

“Không ai quá xa để không thể được yêu, không ai quá nghèo để không thể trở thành quà tặng.”

4. Giáo hội của người nghèo – Ecclesia Pauperum

Giáo huấn

Dilexi te (số 25–29) xác định: “Hội thánh chỉ là chính mình khi trở nên nghèo, phục vụ và gần gũi.” Nghèo là chọn lối sống tự hạ như Đức Kitô cúi xuống rửa chân (x. Ga 13,1–15).

Thực tế

Ở Việt Nam, nhiều giáo xứ có cơ sở vật chất đồ sộ, nhưng lại thiếu hơi ấm của hiệp thông. Người nghèo đến nhà thờ thấy xa cách; các ủy ban bác ái vận hành tốt nhưng thiếu tiếng nói của chính người nghèo. Tình trạng “mục vụ từ trên xuống” khiến Hội thánh khó chạm đến tâm hồn người bé mọn. Đức Gioan XXIII từng nói: “Giáo hội không phải là cung điện của quyền lực, nhưng là lều tạm của lòng thương xót.”

Gợi ý thực hành

– Lập “Hội đồng người nghèo” để họ được nói lên tiếng nói của mình.

– Mỗi quý tổ chức “Chúa nhật người nghèo lên tiếng”: nghe họ kể câu chuyện của mình.

– Các dòng tu dành “một tháng sống với người nghèo”: hiện diện thực tế tại khu lao động, xóm chài, trại khuyết tật, để lắng nghe và cùng chia sẻ đời thường.

Tinh thần truyền giáo

HĐGMVN (2024, số 16) khẳng định: “Chỉ một Hội thánh nghèo mới có thể đến được với người nghèo.” Khi chúng ta bớt quyền lực, bớt phô trương, thế giới sẽ nhận ra nơi ta khuôn mặt khiêm nhường của Đức Kitô. Cách truyền giáo này không ồn ào, mà lặng lẽ: bằng sự gần gũi, chia sẻ, lắng nghe.

“Một Giáo hội biết cúi xuống sẽ khiến cả thế giới ngẩng đầu lên nhìn về Thiên Chúa.”

5. Nền kinh tế và công ích – Bonum Commune

Giáo huấn

Dilexi te (số 33–37) khẳng định: “Bác ái không thể thay thế công bằng.” Hội thánh phải nói tiếng nói lương tâm trong nền kinh tế toàn cầu, nơi con người bị định giá bằng hiệu suất. Đức Lêô XIV tiếp nối Caritas in Veritate (số 36): “Tình yêu không loại trừ công bằng, nhưng đòi hỏi nó như điều kiện tiên quyết.”

Thực tế

Ở Việt Nam, nhiều người Công giáo làm ăn lương thiện, nhưng chưa nhận ra rằng kinh doanh là một sứ mạng truyền giáo. Tiền bạc, nếu không phục vụ con người, sẽ trở thành ngẫu tượng, như lời cảnh tỉnh của Đức Phanxicô: “Đồng tiền là thần mới của thời đại.” (Evangelii Gaudium, 55). Chúng ta có thể đọc kinh mỗi ngày, nhưng nếu bóc lột nhân viên hay phớt lờ người nghèo, thì Tin mừng bị phản bội trong sổ kế toán.

Gợi ý thực hành

– Lập “Nhóm Công lý và Hòa bình” trong giáo xứ, gồm doanh nhân, luật sư, giáo lý viên, để nghiên cứu các vấn đề xã hội thực tế.

– Tổ chức “Diễn đàn Doanh nhân Công giáo và Công ích”: chia sẻ mô hình “kinh tế hiệp thông”.

– Mọi hoạt động Caritas cần tích hợp chiều kích sinh thái và công bằng xã hội.

Tinh thần truyền giáo

HĐGMVN 2025 số 3 và 5 nói rõ: Làm chứng bằng nghề nghiệp trung thực và công bằng chính là hình thức truyền giáo thường nhật. Khi người tín hữu làm kinh doanh công bằng, tôn trọng người lao động, bảo vệ môi trường – họ đang truyền giáo trong chính lĩnh vực nghề nghiệp.

“Công bằng là hình thức cụ thể của tình yêu trong thế giới kinh tế.”

6. Truyền thống sống động – Chứng tá khó nghèo tự nguyện

Giáo huấn

Theo Dilexi te (số 40–43), khó nghèo tự nguyện (paupertas voluntaria) là “ngôn ngữ hùng hồn nhất của Tin mừng.” Hội thánh chỉ đáng tin khi chính mình sống nghèo như Đức Kitô. Các thánh Phanxicô, Vinh Sơn, Mẹ Têrêsa, Lawrence đã cho thấy: chỉ khi nào Hội thánh tự nguyện nghèo, Hội thánh mới có quyền nói về Thiên Chúa giàu lòng thương xót.

Thực tế

Đời sống tu trì Việt Nam phần đang mất dần sức thu hút, vì thiếu sự giản dị và niềm vui của nghèo khó. Một số cộng đoàn nặng về cơ sở vật chất, khiến lời khấn khó nghèo trở nên hình thức. Người trẻ khao khát những chứng nhân sống động hơn là những chiếc áo dòng đẹp hay những lời khuyên nhủ suông.

Gợi ý thực hành

– Công bố “Cam kết sống đơn sơ”: minh bạch tài chính, giản dị trong trang phục, tránh hình thức.

– Mỗi cộng đoàn chọn một hành động “bỏ bớt để chia sẻ”: bớt hoa đèn, bớt tiệc tùng, để lập quỹ học bổng cho học sinh nghèo.

– Tổ chức “Tuần chứng nhân khó nghèo”: chia sẻ, cầu nguyện, và cùng phục vụ.

Tinh thần truyền giáo

Một tu sĩ hay linh mục sống khó nghèo, nhưng vui tươi, phục vụ khiêm hạ, là lời rao giảng mạnh mẽ nhất. Trong một xã hội mỏi mệt vì vật chất, chứng tá ấy là liều thuốc của Tin mừng.

“Sự đơn sơ là tiếng nói của Thiên Chúa giữa thế giới ồn ào.”

7. Kết từ – Tình yêu được hiện thân và sứ vụ truyền giáo

Giáo huấn

Tông huấn khép lại với lời của Chúa: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu” (Ga 13,34; Dilexi tesố 50). Tình yêu không phải cảm xúc, mà là hành động cứu độ (actus salutis), để Thiên Chúa tiếp tục yêu qua mỗi người chúng ta

Thực tế

Nếu các văn kiện chỉ dừng lại trên giấy, bao nhiêu khóa học Tông huấn qua đi trên lý thuyết, mà không biến thành tình yêu dấn thân, thì tất cả chỉ là chữ chết. Chúng ta đọc Tông huấn này không để biết thêm, mà để sống khác đi. Nếu mỗi người chỉ yêu thêm một người, thăm thêm một người nghèo, tha thứ cho một kẻ xúc phạm – Hội thánh Việt Nam sẽ thay đổi.

Chương trình Truyền giáo 3 năm (2025–2028) là cơ hội để đổi mới thật sự: biến yêu thương thành hành động và sứ vụ.

Gợi ý thực hành

– Sau mỗi khóa học Tông huấn, lập “Bảng cam kết 90 ngày” – ba việc cụ thể, có thời hạn, có người đồng hành.

– Tổ chức giải thưởng “Bàn tay lòng thương xót” cho sáng kiến truyền giáo qua phục vụ người nghèo.

– Mỗi giáo xứ chọn một “vùng ngoại biên” làm trọng tâm truyền giáo 2025–2028: khu công nhân, người khuyết tật, người dân tộc…

Tinh thần truyền giáo

Tình yêu chính là linh hồn của truyền giáo. Hội thánh không truyền giảng một ý tưởng, nhưng một khuôn mặt – Đức Kitô, Đấng yêu thương con người đến cùng.

Truyền giáo không chỉ là đi đến, mà còn là ở lại – ở lại trong Tình Yêu, để Tình Yêu ấy lan tỏa.

“Người nghèo không chỉ cần bánh, mà cần biết rằng họ được Thiên Chúa yêu.”

Khi người tín hữu Việt Nam sống yêu thương cách cụ thể – nơi công sở, khu phố, mạng xã hội – thì chính lúc đó, Tông huấn Dilexi te được hiện thực hóa và sứ vụ truyền giáo được khởi sự.

KẾT LUẬN

Tông huấn Dilexi te không chỉ mời gọi Hội thánh yêu thương người nghèo — mà mời gọi Hội thánh tìm lại chính trái tim mình, trở về với căn tính sứ mạng. Người nghèo không chỉ là đối tượng để giúp, nhưng bí tích của sự hiện diện Đức Kitô, Đấng vẫn đang khát được nhận ra và được yêu trong thế giới hôm nay.

Trong bối cảnh Việt Nam hôm nay, khi nhiều hoạt động bác ái và thiện nguyện đã xuất hiện, sứ mạng truyền giáo thật sự vẫn đòi hỏi một bước đi mới:

- từ “làm” đến “ở lại”,

- từ “ban phát” đến “đồng hành”,

- từ “cảm thương” đến “hiệp thông”.

Khi mỗi cộng đoàn, mỗi tín hữu – đặc biệt người trẻ – chọn sống yêu thương như Đức Kitô đã yêu, trong môi trường thường nhật – thì chính lúc đó, lời tuyên bố “Ta đã yêu thương anh em” trở thành lời mời gọi cụ thể và sống động.

Chương trình Truyền giáo 2025-2027 của HĐGMVN kêu gọi: “Mỗi Kitô hữu được mời gọi làm chứng bằng tình yêu cụ thể nơi môi trường sống” (Văn kiện HĐGMVN 2024, số 12). Việc thực hiện lời kêu gọi ấy không chỉ là thêm một chiến dịch nữa, nhưng là sống chứng tá mỗi ngày: yêu, phục vụ, hiện diện, và rao giảng không chỉ bằng lời mà quan trọng là bằng đời sống.

Khi Hội thánh Việt Nam chọn sống nghèo với người nghèo, công bằng trong kinh tế, can đảm bước ra vùng ngoại biên mới của thời đại số, thì sứ mạng truyền giáo không còn là việc của vài người, mà là hơi thở của toàn cộng đoàn.

Và khi mỗi tín hữu dám đứng lên, không vì quyền lợi, không vì hình ảnh, nhưng vì một tình yêu đã được trao và giờ được trao đi — thì thế giới sẽ nhận ra rằng Thiên Chúa vẫn đang yêu thương nhân loại qua chính họ.

“Hãy để tình yêu của anh em làm cho mọi người nhận biết anh em là môn đệ Thầy” (x. Ga 13,35) — đây không chỉ là lời nhắc nhở mà là sứ mạng chúng ta được trao để bước vào đồng lúa mênh mông ngay trên quê hương đất nước của mình.

Lm. Thái Nguyên

 

 

Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/chi-tiet/tom-tat-va-nhan-dinh-ve-tong-huan-dilexi-te-cua-duc-giao-hoang-leo-xiv

 

***

2. Đối diện với cái chết

Lm. Michael Barone

WGPVL (31/10/2025) - Đồng hành và dạy giáo lý cho các gia đình có người thân đã qua đời là một công việc của hy vọng.

Điều buồn nhất về cái chết là sự chia ly. Chúng ta có thể dễ dàng chấp nhận sự thật rằng cái chết phải đến, nhưng khi nó cướp đi khỏi cuộc đời chúng ta một người cha, người mẹ, người anh chị em, một thành viên gia đình hoặc một người bạn thân thiết, nỗi thương tiếc có thể vô cùng đau đớn. Điều này đặc biệt đúng khi thói quen hàng ngày của chúng ta thay đổi, khi chúng ta không còn nhìn thấy khuôn mặt, nghe thấy giọng nói, hay cảm nhận được sự đụng chạm vào của một người mà cuộc đời họ gắn bó mật thiết với cuộc đời chúng ta.

Là linh mục, chúng ta gặp gỡ mỗi ngày những gia đình mang nỗi đau thương thực sự. May mắn thay, chúng ta có một nguồn lực quý giá để giúp giáo dân đang đau buồn tìm thấy hy vọng trong một trong những kho tàng mà đức tin của chúng ta mang lại - một cuộc tiễn đưa xứng đáng và trang nghiêm. Điều quan trọng là thúc đẩy mục vụ nghĩa trang (đất thánh) Công giáo trong các giáo phận của chúng ta như một phần trong sứ mệnh của Giáo Hội là gặp gỡ các gia đình theo những cách mới mẻ và sáng tạo.

Không có gì ngạc nhiên khi cách nhìn nhận của nền văn hóa chúng ta về các phong tục tang lễ và chôn cất đang thay đổi. Vì nhiều lý do liên quan đến mức độ đức tin và thực hành đức tin, tài chính hoặc sự tiện lợi, cùng nhiều lý do khác, các nghi lễ truyền thống như cầu lễ cho người đã khuất, Thánh lễ an táng trong nhà thờ và chôn cất trọn vẹn quan tài đang trở nên ít phổ biến hơn so với các hình thức tang lễ khác.

Nhiều gia đình có thiện chí, ít hoặc không được học biết giáo lý liên quan đến giáo huấn của Giáo hội về giá trị của Thánh lễ an táng và việc chôn cất đúng cách tại nghĩa trang hoặc mộ phần, đã chọn hỏa táng trực tiếp, thường không có nghi lễ kính viếng hay nghi thức tại nhà thờ giáo xứ. Nhiều người chọn giữ bình đựng tro cốt tại nhà, dù chỉ là tạm thời. Mặc dù điều này chắc chắn đáng tiếc và có thể đảo ngược nhờ việc loan báo Tin mừng và giáo dục các tín hữu, nhưng chúng ta, những linh mục, nên làm phần việc của mình, khuyến khích giáo dân khôi phục và duy trì các giá trị Kitô giáo để tôn vinh người đã qua đời theo tinh thần của Giáo hội.

Cơ hội để giảng dạy

Tang lễ có thể là dịp duy nhất trong năm mà một người không đi nhà thờ được gặp linh mục. Những cuộc gặp gỡ ngắn ngủi này mang đến một cơ hội vàng để loan báo Tin mừng cho các gia đình vào thời điểm mục vụ rất nhạy cảm trong cuộc đời họ. Nghi thức An táng Công giáo dự trù một bài giảng ngắn gọn được cử hành bên phần mộ hoặc bất cứ nơi nào diễn ra nghi lễ an táng. Tại sao không dành vài phút để chia sẻ lý do chúng ta có mặt ở đó?

Chúng ta thành kính chôn cất thi hài hoặc tro cốt của những người thân yêu vì hai lý do quan trọng. Thứ nhất, vì chúng ta tin vào sự phục sinh của thân xác và biết rằng mặc dù linh hồn người quá cố đã ở trước mặt Thiên Chúa, nhưng thân xác của họ sẽ được an nghỉ cho đến ngày sau hết. Thứ hai, vì chúng ta được khuyến khích tưởng nhớ và kính viếng phần mộ của những người thân yêu, đặc biệt là vào các ngày nghỉ, ngày kỷ niệm hoặc ngày lễ, bởi vì chúng ta cần một lời nhắc nhở nhẹ nhàng về sự hữu hạn của chính mình.

Tang lễ cho chúng ta một khoảnh khắc để dừng lại và suy ngẫm về sự thật rằng dù cuộc đời chúng ta dài hay ngắn, nơi những người thân yêu của chúng ta đã ra đi, chúng ta chắc chắn cũng sẽ đi theo họ. Cách tốt nhất để chuẩn bị cho ngày đó là sống một cuộc đời đạo đức và thánh thiện, với hy vọng rằng chúng ta sẽ gặp lại họ và tận hưởng tình bạn của họ trong Chúa Kitô, hiệp nhất trọn vẹn trong Người, cả thể xác lẫn linh hồn. Đau buồn là điều hoàn toàn tự nhiên, nhưng niềm hy vọng mà các linh mục có thể mang lại thực sự dẫn dắt các linh hồn đến với những điều siêu nhiên.

Là một linh mục làm công tác mục vụ nghĩa trang toàn thời gian trong nhiều năm, tôi khuyến khích quý vị truy cập trang web CatholicBurialTraditions.org, một trang web được phát triển với sự tài trợ của Hội đồng Giám mục Công giáo Hoa Kỳ và được duy trì bởi Hội đồng Nghĩa trang Công giáo. Trang web dễ sử dụng này cung cấp tài liệu giáo dục miễn phí cho các giáo xứ, bao gồm các bài giảng mẫu cho Thánh lễ an táng, chương trình giảng dạy đầy đủ cho các trường học để dạy trẻ em về tang lễ và an táng Công giáo, và các nguồn lực cho các nhóm chịu tang chế và các chương trình Khai tâm Kitô giáo dành cho người lớn.

Chuẩn bị cho cái chết

Chúng ta biết rằng cầu nguyện cho linh hồn của những tín hữu đã qua đời là điều tốt. Các linh mục Công giáo nên dành thời gian, đặc biệt là trong tháng này, để rao giảng về tầm quan trọng của việc suy ngẫm về cái chết và những mong muốn cho tang lễ của chính mình. Người Công giáo trông cậy vào chúng ta để dạy họ cách chuẩn bị cho hành trình khi chúng ta rời khỏi thế giới này mà bước vào thế giới bên kia. Chúng ta nên khuyến khích các tín hữu suy nghĩ về cách họ muốn được tưởng nhớ, ngay cả khi điều đó có nghĩa là giúp họ lập một hồ sơ để lưu giữ tại văn phòng giáo xứ, sẵn sàng cho ngày định mệnh đó.

Những giáo dân trung thành nhất của chúng ta tin vào các bí tích và những gì Giáo hội ban tặng thông qua đời sống thiêng liêng. Trong một thế giới lý tưởng, mọi người trong nền văn hóa của chúng ta sẽ tin như chúng ta. Tuy nhiên, thường thì ngay cả những người thân yêu cũng không coi trọng những gì chúng ta coi trọng. Chúng ta được kêu gọi truyền bá tầm quan trọng của việc chăm sóc vào lúc cuối đời và các kế hoạch sau khi qua đời, điều này thường giúp giảm bớt gánh nặng cho những người mà chúng ta để lại khi họ phải đối mặt với nỗi đau mất mát. Thành thật về những dự tính có thể là điều đáng nói nhất trong cuộc đời.

Khi cha tôi đột ngột qua đời vì một cơn đau tim ở tuổi 53, gia đình chúng tôi đã bị sốc và hoàn toàn bất ngờ. Ông ấy mong muốn điều gì? Chúng tôi nên chôn cất ông ấy ở đâu? Chi phí sẽ là bao nhiêu? Quá nhiều thứ phải xử lý trong thời gian ngắn ngủi. May mắn thay, chúng tôi đã cùng nhau vượt qua và cuối cùng đã tìm thấy sự bình yên.

Bốn năm sau, mẹ tôi được chẩn đoán mắc bệnh ung thư. Trong suốt một năm rưỡi điều trị, chúng tôi cầu nguyện cho những điều tốt đẹp nhất trong khi mẹ tôi chuẩn bị cho điều tồi tệ nhất. Nhớ lại những hoang mang xung quanh cái chết của cha và không thực sự có thời gian để đau buồn, mẹ tôi đã chuẩn bị mọi chi tiết cho tang lễ và sự an táng của mình, từ chiếc váy bà muốn mặc khi được chôn cất đến nhạc dùng trong Thánh lễ. Điều đó thật nhẹ nhõm cho chúng tôi; chúng tôi biết rằng mẹ tôi đang được tưởng nhớ chính xác theo cách bà mong muốn.

Rõ ràng, không có hai gia đình nào giống hệt nhau, và có rất nhiều cách chúng ta tiếp cận thực tế về cái chết và sự mất mát của người mình yêu thương. Đó là lý do tại sao chúng ta phải chuẩn bị và sẵn sàng giúp bắt đầu cuộc chuyện trò. Chúng ta cần tạo cơ hội để các tín hữu khám phá ra các lựa chọn và nguồn lực, đồng thời giải đáp mọi thắc mắc của họ về nghi thức tang lễ Công giáo, giáo huấn của Giáo hội về sự tôn kính thi hài hoặc tro cốt, và tầm quan trọng của việc chôn cất trong phần mộ hoặc đặt chúng một cách thành kính trong hốc tường hoặc hầm mộ.

Vẻ đẹp của luyện ngục

Dĩ nhiên, tháng 11 bắt đầu với Lễ Các Thánh, tôn vinh những kiệt tác của Thiên Chúa là các Thánh, những Kitô hữu đã đạt đến sự trưởng thành về mặt thiêng liêng và được lên thiên đàng. Phần còn lại của tháng tưởng niệm, được dành riêng cho linh hồn các tín hữu đã qua đời, cũng đẹp đẽ, ý nghĩa và an ủi không kém. Nó nhắc nhở chúng ta về sự gắn bó mật thiết của chúng ta với những người thân yêu.

Thói quen cầu nguyện cho người đã qua đời dựa trên giáo lý Công giáo về luyện ngục, “bệnh viện thiêng liêng” của Thiên Chúa, nơi Người chữa lành những vết thương do tội lỗi gây ra. Cũng như chúng ta tin chắc vào thiên đàng hay hỏa ngục, Giáo hội, với lòng nhân từ yêu thương, đã liên tục dạy rằng có một “trạng thái trung gian” của các linh hồn, những người chịu đau khổ tạm thời vì tội lỗi mà họ còn vướng mắc khi ở trần gian, những linh hồn đã an nghỉ trong tình bạn với Chúa Kitô nhưng chưa đạt đến niềm vui trọn vẹn trên thiên đàng. Niềm tin của chúng ta vào luyện ngục không phải để làm chúng ta sợ hãi, mà là để mang lại cho chúng ta sự bình an và hy vọng về ơn cứu độ của chính mình và sự thánh hóa của những người chúng ta yêu thương.

Chúng ta cầu nguyện cho người đã qua đời chính xác vì chúng ta tin rằng bằng sự sám hối, bằng những hy sinh, bằng những ý chỉ cầu nguyện của mình, chúng ta có thể xoa dịu nỗi đau của những linh hồn đang đau khổ trong luyện ngục. Điều tuyệt vời là những linh hồn đáng thương này cũng có thể cầu bầu cho chúng ta. Giáo lý về luyện ngục tạo ra một mối dây tương trợ giữa những người mà cái chết đã chia lìa họ. Trong khi cái chết đã tách họ ra khỏi cuộc sống tự nhiên của chúng ta, thì bằng cách cầu nguyện cho họ, chúng ta giữ cho ký ức về họ sống mãi trong tâm trí và trái tim, và thúc đẩy họ được hoàn toàn bước vào cõi phúc.

Giáo hội không chỉ mời gọi chúng ta cầu nguyện cho người đã khuất, mà còn cho chính chúng ta nữa. Việc nhớ lại ý nghĩa của cái chết trong Kitô giáo giúp chúng ta trả lời câu hỏi khó khăn nhất của cuộc sống: Tại sao Thiên Chúa lại cho phép quá nhiều đau khổ? Chúa Kitô đã mặc khải những gì tương lai nắm giữ: cái chết, sự phán xét và thiên đàng hoặc hỏa ngục. Kết quả là, chúng ta có thể trả lời câu hỏi đó bằng ba từ: chờ và xem.

Cuộc sống trên trần gian không phải là toàn bộ câu chuyện; thực ra, nó chỉ là phần mở đầu. Qua tội lỗi, sự dữ và đau khổ đã xâm nhập vào thế gian này. Nhưng sự khôn ngoan và quyền năng của Thiên Chúa đang thực hiện phần kết, khi công lý và lòng thương xót sẽ chiến thắng. Khi đó sẽ không còn đau yếu hay bệnh tật; không còn đau khổ, cái chết và sự chôn cất; chắc chắn không còn nỗi mất mát đau thương. Đối với những ai làm theo ý muốn của Người, chỉ có thể có bình an và niềm vui, được hiệp nhất trong chính Thiên Chúa, Đấng sẽ lau khô mọi giọt lệ trên đôi mắt chúng ta.

Tác giả: Lm. Michael Barone
Lm. Phil. M. Nguyễn Hoàng Nguyên chuyển ngữ từ 
The Priest (15/10/2025)

(Nguồn: WHĐ)

 

Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/chi-tiet/doi-dien-voi-cai-chet

 

***

3. Đức tin của giới trẻ trong thế giới kỹ thuật số

Lm. Giuse Phạm Đình Ngọc, SJ

WHĐ (03/11/2025) - “Làm thế nào để đức tin của giới trẻ được nuôi dưỡng và phát triển trong bối cảnh kỹ thuật số, đồng thời biến môi trường số thành mảnh đất màu mỡ cho sứ vụ loan báo Tin mừng?” Câu hỏi này càng cấp thiết trước lời mời gọi truyền giáo của Giáo hội Việt Nam.

Dẫn nhập

1. Thế giới số là không gian mục vụ thật sự

2. Cơ hội luôn đi với thách đố

3. Định hướng thần học mục vụ truyền thông

Kết luận

Dẫn nhập

Thời gian gần đây tôi rất vui khi thấy nhiều nơi mừng lễ thánh Carlos Acutis. Mừng vì chúng ta, nhất là giới trẻ đang tìm được hướng đi tốt trong kỷ nguyên số, vốn đã trở thành một phần không thể tách rời của đời sống con người, đặc biệt là giới trẻ. Chính người bạn Acutis đã cho thấy đức tin có thể được diễn tả trên không gian mạng, nơi không chỉ là thế giới ảo. Vì sao?

Chắc không cần con số thống kê, chúng ta đều biết rằng người trẻ Việt Nam, kể cả giới trẻ Công giáo, dành ngày càng nhiều thời gian trên các nền tảng như Facebook, YouTube, TikTok, Zalo… để giao lưu, tiếp nhận thông tin và bày tỏ bản thân. Thế giới ngày nay thực sự trở thành một “ngôi làng toàn cầu” nơi mọi người có thể dễ dàng tiếp cận thông tin và tương tác vượt không gian địa lý.

Trước thực tế đó, từ lâu Giáo hội Công giáo ý thức rằng “thế giới kỹ thuật số” không chỉ là một công cụ trung tính mà đã trở thành một “ngôn ngữ”, một môi trường sống mới của con người thời nay[1]. Từ Công đồng Vatican II với sắc lệnh Inter Mirifica (1963) cho đến Christus Vivit (2019), Giáo hội đã liên tục đào sâu suy tư thần học về truyền thông. Mối quan tâm mục vụ đặt ra: “Làm thế nào để đức tin của giới trẻ được nuôi dưỡng và phát triển trong bối cảnh kỹ thuật số, đồng thời biến môi trường số thành mảnh đất màu mỡ cho sứ vụ loan báo Tin mừng?” Câu hỏi này càng cấp thiết trước lời mời gọi truyền giáo của Giáo hội Việt Nam. Để hiểu thêm về chủ đề này, tôi xin đi vào ba điểm chính: (1) Thế giới kỹ thuật số như một không gian mục vụ thực sự; (2) Những cơ hội và thách đố đối với đức tin người trẻ; (3) Định hướng thần học mục vụ truyền thông từ các văn kiện Giáo hội (Christus Vivit và Inter Mirifica) và những bài học cho bối cảnh Giáo hội Việt Nam.

1. Thế giới số là không gian mục vụ thật sự

Hẳn chúng ta còn nhớ hình ảnh biểu tượng lúc đỉnh điểm đại dịch Covid-19, Đức Thánh cha Phanxicô đã chủ sự buổi cầu nguyện Urbi et Orbi ngày 27/03/2020 tại quảng trường Thánh Phêrô không một bóng người. Tuy vậy, hàng triệu tín hữu trên thế giới đã hiệp thông qua truyền hình trực tuyến. Sự kiện cảm động này cho thấy sức mạnh của truyền thông kỹ thuật số trong việc nối kết đức tin, đem lại niềm hy vọng và sự hiện diện thiêng liêng ngay giữa cảnh “cách ly” thể lý. Từ điểm khởi này, chúng ta cùng suy tư sâu hơn dưới lăng kính thần học mục vụ truyền thông.

Có thể nói gần như tất cả những người trẻ hôm nay đều tham gia vào thế giới kỹ thuật số. Tôi cũng tin rất nhiều người lớn tuổi cũng đang gia nhập vào không gian này. Có lẽ vì thế mà chúng ta nghe đến một cụm từ khá mới: “lục địa kỹ thuật số”, vốn mở ra cánh đồng truyền giáo mới mà Giáo hội cần quan tâm. Thực vậy, Giáo hội nhìn nhận thế giới số chính là “địa bàn” mục vụ thật sự, nơi người trẻ sinh sống và gặp gỡ nhau, chứ không còn là một môi trường ảo tách biệt. Ý tưởng này nghe có vẻ ngộ nghĩnh trong 20 năm về trước. Tuy nhiên, 10 năm trở lại đây Bộ Truyền thông Tòa thánh thêm xác tín về “lục địa kỹ thuật số” như một cánh đồng truyền giáo đích thực[2]. Nghĩa là bằng cách chúng ta cần hiện diện tích cực trong không gian mạng để đối thoại với con người thời nay và giúp họ gặp gỡ Đức Kitô. Nếu đánh mất một trong hai mục đích này, sứ mạng truyền giáo sẽ thất bại. Do đó, ước sao chúng ta cần diễn tả đức tin ngay tại “quê hương số” của giới trẻ, với ngôn ngữ và cách thức phù hợp với họ.

Trên thực tế, Giáo hội toàn cầu đã và đang dấn thân vào không gian số như một lãnh vực mục vụ ưu tiên. Tòa thánh đã thiết lập Bộ Truyền thông, cử hành Ngày Thế giới Truyền thông Xã hội hàng năm từ 1967, và khuyến khích mọi cấp Giáo hội khai thác các phương tiện truyền thông mới cho sứ vụ. Gần đây, nhân dịp Năm Thánh Truyền thông (2025), các nhà báo, chuyên gia truyền thông cùng suy tư về trách nhiệm truyền tải thông tin chân thực trong kỷ nguyên số. Dịp này, Đức Hồng y Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa thánh nhấn mạnh rằng: “Điều làm nên con người chúng ta chính là khả năng tự đặt câu hỏi cho chính mình. Và câu hỏi thách thức mọi người ngày nay là làm thế nào thế giới kỹ thuật số, vốn đang nhanh chóng chuyển đổi động lực xã hội, có thể trở thành phương tiện truyền đạt đức tin? Dĩ nhiên Giáo hội ý thức mình “ở trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian”[3].

Từ quan điểm thần học nhập thể[4], Giáo hội cũng cần hiện diện trong mọi “nẻo đường” nhân loại, bao gồm cả xa lộ thông tin hiện đại. Đức Phanxicô ủng hộ chúng ta đi đến “các vùng ngoại biên”; Đức Lêô XIV giải thích rõ hơn một chút là “đến các biên giới hiện sinh nơi không còn hy vọng”[5]. Nơi đó, Giáo hội cần đến những influencer (người ảnh hưởng) của Thiên Chúa. Nơi đó, chúng ta biết cách lan tỏa niềm hy vọng Kitô giáo cho bạn bè đồng trang lứa. Rõ ràng, thế giới số là mảnh đất thật, nơi đức tin có thể được gieo trồng, lớn lên trong một cánh đồng truyền giáo mới mẻ nhưng không kém phần màu mỡ nếu biết cách chăm bón bằng tình yêu và chân lý Tin mừng.

Hội đồng Giám mục Việt Nam (HĐGMVN) cũng ý thức sâu sắc điều trên. Nếu đọc Thư Chung của HĐGMVN, chúng ta được gợi hứng bởi ý tưởng này: “Hãy có mặt trong môi trường kỹ thuật số này với ý thức chúng ta là các môn đệ được Chúa trao cho sứ mạng.”[6] Hầu hết các giáo phận hiện nay đều có trang web, trang mạng xã hội chính thức để kết nối với cộng đồng dân Chúa. Nhiều linh mục, tu sĩ và bạn trẻ Công giáo năng động đang sử dụng Facebook, YouTube, TikTok để chia sẻ Lời Chúa, cầu nguyện trực tuyến, hay tổ chức các nhóm thảo luận đức tin trên mạng. Các “giáo xứ điện tử” dần hình thành qua việc phát trực tiếp thánh lễ, lớp giáo lý online, nhóm đọc kinh chung qua Zoom. Đặc biệt, những người trẻ Công giáo tiên phong còn được gọi là “nhà truyền giáo kỹ thuật số”, tình nguyện đem kỹ năng công nghệ phục vụ việc loan báo Tin mừng.

Tóm lại, việc hiện diện truyền giáo trên không gian mạng không còn là lựa chọn tùy ý, mà là đòi hỏi cấp thiết của sứ vụ mục vụ hôm nay. Thế giới số chính là nơi Giáo hội “đến với muôn dân” trong thời đại mới. Tuy nhiên, khi đi vào thế giới ấy, người trẻ Công giáo sẽ gặp cả cơ hội lẫn thách đố to lớn cho đời sống đức tin của mình.

2. Cơ hội luôn đi với thách đố

Đồng tiền luôn có hai mặt, điều này đúng cho cả chủ đề chúng ta đang bàn. Trước hết, Internet và mạng xã hội tạo nên những cách thức mới để truyền thông và thiết lập tương quan, nơi người trẻ dành nhiều thời gian gặp gỡ, đối thoại và chia sẻ với nhau dễ dàng. Nhờ không gian mạng, giới trẻ Công giáo có thể tiếp cận kho tàng kiến thức phong phú về đức tin, từ Kinh thánh, giáo huấn Giáo hội, đến các bài giảng, sách báo, video. Tất cả chỉ vài cú nhấp chuột là chúng ta có thể tiếp cận. Nhiều bạn trẻ tìm thấy cộng đoàn và sự nâng đỡ đức tin qua các nhóm trực tuyến, diễn đàn Công giáo, nơi họ trao đổi, học hỏi và cầu nguyện chung dù ở cách xa về địa lý.

Mạng xã hội cũng trở thành phương tiện để người trẻ thực hành “tân Phúc âm hóa”: họ có thể chia sẻ Lời Chúa, chứng từ sống động hoặc những sáng kiến bác ái đến bạn bè trên Facebook, YouTube, TikTok… Việc loan báo Tin mừng qua mạng xã hội, tin nhắn, bài hát, video – những “ngôn ngữ” quen thuộc của giới trẻ, vốn tỏ ra rất hiệu quả trong việc chạm đến tâm hồn người đồng trang lứa. Tông huấn Christus Vivit cũng khuyến khích hãy tạo không gian tự do để người trẻ hăng hái Phúc âm hóa lẫn nhau “mọi nơi, trong mọi hoàn cảnh”[7]. Như vậy, thế hệ @ có thể trở thành tác nhân chính đem Chúa đến “lục địa số” bằng sự sáng tạo và nhiệt huyết của mình. Thêm vào đó, thế giới số còn mở ra các kênh tham gia xã hội tích cực cho người trẻ có đức tin. Về lý tưởng, chúng ta có thể cất lên tiếng nói ngôn sứ bênh vực sự thật và công lý trên diễn đàn mạng, vận động cho các giá trị Kitô giáo (như bảo vệ sự sống, chăm sóc người nghèo…) và kết nối với các phong trào Công giáo toàn cầu. Quả thật, “những trang mạng đang tạo nên một cơ hội đặc biệt để đối thoại, gặp gỡ và trao đổi với nhau, cũng như để tiếp cận thông tin và tri thức... Internet và các mạng xã hội giờ đây là nơi không thể thiếu để tiếp cận giới trẻ và mời gọi họ tham gia, đặc biệt là vào những sáng kiến và hoạt động mục vụ”[8]. Điều này đặc biệt ý nghĩa tại các quốc gia trẻ như Việt Nam, khi giới trẻ Công giáo có thể dùng mạng làm “ánh sáng và muối men” cho đời, góp phần xây dựng xã hội tốt đẹp hơn phù hợp với Tin mừng.

Tuy nhiên, mặt trái của không gian mạng chính là sự gia tăng nguy cơ “ảo hóa” các mối tương quan. Dù kết nối rộng khắp, người trẻ có thể rơi vào cảnh cô đơn ngay giữa thế giới ảo, khi các tương tác trên mạng thiếu chiều sâu và sự gặp gỡ thân tình trực tiếp. Đức Thánh Cha cảnh báo “đây cũng là lãnh địa của sự cô đơn, lèo lái, khai thác và bạo lực đến trường hợp cực đoan của web đen. Phương tiện số có thể cho thấy nguy cơ phụ thuộc, tách mình và dần mất đi tương quan với thực tế cụ thể”[9]. Thật vậy, nhiều bạn trẻ ngày nay nghiện màn hình đến mức sao nhãng những tương quan gia đình, bạn bè ngoài đời, thậm chí xao lãng việc cầu nguyện, tham dự thánh lễ và các sinh hoạt đức tin truyền thống.

Mặt khác, môi trường mạng đầy rẫy những nội dung độc hại, trái ngược với các giá trị Kitô giáo. Văn hóa hưởng thụ và chủ nghĩa vật chất được quảng bá ồ ạt trên mạng xã hội có thể làm lung lay đức tin người trẻ, kéo họ vào lối sống thực dụng xa rời Tin mừng. Trong bối cảnh này, chúng ta có một bạn đã là thánh hướng dẫn: “Carlo biết rất rõ rằng những cơ chế truyền thông, quảng cáo và mạng xã hội ấy có thể được dùng để biến chúng ta thành những con người uể oải, lệ thuộc vào chủ nghĩa tiêu thụ và những món hàng mới mà chúng ta có thể mua sắm, bị ám ảnh về thời gian rảnh rỗi và bị giam hãm trong những điều tiêu cực. Nhưng Carlo biết cách sử dụng những công nghệ thông tin mới để truyền đạt Tin mừng, để truyền thông các giá trị và vẻ đẹp.”[10]

Một thách đố khác là “tin giả” và chúng ta cũng bị thuật toán lèo lái sở thích và lập trường của mình. Điều này càng mạnh mẽ trong thời đại trí tuệ nhân tạo. Văn hóa mạng đề cao lượt thích, người theo dõi cũng dễ dẫn người trẻ đến lối sống ảo, chú trọng hình thức hơn chiều sâu, thích “sống ảo” để được công nhận thay vì sống thật với căn tính Kitô hữu khiêm nhường. Tất cả những điều này đặt ra nguy cơ “di cư kỹ thuật số”, nghĩa là người trẻ rời xa gốc rễ gia đình và truyền thống đức tin, tự đắm chìm trong thế giới ảo đơn độc và mất định hướng thiêng liêng[11]. Nếu không được đồng hành, nhiều bạn trẻ có thể đánh mất lửa đức tin và cảm thức thuộc về Giáo hội khi họ dành quá nhiều thời gian cho không gian mạng vô bổ.

Thực tế cho thấy, mạng xã hội và internet mở ra thế giới rộng lớn. Tuy nhiên, tiếc rằng rất nhiều người tự bó mình trong khung màn hình nhỏ hẹp. Đức Thánh cha Phanxicô đã tha thiết nhắn nhủ giới trẻ: “Đừng đánh mất tuổi thanh xuân của mình, đừng ngắm nhìn cuộc sống từ ban công… đừng sống cả cuộc đời mình trước cái màn hình. […] Hãy sống! Hãy dấn thân cho những gì tốt nhất trong cuộc sống!”[12] Trong khi đó, đức tin đòi hỏi sự dấn thân nhập thể, tức là bước ra khỏi “thế giới phẳng” để chạm vào thực tế, phục vụ Chúa và tha nhân bằng cả con tim và khối óc. Rõ ràng giữa bối cảnh kỹ thuật số, người trẻ Công giáo Việt Nam vẫn thao thức kiếm tìm ý nghĩa và khao khát cống hiến. Tuy vậy, họ cần được Giáo hội đồng hành để biến những thuận lợi công nghệ thành phương tiện củng cố đức tin, đồng thời vượt thắng những cạm bẫy để giữ vững căn tính Kitô hữu.

3. Định hướng thần học mục vụ truyền thông

Ngay từ thuở bình minh của thời đại truyền thông đại chúng, Giáo hội đã sớm quan tâm đến việc sử dụng các phương tiện truyền thông cho sứ mạng loan báo Tin mừng. Công đồng Vatican II ban hành sắc lệnh Inter Mirifica (1963) về truyền thông xã hội. Trong đó, Giáo hội khẳng định rằng những phát minh kỹ thuật tuyệt vời trong truyền thông có khả năng tiếp cận và ảnh hưởng trên quần chúng khắp hoàn cầu[13]Inter Mirifica nhìn nhận truyền thông là ân huệ Chúa ban nhưng đồng thời nhấn mạnh trách nhiệm luân lý nghiêm trọng trong việc sử dụng đúng đắn các công cụ truyền thông thuộc về mọi người liên quan, từ giới báo chí, xuất bản, điện ảnh đến từng độc giả, khán thính giả. Nói cách khác, thần học mục vụ truyền thông của Giáo hội đặt nền tảng trên nguyên tắc: truyền thông phải phục vụ chân lý, phẩm giá con người và lợi ích công ích theo tinh thần Phúc âm. Mỗi Kitô hữu, cách riêng là người trẻ, được mời gọi làm muối men trong môi trường truyền thông, biết phân định để “tìm kiếm và thăng tiến chân lý” qua việc trao đổi thông tin. Tại Việt Nam, Inter Mirifica cũng đã được đón nhận từ sớm. Các đức giám mục từng triển khai những định hướng mục vụ truyền thông dựa trên sắc lệnh này, nhấn mạnh đào tạo người làm truyền thông Công giáo có đạo đức và kỹ năng để phục vụ Tin mừng. Đây là thách đố cần thiết để chúng ta biết cách Loan báo Tin mừng trên không gian mạng.

Bước sang kỷ nguyên kỹ thuật số, giáo huấn Giáo hội tiếp tục phát triển một hướng thần học mục vụ truyền thông năng động hơn, sát với bối cảnh người trẻ. Tông huấn Christus Vivit (Đức Kitô đang sống, 2019) của Đức Thánh cha Phanxicô là thành quả của Thượng Hội đồng Giám mục về giới trẻ. Các ngài dành hẳn một phần bàn về tác động của thế giới kỹ thuật số trên người trẻ và đời sống đức tin (số 86-90). Giáo hội thừa nhận kỹ thuật số mở rộng không gian cho Giáo hội hiện diện mục vụ, cung cấp thông tin độc lập và thúc đẩy người trẻ tham gia các hoạt động xã hội, chính trị lành mạnh. Tuy nhiên, Đức Phanxicô cũng thẳng thắn chỉ ra những giới hạn và khiếm khuyết của hiện tượng này. Ngài cảnh báo về ảo tưởng đánh đồng truyền thông trên mạng với giao tiếp nhân vị thực sự, bởi lẽ “những mối tương quan trên mạng có thể trở nên phi nhân; không gian số khiến mắt chúng ta mù trước nỗi dễ tổn thương của người khác và ngăn cản chúng ta tự mình suy nghĩ”[14]. Có thể bạn khó chịu khi nhận ra Giáo hội luôn cẩn trọng khi dùng internet. Bạn đã đúng, vì Giáo hội thấu hiểu cả mặt sáng và mặt tối của thế giới số đối với đức tin người trẻ, từ đó đưa ra những định hướng mục vụ cân bằng.

Trên bình diện giải pháp, Christus Vivit mời gọi một cách tiếp cận mục vụ đồng thời theo hai hướng. Một là chúng ta vừa tích cực hội nhập vào văn hóa kỹ thuật số của giới trẻ để đồng hành với họ. Hai là Giáo hội vừa kiên quyết thăng tiến những giá trị cốt lõi để người trẻ không đánh mất mình trong thế giới ảo[15]. Đức Thánh cha Phanxicô tin tưởng rằng chính người trẻ có khả năng tìm ra cách tốt nhất để loan báo Tin mừng cho nhau trong thời đại số. Bởi người trẻ rành các “ngôn ngữ” mới nên Giáo hội cần trao trách nhiệm và khuyến khích họ sáng tạo[16].

Tuy nhiên, Christus Vivit cũng nhắc nhở rằng đừng bao giờ để việc sử dụng các phương tiện truyền thông hiện đại thay thế cho kinh nghiệm sống động gặp gỡ Chúa. Đây là điểm làm nên sự khác biệt và độc đáo của chúng ta. Do đó, mục vụ giới trẻ phải tạo cơ hội để người trẻ cảm nhận tình yêu Thiên Chúa thực sự, thay vì chỉ truyền đạt giáo lý một chiều hoặc sa vào “tuyên truyền” thuần túy trên mạng. Nói cách khác, công nghệ phải là người đầy tớ chứ không phải ông chủ của đời sống đức tin. Giáo hội cần giúp người trẻ sử dụng mạng xã hội “cách khôn ngoan”, nghĩa là biết dừng lại trước những cám dỗ phô trương và hời hợt, biết ưu tiên các cuộc gặp gỡ chân thực và những giây phút thinh lặng cầu nguyện cần thiết[17]. Trọng tâm của hướng dẫn mục vụ là giúp người trẻ tích hợp đức tin vào thế giới số một cách lành mạnh, vừa năng động truyền giáo trực tuyến vừa nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng sâu lắng.

Cho tới tháng 5/2023, Bộ Truyền thông Tòa thánh đã công bố một tài liệu mục vụ có tên “Hướng tới sự hiện diện tròn đầy – Suy tư mục vụ về việc tham gia mạng xã hội”. Văn kiện cập nhật này nhấn mạnh: “Vấn đề không còn là có nên tham gia vào thế giới kỹ thuật số hay không, mà là tham gia như thế nào”[18]. Thật vậy, Giáo hội không chủ trương lánh xa mạng xã hội, nhưng hướng dẫn cách hiện diện trên đó sao cho phản ánh trung thực đức tin và tình bác ái Kitô giáo. Trong số đầu tiên này, Tài liệu cũng mời gọi Giáo hội cần hiện diện với những ai đang trên không gian mạng, trở nên “những người thân cận đầy yêu thương” trên “xa lộ kỹ thuật số”, nghĩa là cư xử với nhau bằng sự tôn trọng, cảm thông và chân thành ngay cả khi trực tuyến. Đây chẳng phải là lời mời gọi dựa trên nền tảng thần học mục vụ sao? Nhờ đó, thế giới ảo không còn vô hồn mà trở thành “không gian mở của văn hóa gặp gỡ”, nơi người trẻ cảm nghiệm được tình huynh đệ và hình ảnh sống động của Giáo hội hiệp hành.

Tại Việt Nam, những định hướng này đang và sẽ được hiện thực hóa qua các chương trình đào tạo và sáng kiến mục vụ truyền thông. Ủy ban Truyền thông Xã hội trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam thường xuyên tổ chức khóa tập huấn kỹ năng truyền thông cho bạn trẻ, nhấn mạnh việc kết hợp nhuần nhuyễn giữa chuyên môn công nghệ với linh đạo và đạo đức truyền thông. Các tham dự viên được học hỏi giáo huấn Giáo hội, thực hành lắng nghe và phân định trong Thánh Thần trước biển thông tin kỹ thuật số, hoặc nói như ngôn ngữ của Thư Chung của HĐGMVN là “đối thoại trong Thánh Thần”. Nhờ đó, chúng ta hiểu rằng làm truyền thông Công giáo không chỉ là truyền tải thông tin (information), mà là thông truyền đức tin (faith). Đức tin này trước hết cần chúng ta trải nghiệm và thực hành, sau là chia sẻ với càng nhiều người càng tốt.

Tóm lại, đức tin cần được hội nhập vào thế giới kỹ thuật số cách sáng tạo nhưng không đánh mất chiều sâu và sự chân thật. Người trẻ Công giáo Việt Nam cần được trang bị cả kiến thức lẫn đời sống cầu nguyện để trở thành “môn đệ kỹ thuật số” đích thực. Thánh Carlo Acutis đã mở lối cho chúng ta, Thiên Chúa sẽ nắm tay chúng ta, Chúa Thánh Thần sẽ soi sáng để chúng ta biết sử dụng ngôn ngữ công nghệ để làm chứng cho Chúa. Trong tiến trình này, sự đồng hành của gia đình, giáo xứ và các mục tử là rất quan trọng. Hơn nữa, Giáo hội cũng cần tiếp tục sáng tạo những mô hình mục vụ mới cho thời đại. Mục đích sau cùng vẫn là dẫn họ đến gặp gỡ trực tiếp Chúa Giêsu và cộng đoàn Hội thánh, bởi không bao giờ được thay thế kinh nghiệm thú vị gặp gỡ Chúa bằng một loại hình “tuyên truyền” có tính giáo điều nào.[19]

Kết luận

Từ những suy tư trên, tôi mạn phép rút ra một vài điểm nhấn mục vụ truyền thông trong bối cảnh Việt Nam. Trước hết, cần tiếp tục đào sâu ý thức rằng thế giới kỹ thuật số chính là “cánh đồng truyền giáo” của Giáo hội thời nay. Mọi chương trình mục vụ giới trẻ không nên tách rời yếu tố truyền thông: các giáo xứ, đoàn thể nên hiện diện tích cực trên mạng xã hội và tạo môi trường lành mạnh để người trẻ kết nối, chia sẻ đức tin trực tuyến. Thứ hai, giáo dục truyền thông có trách nhiệm phải trở thành một phần của việc đào tạo đức tin cho giới trẻ. Nghĩa là, dạy cho họ biết chọn lọc nội dung, biết “gạn đục khơi trong” trước dòng thông tin hỗn độn, và rèn luyện nhân cách theo ánh sáng Tin mừng để sử dụng mạng cách có văn hóa, có đạo đức. Bản thân người trẻ Công giáo cần ý thức hơn về ơn gọi của mình trong thế giới số. Họ được mời gọi làm chứng nhân, làm “muối men” trong môi trường mạng, chứ không chỉ là người tiêu thụ thụ động. Thứ ba, mục vụ giới trẻ trong kỷ nguyên số phải mang tính sáng tạo và đồng hành. Các mục tử cần lắng nghe người trẻ (kể cả qua kênh online) để hiểu họ đang nghĩ gì, cần gì, từ đó đồng hành với họ bằng ngôn ngữ và phương tiện của họ.

Sau cùng, như Đức Thánh cha Phanxicô khẳng định, người trẻ không chỉ là tương lai mà là hiện tại của Giáo hội[20]. Trong hiện tại ấy, thế giới kỹ thuật số là một phần của “hiện sinh” người trẻ mà Giáo hội phải hết lòng chăm sóc. Với chiều sâu của thần học mục vụ và tấm lòng người mục tử, Giáo hội tại Việt Nam được mời gọi trở nên “một người mẹ biết chăm sóc” các con cái mình trong môi trường mới này. Nếu vừa biết tận dụng “những phát minh kỳ diệu” của truyền thông, vừa kiên trì gieo trồng hạt giống Lời Chúa vào tâm hồn người trẻ qua mọi phương tiện, chúng ta hy vọng hạt giống Tin mừng gieo vào “thửa đất internet” sẽ lớn mạnh trong thửa đất tại giáo xứ, trong lòng Giáo hội một ngày không xa. Nơi đó, nhờ ơn Chúa và sự cộng tác của con người, chúng ta sẽ hướng đến năm 2033 để kỷ niềm 500 năm Tin mừng đến Việt Nam, với vụ mùa bội thu.

Tác giả: Lm. Giuse Phạm Đình Ngọc, SJ




Carlo vị thánh của tuổi trẻ.

Lòng tôn sùng Thánh Thể nồng say.

Có Chúa niềm vui tràn đầy.

Có Chúa đời sẽ ngày bình an.

Yêu kính Mẹ Thiên Đàng cõi phúc.

Chuỗi Mân côi khúc nhạc dặt dìu.

Carlo yêu Mẹ rất nhiều,

trở nên gương mẫu sáng chiều thưa kinh.

Internet hết tình sử dụng,

như phương tiện minh chứng tình Cha.

Có Chúa đời sẽ nở hoa,

hết lòng sám hối đậm đà Phúc âm.

(Thơ của ĐGM Giuse Bùi Công Trác sáng tác trong dịp Triển Lãm Thánh Thể tại Trung Tâm mục vụ Sài Gòn)

 ------------------

(Nguồn: WHĐ)

 

Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/chi-tiet/duc-tin-cua-gioi-tre-trong-the-gioi-ky-thuat-so

 

***

4. Làm chứng trong môi trường kỹ thuật số Diễn văn của Đức Hồng y Pietro Parolin trong dịp Năm thánh dành cho các nhà truyền giáo kỹ thuật số và những người Công giáo có ảnh hưởng

 

Chuyển ngữ: Lm. Đaminh Ngô Quang Tuyên

WHĐ (05/11/2025) – Trong dịp Năm thánh dành cho các nhà truyền giáo kỹ thuật số và những người Công giáo có ảnh hưởng diễn ra tại Vatican từ ngày 28-29/7/2025, Đức Hồng y Pietro Parolin - Quốc vụ khanh Tòa Thánh đã có bài diễn văn dành cho các tham dự viên.

Trong bài diễn văn, Đức Hồng y cho thấy thế giới kỹ thuật số không chỉ là một công cụ, mà là một môi trường đang định hình cách thức con người suy nghĩ, cảm nhận và tương quan với nhau. Vì thế, sứ mạng của Hội thánh không thể giản lược vào kỹ thuật truyền thông, mà phải được thể hiện như một sự hiện diện sống động, có khả năng làm chứng cho sự gần gũi của Thiên Chúa ngay cả trong một không gian bị đánh dấu bởi sự phân mảnh, hời hợt và tin giả. Thách đố ở đây là phải truyền đạt đức tin với lòng trung thành và sáng tạo, duy trì phong cách Tin mừng dựa trên chân lý, phục vụ và hiệp thông. Qua đó, Đức Hồng y mời gọi các nhà truyền giáo kỹ thuật số sống ơn gọi của mình như một “trang mới” trong sứ mạng của Hội thánh, góp phần xây dựng một môi trường kỹ thuật số nhân bản hơn, đặt nền tảng trên phẩm giá con người và niềm hy vọng của Đấng Phục Sinh. Sau đây là toàn văn bản dịch Việt ngữ bài diễn văn của Đức Hồng y.

__________________

DIỄN VĂN CỦA ĐỨC HỒNG Y PIETRO PAROLIN

TRONG DỊP NĂM THÁNH DÀNH CHO CÁC NHÀ TRUYỀN GIÁO KỸ THUẬT SỐ VÀ NHỮNG NGƯỜI CÔNG GIÁO CÓ ẢNH HƯỞNG

Thính đường Conciliazione

Thứ Hai, 28 tháng 7, 2025

Các bạn trẻ và các nhà truyền thông mạng thân mến, 

Tôi xin gửi lời chào thân ái đến tất cả anh chị em đang có mặt nơi đây, quý vị đã đến Rôma tham dự Năm thánh cho các nhà truyền giáo kỹ thuật số và những người Công giáo có ảnh hưởng (‘Catholic Influencers’). Thật là một kinh nghiệm phong phú và tuyệt vời cho tôi khi được gặp mặt anh chị em, những người thường chỉ gặp nhau trên các mạng xã hội, hôm nay hiện diện nơi đây bằng xương bằng thịt, để cùng nhau cử hành Năm thánh của Niềm Hy Vọng trong tình hiệp thông với nhau và với toàn thể Hội thánh.

Một trong những mục đích của truyền thông xã hội là cung cấp thông tin; nhưng điều làm nên tính nhân bản thật sự của chúng ta, điều khiến chúng ta sống động và khác biệt, chính là khả năng đặt câu hỏi. Và câu hỏi đang thách đố chúng ta hôm nay, bên cạnh biết bao câu hỏi mà lịch sử đã từng đặt ra cho Hội thánh, có lẽ là câu hỏi này: Làm thế nào thế giới kỹ thuật số, một môi trường đang nhanh chóng biến đổi các động lực xã hội và thách thức sâu xa cách chúng ta hiện diện trong thế giới, có thể truyền đạt đức tin?

Sự khôn ngoan của Hội thánh chỉ cho ta những con đường đã từng được khai mở để tìm kiếm câu trả lời cho vấn nạn ấy, mà nếu diễn tả bằng ngôn ngữ truyền thông xã hội thì có thể nói là: “Sống trong thế gian, nhưng không thuộc về thế gian; sống trong thời gian, nhưng không xu thời.” (x. Ga 17:16) Chúng ta được đòi hỏi phải sống như thế, để làm chứng cho sự thật của cuộc gặp gỡ với Đức Kitô, một cuộc gặp gỡ diễn ra trong thời gian nhưng vượt trên thời gian, đồng thời biến đổi thời gian.

Những gì chúng ta đang trải nghiệm, và những gì chính chúng ta đã làm ra qua sự dấn thân của mình không chỉ là một sự thay đổi về công nghệ, mà là một sự thay đổi đích thực của thời đại. Đây là một sự biến đổi văn hóa, nó cũng ảnh hưởng đến nhận thức của chúng ta về thời gian, các mối tương quan, cách tiếp cận thông tin, và ý nghĩa của tất cả những điều đó.

Trong bối cảnh ấy, sứ mạng của Hội thánh không thể thụ động hay thiếu sự chuẩn bị. Sứ mạng ấy nằm ở khả năng trao ban ý nghĩa và định hướng thông qua cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa. Đồng thời, nó đòi hỏi một thái độ chú tâm, năng động, đối thoại và truyền giáo, có khả năng đọc các dấu chỉ thời đại bằng con mắt đức tin và con tim của Đức Giêsu.

Kỹ thuật số ngày nay không còn chỉ là một công cụ, dù mạnh đến đâu, nhưng đã trở thành một ngôn ngữ, một môi trường, một cách thức hiện hữu trong thế giới. Đối diện với sự thay đổi ấy, Hội thánh không được phép sao chép lại những mô hình có sẵn, mà phải biết phân định cách loan báo Tin mừng với lòng trung thành và sáng tạo trong bối cảnh mới này.

Nói đến sứ mạng kỹ thuật số, ta không thể giản lược việc truyền giáo thành một vấn đề kỹ thuật hay truyền thông, nhưng phải nhận ra rằng công nghệ kỹ thuật số ngày càng trở thành một phần thiết yếu của cách con người tư duy, cảm nhận, tìm kiếm và liên hệ với nhau. Vì thế, điều quan trọng hơn chiến lược, là sự hiện diện: một sự hiện diện đậm tính nhân bản, một chứng tá của đời sống Tin mừng, một thái độ đối thoại, lắng nghe và đồng hành với tha nhân, cả trong môi trường trực tuyến. Ở đây, điều quan trọng không phải là hiệu quả của nội dung, mà là khả năng của Hội thánh trong việc làm chứng cho sự gần gũi của Thiên Chúa trong một môi trường vốn có thể phi nhân, hỗn loạn, hoặc đầy thù ghét, tin giả và dối trá.

Sứ mạng kỹ thuật số có nghĩa là đón nhận nhịp sống, vết thương, khát vọng và câu hỏi của những người đang sống trong không gian ấy, nhưng không rơi vào tình trạng vô danh hay hời hợt, cũng không sa vào cám dỗ của việc tìm kiếm danh tiếng. Thay vào đó, là khám phá lại vẻ đẹp của việc thuộc về Đức Kitô, sống trong tình hiệp thông của Hội thánh, và nhờ đó mang đến cho thế giới niềm hy vọng, niềm hy vọng phát xuất từ Chúa Giêsu Kitô, Đấng Phục Sinh và hằng sống, hôm qua, hôm nay và mãi mãi.

Một trong những đóng góp quý giá mà Hội thánh, và từng người anh chị em, có thể mang lại cho lãnh vực này là cái nhìn mang tính quan hệ của con người, phát xuất từ sự thật là chúng ta được tạo dựng theo hình ảnh và là đền thờ của Ba Ngôi Thiên Chúa. Trong một thời đại mà các mối liên kết có thể bị phân mảnh hoặc thao túng vì những lợi ích làm giảm phẩm giá con người, đức tin Kitô giáo nhắc chúng ta rằng: Mỗi con người là một khuôn mặt, chứ không chỉ là một hồ sơ cá nhân; cuộc đời họ là một câu chuyện thánh thiêng, chứ không phải chỉ là một chuỗi dữ liệu.

Do đó, sứ mạng kỹ thuật số luôn đòi hỏi một phong cách Kitô giáo đề cao những cuộc gặp gỡ thực sự hơn là những lời nói; đề cao sự phục vụ hơn là tìm cách làm cho mình nổi trội hơn người khác; sống hiệp thông hơn là theo cá nhân chủ nghĩa; kiên nhẫn hơn là vội vàng; trọng sự thật hơn là tìm cách làm vừa lòng người ta. Việc loan báo Tin mừng trong thế giới kỹ thuật số không phải là đặc ân dành cho những ai thành thạo công nghệ, mà là một trách nhiệm của mọi người sống trong thời đại này và đã lãnh nhận ơn đức tin. Đồng thời, đó cũng là một ơn gọi đặc biệt dành cho những ai được Thiên Chúa ban cho tài năng để phục vụ trong môi trường này. Anh chị em được mời gọi tưởng tượng ra những công cụ kỹ thuật số mới, những nền tảng mới, những mô hình kinh tế mới, để phục vụ Tin mừng và phẩm giá con người.

Đức Cố Giáo hoàng Phanxicô yêu dấu của chúng ta, trong Ngày Giới Trẻ Thế Giới tại Panama, đã gọi Đức Maria là “the influencer of God” (“người có ảnh hưởng của Thiên Chúa”), bởi vì Mẹ đã can đảm thưa “Xin vâng” và tín thác vào tình yêu cùng lời hứa của Thiên Chúa, Đấng duy nhất có quyền năng làm cho mọi sự trở nên mới mẻ. (Diễn từ của Đức Thánh Cha Phanxicô trong Đêm Canh Thức với Giới Trẻ, Ngày Giới Trẻ Thế Giới lần thứ 34, Công viên Thánh Gioan Phaolô II – Metro Park, Panama, ngày 26.01.2019). Ngày 20 tháng 6 năm 2025, Đức Giáo hoàng Lêô XIV cũng mời gọi chúng ta khám phá ra rằng “sự khôn ngoan đích thực hệ tại ở việc nhận ra ý nghĩa đích thực của cuộc đời, hơn là ở việc có nhiều dữ liệu,.” (Sứ điệp của Đức Giáo hoàng Lêô XIV gửi các tham dự viên Hội nghị Quốc tế lần thứ hai về Trí tuệ Nhân tạo, Đạo đức và Quản trị Doanh nghiệp, Vatican, ngày 20-6-2025).

Vì thế, đổi mới môi trường kỹ thuật số là một thách đố đang chờ đón tất cả anh chị em, chờ đón từng người trong anh chị em. Anh chị em hãy cảm thấy nó như một sứ mạng của chính mình, và sống những ngày này như một cơ hội để lớn lên theo hướng dấn thân này.

Xin Chúa chúc lành cho tất cả anh chị em, cho công việc, sứ mạng và sự phục vụ của anh chị em. Chúc anh chị em một Năm thánh đầy ân sủng, và cảm ơn anh chị em.

Chuyển ngữ: Linh mục Đaminh Ngô Quang Tuyên

Ủy ban Loan báo Tin mừng/ Hội đồng Giám mục Việt Nam

 

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/lam-chung-trong-moi-truong-ky-thuat-so-dien-van-cua-duc-hong-y-pietro-parolin-trong-dip-nam-thanh-danh-cho-cac-nha-truyen-giao-ky-thuat-so-va-nhung-nguoi-cong-giao-co-anh-huong

 

***

5. Một vài suy tư về cách ngừa thai tự nhiên bằng phương pháp tiết dục định kỳ

Dẫn nhập

I. Thông điệp Casti Connubii và Humanae Vitae

II. Thách đố giữa ngừa thai tự nhiên và ngừa thai nhân tạo

III. Thẩm quyền của Giáo hội

Kết luận

Phần Phụ Lục

Phụ lục 1:  Ý nghĩa quan trọng của Thông điệp Humanae Vitae - Sự sống con người

Phụ lục 2: Các phương pháp ngừa thai tự nhiên được Giáo hội Công giáo chấp nhận

Phụ lục 3: Các phương pháp và dụng cụ ngừa thai nhân tạo

Phụ lục 4: Những tác động tâm lý tiêu cực của phương pháp tiết dục theo chu kỳ. Nhận xét của Tiến sĩ John R. Cavanagh

Dẫn nhập

Cách đây vài tuần, tôi có viết một bài về chủ đề: “Tránh thai và quyền làm cha mẹ có trách nhiệm.” Bài viết này trước tiên đã được website của Hội đồng Giám mục Việt Nam (HĐGMVN)[1] và trang web của thư viện Học viện Công giáo Việt Nam (HVCGVN),[2] cũng như một số các website Công giáo khác mà tôi hay gởi bài viết cho họ để phổ biến. Sau đó tôi đã cho cập nhật và cho đăng lại tại website của HĐGMVN với tựa đề: “Tránh thai và quyền làm cha mẹ có trách nhiệm” (bản cập nhật)vào ngày 23 tháng 10 năm 2025.

Hôm nay tôi muốn tiếp tục chia sẻ với quý độc giả Công giáo về một điều mà tôi nhận thấy đây quả thực là mối bận tâm của nhiều tín hữu Công giáo tại Việt Nam cũng như ở hải ngoại qua các cơ quan truyền thông đại chúng. Đó chính là mối ưu tư và bận tâm liên quan đến các phương pháp ngừa thai, bao gồm các phương pháp tự nhiên và nhân tạo.[3] Câu hỏi mà các tín hữu Công giáo thường xuyên thắc mắc và đặt ra cho các thuyết trình viên, đó chính là: đâu là các phương pháp tránh thai hay còn gọi là ngừa thai[4] mà Giáo hội Công giáo công nhận như là một phương pháp kế hoạch hóa gia đình, và đâu là những pháp pháp ngừa thai nhân tạo mà Giáo hội khuyên các cặp vợ chồng không nên sử dụng, vì những lý do mà giáo hội đã giải thích qua các giáo huấn và qua các thông điệp, ví dụ cụ thể như trong Thông Điệp Casti Connubii.[5]

I. Thông điệp Casti Connubii và Humanae Vitae

Thông điệp Casti Connubii (“Hôn nhân Kitô giáo”), được Đức Giáo hoàng Piô XI ban hành ngày 31 tháng 12 năm 1930, là một văn kiện quan trọng của Giáo hội Công giáo về hôn nhân và luân lý tính dục. Ý nghĩa và mục đích chính của thông điệp này có thể tóm lược như sau:

1. Bảo vệ sự thánh thiện và cao quý của hôn nhân

● Khẳng định hôn nhân là một bí tích, có nguồn gốc từ Thiên Chúa, mang phẩm giá cao quý và thiêng liêng.

● Hôn nhân không chỉ là một khế ước tự nhiên, mà còn là một thực tại siêu nhiên được Chúa Kitô nâng lên hàng bí tích.

2. Xác định mục đích của hôn nhân

● Mục đích chính: sinh sản và giáo dục con cái.

● Mục đích phụ: sự hỗ trợ lẫn nhau giữa vợ chồng, phát triển tình yêu vợ chồng, và phương thế hợp pháp để sống trọn ơn gọi Kitô hữu.

3. Lên án những sai lầm về hôn nhân và tính dục

● Mạnh mẽ lên án việc ngừa thai nhân tạo, gọi đó là hành vi đi ngược lại luật tự nhiên và ý định của Thiên Chúa.

● Phản đối phá thai, coi đó là tội ác nghiêm trọng.

● Bác bỏ các quan niệm làm giảm giá trị của hôn nhân, chẳng hạn coi hôn nhân chỉ là một khế ước dân sự hoặc một quan hệ đơn thuần dựa trên cảm xúc.

4. Khẳng định giá trị của luật tự nhiên và luật Thiên Chúa

● Thông điệp nhấn mạnh rằng trong đời sống hôn nhân, con người không được tùy tiện quyết định theo ý muốn riêng, mà phải tuân theo luật tự nhiên và luật luân lý do Thiên Chúa thiết lập.

5. Khích lệ các đôi vợ chồng sống thánh thiện

● Kêu gọi vợ chồng Kitô hữu hãy trung thành, yêu thương và nâng đỡ nhau.

● Coi hôn nhân Kitô giáo là một con đường nên thánh trong đời sống gia đình.

Nói tóm lại, Thông điệp Casti Connubii là văn kiện chính thức đầu tiên của Đức Giáo hoàng Piô XI trong thế kỷ XX bàn trực tiếp và toàn diện về hôn nhân, nhằm đối phó với những thay đổi xã hội, đặc biệt là khi Hội nghị Lambeth (Anh giáo, 1930) lần đầu tiên cho phép sử dụng biện pháp tránh thai trong một số trường hợp.[6] Văn kiện này tái khẳng định lập trường kiên quyết của Giáo hội Công giáo về sự bất khả phân ly của hôn nhân và việc phải luôn mở ra cho sự sống.

Đặc biệt hơn cả là Thông Điệp Humanae Vitae.[7] Qua hai Thông Điệp Casti Connubii và Humanae VitaeGiáo hội Công giáo đã chính thức lên tiếng và đưa ra lập trường của Giáo hội là không thể chấp nhận bất kỳ một phương pháp ngừa thai nhân tạo nào.[8]

Thế nhưng trong hoàn cảnh và cuộc sống hiện nay của các cặp vợ chồng trẻ, nhiều người đã lên tiếng và thắc mắc liệu phương pháp tiết dục định kỳ có tự nhiên hay không? Vì chính khi các cặp vợ chồng áp dụng phương pháp này lại tạo thêm sự áp lực về mặt tâm lý và xem ra đôi khi lại trái nghịch với những gì được đánh giá hay xem là tự nhiên, như Tiến sĩ John Cavanagh, thành viên của Ủy ban Giáo hoàng nghiên cứu về các vấn đề dân số, gia đình và kiểm soát sinh sản dưới triều đại của Đức Giáo hoàng Phaolô VI, đã nhận xét trong bản tường trình của ông gửi cho Ủy ban Giáo hoàng.[9]

Cho nên trong bài viết ngắn gọn này, tôi xin mạn phép được chia sẻ với quý độc giả một vài suy tư liên quan đến phương pháp ngừa thai tự nhiên qua cách thức áp dụng tiết dục định kỳ. Câu hỏi mà nhiều người thường hay đưa ra để thảo luận là: Liệu tiết dục định kỳ có hoàn toàn tự nhiên hay không?

Ngoài những chứng cứ chống đối về cách lập luận nội tại của nó, Thông điệp Humanae Vitae còn bị những chỉ trích khác. Trong số đó, một số các nhà thần học luân lý đưa ra nhận xét như sau: liệu việc phân biệt giữa các hình thức ngừa thai tự nhiên và nhân tạo xét về phương diện luân lý có phù hợp và được coi là hợp lệ không?[10] Thông điệp vang vọng giáo huấn của Đức Giáo hoàng Piô XII, dẫn đến hiệu quả, là khi có những động lực nghiêm trọng xuất phát từ “những điều kiện tâm sinh lý của chồng hay vợ, hay từ những điều kiện ngoại lai,” thì lúc đó hợp luật cho vợ chồng “được xem xét đến những chu kỳ tự nhiên đã có sẵn trong những chức năng truyền sinh” và giới hạn việc giao hợp chỉ trong những lúc không thể thụ thai mà thôi. Lối thực hành này, được phân biệt khỏi cách giao hợp trong những giai đoạn có thể thụ thai. Và được coi là một trong những phương thế tự nhiên để ngừa thai. Thật ra, như thông điệp đề cập, có những khác biệt tất yếu giữa hai trường hợp: trường hợp trước, vợ chồng sử dụng hợp luật, sự xếp đặt tự nhiên; trong khi ở trường hợp sau, họ ngăn cản sự phát triển của những tiến trình tự nhiên.” (HV, #16)

Nói cách khác, sự khác nhau giữa tiết dục theo chu kỳ kinh nguyệt hay còn gọi là tiết dục định kỳ, và tất cả những hình thức ngừa thai khác, hệ tại ở điểm này: là tiết dục định kỳ đóng vai trò quan trọng hay là được ưu tiên hơn vào những thời kỳ vô sinh trong chu kỳ kinh nguyệt của người nữ và chỉ được giao hợp trong những thời điểm này;[11] những hình thức ngừa thai khác cho phép giao hợp bất cứ lúc nào, nhưng có việc can thiệp cách nào đó vào hiệu quả của hành vi, như nhằm vô hiệu hóa bất cứ sự thụ thai nào. Hơn nữa, vợ chồng hợp luật khi thực hiện sự tiết dục định kỳ và không giao hợp trong những thời kỳ có thể thụ thai thì được xem như họ chứng tỏ mình tuân thủ “một tình yêu chân thật và rất chân chính” (HV, #16). Do vậy, dường như rõ rệt, là ít ra phần giải thích của Giáo hội Công giáo về việc thừa nhận phương pháp tiết dục định kỳ – xuất phát từ sự kiện là việc thực hành này bảo đảm và đòi buộc vợ chồng duy trì thói quen có kỷ luật bản thân – và biết tự chủ trong mối tương giao vợ chồng.

Về điểm sau cùng vừa được đề cập ở trên, tôi trộm nghĩ: chỉ có những ai thiếu suy nghĩ thì mới coi nhẹ vai trò của kỷ luật, vốn đóng vai trò quan trọng trong sự trưởng thành cá nhân và đời sống vợ chồng. Tuy nhiên, cũng cần phải nói rằng, trong đời sống vợ chồng, họ cũng còn biết bao nhiêu việc khác phải lo toan, và đôi khi những công việc này vượt quá sự hy sinh hãm mình hằng ngày của họ, khiến họ rất khó khăn và vất vả để có thể chu toàn tất cả mọi trách nhiệm trong tư cách là vợ hoặc chồng, là cha hoặc mẹ. Bởi vậy, tôi thiết nghĩ, những người đang sống trong bậc sống gia đình, họ cần được sự cảm thông và đối xử một cách quảng đại hơn. Vì có lúc sự tiết dục định kỳ đi đến độ gây nên sự căng thẳng tâm lý và tinh thần cộng dồn trên vợ chồng, đặc biệt nơi người vợ, và tạo nên mối đe dọa cho sự chung thủy trong hôn nhân và do vậy, sau cùng gây nguy hại cho hạnh phúc của con cái. Một số người đã gợi ý mong Giáo hội nên xét lại chủ trương cứng nhắc, cho là chỉ có phương pháp ngừa thai dựa theo chu kỳ kinh nguyệt hay một vài phương pháp kế hoạch hóa việc sinh sản theo cách tự nhiên, là các phương cách hợp lệ mà vợ chồng có thể áp dụng để kế hoạch hóa gia đình.[12]

II. Thách đố giữa ngừa thai tự nhiên và ngừa thai nhân tạo

Chắc chắn việc phân biệt giữa ngừa thai tự nhiên và ngừa thai nhân tạo đã bị liên tục thách đố. James T. Burtchaell đã khéo léo cho thấy những khó khăn thường gặp khi áp dụng tiết dục định kỳ vốn được xem là hình thức ngừa thai “tự nhiên.”[13] Quan điểm của Burtchaell không phải chối bỏ những chu kỳ sinh học vốn là thành phần của tính dục phụ nữ; đúng hơn, ông muốn xác nhận sự kiện tính dục con người là một thực tế bao quát hơn là một thực tế sinh học đơn thuần.

Nơi con người, tính dục phản ánh những chiều kích tình cảm, cảm xúc và tâm lý của họ, chứ không phải chỉ những chiều kích thể lý hay sinh học mà thôi. Hơn nữa, người ta đã có thể chứng minh được, là đa số phụ nữ cảm thấy rất ham muốn trong vấn đề ái ân, và càng lúc càng nhạy cảm và thấy đòi hỏi về mặt sinh lý, vào thời gian trứng rụng và vào ngay thời gian trước và sau kinh kỳ. Năm 1965, Tiến sĩ John R. Cavanagh,[14] tâm lý gia Công giáo, đã soạn thảo và phân phát bản câu hỏi trắc nghiệm đến các cặp vợ chồng có sử dụng phương thức ngừa thai theo chu kỳ kinh nguyệt, để xin họ điền câu trả lời, mong họ chia sẻ những kết quả thành đạt.[15] Kết quả thu được không như ông mong đợi. Nhiều người đã trả lời và cho biết rằng: phương pháp này đã không đáp ứng thỏa đáng cho công cuộc kế hoạch hóa gia đình. Cavanagh, sau đó đã viết một bản tường trình, là người nữ thường cảm thấy bị dồn nén bởi họ không được giao hợp vào thời gian rụng trứng, tức là lúc mà họ có đòi hỏi sinh lý mạnh mẽ nhấtCần ghi nhận là lúc đầu, Cavanagh cổ võ nhiệt tình cho phương pháp ngừa thai theo chu kỳ kinh nguyệt,[16] nhưng từ những câu trả lời cho bản câu hỏi của ông, và từ việc ông là thành viên trong tiểu ban giáo hoàng đặc biệt về ngừa thai, ông đã trở thành người đứng lên kêu gọi Giáo hội nên xét lại lập trường cấm đoán các hình thức ngừa thai khác.[17]

Cái khó khăn khi vợ chồng áp dụng phương pháp ngừa thai theo tiết dục định kỳ là chính ở những thời điểm rụng trứng, thì vợ chồng cần phải tránh giao hợp, nếu họ muốn áp dụng hình thức ngừa thai hoặc kế hoạch hóa gia đình cách tự nhiên được Giáo hội thừa nhận. Burtchaell lại thấy chẳng có gì là tự nhiên ở đây. Trái lại, so sánh với những hình thức ngừa thai khác, ông lấy làm tiếc mà cho rằng “phương pháp theo chu kỳ kinh nguyệt là bất tự nhiên nhất trong những phương pháp ngừa thai, bởi nó không những ngăn ngừa sự thụ thai, mà còn ngăn ngừa luôn sự biểu lộ tình cảm yêu thương giữa vợ chồng qua hành vi tính dục.”[18] Vì trong giai đoạn này – thời kỳ rụng trứng – vợ chồng không thể gần gũi với nhau trong vấn đề chăn gối, nếu họ muốn áp dụng phương pháp ngừa thai tự nhiên.

Burtchaell tiếp tục nêu ra là không có “việc áp đặt sự khác biệt đạo đức nội tại” giữa tiết dục định kỳ và những phương thế ngừa thai khác. Theo Burtchaell, sự xấu thật sự cần tránh trong đời sống hôn nhân không phải là việc ứng dụng những phương pháp ngừa thai nhân tạo, nhưng điều đáng sợ đúng hơn là sự đầu hàng trước tính ích kỷ, vốn xảy ra trong xứ sở giàu có này (tức nước Mỹ), “có lẽ là lý do thông thường nhất để người ta ngừa thai.” Các cặp vợ chồng thường xuyên trong mối nguy cơ đầu hàng trước “não trạng ngừa thai” khiến họ che mắt làm ngơ giá trị của con cái, vốn thường bị xếp hạng rất thấp trong bảng liệt kê những mối ưu tiên của vợ chồng; do vậy đã có quá nhiều thứ được xem là quan trọng hơn con cái: ví dụ, nên làm hai công việc, hai cái nhà, hai xe hơi, bất động sản mới, những trang thiết bị tối tân mới ra, du lịch giải trí và sinh hoạt xã hội liên lỷ. Từ viễn tượng này, con cái bị xem như gánh nặng, chứ không phải là quà tặng chúc phúc do Chúa ban.

Burtchaell xác tín rằng: vợ chồng Kitô giáo cần nhận thức là trong cuộc sống hôn nhân sẻ chia của họ, họ cần biết đối diện trước những bất ngờ đòi hỏi nơi họ – biết yêu thương quảng đại trong những tình huống họ không thể tính toán hay kiểm soát được. Chắc chắn, vợ chồng cần động viên nhau, biết đánh giá và thừa nhận sự hiện diện của con cái có thể là thách đố cho cuộc sống thoải mái cố hữu của họ, làm chính họ phải ngỡ ngàng, nhưng cùng lúc điều ấy cũng sẽ giúp họ trở nên người cha và người mẹ cao cả hơn như họ dự tưởng”.[19] Chính khi có thái độ này, khi con cái được yêu mến, được dự trù trước, cách quảng đại và được yêu thương khi chào đời, và khi đó, việc áp dụng bất cứ phương pháp ngừa thai nào, chỉ như là đòi hỏi của thiên chức làm cha làm mẹ có trách nhiệm buộc phải có, và rồi như vậy, vợ chồng mới không hoài công quyết định xem cách thức nào để ngừa thai giữa sự tiết dục định kỳ hay các phương pháp khác. Chỉ từ nhận thức này mới có thể hữu lý để ứng dụng các phương pháp ngừa thai gọi là nhân tạo, và do vậy những phương pháp đó không hẳn thiết yếu là điều xấu theo luân lý và không phải luôn luôn bất hợp pháp.[20]

Thêm vào đó, tôi thiết nghĩ Giáo hội Công giáo cũng đã tiên liệu và dự đoán trước là trong cuộc sống của con người, nhất là đối với các tín hữu sẽ có những trường hợp xung đột về các nguyên tắc luân lý. Một bên là giáo huấn chính thức của Huấn quyền, một bên là mệnh lệnh và tiếng nói của lương tâm cá nhân. Các tín hữu cần phải lắng nghe bên nào? Nhất là khi xảy ra các trường hợp mà giáo huấn của Giáo hội không đồng thuận với các phán quyết của lương tâm cá nhân, hoặc trong trường hợp lương tâm bất đồng với các giáo huấn chính thức của Giáo hội.

Tôi muốn dùng câu chuyện sau đây để minh hoạ sự căng thẳng giữa lương tâm và huấn quyền của Giáo hội. Trong một cơn bão khủng khiếp vào lúc vị thuyền trưởng bị cho là không thể điều khiển được con tàu với đầy đủ trách nhiệm nữa. Vị sỹ quan chỉ huy thượng cấp tiến tới để giải nhiệm thuyền trưởng, nhưng vị thuyền trưởng đã xua ông này đi và ra lệnh cho người lái tàu: “quay qua bên trái 180 độ”. Nhưng vị chỉ huy thượng cấp đã la lên và nói với người lái tàu: “sẽ không an toàn nếu anh làm như thế!”

Người tài công (lái tàu) nghe thấy hai mệnh lệnh trong cùng một lúc: “lái tàu quay sang trái 180độ và lái tàu đi thẳng về phía trước”. Quá đỗi bối rối, anh ta la lên: “tôi phải làm cái quỷ gì đây?” Người lái tàu đã được đào tạo để tuân theo mệnh lệnh của thượng cấp mà anh ta tôn trọng, thế nhưng anh ta hiện đang nhận được hai mệnh lệnh từ hai thượng cấp đều đáng tôn trọng. Vậy anh ta phải nghe ai đây? Anh ta phải coi trọng bên nào bây giờ?

Giáo hội cũng ở trong một tình cảnh tương tự như thế khi Thông điệp Humanae Vitae (Sự sống con người) được công bố năm 1968.Thông điệp này đòi hỏi “sự thẩm định” trên toàn thế giới. Nhiều Hội đồng Giám mục ở các quốc gia đã đưa ra các tuyên bố và những quan điểm khác nhau về cách thức các tín hữu cần phải đọc và thi hành những yêu cầu luân lý trong thông điệp này, liên quan đến việc sử dụng các phương pháp ngừa thai nhân tạo.[21] Chúng ta phải tuân theo hướng dẫn của bên nào đây?

Lương tâm, như chúng ta đã thấy, là sự cam kết của toàn bộ con người với những giá trị và phán quyết khi xem xét về điều “tôi phải làm” dưới ánh sáng của việc cam kết áp dụng những giá trị này. Lương tâm thường được truyền thống coi là quy chuẩn chủ quan tối thượng trong lĩnh vực luân lý, tương phản với quy chuẩn khách quan của mệnh lệnh đạo đức mà lý trí nắm bắt được theo bản chất và mặc khải. Người ta luôn luôn buộc phải tuân theo phán quyết của một lương tâm có nhận thức đúng đắn. Việc nhận thức này được tiến hành trong cộng đồng nhờ vào nhiều nguồn khôn ngoan đạo đức khác nhau. Trong Giáo hội, huấn quyền là một nguồn thẩm quyền luân lý. Giáo huấn của Giáo hội rất quan trọng, dù không phải là nhân tố độc nhất, trong sự hình thành lương tâm và trong phán quyết luân lý của con người.

Cho nên ở đây, tôi muốn đưa ra sự nhận xét của mình liên quan đến lãnh vực lương tâm và huấn quyền của Giáo hội, đặc biệt trong các vấn đề liên quan đến lãnh vực luân lý.Vấn đề trọng tâm được đặt ra “đâu là đặc tính quy chuẩn trong giáo huấn chính thức của Giáo hội trong việc đạt tới phán quyết của lương tâm?”

Trong mọi lãnh vực của đời sống, chúng ta thường cậy dựa vào kinh nghiệm và lời khuyên bảo của những người thông thạo và có trình độ cũng như sự hiểu biết hơn chúng ta. Chúng ta đón nhận ảnh hưởng của họ như một thẩm quyền. Điều này có nghĩa chúng ta coi họ là đúng đắn và chúng ta tuân theo sự hướng dẫn của họ, dẫu cho chúng ta đôi khi không hiểu được trọn vẹn lý lẽ của họ. Cậy nhờ đến thẩm quyền là một phần của cuộc sống có trách nhiệm. Điều đó không có nghĩa là chúng ta trở nên thụ động và đuối lý, nhưng chúng ta tin vào thẩm quyền khi nhận ra rằng: kiến thức và kinh nghiệm của mình còn quá giới hạn, để giải quyết ổn thỏa một vấn đề nào đó.

Nếu chúng ta đã có chút kiến thức về vấn đề của mình rồi, chúng ta hy vọng thẩm quyền này sẽ khẳng định những gì chúng ta đã biết và thách đố chúng ta với những gì chúng ta chưa biết. Khi nại đến một thẩm quyền nào, chúng ta tin rằng thẩm quyền ấy sẽ đúng đắn hơn về vấn đề này hơn chúng ta, hoặc hơn bất kỳ ai khác mà chúng ta có thể cậy dựa vào.

Như thế, mối liên hệ giữa lương tâm và thẩm quyền là không thể tách biệt. Trong hầu hết các trường hợp, chúng không đối kháng vì chúng đều hướng đến sự thật. Thế nhưng, trong vài trường hợp, sự căng thẳng giữa chúng có vẻ gia tăng, mỗi khi thẩm quyền khẳng định vị thế của mình bằng việc ra lệnh. Chẳng hạn, trong mối quan hệ giữa con cái với cha mẹ, hay tương quan giữa người lính với sĩ quan cấp trên, giữa cư dân một thành phố với chính quyền, hoặc giữa các tín hữu với thẩm quyền giảng dạy của Giáo hội.

III. Thẩm quyền của Giáo hội

Ngay từ những năm đầu của thế kỷ XIX, hạn từ “Magisterium” (nghĩa là Huấn Quyền) đã được sử dụng cách chuyên biệt để chỉ tính phẩm trật của Giáo hội[22] và việc thực hành quyền giảng dạy chính thức trong Giáo hội. Chỉ những giáo huấn của Giáo hội mới là giáo huấn chính thức. Điều này mang ý nghĩa quan trọng vì chúng được các giám mục đưa ra, bởi vì các ngài có thẩm quyền giảng dạy, với tư cách là những người thừa kế quyền giảng dạy của các tông đồ nhân danh Chúa Kitô. Quyền giảng dạy chính thức của Giáo hội chính là điều chúng ta cần nại đến để có câu trả lời chính thức cho nhiều vấn đề. Chẳng hạn như vấn đề đồng tính luyến ái, việc thụ tinh trong ống nghiệm (IVF), việc nghiên cứu tế bào gốc, v.v…

Trong thời buổi hiện nay, giáo quyền rất ít khi sử dụng huấn quyền đặc biệt - ơn bất khả ngộ - để giảng dạy, chỉ có hai trường hợp ơn bất khả ngộ được nại đến trong vòng 150 năm qua, do Đức Thánh cha tuyên tín, đó là: tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội (năm 1854)[23], và Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời (1950)[24].

Thêm vào đó, chúng ta cần lưu ý rằng, trong những năm gần đây hoặc xa hơn một chút, chưa hề có một Đức Thánh cha hay một Công đồng chung nào tuyên tín trong tính bất khả ngộ về các vấn đề luân lý; trong thực tế, các thần học gia Công giáo Rôma thống nhất rằng: trong việc thực hành quyền giảng dạy phổ quát, Giáo hội chưa bao giờ giảng dạy cách bất khả ngộ[25] trong lĩnh vực luân lý riêng biệt nào.[26]

Thực tế cho thấy cách rõ ràng, các giáo huấn chính thức của Giáo hội trong các vấn đề luân lý cụ thể không mang tính bất khả ngộ (nghĩa là chúng có thể bị sai lầm). Chúng chính đáng được coi như những giáo huấn có thẩm quyền, nhưng có thể sai lầm. Như thế, các giáo huấn luân lý này không đòi buộc các tín hữu phải đón nhận với thái độ vâng phục của đức tin. Để đón nhận các giáo huấn này, điều được đòi hỏi nơi các tín hữu là lòng kính cẩn tuân phục của các tín hữu. Như Hiến chế Tín lý về Giáo hội (Lumen Gentium) số 25 đã nhấn mạnh:

“Trong các vấn đề thuộc đức tin và luân lý, các Giám mục giảng dạy nhân danh Chúa Kitô. Do đó, các tín hữu có bổn phận phải đón nhận chúng với thái độ kính cẩn tuân phục. Mọi người phải lấy ý chí và lý trí mà kính cẩn tuân phục một cách đặc biệt những giáo huấn chính thức của Giám mục Rôma, dù khi ngài không tuyên bố từ tông tòa (ex cathedra).

Do đó, khi đối diện với các giáo huấn khả ngộ có thẩm quyền của Giáo hội, tình huống của các tín hữu có thể được diễn tả như sau: các tín hữu được mời gọi từ thâm tâm để chấp nhận và vâng phục giáo huấn chính thức của Giáo hội với tinh thần có trách nhiệm, nhưng đồng thời, chúng ta vẫn được phép không tán thành và không vâng phục các giáo huấn đó, cũng được dựa trên tinh thần có trách nhiệm. Rõ ràng, những điều kiện cho sự bất đồng thuận như thế cần phải được trình bày một cách rõ ràng và cẩn trọng.

Khẳng định việc bất đồng quan điểm với giáo huấn của Giáo hội trong tinh thần trách nhiệm là hợp pháp, nghĩa là công nhận thẩm quyền giảng dạy của Giáo hội cũng có giới hạn.

John L. McKenzie đã ghi nhận một số giới hạn rõ rệt đã từng xảy ra:

“Chức vụ giảng dạy được trao ban không phải để thống trị hay kiểm soát sự hiểu biết của thế giới về phương diện tri thức hay luân lý. Chức vụ giảng dạy được ủy thác không phải để sai khiến người khác phải làm gì, nhưng hướng dẫn họ đưa ra quyết định đúng đắn. Giáo hội thực hiện cách hoàn hảo những gì được Chúa Kitô trao phó. Ngài không trao quyền cho Giáo hội để trở nên thầy dạy cho tất cả mọi người hay trở thành lương tâm của mọi người. Nhiều khi cứ mãi nỗ lực thực thi những điều bất khả mà các thừa tác viên của Giáo hội lại bỏ quên đi những điều khả dĩ làm được.”[27]

Tất cả mọi thành phần trong Giáo hội, kể cả giáo quyền, đều được Lời Chúa soi sáng hướng dẫn (Dei Verbum, số 10), và chỉ khi nào Giáo hội trung thành rao giảng sứ điệp của Chúa Kitô, thì khi đó Giáo hội cũng thực sự phục vụ dân Chúa. Giáo quyền được mời gọi để thông truyền chân lý của Thiên Chúa, và trong khi thi hành sứ mệnh ấy, Giáo hội được Chúa Thánh Thần trợ giúp. Nhưng giáo quyền không được Thiên Chúa trao quyền để tạo ra chân lý hoặc tìm kiếm một điều chắc chắn khi việc ấy không khả dĩ. Do vậy, Công đồng Vatican II trong Hiến chế Mục vụ về Giáo hội trong thế giới hôm nay lưu ý:

“Mặc dầu Giáo hội là quản thủ kho tàng Lời Chúa để từ đó rút ra những nguyên tắc luân lý và tôn giáo, nhưng không phải lúc nào Giáo hội cũng có ngay câu trả lời cho mọi vấn đề cụ thể.” (X. Gaudium et Spes,số 33).

Văn kiện tiếp tục nhắc nhở giáo dân rằng:

“Với một lương tâm đã được đào luyện cách thích hợp, họ phải đem luật Chúa thấm nhập vào cuộc sống xã hội trần gian.” Hơn nữa, người giáo dân được khuyên nhủ là cũng đừng vì thế mà nghĩ rằng các chủ chăn có đủ thẩm quyền chuyên môn để có thể đưa ra ngay một giải pháp cụ thể cho từng vấn đề đang diễn ra, kể cả những vấn đề quan trọng; cũng đừng lầm tưởng đó là sứ mệnh chỉ dành cho các chủ chăn.” (X. Gaudium et Spes, số 43).

Sau cùng, Hiến chế mục vụ về Giáo hội trong thế giới hôm nay đã khẳng định rằng: “mọi tín hữu, giáo sĩ và giáo dân, cần có sự tự do chính đáng để nghiên cứu, suy tư cũng như để mạnh dạn và khiêm tốn trình bày quan điểm trong các lĩnh vực chuyên môn của họ.” (X. Gaudium et Spes, số 62).

Như vậy rõ ràng là lối vâng phục triệt để mà không đặt vấn đề, thiếu óc phê phán là cách diễn tả không thể chấp nhận được cho việc kính cẩn tuân phục mà Công đồng Vaticanô II yêu cầu các nơi tín hữu, khi đối diện với các giáo huấn khả ngộ (nghĩa là chưa chắc không thể không sai lầm) của huấn quyền. Sự kiện này, cùng với việc nhận thức rằng quyền giảng dạy luân lý của Giáo hội luôn được coi như chân lý, nhưng vẫn có thể bị đảo ngược bởi các lý chứng đối nghịch, giải thích tại sao, “nếu có đầy đủ lý lẽ và bằng chứng vững chắc, một người Công giáo có thể chọn một lập trường bất đồng với một vài khía cạnh luân lý trong các giáo huấn của Giáo hội.”[28]

Công đồng Vatican II đã khẳng định tính ưu việt của lương tâm (the primacy of consciencetrong mối liên hệ đúng đắn giữa lương tâm và huấn quyền giảng dạy trong các vấn đề luân lý.

Ở đây ta cũng cần nói thêm về quan điểm cho rằng giáo huấn chính thức của Giáo hội về các vấn đề luân lý là chuẩn mực đối với lương tâm Công giáo, không có nghĩa điều đó sẽ trở thành cơ sở độc quyền cho các phán quyết luân lý, mà đúng hơn, việc ấy có nghĩa là người Công giáo nên dành sự ưu tiên trước hết cho các điều huấn quyền đã dạy hơn là các ý kiến khác. Điều đó cũng có nghĩa là người Công giáo phải xem các giáo huấn của Giáo hội như một yếu tố quan trọng, góp phần trong việc đưa ra các quyết định, mặc dù nó có thể không phải là yếu tố quyết định tiên quyết, khi mọi sự đều được xem xét. Hơn nữa, người Công giáo cần phải chân thành nỗ lực để vượt qua bất kỳ ý kiến trái ngược nào, hầu có thể đạt được sự đồng thuận đối với các giáo huấn chính thức. Tuy nhiên, trong thực tế khi áp dụng giáo huấn của Giáo hội cho một tình huống xung đột,[29] các yếu tố khác cũng phải được xem xét, ví dụ như hoàn cảnh, điều kiện hay ý hướng cùng với sự nhận thức chủ quan của tác nhân, sao cho phù hợp với các giá trị cơ bản do giáo huấn đề ra, vừa để đo lường hành vi cụ thể đã được quy định bởi các huấn lệnh của Giáo hội.

Kết luận

Để đi đến phần kết luận cho bài viết này, tôi muốn đưa ra một ví dụ cụ thể sẽ làm sáng tỏ những gì mà tôi vừa mới trình bày ở trên. Một cặp vợ chồng Công giáo chấp thuận thẩm quyền giáo huấn của Giáo hội về đời sống hôn nhân và gia đình và muốn sống phù hợp với các quy tắc đó, tuy nhiên, họ thâm tín và biết rằng với những hoàn cảnh của họ hiện tại, điều tốt nhất mà họ có thể làm để bảo vệ và gìn giữ hạnh phúc mái ấm gia đình là họ cần sử dụng các phương pháp ngừa thai nhân tạo như là phương cách để tránh thai. Họ chưa thể sống với những gì mà giáo huấn chính thức của Giáo hội giảng dạy về hôn nhân, dựa trên các giới hạn về khả năng luân lý cũng như các yếu tố giới hạn trong hoàn cảnh đời sống hôn nhân gia đình hiện nay. Sự chọn lựa sử dụng phương pháp tránh tránh thai nhân tạo là một phán quyết khôn ngoan của họ trong giai đoạn này. Đặc biệt, khi vợ chồng có những lý do chính đáng và sau khi đã lắng nghe ý kiến trái chiều và tham khảo các vị chuyên môn. Nhất là sau khi đã cầu nguyện trước mặt Chúa với lương tâm ngay thẳng và thành thật trước khi đi đến quyết định. Điều đó chúng ta không nên lẫn lộn hoặc xem như đồng nghĩa với việc bất đồng quan điểm với giáo huấn của Giáo hội.[30]

Lm. Phêrô Trần Mạnh Hùng, STD.

Giáo sư thần học luân lý tại Đại học Công giáo - The University of Notre Dame Australia.

Tác giả giữ bản quyền©2025.

 



Phần Phụ Lục

Phụ lục 1:  Ý nghĩa quan trọng của Thông điệp Humanae Vitae - Sự sống con người

Thông điệp Humanae Vitae – Sự sống con người” (Do Đức Giáo hoàng Phaolô VI, ban hành ngày 25 tháng 7 năm 1968) là một văn kiện rất quan trọng trong giáo huấn Công giáo về hôn nhân, tình yêu và sinh sản. Ý nghĩa nổi bật của thông điệp có thể tóm lược như sau:

1. Khẳng định phẩm giá của hôn nhân và tình yêu vợ chồng

● Hôn nhân được nhìn nhận như một sự kết hợp trọn vẹn, trung thành và bất khả phân ly.

● Tình yêu vợ chồng vừa có chiều kích hiệp thông (yêu thương – tự hiến cho nhau) vừa có chiều kích sinh sản (mở ra cho sự sống).

2. Nguyên tắc luân lý về truyền sinh

● Thông điệp nhấn mạnh đến mối liên kết bất khả tách rời giữa tính kết hợp (unitive) và tính truyền sinh (procreative) trong hành vi vợ chồng.

● Bất kỳ hành động nào cố ý phá vỡ sự gắn bó này (như các hình thức ngừa thai nhân tạo) đều bị xem là nghịch lại với luật tự nhiên và thánh ý Thiên Chúa.

3. Phân biệt rõ ràng giữa ngừa thai nhân tạo và ngừa thai tự nhiên

● Ngừa thai nhân tạo (thuốc, bao cao su, triệt sản…) bị bác bỏ vì can thiệp cách giả tạo vào tiến trình sinh học.

● Ngừa thai tự nhiên (như tiết dục định kỳ) được chấp nhận khi thực hiện với tinh thần trách nhiệm, tôn trọng quy luật tự nhiên và phẩm giá con người.

4. Kêu gọi tinh thần làm cha mẹ có trách nhiệm

● Các đôi vợ chồng được mời gọi cân nhắc hoàn cảnh kinh tế, xã hội, sức khỏe, để đưa ra quyết định sinh con cách tự do, chín chắn, có trách nhiệm trước Thiên Chúa và xã hội.

● Đây không phải là tránh né con cái, nhưng là sự quản lý khôn ngoan ơn gọi làm cha mẹ.

5. Tầm nhìn tiên tri

Đức Phaolô VI đã cảnh báo trước một số nguy cơ nếu nhân loại phổ biến việc sử dụng các biện pháp ngừa thai nhân tạo:

● Suy giảm đạo đức tình dục (dễ dẫn đến lối sống buông thả).

● Gia tăng bất trung trong hôn nhân.

● Nguy cơ nhà nước lạm quyền can thiệp vào quyền sinh sản của gia đình.

● Sự tha hóa phẩm giá phụ nữ, bị coi như đối tượng khoái lạc hơn là bạn đường bình đẳng.

6. Ý nghĩa lâu dài

● Xác định một trong những nền tảng quan trọng của luân lý tính dục và hôn nhân Công giáo.

● Trở thành văn kiện tham chiếu căn bản cho các giáo huấn sau này (như Tông huấn Familiaris Consortio của Gioan Phaolô II, Amoris Laetitia của Đức Phanxicô).

● Đặt nền cho đối thoại giữa Giáo hội và thế giới hiện đại về tình yêu, sự sống và nhân phẩm.

Tóm lại: Humanae Vitae là thông điệp có ý nghĩa nổi bật vì nó khẳng định sự bất khả phân ly giữa tình yêu (sự kết hợp nên một thân xác giữa vợ chồng) và sự sống, bảo vệ phẩm giá hôn nhân, nhấn mạnh đến làm cha mẹ có trách nhiệm, và mang tầm nhìn tiên tri về các khủng hoảng xã hội – đạo đức do ngừa thai nhân tạo gây nên.

 

Phụ lục 2: Các phương pháp ngừa thai tự nhiên được Giáo hội Công giáo chấp nhận

Giáo hội Công giáo không chấp nhận các phương pháp ngừa thai nhân tạo, nhưng cho phép các cặp vợ chồng sử dụng các phương pháp ngừa thai tự nhiên trong tinh thần trách nhiệm và tôn trọng luật tự nhiên.

1. Các phương pháp ngừa thai tự nhiên được Giáo hội Công giáo chấp nhận

a. Phương pháp Ogino – Knaus (Lịch)

● Dựa trên việc tính toán chu kỳ kinh nguyệt để xác định ngày rụng trứng.

● Tránh quan hệ vợ chồng vào những ngày dễ thụ thai.

b. Phương pháp quan sát chất nhầy cổ tử cung (Billings)

● Người vợ theo dõi sự thay đổi dịch nhầy ở cổ tử cung, vì nó thay đổi theo thời gian rụng trứng.

● Những ngày dịch nhầy trong, dai, co giãn nhiều là ngày dễ thụ thai.

c. Phương pháp đo thân nhiệt cơ bản (Basal Body Temperature – BBT)

● Người vợ đo thân nhiệt vào buổi sáng mỗi ngày.

● Sau rụng trứng, thân nhiệt thường tăng nhẹ (0,2 – 0,5°C), báo hiệu giai đoạn ít có khả năng thụ thai.

d. Phương pháp kết hợp (Sympto-Thermal Method)

● Kết hợp nhiều dấu hiệu: chu kỳ kinh nguyệt, chất nhầy cổ tử cung, thân nhiệt cơ bản và những thay đổi sinh lý khác (đau bụng, căng ngực…).

● Đây là phương pháp tự nhiên được đánh giá chính xác nhất hiện nay.

2. Những sự bất thuận tiện khi sử dụng các phương pháp ngừa thai tự nhiên

1. Đòi hỏi kỷ luật cao

o Cần sự hợp tác chặt chẽ giữa hai vợ chồng.

o Người vợ phải kiên trì theo dõi dấu hiệu sinh lý hằng ngày.

2. Hạn chế sự tự do trong đời sống vợ chồng

o Có những thời điểm (giai đoạn dễ thụ thai) buộc phải kiêng quan hệ, gây ra khó khăn nếu vợ chồng muốn gần gũi.

3. Thiếu chính xác nếu không áp dụng đúng cách

o Chu kỳ kinh nguyệt không đều, căng thẳng, bệnh tật, hoặc thay đổi sinh hoạt có thể làm sai lệch kết quả.

4. Ảnh hưởng đến tâm lý

o Một số cặp vợ chồng cảm thấy mất tự nhiên, bị giới hạn, hoặc khó duy trì sự tự phát trong quan hệ vợ chồng.

5. Khó thực hành trong bối cảnh xã hội hiện đại

o Nhịp sống bận rộn, áp lực công việc, thiếu kiến thức y khoa… khiến nhiều cặp đôi khó áp dụng chính xác.

Nói tóm lại:

Giáo hội Công giáo cho phép sử dụng các phương pháp ngừa thai tự nhiên sau đây:

1. Phương pháp Ogino Knaus, tính theo lịch của chu kỳ kinh nguyệt phụ nữ,

2. Phương pháp quan sát chất nhầy cổ tử cung - The Billings Method),[31]

3. Phương pháp đo thân nhiệt hoặc

4. Phương pháp kết hợp.

Tuy nhiên, các phương pháp này gây bất thuận tiện do đòi hỏi tính kỷ luật, sự hợp tác vợ chồng và có thể ảnh hưởng đến đời sống tình cảm nếu không kiên nhẫn và hiểu đúng cách thực hiện.

 

Phụ lục 3: Các phương pháp và dụng cụ ngừa thai nhân tạo

Các phương pháp và dụng cụ ngừa thai nhân tạo mà Giáo hội Công giáo hiện nay không cho phép sử dụng để tránh thai.

1. Phương pháp rào cản (Barrier Methods)

Ngăn không cho tinh trùng gặp trứng.

● Bao cao su nam (condom)

● Bao cao su nữ

● Màng chắn âm đạo (diaphragm)

● Mũ cổ tử cung (cervical cap)

2. Phương pháp nội tiết (Hormonal Methods)

Dùng hormone tổng hợp để ức chế rụng trứng, làm đặc chất nhầy cổ tử cung, hoặc thay đổi niêm mạc tử cung.

● Thuốc tránh thai hằng ngày (viên phối hợp estrogen + progestin, hoặc chỉ có progestin)

● Thuốc tránh thai khẩn cấp (emergency pills)

● Miếng dán tránh thai (contraceptive patch)

● Vòng âm đạo chứa hormone (vaginal ring)

● Thuốc tiêm tránh thai (progestin injection)

● Que cấy tránh thai (implant dưới da)

3. Phương pháp triệt sản (Sterilization)

Biện pháp vĩnh viễn, không thể đảo ngược.

● Ở nữ: thắt hoặc cắt ống dẫn trứng (tubal ligation).

● Ở nam: thắt ống dẫn tinh (vasectomy).

4. Các phương pháp khác

● Thuốc diệt tinh trùng (spermicides: gel, kem, bọt, viên đặt âm đạo).

● Kết hợp nhiều phương pháp cùng lúc (ví dụ: bao cao su + thuốc tránh thai).

 

Phụ lục 4: Những tác động tâm lý tiêu cực của phương pháp tiết dục theo chu kỳ. Nhận xét của Tiến sĩ John R. Cavanagh [32]

Trong các ấn phẩm khác, tôi đã mô tả những tác động tâm lý tiêu cực của phương pháp tiết dục theo chu kỳ (Rhythm) vốn phát sinh từ những thất bại của nó. Xem John R. Cavanagh, ‘A Special Marriage Report on Rhythm,’ Marriage Magazine, tháng 8 năm 1966. Ông đã diễn tả các ảnh hưởng tiêu cực về mặt tâm sinh lý đối với các cặp vợ chồng khi áp dụng phương pháp này.

1. Lo lắng và căng thẳng thường trực

● Người vợ và chồng phải tính toán ngày an toàn một cách nghiêm ngặt.

● Nỗi sợ “tính sai” dẫn đến việc mang thai ngoài ý muốn gây ra sự căng thẳng kéo dài.

● Vợ chồng dễ rơi vào trạng thái thiếu thoải mái trong quan hệ, vì luôn canh cánh lo lắng về hậu quả.

2. Ảnh hưởng đến sự thân mật vợ chồng

● Việc buộc phải kiêng cữ trong những ngày dễ thụ thai có thể làm gián đoạn sự tự phát tự nhiên của tình yêu vợ chồng.

● Cavanagh nhận xét rằng điều này có thể tạo ra khoảng cách, thậm chí cảm giác bị từ chối trong đời sống tình dục.

3. Mặc cảm và tội lỗi khi thất bại

● Nếu mang thai xảy ra ngoài dự tính, các cặp đôi có thể đổ lỗi cho nhau hoặc cảm thấy bản thân yếu kém.

● Nhiều người rơi vào tình trạng tội lỗi về đạo đức hoặc mặc cảm thất bại, vì cho rằng mình không đủ kỷ luật để giữ luật Giáo hội.

4. Ảnh hưởng đến sức khỏe tâm thần

● Việc phải thường xuyên lo nghĩ, ghi chép, theo dõi ngày tháng… gây nên stress tâm lý.

● Một số trường hợp có thể dẫn đến trầm cảm nhẹ hoặc căng thẳng hôn nhân khi thất bại lặp lại nhiều lần.

5. Mất niềm tin vào phương pháp và vào nhau

● Khi Rhythm thất bại, nhiều cặp vợ chồng mất lòng tin vào phương pháp tự nhiên.

● Sự lặp lại thất bại này có thể làm lung lay cả niềm tin vào tính chân thực của đời sống hôn nhân Công giáo, theo nhận định của Cavanagh.

Tóm lại, John R. Cavanagh phê phán Rhythm không chỉ vì tỉ lệ thất bại sinh học cao, mà nhất là vì tác động tâm lý tiêu cực: lo âu, căng thẳng, giảm sự thân mật, mặc cảm tội lỗi và khủng hoảng niềm tin trong đời sống hôn nhân.[33]




[1] Bài viết này trước tiên được phổ biến trên website của HĐGMVN vào ngày 15 tháng 9 năm 2025 – Phần 1 và sau đó vào ngày 23 tháng 9 năm 2023 thì phần 2 của bài viết đã được phổ biến.

Tránh Thai và Quyền Làm Cha Mẹ có Trách Nhiệm – Phần 1. Đăng ngày 15/09/2025

https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/tranh-thai-va-quyen-lam-cha-me-co-trach-nhiem---phan-1 (Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2025).

Tránh Thai và Quyền Làm Cha Mẹ có Trách Nhiệm – Phần 2. Đăng ngày 23/09/2025

https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/tranh-thai-va-quyen-lam-cha-me-co-trach-nhiem---phan-2 (Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2025).

[2] . Xem Lm Trần Mạnh Hùng, Tránh Thai và Quyền Làm Cha Mẹ có Trách Nhiệm (Bản cập nhật) đăng tại Website của HĐGMVN vào ngày 23/10/2025. https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/tranh-thai-va-quyen-lam-cha-me-co-trach-nhiem-ban-cap-nhat (Truy cập ngày 4 tháng 10 năm 2025).

[3] . Xem Video Lm Matthew Nguyễn Khắc Hy giải đáp thắc mắc: đặt vòng uống thuốc tránh thai có được rước lễ không? https://youtu.be/yHZaLVkOXRY?si=P-oYrAv0vBd2HuB3 (Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2025).

[4] . Chú thích từ chuyên môn giữa “Tránh thai” và “Ngừa thai.” So sánh ý nghĩa

Về bản chất: hai từ gần như đồng nghĩa, đều chỉ hành động hoặc biện pháp để tránh việc thụ thai.

Về sắc thái:

“Tránh thai” → thông dụng, dễ hiểu, thường dùng trong ngôn ngữ thường ngày, truyền thông đại chúng.

“Ngừa thai” → mang tính học thuật, y khoa, chính thống hơn.

Nên dùng từ nào chuẩn xác hơn?

Trong văn bản học thuật, y khoa, thần học luân lý, giáo hội → nên dùng “ngừa thai”, vì tính chính xác, trang trọng, thống nhất với thuật ngữ y tế.

Trong giao tiếp đời thường, giáo dục cộng đồng → “tránh thai” dễ hiểu, gần gũi hơn.

[5] . Thông điệp Casti Connubii do Đức Giáo Hoàng Piô XI ban hành ngày 31 tháng 12 năm 1930. https://www.vatican.va/content/pius-xi/en/encyclicals/documents/hf_p-xi_enc_19301231_casti-connubii.html (Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2025).

[6] . Hội nghị Lambeth của các Giám mục Anh giáo đã thận trọng chấp thuận một số các phương pháp tránh thai trong đời sống hôn nhân Kitô giáo, và cho phép các cặp vợ chồng được phép quyết định về cách thức ngửa thai nào mà họ muốn áp dụng, nhưng các Giám mục Anh giáo đồng thời cũng yêu cầu các cặp vợ chồng nên biết kiềm chế và ý thức về mặt đạo đức các phương pháp ngừa thai mà họ sử dụng. Xem bài viết của Linh mục Trần Mạnh Hùng, Tránh thai và quyền làm cha mẹ có trách nhiệm – phần 1. Đăng ngày 15/09/2025. https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/tranh-thai-va-quyen-lam-cha-me-co-trach-nhiem---phan-1 (Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2025).

[7] . Thông điệp Humanae Vitae – Sự sống con người (Do Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, ban hành ngày 25 tháng 7 năm 1968) là một văn kiện rất quan trọng trong giáo huấn Công giáo về hôn nhân, tình yêu và sinh sản. https://www.vatican.va/content/paul-vi/en/encyclicals/documents/hf_p-vi_enc_25071968_humanae-vitae.html (Truy cập ngày 29/09/2025), bản tiếng Việt tại https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/thong-diep-humanae-vitae-su-song-con-nguoi-ve-viec-dieu-hoa-sinh-san-dung-dan-trong-doi-song-hon-nhan-kito-giao. Đặc biệt xin quý độc giả xem phần phụ lục trong bài viết để biết thêm thông tin về Thông điệp này. Lm Trần Mạnh Hùng.

[8] . Để nắm rõ thông tin và biết thêm chi tiết, xin mời quý vị theo dõi bài viết của tôi đã đăng tại trang Web của HĐGMVN.

Linh mục Trần Mạnh Hùng, Tránh thai và quyền làm cha mẹ có trách nhiệm (bản cập nhật). Đăng ngày 23/10/2025. https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/tranh-thai-va-quyen-lam-cha-me-co-trach-nhiem-ban-cap-nhat (Truy cập ngày 4 tháng 10 năm 2025).

[9] . Trong các ấn phẩm khác, tôi đã mô tả những tác động tâm lý tiêu cực của phương pháp tiết dục theo chu kỳ (Rhythm) vốn phát sinh từ những thất bại của nó. Ông ta đã diễn tả các ảnh hưởng tiêu cực về mặt tâm sinh lý đối với các cặp vợ chồng khi áp dụng phương pháp này. Xem Cavanagh, John R. (1969) “Psychiatric Indications for the Use of Contraceptives,” The Linacre Quarterly: Vol. 36 : No. 2 , Article 4. Available at: http://epublications.marquette.edu/lnq/vol36/iss2/4 (Accessed on Monday, 29 September 2025).

[10] . Xem Richard A. McCormick, Theological Studies, 29, 4 (1968), 728. Cũng như Adrian Hastings in a letter to The Tablet (2 March 1985), 238-239.

[11] . Giải thích rõ hơn là việc quan hệ vợ chồng chỉ nên diễn ra vào thời kỳ mà trứng của người vợ chưa có rụng, được coi như thể là thời gian vô sinh tạm thời, cho nên khi giao hợp vào khoảng thời gian trứng chưa rụng thì sẽ không có xảy ra sự thụ thai.

[12] . Để biết thêm chi tiết về các phương pháp ngừa thai tự nhiên được Giáo hội Công giáo chấp nhận, xin quý độc giả tham khảo phần phụ lục trong bài viết này.

[13] . James T. Burtchaell, “Human Life and Human Love,” trong Paul T. Jersild and Dale A. Johnson (eds.), Moral Issues and Christian Response, (New York, 1971), tr. 139-147.

[14] . Vai trò của Tiến sĩ John Cavanagh trong Ủy ban Giáo hoàng. Các bản tóm lược và ghi chú cho biết Tiến sĩ John R. Cavanagh (một bác sĩ tâm thần tại Washington, D.C.) là thành viên của ủy ban mở rộng nghiên cứu về các vấn đề dân số, gia đình và kiểm soát sinh sản; những ghi chú lưu trữ và các bản bình luận đề cập đến sự tham gia của ông trong bản báo cáo của ủy ban về kiểm soát sinh sản dưới thời Đức Giáo hoàng Phaolô VI.

[15] . John R. Cavanagh, “Is Rhythm Better Than We Think?”, Marriage, 47 (November, 1965), tr. 1-4.

[16] . Xem John R. Cavanagh ‘Rhythm May be Better Than You Think,’ Marriage Magazine, August, 1965.

[17] . Trong các ấn phẩm khác, tôi đã mô tả những tác động tâm lý tiêu cực của phương pháp tiết dục theo chu kỳ (Rhythm) vốn phát sinh từ những thất bại của nó. Ông ta đã diễn tả các ảnh hưởng tiêu cực về mặt tâm sinh lý đối với các cặp vợ chồng khi áp dụng phương pháp này. Xem John R. Cavanagh, ‘A Special Marriage Report on Rhythm,’ Marriage Magazine, tháng 8 năm 1966. Đồng thời nên xem một tài liệu quan trọng khác của John Cavanagh tại đây: Cavanagh, John R. (1969) “Psychiatric Indications for the Use of Contraceptives,” The Linacre Quarterly: Vol. 36 : No. 2 , Article 4. Available at: http://epublications.marquette.edu/lnq/vol36/iss2/4 (Accessed on Monday, 29 September 2025).

1. Lo lắng và căng thẳng thường trực

Người vợ và chồng phải tính toán ngày an toàn một cách nghiêm ngặt.

Nỗi sợ “tính sai” dẫn đến việc mang thai ngoài ý muốn gây ra sự căng thẳng kéo dài.

Vợ chồng dễ rơi vào trạng thái thiếu thoải mái trong quan hệ, vì luôn canh cánh lo lắng về hậu quả.

2. Ảnh hưởng đến sự thân mật vợ chồng

Việc buộc phải kiêng cữ trong những ngày dễ thụ thai có thể làm gián đoạn sự tự phát tự nhiên của tình yêu vợ chồng.

Cavanagh nhận xét rằng điều này có thể tạo ra khoảng cách, thậm chí cảm giác bị từ chối trong đời sống tình dục.

3. Mặc cảm và tội lỗi khi thất bại

Nếu mang thai xảy ra ngoài dự tính, các cặp đôi có thể đổ lỗi cho nhau hoặc cảm thấy bản thân yếu kém.

Nhiều người rơi vào tình trạng tội lỗi về đạo đức hoặc mặc cảm thất bại, vì cho rằng mình không đủ kỷ luật để giữ luật Hội Thánh.

4. Ảnh hưởng đến sức khỏe tâm thần

Việc phải thường xuyên lo nghĩ, ghi chép, theo dõi ngày tháng… gây nên stress tâm lý.

Một số trường hợp có thể dẫn đến trầm cảm nhẹ hoặc căng thẳng hôn nhân khi thất bại lặp lại nhiều lần.

5. Mất niềm tin vào phương pháp và vào nhau

Khi Rhythm thất bại, nhiều cặp vợ chồng mất lòng tin vào phương pháp tự nhiên.

Sự lặp lại thất bại này có thể làm lung lay cả niềm tin vào tính chân thực của đời sống hôn nhân Công giáo, theo nhận định của Cavanagh.

Tóm lại, John R. Cavanagh phê phán Rhythm không chỉ vì tỉ lệ thất bại sinh học cao, mà nhất là vì tác động tâm lý tiêu cực: lo âu, căng thẳng, giảm sự thân mật, mặc cảm tội lỗi và khủng hoảng niềm tin trong đời sống hôn nhân. Xem John R. Cavanagh, ‘A Special Marriage Report on Rhythm,’ Marriage Magazine, tháng 8 năm 1966. Đồng thời nên xem một tài liệu quan trọng khác của John Cavanagh tại đây: Cavanagh, John R. (1969) “Psychiatric Indications for the Use of Contraceptives,” The Linacre Quarterly: Vol. 36 : No. 2 , Article 4. Available at: http://epublications.marquette.edu/lnq/vol36/iss2/4 (Accessed on Monday, 29 September 2025).

[18] . James T. Burtchaell, Sđd, tr.139-140.

[19] . Sđd., tr. 139-147.

[20] . Xem Lm Trần Mạnh Hùng, Tránh Thai và Quyền Làm Cha Mẹ có Trách Nhiệm (đã được cập nhật sau khi đăng tại Website của HĐGMVN). Đăng ngày 29/09/2025 tại trang web của Thư viện HVCGVN- https://www.hvcgthuvien.edu.vn/2025/09/tranh-thai-va-quyen-lam-cha-me-co-trach-nhiem.html (Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2025).

[21]. Tuyển tập các hướng dẫn của các Hội đồng Giám mục khác nhau, Xem William H. Shannon, The Lively Debate: Response to Humanae Vitae (New York: Sheed and Ward, 1970).

[22] . Bao gồm Đức Giáo Hoàng, các Giám mục, các Thánh bộ đại diện cho Đức Giáo Hoàng.

[23]. Tín điều Đức mẹ vô nhiễm nguyên tội được trịnh trọng công bố như một tín điều bởi Đức Thánh cha Piô XI trong tông thư Ineffabilis Deus ngày 8 tháng 12 năm 1854

[24]. Giáo hội Công giáo dạy như một tín điều rằng “Đức mẹ đồng trinh, sau khi hoàn tất cuộc đời trần thế, đã được đưa lên trời cả hồn lẫn xác”. Tín điều này đã được định tín như tín điều bất khả ngộ bởi Đức Thánh cha Piô XII vào ngày 1 tháng 11 năm 1950 trong tông hiến Munificentissimus Deus. Tông hiến tuyên bố từ tông tòa Phêrô “ex cathedra” tín điều Đức Mẹ đồng trinh lên Trời.

[25] . Đây là đặc ân không thể sai lầm trong việc giảng dạy những gì thuộc đức tin và luân lý. Đặc ân này gắn liền với Quyền giáo huấn của cả Giáo Hội: toàn thể Giáo Hội chủ huấn được hưởng đặc ân bất khả ngộ này – Hàng Giám mục kết hiệp với Đức Giáo Hoàng Roma.

Mỗi Giám mục riêng lẻ không được hưởng đặc ân này. Hàng Giám mục như một toàn thể thì được: các Công Đồng – nhưng phải thông hiệp với vị thủ lãnh tối cao của Giáo Hội là Đức Giáo hoàng.

Còn Đức Giáo hoàng (Giám mục Rôma) được hưởng đặc ân này như đặc ân cá nhân, gắn liền với chức vụ tối cao của ngài, khi ngài công bố long trọng và chính thức một quyết định liên quan đến đức tin và luân lý (phong hoá). Xem Linh mục Antôn Nguyễn văn Dũng, C.Ss.R., Đôi Nét Về Huấn Quyền. https://dcctvn.org/doi-net-ve-huan-quyen/ (Truy cập, ngày 8.7.2020).

[26] . Richard A. McCormick, S.J., “Authority and Morality - Thẩm quyền và luân lý,” America, 142 (1980), 169-171 at 169.

[27]. John L. McKenzie. Authority in the Church - Thẩm quyền trong Giáo hội (New York: Sheed & Ward, 1966), tr. 135.

[28]. Richard M. Gula, S.S., To Walk Together Again, The Sacrament of Reconciliation - Cùng đồng hành với nhau lần nữa, bí tích hòa giải (New York: Paulist Press, 1984), tr. 177.

[29] . Ở đây, chúng ta có thể nêu lên một vài trường hợp, ví dụ như việc áp dụng các phương pháp ngừa thai hay tránh thai nhân tạo, nhằm để hạn chế việc sinh sản, hầu đảm bảo cho sức khỏe của người mẹ và cho cả việc nuôi nấng và giáo dục con cái cho đầy đủ về mặt vật chất và trọn vẹn về mặt nhân bản.

[30] . Richard M. Gula, Reason Informed by Faith (Mahwah: Paulist Press, 1989), tr.160.

[31] . Xem Dr. Evelyn Billings and Ann Westmore, The Billings Method: Controlling Fertility Without Drugs or Devices (Hawthorn, Victoria Australia: Anne O’Donovan Pty, Ltd, 1980).

[32] . Tiến sĩ John R. Cavanagh (một bác sĩ tâm thần tại Washington, D.C.) là thành viên của ủy ban mở rộng nghiên cứu về các vấn đề dân số, gia đình và kiểm soát sinh sản. ông đã kiến nghị xin Tòa Thánh xem xét lại việc cho phép các đôi vợ chồng được chọn lựa các phương pháp ngừa thai khác, ngoài phương pháp tiết dục định kỳ, trong bản báo cáo của ủy ban về kiểm soát sinh sản dưới thời Đức Giáo hoàng Phaolô VI.

[33] . Xem John R. Cavanagh (1969), “Psychiatric Indications for the Use of Contraceptives,” The Linacre Quarterly: Vol. 36 : No. 2 , Article 4. Available at: http://epublications.marquette.edu/lnq/vol36/iss2/4 (Accessed on Monday, 29 September 2025)

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/mot-vai-suy-tu-ve-cach-ngua-thai-tu-nhien-bang-phuong-phap-tiet-duc-dinh-ky

 

***

6.  Ngăn ngừa tự tử cùng với Ngôn sứ Êlia (phần I) - Suy niệm theo chủ đề ý cầu nguyện của Đức Giáo hoàng tháng 11/2025

Tháng 11/2025 – Theo ý Đức Giáo hoàng, Giáo hội cầu nguyện đặc biệt cho những ai đang tuyệt vọng, để họ tìm thấy ánh sáng và hy vọng nơi Thiên Chúa. Hành trình của Ngôn sứ Êlia – người đã từng xin Chúa cất mạng sống mình nhưng lại được Thiên Chúa nâng dậy – trở thành lời mời gọi giúp chúng ta tin rằng ngay giữa bóng tối sâu thẳm nhất, ân sủng vẫn đang âm thầm chạm đến, để dẫn ta trở lại với sự sống.

 

HÀNH TRÌNH KINH THÁNH (PHẦN I)

Khi ân sủng gặp gỡ nhân tính khổ đau của chúng ta

Sách Các vua quyển I: 1 V 19, 4

Khát vọng được công nhận là một ước muốn sâu thẳm nơi mỗi người chúng ta. Đôi khi chúng ta cảm thấy bất lực và kiệt quệ sau khi đã cống hiến hết mình, nhất là khi không được ai ghi nhận hay biết ơn. Trong tháng này, chúng ta cùng bước theo hành trình tự hạ (Kénose) với Ngôn sứ Êlia. Hành trình ấy được gọi là Kénose, vì ân sủng như mưa từ trời chỉ khi rơi xuống mới có thể làm cho hạt giống trổ sinh. Chúng ta sẽ thấy ân sủng đã chọn hạ xuống trên vị ngôn sứ Êlia như thế nào, để nâng ông dậy và dẫn ông đi xa hơn. Như chúng ta đều biết, Êlia đã trải qua nỗi chán nản và cảm giác không được thấu hiểu, như tất cả những gì có thể khiến người ta muốn dừng lại, không còn muốn bước tiếp.

 

TUẦN I: TỪ NGÀY 01 ĐẾN 08 THÁNG 11 NĂM 2025

Ông Êlia thì đi một ngày đường trong sa mạc. Ông đến ngồi dưới gốc một cây kim tước. Ông xin cho được chết và nói: “Lạy Đức Chúa, đủ rồi! Bây giờ xin Chúa lấy mạng sống con đi, vì con chẳng hơn gì cha ông của con.” (1 V 19,4)

Ngay từ câu này, ta bước vào trọng tâm của hành trình: lời kêu than thẳm sâu của vị ngôn sứ. Trong các chương 17 và 18, chúng ta thấy Ngôn sứ Êlia là một chứng nhân sống động trong việc phục hồi sự sống, khi ông nhân danh Đức Chúa, làm cho con trai bà góa thành Sarepta được sống lại (1 V 17,17-24), và ông cũng là người bênh vực Đức Chúa, chống lại ngẫu tượng (x. 1 V 18, 20-40: cuộc đối đầu với các tư tế Baal).

Thế mà giờ đây, vị ngôn sứ lại một mình trong sa mạc, không còn hy vọng gì. Người “đã khiến” cho mưa rơi xuống nay lại đang ở nơi khô cằn thiếu nước. Người từng xin ơn trả lại sự sống cho đứa trẻ nay phải đang ở nơi vắng bóng sự sống. Bức tranh ấy phản chiếu nhân tính của con người chúng ta, đôi khi thật khó chấp nhận. Một nhân tính có thể rơi vào tình trạng không còn nhìn thấy ân sủng hiện ra ở chân trời. Phải chăng đây là đêm tối đức tin? Mỗi người có thể có câu trả lời riêng. Nhưng chúng ta không thể chối bỏ sự thật này: Đây chính là thực tại của thân phận con người. Phải chăng Êlia cảm thấy Thiên Chúa đã vắng bóng, như sau này Mẹ Têrêsa Calcutta cũng từng cảm thấy như vậy sao? Nhưng nỗi nghi ngờ này không phải là một sự thiếu vắng đức tin, mà là một kinh nghiệm đau đớn về sự hiện diện-vắng mặt của Thiên Chúa: “Lạy Đức Chúa, đủ rồi! Bây giờ xin Chúa lấy mạng sống con đi, vì con chẳng hơn gì cha ông của con” (1 V 19,4).

Dù không còn cảm nghiệm được sự ngọt ngào của Thiên Chúa, dù hoài nghi, nhưng Êlia vẫn tin, vì ông vẫn thưa chuyện với Thiên Chúa, dù Ngài dường như vắng mặt. Sự hạ xuống này của Êlia không phải là điểm cuối của hành trình mà là khởi đầu một chặng đường mới. Chắc chắn, khi chúng ta ở dưới đáy thung lũng, việc tin tưởng thật khó khăn, nhưng đức tin vẫn còn đó… Phải, dường như đối với tôi, người tín hữu đau khổ là người vẫn còn nói với Thiên Chúa hay vẫn nói về Thiên Chúa, đôi khi trong một cuộc độc thoại… Chỉ một mình đối diện với Đấng Duy Nhất …

Câu hỏi suy niệm:

- Tôi có sẵn sàng tiếp tục thưa chuyện với Chúa, dù trong đau khổ và trong thinh lặng của Ngài?

- Tôi có dám tỉnh thức trước những dấu chỉ Ngài gửi đến, dù nỗi đau khiến cho tôi nên như mù lòa?

 

TUẦN II: TỪ NGÀY 09 ĐẾN 15 THÁNG 11 NĂM 2025

Chúng ta tiếp tục cuộc hành trình với Ngôn sứ Êlia - một hành trình đẹp, vì nó nói lên điều gì đó về bản chất con người. Tuần này, ta dừng lại ở điều có thể gọi là hành trình được định hướng lại.

Tên của Ngôn sứ Êlia có nghĩa là “Đức Chúa là Thiên Chúa của tôi”, tên gọi ấy đã chứa đựng căn tính và sứ mạng của Êlia? Trong khoảnh khắc tăm tối và tuyệt vọng, ý nghĩa tên gọi của Êlia trở nên hiển hiện và khiến ông định hướng lại con đường sứ mạng của mình.

Trong câu 4 chương 19, Ngôn sứ Êlia đã đi xa đến mức cầu xin cho mình được chết. Trong Kinh thánh, nhiều ngôn sứ khác cũng đã thốt lên những lời tương tự này[1] trong những hoàn cảnh khác nhau nhưng gần giống như nhau: kiệt sức, bị từ chối, không được hiểu… Nhưng họ đều không quay lưng lại với Thiên Chúa.

Chúng ta thấy rằng Êlia đã đi qua nỗi cô đơn và cảm giác bị bỏ rơi, đến mức khiến ông “nếm trải” cái chết có vẻ dễ chịu hơn. Tuy vậy, dù trải qua thử thách đức tin nhưng ông không đánh mất chân trời tối hậu của mình, nền tảng hiện sinh của cuộc đời ông, nguồn cội còn lại khi mọi thứ khác đã mất, ông vẫn bám vào nguồn sống duy nhất là Thiên Chúa. Ông không cầu xin với “thần chết” cho mình được chết, mà rõ ràng là ông cầu xin với Chúa, Đấng là “Thiên Chúa của ông”.

Và chính lời cầu xin ấy, dù đầy cay đắng, lại trở thành nguồn sống mới giữa sa mạc khô cằn. Chính trong bóng tối, ánh sáng nhỏ bé mới trở nên quý giá; chính trong thử thách, sự thinh lặng của Thiên Chúa có thể trở thành hành vi đức tin, là nơi khám phá ra một Thiên Chúa khác với những gì ta tưởng. Thiên Chúa vẫn hiện diện trong sự yếu đuối của ta. Ngài hiện diện qua những điều bất ngờ, qua những người anh chị em và qua các thiên sứ của Ngài.

“Rồi ông nằm dưới cây kim tước đó và thiếp đi. Nhưng này có một thiên sứ đụng vào người ông và nói: “Dậy mà ăn!” Ông đưa mắt nhìn thì thấy ở phía đầu ông có một chiếc bánh nướng trên những hòn đá nung và một hũ nước. Ông ăn bánh, uống nước, rồi lại nằm xuống. Thiên sứ của Đức Chúa trở lại lần nữa, đụng vào người ông và nói: “Dậy mà ăn, vì ngươi còn phải đi đường xa.” Ông dậy, ăn bánh và uống nước. Rồi nhờ lương thực ấy bổ dưỡng, ông đi suốt bốn mươi ngày, bốn mươi đêm tới Khôrếp, là núi của Thiên Chúa.” (1 V 19,5-8)

Ở đây, điều gây ấn tượng là thái độ của Êlia: sự vâng phục của ông đối với thực tại. Giữa cơn thử thách, hành trình của ông được định hướng lại nhờ cuộc viếng thăm bất ngờ của thiên sứ. Hôm nay, chúng ta cũng có thể tin rằng vẫn có những “thiên thần” bên cạnh ta, những người đem đến cho ta “lương thực từ Chúa” trong thử thách: “Hãy chỗi dậy mà ăn!” Trong những lời giản dị ấy, chúng ta nghe thấy lời mời gọi của Thiên Chúa hướng về sự sống. Ngay cả trong đêm tối sâu thẳm nhất, tôi vẫn có thể tin rằng Thiên Chúa sai đến cho tôi, và cả cho bạn, những thiên thần. Lời thiên sứ nhắc lại thật diệu kỳ: “Dậy mà ăn, vì ngươi còn phải đi đường xa.” Lời ấy nói lên tất cả! Ngay cả khi chúng ta nghĩ rằng không còn lối thoát, tôi vẫn muốn tin rằng vẫn còn một con đường để đi, vẫn còn một hành trình dài phía trước. Vậy, hãy đón nhận bánh và nước mà Thiên Chúa trao cho qua các thiên thần của Ngài. Dù câu trả lời của ta chỉ là một tiếng thở dài - khi ta chẳng còn biết thực sự mình có đói hay không - hay tiếng “vâng” của ta chỉ là ngập ngừng yếu ớt, hãy can đảm đón nhận cơ hội của một cuộc viếng thăm và một bữa tiệc ngay giữa sa mạc đời mình, trong thân phận lữ hành không nhà cửa, không chỗ nương thân... Hãy đón nhận vinh dự ấy, cho dù khó khăn và khó hiểu: “Hãy trỗi dậy mà ăn, vì ngươi còn phải đi đường xa.”

Câu hỏi suy niệm:

- Tôi có sẵn sàng đón nhận hành trình mới mà Thiên Chúa vạch lại cho tôi, để bước đi xa hơn với Ngài cho dù Ngài có vẻ thinh lặng?

- Tôi có thể đón lấy “bánh và nước” mà thiên sứ trao, để có sức tiếp tục lên đường?

- Có lẽ tôi cũng được mời gọi dâng hiến tấm bánh của đau khổ, của những điều tôi không hiểu, hay của nỗi hoang mang trong lòng... Vậy đó là thứ bánh nào?

* Phần II của hành trình Kinh Thánh này sẽ được đăng trong bài kế tiếp.

Maria Hải Châu, SSS

Chuyển ngữ từ: prieredupapefrance.net

_________________

[1] Ds 11,14-15; G 3,1-3; 3,11; 7,15-16; 10,18-19; Gn 4,3 và 4,8; Gr 20,14-18; Pl 1,21-24.

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/ngan-ngua-tu-tu-cung-voi-ngon-su-elia-phan-i---suy-niem-theo-chu-de-y-cau-nguyen-cua-duc-giao-hoang-thang-112025

 

***

7.  Đức Cha Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản và hành trình ‘đi bộ về nguồn’ – một chứng từ đức tin sống động

Sau bữa sáng thân mật với quý thầy Đại chủng sinh tại Tòa Giám mục, Đức Cha đã chào thăm mọi người và khởi hành với hành trình gần 50km trong tâm tình cầu nguyện, suy niệm và dâng hiến. Trên suốt quãng đường hành hương, Đức Cha đã dừng chân thăm hỏi một số giáo xứ trên chuyến hành trình, như một dấu chỉ sống động của Vị mục tử với đoàn chiên.

Lúc 16h15 ngày 05/11/2025, Đức Cha đã hiện diện tại Đền Thánh Tử Đạo Hải Dương. Tại đây, ngài đến thăm khu vực trung tâm nơi sẽ diễn ra Đêm Hoan Ca – Diễn Nguyện vào lúc 20h15 và Thánh lễ Đại triều mừng kính Các Thánh Tử Đạo Hải Dương lúc 9h00 ngày 06/11.

Cha Giuse Nguyễn Văn Vang – Giám đốc Trung tâm Hành hương – cùng anh chị em đang chuẩn bị trang trí đã hân hoan chào đón Đức Cha, đồng thời cùng ngài chia sẻ những tâm tình thiêng liêng về hành trình đầy ý nghĩa này.

Ngay sau đó, Đức Cha trở về Giáo xứ Tân Kim – cách Đền Thánh khoảng 3km – để nghỉ đêm và chuẩn bị cho Thánh lễ trọng thể vào sáng hôm sau lúc 9h00 tại Đền Thánh. Cha xứ Phêrô Nguyễn Văn Đảo cùng cộng đoàn Giáo xứ Tân Kim đã hân hoan đón tiếp vị Cha chung trong niềm vui mừng và cảm động.

Chuyến hành hương bộ của Đức Cha không chỉ là hành trình thể lý mà còn là chứng từ đức tin và lòng yêu mến các Thánh Tử Đạo – những người đã đổ máu mình vì Danh Đức Kitô. Qua hành động đơn sơ nhưng đầy chiều sâu mục vụ này, Đức cha Vinh Sơn đã gửi gắm một lời mời gọi anh chị em hãy để hành trình đức tin trở nên cụ thể, sống động và luôn hướng về cội nguồn thiêng liêng – nơi từng giọt máu tử đạo vẫn đang âm thầm tưới gội Giáo phận Hải Phòng hôm nay.

Ngài từng chia sẻ rằng, “Bước chân trên hành trình hành hương giúp chúng ta dễ dàng cầu nguyện và suy tư hơn.” Trên từng chặng đường, Đức Cha vừa đi bộ, vừa cầu nguyện và suy gẫm cho Giáo phận, cho từng cộng đoàn, từng vùng đất mà ngài đi qua. Những bước chân ấy không chỉ là hành trình thể lý, mà còn là cuộc hành trình thiêng liêng giúp ngài cảm nhận sâu hơn đời sống đức tin của Dân Chúa, để thêm gắn bó và yêu mến từng mảnh đất mục vụ mà ngài được sai đến để chăm sóc.

Ban Biên tập tổng hợp

Nguồn: gphaiphong.org

 

Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/chi-tiet/duc-cha-vinh-son-nguyen-van-ban-va-hanh-trinh--di-bo-ve-nguon--mot-chung-tu-duc-tin-song-dong

 

***

8.  5 điểm hướng dẫn của Đức Thánh Cha về trí tuệ nhân tạo (AI) dành cho thiếu niên

Bạn có nghe con em mình bắt đầu nói: “Tại sao con phải học cái này, khi trí tuệ nhân tạo rồi đây cũng sẽ thay thế công việc này (hoặc thay con)?”

Khi nói đến trí tuệ nhân tạo, chính các thế hệ trẻ là những người với tương lai sẽ được định hình nhiều nhất bởi AI.

Nhưng trong trường hợp các em chưa biết, Đức Thánh Cha Lêô XIV đã đề cập đến chủ đề AI nhiều lần, đưa ra những cái nhìn sâu sắc có giá trị cho cuộc sống của các em (và của chúng ta!).

Dưới đây là một vài “ý tưởng để suy tư” mà Đức Thánh Cha gửi đến chúng ta. Chúng đáng để suy nghĩ và hành động theo, khi các thiếu niên trưởng thành trong một thế giới thấm đẫm bởi trí tuệ nhân tạo (AI).

Đây mới chỉ là khởi đầu, vì Đức Thánh Cha Lêô đã nói rất nhiều về AI chỉ trong vài tháng. Và ngài đang tiếp nối những giáo huấn khá sâu rộng từ Đức Thánh Cha Phanxicô và chính Tòa Thánh Vatican. Bạn có thể tìm hiểu thêm về điều này tại tab “Trí tuệ Nhân tạo” của chúng tôi.

1. AI chỉ là một công cụ

Thật dễ bị cám dỗ khi xem AI như thể nó là một thực thể riêng biệt, một thứ có thẩm quyền hoặc quyền lực riêng. Tuy nhiên, Đức Thánh Cha Lêô lặp lại lời của Đức Thánh Cha Phanxicô rằng AI chỉ là một công cụ, được tạo ra để con người sử dụng – mà việc sử dụng đó có thể hướng đến điều thiện hoặc điều ác.

Ngài viết:

“Theo định nghĩa, các công cụ quy chiếu về trí tuệ người đã chế tạo ra chúng và phần lớn sức mạnh đạo đức của chúng xuất phát từ ý định của những cá nhân sử dụng chúng. Trong một số trường hợp, AI đã được sử dụng theo những cách tích cực và thật cao quý để thúc đẩy bình đẳng lớn hơn, nhưng đồng thời cũng có khả năng bị lạm dụng vì lợi ích cá nhân, làm tổn hại đến người khác, hoặc tệ hơn, gây xung đột và tính hung hăng. Điều cốt yếu phải nhớ rằng cách bạn sử dụng AI là quan trọng. Bạn, và rất nhiều người khác trên khắp thế giới, sẽ định hình nền văn hóa qua việc chọn cách sử dụng AI.

2. Hãy suy nghĩ trước khi hành động

Đức Thánh Cha Lêô thường dùng từ “phân định” khi nói về AI. Ngài giải thích:

“Tác động của cuộc cách mạng (AI) này thật sâu rộng, làm biến đổi các lãnh vực như giáo dục, công việc, nghệ thuật, chăm sóc sức khỏe, quản trị, quân sự và truyền thông. Sự chuyển đổi mang tính thời đại này đòi hỏi trách nhiệm và sự phân định để bảo đảm rằng AI được phát triển và sử dụng cho ích chung, xây dựng những nhịp cầu đối thoại và thúc đẩy tình huynh đệ, đồng thời bảo đảm rằng nó phục vụ lợi ích của toàn thể nhân loại.”

Nói cách khác, khi bạn bước vào tuổi trưởng thành và sử dụng AI trong công việc, trong các mối tương quan và trong cộng đồng của mình, bạn cần suy nghĩ về cách sử dụng nó để trợ giúp người khác. Đức Thánh Cha Lêô nói rằng trợ giúp người khác, trong trường hợp này, có nghĩa là “bảo vệ phẩm giá bất khả xâm phạm của mỗi con người, và tôn trọng sự phong phú và đa dạng về văn hóa và tinh thần của các dân tộc trên thế giới.”

Ngài nói, việc bạn sử dụng AI và sử dụng nó như thế nào, phải được đánh giá dựa trên thực tế bạn có thúc đẩy ích chung theo cách này hay không.

3. Hãy thành thật

“Là chính mình” trên không gian mạng từ lâu đã là một thách đố – một thách đố sẽ càng trở nên phức tạp hơn với sự phổ biến của AI. Đức Thánh Cha Lêô khuyến khích chúng ta rằng:

“Đây là một thách đố mà chúng ta phải đối mặt: suy ngẫm về tính thành thật trong chứng tá của chúng ta, về khả năng lắng nghe và nói, và về năng lực thấu hiểu và được thấu hiểu của chúng ta. Chúng ta có nhiệm vụ phải cùng nhau làm việc để phát triển một lối tư duy, phát triển một ngôn ngữ của thời đại chúng ta, để lên tiếng cho Tình yêu.”

Khi AI phát triển một ngôn ngữ nhân tạo toàn cầu, bạn có cơ hội để nói bằng tiếng nói được Thiên Chúa ban tặng cho riêng bạn, trao tặng những ân huệ và tài năng của mình cho thế giới.

4. Đừng quên rằng dữ liệu không phải là sự khôn ngoan

Đức Thánh Cha Lêô thừa nhận rằng: “Chưa có thế hệ nào có được cơ hội tiếp cận nhanh chóng với lượng thông tin có sẵn thông qua AI như vậy.” Tuy nhiên, việc có nhiều dữ liệu không đồng nghĩa với sự hình thành trí tuệ của riêng bạn. Ngài nói:

“Nhưng một lần nữa, việc tiếp cận dữ liệu – dù rộng lớn đến đâu – cũng không được nhầm lẫn với trí tuệ, vốn tất yếu “liên quan đến việc con người mở ra với những vấn nạn tối hậu của cuộc sống và phản ánh định hướng hướng tới Chân Lý và Sự Thiện” (Antiqua et Nova, Số 29). Sau cùng, sự khôn ngoan đích thực hệ tại ở việc nhận ra ý nghĩa đích thực của sự sống, hơn là sự sẵn có của dữ liệu.”

Bạn có đang tìm kiếm chân lý không? Nếu bạn đang hy vọng trưởng thành trong sự khôn ngoan, Đức Thánh Cha Lêô cho rằng việc chỉ dựa vào dữ liệu mà AI cung cấp thì không đủ.

5. Hãy luôn nhớ đến Thiên Chúa

Trong một cuộc phỏng vấn gần đây, Đức Thánh Cha Lêô nói rằng “rất khó để khám phá sự hiện diện của Thiên Chúa” trong trí tuệ nhân tạo.

Nếu bạn thấy mình tập trung hoàn toàn vào thế giới được định hình bởi AI, nhưng lại quên rằng chính Thiên Chúa đã tạo dựng và chăm sóc thế giới, thì đã đến lúc bạn cần thay đổi cái nhìn.

Khi nhắc lại bổn phận phục vụ ích chung và tìm gặp Thiên Chúa, Đức Thánh Cha nhắc lại những lời trong Kinh Thánh mà chúng ta luôn cần ghi nhớ.

Trong Tin Mừng theo Thánh Máccô, khi một kinh sư hỏi Chúa Giêsu đâu là điều răn trọng nhất trong các điều răn…

Chúa Giêsu đáp: “Điều răn đứng đầu là: Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó.”

Dĩ nhiên, lời của Chúa Giêsu vẫn phù hợp trong thế giới kỹ thuật số của AI ngày nay, như chúng phù hợp trong thời đó.

Tri Khoan

Chuyển ngữ từ: aleteia

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/5-diem-huong-dan-cua-duc-thanh-cha-ve-tri-tue-nhan-tao-ai-danh-cho-thieu-nien

 

***

 

9.  Truyền thông Công giáo trong kỷ nguyên trí tuệ nhân tạo

Lm. Giuse Phạm Đình Ngọc, SJ

WHĐ (10/11/2025) – “Chỉ bằng cách trang bị cho mình một cái nhìn tâm linh, chỉ bằng cách phục hồi sự khôn ngoan của trái tim, chúng ta mới có thể đọc và giải thích sự mới mẻ của thời đại chúng ta, và tái khám phá con đường dẫn đến một nền truyền thông nhân bản trọn vẹn.” (Đức Giáo hoàng Phanxicô)

Dẫn nhập

1. Truyền thông Công giáo

2. AI là công cụ hỗ trợ hay là một “vị thần”?

3. Chuẩn bị cho người làm truyền thông thời AI

4. Tầm nhìn chiến lược

Kết luận

 


Dẫn nhập

Tôi muốn trích lại “chương trình sống” hằng ngày của Chúa Giêsu: “Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó. Ông Simôn và các bạn kéo nhau đi tìm. Khi gặp Người, các ông thưa: ‘Mọi người đang tìm Thầy đấy!’ Người bảo các ông: ‘Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó.’ Rồi Người đi khắp miền Ga-li-lê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỷ.” (Mc 1,35-39)

Tôi cũng xin trích lại một trong những thông điệp mạnh mẽ đến từ Giáo hoàng Phanxicô, vị đại diện Chúa Giêsu nơi trần gian: “Chỉ bằng cách trang bị cho mình một cái nhìn tâm linh, chỉ bằng cách phục hồi sự khôn ngoan của trái tim, chúng ta mới có thể đọc và giải thích sự mới mẻ của thời đại chúng ta, và tái khám phá con đường dẫn đến một nền truyền thông nhân bản trọn vẹn.”[1]

Xét ở khía cạnh con người, Đức Giêsu là bậc thầy về truyền thông. Ngài đón nhận thánh ý Thiên Chúa Cha, qua cầu nguyện, để loan truyền và diễn đạt thánh ý ấy cho chính những ai Người gặp gỡ. Nhờ tương quan liên vị thần linh này, Đức Giêsu chu toàn thánh ý Chúa Cha cách trọn vẹn, và nhờ đó, Ngài có thể truyền thông đến với người khác. Cũng vậy, Đức Giáo hoàng Phanxicô mô tả người làm truyền thông hiệu quả bằng một ngôn ngữ hiện đại hơn: “Trang bị một cái nhìn tâm linh”, nghĩa là cần gặp gỡ Thiên Chúa. Đây là mấu chốt và là chìa khóa để mở ra cánh cửa truyền thông hiệu quả. Nhờ cầu nguyện, chúng ta được chữa lành, con tim biết rung động cùng thời đại. Chỉ trong bối cảnh này, người làm truyền thông mới có thể giải thích, loan báo Tin mừng hăng say với nhiều hy vọng.

1. Truyền thông Công giáo

Dù trong thời đại công nghệ số hay trí tuệ nhân tạo (AI), thì hai chữ “Công giáo” cần phải là căn tính rõ nét của chúng ta. Người làm truyền thông Công giáo hẳn là loan Tin mừng của Thiên Chúa với ước mong Tin mừng này được gieo rắc đến khắp tận cùng trái đất. Ngày xưa, các nhà truyền giáo đi khắp nơi để hiện diện và rao giảng Tin mừng. Có một thời Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II cảm thấy “hoạt động truyền giáo đặc biệt nhắm đến các dân nước (ad gentes) như thể đang xìu xuống.”[2] Với trực giác truyền giáo, Thánh Giáo hoàng này đã nhận ra cơ hội của thời hiện đại là lãnh vực truyền thông, một lãnh vực liên kết nhân loại lại và đang biến nhân loại thành cái gọi là “global village - ngôi làng toàn cầu”. Ngày nay, sứ mạng này đang đứng trước một cơ hội và thách thức mới như Đức Giáo hoàng Phanxicô nhìn nhận: “Sự phát triển của cái gọi là các hệ thống trí tuệ nhân tạo, đang làm thay đổi triệt để thế giới thông tin và truyền thông.”[3]

Truyền thông Công giáo không chỉ là loan truyền thông tin. Theo đó, chúng ta có thể nhắc lại vài hướng dẫn của Giáo hội liên quan đến AI. Trước hết, “Vào thời đại có nguy cơ giàu có về công nghệ và nghèo nàn về nhân tính, những suy tư của chúng ta phải bắt đầu từ trái tim con người”[4]. Đây là thách đố cả với người làm truyền thông lẫn người đón nhận bản tin. Thứ hai, với trợ lực của AI, “deepfake” và tin giả (fake news) dễ lan tràn. Ước sao những người làm truyền thông có một sự tỉnh thức và phân định sâu sắc trong cách sử dụng. Thực vậy, trước khi có AI, Giáo hội đã “nhận thấy mình có bổn phận phải sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội để loan truyền sứ điệp cứu độ và hướng dẫn con người biết sử dụng các phương tiện ấy cho đúng đắn.” (Inter Mirifica số 3). Sau đó, Giáo hội cũng nhấn mạnh sự cần thiết phải sử dụng các phương tiện ấy trong khuôn khổ trật tự luân lý khách quan, tôn trọng sự thật, phẩm giá con người và lợi ích chung (x. Inter Mirifica số 6). Nói cách khác, nội dung truyền thông của Giáo hội phải đặt nền tảng trên Sự thật và Bác ái, không thể chỉ chạy theo những xu hướng giật gân hoặc kỹ xảo câu view. Tóm lại, Thánh Phaolô VI cho rằng Giáo hội “sẽ cảm thấy có lỗi trước mặt Chúa”[5] nếu không dùng các phương tiện hiện đại để truyền rao Tin mừng, nhưng mặt khác, mọi việc sử dụng truyền thông đều phải được soi dẫn bởi đức tin và luân lý Kitô giáo.

Tới đây, chúng ta có thể nhận thấy một trong những điểm cốt lõi của truyền thông Công giáo: Truyền thông không chỉ là vấn đề kỹ thuật, mà trước hết là vấn đề con người và hiệp thông. Giấy trắng mực đen cho chúng ta thấy “việc truyền thông (Công giáo) không chỉ đơn thuần là một thực hành kỹ thuật, bởi vì nó bắt nguồn từ sự hiệp thông yêu thương giữa Ba Ngôi Thiên Chúa và việc các Ngôi ấy thông truyền chính mình cho chúng ta, và tự nhận thức rằng sự thông truyền mang tính Ba Ngôi vươn tới toàn thể nhân loại”[6]. Do đó, truyền thông Công giáo cần mang bản chất của một Hội thánh hiệp thông và yêu thương, chứ không phải là thao tác kỹ thuật lạnh lùng.

Là người thích hiệp hành, Đức Thánh cha Phanxicô cũng cho thấy “truyền thông không phải là một mánh lới (tactic). Nó không phải là một kỹ thuật. Nó không phải là sự lặp đi lặp lại những khẩu hiệu hay những câu nói sáo rỗng, cũng không chỉ đơn thuần là việc viết thông cáo báo chí. Truyền thông là một hành vi của tình yêu. Chỉ có một hành vi của tình yêu vô vị lợi mới có thể tạo nên những mạng lưới của điều thiện. Những mạng lưới của điều thiện ấy cần được canh tân và khôi phục mỗi ngày, với sự kiên nhẫn và đức tin.”[7] Qua những lời này, chúng ta cũng dễ dàng nhận thấy chính tình yêu được nuôi dưỡng trong cầu nguyện và đời sống kết hiệp với Thiên Chúa mới có thể làm nên sức mạnh thuyết phục và cảm hóa của truyền thông Kitô giáo. Đây là điểm khác biệt của chúng ta. Ước sao chúng ta cần xác tín điều rằng khi người làm truyền thông nói “sự thật trong tình yêu” (Ep 4,15), thông điệp truyền tải sẽ có sức nặng và chạm đến con tim người nghe hơn bất cứ kỹ xảo công nghệ nào.

Ước mong trên đây chúng ta đến điểm cuối cùng, đó là chuẩn mực đạo đức. Một mặt, chúng ta có “Đấng Truyền Thông” hoàn hảo là Đức Kitô. Trong thời đại AI với những thay đổi nhanh chóng, lời căn dặn của Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II càng trở nên quan trọng: “Trong khi nội dung được truyền đạt rõ ràng phải được thích ứng với nhu cầu của các nhóm khác nhau, thì mục tiêu vẫn luôn phải là giúp con người ý thức về chiều kích đạo đức và luân lý của thông tin. Cũng theo cách đó, quan trọng là phải bảo đảm rằng các chuyên viên truyền thông nhận được sự đào tạo cần thiết và được chăm sóc mục vụ; nhờ vậy, họ có thể đối diện với những căng thẳng đặc thù và những tiến thoái lưỡng nan về đạo đức phát sinh trong công việc hằng ngày của họ. Thường thì những người nam và nữ này ‘chân thành mong muốn được biết và thực hành điều gì là đúng đắn về mặt đạo đức và luân lý’, và họ tìm đến Giáo hội để được hướng dẫn và nâng đỡ.”[8] Tôi nghĩ đây chính là mẫu mực giúp phân định xem nội dung do AI tạo ra có phù hợp với sứ mạng truyền thông Tin mừng hay không. Cần xem nội dung ấy có phản ánh sự thật và bác ái không, hay chỉ là những thông điệp rỗng tuếchvốn chạy theo trào lưu công nghệ. Nếu thiếu chất Tin mừng, truyền thông cũng thiếu lửa nhiệt thành và lan tỏa.

2. AI là công cụ hỗ trợ hay là một “vị thần”?

Một số chuyên gia trong lãnh vực truyền thông Công giáo gửi cho tôi câu hỏi trên. Là người tham gia truyền thông, tôi trăn trở rất nhiều. Thú nhận rằng đôi khi mình cũng thấy khả năng “thần kỳ” của AI trong lãnh vực mình đang làm. Thực tế này gợi nhớ lời cảnh báo của Đức Thánh cha Phanxicô rằng chúng ta có thể rơi vào cám dỗ biến công nghệ thành ngẫu tượng nếu quá say mê nó. Ngài đặt vấn đề rất thẳng thắn: “Chúng ta hãy thử nghĩ xem chúng ta có thể đạt được biết bao điều – nhờ những công cụ mới của kỷ nguyên kỹ thuật số và nhờ trí tuệ nhân tạo – nếu thay vì biến công nghệ thành một ngẫu tượng, chúng ta dấn thân nhiều hơn vào việc xây dựng mạng lưới. Tôi phải thú nhận một điều: điều khiến tôi lo lắng hơn trí tuệ nhân tạo chính là trí tuệ tự nhiên, tức là trí tuệ mà chúng ta phải biết phát triển.”[9] Chúng ta cũng có thể phân biệt hai điều khá rõ: (1) Sử dụng công nghệ như công cụ để phục vụ con người; (2) Sùng bái công nghệ như cứu cánh tự thân.

Nếu người truyền thông chỉ chăm chăm chạy theo AI để có sản phẩm “nhanh – gọn – đẹp – vui tai” mà lơ là việc đào sâu nội dung đức tin, thì rất có thể họ đang “loan truyền một vị thần công nghệ” thay vì loan báo chính Đức Kitô là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống.

Chắc những người làm truyền thông Công giáo chưa đến mức sùng bái AI! Thế nhưng một trong những dấu hiệu rõ ràng của điều này là đánh mất (hay chỉ sống hời hợt) chiều sâu nhân bản và thiêng liêng trong truyền thông. AI, dù thông minh đến đâu, vẫn chỉ là máy móc! Điều này đặc biệt nguy hiểm nếu người làm truyền thông phó mặc tư duy cho máy móc, dễ bị dẫn dắt bởi “ảo tưởng toàn năng” rằng công nghệ có thể giải quyết mọi sự[10]. Rõ ràng, AI không thể mang lại “sự khôn ngoan của con tim”. Khả năng minh triết này phải xuất phát từ sự kết hợp giữa lý trí và đời sống thiêng liêng. Do đó, nếu quá lệ thuộc vào AI, nội dung truyền thông Công giáo có nguy cơ trở nên máy móc, vô hồn, thiếu hương thơm của cầu nguyện và kinh nghiệm thiêng liêng. Điều này lại rất cần thiết để phục vụ con người. Để làm được điều này, tôi nghĩ AI phải là đầy tớ, không bao giờ được trở thành ông chủ dẫn dắt mục đích của truyền thông. Khi người môn đệ Chúa Kitô sử dụng AI, họ cần luôn tự hỏi: Liệu công cụ này đang giúp tôi giới thiệu Chúa tốt hơn, hay đang dần thay thế tương quan sống động của tôi với Chúa và với người tôi phục vụ? Câu hỏi này có thể giúp chúng ta tránh dựng nên một “bàn thờ” dâng hiến nội dung truyền thông của mình cho “vị thần công nghệ” vô tri.

3. Chuẩn bị cho người làm truyền thông thời AI

Chúa Giêsu cầu nguyện, “học và làm truyền thông” mỗi ngày. Đức Giáo hoàng Phanxicô cũng mời gọi chúng ta trang bị hành trang làm truyền thông từng ngày. Nhất là trước sự phát triển nhanh chóng của AI, vấn đề đặt ra là làm sao đào tạo những người làm truyền thông trở thành “những nhà loan báo Tin mừng đích thực, chứ không chỉ là những kỹ thuật viên”. Chẳng hạn, từ Công đồng Vatican II (1962-1965) Giáo hội đã nhấn mạnh việc đào tạo bài bản cho các nhà truyền thông Công giáo. Inter Mirifica số 15 khẳng định cần nhanh chóng bổ nhiệm những linh mục, tu sĩ và giáo dân có chuyên môn thích hợp trong việc sử dụng các phương tiện truyền thông cho mục đích tông đồ[11]. Rõ ràng chuyên môn (biết dùng AI chẳng hạn) là điều kiện cần. Dòng sau đó của văn kiện nhấn mạnh đến điều kiện đủ: “Điều quan trọng là giáo dân phải được cung cấp sự đào tạo về kỹ thuật, giáo lý và luân lý” (Inter Mirifica khoản 15).

Là một linh mục làm truyền thông, tôi thấy thú vị khi đọc được những dòng này: “Giáo dục và đào tạo trong việc truyền thông phải là một phần không thể thiếu trong chương trình đào tạo các linh mục và các người làm mục vụ”[12]. Đó là lời được trích từ huấn thị Aetatis Novae, 30 năm sau Công đồng Vatican II. Giáo hội muốn những người làm mục vụ học tập và trau dồi kiến thức, kỹ năng và chiều sâu khi làm truyền thông, với mục đích để biết cách phục vụ con người. Nếu đọc Aetatis Novae, chúng ta nghe thấy lời mời gọi những ai trực tiếp tham gia công tác truyền thông cho Giáo hội phải được đào tạo (toàn diện): không chỉ kỹ năng chuyên môn cao mà còn phải có nền tảng giáo lý vững chắc và đời sống thiêng liêng sâu sắc (Aetatis Novae x. số 18.) Nói rõ hơn, người làm truyền thông Công giáo vừa cần tay nghề, vừa cần trí tuệ và trái tim cầu nguyện. Tôi nghĩ nếu thiếu một trong ba yếu tố này, chúng ta dễ bị cám dỗ chạy theo hào nhoáng kỹ thuật. Trong bối cảnh này, ước mong sao các giáo phận quan tâm hơn nữa đến việc đào tạo chuyên viên truyền thông, giúp họ được học hỏi về luân lý và đức tin hầu “có thể ngày càng thấm nhập các chuẩn mực luân lý vào trong công việc nghề nghiệp cũng như trong đời sống riêng tư của họ.”[13]

Trong bối cảnh thời đại AI hiện nay, tôi nghĩ một trong những việc cần hướng đến là khả năng tư duy phản biện và phân định. AI là trung tính, không tốt không xấu. Người làm truyền thông được đào tạo tốt sẽ luôn ý thức rằng đằng sau mọi công cụ, kể cả AI tối tân, vẫn cần có con người với con tim và lương tâm để làm cho thông điệp có hồn và chạm đến người tiếp nhận. Rõ ràng đây là không chỉ là vấn đề kỹ thuật, nhưng còn là “chất xám” của tiến trình phân định. Chắc ai cũng biết chương trình đào tạo truyền thông hôm nay cần tích hợp cả việc huấn luyện lương tâm, trau dồi nhân bản và thiêng liêng cho các học viên, bên cạnh việc cập nhật kiến thức kỹ thuật số. Người làm truyền thông Công giáo cần biết “thường huấn lương tâm và trau dồi sự nhạy bén”; nhờ đó, phát triển “năng lực phê phán lành mạnh” giúp chúng ta làm chủ công nghệ và trung thành với sứ mạng truyền thông.

4. Tầm nhìn chiến lược

Một nữ tu (xin được dấu tên) chuyên về truyền thông chia sẻ: “Chúng ta cần một tầm nhìn chiến lược (Strategic vision) cho việc đào tạo và định hướng truyền thông, thay vì chỉ chạy theo xu hướng công nghệ AI”. Trong đó Strategic thuộc về việc hoạch định, dẫn dắt một cách có kế hoạch, bài bản; Vision là tầm nhìn, khả năng thấy xa trông rộng. Như vậy, tầm nhìn chiến lược là “khả năng thấy trước tương lai và hoạch định con đường đạt tới”. Điều này quả là thách đố trong thời đại AI. Tuy nhiên, đây là điều quan trọng cho mọi lãnh vực, kể cả truyền thông; nếu thiếu điều này, công việc truyền thông sẽ đổ sông đổ bể.

Tạ ơn Chúa vì Giáo hội hoàn vũ, qua kinh nghiệm nhiều thập kỷ đối thoại với thế giới truyền thông, luôn khuyến khích một cách tiếp cận chủ động và hoạch định thay vì thụ động chạy theo trào lưu. Chẳng hạn cha John Mi Shen, thư ký Văn phòng Truyền thông Xã hội thuộc Liên Hội đồng Giám mục Á châu (FABC), đưa ra một tầm nhìn chiến lược cho các cộng đoàn Loan báo Tin mừng bằng kỹ thuật số:

“Chúng ta là một châu lục phong phú về sự đa dạng ngôn ngữ, văn hóa, bối cảnh; và chúng ta cần những nền tảng giúp kết nối thay vì chia rẽ. Tôi cũng hy vọng tiếng nói của Giáo hội Công giáo châu Á (Đài Chân lý Á Châu - Radio Veritas Asia - RVA[14]) trở thành một trung tâm vừa cung cấp tin tức Công giáo đáng tin cậy, vừa là nơi đào tạo những nhà truyền thông trẻ, được bén rễ trong các giá trị Tin mừng và được trang bị cho thế giới kỹ thuật số hôm nay.”[15]

Ngoài những hướng dẫn chung có thể tìm thấy trong các tài liệu của Giáo hội phổ quát, ước gì mỗi giáo phận tại Việt Nam (Hội đồng Giám mục) cần xây dựng kế hoạch mục vụ truyền thông cụ thể. Tôi cũng mong chờ kế hoạch mục vụ riêng cho lãnh vực truyền thông, được cập nhật thường xuyên, với sự cộng tác của các chuyên gia truyền thông Công giáo tại Việt Nam. Những định hướng này nhằm bảo đảm rằng có thể Giáo hội chưa cần đi trước đón đầu, nhưng ít là giúp chúng ta thích ứng được với thay đổi của thời đại công nghệ AI.

Cũng như bất cứ ai hoạch định một tầm nhìn chiến lược nào, chúng ta cần đào sâu hiểu biết bối cảnh truyền thông và chuyển hóa hiểu biết đó thành “các chính sách thực tiễn và chương trình khả thi” trong mục vụ. Chẳng hạn, trước làn sóng AI, một tầm nhìn truyền thông Công giáo chiến lược sẽ đặt ra những câu hỏi: Chúng ta muốn ứng dụng AI thế nào để phục vụ sứ mạng loan báo Tin mừng? Nội dung do AI hỗ trợ ở mức độ nào là tốt? Làm sao giữ vững bản sắc Công giáo và chiều sâu thiêng liêng trong môi trường truyền thông số? Hoặc, làm sao để không bị AI “dắt mũi”? V.v.

Giáo hội trước giờ vẫn luôn “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo âu của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và của bất cứ ai đang đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo âu của các môn đệ Chúa Kitô” (Gaudium et Spes số 1). Điều này càng đúng trong kỷ nguyên AI. Thay vì e ngại hay chạy theo một cách mù quáng, Giáo hội cần quy tụ trí tuệ tập thể, cùng nhau học hỏi và đồng hành. Nhiều nhóm truyền thông trong các Giáo phận đã, đang và sẽ thực hiện điều này để đưa ra tầm nhìn chiến lược. Họ cầu nguyện và suy tư để đưa ra những định hướng mang tính dẫn đường cho việc sử dụng AI trong truyền thông. Trên hành trình này, tôi nghĩ hẳn nhiên các tài liệu hiện có của Giáo hội rất quan trọng, như kim chỉ nam dẫn đường. Ví dụ, vào tháng 1/2025, Bộ Giáo lý Đức tin cùng Bộ Văn hóa & Giáo dục của Tòa Thánh đã ban hành văn kiện Antiqua et Nova (sự khôn ngoan vừa cổ xưa vừa mới mẻ) bàn về những lưu ý về mối tương quan giữa trí tuệ nhân tạo và trí tuệ con người[16].

Sau cùng, tôi nghĩ tầm nhìn chiến lược này cần thấm được tinh thần hiệp thông với Thiên Chúa và với nhau. Mất một trong hai vế này, chiến lược truyền thông sẽ nên nghèo nàn. Nói theo ngôn từ của Đức Thánh Cha Phanxicô: “Truyền thông là một hành vi của tình yêu.”[17], mến Chúa yêu người. Bởi đó, không một AI nào có thể thay thế sự hiệp thông cầu nguyện của người truyền giáo với Thiên Chúa và sự hiệp thông huynh đệ với những người họ phục vụ. Chính trong cầu nguyện, người tông đồ truyền thông nhận ra tiếng nói của Chúa Thánh Thần hướng dẫn họ biết nói lời nào, im lặng lúc nào, biết sáng tạo những cách thức mới để loan báo Tin mừng mà không đánh mất hương vị Tin mừng. Và cũng chính nhờ đời sống kết hiệp với đoàn thể Hội thánh, người làm truyền thông mới giữ được mình khỏi “hào nhoáng” trên mạng xã hội và thế giới của AI. Ước gì chúng ta biết khiêm tốn lắng nghe nhau và cùng nhau phân định ý Chúa, cùng xây dựng “một hình thức truyền thông khác” mang đậm dấu ấn Tin mừng: truyền thông biết lắng nghe, đối thoại, gieo hy vọng và kiến tạo tình huynh đệ.

Kết luận

Tôi muốn kết thúc bài viết này bằng những lời đầy gợi hứng của Đức Giáo hoàng Phanxicô dành cho những người đang làm truyền thông: “Anh chị em thân mến, công việc này thật đầy thách đố. Vì thế, tôi khích lệ anh chị em gia tăng nỗ lực để cộng tác cả ở cấp châu lục lẫn hoàn vũ, ngõ hầu chúng ta có thể xây dựng một mô hình truyền thông khác biệt. Sự khác biệt ấy nằm ở tinh thần cởi mở (the unlimited spirit), ở sự sáng tạo và sức mạnh thi ca tuôn trào từ Tin mừng. Truyền thông luôn mang tính nguyên khởi. Khi chúng ta truyền thông, chúng ta sáng tạo ra những ngôn ngữ và những nhịp cầu. Chúng ta trở thành những người sáng tạo. Đó phải là một mô hình truyền thông chuyển tải sự hòa hợp và đưa ra một giải pháp thay thế cụ thể cho những tháp Babel của thời nay. Hãy nghĩ về điều này: những tháp Babel mới. Họ đều nói, nhưng không ai hiểu được nhau. Hãy suy niệm về hình ảnh ấy.”[18]

Như thế, người làm truyền thông Công giáo phải luôn đứng trước lựa chọn giữa một bên là (1) những lợi ích to lớn từ AI có thể giúp việc loan báo Tin mừng nhanh chóng và rộng khắp, và bên kia là (2) những nguy cơ nội dung truyền thông mất đi chiều sâu thiêng liêng và tính nhân bản nếu quá lệ thuộc vào công nghệ. Trước căng thẳng này, truyền thông Công giáo vẫn cho ta những nguyên lý căn bản như bản chỉ đường của truyền thông Kitô giáo: Chia sẻ Sự thật trong yêu thương, phát xuất từ con tim đầy Chúa và nhắm tới con tim người nghe. Nếu được phép, tôi đề nghị rằng người làm truyền thông Công giáo thời AI không những cần trau dồi kỹ năng sử dụng công cụ, mà còn phải đào sâu kiến thức giáo huấn của Giáo hội, rèn luyện tư duy phê phán và đời sống cầu nguyện. Chính sự hiệp thông với Chúa và sự sáng tạo được nuôi dưỡng bởi cầu nguyện sẽ là “linh hồn” thổi vào những sản phẩm truyền thông, khiến chúng có sức sống và sức lan tỏa thực sự.

Tài liệu tham khảo:

- Inter Mirifica (1963);

Communio et Progressio (1971);

Aetatis Novae (1992);

Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền thông Xã hội của các Đức Giáo Hoàng;

- Tông thư The Rapid Development (2005) của Thánh Gioan Phaolô II;

Diễn từ của Đức Phanxicô cho các Ủy ban Truyền thông (2025);

Antiqua et Nova (2025);

Sứ điệp Ngày Hòa bình Thế giới 2024 của Đức Thánh cha Phanxicô (Artificial Intelligence and Peace);

- Và các huấn từ khác của Tòa Thánh liên quan đến truyền thông và trí tuệ nhân tạo.

Lm. Giuse Phạm Đình Ngọc, SJ

_________________ 

(Nguồn: WHĐ)

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/truyen-thong-cong-giao-trong-ky-nguyen-tri-tue-nhan-tao

 

***

 

10.  Linh mục Phanxicô Xavier Trương Bửu Diệp (1897-1946) - Cuộc đời, nhân cách, sự nghiệp, cái chết và ý nghĩa cho ngày nay

Giáo phận Cần Thơ

WHĐ (12/11/2025) - Đây là tài liệu chính thức của Giáo phận Cần Thơ, được Toà Thánh Vatican chuẩn thuận. Tài liệu này là kết quả của cuộc điều tra sau nhiều năm, với nhiều nhân chứng, được tóm gọn lại trở thành Tiểu sử chính thức về Cha Phanxicô Xavier Trương Bửu Diệp, do Giáo phận Cần Thơ công bố.

Lời giới thiệu

1. Tiểu sử sơ lược của Linh mục Phanxicô Xavier Trương Bửu Diệp (1897-1946)

2. Cuộc điều tra

3. Nhân cách và Sự nghiệp của Cha Phanxicô Xavier Trương Bửu Diệp

3.1. Về tình yêu của Cha Phanxicô Xavier Trương Bửu Diệp đối với mọi người

3.2. Thái độ của Cha Phanxicô Xavier Trương Bửu Diệp đối với người nghèo, đặc biệt giữa nạn đói năm 1944-1945

4. Cái chết của Cha Phanxicô Xavier Trương Bửu Diệp và nguyên nhân

4.1. Sự thật

4.2. Động cơ

5. Ý nghĩa của cuộc đời và cái chết của Cha Phanxicô Xavier Trương Bửu Diệp

5.1. Lời tuyên bố đó có ý nghĩa gì?

5.2. Thật sự, Cha Phanxicô Xavier Trương Bửu Diệp đã chết vì đức tin và để bảo vệ quyền lợi của người nghèo





GIÁO PHẬN CẦN THƠ


LINH MỤC
PHANXICÔ XAVIER TRƯƠNG BỬU DIỆP
(1897-1946)



CUỘC ĐỜI - NHÂN CÁCH - SỰ NGHIỆP - CÁI CHẾT VÀ Ý NGHĨA CHO NGÀY NAY



Lời giới thiệu

Đây là tài liệu chính thức của Giáo phận Cần Thơ, được Toà Thánh Vatican chuẩn thuận.

Tài liệu này là kết quả của cuộc điều tra sau nhiều năm, với nhiều nhân chứng, được tóm gọn lại trở thành Tiểu sử chính thức về Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp, do Giáo phận Cần Thơ công bố.

Theo quy định của Bộ Phong Thánh của Giáo hội Công giáo, ngày 11 tháng 10 năm 2021, Điều 52a: “Các tài liệu của Cuộc Điều Tra và Positio (tập hồ sơ) về việc tử đạo, các nhân đức anh hùng, sự hiến dâng mạng sống và việc tôn kính cổ truyền sẽ được giữ bí mật tuyệt đối trong vòng năm mươi (50) năm kể từ khi kết thúc cuộc điều tra. Mọi sự tham khảo bởi bên thứ ba phải được Thánh Bộ chấp thuận bằng văn bản”. Thế nên, những nhân vật và những nhân chứng về cuộc Tử đạo của Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp trong tài liệu này được viết tắt (Ví dụ như: Ông Q., Linh mục V., Bà H., Ông S…).

Ước mong mọi thành phần Dân Chúa đón nhận và phổ biến tài liệu chính thức này, để Danh Chúa được vinh quang và nhiều người được hưởng ơn cứu độ.

Cần Thơ, ngày 15 tháng 8 năm 2025

Giám mục Giáo phận Cần Thơ

Phêrô LÊ TẤN LỢI



Nơi an nghỉ của Cha Phanxicô Xavier Trương Bửu Diệp



1. Tiểu sử sơ lược của Linh mục Phanxicô Xavier Trương Bửu Diệp (1897-1946)

Linh mục Phanxicô Xavier Trương Bửu Diệp sinh ngày 01 tháng 01 năm 1897 tại Tấn Đức, nay là xã Long Kiến, tỉnh An Giang. Cha là ông Trương Văn Đặng (1860-1935) và mẹ là bà Nguyễn Thị Thanh (1862-1904). Gia đình sống tại họ đạo Cồn Phước, do linh mục Nguyễn Linh Sớm, sinh năm 1857, coi sóc. Đây là một gia đình Công giáo làm nghề nông, sống theo những giá trị truyền thống của người Việt.

Sau khi vợ mất vào năm 1904, ông Trương Văn Đặng đưa con trai là cậu Diệp qua Battambang, Campuchia kiếm sống. Ông tái hôn với bà Nguyễn Thị Phước, sinh năm 1890. Sau đó, hai vợ chồng cùng cậu Diệp trở về Cồn Phước, An Giang sinh sống. Tại đây, họ sinh thêm được một cô con gái tên là Trương Thị Thìn.

Năm 1909, khi lên 12 tuổi, cậu Phanxicô Xavier Trương Bửu Diệp được nhận vào học bậc trung học tại Tiểu chủng viện Cù Lao Giêng, xã Tấn Mỹ, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Vì từ thời bấy giờ cho đến năm 1955, tất cả các xứ đạo Công giáo trên lãnh thổ Việt Nam bên kia sông Hậu (Giáo phận Long Xuyên và Cần Thơ hiện nay) đều thuộc về Giáo phận Phnom Penh, do một giám mục người Pháp, thuộc Hội Thừa sai Ba Lê, cai quản, cho nên, sau khi tốt nghiệp, cậu Diệp được nhận vào Đại chủng viện Phnom Penh, Campuchia.

Năm 1924, Thầy Phanxicô Xavier Trương Bửu Diệp được thụ phong linh mục. Ngài được bổ nhiệm làm cha phó tại một làng người Việt Nam gọi là Hố Trư - nay là Ploutrey, xã Thomokô, huyện Lvea Em, tỉnh Kandal, Campuchia. Cho đến ngày nay, người dân trong làng vẫn còn nhắc nhớ về cha phó Phanxicô Xavier Diệp.

Đầu năm 1928, Cha Phanxicô Xavier Trương Bửu Diệp được điều về dạy học tại Tiểu chủng viện Cù Lao Giêng, An Giang.

Tháng 3 năm 1930, Cha Phanxicô Xavier Trương Bửu Diệp được bổ nhiệm làm chánh xứ Tắc Sậy. Đây là một họ đạo nhỏ ở tỉnh Bạc Liêu, ngài cũng phải coi sóc cả Khúc Tréo và các giáo dân sống rải rác trong vùng. Dưới sự hướng dẫn của Cha Diệp, số giáo dân tăng lên đáng kể, và nhiều nhà thờ mới được xây dựng. Cha Phanxicô Xavier Trương Bửu Diệp đã rất thành công trong công tác mục vụ và truyền giáo, cho đến khi qua đời vào ngày 12 tháng 3 năm 1946.



2. Cuộc điều tra

Linh mục Phanxicô Xavier Trương Bửu Diệp có sức ảnh hưởng rất lớn, không chỉ ở tỉnh Bạc Liêu, tại Giáo phận Cần Thơ, mà còn ở nhiều nơi khác trên đất nước Việt Nam và cả nước ngoài. Mộ phần của ngài ở Tắc Sậy thu hút đông đảo mọi thành phần đến kính viếng, và hình ảnh của ngài hiện diện ở khắp nơi.

Lòng sùng kính của rất nhiều người dành cho Cha Phanxicô Xavier Trương Bửu Diệp và tầm ảnh hưởng vươn xa của ngài, không phải do Giáo phận Cần Thơ chủ ý tạo ra hay dẫn dắt, nhưng điều này đã được phát sinh và lan toả một cách tự nhiên trong lòng dân chúng và ngày càng phổ biến và phát triển.

Tượng đài Cha Phanxicô Xavier Trương Bửu Diệp

Trong những trường hợp như thế này, Giáo hội Công Giáo luôn phải tuân theo những quy định nghiêm ngặt để xác minh tính xác thực và giá trị của lòng sùng kính đó. Cho nên, từ năm 2011 đến năm 2017, Giáo phận Cần Thơ đã tiến hành một cuộc điều tra kỹ lưỡng về cuộc đời và cái chết của Cha Phanxicô Xavier Trương Bửu Diệp. Một cách cụ thể, một Ủy Ban Sử Học của Giáo Phận đã được thành lập để xem xét tất cả các tài liệu khả dĩ có thể trực tiếp hoặc gián tiếp giúp tìm hiểu về cuộc đời và những sự kiện dẫn đến cái chết bi thảm của ngài. Hai mươi ba nhân chứng, cả Công giáo lẫn không Công giáo, đã được thẩm vấn sau khi công khai tuyên thệ làm chứng cách trung thực. Trong số đó, có 13 người là nhân chứng tận mắt chứng kiến, 10 người khác làm chứng về những gì họ nghe được từ những người trực tiếp chứng kiến.

Thể theo yêu cầu của Giáo phận Cần Thơ, Tòa Thánh đã xem xét kỹ lưỡng phương pháp tiến hành và kết quả của cuộc điều tra này, kể cả việc tham khảo ý kiến của một nhóm sử gia độc lập, và cuối cùng đã tuyên bố kết quả của cuộc điều tra là đáng tin cậy.

Do đó, vào ngày 25/11/2024, Đức Giáo hoàng Phanxicô cho phép Giáo phận Cần Thơ tiến hành các bước tiếp theo: chính thức công nhận linh mục Phanxicô Xavier Trương Bửu Diệp là một mẫu gương sống Đạo cho ngày nay; và ban cho ngài danh hiệu truyền thống là “Chân phước”.



3. Nhân cách và Sự nghiệp của Cha Phanxicô Xavier Trương Bửu Diệp

Tất cả các nhân chứng đều mô tả Cha Phanxicô Xavier Diệp là một linh mục tốt, tận tâm trong việc thi hành các bổn phận tôn giáo, nghiêm túc trong việc giữ gìn các nề nếp truyền thống trong gia đình (gồm có em gái, em rể và hai cháu của ngài), và rất quảng đại đối với người khác. Ngài đặc biệt quan tâm đến người nghèo khó, trẻ em, người bệnh tật, và những người đau khổ vì chiến tranh hay những tai ương khác.

Cha Phanxicô Xavier Trương Bửu Diệp rất rộng lượng. Ngài không hề phân biệt đối xử giữa người giáo dân hay anh chị em lương dân, giữa Công giáo với các Tôn giáo khác, và ngài cũng không quan tâm đến yếu tố sắc tộc hay chính kiến. Tất cả những ai nghèo khổ đều có thể đến gặp ngài trực tiếp và được ngài đón tiếp trong tình bằng hữu và với những cử chỉ chia sẻ giống y như nhau.

Cha Phanxicô Xavier Trương Bửu Diệp phát gạo cho bà con lương giáo

Để minh họa thêm, xin trích dẫn một vài lời khai thực tế của các nhân chứng sau khi họ tuyên thệ nói sự thật.

3.1. Về tình yêu của Cha Phanxicô Xavier Trương Bửu Diệp đối với mọi người

Ông Q., một giáo dân, cho biết: “Cha sống giản dị, gần gũi, yêu thương và phục vụ giáo dân, nên bà con yêu mến cha... Cha yêu thương mọi người. Cha giúp đỡ mọi người lương giáo. Ai cần gì thì xin cha, cha cho”.

Linh mục V., lúc đó là một linh mục trẻ, kể lại: “Cha rất gần gũi, hiểu biết, phục vụ và yêu thương giáo dân. Dù trong hoàn cảnh xã hội loạn lạc, nguy hiểm, Cha Diệp vẫn ở lại với giáo dân chứ không chịu tản cư đi lánh nạn... Cha Diệp siêng năng làm lễ, giải tội và đi đến các họ lẻ và giáo điểm; và cha thường xuyên đi thăm những người già cả, ốm yếu, và giúp đỡ những người nghèo lương giáo”.

Bà L., lúc đó còn là một thiếu nữ, khi Cha Diệp qua đời, vẫn nhớ rất rõ: “Con thấy Cha Diệp khiêm nhường, hiền lành, đơn sơ, gần gũi giáo dân. Con nhớ cha hay đi thăm bà con, vào nhà để xem họ sinh sống làm sao... Cha Diệp cũng nhân từ và biết cách hoán cải người tội lỗi. Thời đó, ba con là con nhà khá giả, ham mê ăn chơi, không lo làm việc. Cha Diệp gặp ba con khuyên giải, hướng dẫn. Nhờ đó ba con hối cải, sửa đổi, và siêng năng làm việc”.

Cha Phanxicô Xavier Trương Bửu Diệp rửa tội cho bà con dự tòng

Lời tóm tắt xác đáng nhất về điểm này là của Đức Hồng y GB. Phạm Minh Mẫn, người quen biết với Cha Phanxicô Xavier Diệp: “Ngài là một mục tử tốt lành, yêu thương, phục vụ, và sống chết với đoàn chiên… Ngài không chỉ tận tình chăm sóc những giáo dân trong họ đạo mà cả những lương dân; không chỉ trong họ đạo được trao phó mà cả những giáo điểm xa xôi… Cha thường xuyên đến những giáo điểm và họ đạo này cử hành Thánh lễ và các Bí tích cho giáo dân, và còn thăm viếng lương dân. Để đến được những nơi đó, cha thường đi bằng ghe xuồng hoặc đạp xe đạp… Cha Diệp tốn nhiều thời gian và hao tổn nhiều sức lực, tâm trí trong việc linh mục của mình. Cha yêu thương và biết dân rất rõ. Cha rất gần gũi với cuộc sống hằng ngày và thiêng liêng của họ. Cha phục vụ họ và hy sinh cuộc đời cho họ”.

3.2. Thái độ của Cha Phanxicô Xavier Trương Bửu Diệp đối với người nghèo, đặc biệt giữa nạn đói năm 1944-1945

Ông G., một giáo dân, khẳng định mạnh mẽ: “Cha Diệp thương mến cả người giáo cũng như người lương. Những người nghèo khổ được cha yêu thương, giúp đỡ nhiều lắm. Ba con là Biện Việc của giáo họ được cha bảo phải giúp đỡ người nghèo tùy hoàn cảnh của người ta. Lúc đó ngoài Bắc đang đói kém: có một số người Bắc tản cư vào Tắc Sậy, cha cũng giúp đỡ họ nhiều. Nhiều người xin học đạo. Cha còn lo lắng cho những người lương nhiều hơn nữa”.

Bên trong nhà thờ Tắc Sậy

Bà Nh., xuất thân từ một gia đình nghèo khó, đã được hưởng lòng quảng đại của Cha Diệp. Bà nhớ lại một cách sâu sắc: “Ông Cố Diệp lúc nào cũng thương bà con giáo dân. Ông Cố xin đất cho bà con giáo dân làm ruộng để sống. Họ đạo Tắc Sậy có lúa ruộng, ông Cố nuôi những người nghèo, và cho những người thất nghiệp lúa đem về chà gạo ăn. Con mồ côi mẹ, ba thì đi lấy vợ khác, vì vậy con thấy Cha Diệp thương con còn nhiều hơn”.

Cô M., khi còn nhỏ, là hàng xóm thân cận của Cha Diệp. Lời khai của cô chính xác và quý giá: “Khi bác làm Cha Sở ở Tắc sậy thì con biết. Bác Diệp thương người lắm. Có lần, một người gánh hai thúng, mỗi thúng có một em bé. Người này xin đất cát làm ruộng. Bác Diệp bảo rằng: ‘Anh có thể khai thác được bao nhiêu thì anh lấy bấy nhiêu. Còn trong lúc khai thác thì tôi cho gạo ăn. Anh che cái chòi ở đỡ đi. Khi anh đã làm thành khoảnh thì anh tự sống’. Có ngày có cả chục người. Con biết, vì hồi đó, mẹ con giao cho con nhiệm vụ phát thẻ dù con còn nhỏ tuổi.



4. Cái chết của Cha Phanxicô Xavier Trương Bửu Diệp và nguyên nhân

Cuộc điều tra kỹ lưỡng của Giáo phận Cần Thơ, dựa trên sự kiện và lời khai, đã bác bỏ hoàn toàn những giả định vô căn cứ xung quanh cái chết của Cha Diệp, và làm sáng tỏ động cơ vụ sát hại ngài.

Cha Phanxicô Xavier Trương Bửu Diệp bị chém đầu

4.1. Sự thật

Hoàn cảnh cái chết của Cha Diệp đã được làm sáng tỏ ngoài sự nghi ngờ: ngài bị sát hại bởi hai lính đào ngũ Nhật Bản.

Cụ thể, thi thể của Cha Phanxicô Xavier Trương Bửu Diệp được tìm thấy trong một ao cá; đầu bị chém chẻ làm đôi từ đỉnh đầu xuống cổ bởi một nhát kiếm. Không giống với bất kỳ binh lính nào khác trong khu vực, chỉ có lính Nhật Bản mới được trang bị và sử dụng thành thạo loại vũ khí này. Trên thực tế, nhiều người đã thấy những người lính Nhật đào ngũ mang kiếm Nhật bên mình trong địa bàn giam giữ Cha Diệp.

Bà H. kể lại: “Trong đám đó thì có mấy thằng Nhật… Mỗi thằng Nhật có mang kiếm dài, sáng giới. Lúc con đi từ lẫm bên kia sang lẫm ba má con, thằng Nhật tưởng con trốn nên rút kiếm dài sáng giới kê vào cổ con”.

Chính mắt một thành viên trong nhóm quân hỗn tạp đã đưa Cha Phanxicô Xavier Trương Bửu Diệp cùng với người dân Tắc Sậy, cả Công giáo lẫn người lương, đến kho thóc Cây Gừa, và đã chứng kiến vụ hành quyết. Anh ta không tưởng tượng được rằng ngày hôm đó sẽ kết thúc bằng vụ sát hại một con người vô tội mà mọi người dân trong vùng đều kính trọng và yêu mến. Sau đó, anh ta vẫn là một người bạn của những người Công giáo từng là giáo dân của Cha Diệp. Ông D., một giáo dân, làm chứng: “Con không mắt thấy tai nghe sự kiện Cha Diệp bị bắt nhốt, vì con sống ở trong Chủ Chí… Nhưng con có người bạn là ông B. … Sau này, tối ngày ông ấy lại nhà con chơi và ông ấy kể chuyện này chuyện kia cho con nghe… Ổng kể rằng: ‘Bọn lính bắt Cha Diệp đến một cái ao cạn của nhà bên cạnh. Họ kêu cha quỳ xuống, rồi rút gươm ra chém cha từ sau về phía trước. Hai thằng lính người Nhật là người chém Cha Diệp. Thằng tên là N., thằng kia tên là Th.. Có ba thằng Nhật, Thằng Nhật T. thì ở nhà’. Sau khi Cha Diệp bị giết, khoảng mấy bữa thì con biết tin liền, vì những người ở Tắc Sậy ra vào đây nói cho biết”.

Lời khai gián tiếp này được đánh giá là đáng tin cậy, vì người kể chuyện không đặt mình vào vị trí thuận lợi; ngược lại, suốt quãng đời, anh ta vẫn xấu hổ vì đã là một kẻ cộng tác về mặt chất thể trong vụ hành quyết một con người vô tội. Lời khai của ông G., người đã đi tìm và kiểm tra thi thể của Cha Diệp, đã chứng thực sự việc: “Họ chém Cha Diệp hai nhát: nhát đầu, nhưng bị run tay hay sao đó, mà nhát chém bị lạng sớt sau ót. Rồi họ chém nhát thứ hai mới đứt cái đầu. Sau đó họ đạp xác Cha Diệp xuống cái giếng lạng”.

Ông S., một thành viên của gia đình Phật tử, là chủ đất nơi vụ hành quyết được thực hiện, làm chứng rộng hơn, và đề cập đến một số động cơ của những kẻ hành quyết: “Trong nhóm này có hai thằng Nhật tàn quân bị Tây đuổi… Họ lấy những cái tên Việt Nam… Hai thằng Nhật này là người giết Cha Diệp. Vì cái cách chết của Cha Diệp cho thấy điều đó. Cha bị chém chết từ phía ót sau ra phía trước còn dính da ở trán là cách chém của Nhật. Anh tôi về thăm nhà thấy những cây cau trong vườn bị chặt ngang ngọt sớt bởi kiếm của Nhật. Dao kiếm bình thường không chặt ngọt sớt được như vậy… Tại sao hai thằng Nhật này giết Cha Diệp? Hai thằng này thù Tây, vì Nhật bị thua Tây. Tụi nó coi Cha Diệp theo Đạo của Tây, theo Tây. Tụi nó ghét Tây nên nó giết Cha để trả thù Tây”.

Bà con lương giáo cầu nguyện nơi mộ phần của Cha Phanxicô Xavier Trương Bửu Diệp

4.2. Động cơ

(a) Sau khi sự thật được xác nhận, những cáo buộc đằng sau cái chết của Cha Diệp đã được rõ ràng:

Cuộc điều tra của Giáo phận đi đến kết luận chắc chắn rằng cái chết của Cha Phanxicô Xavier Trương Bửu Diệp không liên quan đến “Việt Minh” hay “Đảng Cộng sản Đông dương” và Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Trên thực tế, “Đảng Cộng sản Đông dương” đã ra “Thông cáo tự ý giải tán” vào ngày 11 tháng 11 năm 1945 (Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 8 (1945-1947), NXB Chính trị quốc gia, hà Nội 2000, trang 19-20).

Còn Mặt trận Việt Minh lúc bấy giờ đặt nhiệm vụ trọng tâm là tìm được sự ủng hộ từ tất cả người Việt Nam, bất kể tín ngưỡng tôn giáo (Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 8 (1945-1047), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2000, số 9, trang 29).

Cuộc điều tra cũng chỉ ra rằng: các chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong giai đoạn đầu của nền độc lập nước nhà luôn nhằm mục tiêu thúc đẩy hòa bình và bảo vệ mạng sống. Dưới đây là đoạn trích trong “Thư gửi Đồng Bào Nam Bộ, chiến sĩ ở tiền tuyến, và uỷ ban hành chính Nam Bộ”, đăng trong Báo Cứu quốc, số 182, ngày 10 tháng 3 năm 1946, trước ngày Cha Phanxicô Xavier Diệp bị sát hại: “…Trong thời kỳ đình chiến này, sự chuẩn bị, sự củng cố lực lượng, sự tôn trọng kỷ luật là cần thiết hơn lúc nào hết. Và rồi đây, sau khi hòa bình đã thoả hiệp được, thì tinh thần phấn đấu của anh em vẫn là những lực lượng quý báu để đảm bảo cho nền độc lập hoàn toàn của nước nhà sau này. Chúng ta cần phải giữ gìn từng giọt máu của đồng bào để xây đắp tương lai của Tổ quốc. Sự kiến thiết, sự tranh đấu chưa kết thúc, tinh thần hăng hái của đồng bào sẽ không bao giờ phải e là không có cơ hội hành động nữa. Trong giai đoạn mới của lịch sử nước nhà hiện nay, tinh thần đoàn kết của anh em sẽ đưa lại những kết quả tốt đẹp hơn nữa”. (xem: Hồ Chí Minh toàn tập, Quyển 4 (1945-1946), NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội 2011, trang 228-229).

(b) Thái độ của Cha Diệp đối với Việt Minh như thế nào?

Tình hình xã hội thời bấy giờ khá phức tạp như lời người con trong gia đình Phật tử ở vùng lân cận Tắc Sậy, là chủ mảnh đất mà Cha Diệp bị giam giữ và bị giết vào ngày 12 tháng 3 năm 1946, đã kể lại như sau: “Tình hình chính trị và xã hội ở vùng Tắc Sậy và Cây Gừa này vào những năm 1945-1946 rất loạn lạc, giặc giã… Gia đình tôi phải tản cư đi chỗ khác để nhà trống và hai lẫm lúa trống không người coi sóc. Thỉnh thoảng về thăm coi chút xíu. Vì thế, những người ta bắt và nhốt Cha Diệp và bà con ở Tắc Sậy trong hai lẫm lúa của ba tôi”.

Cũng như các giám mục và linh mục Công giáo Việt Nam thời bấy giờ, Cha Phanxicô Xavier Trương Bửu Diệp ủng hộ một quốc gia Việt Nam độc lập khỏi mọi cường quốc nước ngoài. Tuy nhiên, lập trường của ngài là ủng hộ một cuộc cách mạng hòa bình, không phải chiến tranh hay bạo lực. Điều này thể hiện rất rõ nét qua thái độ của Cha Diệp đối với Việt Minh. Ngài không hề có ác cảm với họ, nhưng không muốn tham gia vào các hoạt động quân sự. Và ngài đối xử với những người lính bình thường của họ rất thân thiện và ấm áp như với tất cả những người trẻ tuổi khác.

Những người lính Việt Minh ở gần Tắc Sậy không ngần ngại đến thăm Cha Diệp một cách thoải mái, thậm chí khá là thân thiện, như lời Bà L., một giáo dân, làm chứng: “Con không thấy Cha Diệp làm chính trị hay quân sự. Nhưng con biết Cha Diệp có quan hệ giao tiếp tốt với hết mọi người: người Pháp, người Nhật, người Cao Đài; người Việt Minh… đến thăm cha cũng tiếp chuyện bình thường”.

Cô M., con gái của một giáo dân sống gần Cha Diệp kể về thái độ như một người cha của Cha Diệp đối với những người lính trẻ Việt Minh: “Con không thấy có đồn bót, lính bộ đội Việt minh hay lính Pháp ở nhà thờ Tắc Sậy. Sau này con nghe ba con nói lại là vài bộ đội Việt Minh đến gặp Bác Diệp để xin bánh tét. Bác nhờ giáo dân gói bánh tét đem cho họ”.

(c) Cha Diệp có thông đồng với quân đội Pháp không?

Câu trả lời cho câu hỏi này một lần nữa là: “Không!”. Một số lời khai có tuyên thệ cho phép cuộc điều tra kết luận rằng Cha Diệp không hề thông đồng với quân đội Pháp.

Bà A., sau khi tuyên thệ đã làm chứng: “Con không thấy Cha Diệp có lính ở nhà thờ và cũng không có liên hệ nhiều với người Tây”.

Ông G., một giáo dân khác, có câu trả lời chi tiết hơn về mối quan hệ của Cha Diệp với các nhóm vũ trang ở vùng đất bên kia sông Hậu: “Sau khi Nhật Bổn thất trận rồi, nó mới trao quyền lại cho người Pháp. Lúc đó lính Pháp đã trở lại đóng đồn ở Hộ Phòng, cách Tắc Sậy khoảng 2km. Theo con hiểu, người Pháp tôn trọng đạo Thiên Chúa. Khi Tây đi ruồng, người lương giáo đều tụ về nhà thờ. Lúc đó Cha Diệp ra đứng trước nhà thờ. Tây và ‘Thổ’ [Khmer] thấy cha thì bỏ đi luôn… Cha chỉ chăm sóc con chiên mà thôi. Cha không có lính tráng để giữ nhà thờ. Với quân đội Pháp và lính đánh thuê của họ, mối quan hệ rất căng thẳng, nhưng bằng nhân cách của mình, Cha Diệp đã buộc họ phải tôn trọng thường dân”.

Bà H. giải thích thêm: “Vào thời đó, ở Tắc Sậy loạn lạc, bất an. Lính Tây và lính Thổ ở Hộ Phòng thỉnh thoảng đi ruồng ở Tắc Sậy. Họ đến bắt đàn bà con nít, nên Cha thường kêu mọi người đến nhà thờ tập trung để cha mặc áo dòng đứng bảo vệ. Nhiều người phải bỏ xứ Tắc Sậy tản cư đi các nơi khác”.

Bà Nh., một giáo dân khác, giải thích cách Cha Diệp kiên quyết từ chối bất kỳ sự bảo vệ nào của Pháp: “Ông Cố Diệp không làm chính trị, quân sự gì hết. Ông cố chỉ lo làm việc của Linh mục. Thỉnh thoảng có ông Tây bà Đầm đến nhà thờ Tắc Sậy đi lễ Giáng Sinh, chứ không đến thăm cha… Vì các ‘ông biện Họ’ biết vụ việc tranh chấp đất đai với nhà thờ khiến người ta thù ghét, nên mới khuyên ngài đi lánh nạn một thời gian. Nhưng Ông Cố không chịu. Ông Cố nói: ‘Chết sống ở giữa họ đạo. Ai muốn giết ông Cố thì giết!’. Nhưng con biết các ông biện có đem cha đi lánh nạn ban đêm ở bên kia sông. Nhiều lần họ muốn bắt Cha Diệp ban đêm nhưng không gặp cha. Vì thế, họ tính chuyện bắt Cha Diệp ban ngày”.

Cuối cùng, một nhân chứng làm chứng rằng Cha Diệp đã bác bỏ những đề nghị thực tế mà người Pháp đưa ra: “Con hồi đó con còn nhỏ. Nhưng con nghe người lớn ở Tắc Sậy kể lại rằng thằng Pháp lại nói với cha rằng cho giáo dân đi lính cho nó, thì nó cho súng giữ nhà thờ. Nhưng cha không chịu. Cha nói: ‘Không. Linh mục thì cần gì súng ống. Linh mục chăm sóc bầy chiên và sống với bầy chiên theo chân Chúa, chứ không theo phe phái chính trị nào’”.

(d) Âm mưu giết người

Câu hỏi sau đây nên đặt ra: Tại sao Cha Phanxicô Xavier Trương Bửu Diệp là một linh mục nghèo, khiêm tốn, trong một họ đạo tầm thường mà lại bị sát hại? Ai sẽ được lợi khi giết Cha Diệp?

Tranh chấp thực sự mà Cha Diệp có liên quan là với một số ít địa chủ. Trong cuộc tranh chấp này, Cha Diệp đã kiên quyết bảo vệ quyền lợi của những người nghèo, những người thấp kém trong xã hội cần có đất đai để sinh sống. Cũng vậy, Cha bảo vệ quyền lợi của Giáo hội, mà cụ thể là giáo xứ, trong việc quản lý đất đai mà giáo xứ sở hữu để giúp đỡ những gia đình khó khăn, phần đông là những người chạy nạn đói. Một số địa chủ không chấp nhận điều đó, và tuyên bố tất cả đất khai hoang trong khu vực là lợi ích riêng của họ. Nhiều nhân chứng, chủ yếu là giáo dân, cho biết rõ danh tính và cách thức thâu tóm đất đai của những kẻ tham vọng đó. Ví dụ:

Bà L. cho biết: “Con biết một ông điền chủ tên gọi là Ông chủ Z. có tranh chấp đất đai với Cha Diệp. Ông Chủ Z. lấn ranh đất Nhà Chung. Cha Diệp phải đưa ra tòa và cha thắng kiện”.

Ông Q. kể rằng: “Con nghe nói vì lý do tranh chấp đất đai ở Đồng Gò. Ông Chủ Z. tranh chấp đất với Cha Diệp, nhưng ông ấy thua kiện. Ông phe phái với các chủ đất khác, tìm cách bắt Cha Diệp. Ông chủ Z. là người chủ mưu”.

Bà A. có nhắc đến tên một địa chủ khác được đào tạo ở Pháp. Người này có thể đã trở thành một trong những đồng phạm của ông Z.: “Mọi người yêu mến Cha, ngoại trừ ông Ba Y. Một lần con đã nghe ông ta tranh luận với Cha Diệp và gọi ‘mày’ và ‘tao’ với Cha”.

Bà Nh. làm chứng rằng: “Còn thêm một cái nhà thờ ở vùng biển nữa gọi là nhà thờ An Hải. Ông chủ Z. được chính quyền người Pháp cho ông ta khai khẩn đất đai và hóa đất mấy ngàn công ở vùng biển. Cha Diệp xin chính quyền Pháp đất để xây nhà thờ. Chính quyền Pháp đồng ý. Họ lấy lại một số đất của ông Chủ Z. và cho Cha Diệp để xây nhà thờ và cho giáo dân nghèo làm ruộng sinh sống. Cha Diệp đã xây nhà thờ An Hải và đem dân xuống dưới đó sinh sống. Hồi đó, con có xuống nhà thờ An Hải hát lễ. Từ đó, ông chủ Z. sinh ra thù ghét Cha Diệp vì ông bị mất quyền lợi. Con nghe mấy ông Biện nói chuyện với nhau về ông chủ Z. như vậy”.

Nhân chứng cuối cùng khẳng định chắc chắn sự tồn tại của một âm mưu giết Cha Phanxicô Xavier Trương Bửu Diệp. Cô N. khai: “Con nghe dư luận cho rằng, hồi đó có ông chủ Z. tranh chấp đất đai ở biển Gành Hào với Cha Diệp. Ông chủ Z. là người giầu có. Cha con nói lại rằng Cha Diệp có giấy tờ đất đai, còn ông chủ Z. không có giấy nên ông ta thua kiện. Do đó, mấy năm sau, khi Cha Diệp mời ông Chủ Z. đi dự lễ Noel, ông không còn đi lễ nữa. Sau này, ông mướn người ta giết Cha Diệp”.



5. Ý nghĩa của cuộc đời và cái chết của Cha Phanxicô Xavier Trương Bửu Diệp

Từ nhiều năm nay, rất nhiều người, thuộc mọi tầng lớp xã hội và hoàn cảnh khác nhau, từ khắp nơi trên đất nước và cả từ nước ngoài, thuộc nhiều tôn giáo - tín ngưỡng - niềm tin khác nhau… đổ về mộ phần của Cha Phanxicô Xavier Trương Bửu Diệp tại Tắc Sậy, thuộc Giáo phận Cần Thơ. Và rất nhiều người, lương cũng như giáo, khi đến với Cha Diệp đã nhận được nhiều ơn lành qua sự cầu bầu của ngài. Bằng chứng hùng hồn nhất về lời cầu bầu của ngài là rất nhiều lời tạ ơn được dâng lên cho ngài qua những bảng tạ ơn nơi trung tâm hành hương Tắc Sậy. Nhiều người đến với ngài và qua lời bầu cử của ngài, họ đã đến gần với Thiên Chúa, Đấng mà ngài đã suốt đời tôn thờ và tận tâm phục vụ.

Giáo phận Cần Thơ đã nỗ lực chào đón mọi người như cách thức mà Cha Diệp đã chào đón những người gặp khó khăn. Các linh mục được Giám mục yêu cầu hướng dẫn và hỗ trợ tinh thần và vật chất cho khách hành hương. Và sau khi đã ghi nhận, tìm hiểu và chứng thực về ý nghĩa của lòng mộ mến Cha Phanxicô Xavier Trương Bửu Diệp của đông đảo dân chúng, và cứu xét cách thận trọng và khôn ngoan dưới sự soi sáng của Chúa Thánh Thần, sao cho phù hợp với đức tin Công Giáo và quy tắc sống Đạo, Giáo phận Cần Thơ đã thỉnh cầu Đức Giáo Hoàng xem xét và phê chuẩn về cuộc điều tra mà Giáo phận đã tiến hành từ năm 2011 đến nay.

Đức Giáo hoàng Phanxicô đã trả lời cho thỉnh cầu của Giáo phận Cần Thơ vào ngày 25 tháng 11 năm 2024, khi ngài tuyên bố rằng: “Cha Trương Bửu Diệp đã bị giết vì lòng thù ghét đức tin vào ngày 12 tháng 3 năm 1946” và truyền công bố sự thật ấy cho tất cả mọi thành phần trong Giáo hội Công Giáo và cho tất cả những người thành tâm thiện chí.

5.1. Lời tuyên bố đó có ý nghĩa gì?

Trong suốt cuộc đời mình, Cha Phanxicô Xavier Trương Bửu Diệp đã trở nên tất cả cho mọi người để phục vụ mọi người, và dành tình cảm đặc biệt cho những người dễ bị tổn thương nhất: trẻ em, người già, người bệnh và người nghèo.

- Đối mặt với sự lạm dụng của các băng nhóm vũ trang, Cha đã bảo vệ những người yếu thế nhất: phụ nữ, thiếu nữ, và trẻ em.

- Đối với những anh chị em bất hạnh, đặc biệt những nạn nhân của nạn đói năm 1945, Cha đã khôn ngoan tổ chức các hoạt động cứu trợ hiệu quả.

- Đối với việc quản lý đất đai tập thể, Cha đã ra sức bảo vệ không vì lợi ích cá nhân, mà là để bảo vệ quyền lợi của người nghèo.

- Đối với việc mục vụ của một mục tử giữa đoàn chiên, Cha đã sống và chết vì niềm tin, Cha không phân biệt đối xử, trái lại, luôn chạnh lòng thương xót mọi người, cho dù họ thuộc tầng lớp xã hội nào, có quan điểm chính trị ra sao, hoặc thuộc về tín ngưỡng nào…

- Là một người yêu chuộng hòa bình và là bạn của mọi người, Cha không khinh miệt hay thù ghét ai, và luôn từ chối tham gia vào các hành động vũ trang chống lại đồng bào của mình, dù thuộc phe phái nào, thậm chí còn từ chối vũ khí để tự vệ.

- Cha đã chết vì những lý tưởng trên đây, và mọi người biết đến Cha đều yêu mến, cho dù họ thuộc tôn giáo hay chính kiến khác nhau.

- Tuy nhiên, Cha đã trở thành nạn nhân của một số ít kẻ muốn chiếm đoạt tài sản của người nghèo.

5.2. Thật sự, Cha Phanxicô Xavier Trương Bửu Diệp đã chết vì đức tin và để bảo vệ quyền lợi của người nghèo

Người Công giáo giờ đây gọi Cha Phanxicô Xavier Trương Bửu Diệp là “Vị Tử đạo” vì Cha đã hy sinh mạng sống của mình cho những người được giao phó cho Cha, để bảo vệ đức tin Kitô giáo, và các đức tính yêu thương, công bằng và hòa bình - là những điều không thể tách rời khỏi đức tin Kitô giáo.

Người Công giáo muốn tôn phong Cha Phanxicô Xavier Trương Bửu Diệp là “Chân phước Tử đạo” vì Cha đã thể hiện thật rõ nét qua cuộc sống và cái chết của mình các Mối Phúc thật trong Phúc Âm: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó… Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói… Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải khóc… Phúc cho anh em khi vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xóa tên như đồ xấu xa…” (Lc 6, 20-22)

Nhà khấn Cha Phanxicô Xavier Trương Bửu Diệp tại giáo xứ Cồn Phước, Chợ Mới

 

Tải file PDF tài liệu về tại đây!

 

(Nguồn: WHĐ)

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/linh-muc-phanxico-xavier-truong-buu-diep-1897-1946---cuoc-doi-nhan-cach-su-nghiep-cai-chet-va-y-nghia-cho-ngay-nay

 

***

 

11. Sứ điệp của Đức Thánh cha Lêô XIV gửi tham dự viên Hội nghị Quốc tế của Hàn lâm viện Tòa thánh về Sự sống năm 2025

SỨ ĐIỆP CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG LÊÔ XIV

GỬI CÁC THAM DỰ VIÊN HỘI NGHỊ QUỐC TẾ CỦA HÀN LÂM VIỆN TÒA THÁNH

VỀ SỰ SỐNG “TRÍ TUỆ NHÂN TẠO VÀ Y HỌC:

THÁCH ĐỐ CỦA PHẨM GIÁ CON NGƯỜI”

[Trụ sở trung ương Dòng Tên, 10–12 tháng 11 năm 2025]

Tôi gửi lời nguyện chúc tốt đẹp đến tất cả quý tham dự viên Hội nghị Quốc tế với chủ đề: “Trí tuệ Nhân tạo và Y học: Thách đố của Phẩm giá con người” (AI and Medicine: The Challenge of Human Dignity). Đặc biệt, tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn và trân trọng đối với chủ đề mà quý vị đã chọn để cùng suy tư. Cuộc cách mạng kỹ thuật số đang giữ một vai trò trung tâm trong việc định hình điều mà Đức Phanxicô gọi là một “sự thay đổi mang tính thời đại”. Chúng ta hiện đang chứng kiến một thời kỳ của tiến bộ công nghệ mới, vốn, ở một số khía cạnh, có thể so sánh với cuộc Cách mạng Công nghiệp, nhưng lại bao trùm và lan rộng hơn. Sự tiến bộ công nghệ này ảnh hưởng mạnh mẽ đến cách chúng ta suy nghĩ, làm thay đổi cách chúng ta hiểu các hoàn cảnh và cách chúng ta cảm nhận về chính mình cũng như về người khác. Ngày nay, chúng ta tương tác với máy móc như thể chúng là những đối thoại viên, và vì thế, chúng ta gần như trở thành phần mở rộng của chúng. Theo nghĩa này, chúng ta không chỉ có nguy cơ đánh mất sự hiện diện của những khuôn mặt chung quanh mình, mà còn quên đi cách nhận ra và trân quý tất cả những gì thật sự làm nên nhân tính.

Không có gì phải nghi ngờ rằng sự phát triển công nghệ đã và vẫn đang mang lại nhiều lợi ích đáng kể cho nhân loại, đặc biệt trong các lĩnh vực y khoa và chăm sóc sức khoẻ. Tuy nhiên, để bảo đảm một sự tiến bộ đích thực, điều thiết yếu là phẩm giá con người và công ích phải luôn là những ưu tiên vững chắc cho tất cả mọi người, cả ở bình diện cá nhân lẫn cộng đồng. Thật dễ dàng nhận ra tiềm năng hủy diệt của công nghệ và và thậm chí của cả nghiên cứu y học, khi chúng bị đặt phục vụ cho các ý thức hệ phi nhân bản. Theo nghĩa này, những biến cố lịch sử luôn là một lời cảnh tỉnh: những công cụ mà chúng ta có trong tay ngày nay còn mạnh mẽ hơn nữa và có thể gây ra những tác động tàn phá lớn hơn đối với đời sống của các cá nhân và các dân tộc. Tuy nhiên, nếu được định hình và thực sự đặt vào việc phục vụ con người, những công cụ ấy cũng có thể mang lại những hiệu quả mang tính biến chuyển và ích lợi.

Từ góc nhìn này, tôi đánh giá cao sự tận tâm của quý vị trong việc khám phá tiềm năng của trí tuệ nhân tạo (AI) trong y học. Sự mong manh của thân phận con người thường bộc lộ rõ rệt trong lĩnh vực y khoa, nhưng chúng ta không bao giờ được quên “phẩm giá hữu thể vốn thuộc về con người đơn giản vì con người hiện hữu và được Thiên Chúa muốn, tạo dựng và yêu thương” (Tuyên ngôn Dignitas Infinita, số 7). Chính vì lý do này, “các chuyên gia chăm sóc sức khỏe có ơn gọi và trách nhiệm trở thành những người bảo vệ và phục vụ sự sống con người”, đặc biệt trong những giai đoạn mong manh nhất của sự sống (Note Antiqua et Nova, số 71). Điều đó cũng đúng đối với những ai chịu trách nhiệm trong việc sử dụng AI trong lĩnh vực này. Thật vậy, sự mong manh của sự sống càng lớn, thì phẩm chất cao quý đòi hỏi nơi những người được trao phó trách nhiệm chăm sóc càng phải lớn hơn.

Mục tiêu chăm sóc con người nhấn mạnh tính không thể thay thế của các tương quan nhân bản trong bối cảnh này. Tính chuyên nghiệp trong y khoa đòi hỏi không chỉ kiến thức chuyên môn cần thiết, nhưng còn cả khả năng giao tiếp và hiện diện gần gũi với người khác. Y khoa không bao giờ có thể bị giản lược thành việc giải quyết một vấn đề. Cũng thế, các thiết bị công nghệ không bao giờ được phép làm suy giảm mối tương quan cá vị giữa bệnh nhân và nhân viên y tế. Thật vậy, nếu AI là để phục vụ phẩm giá con người và hiệu quả trong chăm sóc sức khỏe, chúng ta phải bảo đảm rằng AI thực sự nâng cao các tương quan liên vị cũng như chất lượng chăm sóc.

Xét đến những lợi ích kinh tế to lớn thường gắn liền với các lĩnh vực y học và công nghệ, cùng với cuộc tranh giành quyền kiểm soát kéo theo, điều thiết yếu là phải cổ võ một sự hợp tác rộng rãi giữa tất cả những ai làm việc trong trong lĩnh vực y tế và chính trị, vượt xa khỏi biên giới quốc gia. Vì lý do này, tôi rất vui khi biết rằng Hội nghị lần này có sự hiện diện của các diễn giả đến từ nhiều châu lục và nhiều bối cảnh khác nhau.

Với những tâm tình ấy, xin quý vị, những người bạn thân mến, biết rằng tôi luôn cầu nguyện để Hội nghị này mang lại nhiều hoa trái phong phú cho quý vị, cho các đồng nghiệp của quý vị, và cho biết bao người sẽ được hưởng lợi từ sự tận tâm và cống hiến quảng đại của quý vị. Tôi xin cảm ơn tất cả, và khẩn xin Thiên Chúa toàn năng tuôn đổ phúc lành trên quý vị và gia đình.

Nt. Anna Ngọc Diệp, OP

Dòng Đa Minh Thánh Tâm

Chuyển ngữ từ: vatican.va

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/su-diep-cua-duc-thanh-cha-leo-xiv-gui-tham-du-vien-hoi-nghi-quoc-te-cua-han-lam-vien-toa-thanh-ve-su-song-nam-2025

 

***

12. Sử dụng truyền thông với tư cách môn đệ thừa sai - Huấn từ của Đức Tổng Giám mục Giuse Nguyễn Năng

Trong bối cảnh Năm Thánh Hy Vọng, Đức Tổng mời gọi những người làm truyền thông ý thức: mình không chỉ là “người đưa tin”, mà là môn đệ thừa sai giữa “lục địa thứ sáu” – Internet. Mỗi nút like, mỗi bình luận, mỗi bài viết hay video đều có thể đưa người ta gần Chúa hơn, hoặc xa Chúa hơn.

Dựa trên Thư chung HĐGMVN và gương Thánh Carlo Acutis, Đức Tổng nhấn mạnh ba điểm chính:

1) Công bố Sự Thật, trước hết là về Chúa Giêsu, với nguồn tin chính thống và trung thực, không cắt xén, không bóp méo.

2)  Dẫn người ta đến với Chúa, không chạy theo view, like, tiền bạc hay danh tiếng.

3)  Xây dựng hiệp thông và bác ái trong Giáo Hội, tránh biến mạng xã hội thành “tòa án”, không công kích, lên án hay gây chia rẽ.

Ngài cũng nhắc đến việc sử dụng AI như một phương tiện, đòi hỏi nơi chúng ta sự khôn ngoan và phân định, để công nghệ phục vụ Tin Mừng và ích chung, chứ không phục vụ cái tôi hay làm tổn thương người khác.

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/su-dung-truyen-thong-voi-tu-cach-mon-de-thua-sai---huan-tu-cua-duc-tong-giam-muc-giuse-nguyen-nang

 

***

13. Diễn văn Đức Lêô XIV dành cho Tham dự viên Hội nghị Phẩm giá của Trẻ em và thanh thiếu niên trong Kỷ nguyên trí tuệ nhân tạo

Hội nghị diễn ra ngày 12/11/2025, do Quỹ Nghiên cứu và Học tập về Trẻ em và Thanh thiếu niên phối hợp cùng Telefono Azzurro tổ chức. Sự kiện quy tụ các chuyên gia uy tín từ giới học thuật, khoa học, công nghệ và các tổ chức quốc tế để thảo luận về những hệ quả đạo đức, pháp lý, xã hội và nhân học của AI đối với trẻ em và thanh thiếu niên.

Tiếp nối hành trình của Child Dignity Alliance - từ Tuyên bố Rôma (2017), Abu Dhabi (2018) đến Rome AI 2025 - Hội nghị năm nay nhằm đẩy mạnh đối thoại liên ngành và liên văn hóa, hướng tới một tầm nhìn nhân bản kỹ thuật số đặt nền tảng trên sự tôn trọng, cảm thông và trách nhiệm.

Sau đây là toàn văn Việt ngữ bài diễn văn của Đức Thánh Cha:

DIỄN VĂN ĐỨC GIÁO HOÀNG LÊÔ XIV

DÀNH CHO THAM DỰ VIÊN HỘI NGHỊ “PHẨM GIÁ CỦA TRẺ EM VÀ THANH THIẾU NIÊN TRONG KỶ NGUYÊN TRÍ TUỆ NHÂN TẠO”

Hội trường Clementine

Thứ Năm, ngày 13 tháng 11 năm 2025

[Đa phương tiền]

Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần.

Bình an ở cùng anh chị em!

Xin chào tất cả mọi người, và chào mừng quý vị!

Tôi gửi lời chào đến tất cả anh chị em đang tham dự cuộc gặp gỡ này về phẩm giá của trẻ em và thanh thiếu niên trong kỷ nguyên trí tuệ nhân tạo. Tôi biết ơn sự hiện diện và những đóng góp quý báu của quý vị.

Trí tuệ nhân tạo đang làm biến đổi nhiều khía cạnh của đời sống hằng ngày, bao gồm giáo dục, giải trí và sự an toàn của trẻ vị thành niên. Việc sử dụng công nghệ này đặt ra những vấn nạn đạo đức quan trọng, đặc biệt liên quan đến việc bảo vệ phẩm giá và sự an sinh của các em.

Trẻ em và thanh thiếu niên đặc biệt dễ bị tổn thương trước những hình thức thao túng thông qua các thuật toán AI, vốn có thể ảnh hưởng đến quyết định và sở thích của các em. Điều thiết yếu là bậc cha mẹ và các nhà giáo dục phải nhận thức được những cơ chế này, đồng thời cần có những công cụ được phát triển để giám sát và hướng dẫn sự tương tác của người trẻ với công nghệ.

Các chính phủ và các tổ chức quốc tế có trách nhiệm xây dựng và triển khai các chính sách nhằm bảo vệ phẩm giá của trẻ vị thành niên trong kỷ nguyên AI. Điều này bao gồm việc cập nhật các luật bảo vệ dữ liệu hiện có để đáp ứng những thách đố mới phát sinh từ các công nghệ mới nổi, và thúc đẩy các chuẩn mực đạo đức trong việc phát triển và sử dụng AI.

Tuy nhiên, việc bảo vệ phẩm giá trẻ vị thành niên không thể chỉ thu gọn vào các chính sách; điều đó còn đòi hỏi một sự giáo dục về kỹ thuật số. Như vị tiền nhiệm của tôi đã từng lưu ý khi đề cập đến một dự án bảo vệ trẻ em được ba hiệp hội Công giáo lớn tại Ý khởi xướng, người lớn cần tái khám phá ơn gọi trở thành “những nghệ nhân của giáo dục” và nỗ lực trung thành với ơn gọi ấy (x. Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Sứ điệp gửi Tham dự viên Hội nghị “Promoting Child Safeguarding in the Time of COVID-19 and Beyond”, 4/11/2021).

Chắc chắn rằng việc soạn thảo và áp dụng các hướng dẫn đạo đức là quan trọng, nhưng như thế vẫn chưa đủ. Cần phải có những nỗ lực giáo dục thường xuyên và liên tục, được thực hiện bởi những người lớn đã được đào tạo và được nâng đỡ bởi các mạng lưới cộng tác. Quá trình này gồm việc hiểu rõ các rủi ro mà việc sử dụng AI và sự tiếp cận kỹ thuật số quá sớm, không giới hạn và không được giám sát có thể gây ra đối với các mối tương quan và sự phát triển của người trẻ. Chỉ bằng cách tích cực tham gia vào việc nhận diện những rủi ro ấy và các hệ quả của chúng đối với đời sống cá nhân và xã hội, chúng ta mới có thể nâng đỡ trẻ vị thành niên trong việc tiếp cận thế giới kỹ thuật số như một phương tiện củng cố khả năng đưa ra những chọn lựa có trách nhiệm đối với bản thân và đối với người khác.

Điều này tự thân đã là một thực hành thiết yếu trong việc bảo vệ tính độc đáo và mối liên kết của con người, vốn là những điều luôn cần được hướng dẫn bởi sự tôn trọng phẩm giá con người như một giá trị nền tảng. Chỉ khi áp dụng một cách tiếp cận mang tính giáo dục, đạo đức và trách nhiệm, chúng ta mới có thể bảo đảm rằng trí tuệ nhân tạo phục vụ như một đồng minh chứ không phải một mối đe dọa, trong hành trình lớn lên và phát triển của trẻ em và thanh thiếu niên.

Các bạn thân mến, tôi cầu chúc quý vị có một hội nghị phong phú, có thể góp phần đặt nền móng vững chắc cho việc chúng ta tiếp tục phục vụ trẻ em, người trẻ, cũng như toàn thể cộng đồng Giáo hội và xã hội. Tôi khẩn cầu phúc lành của Chúa trên quý vị và trên công việc của quý vị.

Nt. Anna Ngọc Diệp, OP

Dòng Đa Minh Thánh Tâm

Chuyển ngữ từ: vatican.va

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/dien-van-duc-leo-xiv-danh-cho-tham-du-vien-hoi-nghi-pham-gia-cua-tre-em-va-thanh-thieu-nien-trong-ky-nguyen-tri-tue-nhan-tao

 

***

 

14.  Thông điệp Deus Caritas Est: Những viễn tượng cho thần học bác ái

Hằng năm Giáo hội dành thời gian của tháng 11 để cầu nguyện đặc biệt cho các anh chị em tín hữu đã qua đời. Các Kitô hữu được khuyến khích thực thành hành việc đạo đức: viếng nhà thờ và nghĩa trang, cầu nguyện theo ý Đức Giáo hoàng, xưng tội, rước lễ, dâng những hy sinh và thi hành bác ái, v.v.. để lãnh ơn toàn xá và nhường cho các linh hồn đang chịu thanh luyện. Nhân tháng hồng ân này, mời quý độc giả suy tư về bác ái Kitô giáo theo Đức Bênêđíctô XVI trong Thông điệp Deus caritas est, cùng với tác giả Rainer Gehrig qua bài “THÔNG ĐIỆP DEUS CARITAS EST : NHỮNG VIỄN TƯỢNG CHO THẦN HỌC BÁC ÁI”, trong Thời sự Thần học, số 92, tháng 05/2021, tr. 87-116.

Tác giả bài viết, Rainer Gehrig là giáo sư đại học San Antonio ở Murcia (Tây Ban Nha). Đây là bài thuyết trình tại cuộc hội thảo kỷ niệm 10 năm ban hành thông điệp Deus caritas est do Hội đồng Tòa Thánh “Cor unum” tổ chức tại Vatican vào các ngày 25-26/02/2006. Bài viết trình bày “thần học bác ái” như một ngành chuyên biệt của thần học, kết nạp những suy tư thần học về Tình yêu với những dữ kiện của khoa học nhân văn liên quan đến việc tổ chức công cuộc bác ái.

Nguồn: “The Encyclical Deus Caritas Est: Perspectives for a Theology of Charity”, in: Acts of The International Congress Love Never Fails Perspectives 10 years after the Encyclical Deus Caritas Est, Pontifical Council Cor Unum, Vatican City 2006, trang 105-121. 

Viết tắt: DCE = Thông điệp Deus caritas est. CIV = Thông điệp Caritas in veritate

Dẫn nhập

1. Thời nay, thần học bác ái được hiểu như thế nào?

1.1. Các hướng tiến của một ngành học đang phát triển

1.2. Những khó khăn hiện nay chung quanh chủ đề bác ái

1.3. “Cô bé lọ lem hay Người đẹp ngủ trong rừng” – sự vắng bóng của thần học bác ái trong lĩnh vực suy tư, nghiên cứu và giảng dạy

1.4. Tính cách đa nguyên khi bàn về các nền tảng thần học của hoạt động bác ái hay sự phục vụ (diakonia)

2. Nền tảng thần học của tình yêu: đánh giá lại “Tình yêu” để suy tư thần học và thực tiễn về diakonia

2.1. Tình yêu: Viễn tượng thông diễn khái niệm về thần học bác ái (DCE 3-11)

2.2. Hoạt động bác ái bắt nguồn từ Chúa Kitô

2.3. Chân tướng hoạt động bác ái của Hội thánh (DCE 31ff)

3. Phải sống tình yêu như thế nào?

3.1. Viễn tượng lịch sử của thần học bác ái (DCE 20-26)

3.2. Viễn tượng lòng trắc ẩn của hoạt động bác ái dựa trên sự hợp nhất của tình yêu (Eros + Agape)

3.3. Đào luyện con tim – Viễn tượng chứng tá của bác ái (DCE 31; 36tt)

3.4. Viễn tượng đối thoại đại kết về thần học bác ái

4. Thần học bác ái như một khoa thần học chuyên biệt

Dẫn nhập

Cách đây mười năm, tôi đã có mặt tại đây, trong số những người tham dự Hội nghị Quốc tế về Bác ái (tháng Giêng năm 2006), trong tâm trạng háo hức chờ đợi thông điệp đầu tiên của Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI, đặc biệt là một thông điệp về bác ái. Những ai dõi theo chủ đề này sẽ thấy rằng, thông điệp đã nhìn nhận và vạch ra hướng đi cần thiết, bởi vì lĩnh vực thần học phục vụ bác ái vẫn còn thiếu phần suy tư về phía Huấn quyền Giáo hoàng (Pompey, 2007, tr.20). Trong buổi tiếp kiến ngay trước khi ban hành thông điệp, Đức Thánh Cha đã dành cho chúng tôi bài giới thiệu và hướng dẫn để hiểu được văn kiện của ngài: “Trong Thông điệp này, các chủ đề ‘Thiên Chúa’, ‘Đức Kitô’ và ‘Tình yêu’ được nối kết với nhau như bản chỉ dẫn trung tâm của đức tin Kitô giáo” (Bênêđictô XVI, 2006b). Về phía các nhà thần học có nhiều phản ứng khác nhau: có ý kiến coi Thông điệp như là “dấu mốc cho sự phát triển lâu dài về thần học bác ái” (Baumann, 2014, tr.111), “một chương trình thần học gợi hứng cho một thực hành canh tân của Giáo hội” (Pompey, 2007, tr.9). Trong thông điệp này, mặc dù mục đích của Đức Thánh Cha không phải là xác định những nguyên tắc cho môn thần học bác ái nhưng chúng ta có thể nhận thấy vài viễn ảnh căn bản. Cùng với thông điệp Caritas in Veritate được ban hành năm 2009, kể từ nay, tình yêu trong chân lý đã trở thành một đạo lý trung tâm cho sự phát triển của nền tảng thần học về công cuộc phục vụ bác ái của Giáo hội. Ở đây, tôi sẽ trình bày một vài viễn tượng, nhưng không dám nói là tất cả mọi viễn tượng, lại càng không dám coi đó là quy phạm cho sự phát triển của thần học bác ái, mà chỉ là đề xuất về một cuộc đối thoại với những người lãnh đạo hoặc nhân viên trong lãnh vực hoạt động bác ái xã hội. Mục tiêu của tôi là thúc đẩy việc suy tư có hệ thống, được đặt nền tảng trên những giáo huấn và đào tạo thần học, liên quan đến hoạt động bác ái và các cấu trúc của Giáo hội.

1. Thời nay, thần học bác ái được hiểu như thế nào?

Trong thông điệp đầu tiên, Đức Bênêđictô XVI đã xác định điểm then chốt để trả lời cho câu hỏi này, từ phía Huấn quyền Giáo hội. Quan niệm thần học về bác ái xoay quanh đề tài tình yêu xét trong tương quan với Thiên Chúa và với con người, được Đức Giáo hoàng đề cập đến một cách thấu đáo bằng những luận cứ triết học, Kinh thánh và thần học. Ngày nay, việc quay lại với trung tâm của vấn đề là điều cần thiết, bởi vì thần học bác ái đang bị chất vấn từ nhiều mặt, mà tôi sẽ nêu lên cách vắn tắt dưới đây.

1.1. Các hướng tiến của một ngành học đang phát triển

Các giáo trình truyền thống về “Thần học bác ái”, tựa như của cha Royo Marín (1963), trình bày vấn đề dưới góc độ của một nhân đức hướng Chúa (đức mến hoặc đức ái) dựa theo đạo lý của Thánh Tôma: yêu mến Thiên Chúa, yêu mến bản thân  yêu mến người thân cận. Các vấn đề được phân phối dựa theo lược đồ quen thuộc của luân lý tổng quát và luân lý chuyên biệt, thêm vào đó là danh sách các việc bác ái, những yếu tố tích cực cũng như những nết xấu đối nghịch. Lối trình bày này nhắm đến độc giả Kitô hữu, người có đức tin, đi tìm sự hướng dẫn có hệ thống và mang tính thần học. Xã hội cũng xuất hiện như là một đối tượng của đức ái dưới hình thức bác ái xã hội. Tác giả trình bày hệ thống phân minh cho một cá nhân muốn tăng trưởng trong nhân đức: thực hành Thế nào, Lúc nào, Bao lâu; nhưng lại ít đề cập đến những tiến trình đồng hành với một người nghèo khổ, những động lực đức tin để làm việc bác ái, các tổ chức hoạt động trong cộng đoàn của chúng ta, cách lên chương trình bác ái, và cách đương đầu với các nguyên nhân dẫn tới tình trạng nghèo đói và bất công cơ cấu trong thế giới toàn cầu hóa của chúng ta. Đối lại với việc giải thích mang tính luân lý truyền thống này để cắt nghĩa rõ ràng các đặc trưng thần học của sự phục vụ (diakonia) của Kitô giáo (Oriol Tataret, 2000, tr. 208-243), kể từ cuối thế kỷ XIX, đã nảy sinh nhu cầu suy tư về hoạt động bác ái có tổ chức trước bối cảnh của các xã hội công nghiệp hóa, Nhà nước phúc lợi chung, công việc tổ chức có khoa học hơn trong các lĩnh vực kinh tế và xã hội, sự phân tích thực trạng xã hội với những phương pháp thực nghiệm mới, cùng với nhu cầu chuyên nghiệp hóa công tác xã hội. Bối cảnh toàn cầu hóa hiện đại làm nảy sinh nhu cầu đào tạo và suy tư đã đưa đến, vào đầu thế kỷ XX bên Đức, việc thiết lập các Trung tâm nghiên cứu và đào tạo đặc thù về khoa Bác ái, cùng với sự phối hợp của các hoạt động bác ái, đầu tiên là ở cấp quốc gia (1897) rồi đến cấp giáo phận lấy tên là Caritas. Trong bối cảnh này, thần học bác ái được trình bày như là: “Một khoa học về bác ái đề cập đến nhân đức bác ái Kitô giáo, xét như nó được bày tỏ trong đời sống cộng đồng Kitô giáo, như là sự diễn tả tự phát do ý thức và ý muốn siêu nhiên của cộng đồng, như là một sự trợ giúp tự do và khẩn cấp cho cộng đồng này, được phát sinh nhờ sức mạnh và động lực siêu nhiên của lòng mến Chúa” (Keller, 1925, tr.45).

Là một môn học thực hành, thần học bác ái vận dụng các môn khoa học bổ trợ khác nhau (khoa học nhân văn), nó tiến hành một cuộc khảo sát lịch sử về hoạt động bác ái và phân tích những công tác bác ái được tổ chức dành cho những nhóm người nghèo khổ, trong khuôn khổ hợp tác với Nhà nước phúc lợi chung và các cơ quan từ thiện khác. Chúng ta nên lưu ý sự thay đổi từ lối tiếp cận luân lý cá nhân, chuyển sáng khía cạnh “cộng đồng” và “can thiệp tự do” trong một bối cảnh nhất định (Nhà nước phúc lợi chung và sự phối hợp dựa trên nguyên tắc bổ trợ). Trên cơ sở những kinh nghiệm và điều kiện trong lĩnh vực học thuật hàn lâm ở Đức, thần học bác ái phát triển thành một trong những ngành học bác ái được công nhận như một môn học chuyên biệt, như đã xảy ra với Giáo huấn Xã hội của Giáo hội, được giảng dạy trong các phân khoa thần học, nhất là sau Công đồng Vaticanô II. Việc so sánh các định nghĩa khác nhau của thần học bác ái (Pompey, 1997, 1999, 2001; Haslinger, 2004, 2009; Hilpert, 1997) có thể giúp tóm tắt một vài yếu tố chung giữa các tác giả:

– Tất cả các tác giả đều đồng ý rằng, thần học bác ái / khoa học bác ái là một môn thần học có vai trò đặc biệt.

– Nó thuộc lĩnh vực khoa học thực tiễn, khoa học hoạt động.

– Phạm vi học tập và nghiên cứu là hoạt động bác ái của Hội thánh.

– Nó đối thoại với các môn khoa học xã hội và nhân văn khác.

– Việc nghiên cứu bao gồm những phân tích thực nghiệm và lý thuyết về các nội dung nổi bật của đức tin và truyền thống trong việc thực thi bác ái của cá nhân và cộng đồng, và các hình thức có tổ chức có liên hệ.

Ở châu Mỹ-Latinh và vùng Caribê, sự nhận thức ngày càng gia tăng về một thực tại kinh tế, chính trị xã hội và văn hóa được thể hiện và chia sẻ trong các tài liệu chung kết của các Hội nghị chung của các Giám mục Mỹ-Latinh, bắt đầu từ cuộc họp được tổ chức tại Medellín (1968), Puebla (1979) cho đến lần gần nhất ở Aparecida (2007), đã tạo ra một động lực mới trong việc đề ra lĩnh vực thần học bác ái. Nhận thức được sự bùng nổ người nghèo như là một sự kiện trầm trọng, thần học đã được hướng dẫn không chỉ trở về nguồn cội của tình yêu lân tuất, mà còn cần được cấu trúc với phương pháp luận riêng biệt (Scannone, 2000, tr.358tt.): sự hiểu biết về tình yêu – intellectus amoris (Sobrino, 1992, tr.47tt.). Tôi cũng mời gọi thực hiện một sự phân tích và suy tư tương tự đối với Á châu và Phi châu, nhằm cung cấp một bức tranh chi tiết về sự tiến triển của thần học bác ái trong bối cảnh của hai lục địa này.

1.2. Những khó khăn hiện nay chung quanh chủ đề bác ái

Vào thời nay, thần học bác ái đang phải đối diện với nhiều thách đố. Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI nhắc tới một vài khó khăn, bắt đầu từ các thuật ngữ tình yêu / bác ái trong các xã hội hiện đại (DCE 2). Chính vì thuật ngữ này bị lạm dụng nhiều nên cần phải làm sáng tỏ sự phong phú của khái niệm “tình yêu” để nó có thể bao gồm cả cuộc sống nhân sinh lẫn việc thực thi bác ái. Một khó khăn nữa liên quan đến các tiêu chuẩn đánh giá các lĩnh vực xã hội khác nhau, có ảnh hưởng đến khung cảnh của công việc phục vụ (diakonia). Một cách điển hình, có thể mô tả thông qua một mô hình hệ thống (Starnitzke, 1996), theo đó các hệ thống khác như: luật pháp (công lý / bất công), kinh tế (chi trả / không chi trả), y tế (bệnh tật / lành mạnh), khoa học (đúng / sai), chính trị (thống trị / không thống trị), v.v… những tiêu chuẩn này có thể chất vấn hoặc gạt ra bên lề những thứ lôgic trong các dịch vụ bác ái như là: sự ban tặng, cho không và chia sẻ, được hiểu không phải như sự trao đổi hỗ tương nhưng là sự thể hiện tình yêu thương xót của Thiên Chúa trong một cộng đồng yêu thương. Trong Deus Caritas Est,Đức Bênêđictô XVI dành nhiều đoạn cho khung cảnh chính trị (DCE 26-29), và phê bình chủ trương “trọng hoạt động và […] duy thế tục của rất nhiều Kitô hữu” (DCE 37) trong việc tham gia vào hoạt động bác ái, họ coi rẻ việc cầu nguyện như một động lực thúc đẩy tham gia đi làm bác ái. Trong thông điệp Caritas in Veritate, Đức Thánh Cha đã nêu bật các tiêu chuẩn đánh giá theo kinh tế, xã hội và văn hóa, và nhấn mạnh đến sự cần thiết phải khôi phục tiêu chuẩn “yêu thương trong chân lý” như là liều thuốc giải độc và kế hoạch biến đổi xã hội. Đặc biệt trong lãnh vực công tác xã hội với sự chuyên nghiệp trong hình thức trợ giúp, người ta đang phát triển một thứ đạo đức chuyên nghiệp và một phương pháp làm việc trong lĩnh vực khoa học xã hội, kéo theo việc xây dựng một bối cảnh diễn giải, một dạng thông diễn riêng biệt, không còn tham chiếu về các khung cảnh đạo đức và tôn giáo nữa (Luhmann, 1973). Tự bản chất, tính tự trị này không phải là tiêu cực, tuy nhiên nó gây ra một kết quả mang tính thế tục khi được trình bày như đã vượt lên trên các mô hình luân lý và tôn giáo. Một câu hỏi được đặt ra như sau: liệu thần học bác ái có phải là một đóng góp cần thiết cho sự hiểu biết về công việc cứu trợ, đặc biệt khi thấy các tình trạng bất công mang tính cách cấu trúc và lan rộng khắp thế giới không? Cũng cần ghi nhận rằng, các công tác xã hội được tập trung vào những sự can thiệp được lập trình, giải quyết vấn đề, quản lý các trường hợp đặc biệt và cắt đứt khỏi các môi trường cộng đồng và sự sống. Việc phối kết thần học trong khuôn khổ công tác xã hội chuyên nghiệp gặp thách đố trong việc biện minh cho chỗ dừng của thần học trong lĩnh vực cam kết xã hội (Doležel, 2012; Krockauer; Bohlen & Lehner, 2006; Scales & Kelly, 2012; Singe, 2006), hay nói cách khác, đề xuất thần học như một môn học tham chiếu cần thiết hầu nâng cao chất lượng công tác xã hội chuyên nghiệp. Đặc trưng chính yếu của thần học này là bản chất Kitô giáo của nó, một điều vốn giả định sự phát triển của nó như là một ngành khoa học (tích hợp lý trí), sự hiện hữu của nó như một hệ quy chiếu cho dịch vụ xã hội (thực tiễn, tập trung vào lý thuyết được áp dụng trong hoạt động thực tiễn, các mô hình thực tiễn, phương pháp, v.v…) với lối tiếp cận theo bối cảnh (hoàn cảnh hiện sinh, xã hội và kinh nghiệm trong lĩnh vực dịch vụ xã hội), mang tính nền tảng, và bắt nguồn từ sự phục vụ (công bằng và nhân ái) cùng với một nền thần học mục vụ thực tiễn (Lechner, 2000, pp.219ff.).

1.3. “Cô bé lọ lem hay Người đẹp ngủ trong rừng” – sự vắng bóng của thần học bác ái trong lĩnh vực suy tư, nghiên cứu và giảng dạy

Liên quan đến các nước Đức, Pháp, Ý và Tây Ban Nha, các tác giả như Baumgartner (2002), Hermanns (1997), Haslinger (2009) và Gehrig (2015) đã bày tỏ mối quan tâm của họ về số lượng ít ỏi các trung tâm giảng dạy, nghiên cứu và suy tư về thần học bác ái tại các phân khoa thần học. Chẳng những không phải là một môn bắt buộc trong chương trình đào tạo, thần học bác ái bị giảm thiểu chỉ còn như một vài khóa nhiệm ý hoặc thậm chí không có trong chương trình học tập. Vai trò như “Cô bé lọ lem” của thần học, hoặc thậm chí là “Người đẹp ngủ trong rừng”, chắc chắn là không phù hợp với một chiều kích cốt yếu của Giáo hội. Do đó, với những viễn tượng mà tôi sẽ trình bày, tôi hy vọng sẽ khơi dậy hứng thú trong việc cổ võ vị thế cơ bản phải được thừa nhận của thần học bác ái, được canh tân bởi những đóng góp của Huấn quyền Giáo hoàng.

1.4. Tính cách đa nguyên khi bàn về các nền tảng thần học của hoạt động bác ái hay sự phục vụ (diakonia)

Hiện nay có rất nhiều cách đặt nền tảng thần học cho việc thực thi bác ái, hay sự phục vụ (diakonia), tùy thuộc vào truyền thống của các tôn phái khác nhau và lối tiếp cận của các tác giả (x. Rüegger, H. & Sigrist, C., 2014). Về phía Công giáo, điều quan trọng là phải đi vào đối thoại với các cách đặt nền tảng này để hiểu được những điểm chung, những khác biệt, và hướng tới một đề xuất thần học thực tiễn về đức tin hoạt động nhờ tình yêu (Gl 5,6). Việc suy tư về nền tảng thần học của hoạt động bác ái có thể tạo ra một nhiệm vụ chung cho thần học bác ái và giáo huấn xã hội của Hội thánh, bằng chứng là đã có nhiều cuộc hội thảo khác nhau được tổ chức tại Rôma trong những năm qua (Dal Toso & Schallenberg, 2014 y 2015; Schallenberg & Dal Toso, 2016), và tại những nơi khác nữa (Glatzel, and Pompey, 1991; Marx, 1999). Mặc dù không liên quan đến chuyện đang bàn, nhưng cần phải nói rằng các thông điệp xã hội của Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI cũng tượng trưng cho một thách đố đối với giáo huấn xã hội của Hội thánh dưới phương thức “yêu thương trong chân lý về những vấn đề xã hội – caritas in veritate in re sociali” (CIV 5), sự công bố chân lý về tình yêu của Chúa Kitô trong xã hội (Roos, 2015, p.13), sự xoay chuyển tri thức bổ túc “hai trật tự hiểu biết – duplex ordo cognitionis” (luật tự nhiên và mặc khải, Nothelle-Wildfeuer, 1991) thành “ba trật tự – triplex ordo”, qua việc nhìn nhận cho tình yêu một nguyên lý hiểu biết thần học (Rubio de Urquía & Pérez-Soba, 2014; Pérez-Soba, 2014). Do đó, thông điệp Deus Caritas Est trả lời cho các câu hỏi liên quan đến những nền tảng thần học về bác ái với một loạt các chỉ dẫn mang tính chiến lược:

a/ Duy trì sự hợp nhất của tình yêu Thiên Chúa và nhân loại (eros/agape) như cột trụ của công cuộc phục vụ bác ái (DCE 3-11).

b/ Đặt cội nguồn của hoạt động bác ái từ Đức Kitô (DCE 12-18).

c/ Đề xuất một chân dung đặc thù của công tác bác ái của Hội thánh (DCE 25; 31ff.).

Sau đây chúng tôi sẽ khai triển những điểm vừa kể.

2. Nền tảng thần học của tình yêu: đánh giá lại “Tình yêu” để suy tư thần học và thực tiễn về diakonia

Kể từ sau thông điệp Deus caritas est, viễn tượng thứ nhất cho thần học bác ái là phân tích, miêu tả và hiểu biết các đặc điểm của tình yêu Kitô giáo dưới các chiều kích thần học, nhân học và thực tiễn. Trong phạm vi thực hành, viễn tượng này có tầm quan trọng đặc biệt đối với công tác bác ái phục vụ được nhìn như tình yêu của Kitô giáo có tổ chức.

2.1. Tình yêu: Viễn tượng thông diễn khái niệm về thần học bác ái (DCE 3-11)

Dưới viễn tượng thông diễn, thông điệp này buộc chúng ta phải suy tư, phục hồi và tái đánh giá, đặc biệt là khía cạnh ngữ nghĩa của “tình yêu” từ góc độ thần học, đồng thời cũng đối thoại liên tục với các ý nghĩa của nó theo những nền văn hóa, tôn giáo và ngôn ngữ khác nhau của thời nay (DCE 22). Sự thông diễn này dựa trên đức tin để tìm kiếm sự thống nhất của khái niệm “tình yêu”, theo quan điểm của Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI, sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về trọng tâm của đời sống con người cũng như cốt lõi của mầu nhiệm Thiên Chúa Tam vị. Thần học bác ái sẽ không thể tránh né công việc tư duy để hiểu biết sâu sắc về mối tương liên giữa các chiều kích khác nhau của tình yêu nhân loại từ góc độ thần học, dựa trên đức tin được ghi khắc trong gia sản Sách Thánh và sự diễn tả qua những kinh nghiệm hiện nay. Khởi đi từ những kinh nghiệm về đức tin của các Kitô hữu tiên khởi bén rễ trong truyền thống Kinh thánh, từ đó tạo ra một trường ngữ nghĩa mới của khái niệm agape để diễn tả tình yêu được sẻ chia, nhận được từ Thiên Chúa trong sự hiện diện của Đức Kitô thông qua Chúa Thánh Thần, một tình yêu tạo nên cộng đồng và làm biến đổi cuộc sống của cá nhân cũng như xã hội. Dưới viễn tượng thông diễn, thần học bác ái không những phải đi vào cuộc đối thoại với những suy tư và đóng góp của triết học (Hildebrand, 1971; Kuhn, 1975; Lotz, 1979; Pieper, 1972), mà còn với những suy tư và đóng góp của thần học Tin Lành (chẳng hạn: Jeanrond, 2010; Knauber, 2006; Stock, 2000; Wischmeyer, 2015), tâm lý học (Fromm, 1967; Sternberg, 1989) và xã hội học (Beck & Beck-Gernsheim, 2001; Kuchler & Beher, 2014; Luhmann, 1982), mặc dù nó vẫn tập trung vào lối tiếp cận thần học và sự nối kết với việc thực thi bác ái. Thông điệp này đóng góp vào nhiệm vụ ấy khi nhấn mạnh đến khả năng yêu thương vốn đã thấm sâu vào bản tính con người. Đó là nhiệm vụ có tầm quan trọng đặc biệt khi có những khuynh hướng muốn thay thế thuật ngữ “bác ái” bằng “liên đới” hoặc “công bình” trong lãnh vực đạo đức xã hội và dấn thân xã hội.

2.2. Hoạt động bác ái bắt nguồn từ Chúa Kitô

Thông điệp này chứa đựng rất nhiều điều liên hệ giữa Chúa Kitô với tình yêu tự nhiên và siêu nhiên cùng với việc thực thi bác ái của Giáo hội. Thật vậy, điều răn yêu thương người thân cận được ghi khắc trong chính bản tính con người, vốn được dựng nên theo hình ảnh và giống như Thiên Chúa (DCE 31). Viễn tượng nhân học trên bình diện tự nhiên giúp cho sự mở rộng đến việc cộng tác với các người khác: sự hiện diện của Đức Giêsu nơi người nghèo, sự đồng hóa Người với họ (Mt 25,40) đã hòa nhập ở nơi Người lòng yêu mến Thiên Chúa và yêu mến người thân cận (DCE 15).

Trong Chúa Kitô, chúng ta hiểu được sự khiêm hạ của mình trong việc phục vụ, mà đỉnh cao là hành vi tự trao hiến: “Tôi phải là một nhân vị hiện diện ở trong món quà của tôi” (DCE 34). Từ cuộc gặp gỡ thân mật với Thiên Chúa, tôi học cách nhìn người thân cận từ góc độ của Chúa Giêsu Kitô (DCE 18). Đức Thánh Cha ý thức rằng, hình thức yêu thương người thân cận cách triệt để như thế đòi hỏi cần có sự nuôi dưỡng tinh thần, một mối liên hệ sống còn với hai chiều kích khác của Giáo hội là leiturgia (phụng vụ) và martyria (chứng nhân), và đòi hỏi thần học bác ái phải bao gồm viễn tượng của linh đạo. Theo các nhà nghiên cứu chuyên sâu về tư tưởng thần học của Joseph Ratzinger tựa như giáo sư Menke, thì đối với Đức Thánh Cha, điều quan trọng là phải tiếp tục lập luận của huấn thị Dominus Jesus, kết hợp tình yêu, eros và bác ái với Kitô học:

“Cùng với hoạt động bác ái của mọi Kitô hữu, việc bác ái của Hội thánh trước hết phải được hiểu như là sự thông dự vào tình yêu của Đấng Cứu Độ chịu đóng đinh, hay hơn nữa, như là việc được bao hàm trong tiến trình làm cho Chúa Kitô hiện diện (representatio Christi). Nếu chúng ta chỉ hiểu việc trợ giúp như là sự áp dụng, hệ luận hay bắt chước tình yêu của Chúa Kitô, thì chúng ta sẽ chỉ có một kế hoạch chính trị hay ý thức hệ để cải thiện các điều kiện sống của một nền văn hóa hay của nhân loại nói chung” (Menke, 2008, p.57).

Việc tạo ra một phong cách cộng đồng đặc thù, tình huynh đệ nội bộ, bao hàm việc mở rộng sứ mạng ad extra (hướng ra bên ngoài) của Hội thánh, được cấu thành do sứ mạng làm cho Chúa Kitô hiện diện (representatio Christi)Trong phần thứ hai của thông điệp, lối tiếp cận Kitô học này cho phép hiểu rõ hơn tầm quan trong của Hội thánh xét như là cộng đồng yêu thương, một nơi không còn nghèo đói (DCE 20), cùng với việc phê bình việc chiêu dụ vào đạo (proselytism). Các tác phẩm của Koch vào năm 2010 và 2012 đã bổ túc việc phân tích chiều kích Kitô học được gói ghém trong thông điệp này: “Trong các tổ chức bác ái, Thiên Chúa và Đức Kitô không phải là những lời ngoại lai; trên thực tế, chúng vạch ra nguồn gốc sơ khai của việc bác ái của Hội thánh. Sức mạnh của Caritas phụ thuộc vào sức mạnh đức tin của tất cả các thành viên và cộng tác viên” (Benedict XVI, 2006b).

Căn nguyên Kitô-luận như vậy không thể nào được hiểu đầy đủ nếu không xem xét nền tảng của nó trong Tam vị Chí thánh. Thông điệp đề cập đến nền tảng này ngay từ đầu xét như một nền tảng thần học, và trong DCE 19, nó được dùng như là tham chiếu cho hoạt động bác ái của Hội thánh. Các lý do này tập trung vào thực tại của Thánh Linh, từ đó làm nảy sinh tình yêu của Hội thánh xét như chiều kích hướng nội ad intra (sự hiệp nhất của cộng đoàn) và hướng ngoại ad extra (phục vụ người nghèo). Chúng ta vẫn còn cần thêm một lời giải thích rộng hơn về tầm quan trọng của nền tảng này đối với việc thực thi bác ái và suy tư thần học về bác ái.

2.3. Chân tướng hoạt động bác ái của Hội thánh (DCE 31ff)

Trong mục này, vai trò của thần học là tập trung vào các đặc điểm của sự trợ giúp bác ái trong tổ chức bác ái của Hội thánh xét như công tác đặc thù opus proprium (DCE 29ff). Ở mục trước, chúng tôi đã đề cập đến chân tướng độc đáo của việc trợ giúp bác ái xét trong tương quan với Nhà nước. Về khía cạnh này, Đức Thánh Cha cũng cảnh báo về nguy cơ sẽ rơi vào ý thức hệ muốn giải quyết mọi vấn đề của thế giới. Mặc dù có thể hiểu rằng – đặc biệt ở các Quốc gia có bộ máy chính quyền rất yếu kém hay siêu tham nhũng – Giáo hội dường như là không gian duy nhất cổ võ sự phát triển xã hội, với nguy cơ là những cấu trúc của chúng ta có thể biến thành các bộ phục vụ cho sự phát triển. Chúng ta nên cân nhắc kỹ lưỡng những lý lẽ thuận lợi và bất lợi, suy tư về vị trí của Giáo hội trong tình huống này, xem xét các chọn lựa thay thế hiện có và cách thức bảo tồn căn tính của Giáo hội.

Tương ứng với Agape ám chỉ chính Thiên Chúa, được mô tả trong phần đầu của thông điệp, phải được đáp trả bằng agape của Giáo hội. Agape làm nên bản tính của Giáo hội (DCE 25), được thể hiện qua ba nhiệm vụ (kerygma-martyria, leiturgia và diakonia). Đức Thánh Cha còn đi xa hơn khi nhấn mạnh rằng đây không chỉ là hoạt động bác ái, nhưng là toàn thể Hội thánh được nhìn như một không gian và một mối quan hệ đặt nền trên agape (các bí tích, lời nói, việc loan báo Tin mừng, các tổ chức, v.v…). Hội thánh là chủ thể của agape, từ các Giáo hội địa phương đến Giáo hội hoàn vũ (DCE 32). Những chỉ dẫn cơ bản về cấu trúc việc phục vụ của Giáo hội, vốn thuộc trách nhiệm của Giám mục trong các Giáo hội địa phương, cần tương ứng chính xác với tính Giáo hội của tình yêu (ecclesiality of love), được hoàn chỉnh bởi Tự sắc Intima Ecclesiae natura (2012). Chúng ta có thể tóm tắt lối tiếp cận thứ nhất này như là trách nhiệm mang tính thể chế phải sống như một cộng đồng yêu thương đích thực, một Giáo hội xét như Thân thể Chúa Kitô, bí tích của tình yêu và lòng thương xót. Những đặc tính tiếp theo đây sẽ đưa chúng ta đến gần sự hiểu biết về việc thực thi bác ái hơn.

3. Phải sống tình yêu như thế nào?

Thần học bác ái không chỉ mô tả một cách lý thuyết về các khía cạnh nền tảng của đức bác ái xét như tình yêu Thiên Chúa, nhưng nó còn bị thách thức bởi câu hỏi thực tiễn về cách thức sống tình yêu này trong thế giới hôm nay như thế nào, trong đời sống Kitô hữu của chúng ta, trong các công tác phục vụ bác ái và trong các cộng đồng yêu thương.

3.1. Viễn tượng lịch sử của thần học bác ái (DCE 20-26)

Từ số 20 đến số 26, Thông điệp DCE trình bày tổng quan về nguồn cội lịch sử của hoạt động bác ái của Hội thánh. Điều này muốn cho thấy rằng thần học bác ái có thể và cần phải dựa trên truyền thống lịch sử của Hội thánh, để nhờ đó mà lưu giữ sức sống của truyền thống phong phú về việc thực thi bác ái. Truyền thống phong phú này báo hiệu khả năng sáng tạo để tái đổi mới tình yêu của Hội thánh, sức mạnh vĩnh cửu mà Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta trong các thời kỳ chịu bách hại, chối bỏ, khủng hoảng nhân loại và thế giới. Điều thú vị là vào đầu thế kỷ XX, với việc tái thiết lập thần học bác ái tại Đức, được đánh dấu bởi sự phát triển của công nghiệp hóa và Nhà nước phúc lợi chung, một trong những trụ cột của việc tổ chức môn học mới này là cuộc nghiên cứu di sản lịch sử của truyền thống bác ái Kitô giáo, đặc biệt của Giáo hội Công giáo. Khởi đi từ di sản của thế kỷ XIX và XX này, với khá nhiều tác phẩm đã được xuất bản, ngày nay chúng ta có trách nhiệm tiếp tục mở rộng kiến thức phong phú ấy với những thành tựu được cập nhật và với những tiến bộ gần đây trong các lĩnh vực khoa học lịch sử, để duy trì sức sống của ý thức về lịch sử, cũng như tầm quan trọng của nó đối với thực tiễn hiện nay.

3.2. Viễn tượng lòng trắc ẩn của hoạt động bác ái dựa trên sự hợp nhất của tình yêu (Eros + Agape)

Sự hợp nhất của eros / agape (DCE 5 và 6), được Đức Thánh cha Bênêđictô XIV nêu bật, phải là một yếu tố nằm trong chân tướng của cuộc phục vụ bác ái của Giáo hội dành cho người nghèo (Pompey, 2006; 2007, tr.56tt.). Thật vậy, bên cạnh lý trí và khả năng chuyên môn, sự can thiệp bác ái cần bao gồm cả Eros nữa. Eros này đã hiện diện trong các đoạn Kinh thánh mô tả một vị Thiên Chúa yêu thương dân Người (DCE 11), gây nên lòng xúc động sâu sắc. “Eros” của Thiên Chúa không chỉ là một năng lực vũ trụ nguyên khởi; nó là chính tình yêu đã dựng nên con người và cúi mình xuống trên con người, giống như người Samaritanô nhân hậu cúi mình xuống với kẻ bị cướp và bị thương nằm bên vệ đường trên con đường từ Giêrusalem đến Giêricô (Đức Thánh cha Bênêđictô XVI, 2006b). Trong Chúa Giêsu Kitô, tình yêu Thiên Chúa trở nên tình yêu trao hiến. Sự trao nộp này được cử hành và hiện diện trong Bí tích Thánh Thể, Sacramentum Caritatis. Sự biến đổi trong Bí tích Thánh Thể dẫn đến sứ mạng trợ giúp bác ái, được hiểu như là sự biến đổi giữa các cá nhân nhằm mang lại tính liên tục cho cuộc trao nộp của Chúa Kitô. Sự hợp nhất của eros / agape làm cho các mối quan hệ trong Chúa Thánh Thần trở nên năng động. Trên thực tế, người nghèo không chỉ muốn có sự chỉ dẫn (nội dung), sự giúp đỡ vật chất, hay mối quan tâm chuyên nghiệp. Họ còn muốn có một mối liên hệ cá nhân, tình cảm và thể lý (miseri cor dare) (DCE 34): bạn có tin vào những khả năng của tôi không? Đức tin của chúng ta là một lòng tin mang tính tương quan trong Chúa Giêsu Kitô, và các nội dung của đức tin chỉ có thể hiểu được thông qua mối tương quan bác ái này (Pompey, 2006, p.119).

3.3. Đào luyện con tim – Viễn tượng chứng tá của bác ái (DCE 31; 36tt)

Công cuộc cứu trợ trực tiếp và cấp thời cần phải được thực hành và tổ chức cách chuyên nghiệp và trách nhiệm. Đức Thánh Cha còn thêm một đặc điểm nữa là sự cần thiết của việc đào luyện con tim (DCE 31tt). Tôi nghĩ rằng đây là điều Đức Thánh Cha muốn nhấn mạnh trong phần thứ hai, và thần học bác ái giữ một vai trò quan trọng: tìm kiếm các chương trình đào luyện nhằm giúp cho các nhân viên trong tiến trình phát triển cá nhân và trong việc tăng trưởng đức tin, ngõ hầu họ có thể sống cuộc gặp gỡ Thiên Chúa trong Đức Kitô, Đấng giúp họ có khả năng làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa trong các mối quan hệ phục vụ này một cách chân thực, chứ không bị áp đặt hoặc giả tạo. Không nên hiểu việc đào luyện con tim như một kỹ thuật truyền thông, nhưng là sự hiện diện cá nhân được đức tin thúc đẩy. Việc đào luyện tinh thần và đời sống tâm linh trong các mối quan hệ trợ giúp, việc thực hành đức tin trong cộng đồng yêu thương vốn được nuôi dưỡng từ cội nguồn của nó, tất cả làm nên một nền văn hóa làm chứng về tình yêu thương xót của Thiên Chúa, về bản chất riêng tư và vô vị lợi của tình yêu đó.

Chúng ta cần có sự nghiên cứu, việc đào tạo các nhà đào tạo, tiến trình đồng hành, các không gian được chia sẻ, nguồn lực và thời gian dành cho nhiệm vụ này, để có thể cảm nghiệm tốt hơn tình yêu của Đức Kitô đang thúc bách chúng ta (2 Cr 5,14). Trong một xã hội tách xa Giáo hội, nhưng đồng thời đó lại là nơi chúng ta duy trì mạng lưới rộng lớn của các cuộc phục vụ bác ái, chúng ta đang thiếu một lượng người có khả năng mong muốn cộng tác trong những kinh nghiệm này, và với nền văn hóa tình yêu này. Do đó, điều quan trọng không kém là tạo ra các khu vực để loan báo Tin mừng từng bước một trong các cấu trúc của chúng ta, hoàn toàn tôn trọng tự do cá nhân, nhưng luôn cho biết chúng ta là ai và chúng ta chia sẻ điều gì.

Trong công cuộc giải thích này không thể nào thiếu mẫu gương của các vị thánh có lòng bác ái, xét như phần thiết yếu của di sản sống động này, đặc biệt là Đức Maria, Thân mẫu của Chúa (DCE 40-42). Tuy nhiên, đây không chỉ là ký ức thuần túy lịch sử, các thánh còn đồng hành với chúng ta về mặt tâm linh, chúng ta có thể chia sẻ cuộc sống của các ngài. Cuộc sống của các ngài cũng trở thành nguồn cảm hứng cho các tổ chức lâu bền, các đặc sủng được canh tân, chẳng hạn các Hiệp Hội thánh Vinh Sơn Phaolô kể từ thế XVII đã nảy sinh một gia đình bác ái.

3.4. Viễn tượng đối thoại đại kết về thần học bác ái

Thông điệp đã gây được tiếng vang lớn nơi các Giáo hội khác, và nó tái khẳng định sự cởi mở và hợp tác trong lĩnh vực này, bởi vì trong Kitô giáo, chúng ta chia sẻ di sản chung về Kinh thánh và Kitô học, thậm chí về các khía cạnh Giáo hội học (Pompey, 2006, p.113; Pompey, 2007 pp.143ff.). Đức Thánh Cha mời gọi sự cởi mở đại kết với diakonia bên Giáo hội Tin Lành và philanthropia bên phía Giáo hội Chính thống, và kể cả đối thoại liên tôn liên quan đến chủ đề lòng từ bi và tình yêu. Về vấn đề này, ta thấy tầm quan trọng của việc chia sẻ các dự án nghiên cứu; các hội nghị, sự hợp tác cụ thể ở cấp địa phương và các dự án hợp tác quốc tế.

4. Thần học bác ái như một khoa thần học chuyên biệt

Bằng những cử chỉ khác nhau, triều giáo hoàng của Đức Bênêđictô XVI và của Đức Phanxicô hiện nay đã cho thấy vai trò then chốt của tình yêu trong đời sống Kitô giáo và trong sứ mạng loan báo Tin mừng của Giáo hội ngày nay. Sự chuyển hướng về tâm điểm đức tin Kitô giáo bao gồm nỗ lực thực hiện việc làm chứng và tổng hợp toàn bộ căn tính của Giáo hội trong mối tương liên giữa leiturgia, martyria và diakonia ở thời đại chúng ta. Suy tư sâu sắc của thông điệp về mối liên hệ giữa công bằng và bác ái (DCE 26-29) không chỉ giúp hiểu được mối tương liên giữa công bằng và bác ái hay giúp bảo vệ tự do tôn giáo trong hoạt động bác ái độc lập. Nó còn giúp phân định giữa sứ mạng của Giáo hội trong việc thiết lập một trật tự công bằng thông qua việc hướng dẫn lương tâm nhờ các nguyên tắc được diễn tả trong Giáo huấn Xã hội của Hội thánh, với các nghĩa vụ của Nhà nước và của chính trị.

Chính các tín hữu giáo dân dấn thân vào xã hội là những người giữ vai trò chủ yếu trong lĩnh vực này, nhờ được hướng dẫn bởi các nguyên tắc của Giáo huấn Xã hội (thực thi công bằng). Nhưng đối với Giáo hội, công tác riêng biệt opus proprium trên hết vẫn là việc phục vụ bác ái trong cộng đồng yêu thươngvới những đặc điểm đặc thù của nó, như đã thấy trong các mục trước. Theo tôi nghĩ, để có thể diễn tả bản chất sâu xa nhất của Giáo hội cần dành một không gian đặc thù cho việc suy tư, nghiên cứu, đào luyện và định hướng, ngõ hầu Giáo hội, qua các tổ chức Caritas của mình cũng như các tổ chức khác tham gia bác ái, có thể:

a) Đưa ra một đáp ứng hữu hiệu đối với nhu cầu đào luyện con tim của các thành viên (DCE 31a), trong bối cảnh của một cuộc phục vụ có tổ chức trong một xã hội phức tạp với nhiều tác nhân khác nhau.

b) Liên tục cải tiến công cuộc phục vụ chứng tá có tổ chức.

c) Thiết lập một cuộc đối thoại trên cơ sở khoa học với các ngành khoa học nhân văn khác, tập trung vào việc thực hành bác ái và cách thức tổ chức.

d) Thúc đẩy sự phát triển của lối tiếp cận khoa học cụ thể (tình yêu được hiểu như là nguyên lý tri thức luận).

e) Đảm bảo sự kết nối liên tục với thần học và Giáo hội dựa trên kinh nghiệm thực tiễn.

f) Tăng cường sự hợp tác liên ngành với các bộ môn thần học có liên quan đến tình yêu.

Sau đây, tôi sẽ trình bày chi tiết về các yếu tố đặc biệt của ngành học này bằng biểu đồ bên dưới, dựa trên những suy tư trong thông điệp Deus Caritas Est cũng như những đóng góp của các bạn đồng nghiệp từ Freiburg và Olomouc.

Trong sơ đồ khái niệm này, thần học bác ái mang nghĩa tạo điều kiện thuận lợi cho nền tảng thần học của việc thực thi bác ái trong chân lý. Nền tảng này khởi đi mặc khải của Thiên Chúa Tam vị xét như một cộng đồng yêu thương. Những đóng góp chính của thần học về mầu nhiệm này (thần học hệ thống) và triết học hỗ trợ cho sự hiểu biết thiên về ý tưởng tình yêu và mối liên hệ giữa nó với nhân học. Phần này sẽ cung cấp những nền tảng thần học cho sự phục vụ bác ái của cộng đồng yêu thương.

Biểu đồ tiếp tục với sự phát triển theo hai chiều kích: các chiều kích hiện sinh và các chiều kích luân lý cùng với các khoa học và chức năng tương ứng, bao gồm cả những nền tảng khoa học khác nhau.

Duy trì một cuộc đối thoại sống động liên ngành giữa thần học với các ngành khoa học xã hội và nhân văn khác về bản chất của tình yêu / bác ái; vai trò của nó xét như một phạm vi thần học; phạm vi của nó xét như một năng lực biến đổi, ở cấp độ cá nhân cũng như trong cộng đồng; khả năng “đối nội” của nó xét về mặt tri thức luận (đối với đức tin và thực tại Giáo hội), và cả “đối ngoại” trong việc phân tích xã hội với những nhiệm vụ của nó.

Kế đó, biểu đồ này đi xuống các mục tiêu theo hai chiều bổ sung của nó, được thể hiện trong kinh nghiệm và cách diễn đạt Kinh thánh, cũng như trong hoạt động bác ái của Kitô giáo, đồng thời đáp trả cho một tầm nhìn nhân học toàn diện.

Biểu đồ chủ yếu phản ánh bản chất liên ngành của thần học bác ái, không chỉ dừng lại ở phần thứ nhất liên quan đến nền tảng thần học: khởi đi từ nội dung lý thuyết này, điểm đến của nó là phân tích việc thực hành cụ thể trong các tổ chức được kết hợp bởi sự suy tư phê bình, và cùng nhau xây dựng các việc thực hành tốt nhất để sự phục vụ bác ái ngày càng trở nên chứng tá đích thực của tình yêu Thiên Chúa.

 Biểu đồ : Sơ đồ ý niệm của Thần học Bác ái

– MẶC KHẢI CỦA THIÊN CHÚA XÉT NHƯ MỘT CỘNG ĐỒNG TAM VỊ CỦA TÌNH YÊU TRONG ĐỨC GIÊSU KITÔ

– THẦN HỌC & TRIẾT HỌC (SUY TƯ VÀ GIÁO HUẤN VỀ THIÊN CHÚA TÌNH YÊU)

– NHÂN HỌC NHẬP THỂ (GIÁO HUẤN VỀ NHÂN LOẠI)

CÁC NỀN TẢNG CỦA TÁC VỤ BÁC ÁI TRONG CỘNG ĐỒNG YÊU THƯƠNG

Các chiều kích hiện sinh / hữu thể của tác vụ bác ái

Các chiều kích luân lý của tác vụ bác ái

Thần học thực hành bác ái
Chức năng cấu tạo
Trợ giúp và chữa lành về mặt tâm linh – hiện sinh

Các khoa học nhân văn
Chức năng hỗ trợ
Trợ giúp và chữa lành về mặt thể lý – y tế, tâm lý, xã hội – vật chất

Luân lý cá nhân
Chức năng hướng dẫn
Hướng dẫn đạo đức cá nhân

Luân lý xã hội
Chức năng đồng hành
Cải thiện về mặt cấu trúc các điều kiện sống



Tình yêu trong Chân lý
Hoàng đạo của thần học về Tác vụ và Cộng đồng Yêu thương
Sức mạnh của Tình yêu

Nền tảng khoa học
Thần học Tín lý, Tâm linh, Mục vụ, Truyền giáo

Nền tảng khoa học
Các khoa học Tự nhiên và Xã hội (Y khoa, Tâm lý học, Sư phạm, Công tác Xã hội, v.v…)

Các quy tắc cơ bản về khoa học
Thần học Luân lý, đặc biệt là Luân lý các nhân đức

Các quy tắc cơ bản về khoa học
GHXH và Luân lý Xã hội (các Thông điệp Xã hội)

Mục tiêu
Hòa giải và Canh tân:
– Sức mạnh cho cuộc sống, sinh lực đời sống, lòng can đảm và động lực.
– Ý nghĩa của cuộc sống, các quan niệm sống, lối sống.
Hỗ trợ thông qua:
– Kinh nghiệm đức tin
– Rèn luyện Niềm Hy vọng, và
– Tình yêu trong các mối quan hệ đối mặt hay “các Cộng đồng yêu thương” trong các giáo xứ thông qua:
– Chia sẻ về Cuộc sống
– Chia sẻ về sự Đau khổ, và
– Chia sẻ về Đức tin.

Mục tiêu
Phục hồi và bảo tồn các yếu tố thiết yếu của cuộc sống trong các chiều kích khác nhau của nó:
– thân thể,
– nhận thức,
– tâm thần,
– xã hội,
– vật chất,
– chính trị.

Mục tiêu
Bảo tồn theo hệ thống vi mô các giới hạn luân lý trong lĩnh vực các tác vụ bác ái và trong lối sống của người thụ hưởng:
– Không nói dối,
– Không lừa đảo,
– Không bóc lột lợi dụng,
– Không lạm dụng ngược đãi,
– Không phá hoại.

Mục tiêu
Các nguyên tắc xã hội theo hệ thống vĩ mô cho lối sống này:
– Thiện ích chung
– Tình liên đới
– Bổ trợ
Trật tự cuộc sống và sự bảo tồn các điều kiện đời sống:
– vật lý
– sinh học
– xã hội
– kinh tế, và
– chính trị.

Các Định hướng theo Kinh Thánh
Các Hoạt động Tâm linh về Lòng thương xót, các Đặc sủng của Thánh Linh, và “Bài ca Đức Ái” (1 Cr 13).

Các Định hướng theo Kinh Thánh
Các Hoạt động Thể lý về Lòng thương xót, Diễn từ về Cuộc Phán xét Chung thẩm (Mt 25,31-46), Người Samaritanô Nhân hậu (Lc 10,25-37).

Các Định hướng theo Kinh Thánh
Mười Điều Răn

Các Định hướng theo Kinh Thánh
Các Mối phúc trong Bài giảng trên núi (Mt 5,3-12).

THỰC THI SỨ VỤ BÁC ÁI TRONG CỘNG ĐỒNG YÊU THƯƠNG

Tác giả: Rainer Gehrig

Chuyển ngữ: Ts. Gioan Nguyễn Long Quân

Nguồn: daminhvn.net

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/thong-diep-deus-caritas-est-nhung-vien-tuong-cho-than-hoc-bac-ai

 

***

15.  Hội ngộ Truyền thông Giáo tỉnh Huế - 2025

WGPĐN (14/11/2025) - Trong tinh thần hiệp hành và chia sẻ, Truyền thông Giáo tỉnh Huế đã tổ chức cuộc hội ngộ từ ngày 11 đến 13/11/2025 tại giáo xứ Tam Tòa – Giáo phận Đà Nẵng.

Truyền thông Công giáo là hành trình của đức tin, bởi trên hành trình ấy dung mạo tình yêu Thiên Chúa được tỏa sáng và lan rộng. Người làm truyền thông mang trong mình ngọn lửa yêu thương và niềm hy vọng. Sứ vụ loan báo Tin mừng hôm nay mời gọi mỗi người “hãy chia sẻ niềm hy vọng trong tâm hồn anh chị em cách hiền hòa” (x. 1Pr 3,15-16), biết lắng nghe bằng trái tim và lan tỏa niềm hy vọng ấy bằng chính đời sống mình.

Trong tinh thần hiệp hành và chia sẻ, Truyền thông Giáo tỉnh Huế đã tổ chức cuộc hội ngộ từ ngày 11 đến 13/11/2025 tại giáo xứ Tam Tòa – Giáo phận Đà Nẵng.

Cuộc hội ngộ khởi động vào chiều 11/11/2025 khi Ban Truyền thông các giáo phận Nha Trang, Ban Mê Thuột, Kon Tum và Huế lần lượt đặt chân đến Đà Nẵng. Ban Truyền thông chủ nhà Đà Nẵng đã đón tiếp chu đáo và chuẩn bị mọi sự thật ân cần. Sau bữa tối vui vẻ, chuyến xe nhẹ nhàng đưa anh chị em dạo qua các tuyến phố. Tiết trời se lạnh, những ánh đèn rực rỡ, tiếng sóng biển Mỹ Khê rì rào… tất cả tạo nên cảm xúc ấm áp trong lòng người mới đến và làm nổi bật sự thân thiện của Ban Truyền thông chủ nhà.

Ngày gặp gỡ chính thức mở đầu bằng Thánh lễ đồng tế lúc 5 giờ sáng 12/11/2025 tại Nhà thờ Tam Tòa, do Cha Bonaventura – Đại diện Giám quản Tông tòa – chủ sự. Bài Tin mừng nói về lòng biết ơn: mười người được Chúa Giêsu chữa lành nhưng chỉ một người ngoại quay lại tạ ơn. Cha Bonaventura nhắc nhớ mọi người làm truyền thông hãy khiêm tốn nhận ra khả năng mình có là hồng ân, và biết cảm tạ Thiên Chúa trong từng công việc phục vụ.

Phần học hỏi được mở đầu với đề tài “Số hóa trong quản trị giáo xứ” do Cha Giuse Nguyễn Xuân Dương trình bày; tiếp đến là bài chia sẻ “AI trong mục vụ truyền thông” của Cha Giuse Vũ Hữu Hiền. Đây đều là những đề tài thiết thực trong bối cảnh hiện nay, khi công nghệ số đang mở ra những cơ hội mới cho công cuộc loan báo Tin mừng. Sau giờ giải lao, đại diện các giáo phận đã cởi mở chia sẻ những kinh nghiệm, phương pháp, thuận lợi và khó khăn trong hoạt động truyền thông tại từng nơi.

Có thể nói, trí tuệ nhân tạo là một sức mạnh lớn lao: vừa là cơ hội, vừa là thách đố cho Truyền thông Công giáo. Trách nhiệm này đòi hỏi người truyền thông phải bền bỉ gìn giữ giá trị đạo đức, sự thật và bình an trong tình yêu Thiên Chúa. Điều không dễ dàng ấy lại chính là nền tảng tạo nên vẻ đẹp thực sự của sứ vụ.

Không khí buổi chia sẻ thêm sôi nổi khi các tham dự viên cùng tham gia phần thực hành ứng dụng, giúp kiểm chứng kiến thức và mở ra những phương pháp dạy giáo lý sinh động hơn cho giới trẻ.

Buổi chiều, Cha Gioan Nguyễn Văn Hoàng – Đặc trách Truyền thông Giáo phận Đà Nẵng và Trưởng ban tổ chức – đã hướng dẫn đoàn hành hương linh địa Đức Mẹ Trà Kiệu trong Năm Thánh. Ngài giới thiệu lược sử Trà Kiệu, đặc biệt biến cố năm 1885, cùng những nét kiến trúc đặc trưng của linh địa. Một thành viên của đoàn Ban Mê Thuột đã thốt lên: “Hãy đến mà xem! Thật không ngờ… sự vĩ đại của tình yêu!” – như một lời xác tín về ơn Chúa đang chạm vào tâm hồn mọi người.

Buổi tối giao lưu huynh đệ tại khu sinh thái dưới chân Bà Nà khép lại một ngày dài đong đầy hồng ân. Không khí thân mật, tiếng cười, những tiết mục đơn sơ mà chân tình như thắt chặt thêm tình hiệp thông giữa các giáo phận.

Về đây hội ngộ truyền thông

Có năm giáo phận đồng lòng vui tươi

Môi ai cũng nở nụ cười

Nếu mà chấm điểm – điểm mười trao ai?

Vì ai cũng là thừa sai

Kẻ quay, người chụp, viết bài cùng nhau

Truyền thông muôn vẻ muôn màu

Tin Mừng gieo rắc đậm sâu tâm hồn.

Thánh lễ Tạ ơn bế mạc diễn ra lúc 6 giờ 30 sáng ngày 13/11/2025. Bài Tin mừng nói về sự khôn ngoan. Cha Giuse Vũ Hữu Hiền chia sẻ về “khôn ngoan của trái tim”: truyền thông Công giáo phải hành động với sự khôn ngoan do Chúa Thánh Thần soi dẫn; biết dùng Lời Chúa làm ánh sáng dẫn đường; biết vận dụng công nghệ số để giúp thế giới nhận ra dung mạo Chúa Giêsu ngày càng rạng ngời hơn.

Chúng ta đang sống trong Năm Thánh Hy Vọng. Hơn bao giờ hết, truyền thông Công giáo được mời gọi khơi dậy niềm hy vọng, trở thành những môn đệ thừa sai trong không gian số, đặt lợi ích của đức tin làm kim chỉ nam, để ánh sáng Tin mừng được tỏa lan bằng sự thật và tình yêu.

Sau Thánh lễ, bữa sáng huynh đệ diễn ra trong bầu khí ấm áp. Cha Phêrô Nguyễn Vũ – Đặc trách Truyền thông Giáo phận Huế – đại diện cảm ơn Cha Gioan Nguyễn Văn Hoàng và Ban Truyền thông Giáo phận Đà Nẵng đã chuẩn bị chu đáo, giúp cuộc hội ngộ gặt hái nhiều hoa trái và mở ra tình hiệp thông bền chặt. Cha Phêrô Nguyễn Minh Hiển – Đặc trách Truyền thông Giáo phận Ban Mê Thuột – cũng thân tình mời gọi Truyền thông Giáo tỉnh Huế hội ngộ lần tới, 2026 tại miền Tây Nguyên nắng gió, nơi sợi dây yêu thương sẽ tiếp tục được nối dài.

Những chuyến xe bắt đầu lăn bánh. Hành trang mang về là sự yêu mến, nhiệt huyết và chút lưu luyến. Những cái bắt tay, những nụ cười, những cánh tay vẫy chào trong buổi sáng Đà Nẵng hanh vàng se lạnh như giữ lại trong tim mỗi người một ký ức đẹp của cuộc hội ngộ truyền thông năm nay.

Bài viết: Matta Thùy Dương

Hình ảnh: Minh Thơ, Minh Hoàng

Nguồn: giaophandanang.org

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/hoi-ngo-truyen-thong-giao-tinh-hue--2025

 

***

16.  Sắc chỉ của Đức Thánh Cha Lêô XIV về việc thành lập Tông đồ Biển cả, cơ quan điều phối công cuộc tông đồ biển cả

Bản dịch của Ủy ban Phát triển Con người Toàn diện

WHĐ (16/11/2025) – Vào ngày 13 tháng 11 năm 2025, Sắc chỉ thiết lập Tông đồ Biển cả đã được công bố, qua đó Đức Giáo hoàng Lêô XIV thiết lập Tông đồ Biển cả như là cơ quan trung ương và điều phối của Công cuộc Tông đồ Biển cả, đồng thời phê chuẩn Quy chế của cơ quan này. Trong một thời gian dài, Giáo hội đã đồng hành với những người sống và làm việc trên biển, chăm sóc những nhu cầu thiêng liêng đặc thù của những ai sống và lao động trong môi trường hàng hải. Việc thiết lập cơ quan trung ương, điều phối này phát xuất từ “việc chăm sóc thiêng liêng của Hội thánh trong lĩnh vực mục vụ biển cả sẽ tiếp tục với nhiệt huyết và quảng đại”, như được nêu trong Sắc chỉ.

Cơ quan này được hình thành sau một tiến trình tham khảo quan trọng bắt đầu từ tháng 10 năm 2023, với sự tham gia của các giám đốc quốc gia và các giám mục đặc trách Công cuộc Tông đồ Biển cả tại các châu lục khác nhau, và được tiếp tục trong năm 2025 với những cuộc tham khảo chuyên sâu hơn về các mục tiêu và cơ cấu của Tông đồ Biển cả. Các cuộc tham khảo được thực hiện và điều phối bởi Bộ Phục vụ Phát triển Con người Toàn diện, cơ quan mà theo Điều 166 § 1 của Tông hiến Praedicate Evangelium chăm lo cả việc định hướng toàn bộ Công cuộc Tông đồ Biển cả cũng như việc giám sát cơ quan trung ương của tổ chức này (Điều 1 § 3 của Quy chế Tông đồ Biển cả).

Ủy ban Phát triển Con người Toàn diện hân hoan giới thiệu toàn văn Việt ngữ của sắc chỉ thành lập của Đức Thánh Cha Lêô XIV và quy chế của Tông đồ Biển cả.

 

SẮC CHỈ CỦA ĐỨC THÁNH CHA LÊÔ XIV

VỀ VIỆC THÀNH LẬP TÔNG ĐỒ BIỂN CẢ,

CƠ QUAN ĐIỀU PHỐI CÔNG CUỘC TÔNG ĐỒ BIỂN CẢ

Công cuộc Tông đồ Biển cả (Opus Apostolatus Maris) đảm nhận việc chăm sóc mục vụ đặc thù hướng đến “dân biển”, nghĩa là các thủy thủ, người đi biển và gia đình của họ, cũng như các cá nhân khác có đời sống gắn liền về bản chất với hàng hải và nghề đánh cá trên biển, trên sông và trên hồ, vốn từ lâu đã là mối quan tâm đặc biệt của Hội thánh.

Điều này được chứng minh qua nhiều can thiệp mục vụ và pháp lý của Tòa thánh, nhằm đáp ứng nhu cầu thiêng liêng của những tín hữu vì lý do di chuyển mà không thể hưởng sự chăm sóc mục vụ thông thường, như Tự sắc Iam pridem ngày 19 tháng 3 năm 1914 của Thánh Piô X; Tông hiến Exsul Familia ngày 01 tháng 8 năm 1952 của Đức Piô XII; Sắc lệnh về Nhiệm vụ Mục vụ của các Giám mục trong Giáo hội Christus Dominus ngày 28 tháng 10 năm 1965 của Công đồng Vatican II; hay Tự sắc Pastoralis migratorum cura ngày 15 tháng 8 năm 1969 của Thánh Phaolô VI.

Trong số các nhóm người bị ảnh hưởng bởi hiện tượng di cư, Tòa thánh đặc biệt quan tâm đến nhu cầu của “dân biển” bằng những biện pháp luôn nhấn mạnh đặc thù của nhóm tín hữu này.

Công cuộc Tông đồ Biển cả, ra đời từ đầu thế kỷ XX, đã được Tòa thánh chấp thuận lần đầu vào năm 1922. Sau đó, năm 1942, Đức Giáo hoàng Piô XII quyết định rằng Thánh Bộ Công nghị khi đó “đảm nhiệm quyền chỉ đạo tối cao của Công cuộc” Tông đồ Biển cả (xem Ex Audientia SS.mi, ngày 30.5.1942, số 334/40). Quy định này được xác nhận trong Tông hiến Exsul Familia đã nêu (xem số 8). Ngày 21 tháng 11 năm 1957, Thánh Bộ Công nghị ban hành Leges Operis Apostolatus Maris, quy định các chuẩn mực cho việc chăm sóc mục vụ các thủy thủ và người đi biển, đồng thời trao cho các Tuyên úy của Tông đồ Biển cả những quyền hạn và đặc quyền nhất định. Với Sắc lệnh Apostolatus Maris của Ủy ban Tòa thánh về Chăm sóc thiêng liêng cho người di cư và người hành hương ngày 24 tháng 9 năm 1977, các quy định và quyền hạn được xem xét lại theo tinh thần Công đồng Vatican II. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II với Tự sắc Stella Maris ngày 31 tháng 01 năm 1997 đã cập nhật các quy định trước đó, và cuối cùng, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã quyết định giao quyền điều hành Công cuộc Tông đồ Biển cả cho Bộ Phục vụ Phát triển Con người Toàn diện, cơ quan này đồng thời tiếp nhận các thẩm quyền liên quan đến mục vụ cho người di cư và người hành hương (xem điều 166 §1, Tông hiến Praedicate Evangelium).

Xét đến hoàn cảnh và nhu cầu hiện nay, được nhận thấy từ những người phục vụ “dân biển”, và với khát vọng chân thành rằng việc chăm sóc thiêng liêng của Hội thánh trong lĩnh vực mục vụ biển cả sẽ tiếp tục với nhiệt huyết và quảng đại, bằng Sắc chỉ này, tôi thành lập Tông đồ Biển cả, cơ quan điều phối Công cuộc Tông đồ Biển cả, với tư cách pháp nhân công khai theo giáo luật, đồng thời phê chuẩn Điều lệ của nó.

Cơ quan trung ương này của Công cuộc Tông đồ Biển cả, theo điều 166 §1 của Tông hiến Praedicate Evangelium, sẽ trực thuộc giáo luật Bộ Phục vụ Phát triển Con người Toàn diện, và ngoài Điều lệ đã nêu, sẽ tuân theo Tự sắc về các pháp nhân công cụ của Giáo triều Rôma ngày 5 tháng 12 năm 2022, cũng như các luật của Thành quốc Vatican có liên quan.

Những gì đã được Tự sắc Stella Maris, ngày 31 tháng 1 năm 1997, thiết lập cho Công cuộc Tông đồ Biển cả vẫn được giữ nguyên.

Tôi ra lệnh Sắc chỉ này cùng với Điều lệ đi kèm được công bố trên L’Osservatore Romano, có hiệu lực ngay lập tức, và sau đó được công bố trong công báo chính thức của Acta Apostolicae Sedis.

Tại Vatican, ngày 06 tháng 11 năm 2025

Giáo hoàng Lêô XIV

_____________________________________



QUY CHẾ TÔNG ĐỒ BIỂN CẢ

Điều 1

§1. Tông đồ Biển cả là cơ quan trung ương và điều phối của Công cuộc Tông đồ Biển cả (Opera dell’Apostolato del mare).

§2. Tông đồ Biển cả có tư cách pháp nhân giáo luật công và đặt trụ sở tại Via del Pellegrino, s.n.c., Thành quốc Vatican.

§3. Tông đồ Biển cả, theo giáo luật, trực thuộc Bộ Phục vụ Phát triển Con người Toàn diện, bộ này, phù hợp với điều 166 §1 của Tông hiến Praedicate Evangelium, thi hành cả việc điều hành toàn bộ Công cuộc Tông đồ Biển cả, lẫn việc giám sát cơ quan trung ương của công trình này. Vì mục đích đó, Bộ, theo các phương thức được coi là thích hợp, tham dự các cuộc họp của Đại hội đồng và Hội đồng Đại diện, và trong những trường hợp được quy định trong Điều lệ này, thực hiện việc bổ nhiệm và xác nhận các chức vụ.

§4. Tông đồ Biển cả được điều hành bởi luật Giáo hội và luật dân sự Vatican áp dụng cho các pháp nhân có trụ sở tại Thành quốc Vatican.

§5. Trong các vấn đề mục vụ, Tông đồ Biển cả tham chiếu Tự sắc Stella Maris, ban hành ngày 31 tháng 01 năm 1997.

Điều 2

§1. Tông đồ Biển cả điều phối hoạt động của các thực thể mục vụ địa phương được thiết lập bởi các Hội đồng Giám mục có lãnh thổ giáp biển, sông hoặc hồ; cổ võ sự quan tâm của chính các Hội đồng Giám mục ấy và cung cấp cho họ các định hướng mục vụ, cơ hội huấn luyện, đồng hành và nâng đỡ các sáng kiến dành cho các cá nhân và cộng đoàn gắn bó với việc hàng hải, đánh cá và chăm sóc các môi trường liên hệ.

§2. Mỗi Hội đồng Giám mục nói ở §1, khi gia nhập Công cuộc Tông đồ Biển cả bằng cách thiết lập một pháp nhân giáo luật địa phương cho mục đích này, hoặc thúc đẩy công trình ấy như một dự án mục vụ hay một văn phòng của chính Hội đồng, và thông báo một trong các phương thức được chọn cho Bộ Phục vụ Phát triển Con người Toàn diện, Bộ này thông báo sự gia nhập ấy cho Tông đồ Biển cả, thì Hội đồng Giám mục đó tham gia Đại hội đồng của công cuộc.

§3. Tông đồ Biển cả, với sự tôn trọng tính tự chủ của các thực thể mục vụ địa phương, cổ võ sự hợp tác giữa họ, sự nâng đỡ thiêng liêng và vật chất lẫn nhau, trao đổi thông tin và phối hợp trong lãnh vực mục vụ.

§4. Hoạt động của Tông đồ Biển cả và, nếu cần, của các thực thể mục vụ địa phương thuộc Công cuộc Tông đồ Biển cả, trong phạm vi luật pháp quốc tế, phải được Phân ban Quan hệ với Các Quốc gia và Các Tổ chức Quốc tế của Phủ Quốc vụ khanh cho phép trước.

Điều 3

Các cơ quan của Tông đồ Biển cả gồm có:

a) Đại hội đồng;
b) Hội đồng Đại diện;
c) Chủ tịch;
d) Tổng Thư ký;
e) Thủ quỹ;
f) Kiểm toán viên.

Điều 4

§1. Đại hội đồng là cơ quan chính quyền tối cao của Tông đồ Biển cả.

§2. Đại hội đồng gồm các đại diện của các Hội đồng Giám mục quy định tại điều 2. Mỗi Hội đồng Giám mục được đại diện bởi Giám mục Đặc trách, hoặc, nếu ngài vắng mặt, bởi Giám đốc Quốc gia của Công cuộc Tông đồ Biển cả.

§3. Đại hội đồng họp bốn năm một lần.

§4. Đại hội đồng được triệu tập và chủ tọa bởi Chủ tịch đương nhiệm của Tông đồ Biển cả.

§5. Đại hội đồng hành động cách hiệp hành, theo Quy chế do chính Đại hội đồng phê chuẩn.

§6. Tổng Thư ký, Thủ quỹ và các Điều phối viên vùng (nếu được bổ nhiệm) tham dự Đại hội đồng nhưng không có quyền bỏ phiếu.

§7. Đại hội đồng có thẩm quyền:

a) xác định khung chiến lược và kế hoạch tài chính cho bốn năm kế tiếp;
b) bầu chọn Chủ tịch và các thành viên Hội đồng Đại diện;
c) nhận và xem xét báo cáo thực hiện kế hoạch chiến lược trước đó;
d) ấn định mức phí gia nhập;
e) phê chuẩn báo cáo tài chính và tổng ngân sách cho giai đoạn kể từ Đại hội đồng trước;
f) phê chuẩn các sửa đổi Điều lệ để sau đó trình lên Thẩm quyền có thẩm quyền phê chuẩn chung cuộc;
g) phê chuẩn các Quy chế, cũng như các sửa đổi của chúng.

Điều 5

§1. Trong thời gian giữa hai kỳ họp Đại hội đồng, Tông đồ Biển cả được quản trị bởi Hội đồng Đại diện.

§2. Hội đồng Đại diện gồm 9 thành viên của Đại hội đồng, được bầu theo Quy chế đã được phê chuẩn, bảo đảm tính đại diện địa lý cũng như tương quan thực tế của việc phục vụ mục vụ của các Hội đồng Giám mục liên hệ.

§3. Hội đồng Đại diện được triệu tập và chủ tọa bởi Chủ tịch Tông đồ Biển cả hoặc, nếu văn phòng của ngài khuyết vị hay bị ngăn trở, bởi thành viên cao niên nhất của Hội đồng.

§4. Hội đồng hoạt động cách đồng nghị, theo Quy chế do Đại hội đồng phê chuẩn.

§5. Hội đồng có nhiệm vụ:

a) đưa ra các quyết định điều hành không dành riêng cho Đại hội đồng, cần thiết cho việc thăng tiến hoạt động của Công cuộc Tông đồ Biển cả;
b) chuẩn bị kế hoạch làm việc nhiều năm của Tông đồ Biển cả để trình Đại hội đồng phê chuẩn;
c) phê chuẩn ngân sách dự chi và quyết toán của Tông đồ Biển cả;
d) giám sát hoạt động của Tổng Thư ký;
e) đảm nhiệm mọi chức năng khác do Đại hội đồng ủy thác hoặc cần thiết cho việc điều hành tốt Tông đồ Biển cả.

Điều 6

§1. Chủ tịch Tông đồ Biển cả được Đại hội đồng bầu từ hàng các Giám mục Đặc trách và được Bộ Phục vụ Phát triển Con người Toàn diện phê chuẩn.

§2. Nhiệm kỳ của Chủ tịch bắt đầu từ khi bế mạc Đại hội đồng đã bầu chọn người ấy và kết thúc khi bế mạc Đại hội đồng kế tiếp.

§3. Nếu Chủ tịch mất chức trong thời gian giữa hai Đại hội đồng, Hội đồng Đại diện bầu một Chủ tịch lâm thời từ các thành viên của mình, người này phải được Bộ Phục vụ Phát triển Con người Toàn diện phê chuẩn. Nhiệm kỳ Chủ tịch lâm thời kết thúc khi bế mạc Đại hội đồng kế tiếp và không cản trở khả năng được bầu làm Chủ tịch chính thức.

§4. Không ai được bầu làm Chủ tịch quá hai nhiệm kỳ.

§5. Chủ tịch có nhiệm vụ:

a) điều hành Tông đồ Biển cả;
b) triệu tập và chủ tọa các cuộc họp của Đại hội đồng và Hội đồng Đại diện;
c) duy trì và quản lý, với sự hỗ trợ của Tổng Thư ký, các mối liên hệ với các cơ quan và tổ chức hữu trách của Tòa thánh.

Điều 7

§1. Tổng Thư ký Tông đồ Biển cả được Hội đồng Đại diện đề cử và được Bộ Phục vụ Phát triển Con người Toàn diện bổ nhiệm trong nhiệm kỳ 5 năm có thể tái bổ nhiệm.

§2. Tổng Thư ký là người đại diện hợp pháp của Tông đồ Biển cả.

§3. Tổng Thư ký có nhiệm vụ:

a) thi hành các quyết định của Đại hội đồng và Hội đồng Đại diện, cũng như các nhiệm vụ khác được trao phó;
b) soạn thảo, với sự cộng tác của Thủ quỹ, đề nghị ngân sách để trình Hội đồng Đại diện;
c) bảo đảm việc cập nhật thường xuyên cho Bộ Phục vụ Phát triển Con người Toàn diện;
d) chuẩn bị các phiên họp của Hội đồng Đại diện và Đại hội đồng, cũng như điều hành các hoạt động liên quan đến chức năng của Tông đồ Biển cả.

Điều 8

§1. Thủ quỹ Tông đồ Biển cả được Đại hội đồng bầu theo đề nghị của Hội đồng Đại diện và được Bộ Phục vụ Phát triển Con người Toàn diện phê chuẩn.

§2. Nhiệm kỳ Thủ quỹ bắt đầu với việc bế mạc Đại hội đồng đã bầu chọn và kết thúc khi bế mạc Đại hội đồng kế tiếp.

§3. Không ai được bầu làm Thủ quỹ quá hai nhiệm kỳ.

§4. Thủ quỹ có nhiệm vụ:

a) thông tin cho Hội đồng Đại diện về ảnh hưởng kinh tế, tài chính và ngân sách của các quyết định;
b) trình ngân sách đã được Hội đồng Đại diện phê chuẩn lên Thẩm quyền hữu trách để phê chuẩn chung cuộc.

Điều 9

§1. Kiểm toán viên được Phủ Kinh tế bổ nhiệm với nhiệm kỳ 5 năm và có thể được tái bổ nhiệm.

§2. Kiểm toán viên có nhiệm vụ:

a) giám sát việc ghi chép kế toán và sự phù hợp của ngân sách với sổ sách kế toán, theo các quy định pháp luật hiện hành;
b) soạn thảo bản báo cáo về ngân sách dự chi và quyết toán;
c) có thể tiến hành bất cứ lúc nào các cuộc thanh tra và kiểm soát, sau đó gửi báo cáo cho Phủ Kinh tế;
d) tham dự, không có quyền bỏ phiếu, các cuộc họp của Hội đồng khi các vấn đề được thảo luận đòi hỏi sự hiện diện của người ấy.

Điều 10

Tuyên úy của Tông đồ Biển cả được Bộ Phục vụ Phát triển Con người Toàn diện bổ nhiệm, và Bộ cũng ấn định phương thức thi hành sứ vụ mục vụ của vị này.

Điều 11

§1. Tài sản của Tông đồ Biển cả bao gồm:

a) quỹ tài trợ ban đầu trị giá 50.000 € (năm mươi nghìn euro), gửi tại Viện Công trình Tôn giáo (IOR);
b) các tiền dâng cúng, tặng dữ, thừa kế, di chúc, tài trợ và đóng góp được dành cho mục đích trên;
c) mọi tài sản khác thu nhận được.

§2. Lợi tức và thu nhập của tài sản Tông đồ Biển cả được sử dụng để đạt các mục tiêu của tổ chức được nêu trong Điều lệ này, theo các tiêu chí và phương thức do Hội đồng Đại diện quyết nghị.

§3. Tông đồ Biển cả được tài trợ bởi các đóng góp của các Hội đồng Giám mục được nêu tại điều 2.

§4. Mức phí tham gia do Đại hội đồng ấn định.

§5. Nghiêm cấm việc phân chia, dưới bất kỳ hình thức nào, lợi nhuận, thặng dư ngân sách, quỹ dự trữ hoặc vốn, những khoản này phải được sử dụng cho mục tiêu của Tông đồ Biển cả.

§6. Trong trường hợp giải thể, tài sản còn lại được chuyển giao cho Tòa thánh.

Điều 12

Việc sửa đổi Điều lệ này thuộc thẩm quyền của Giáo hoàng Rôma và có thể được Đại hội đồng đề nghị nếu được đa số tuyệt đối thành viên tán thành.

Điều 13

Đối với những gì không được quy định trong Điều lệ này, các quy định hiện hành của Giáo luật được áp dụng.

Tại Vatican, ngày 6 tháng 11 năm 2025

Giáo hoàng Lêô XIV

(Nguồn: WHĐ)

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/sac-chi-cua-duc-thanh-cha-leo-xiv-ve-viec-thanh-lap-tong-do-bien-ca-co-quan-dieu-phoi-cong-cuoc-tong-do-bien-ca

 

***

17. Ủy ban Loan báo Tin mừng gợi ý suy niệm chầu Thánh Thể tháng 12/2025 - Đức Kitô hiện diện giữa dân người

Ủy ban Loan báo Tin mừng

WHĐ (15/11/2025) – Ủy ban Loan báo Tin mừng gợi ý bài suy niệm chầu Thánh Thể sau đây để cầu nguyện cho việc truyền giáo trong tháng 12/2025.

ỦY BAN LOAN BÁO TIN MỪNG – HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM
72/12 Trần Quốc Toản - Võ Thị Sáu - Quận 3 - Tp.HCM - Việt Nam
Email: evangelization@cbc-vietnam.org; Đt: 0905.505.022

GỢI Ý SUY NIỆM CHẦU THÁNH THỂ - NĂM 2026

Cùng nhau loan báo Tin Mừng

ĐỨC KITÔ HIỆN DIỆN GIỮA DÂN NGƯỜI

Tháng 12/2025

A. Lời Chúa

“Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20).

 

B. Ơn xin trong giờ chầu

Cho con luôn nhận ra sự hiện diện của Chúa trong đời con và trong những người xung quanh.

 

C. Gợi ý suy niệm

1. Sự hiện diện âm thầm của Chúa

Chúa Giêsu Thánh Thể không ồn ào, không phô trương, nhưng lặng lẽ hiện diện, để đồng hành với Hội Thánh và từng tâm hồn, như người bạn trung tín chẳng bao giờ rời xa.

Chính sự âm thầm ấy lại chất chứa một tình yêu nồng nàn, mang đến bình an cho những ai biết dừng lại và mở lòng đón nhận.

Khi nhận ra sự hiện diện này, ta không còn cô đơn, nhưng có sức mạnh để bước đi trong hành trình truyền giáo đầy thử thách.

Câu hỏi gợi ý hồi tâm: Tôi có biết nhận ra sự hiện diện thầm lặng nhưng đầy yêu thương của Chúa trong những khoảnh khắc bình thường của đời sống không?

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin mở mắt tâm hồn con để con luôn nhận ra sự hiện diện trung tín của Chúa bên đời con.

Thinh lặng cầu nguyện ít phút, sau đó hát một bài thánh ca thích hợp

 

2. Hiện diện để nâng đỡ

Biết bao tâm hồn mệt mỏi đã tìm thấy nơi Thánh Thể nguồn an ủi, vì chính Chúa Giêsu là Đấng khích lệ, vực dậy và ban thêm sức mạnh cho những kẻ yếu đuối.

Người là nơi ta có thể trút bỏ gánh nặng, những nỗi lo âu, để đón nhận sự chữa lành sâu xa từ tình yêu Thiên Chúa.

Khi để cho Chúa nâng đỡ, ta không còn dừng lại trong nản chí, nhưng tìm thấy niềm hy vọng mới để tiếp tục bước đi.

Câu hỏi gợi ý hồi tâm: Tôi có thường tìm đến với Thánh Thể để kín múc sức mạnh thiêng liêng, hay tôi chỉ dựa vào sức riêng trong sứ vụ?

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết chạy đến với Chúa để tìm nguồn sức mạnh và niềm an ủi trong mọi nghịch cảnh.

Thinh lặng cầu nguyện ít phút, sau đó hát một bài thánh ca thích hợp

 

3. Hiện diện để sai đi

Chúa Giêsu hiện diện trong Thánh Thể không chỉ để an ủi ta, nhưng còn để sai ta ra đi, trở thành tấm bánh bẻ ra cho thế giới hôm nay.

Chính nơi bàn thờ, ta lãnh nhận sức sống thần linh, rồi được mời gọi mang tình yêu và ánh sáng Tin Mừng đến cho anh chị em.

Gặp Chúa nơi Thánh Thể mà không ra đi làm chứng thì chưa trọn vẹn; Thánh Thể luôn thôi thúc ta sống cho tha nhân trong khiêm nhường và yêu thương.

Câu hỏi gợi ý hồi tâm: Tôi đã để cho Thánh Thể biến đổi đời mình, để trở nên chứng nhân đích thực cho Tin Mừng giữa lòng thế giới chưa?

Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi con thành khí cụ của tình yêu Chúa, để qua đời sống con, nhiều người nhận ra sự hiện diện của Ngài.

Thinh lặng cầu nguyện ít phút, sau đó hát một bài thánh ca thích hợp

 

Lưu ý:

1) Những gợi ý cầu nguyện này có thể được suy niệm trong một giờ chầu hoặc mỗi giờ suy niệm một gợi ý. Điều quan trọng không phải là “suy niệm hết ý” nhưng là suy niệm sâu và cầu nguyện sốt sắng.

2) Tùy theo hoàn cảnh mỗi nơi, sau mỗi ý suy niệm, người hướng dẫn có thể mời gọi cộng đoàn dâng lời nguyện tự phát hoặc những hình thức khác thích hợp.

3) Các đề tài suy niệm trong năm 2025 có liên hệ mật thiết với nhau để làm nên một tiến trình “cùng nhau loan báo Tin Mừng”. Vì thế, người hướng dẫn (nếu chọn loạt bài gợi ý này) nên theo đến cùng thì sẽ hữu ích hơn.

(Nguồn: WHĐ)

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/uy-ban-loan-bao-tin-mung-goi-y-suy-niem-chau-thanh-the-thang-122025---duc-kito-hien-dien-giua-dan-nguoi

 

***

18.  Thư gửi anh chị em giáo chức Công giáo nhân ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11/2025

Giám mục Phêrô Huỳnh Văn Hai

WHĐ (17/11/2025) – Ngày 15 tháng 11 năm 2025, Đức cha Phêrô Huỳnh Văn Hai, Chủ tịch Ủy ban Giáo dục Công giáo đã viết thư gửi anh chị em giáo chức Công giáo nhân ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11/2025. Sau đây là toàn văn bức thư của Đức cha Phêrô:

ỦY BAN GIÁO DỤC CÔNG GIÁO
trực thuộc
Hội Đồng Giám Mục Việt Nam

 

THƯ GỬI ANH CHỊ EM GIÁO CHỨC CÔNG GIÁO
NHÂN NGÀY NHÀ GIÁO VIỆT NAM 20.11.2025

Quý Thầy Cô giáo thân mến,

Tôi xin gửi lời chào thân ái đến tất cả anh chị em nhân ngày Nhà Giáo Việt Nam 20.11.2025. Chắc chắn ai trong chúng ta cũng hiểu rằng: là một giáo viên Công giáo, ngoài sứ mệnh giáo dục trong tinh thần truyền giáo, chúng ta còn được nhắc nhở phải sống gương mẫu, tôn trọng phẩm giá, có hành vi tận tâm và nhiều phẩm chất khác trong vai trò của mình. Một trong những lời chào mừng nhân ngày Nhà Giáo Thế Giới 2023, đó là chúc mừng các nhà giáo, những người không ngừng cống hiến cuộc đời mình để kiến tạo tương lai. Niềm đam mê giảng dạy của các nhà giáo truyền cảm hứng cho tất cả mọi người. Hãy luôn nhớ rằng, trong cái nhìn đức tin, thầy cô giáo cũng là những người được Thiên Chúa tuyển chọn. Thánh Phaolô đã viết: “Trong Hội Thánh, Thiên Chúa đã đặt một số người, thứ nhất là các Tông Đồ, thứ hai là các ngôn sứ, thứ ba là các thầy dạy, rồi đến những người được ơn làm phép lạ, được những đặc sủng để chữa bệnh, để giúp đỡ người khác, để quản trị, để nói các thứ tiếng lạ” (1 Cr 12, 28). Nhân ngày đặc biệt này, tôi cũng muốn chia sẻ với anh chị em thêm đôi nét nữa về sứ mạng giáo dục Kitô giáo, mà anh chị em đã và đang là những chứng nhân sống động của Giáo hội.

1. Vai trò của giáo dục Kitô giáo

Nếu đặt câu hỏi rằng: điều gì đang tác động mạnh mẽ trên đời sống con người hôm nay, thì câu trả lời sẽ là công nghệ số. Ngành công nghệ này đã mở ra vô vàn cơ hội mới cho sự phát triển cá nhân và xã hội trong rất nhiều lãnh vực cuộc sống. Nhờ vào các công cụ công nghệ, thông tin được truyền tải nhanh chóng, giúp việc học tập, nghiên cứu và giao tiếp trở nên thuận tiện, hiệu quả hơn. Nhưng liệu rằng, những tiến bộ vượt bậc và đa dạng của công nghệ số có thay thế được cho vai trò của giáo dục? Thế giới phẳng và tốc độ kia có làm mờ nhạt sứ mệnh của những người thầy trong việc thăng tiến con người? Chắc chắn là không. Trí khôn nhân tạo (AI) có thể cung cấp cho chúng ta vô số kiến thức một cách nhanh chóng và thuyết phục, nhưng nó không thể đào luyện cho con người một nền đạo đức đúng nghĩa, vốn được chuyển tải bằng cuộc sống và chứng nhân. Bởi vì “Giáo dục không chỉ là việc truyền tải kiến thức mà còn là sự hình thành toàn diện con người – về trí tuệ, tình cảm, nhân bản và thiêng liêng” (Đức Giáo Hoàng Phanxicô). Tuy nhiên, thích nghi và ứng dụng công nghệ vào lãnh vực giáo dục, là một việc làm chúng ta cần phải nắm bắt và cập nhật. Carlo Acutis, vị Thánh trẻ của Giáo hội trong thời đại Internet là một tấm gương tiêu biểu. Trong Thánh lễ tuyên Chân phước vào ngày 10 tháng 10 năm 2020, Đức Hồng y Vallini nói: “Carlo đã dùng Internet để phục vụ Tin Mừng, đến với càng nhiều người càng tốt. Internet không phải là nơi trốn chạy mà là nơi gặp gỡ, chia sẻ và tôn trọng lẫn nhau….”. Cho nên, chúng ta phải cố gắng hết sức có thể để thực thi sứ mạng của mình trong môi trường mới mẽ và phong phú này. Với Đức Giáo hoàng Phanxicô, Giáo dục Công giáo không những là nơi mà học sinh học để trang bị kiến thức, học để làm việc, mà còn học để sống, học để yêu thương và học để phục vụ, nên ngài đã khuyến khích các nhà giáo dục Công giáo: “Đừng dạy học sinh chỉ vì tri thức, mà hãy giúp họ khám phá ra rằng tri thức phải đi đôi với lòng thương xót và sự dấn thân phục vụ tha nhân”. Để đạt được mục tiêu này, ngài xác tín rằng: “Chúa Giêsu không chỉ là một phần của giáo dục, mà phải là trung tâm của mọi giáo dục Kitô giáo”.

2. Chúa Giêsu Kitô là bài học trọng tâm

Để biết về Chúa Giêsu, công nghệ số chỉ cần vài thao tác, nhưng để dạy về Đức Kitô, chúng ta phải học cả một đời. Nơi những trang sách Phúc âm, ta có thể nhìn thấy Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta trong những hình ảnh thật đẹp sau đây:

- Là người Thầy có lời dạy đơn giản: “Người dùng dụ ngôn mà nói với họ nhiều điều” (Mt 13, 3). Đây là cách chuyển tải thông điệp và những lời dạy được cho là hiệu quả nhất mà các bậc thầy và các vị ngôn sứ thời xưa thường áp dụngTuy nhiên, để hiểu các mầu nhiệm về Nước Trời, đôi lúc chính các tông đồ cũng phải chờ đợi một lời giải thích. Dù vậy, những câu chuyện dụ ngôn của Chúa Giêsu đã giúp chúng ta hiểu và ghi nhớ những gì đã được nói để áp dụng trong cuộc sống và công việc hàng ngày của mình. Nếu phải lập một danh sách những thử thách trong việc giáo dục, giảng dạy phúc âm, các nhà giáo sẽ phải áp dụng như thế nào? Bởi vì một số học sinh chưa sẵn sàng hoặc không có môi trường tốt để tiếp nhận lời thầy cô dạy mình. Với dụ ngôn người đi gieo giống, Thầy Giêsu, người gieo hạt đã xử lý tất cả các địa hình khác nhau và cho thấy kết quả thật lạ lùng : “…. Có những hạt lại rơi nhằm đất tốt, nên sinh hoa kết quả: hạt được gấp trăm, hạt được sáu chục, hạt được ba chục” (Mt 13, 4-8).

- Là người Thầy đáng tin cậy: “Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô Đức Chúa. Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ” (Lc 2,11-12). Ngay trong sự mô tả này đã hàm chứa một nghịch lý sâu xa: Đấng Kitô Đức Chúa mà chỉ là một trẻ thơ nghèo nàn trong máng cỏ. Rong ruổi trên bước đường rao giảng về Nước Trời trong một cuộc sống không có gì là hấp dẫn các môn sinh: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Mt 8, 20). Tất cả chỉ muốn nói lên một sự khó nghèo đầy tự nguyện. Chúa Giêsu chọn lấy nghèo khó và vô gia cư để không ai được buồn giận Ngài. Ngài là mẫu gương của nhà giáo, một thầy dạy bình dân đáng tin cậy và dễ hiểu đối với mọi người khi nói về sự khó nghèo, khi dạy về việc bố thí…(x. Mt 6, 14).

- Là người Thầy của Khôn Ngoan và Chân Lý: “Thầy là Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” (Ga 14, 6)Lời tự giới thiệu này được thốt lên trong khung cảnh Bữa Tiệc Ly, một sự kiện vừa chan chứa nghĩa tình thầy trò, nhưng cũng vừa dứt khoát để hiểu về sứ mạng của Chúa Giêsu. Người chính là con đường độc đạo và là trung gian duy nhất để nối kết con người với Thiên Chúa, là sự thật trọn hảo để giúp con người hiểu về lòng thương xót của Thiên Chúa và ý nghĩa cuộc đời mình, là sự sống tuyệt đối không bị tử thần kiềm hãm trong nấm mồ. Sự sống đó được hứa ban cho những ai tin vào Người ở đời sau vĩnh cửu. Từ đây, lời của Chúa Giêsu trở thành những lời nói có thẩm quyền và biến đổi nội tâm. Lời có thẩm quyền vì đó là những chân lý thuộc về thần linh, thường được xác nhận bởi những phép lạ kèm theo. Lời đó có sức biến đổi nội tâm vì sự khôn ngoan của Ngài không chỉ giới hạn ở việc tiếp thu kiến thức thế gian, mà là sự khôn ngoan đến từ Thiên Chúa và mời gọi con người sống trong mối tương quan tốt với Thiên Chúa.

3. Tâm tình của người đồng hành

Quý thầy cô thân mến, cuộc sống luôn biến chuyển thật nhanh chóng về mọi mặt. Thời đại công nghệ số đã ảnh hưởng sâu rộng trong tư duy và ứng xử của con người, nhất là những người trẻ hôm nay. Điều này luôn đặt chúng ta trước nhiều thách đố: phấn đấu để cuộc sống được ổn định, nỗ lực để chu toàn trách nhiệm của một người thầy trong xã hội và Giáo hội. Một chút kinh nghiệm trong vai trò của một nhà giáo, cũng giúp tôi hiểu và cảm thông được với những khó khăn mà anh chị em đã và đang phải đối diện trong bối cảnh xã hội luôn có quá nhiều đổi thay như vậy. Nếu như chúng ta đồng ý với Thánh Phaolô đã nói ở phần đầu: thầy cô giáo cũng là những người được Thiên Chúa tuyển chọn, thì thánh nhân cũng khuyên chúng ta đừng lơ là hay tự mãn trong sứ mạng của mình, vì điều đó rất nguy hiểm. Hãy luôn có lòng kiên nhẫn, nhân hậu và hiền hòa, hãy dạy dỗ khuyên bảo nhau với tất cả sự khôn ngoan và hãy nói nhân danh Chúa Giêsu (x. Cl 3, 12 – 17).

Với tất cả niềm vui và hy vọng của Năm Thánh 2025, thay lời cho Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, tôi chân thành gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo, những người thầy tận tâm tận lực, không chỉ truyền đạt kiến thức mà còn trao tặng cho môn sinh những giá trị về trí tuệ, sự chính trực và lòng kiên trì, “để đào tạo được những người nam và nữ không những tài giỏi về văn hóa, mà còn có một tâm hồn nhân ái và cao thượng, bởi vì thời đại chúng ta đang khẩn thiết đòi phải có những người như vậy” (Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội trong thế giới ngày nay, số 31).

Mến chúc quý thầy cô và tất cả những ai đang âm thầm dấn thân trong công tác giáo dục, luôn an lành mạnh khỏe, vươn lên trong kiến thức, gương mẫu trong đạo đức, nhân hậu trong cách sống, để chu toàn sứ mạng cao quý được giao phó cho mình.

CHÚC MỪNG NGÀY NHÀ GIÁO VIỆT NAM

Thân ái trong Chúa Kitô.

Vĩnh Long, ngày 15 tháng 11 năm 2025.



+ Phêrô Huỳnh Văn Hai

Giám mục Giáo Phận Vĩnh Long

Chủ tịch Ủy Ban Giáo Dục Công Giáo

(Nguồn: WHĐ)

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/thu-gui-anh-chi-em-giao-chuc-cong-giao-nhan-ngay-nha-giao-viet-nam-20112025

 

***

19.  Bảo vệ trẻ em trong thời đại AI

WHĐ (17/11/2025) – Bài viết phân tích ba nhóm lý do khoa học để cảnh báo về tác hại tiềm tàng của AI đối với trẻ em.

Dẫn nhập

1. Ảnh hưởng đến nhận thức và phát triển thần kinh

2. Cảm xúc và mối tương quan xã hội

3. Nguy cơ thao túng, thông tin sai lệch và lệ thuộc

Kết luận

 

Dẫn nhập

Sau một thời gian tìm hiểu kỹ về trí tuệ nhân tạo (AI), tôi có thể kết luận rằng không nên để trẻ em tiếp cận với AI một cách vô tội vạ. Trong thời đại công nghệ phát triển như vũ bão, Giáo hội Công giáo liên tục nhắc nhở chúng ta về nhu cầu cấp thiết phải sử dụng trí tuệ nhân tạo (AI) một cách có đạo đức và đặt con người làm trung tâm. Năm 2020, Tòa thánh đã khởi xướng bản tuyên ngôn “Rome Call for AI Ethics” kêu gọi các chính phủ và công ty bảo đảm AI tôn trọng phẩm giá con người, phục vụ lợi ích chung và không loại trừ những người dễ bị tổn thương. Cả Đức Phanxicô và Đức Lêô XIV đều nhấn mạnh rằng công nghệ, bao gồm AI, phải phục vụ gia đình nhân loại chứ không được làm tổn hại hay khai thác họ. Đặc biệt là những người “bé mọn nhất” trong chúng ta như trẻ em cần được bảo vệ. Vị Giáo hoàng hiện tại cảnh báo về viễn cảnh một nền văn minh “kỹ trị” thiếu vắng định hướng luân lý, trong đó tiến bộ kỹ thuật vượt xa tiến bộ đạo đức[1].

Với tầm nhìn trên, Giáo hội bày tỏ mối quan ngại sâu sắc đối với việc trẻ em tiếp xúc sớm và thiếu kiểm soát với AI nói riêng và công nghệ nói chung. Đức Thánh Cha Phanxicô, trong Tông huấn Christus Vivit gửi giới trẻ, từng lưu ý rằng môi trường kỹ thuật số có thể trở thành mảnh đất của cô đơn, thao túng và bạo lực, cản trở việc hình thành những tương quan lành mạnh (Christus vivit, 88). Tại một hội nghị Vatican về AI năm 2025, giáo sư Joachim von Braun (Chủ tịch Viện hàn lâm Khoa học Giáo hoàng) đã liệt kê hàng loạt nguy cơ nghiêm trọng mà AI mang lại cho giới trẻ: nghiện mạng xã hội, suy giảm nhận thức, xâm phạm đời tư, thao túng hành vi, thậm chí là bóc lột tình dục[2]. Đứng trước những nguy cơ này, Giáo hội khẩn thiết kêu gọi các bậc cha mẹ, nhà giáo dục và toàn xã hội hãy cảnh giác và đặt ra những giới hạn phù hợp để bảo vệ trẻ em là “những thành viên dễ tổn thương nhất” của gia đình nhân loại[3].

Dưới ánh sáng Tin mừng và giáo huấn của Hội thánh, tôi mời gọi quý phụ huynh và thầy cô “đừng để trẻ em tiếp xúc với AI” quá sớm hoặc thiếu kiểm soát. Dưới đây, chúng ta sẽ cùng phân tích ba nhóm lý do khoa học để cảnh báo về tác hại tiềm tàng của AI đối với trẻ nhỏ.

1. Ảnh hưởng đến nhận thức và phát triển thần kinh

Trí não trẻ em vẫn đang trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ. Do đó, việc tiếp xúc sớm với các thiết bị và ứng dụng AI có thể gây tác động tiêu cực lâu dài đến khả năng nhận thức. Chúng ta đều biết việc sử dụng màn hình quá mức ở trẻ nhỏ gắn liền với việc suy giảm các kỹ năng nhận thức sau này. Chẳng hạn cô Kylie, một giáo viên mỹ thuật của trường trung học nghệ thuật, đã chia sẻ suy nghĩ của mình về trải nghiệm khi làm giáo viên mẫu giáo cho thế hệ Alpha, rằng việc tiếp xúc với màn hình từ sớm có liên quan đến khả năng nhận thức và thành tích học tập thấp hơn khi trẻ đến tuổi đi học[4]. Lý do là các thiết bị kỹ thuật số thường tạo ra môi trường kích thích nhanh và liên tục, làm trẻ giảm khả năng tập trung và chú ý.

Các nhà thần kinh học nhi khoa cảnh báo rằng việc dành quá nhiều giờ cho màn hình, đặc biệt là xem video giải trí hay chơi ứng dụng không mang tính giáo dục, có thể dẫn tới những ảnh hưởng tiêu cực lâu dài trên não đang phát triển của trẻ[5]. Chẳng hạn, nghiên cứu trên hàng ngàn trẻ em cho thấy thời gian sử dụng màn hình quá nhiều có liên hệ với các triệu chứng tăng động giảm chú ý (ADHD) và thậm chí làm thay đổi một số cấu trúc não liên quan đến kiểm soát chú ý và xung động[6]. Bộ não non nớt có nguy cơ “điều chỉnh” theo cường độ kích thích cao từ công nghệ, khiến trẻ trở nên dễ xao nhãng, giảm kiên nhẫn với các hoạt động chậm rãi như đọc sách hay giải các bài tập.

AI còn có thể làm suy giảm khả năng tư duy độc lập và sáng tạo của trẻ. Đây là điều tôi quan ngại nhất! Khi trẻ quen dựa vào trợ lý ảo hoặc các ứng dụng AI để trả lời câu hỏi và giải quyết vấn đề, các em có nguy cơ đánh mất cơ hội rèn luyện tư duy phản biện và óc sáng tạo. Các chuyên gia có lý do chính đáng để lo ngại rằng những công cụ AI sẵn sàng cung cấp đáp án tức thì có thể “đánh cắp” những khoảnh khắc trẻ phải động não, thử-sai và tự tìm giải pháp, vốn rất quan trọng cho sự phát triển trí tuệ. Chẳng hạn, trong tập podcast Screen Deep, người dẫn chương trình Kris Perry trò chuyện với tiến sĩ Ying Xu, giảng viên tại trường Giáo dục sau đại học Harvard, chuyên về AI trong học tập và giáo dục. Tiến sĩ Xu chia sẻ kết quả nghiên cứu và góc nhìn mới về cách trẻ em hiện nay hiểu và tương tác với công nghệ AI, đồng thời phân tích rủi ro và lợi ích của AI đối với sự phát triển nhận thức và xã hội của trẻ[7]. Ying Xu cảnh báo về hiện tượng “outsourcing” tư duy; nghĩa là nếu lạm dụng AI để trả lời mọi thắc mắc, trẻ em sẽ không học được kỹ năng tự suy nghĩ và giải quyết vấn đề. Thậm chí, một số nhà khoa học còn thẳng thắn kết luận rằng thiết bị thông minh có thể khiến người trẻ “kém thông minh” đi do hạn chế cơ hội rèn luyện trí não. Chẳng hạn:

Manfred Spitzer, nhà thần kinh học người Đức, trong cuốn Digital dementia: What we and our children are doing to our minds (2012) đã cảnh báo mạnh mẽ rằng việc sử dụng thiết bị kỹ thuật số quá mức có thể làm “thoái hóa” não bộ. Ông gọi hiện tượng này là “chứng sa sút trí tuệ kỹ thuật số” (digital dementia). Theo ông, vì trẻ ít phải ghi nhớ, ít vận dụng trí tưởng tượng và kỹ năng giải quyết vấn đề, nên não bộ của chúng trở nên lười biếng và kém phát triển hơn.

Nicholas Carr, tác giả cuốn The Shallows: What the internet is doing to our brains (2010), lập luận rằng internet và thiết bị thông minh đang làm thay đổi cách con người suy nghĩ, khiến chúng ta thiếu kiên nhẫn, dễ bị phân tán, và kém khả năng tư duy sâu. Carr cho rằng bộ não bị “đào tạo” để phản ứng nhanh với các kích thích ngắn, thay vì tập trung vào tư duy dài hạn.

Jean Twenge, nhà tâm lý học tại Đại học San Diego, trong cuốn iGen (2017) phân tích dữ liệu từ hàng triệu thanh thiếu niên Mỹ và kết luận rằng thế hệ lớn lên cùng smartphone (Gen Z) có xu hướng lo âu, trầm cảm, cô lập xã hội và ít khả năng tập trung hơn so với các thế hệ trước. Bà cho rằng một phần nguyên nhân là do thời gian sử dụng thiết bị thông minh quá nhiều và giảm các hoạt động tương tác thực tế.

Susan Greenfield, nhà thần kinh học người Anh, cũng nhiều lần cảnh báo rằng não bộ trẻ em có thể bị thay đổi cấu trúc khi dành quá nhiều thời gian cho thế giới ảo. Bà nói rằng trí tuệ cảm xúc và khả năng suy nghĩ trừu tượng có thể bị tổn hại vì trẻ ít có cơ hội rèn luyện các kỹ năng xã hội thực tế[8].

Ngoài ra, ngôn ngữ và kỹ năng giao tiếp cũng có thể bị ảnh hưởng khi trẻ em dành quá nhiều thời gian tương tác với máy móc thay vì con người. Điều này chắc ai cũng đồng ý. Sự phát triển ngôn ngữ ở trẻ nhỏ phụ thuộc rất lớn vào tương tác hai chiều với cha mẹ và người chăm sóc. Qua các cuộc trò chuyện, đọc sách, đặt câu hỏi, trẻ em không chỉ học hỏi mà còn tạo dựng được mối tương quan. Nếu thay thế những tương tác này bằng màn hình và AI, trẻ có thể bị trì hoãn phát triển ngôn ngữ do thiếu sự trao đổi qua lại giàu tính nhân văn. Điều này giải thích tại sao các em nhỏ giờ khó trò chuyện offline! Tôi không lên án, nhưng thực sự lo ngại về hiện tượng cả nhà đều sử dụng điện thoại, kể cả trong các bữa ăn. Hơn nữa, trò chuyện với AI (tiếp xúc với điện thoại) rất khác so với trò chuyện với người thật. Tóm lại, từ góc độ phát triển thần kinh và nhận thức, việc cho trẻ sử dụng AI quá sớm có thể làm suy giảm sự phát triển trí tuệ toàn diện, từ khả năng chú ý, ghi nhớ, tư duy độc lập đến ngôn ngữ của các em.

2. Cảm xúc và mối tương quan xã hội

Một trong những hậu quả đáng lo ngại nhất của việc trẻ em gắn bó sớm với AI là sự ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống cảm xúc và kỹ năng xã hội của các em. Tuổi thơ là giai đoạn trẻ học cách nhận biết và rèn luyện cảm xúc. Qua đó, các em hình thành các tương quan xã hội qua tiếp xúc với người thật. Nếu thay vào đó, trẻ dành nhiều thời gian với màn hình và trợ lý ảo, các em có thể đánh mất những trải nghiệm xã hội thực sự cần thiết để trưởng thành về mặt tình cảm.

Trước hết, nguy cơ cô lập và cô đơn gia tăng khi trẻ mải mê với thế giới ảo do AI tạo ra. Đức Thánh Cha Phanxicô đã cảnh báo rằng môi trường kỹ thuật số, tuy kết nối rộng khắp, nhưng có thể làm người trẻ ngày càng cô độc và tách rời thực tế, như đã nói ở trên. Trẻ em, khi quá chìm đắm vào các thiết bị AI (dù là trò chơi, mạng xã hội hay chatbot), có thể dần dần rút lui khỏi các tương tác xã hội trực tiếp. Các em có thể thích trò chuyện với “bạn ảo” trên màn hình hơn là chơi với bạn bè ngoài đời, dẫn đến kỹ năng giao tiếp và kết nối thực tế bị thui chột. Một nghiên cứu của OECD (Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế) cũng ghi nhận rằng trẻ dành nhiều thời gian trực tuyến thì giảm tần suất hoạt động thể chất và tương tác xã hội thực, kéo theo hệ quả là sức khỏe tâm lý tồi tệ hơn và cảm giác cô đơn gia tăng[9]. Như vậy, thế giới ảo do AI kiến tạo có nguy cơ biến tuổi thơ thành “tuổi thơ cô đơn”, thiếu đi tiếng cười và sự ấm áp của tình bạn thực sự ngoài đời thật.

Bên cạnh đó, việc học hỏi các kỹ năng mềm của trẻ có thể bị sai lệch khi nguồn tương tác của các em là máy móc. Trẻ em vốn cần học cách đồng cảm, biết ơn và lễ phép thông qua việc quan sát và bắt chước người lớn trong giao tiếp hàng ngày. Nhưng trợ lý ảo như các chatbot lại không biết yêu cầu trẻ phải nói “làm ơn” hay “cảm ơn”, cũng không phản ứng trước thái độ hỗn hào. Chẳng hạn Anmol Arora, đồng tác giả của một bài báo được đăng trên tạp chí Archives of disease in childhood (Lưu trữ về các bệnh ở trẻ em), chỉ ra rằng những tác động đa chiều đối với trẻ em bao gồm các phản ứng không phù hợp, sự cản trở trong phát triển xã hội, và việc hạn chế các cơ hội học tập[10]. Dần dần, trẻ có thể đánh mất sự nhạy cảm xã hội, không ý thức được tầm quan trọng của tông giọng, cử chỉ, phép lịch sự trong giao tiếp với con người. Thử tưởng tượng một đứa trẻ quen nói chuyện với robot sẽ ứng xử thế nào với cha mẹ, bạn bè và thầy cô?

Đó là chưa kể đến đời sống tình cảm của trẻ cũng chịu tác động tiêu cực khi tương tác người-người bị thay thế bởi người-máy. Ngày nay, không ít bạn trẻ vị thành niên coi chatbot AI như một “người bạn” để giãi bày cảm xúc, thậm chí có em còn hình thành mối liên hệ tình cảm ảo với chatbot. Điều này đáng lo ngại vì đối với trẻ nhỏ, vì hậu quả là trẻ có thể suy giảm khả năng gắn kết tình cảm với con người thật. Ví dụ, một em bé quen được robot an ủi vỗ về có thể khó tìm thấy sự an ủi tương tự nơi vòng tay cha mẹ, vì robot luôn “kiên nhẫn 24/7”, còn cha mẹ thường bận rộn. Từ từ, trẻ có thể thu mình, không muốn chia sẻ cảm xúc với người thân, mà tìm đến thế giới ảo để được “hiểu”. Điều này vô cùng nguy hiểm cho sự phát triển tâm lý lành mạnh. Tương quan ảo không thể thay thế được tình yêu thương và sự giáo dục của gia đình. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II từng nhấn mạnh rằng “gia đình là trường học đầu tiên, trường học căn bản về đời sống xã hội; như một cộng đồng yêu thương, gia đình nhận ra rằng tự hiến mình là qui luật hướng dẫn gia đình và làm cho gia đình tăng trưởng”. (Tông huấn Familiaris Consortio, số 37).

Sau này, Đức Thánh Cha Phanxicô cũng nhắn với người trẻ, càng đúng cho trẻ em, rằng “thế giới kỹ thuật số cũng là một không gian đầy cô đơn, thao túng, khai thác và bạo lực, cho đến cực điểm là trường hợp các trang web đen (dark web). Các phương tiện truyền thông kỹ thuật số có thể khiến mọi người bị lệ thuộc, cô lập và mất dần sự tiếp xúc với đời sống thực tế cụ thể, và như thế chúng cản trở sự phát triển của các mối quan hệ đích thực giữa người với người. Nhiều hình thức bạo lực mới đang được phổ biến qua các phương tiện truyền thông xã hộichẳng hạn như việc ma cũ ăn hiếp ma mới bằng cách tra tấn tinh thần trên mạng; mạng cũng là một kênh để phổ biến các nội dung khiêu dâm và để khai thác người dùng nhằm mục đích tình dục hoặc bóc lột họ qua các trò chơi may rủi” (Christus Vivit, 88). Cả hai lời nhắn này mời gọi chúng ta nghiêm túc nhìn lại cách con em mình đang sử dụng công nghệ.

3. Nguy cơ thao túng, thông tin sai lệch và lệ thuộc

Nhóm nguy cơ cuối cùng, và cũng khiến nhiều chuyên gia lo ngại nhất, đó chính là việc AI có thể trở thành công cụ thao túng nhận thức, phát tán thông tin sai lệch, lạm dụng dữ liệu cá nhân và hình thành thói quen lệ thuộc nơi trẻ em. Một mặt AI là trung tính, nghĩa là tùy vào người ta sử dụng với mục đích gì. Mặt khác, do trẻ em hoàn toàn chưa có khả năng nhận thức đúng sai, nên đây thực sự là mối đe dọa sự tự do và an toàn toàn diện của các em nhỏ trong môi trường sống kỹ thuật số.

Trước hết, nguy cơ bị thao túng và định hướng bởi AI là có thật và đã được ghi nhận. Các nền tảng trực tuyến ngày càng tích hợp thuật toán AI để gợi ý nội dung. Tôi kinh ngạc khi những cuộc trò chuyện riêng tư nhưng Facebook vẫn biết để hiện lên các quảng cáo. Theo đó, đối với trẻ em, những thuật toán này đặc biệt nguy hiểm vì các em chưa có khả năng tự chủ và phân định chín chắn. Ví dụ, thuật toán của YouTube hay TikTok (vận hành bằng AI) có thể liên tục đề xuất video mới, tạo thành một “dòng chảy vô tận” giữ chân trẻ trước màn hình hàng giờ liền. Nội dung được đề xuất nhiều khi không phù hợp lứa tuổi, thậm chí độc hại, nhưng AI ưu tiên những gì giật gân, câu khách để tăng tương tác[11]. Hệ quả là trẻ em bị cuốn vào vòng xoáy thông tin do AI sắp đặt, mất dần khả năng tự quyết định muốn xem gì, đọc gì.

Nguy hiểm hơn, như Đức Thánh Cha Phanxicô lưu ý “tin giả” (fake news) ngày càng phổ biến là biểu hiện của một nền văn hoá đã mất ý thức về sự thật và lèo lái các sự kiện theo những lợi ích riêng tư. Danh dự của nhiều người bị đe doạ qua những cuộc xét xử sơ sài trực tuyến trên mạng (online). Hiện tượng này cũng liên quan đến “Hội thánh và các mục tử” (Christus Vivit, 89). Nói đơn giản, một đứa trẻ lướt mạng xã hội có thể vô tình trở thành nạn nhân của các chiến dịch định hướng khi AI chọn lọc thông tin mà em sẽ nhìn thấy. Như vậy, thay vì lớn lên trong tự do và sự thật, các em có nguy cơ bị “định hình” suy nghĩ bởi những lập trình vô tri hướng tới lợi nhuận hoặc ý đồ xấu. Tiếp nối ý tưởng này, vị Giáo hoàng đương nhiệm Lêô XIV mới đây cũng chỉ ra rằng “trẻ em và thanh thiếu niên là đối tượng đặc biệt dễ bị tổn thương trước sự thao túng của các thuật toán trí tuệ nhân tạo, vốn có thể ảnh hưởng đến quyết định và sở thích của các em. Ngài kêu gọi các bậc cha mẹ và nhà giáo dục phải nhận thức rõ về những động thái này, và phải phát triển các công cụ để giám sát và hướng dẫn tương tác của giới trẻ với công nghệ.”[12]

Điều làm tôi lo lắng nhất là những thông tin sai lệch và nội dung độc hại lan truyền qua AI đang là mối đe dọa lớn cho thế hệ trẻ. Với các công cụ AI tạo sinh (Generative AI), việc sản xuất tin giả, hình ảnh và video giả (deepfake) trở nên dễ dàng hơn bao giờ hết. Ngay cả người lớn hoặc chuyên viên cũng khó phát hiện những điều này, huống hồ là các trẻ em! Tôi nghĩ các em thường tin rằng “những gì trên Internet là đúng”. Chẳng hạn tiến sĩ Andrew Shtulman, giáo sư ngành tâm lý tại đại học Occidental College, cho rằng “trẻ em cũng khó phân biệt tin tức thật với những yếu tố khác có thể xuất hiện trên trang tin, như quảng cáo hay bình luận của người dùng. Có vẻ như trẻ em dễ bị ảnh hưởng bởi thông tin sai lệch trên mạng hơn người lớn.”[13]

Thống kê tại Anh cho biết một nửa số trẻ 8-15 tuổi đã gặp ít nhất một video deepfake chỉ trong vòng 6 tháng, nhưng rất nhiều em không nhận ra đó là giả[14]. Cũng trong thống kê này “dự kiến sẽ có 8 triệu video deepfake được chia sẻ vào năm 2025, tăng từ 500.000 video vào năm 2023. Ủy ban Châu Âu cho biết rằng khoảng 98% nội dung deepfake là các tài liệu khiêu dâm” (Children and deepfakes). Điều này thật đáng báo động, bởi một khi trẻ không phân biệt được thật, giả, các em dễ dàng trở thành nạn nhân của tin đồn, trò lừa đảo hoặc các xu hướng độc hại lan truyền trên mạng. Ngoài ra, AI có thể được kẻ xấu lợi dụng để dụ dỗ, tống tiền hoặc bắt nạt trẻ em. Chẳng hạn, với deepfake, kẻ xấu có thể giả giọng nói hoặc khuôn mặt người thân để lừa trẻ, hoặc tạo hình ảnh nhạy cảm gán ghép trẻ em (một hình thức bóc lột tình dục trên mạng). Tất cả những điều này cho thấy một môi trường trực tuyến đầy rẫy cạm bẫy khi AI bị lạm dụng, và trẻ em nếu không được bảo vệ kỹ càng sẽ rất dễ bị tổn thương.

Bên cạnh nguy cơ thông tin, vấn đề quyền riêng tư và an toàn dữ liệu của trẻ em trong kỷ nguyên AI cũng là mối lo lớn. Trẻ em thường chưa ý thức được việc bảo vệ thông tin cá nhân. Các em sẵn sàng chia sẻ tên tuổi, hình ảnh, sở thích, thậm chí tâm sự thầm kín với ứng dụng hoặc chatbot mà không lường trước hậu quả. Trong khi đó, nhiều ứng dụng AI và game thông minh lại thu thập một lượng lớn dữ liệu người dùng, bao gồm cả trẻ em, cho các mục đích thương mại. Tiếc là nhiều phụ huynh không biết con mình đang dùng các công cụ AI gì, và trẻ thường giấu cha mẹ việc chúng tương tác với chatbot. Một thực tế rằng cả cha mẹ lẫn trẻ em đều hiểu rất mơ hồ về rủi ro dữ liệu. Tôi thấy nhiều phụ huynh không nhận ra con mình có thể đã chia sẻ những thông tin cá nhân nhạy cảm (như chuyện gia đình, cảm xúc riêng tư, thậm chí vấn đề sức khỏe) với chatbot hoặc trên mạng. Điều này đồng nghĩa với việc dữ liệu riêng tư của trẻ có thể đã bị thu thập và lưu trữ mà cha mẹ không hay biết. Một khi dữ liệu của trẻ bị lộ, các em có thể đối mặt với nhiều nguy cơ: từ việc bị nhắm mục tiêu quảng cáo không lành mạnh, bị đánh cắp danh tính, đến bị kẻ xấu lợi dụng. Quyền riêng tư, nhất là của trẻ em, cần được tôn trọng và bảo vệ 100 %. Vậy mà trong kỷ nguyên AI, điều này đang bị đe dọa nghiêm trọng.

Sau cùng, cần nhấn mạnh tới nguy cơ hình thành thói quen lệ thuộc và nghiện ngập vào công nghệ AI ở trẻ em. Nhiều lần tôi chứng kiến các cha mẹ phải cho con xem điện thoại trong lúc các bé ăn. Đây là điều rất tai hại cả về mặt dinh dưỡng học lẫn tương quan liên vị mà tôi không thể phân tích chi tiết ở đây. Chúng ta đều biết công nghệ (ứng dụng, trò chơi, mạng xã hội), giờ có thể bằng AI nữa, đang khiến người dùng “dính chặt” càng lâu càng tốt. Thuật toán AI có thể học từ hành vi người dùng và liên tục điều chỉnh nội dung sao cho hấp dẫn nhất với từng cá nhân. Trẻ nhỏ vì thế rất dễ bị nghiện thiết bị mà không tự biết. Các dấu hiệu cảnh báo đã xuất hiện rằng nhiều trẻ mới 5-6 tuổi đã có biểu hiện “vật vã” như cai nghiện nếu bị lấy đi máy tính bảng hoặc điện thoại thông minh[15]. Các em quen với việc được thiết bị “chiều chuộng” bằng video và trò chơi yêu thích (do AI chọn sẵn), nên khi không có, trẻ cảm thấy trống vắng và cáu gắt. Ước gì chúng ta, bậc làm cha mẹ, những người có trách nhiệm, hãy trả lại cho trẻ nhỏ sân chơi của tuổi thơ!

Kết luận

Từ những phân tích trên, tôi xin đề nghị 5 giải pháp giúp người đọc biết nên làm gì chung tay với sứ mạng của Giáo hội là bảo vệ trẻ em trong thời đại AI:

(1) Về phía nhà trường, tuyệt đối không cho phép trẻ em sử dụng điện thoại trong suốt thời gian ở trường. Điều này đã trở thành luật ở châu Âu. Hầu hết các trường ở nơi đây đều cấm học sinh (kể cả học sinh cấp 3) mang điện thoại vào lớp học, trừ những môn được phép. Hy vọng Việt Nam cũng sớm áp dụng trên diện rộng.

(2) Cha mẹ và thầy cô cần nhận thức rằng AI chỉ là công cụ, mà trẻ em chưa thể sử dụng được. Do đó, khi chúng ta sử dụng AI, vốn cần thiết, nên tránh bao nhiêu có thể để các em không tiếp xúc bừa bãi hay quá sớm. “Điều cần thiết là những nỗ lực giáo dục hằng ngày, liên tục, được thực hiện bởi người lớn đã được đào tạo và hỗ trợ”, Đức Thánh cha Lêô XIV nói trong diễn văn nói với các tham dự viên Hội nghị “Phẩm giá của Trẻ em và Thanh thiếu niên trong Kỷ nguyên Trí tuệ Nhân tạo (AI)” vào ngày 13.11.2025.

(3) Có thể “cùng học, cùng chơi với con” trong việc sử dụng công nghệ, giúp trẻ biết chọn lọc nội dung, giới hạn thời gian, và học cách dùng công nghệ một cách lành mạnh. Tuy nhiên, luôn phải giới hạn thời gian và cần nghiêm khắc trong quy định này. Tránh để trẻ em tiếp xúc với những chatbot, hoặc những gì không phù hợp với lứa tuổi này. Hoặc nói như lời Đức Giáo hoàng Leo XIV: “Chỉ khi chính bản thân chúng ta cùng tham gia khám phá những rủi ro của AI và tác động của chúng lên đời sống cá nhân và xã hội của trẻ, chúng ta mới có thể đồng hành với các em bước vào thế giới kỹ thuật số như một môi trường giúp nuôi dưỡng khả năng đưa ra những lựa chọn có trách nhiệm cho bản thân và cho người khác.”[16]

(4) Bồi dưỡng đời sống đức tin và nhân bản bằng cách dạy cho trẻ biết cầu nguyện, đọc Lời Chúa và chia sẻ trong gia đình giúp trẻ có nền tảng đạo đức và nội lực vững vàng, nhờ đó ít bị lôi cuốn bởi các cám dỗ của thế giới ảo. Nhất là ở nhà xứ, chúng ta cần tạo ra những sân chơi bổ ích để các em vui chơi hồn nhiên với đời thực, chứ đừng để các em dán mắt vào màn hình.

(5) Cuối cùng và cũng là khó nhất, đó là hãy can đảm đặt giới hạn và định hướng tích cực. Hãy dứt khoát nói “không” với thiết bị hoặc ứng dụng không phù hợp, đồng thời khuyến khích trẻ em tham gia các hoạt động thay thế lành mạnh như đọc sách, vui chơi ngoài trời, sinh hoạt gia đình và giáo xứ.

Quý độc giả thân mến,

Tôi tin những điều trên không mới đối với chúng ta. Ai cũng đồng ý, nhưng mấy ai thành công trong hành động giúp trẻ em tránh xa thế giới của trí tuệ nhân tạo, hoặc đồng hành với trẻ em trong việc sử dụng AI? Đã đến lúc người lớn cần thể hiện trách nhiệm yêu thương hướng dẫn trẻ em sống đúng với thế giới của các em. Chỉ có như thế, sau này các em mới tiếp cận AI một cách khôn ngoan và sáng tạo. Mong thay!

Lm. Giuse Phạm Đình Ngọc SJ

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/bao-ve-tre-em-trong-thoi-dai-ai

 

***

20.  Sứ mạng đào tạo con người hiện nay - Diễn văn của Đức Giáo hoàng Lêô XIV tại Đại học Giáo hoàng Laterano nhân dịp khai giảng năm học

WHĐ (17/11/2025) – Sáng ngày 14/11/ 2025 Đức Thánh Cha Leo XIV đã đến thăm Đại học Giáo hoàng Laterano nhân dịp khai giảng Năm Học mới. Sau đây là toàn văn Việt ngữ bài Diễn văn của Đức Thánh Cha dành cho những người hiện diện:

 

DIỄN VĂN CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG LÊÔ XIV

TẠI ĐẠI HỌC GIÁO HOÀNG LATERANO

NHÂN DỊP KHAI GIẢNG NĂM HỌC

Hội trường Bênêđictô XVI, Đại học Giáo hoàng Laterano

Thứ sáu, ngày 14 tháng 11 năm 2025

[Đa phương tiện]

Anh chị em thân mến,

Tôi thân ái chào Đức Hồng y Reina, Đại Chưởng ấn, và cảm ơn ngài vì những bài phát biểu; Đức ông Amarante, Viện trưởng Magnificus; quý thành viên Hội đồng Điều phối Tối cao; quý giảng viên, sinh viên, nhân viên trợ lý; cùng quý đại diện dân sự và tôn giáo đang hiện diện nơi đây.

Tôi rất vui được hiện diện giữa anh chị em tại Đại học Giáo hoàng Laterano, nhân dịp khai giảng năm học thứ 253 kể từ ngày thành lập. Đây là một dịp đặc biệt, trong đó chúng ta nhìn lại với lòng biết ơn ịch sử lâu dài đã đi trước mình, đồng thời hướng về sứ mạng đang chờ đợi, những lộ trình cần khai mở, và việc phục vụ phải thực hiện cho Giáo hội trong bối cảnh hiện tại cũng như trước các thách đố tương lai. Vì thế, một cái nhìn đầy tri ân về quá khứ, nhưng cũng là đôi mắt và trái tim hướng về tương lai, bởi lẽ Giáo hội vẫn rất cần đến sự phục vụ quý giá mà đại học mang lại.

Thực vậy, mỗi đại học đều là nơi của học tập, nghiên cứu, đào tạo, những mối tương quan và kết nối với thực tại mà nó thuộc về. Đặc biệt, các đại học giáo hoàng và giáo sĩ, được Tòa thánh thiết lập và phê chuẩn, là những cộng đoàn trong đó “sự trung gian mang tính văn hóa cần thiết của đức tin, dù được triển khai trong suy tư mở ra đối thoại với những lĩnh vực tri thức khác, vẫn luôn tìm thấy nguồn mạch tiên khởi và bền vững nơi chính Đức Giêsu Kitô” (Thư của Đức Thánh Cha Phanxicô gửi các giám mục ủng hộ Đại học Giáo hoàng Lateran, 13/12/2024).

1. Một lịch sử lâu dài giữa các Giám mục Rôma và Đại học Giáo hoàng Laterano

Giữa các cơ sở học thuật, Đại học Laterano có một mối dây gắn kết đặc biệt với Đấng kế vị Thánh Phêrô, và đây là đặc nét cấu thành căn tính và sứ mạng của trường ngay từ thuở ban đầu, khi vào năm 1773 Đức Clement XIV giao trường Thần học của Đại học Rôma cho hàng giáo sĩ triều, và yêu cầu cơ sở này đặt dưới quyền Giáo hoàng trong việc đào tạo các linh mục. Kể từ thời điểm đó, mọi vị Giáo hoàng kế tiếp đều duy trì và củng cố mối tương quan ưu ái với cơ sở mà sau này trở thành Đại học Laterano như ngày nay.

Trong số đó có Chân phước Piô IX, người đã thiết lập cơ cấu bốn khoa: Thần học, Triết học, Giáo luật và Luật dân sự, với thẩm quyền cấp học vị trong Utroque Iure; Đức Lêô XIII, người thành lập Viện Văn chương Cao cấp; Đức Piô XII, người thành lập Viện Mục vụ Giáo hoàng tại trường; Thánh Gioan XXIII, người đã chính thức trao danh hiệu “Đại học” cho cơ sở này; và Thánh Phaolô VI, từng là giáo sư nơi các giảng đường này, đã trở lại thăm Đại học ngay sau khi được bầu chọn làm Giáo hoàng, và tái khẳng định mối liên kết chặt chẽ giữa trường và Giáo triều Rôma.

Mối tương quan đặc biệt này được Thánh Gioan Phaolô II nhấn mạnh khi ngài nói: “Anh chị em, theo một cách đặc biệt, là Đại học của Giáo hoàng: Chắc chắn đó là một danh hiệu đầy vinh dự, nhưng chính vì thế cũng hàm chứa trách nhiệm lớn lao”. Với những lời trìu mến tương tự, Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI và Đức Giáo hoàng Phanxicô cũng đã tái khẳng định mối dây liên kết này; theo sáng kiến của Đức Phanxicô, hai chương trình đào tạo mới được thiết lập: về Khoa học Hòa bình và về Sinh thái & Môi trường.

2. Hy vọng của tôi dành cho Đại học Giáo hoàng Laterano

Khi tái khẳng định và xác nhận tất cả những gì các vị Tiền nhiệm khả kính của tôi đã thiết lập và ban bố, tôi muốn nêu bật sứ mạng đặc thù của Đại học Giáo hoàng Laterano trong hoàn cảnh hiện nay.

Không giống như nhiều cơ sở học thuật danh tiếng khác, kể cả tại Rôma, Đại học này không có một đặc sủng của vị sáng lập để gìn giữ, đào sâu và phát huy; định hướng riêng biệt của trường chính là giáo huấn của Giáo hoàng. Do đó, bởi bản chất và sứ mạng của mình, trường trở thành trung tâm ưu tuyển, nơi giáo huấn của Giáo hội hoàn vũ được hình thành, tiếp nhận, triển khai và đặt vào bối cảnh cụ thể. Theo nghĩa này, trường còn là một thiết chế mà ngay cả Giáo triều Rôma có thể tham chiếu trong công việc thường nhật.

Đồng thời, tư duy học thuật được gợi hứng bởi đặc sủng Phêrô, mở ra các viễn tượng liên ngành, quốc tế và liên văn hóa. Sứ mạng này thể hiện một cách phong phú qua bốn Khoa và hai Học viện đặt tại cơ sở chính, cũng như ba Học viện ad instar facultatis cơ sở bên ngoài: Viện Giáo phụ Giáo hoàng Augustinianum của Dòng Augustinô; Học viện Giáo hoàng Alfonsianum chuyên về Thần học Luân lý do Dòng Chúa Cứu Thế phụ trách; và Học viện Giáo hoàng Claretianum về Thần học Đời sống Thánh hiến của Dòng Claret.

Cùng với đó là 28 học viện liên kết theo nhiều hình thức, trải rộng trên ba châu lục - châu Âu, châu Á và châu Mỹ - trực thuộc Khoa Thần học và Institutum Utriusque Iuris: một thực thể rộng lớn và đa dạng, biểu hiện sự phong phú của các nền văn hóa và kinh nghiệm, đồng thời cho thấy nỗ lực tìm kiếm sự hiệp nhất và trung thành với huấn quyền Phêrô.

Anh chị em thân mến, hôm nay chúng ta cấp thiết cần suy tư đức tin để có thể diễn đạt đức tin đó trong các bối cảnh văn hóa và thách đố hiện tại, cũng như để chống lại nguy cơ trống rỗng văn hóa vốn ngày càng lan rộng trong thời đại chúng ta. Đặc biệt, Khoa Thần học được mời gọi suy tư về kho tàng đức tin, làm nổi bật vẻ đẹp và độ xác tín của đức tin trong các bối cảnh đương đại khác nhau, để đức tin có thể xuất hiện như một đề nghị nhân bản trọn vẹn, có khả năng biến đổi đời sống cá nhân và xã hội, khơi dậy những chuyển biến mang tính ngôn sứ trước các khổ đau và nghèo đói của thời đại, và khích lệ con người kiếm tìm Thiên Chúa. Sứ mạng này đòi hỏi đức tin Kitô giáo phải được truyền đạt và thông truyền vào các môi trường sống và hoạt động của Giáo hội; vì thế tôi coi việc phục vụ của Học viện Mục vụ là một quan trọng sống còn.

Tại Đại học Laterano, việc nghiên cứu triết học (x. Veritatis gaudium, Điều 81 §1) phải được định hướng đến việc tìm kiếm chân lý qua khả năng của lý trí con người, mở ra đối thoại với các nền văn hóa, và nhất là với Mặc khải Kitô giáo, nhằm phục vụ sự phát triển toàn diện con người trên mọi bình diện. Đây là một dấn thân quan trọng, đặc biệt trong bối cảnh tư tưởng đương đại đôi khi mang sắc thái bi quan, cũng như trước những hình thức lý tính mới đang xuất hiện liên quan đến thuyết siêu nhân loại (transhumanism) và hậu nhân loại (posthumanism).

Các Khoa Luật - Giáo luật và Luật Dân sự, vốn đã làm nên bản sắc của Đại học chúng ta qua nhiều thế kỷ, được mời gọi nghiên cứu và giảng dạy Luật học bằng cách đẩy mạnh tối đa sự đối chiếu so sánh giữa các hệ thống pháp luật dân sự và hệ thống pháp luật của Giáo hội Công giáo. Đặc biệt, tôi khuyến khích anh chị em quan tâm và nghiên cứu sâu về các thủ tục hành chính, hiện đang là một thách đố rất cấp bách đối với Giáo hội.

Sau cùng, các chương trình đào tạo về Khoa học Hòa bình và về Sinh thái và Môi trường cũng xứng đáng được nhắc đến cách riêng, vì trong những năm tới, các chương trình này dần có một cấu trúc thể chế rõ ràng hơn. Những chủ đề mà các chương trình này đề cập là phần cốt yếu trong Huấn quyền gần đây của Giáo hội, vốn được thiết lập như dấu chỉ giao ước giữa Thiên Chúa và nhân loại, được mời gọi đào tạo những người kiến tạo hòa bình và công lý, những người xây dựng và làm chứng cho Nước Thiên Chúa. Hòa bình chắc chắn là hồng ân của Thiên Chúa, nhưng đồng thời đòi hỏi những người nam và nữ biết kiến tạo nó mỗi ngày và hỗ trợ các tiến trình hướng tới một nền sinh thái toàn diện, ở cả cấp quốc gia lẫn quốc tế. Vì thế, tôi đề nghị Đại học của tôi tiếp tục phát triển và tăng cường hai chương trình học này trên bình diện liên ngành và xuyên ngành; nếu cần thiết, có thể tích hợp thêm các chương trình đào tạo khác.

3. Đào tạo con người nơi trung tâm sứ mạng của Đại học Giáo hoàng Laterano

Tất cả những điều trên liên quan đến sứ mạng giáo dục chung của Đại học; nhưng tôi cũng muốn cùng anh chị em hình dung Đại học Laterano như một không gian - như tôi đã nói lúc đầu - có đôi mắt và con tim hướng về tương lai, và dấn thân trước những thách đố của thời đại thông qua một vài chiều kích đặc thù mà tôi xin nhấn mạnh ngắn gọn.

Chiều kích thứ nhất là: sự hỗ tương và tình huynh đệ phải ở trung tâm của giáo dục. Ngày nay, thật đáng tiếc, từ “con người” thường được dùng như đồng nghĩa với “cá nhân”, và sức hấp dẫn của chủ nghĩa cá nhân như chìa khóa thành công trong cuộc sống kéo theo những hệ quả đáng lo ngại trong mọi lĩnh vực: người ta tập trung vào việc tự quảng bá, nuôi dưỡng ưu thế của cái tôi và khó cộng tác; định kiến và những bức tường đối với người khác, đặc biệt là người khác biệt, ngày càng lớn; trách nhiệm phục vụ bị thay thế bằng kiểu lãnh đạo đơn độc; và cuối cùng, những hiểu lầm và xung đột cứ thế nhân lên. Đào tạo học thuật giúp chúng ta vượt ra khỏi tính tự quy chiếu và thúc đẩy một nền văn hóa dựa trên sự tương hỗ, sự khác biệt và đối thoại. Chống lại điều mà Thông điệp Fratelli tutti gọi là “virus của chủ nghĩa cá nhân cực đoan” (số 105), tôi mời anh chị em nuôi dưỡng tinh thần tương hỗ qua các tương quan thấm đượm sự nhưng không, và qua những trải nghiệm giúp bồi đắp tình huynh đệ cũng như sự gặp gỡ giữa các nền văn hóa khác nhau. Đại học Giáo hoàng Laterano, được phong phú hóa bởi sự hiện diện của sinh viên, giảng viên và nhân viên đến từ năm châu lục, là một mô hình thu nhỏ của Giáo hội hoàn vũ: vì thế, hãy trở nên một dấu chỉ ngôn sứ của hiệp thông và tình huynh đệ.

Chiều kích thứ hai mà tôi muốn nhắc đến là tính nghiêm cẩn khoa học, điều cần được cổ võ, bảo vệ và phát triển. Công việc học thuật nhiều khi không được trân trọng đúng mức, một phần vì những định kiến ăn sâu, và, tiếc thay vẫn tồn tại ngay cả trong cộng đoàn Giáo hội. Đôi khi người ta cho rằng nghiên cứu và học hỏi không hữu dụng cho đời sống thực tế; rằng điều quan trọng trong Giáo hội là thực hành mục vụ hơn là chuẩn bị thần học, Kinh thánh hoặc pháp lý. Nguy cơ ở đây là rơi vào cám dỗ đơn giản hóa những vấn đề phức tạp để khỏi phải lao tâm suy nghĩ, và hệ quả là ngay cả trong hoạt động mục vụ và ngôn ngữ của mục vụ, chúng ta có thể rơi vào sự sáo rỗng, hời hợt hoặc cứng nhắc.

Nghiên cứu khoa học và nỗ lực dành cho nghiên cứu là điều không thể thiếu. Chúng ta cần những giáo dân và linh mục được đào tạo bài bản và có năng lực. Vì thế, tôi khuyến khích anh chị em đừng buông lỏng trong việc giữ vững tính nghiêm cẩn khoa học: Hãy theo đuổi niềm đam mê tìm kiếm sự thật và duy trì đối thoại chặt chẽ với các ngành khoa học khác, với thực tại, với những vấn đề và cuộc đấu tranh của xã hội.

Điều này đòi hỏi Đại học có đội ngũ giảng viên được đào tạo bài bản, về mục vụ, pháp lý và kinh tế, để có thể dành trọn tâm huyết cho đời sống học thuật và nghiên cứu; đòi hỏi sinh viên phải có động lực và nhiệt huyết, sẵn sàng học tập một cách nghiêm túc. Điều này cũng Đại học phải đối thoại với các trung tâm nghiên cứu và giảng dạy khác, để có thể mở ra những lộ trình mới từ viễn tượng liên ngành và xuyên ngành này.

Chiều kích thứ ba mà tôi muốn nhắc đến ngắn gọn là công ích. Mục tiêu của tiến trình giáo dục và học thuật, thực chất, phải là hình thành những con người, với tinh thần trao ban nhưng không và niềm say mê đối với chân lý và công lý, có thể trở nên những người kiến tạo một thế giới mới, một thế giới của liên đới và huynh đệ. Đại học có thể và phải lan tỏa nền văn hóa này, trở thành dấu chỉ và biểu hiện của thế giới mới đó và của việc kiếm tìm công ích.

Kết luận

Các bạn thân mến, một nhà thần học lỗi lạc của Đại học này, Giáo sư Marcello Bordoni, trong một suy tư về mối tương quan giữa Kitô học và hội nhập văn hóa, đã khẳng định rằng cần đảm nhận nhiệm vụ suy tư về đức tin và “đối thoại với thế giới, với dòng lịch sử luôn biến đổi của nó, vốn thường thách đố đức tin của các Kitô hữu trước những vấn đề mới và các hoàn cảnh sống mới”, và rằng “chính điều này tạo nên thao trường cho cam kết ấy, tức là ‘nỗ lực của khái niệm’”. (M. BORDONI, Theological Reflection on the Truth of Christian Revelation, in Path 2002/2, 263).

Tôi hy vọng anh chị em sẽ tiếp tục khám phá mầu nhiệm đức tin Kitô giáo với niềm say mê này và luôn rèn luyện mình trong thao trường của đối thoại với thế giới, với xã hội, với những vấn nạn và thách đố của thời đại hôm nay. Đại học Laterano giữ một vị trí đặc biệt trong trái tim của Giáo hoàng; và Giáo hoàng khích lệ anh chị em hãy dám ước mơ lớn, dám hình dung những không gian khả dĩ cho Kitô giáo của tương lai, và làm việc với niềm vui để mọi người có thể khám phá Đức Kitô và, nơi Người, tìm thấy sự viên mãn mà họ hằng khao khát.

Xin cảm ơn anh chị em! Và tôi chúc anh chị em một năm học mới thật tốt đẹp!

Nt. Anna Ngọc Diệp, OP

Dòng Đa Minh Thánh Tâm

Chuyển ngữ từ: vatican.va

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/su-mang-dao-tao-con-nguoi-hien-nay---dien-van-cua-duc-giao-hoang-leo-xiv-tai-dai-hoc-giao-hoang-laterano-nhan-dip-khai-giang-nam-hoc

 

***

21.  Nữ tu Kenya biến đổi nông nghiệp thành con đường phát triển cộng đồng

Nữ tu Christine Masivo, CPS

Vatican News (17/11/2025) - Tạo thêm các khả năng cho cộng đồng thông qua mô hình nông nghiệp bền vững là động lực chính trong sứ mạng của Sơ Josephine Kwenga. Nhờ đó, sơ giúp các nông dân tại các làng mạc ở Kenya xây dựng phương thức canh tác hiệu quả, mang lại sức sống mới cho các gia đình – đồng thời góp phần thực thi sứ mạng chăm sóc công trình sáng tạo của Giáo hội.

Sơ Josephine Kwenga – tu sĩ Dòng Thánh Giuse Tarbes – đang thay đổi cuộc sống của người dân bằng cách kết nối đức tin, phát triển bền vững và tạo khả năng cho cộng đồng. Đối với sơ, nông nghiệp bền vững không chỉ nuôi sống con người, mà còn làm hồi sinh các gia đình, các cộng đồng, và cả sứ mạng của Giáo hội trong việc bảo vệ ngôi nhà chung.

Sứ vụ toàn diện

Năm 2023, Sơ Josephine được trao Giấy chứng nhận vinh danh bởi Tổ chức Nhà báo và Nhà văn Liên Hợp Quốc nhờ những đóng góp trong lĩnh vực nông nghiệp bền vững. Chứng tá của sơ trong vai trò của một nữ tu – đồng thời là một người có vai trò ngôn sứ trong xã hội hôm nay – đã hòa quyện niềm đam mê mục vụ của sơ với lời mời gọi hướng đến một sứ vụ toàn diện.

Sơ chia sẻ với Vatican News: “Tôi đam mê lối sống làm việc theo nhóm, cổ võ sự phát triển toàn diện và thúc đẩy biến đổi xã hội. Sứ vụ của chúng tôi không phải để tích lũy tài sản, mà là để tạo thêm khả năng cho cộng đồng, thiết kế các chương trình kết hợp giữa đức tin và tính bền vững, đồng thời trở nên nguồn lực cho những người chúng tôi phục vụ”.

Sơ Josephine đã được chuẩn bị để dẫn dắt các sáng kiến phát triển với nền tảng học thuật đa dạng: giáo dục, nghiên cứu phát triển, biến đổi xã hội; chuyên sâu về phát triển bền vững, xây dựng hòa bình, lãnh đạo, và quản lý dự án.

Nông nghiệp như một hoạt động thiêng liêng

Với sơ Josephine, nông nghiệp không chỉ là sản xuất lương thực – mà còn là sự cộng tác với Đấng Tạo Hóa. Sơ nói: “Khi chúng ta vun trồng đất đai, chăm sóc cây trồng và vật nuôi, là chúng ta đang tham dự vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa”.

Nông nghiệp dạy con người sống kiên nhẫn, tin tưởng và khiêm tốn. “Khi chúng ta gieo trồng, chờ đợi, chăm sóc và thu hoạch, đó chính là lộ trình đức tin”, sơ giải thích. Vì thế, canh tác cũng trở thành một lời cầu nguyện – một hành động tạ ơn về món quà công trình sáng tạo.

Tầm nhìn này cũng tác động mạnh tới nông dân – những người thường coi công việc đồng áng là thấp kém hoặc nặng nhọc. Khi làm việc cùng họ trên cánh đồng, sơ đã phá bỏ nhiều định kiến.

“Ban đầu, nhiều người sửng sốt khi thấy một nữ tu mặc tu phục cầm cuốc ngoài ruộng. Nhưng rồi sự ngạc nhiên trở thành sự tôn trọng. Khi họ nhìn thấy các sơ trực tiếp dạy cách canh tác, họ được khích lệ, vì điều đó cho thấy công việc của họ được trân trọng trước mặt Chúa và Giáo hội”.

Những câu chuyện biến đổi

Sơ Josephine kể lại một câu chuyện xúc động về sự thay đổi nơi cộng đồng mà sơ phục vụ. Trong khu vực của sơ, có những gia đình nông dân nghèo đến mức phải thuê cả những dụng cụ làm vườn đơn giản, và phải trả một nửa tiền công hằng ngày chỉ để được sử dụng chúng trên đất của người khác. Sơ chia sẻ “Sau khi tham gia chương trình nông nghiệp bền vững do chúng tôi tổ chức, họ không chỉ tự mua được dụng cụ, mà còn bắt đầu trồng được lương thực cho nhà mình, thậm chí còn có sản phẩm dư để bán”.

Sơ nói tiếp, không giấu niềm tự hào: “Ngày nay, nhiều người trong số họ còn nuôi được dê sữa. Điều bắt đầu từ nhu cầu sống sót đã trở thành hành trình tìm lại phẩm giá, hy vọng và một tương lai tốt đẹp hơn. Đó là niềm vui của tôi: khi nông nghiệp đã thực sự phục hồi cuộc sống của họ”.

Thách đố và lòng kiên trì

Theo sơ Josephine, một trong những khó khăn lớn nhất khi bắt đầu sứ vụ là: “Người nông dân thường không tin rằng mọi thứ có thể thay đổi”. Ngoài ra, họ còn thiếu tài nguyên, đối mặt với hạn hán, sâu bệnh, thất mùa. Điều nâng đỡ sơ giữa những thử thách chính là cầu nguyện và cộng đoàn: “Tôi không mang nặng gánh nặng một mình. Tôi đem những khó khăn của mình trở về với cộng đoàn tu trì. Chúng tôi cùng nhau cầu nguyện cho sứ vụ, và hoạch định cách đáp lại. Với Chúa, sự sáng tạo và lòng kiên trì, mọi cuộc biến đổi đều có thể”.

Kết hợp truyền thống, công nghệ và đức tin

Trong bối cảnh nông nghiệp ngày nay gắn liền với công nghệ và biến đổi khí hậu, sơ Josephine khẳng định: “Đổi mới phải phục vụ sự sống, chứ không thay thế nó”.

Được truyền cảm hứng từ Thông điệp Laudato si’ và Fratelli tutti, sơ hòa trộn các phương pháp hiện đại như tưới tiêu thông minh, bảo tồn đất và canh tác thích ứng khí hậu với những thực hành nông nghiệp truyền thống, hữu cơ. Sơ giải thích: “Mấu chốt là giữ lại những gì mang lại sự sống từ truyền thống, loại bỏ điều gây hại, và sử dụng công nghệ theo cách tôn trọng công trình sáng tạo và phẩm giá của người nông dân. Chúng tôi Tin Mừng hóa công nghệ, chứ không để công nghệ chinh phục chúng tôi”.

Sức mạnh thầm lặng của đời sống thánh hiến nữ tu

Sơ Josephine luôn nhắc đến điều mà sơ gọi là “sức mạnh thầm lặng của sự hiện diện”: “Tiếng nói ngôn sứ của chúng tôi không nằm trong những bài diễn thuyết hùng hồn, mà ở những hành động kiên trì góp phần tái tạo phẩm giá, xây dựng cộng đồng và chăm sóc công trình sáng tạo. Sự biến đổi không phải lúc nào cũng đến từ vị thế có thẩm quyền, mà trước hết từ lòng trắc ẩn và tinh thần phục vụ. Đó là chứng tá âm thầm nhưng mạnh mẽ của các nữ tu”.

Sơ chia sẻ thêm về hành trình ơn gọi: “Khi bước vào đời thánh hiến, chúng tôi mở lòng để sẵn sàng đáp ứng nhu cầu truyền giáo. Có thể tôi được đào tạo để trở thành giáo viên, nhưng rồi được gọi đến với nông nghiệp hoặc một sứ vụ khác. Điều quan trọng là biết lắng nghe dấu chỉ thời đại, đáp lại trong đức tin và quảng đại. Chính trong đó, chúng tôi tìm thấy sự mãn nguyện”.

Ước mơ cho tương lai

Nhìn về phía trước, sơ Josephine mơ ước một tương lai nơi nông nghiệp không còn bị xem là công việc thấp kém, mà là một ơn gọi cao quý: “Tất cả chúng ta đều cần ăn; nông nghiệp nuôi sống tất cả mọi người. Tôi mong những người nông dân có thể tự hào và tự tin về vai trò của mình, và mong Giáo hội luôn đồng hành không chỉ bằng tiếng nói, mà bằng hành động thiết thực”.

Sơ mơ ước thúc đẩy mô hình nông nghiệp hữu cơ, tái tạo, để các thế hệ mai sau được thừa hưởng một mảnh đất màu mỡ hơn ngày hôm nay: “Khi các gia đình có an ninh lương thực, có hòa bình trong gia đình và sự hài hòa trong cộng đồng. Nhiều cuộc chiến – kể cả chiến tranh toàn cầu – đều bắt nguồn từ sự thiếu hụt tài nguyên. Nếu giải quyết được điều này, chúng ta xây dựng được hòa bình đích thực”.

Nguồn: vaticannews.va

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/nu-tu-kenya-bien-doi-nong-nghiep-thanh-con-duong-phat-trien-cong-dong

***

22.  Thánh tích Máu Chúa Giêsu sẽ được kính viếng tại Roma từ ngày 17 đến 25/11/2025

Vatican News

Vatican News (17/11/2025) - Lần đầu tiên trong lịch sử, thánh tích Máu Châu Báu của Chúa Giêsu Kitô sẽ rời thành Mantova để được rước đến Roma, nơi cộng đoàn tín hữu có thể kính viếng từ ngày 17 đến 25/11 tại đền thánh San Salvatore in Lauro ở trung tâm Roma.

Theo truyền thống, đây là Máu Thánh mà Longino, viên đại đội trưởng đã đâm cạnh sườn Chúa Giêsu, đã hứng được dưới chân Thập giá. Thánh tích được lưu giữ suốt nhiều thế kỷ tại Vương cung thánh đường Thánh Anrê ở Mantova. Sự kiện thánh tích Máu Châu Báu được đưa đến Roma có ý nghĩa thiêng liêng đặc biệt, bởi chưa bao giờ thánh tích này rời Mantova kể từ khi được lưu giữ tại đây. Đây là cơ hội để các tín hữu cầu nguyện, chiêm niệm và canh tân đức tin, trong ánh sáng của mầu nhiệm Thương Khó Chúa Kitô.

Chương trình

Thánh tích sẽ được long trọng đón tiếp vào lúc 16 giờ 30 ngày 17/11, với nghi thức tiếp nhận trọng thể, tiếp đó là Thánh lễ do Đức cha Edoardo Cerrato, nguyên giám mục của Ivrea, chủ sự. Trong hai ngày 18 và 19/11, vào lúc 18 giờ, Đức cha Cerrato sẽ chủ sự các Thánh lễ tạ ơn.

Ngày 20/11, lúc 18 giờ, Đức Cha Andrea Ripa, Tổng Thư ký Tối cao Pháp viện Tòa Thánh, sẽ chủ sự Thánh lễ trọng thể. Ngày 21/11, lúc 16 giờ, Đức Tổng Giám mục Flavio Pace, Tổng Thư ký Bộ Cổ võ sự Hiệp nhất Kitô hữu, sẽ chủ tế Thánh lễ, sau đó là cuộc hành hương Năm Thánh đến Đền thờ Thánh Phêrô, như một dấu chỉ hiệp thông và đồng hành thiêng liêng. Tiếp đó, ngày 22/11 lúc 18 giờ, Đức Hồng y Rolandas Makrickas, Giám quản Đền thờ Đức Bà Cả, sẽ chủ sự Thánh lễ trọng thể. Ngày 23 và 24/11, Thánh lễ lúc 18 giờ sẽ do Đức cha Cerrato cử hành.

Cao điểm của tuần lễ thánh thiêng sẽ diễn ra vào ngày 25/11, với Thánh lễ trọng thể kết thúc do Đức Hồng y Mario Grech, Tổng Thư ký Thượng Hội đồng Giám mục, chủ sự. Theo thông cáo, đây là dịp đặc biệt để Giáo hội và thế giới dâng lời tạ ơn và tín thác nơi Máu Châu Báu Chúa Kitô.

Sáng kiến do đền thánh San Salvatore in Lauro tổ chức, nhằm mang lại cho các tín hữu một thời khắc ân sủng nhân dịp Năm Thánh, đồng thời khẳng định giá trị phổ quát của Hy tế của Chúa Kitô – dấu chỉ của tình yêu, ơn cứu độ và sự hiệp nhất của toàn thể các tín hữu.

Nguồn: vaticannews.va

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/thanh-tich-mau-chua-giesu-se-duoc-kinh-vieng-tai-roma-tu-ngay-17-den-25112025

***

23.  Sứ mạng giúp mọi người gặp gỡ Thiên Chúa qua Kinh thánh - Diễn văn của Đức Giáo Hoàng Lêô XIV dành cho Liên đoàn Kinh thánh Công giáo

Chuyển ngữ: Nt. Anna Ngọc Diệp, OP

WHĐ (19/11/2025) - Sáng 17/11/2025, Đức Giáo hoàng Lêô XIV đã tiếp các thành viên Liên đoàn Kinh thánh Công giáo tại Vatican, bày tỏ lòng biết ơn đối với sứ vụ phục vụ và loan truyền Lời Chúa của tổ chức này. Liên đoàn Kinh thánh Công giáo, do Đức Hồng y Luis Antonio Tagle, Quyền Tổng trưởng Bộ Loan báo Tin Mừng, làm Chủ tịch, là một tổ chức quốc tế chuyên thúc đẩy việc nghiên cứu, phổ biến và mục vụ Kinh thánh trên toàn thế giới. Sau đây là toàn văn bài diễn văn tiếng Việt của Đức Thánh Cha:

DIỄN VĂN CỦA ĐỨC THÁNH CHA LÊÔ XIV

DÀNH CHO LIÊN ĐOÀN KINH THÁNH CÔNG GIÁO

Hội trường Giáo hoàng

Thứ Hai, ngày 17 tháng 11 năm 2025

[Đa phương tiện]

 

Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần.

Bình an ở cùng anh chị em!

Kính thưa quý Hồng y,

Quý Cha, Quý Nữ tu,

Anh chị em thân mến,

Tôi muốn cảm ơn Đức Hồng y Koch, Tổng trưởng Bộ Cổ võ Hiệp nhất các Kitô hữu, vì sự hiện diện của ngài sáng nay, và cũng xin cảm ơn Đức Hồng y Luis Tagle, Quyền Tổng trưởng Bộ Loan báo Tin mừng kiêm Chủ tịch Liên đoàn Kinh thánh Công giáo. Tôi cũng xin gửi lời chào nồng nhiệt đến các thành viên của Ủy ban Điều hành, quý Điều phối viên khu vực, Ban Tổng Thư ký và các ân nhân của Liên đoàn Kinh thánh Công giáo. Đến từng người trong anh chị em và tất cả những ai anh chị em đại diện, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành vì sự phục vụ của anh chị em đối với Lời Chúa.

Hiến chế Tín lý về Mạc khải Dei Verbum, mà năm nay chúng ta kỷ niệm 60 năm ban hành, kết thúc với những lời sau: “Anh em cầu nguyện cho chúng tôi, để Lời Chúa được phổ biến mau chóng và được tôn vinh, như đã thấy nơi anh em” (2 Tx 3,1). Lời thỉnh cầu này của Thánh Phaolô gửi tín hữu Thessalonica diễn tả một ước muốn mãnh liệt, một xác tín mạnh mẽ và một định hướng mục vụ có thể hướng dẫn suy tư chung của chúng ta.

Giáo huấn của Hiến chế Dei Verbum hết sức rõ ràng: chúng ta được mời gọi “lắng nghe Lời Chúa với lòng tôn kính và tuyên xưng Lời ấy trong đức tin” (x. DV 1), và “mọi Kitô hữu phải được tạo điều kiện dễ dàng tiếp cận với Thánh kinh” (DV 22). Cùng viễn tượng này được phản ánh trong Bản Quy chế của anh chị em, trong đó khẳng định rằng Liên đoàn Kinh thánh Công giáo “cổ võ và phát triển Mục vụ Kinh thánh theo cách thức giúp cho Lời Chúa được trình bày trong Kinh thánh trở thành nguồn năng động truyền cảm hứng cho mọi lĩnh vực trong đời sống và sứ mạng của Giáo hội trong thế giới ngày nay” (Quy chế Liên đoàn Kinh thánh Công giáo, 9).

Trong những ngày họp bàn này, tôi khuyến khích anh chị em suy xét một cách mới mẻ sự trung tín mang tính cá nhân và Giáo hội của mình đối với sứ mạng này, một sứ mạng không gì khác hơn là việc loan báo kerygma, mầu nhiệm cứu độ của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Thật vậy, sứ mạng và tầm nhìn của anh chị em luôn phải được gợi hứng bởi xác tín rằng Giáo hội không có được sự sống từ chính mình nhưng từ Tin mừng. Chính từ Tin mừng mà Giáo hội không ngừng tái khám phá hướng đi cho hành trình của mình, dưới sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần, Đấng dạy dỗ mọi điều và nhắc nhớ chúng ta tất cả những gì Người Con đã phán dạy (x. Ga 14:26). Do đó, việc lắng nghe Lời Chúa và loan báo Lời ấy là những hành vi mang tính Giáo hội đích thực: Hiền thê chăm chú lắng nghe trong yêu mến tiếng nói của Hiền Phu (x. Dc 2,8–10).

Đồng thời, việc bảo đảm cho mọi tín hữu được dễ dàng tiếp cận Kinh thánh là điều thiết yếu, để mỗi người có thể gặp gỡ Thiên Chúa, Đấng đang ngỏ lời, trao ban tình yêu của Ngài và dẫn đưa chúng ta vào sự sống dồi dào (x. Ga 10,10). Trong chiều hướng này, các bản dịch Kinh thánh vẫn luôn giữ vai trò không thể thay thế, và tôi xin cảm ơn anh chị em vì những nỗ lực trong việc cổ võ Lectio divina cũng như mọi sáng kiến khuyến khích việc đọc Kinh thánh thường xuyên.

Thế nhưng ngày nay, những thế hệ mới đang sống trong các môi trường kỹ thuật số mới, nơi Lời Chúa rất dễ bị che khuất. Nhiều cộng đoàn mới đang hiện diện trong những không gian văn hóa mà Tin mừng còn xa lạ hoặc bị bóp méo bởi những lợi ích riêng. Vì thế, chúng ta phải đặt câu hỏi: trong thời đại của chúng ta, “dễ dàng tiếp cận với Kinh thánh” có nghĩa là gì? Làm sao chúng ta có thể giúp tạo nên cuộc gặp gỡ này cho những ai chưa từng nghe biết Lời Chúa, hoặc những nền văn hóa vẫn còn chưa được Tin mừng chạm tới? Tôi hy vọng những câu hỏi này sẽ khơi gợi nơi anh chị em những hình thức tiếp cận Kinh thánh mới, có khả năng mở ra những lối dẫn tới Kinh thánh, để Lời Chúa có thể bén rễ trong tâm hồn con người và dẫn đưa mọi người sống trong ân sủng của Ngài.

Sau cùng, sứ mạng của anh chị em là trở nên “những bức thư sống… không phải được viết bằng mực đen nhưng bằng Thần Khí của Thiên Chúa hằng sống” (2 Cr 3,1–6), làm chứng cho sự ưu tiên của Lời Chúa giữa muôn vàn tiếng nói đang lấp đầy thế giới chúng ta. Nguyện xin Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, và là cung lòng nơi Ngôi Lời đã trở nên xác phàm, dạy chúng ta nghệ thuật lắng nghe, củng cố chúng ta trong sự vâng phục Lời Người, và dẫn chúng ta cất tiếng ngợi khen Chúa (x. Lc 1,46). Với những tâm tình này, tôi ưu ái ban phép lành cho anh chị em và những người thân yêu của anh chị em. Xin chân thành cảm ơn.

Nt. Anna Ngọc Diệp, OP

Dòng Đa Minh Thánh Tâm

Chuyển ngữ từ: vatican.va

(Nguồn: WHĐ)

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/su-mang-giup-moi-nguoi-gap-go-thien-chua-qua-kinh-thanh---dien-van-cua-duc-giao-hoang-leo-xiv-danh-cho-lien-doan-kinh-thanh-cong-giao

***

24.  Sứ mạng đào tạo Phụng vụ - Diễn văn của Đức Thánh cha Lêô XIV gửi các tham dự viên khóa Huấn luyện Nhân viên Mục vụ Phụng vụ Giáo phận

Chuyển ngữ: Nt. Anna Ngọc Diệp, OP

WHĐ (20/11/2025) - Ngày 17/11, Đức Giáo hoàng Lêô XIV đã tiếp kiến các tham dự viên của khóa Huấn luyện Nhân viên Mục vụ Phụng vụ Giáo phận, do Học viện Phụng vụ Giáo hoàng Thánh Anselm tổ chức. Sau đây là toàn văn Việt ngữ bài Diễn văn của Đức Thánh Cha:

DIỄN VĂN CỦA ĐỨC THÁNH CHA LÊÔ XIV
GỬI CÁC THAM DỰ VIÊN KHÓA HUẤN LUYỆN
NHÂN VIÊN MỤC VỤ PHỤNG VỤ GIÁO PHẬN

Dinh Tông toà

Thứ Hai, ngày 17 tháng 11 năm 2025

[Đa phương tiện]

Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.

Bình an ở cùng anh chị em!

Chào buổi sáng và chào mừng tất cả anh chị em!

Tôi xin chào đan viện phụ, viện trưởng Học viện Thánh Anselm, trưởng khoa Học viện Phụng vụ Giáo hoàng, cùng toàn thể tham dự viên khóa bồi dưỡng dành cho những người đặc trách mục vụ Phụng vụ cấp giáo phận. Tôi rất vui được đón tiếp anh chị em vào thời điểm khởi đầu chương trình đào sâu kiến thức của mình.

Chương trình đào luyện mà anh chị em tham gia đáp ứng sứ mạng kép của Học viện Phụng vụ Giáo hoàng. Như Đức Thánh cha Bênêđictô XVI từng mong ước, học viện tiếp tục phục vụ Giáo hội với lòng nhiệt thành, trong sự trung thành trọn vẹn với truyền thống Phụng vụ và với công cuộc canh tân mà Công đồng Vaticanô II đã đề xướng, theo những định hướng của Sacrosanctum Concilium và các huấn thị của Huấn quyền (x. Diễn văn dành cho tham dự viên hội nghị do Học viện Giáo hoàng Thánh Anselm tổ chức, 6/5/2011). Đồng thời, những sáng kiến như khóa học này góp phần hiện thực hóa sứ mạng đào tạo được nêu trong Tông hiến Veritatis Gaudium, chẳng hạn như việc huấn luyện các thừa tác viên và giáo dân để chuẩn bị họ cho việc phục vụ trong mục vụ và phụng vụ.

Tôi nghĩ rằng lời mời gọi nồng nhiệt của Đức Giáo hoàng Phanxicô cũng được dành cho chính học viện của anh chị em. Trong Tông thư Desiderio desideravi, ngài khuyến nghị: “Cần tìm ra những kênh cho một sự đào tạo qua việc học hỏi Phụng vụ. Ngay từ đầu của phong trào Phụng vụ, đã có rất nhiều điều được thực hiện trong chiều hướng này, với những đóng góp quý báu từ các học giả và cơ sở học thuật. Tuy nhiên, điều quan trọng lúc này là phổ biến kiến thức ấy ra ngoài môi trường học thuật, bằng một cách thức dễ tiếp cận, để mỗi tín hữu có thể lớn lên trong sự hiểu biết về cảm thức thần học của Phụng vụ và về chính việc cử hành” (số 35).

Thật vậy, trong các giáo phận và giáo xứ, nhu cầu đào tạo như thế là rất cấp thiết; và khi những chương trình này chưa hiện diện, điều quan trọng là phải khởi xướng các khóa học Kinh thánh và Phụng vụ. Học viện Phụng vụ Giáo hoàng có thể góp phần chuẩn hóa và nâng cao chất lượng các chương trình ấy, giúp các Giáo hội địa phương và cộng đoàn giáo xứ được huấn luyện qua Lời Chúa, bằng cách giải thích các bản văn trong Sách Bài đọc ngày thường và ngày lễ; đồng thời tiếp tục công cuộc khai tâm Kitô giáo và Phụng vụ để giúp các tín hữu hiểu biết, qua các nghi thức, lời nguyện và các dấu chỉ hữu hình, về mầu nhiệm đức tin đang được cử hành (x. Sacrosanctum Concilium, 48).

Liên quan đến việc đào tạo Kinh thánh kết hợp với đào tạo Phụng vụ, tôi muốn khuyến nghị các giám đốc văn phòng mục vụ Phụng vụ đặc biệt lưu tâm đến những người được trao trách nhiệm công bố Lời Chúa. Hãy bảo đảm rằng nhóm đọc sách được thiết lập, cũng như những ai thường xuyên đọc Sách Thánh trong các cử hành, được chuẩn bị một cách kỹ lưỡng. Kiến thức Kinh thánh căn bản, phát âm rõ ràng, khả năng hát Thánh vịnh đáp ca, cũng như khả năng soạn lời nguyện tín hữu cho cộng đoàn là những yếu tố quan trọng góp phần thực thi việc canh tân phụng vụ và giúp Dân Chúa lớn lên trên hành trình của họ.

Chúng ta đều biết rằng đào tạo Phụng vụ là một trong những chủ đề chính xuyên suốt toàn bộ tiến trình Công đồng và hậu Công đồng. Đã có nhiều bước tiến đáng kể, nhưng vẫn còn một chặng đường dài phía trước. Chúng ta đừng nản lòng: hãy nhiệt thành tiếp tục những sáng kiến tốt đẹp được gợi hứng từ công cuộc canh tân, đồng thời tìm kiếm những phương thức và con đường mới.

Văn phòng Phụng vụ tại mỗi giáo phận chịu trách nhiệm về việc đào tạo Phụng vụ thường xuyên cho hàng giáo sĩ và giáo dân, chuẩn bị cho các thừa tác vụ, chăm lo các nhóm Phụng vụ giáo xứ, giúp lễ, đọc sách và xướng ca. Mục tiêu là thúc đẩy sự tham dự sinh hoa trái của Dân Chúa, cũng như bảo đảm một nền Phụng vụ trang nghiêm, phù hợp với những khác biệt trong cảm thức đức tin và tiết chế trong sự long trọng của mình.

Trong số những khía cạnh liên quan đến sứ vụ của anh chị em với vai trò giám đốc, tôi muốn nhắc đến việc cổ võ Giờ kinh Phụng vụ, chăm sóc đời sống đạo đức bình dân và chú trọng đến chiều kích cử hành trong việc xây dựng nhà thờ mới cũng như trong việc chỉnh trang các nhà thờ hiện có. Đây là những chủ đề anh chị em sẽ bàn đến trong khóa học này và cũng là những vấn đề anh chị em phải đối diện mỗi ngày.

Tại nhiều giáo xứ, còn có những nhóm Phụng vụ cần làm việc hiệp thông chặt chẽ với Ủy ban Phụng vụ Giáo phận. Kinh nghiệm của một nhóm, dù nhỏ thôi nhưng có động lực rõ ràng, chuyên lo việc chuẩn bị Phụng vụ chính là biểu hiện của một cộng đoàn biết quan tâm đến các cử hành của mình, biết chuẩn bị, và sống các cử hành ấy một cách trọn vẹn, trong sự phối hợp hài hòa với với cha xứ. Nhờ đó, chúng ta tránh được tình trạng phó mặc mọi sự cho cha xứ, hoặc để chỉ một vài người đảm nhận việc hát thánh ca, công bố Lời Chúa hay trang trí nhà thờ. Tiếc thay, theo thời gian, một số nhóm này đã suy giảm đến mức gần như biến mất, như thể họ đã đánh mất chính căn tính của mình; bởi vậy, cần nỗ lực làm cho lĩnh vực này của đời sống Giáo hội trở nên cuốn hút trở lại, có khả năng mời gọi những người có chuyên môn hoặc ít nhất là có thiên hướng phục vụ trong lĩnh vực này.

Với tư cách là những giám đốc được các giám mục bổ nhiệm, anh chị em có thể đề nghị với các cha xứ những khóa đào tạo nhằm khởi động hoặc củng cố các nhóm Phụng vụ tại giáo xứ, đào luyện các thành viên và đưa ra những gợi ý cho hoạt động của họ. Các buổi thực hành trong khóa học sẽ hỗ trợ anh chị em tìm kiếm và thử nghiệm những hình thức phù hợp để có thể áp dụng vào các Giáo hội địa phương. Để rồi sự sáng tạo mục vụ của anh chị em sẽ tìm ra những phương thức thích hợp nhất.

Các bạn thân mến, khi anh chị em bắt đầu hành trình đào tạo này, tôi mong rằng thời gian anh chị em lưu lại Rôma trong Năm thánh ngoài việc cung cấp cho anh chị em những công cụ để đào sâu hơn hiểu biết, còn tiếp thêm sinh lực thiêng liêng của anh chị em, để khi trở về với các Giáo hội địa phương, anh chị em có thể tiếp tục hoạt động mục vụ trong việc phục vụ Phụng vụ với nhiệt huyết mới mẻ. Và đây là hy vọng của tôi, khi tôi ưu ái ban phép lành cho anh chị em. Xin chân thành cảm ơn.

Nt. Anna Ngọc Diệp, OP

Dòng Đa Minh Thánh Tâm

Chuyển ngữ từ: vatican.va

(Nguồn: WHĐ)

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/su-mang-dao-tao-phung-vu---dien-van-cua-duc-thanh-cha-leo-xiv-gui-cac-tham-du-vien-khoa-huan-luyen-nhan-vien-muc-vu-phung-vu-giao-phan

***

25.  Sứ mạng mang Lời cứu độ của Tin Mừng đến tận cùng trái đất - Diễn văn của Đức Thánh Cha Lêô XIV dành cho nhân viên ngoại giao tại các Cơ quan Ngoại giao của Tòa thánh

Chuyển ngữ: Nt. Anna Ngọc Diệp, OP

WHĐ (21/11/2025) - Chiều ngày 17/11/2025, Đức Giáo hoàng đã tiếp kiến các nhân viên ngoại giao đang phục vụ tại các Cơ quan Ngoại giao của Tòa thánh trên toàn thế giới. Các vị đại diện cho nhiều trong số 184 quốc gia có quan hệ ngoại giao với Vatican, hiện đang có mặt tại Rôma để tham dự cuộc hành hương Năm thánh và các cuộc họp tại Phủ Quốc vụ khanh Tòa thánh. Sau đây là toàn văn Việt ngữ bài Diễn văn của Đức Thánh Cha:

DIỄN VĂN CỦA ĐỨC THÁNH CHA LÊÔ XIV

DÀNH CHO NHÂN VIÊN NGOẠI GIAO

TẠI CÁC CƠ QUAN NGOẠI GIAO CỦA TÒA THÁNH

Hội trường Clementine

Thứ Hai, ngày 17 tháng 11 năm 2025

[Đa phương tiện]

Nhân Danh Cha, và Con, và Thánh Thần. Bình an ở cùng anh em!

Thưa Đức Hồng y, quý Đức cha,

Quý Linh mục thân mến!

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến Đức Hồng y Quốc vụ khanh vì những lời tốt đẹp ngài vừa dành cho tôi, cũng như đến quý Bề trên của Phủ Quốc vụ khanh, đặc biệt là vị Tổng Thư ký phụ trách các Cơ quan Đại diện Tòa thánh và đơn vị được gọi là Phân ban Thứ ba, đã tận tâm tổ chức những ngày huynh đệ, cầu nguyện và đối thoại này.

Sự hiện diện của anh em là niềm vui đặc biệt đối với tôi, vì đây là lần đầu tiên tôi được đón tiếp anh em cùng hiện diện đông đủ. Dịp gặp gỡ hôm nay mang một ý nghĩa rất quan trọng: Năm thánh Hy vọng. Giống như bao khách hành hương khác, anh em cũng đã đến Rôma, đến bên mộ Thánh Phêrô Tông đồ, để củng cố đức tin và canh tân những quyết tâm vốn gợi hứng sứ vụ của mình. Thật có thể khẳng định rằng chúng ta đã thực hiện điều này, rằng chính anh em đã cùng thực hiện điều này với toàn thể Dân Chúa; và quan trọng biết bao khi nhận ra rằng sứ vụ của anh em  với Dân Chúa, chứ không tách rời khỏi họ. Vì vậy, việc hành hương thực sự là một cách để cùng nhau bước đi với toàn thể Giáo hội. Năm thánh là cơ hội đầy quan phòng để mỗi người tái khám phá và đào sâu vẻ đẹp của ơn gọi, tức là lời mời gọi chung của chúng ta bước vào sự thánh thiện, lời mời gọi thúc đẩy chúng ta mỗi ngày trở nên những chứng nhân của Đức Kitô, Đấng là niềm hy vọng sống động cho thế giới.

Trước hết, tôi muốn cảm ơn anh em, bởi như Thánh Tông đồ nhắc nhở chúng ta (x. Pl 3,12), anh em đã không do dự trước tiếng gọi của Thầy, Đấng mời gọi chúng ta bước theo Người, từ bỏ mọi sự để mang Lời cứu độ của Tin Mừng đến tận cùng trái đất. Lời mời gọi này vang lên cách đặc biệt nơi anh em, những người được chọn để thi hành tác vụ linh mục trong các Cơ quan Đại diện Tòa thánh: một ân ban và một cam kết trở nên sự hiện diện của toàn thể Giáo hội ở mọi nơi, và cách riêng là sự chăm sóc mục vụ của Giáo hoàng, Đấng hướng dẫn Giáo hội trong đức ái.

Quả thật, sứ vụ đặc thù của anh em gian nan và do đó, sứ vụ này đòi hỏi một trái tim bừng cháy vì Thiên Chúa và rộng mở với con người; yêu cầu sự học hỏi và chuyên môn, sự từ bỏ và can cảm; đồng thời lớn lên trong sự tín thác nơi Đức Giêsu cũng như trong sự ngoan ngùy đối với Giáo hội, được biểu lộ qua sự vâng phục các Bề trên. Tại các quốc gia nơi anh em làm việc, khi gặp gỡ các dân tộc và ngôn ngữ khác nhau, xin đừng quên rằng chứng tá đầu tiên cần trao ban chính là chứng tá của những linh mục yêu mến Đức Kitô và tận tâm xây dựng Nhiệm Thể Người. Khi phục vụ các cộng đoàn Giáo hội, anh em phản ánh tình thương và sự gần gũi mà Giáo hoàng dành cho từng cộng đoàn, luôn duy trì sống động cảm thức cùng với Giáo hội (sentire cum Ecclesia). Tôi đặc biệt nghĩ đến những anh em đang trong những bối cảnh khó khăn, xung đột và nghèo đói, những nơi không thiếu những giây phút chán nản. Chính trong những gian nan ấy, hãy nhớ rằng Giáo hội nâng đỡ anh em bằng lời cầu nguyện; vì thế, hãy luôn củng cố căn tính linh mục của mình, kín múc sức mạnh từ các Bí tích, từ tình hiệp thông huynh đệ và từ sự ngoan ngùy liên lỉ với Chúa Thánh Thần.

Bằng việc nuôi dưỡng những nhân đức nhân bản được thể hiện qua lời nói và hành động hằng ngày, anh em hãy xây dựng các mối tương quan với mọi người, chống lại cám dỗ tự cô lập mình. Trái lại, hãy luôn gắn kết với nhiệm thể Giáo hội và với lịch sử của các dân tộc, cả dân tộc nơi anh em xuất thân, lẫn những dân tộc nơi anh em được sai đến. Mỗi quốc gia đều trao tặng cho anh em những truyền thống riêng để tìm hiểu, trân quý và tôn trọng, giống như người nông phu tôn trọng mảnh đất và, nhờ canh tác nó, thu hoạch hoa trái tốt lành từ công lao của mình. Vì vậy, đừng trở thành những con người xa cách, nhưng hãy là những môn đệ nhiệt thành của Đức Kitô, hòa mình vào những bối cảnh nơi anh em sống và làm việc với phong thái mang tính Tin Mừng. Thật vậy, các vị thừa sai vĩ đại nhắc nhớ chúng ta rằng hội nhập văn hóa không phải là một thái độ mang tính trình diễn dân gian nhưng phát xuất từ ước muốn dấn thân cho vùng đất và con người mà chúng ta phục vụ.

Sự thuộc về mới mẻ mà anh em trải nghiệm không phải là một sự thay thế cho những bối cảnh mang tính xã hội và giáo hội nơi anh em xuất thân. Vì thế, cần phải tiếp tục nuôi dưỡng, trong khả năng có thể, mối dây gắn bó với Giáo hội địa phương của chính mình. Khi cảm thức thuộc về này suy giảm, sự chán nản sẽ nảy sinh: lúc đó, chúng ta trở nên như cây không còn rễ. Ngược lại, nếu vẫn tiếp tục nhận nhựa sống, cây có thể được trồng ở nơi khác và vẫn sinh hoa kết trái mới.

Trong những thời khắc khó khăn mà đôi khi chúng ta phải trải qua, thật hữu ích cho chúng ta để củng cố lại động lực của mình bằng những lời, chẳng hạn như của Thánh Augustinô: “Pondus meum, amor meus” (“Tình yêu của tôi là sức nặng của tôi”) (Tự thú XIII, 9). Ngay cả ngôn sứ Êlia vĩ đại cũng đã từng có lúc nghĩ rằng mọi công lao của mình trở nên vô ích. Thế nhưng, Chúa đã nâng ông dậy, chỉ cho ông một đích đến chắc chắn và một con đường an toàn để bước đi (x. 1 V 19,1-18). Anh em thân mến, mỗi ngày hãy bước lên ngọn Horeb nội tâm của chính mình, nơi Thần Khí của Thiên Chúa cất tiếng nói với tâm hồn anh em. Trong mỗi Cơ quan Đại diện Tòa thánh đều có một nhà nguyện, trung tâm đích thực của ngôi nhà anh em, nơi hằng ngày, cùng với Đức Sứ thần, các tu sĩ và cộng tác viên, anh em cử hành Thánh Thể, dâng lên Chúa lời ngợi khen và khẩn cầu. Chớ gì ánh sáng từ Nhà Tạm xua đi những bóng tối và lo âu, soi chiếu lộ trình anh em đang bước đi. Như thế, lời của Chúa Giêsu được nên trọn: anh em là muối cho đời và ánh sáng cho trần gian (x. Mt 5,13-14). Khi gìn giữ phép lạ của ân sủng này, hãy trở nên những người hành hương của hy vọng, đặc biệt ở những nơi người dân đang thiếu vắng công lý và hòa bình.

Tôi hy vọng rằng những ngày sống trong tinh thần huynh đệ và cầu nguyện này có thể tăng cường đời sống thiêng liêng của anh em và giúp anh em nhiệt tâm heo đuổi sứ mạng mà Giáo hội đã trao phó cho anh em. Xin chuyển giúp tôi lời chào thăm đến các vị Trưởng Phái bộ mà anh em cộng tác và những vị mà anh em đã có dịp gặp gỡ vào tháng Sáu vừa qua, cũng như đến thân quyến của anh em. Tôi phó thác tất cả anh em cho sự chở che của hai Thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô, nhờ lời chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Giáo hội, và tôi ưu ái ban phép lành cho anh em. Xin chân thành cảm ơn.

Nt. Anna Ngọc Diệp, OP

Dòng Đa Minh Thánh Tâm

Chuyển ngữ từ: vatican.va

(Nguồn: WHĐ)

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/su-mang-mang-loi-cuu-do-cua-tin-mung-den-tan-cung-trai-dat---dien-van-cua-duc-thanh-cha-leo-xiv-danh-cho-nhan-vien-ngoai-giao-tai-cac-co-quan-ngoai-giao-cua-toa-thanh

***

26.  10 điểm chính trong bài huấn dụ của Đức Thánh cha Lêô XIV dành cho giới trẻ tại NCYC

Chuyển ngữ: Tri Khoan

WHĐ (23/11/2025) – Đức Thánh Cha Lêô XIV nói chuyện với các thanh thiếu niên trong một cuộc gặp gỡ trực tuyến tại Sân vận động Lucas Oil ở Indianapolis trong khuôn khổ Đại hội Giới trẻ Công giáo Toàn quốc (NCYC) năm 2025 vào ngày 21 tháng 11 năm 2025. (ảnh: Tessa Gervasini/CNA / EWTN)

Đức Thánh Cha Lêô XIV nói chuyện với các thanh thiếu niên trong cuộc gặp gỡ trực tuyến tại Sân vận động Lucas Oil ở Indianapolis vào thứ Sáu, trong khuôn khổ Đại hội Giới trẻ Công giáo Toàn quốc (NCYC) năm 2025.

Năm thiếu niên đã đặt câu hỏi cho Đức Thánh Cha về việc sử dụng công nghệ, đứng dậy sau những lỗi lầm, phó thác những âu lo cho Chúa Giêsu, tránh sự chia trí, và chuẩn bị cho tương lai của Hội thánh. Đức Thánh Cha đã đưa ra những chỉ dẫn cho các giới trẻ bằng những lời áp dụng cho cả các thanh thiếu niên lẫn Giáo hội hoàn vũ.

Những lời khuyên của Đức Thánh Cha mà mọi người Công giáo có thể áp dụng vào đời sống bao gồm:

1) Tội lỗi không bao giờ là tiếng nói cuối cùng

Đức Thánh Cha Lêô nói: “Tất cả chúng ta đều phải chiến đấu. Sự thật là không ai trong chúng ta là hoàn hảo cả.”

Đức Thánh Cha nói: “Thánh Phaolô dạy rằng mọi người đã phạm tội và bị tước mất vinh quang Thiên Chúa… Vì tội nguyên tổ, đôi khi chúng ta làm điều ngược lại với những gì chúng ta biết là đúng. Nhưng có một tin vui. Tội lỗi không bao giờ là tiếng nói cuối cùng.”

Ngài nói tiếp: “Bất cứ khi chúng ta cầu xin lòng thương xót của Thiên Chúa, thì Thiên Chúa tha thứ cho chúng ta. Đức Thánh Cha Phanxicô từng nói rằng Thiên Chúa không bao giờ mệt mỏi trong việc tha thứ. Đôi khi chính chúng ta thấy mệt mỏi khi xin ơn tha thứ. Vì vậy, ngay cả khi chúng ta lại vấp ngã, chúng ta hãy nhớ lại lời của Thánh Phaolô: ‘Đức Kitô Giêsu đã đến trong thế gian để cứu những người tội lỗi’. Ngài đến vì chúng ta, biết rõ những yếu đuối của chúng ta.”

“Chúng ta có thể thấy khó tha thứ, nhưng trái tim của Thiên Chúa thì hoàn toàn khác. Thiên Chúa không bao giờ ngừng mời gọi chúng ta trở về. Chúng ta cảm nghiệm lòng thương xót này của Thiên Chúa một cách đặc biệt trong Bí tích Hòa giải,” Đức Thánh Cha nói.

“Thật dễ nản lòng khi chúng ta vấp ngã, nhưng đừng chỉ tập trung vào tất cả mọi tội lỗi của các con. Hãy nhìn lên Chúa Giêsu. Hãy tin tưởng vào lòng thương xót của Ngài và đến với Ngài bằng sự tín thác. Ngài sẽ luôn đón chào các con trở về nhà,” ngài nói.

2) Phó thác mọi âu lo cho Thiên Chúa

Đức Thánh Cha Lêô nói: “Trong thư thứ nhất, Thánh Phêrô dạy chúng ta hãy trao phó mọi lo lắng cho Chúa Giêsu, vì Ngài chăm sóc chúng ta. Chúa Giêsu không chỉ thấu hiểu những cuộc chiến đấu của chúng ta từ xa. Ngài thực sự muốn chúng ta hãy trao những điều đó cho Ngài vì Ngài yêu thương chúng ta.”

“Sự tin tưởng đó bắt đầu khi chúng ta có một mối tương quan thực sự. Chúng ta không thể trao những vấn đề của mình cho một người mà chúng ta hầu như không quen biết. Hãy nghĩ đến những người bạn thân nhất của các con chẳng hạn. Nếu họ bị tổn thương, các con sẽ trò chuyện với họ. Các con sẽ lắng nghe họ. Các con sẽ ở bên họ. Mối tương quan của chúng ta với Chúa Giêsu cũng tương tự như vậy,” ngài nói.

“Chúa Giêsu thấu biết khi nào cuộc sống trở nên nặng nề. Kinh thánh nhắc chúng ta rằng Người ở gần những tấm lòng tan vỡ. Dù khi chúng ta không cảm thấy sự hiện diện của Người, đức tin cho chúng ta biết rằng Người đang ở đó. Để phó thác những khó khăn của mình cho Chúa Giêsu, chúng ta phải dành thời gian với Người trong cầu nguyện. Chúng ta phải có một mối tương quan với Người.”

Đức Giáo hoàng nói: “Những giây phút tĩnh lặng mỗi ngày là vô cùng quan trọng, có thể là Chầu Thánh Thể, đọc Kinh thánh, thưa chuyện với Người, hoặc tìm kiếm những khoảng thời gian ít ỏi để chúng ta có thể ở bên Người. Dần dần, chúng ta học cách nghe được tiếng của Người, cảm nhận được sự hiện diện của Người, cả trong tâm hồn và qua những người mà Ngài gửi đến với chúng ta”.

3) Tìm những người bạn thật

Đức Thánh Cha nói: “Điều quan trọng là hãy cầu nguyện để có được món quà là những người bạn đích thực. Một người bạn tốt không chỉ là người mang lại niềm vui khi ở cùng, à, điều đó cũng tốt chứ. Nhưng đó phải là người giúp các con đến gần Chúa Giêsu hơn, là người khích lệ các con trở nên tốt hơn. Bạn tốt cũng thúc đẩy chúng ta tìm kiếm sự trợ giúp khi cuộc sống trở nên khó khăn hoặc bối rối.”

“Bạn tốt sẽ luôn nói sự thật cho chúng ta, ngay cả khi việc đó không dễ dàng. Kinh thánh nói rằng người bạn trung thành là nơi nương tựa vững chắc và là một kho báu. Cha hy vọng các con đang xây dựng những tình bạn như thế, ngay cả trong đại hội này. Những tình bạn bén rễ trong đức tin, bén rễ sâu trong tình yêu dành cho Chúa Giêsu.”

4) Chia trí là điều bình thường, nhưng hãy quay lại với Chúa

Khi chúng ta bị chia trí khi cầu nguyện, “đôi khi điều tốt nhất nên làm là dõi theo sự chia trí đó một chút, để xem tại sao nó lại xuất hiện ở đó,” Đức Thánh Cha Lêô nói. Rồi sau khi nhận diện nó, “hãy quay trở lại và nhớ lý do vì sao các con ở đó và vì sao các con đang cầu nguyện, và thưa với Chúa rằng: ‘Lạy Chúa, con đang bị chia trí ngay lúc này. Con biết Chúa thấu hiểu.’”

“Nhưng đừng cho phép bản thân bị kéo đi quá xa, nhất là trong cầu nguyện, bởi vì có đủ mọi loại cám dỗ và đủ loại chia trí, nhưng chỉ có một Chúa Giêsu Kitô, và chúng ta thật sự cần dành thời gian trong cầu nguyện cho Đức Kitô.”

5) Công nghệ phải phục vụ đời sống của các con, chứ không phải ngược lại

Đức Thánh Cha Lêô nói: “Công nghệ thực sự có thể giúp ích theo nhiều cách,” và nó “có thể giúp chúng ta sống đức tin Kitô giáo của mình. Nó giúp chúng ta giữ kết nối với những người ở xa… Nó cũng cung cấp cho chúng ta những công cụ tuyệt vời để cầu nguyện, để đọc Kinh thánh, để học hỏi thêm về những gì chúng ta tin.”

“Nó cho phép chúng ta chia sẻ Tin mừng với những người mà chúng ta có thể chẳng bao giờ gặp mặt. Nhưng dù thế, công nghệ không bao giờ có thể thay thế các mối tương quan gặp gỡ giữa người với người. Những điều giản dị, một cái ôm, một cái bắt tay, một nụ cười. Tất cả những điều đó là cốt lõi để là con người.”

Đức Thánh Cha nói: “Xem Thánh lễ trực tuyến có thể hữu ích, đặc biệt khi một người bị bệnh hoặc già yếu hay không thể tham dự trực tiếp. Nhưng sự hiện diện thật sự ở đó, tham dự vào Bí tích Thánh Thể, là vô cùng quan trọng cho đời sống cầu nguyện của chúng ta, cho ý thức cộng đoàn của chúng ta”.

“Đó là điều thiết yếu cho mối tương quan của chúng ta với Thiên Chúa và với nhau. Không gì có thể thay thế cho sự hiện diện thật của con người, cho việc ở bên nhau. Cho dù công nghệ có thể kết nối chúng ta, nhưng nó không bao giờ giống như việc hiện diện về mặt thể lý.”

6) Chúa Giêsu luôn bảo vệ, hướng dẫn và yêu thương Giáo hội của Người

Đức Thánh Cha nói: “Khi chúng ta đối diện với những thách đố hoặc lo lắng về tương lai, sẽ thật tốt khi nhớ lời hứa Chúa Giêsu nói với Thánh Phêrô: ‘Cửa địa ngục sẽ không thắng được Giáo hội’. Chúa Giêsu luôn bảo vệ, hướng dẫn và yêu thương Giáo hội của Người”.

Đức Thánh Cha nói: “Ngày cha được bầu làm Giáo hoàng, cha đã nói: ‘Thiên Chúa yêu thương chúng ta, và sự dữ sẽ không thắng được’. Tất cả chúng ta đều ở trong tay Thiên Chúa. Chúa Giêsu muốn mọi người đến gần Ngài.”

“Giáo hội chuẩn bị cho tương lai bằng cách trung thành với những điều Chúa Giêsu mời gọi chúng ta thực hiện hôm nay. Người dạy chúng ta đừng để bị áp đảo bởi những lo lắng, nhưng hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa trước hết, tin tưởng rằng mọi sự khác sẽ được an bài. Người hứa rằng Chúa Thánh Thần sẽ hướng dẫn chúng ta và giúp chúng ta hiểu những gì chúng ta cần phải làm.”

7) Hãy dấn thân

Đức Thánh Cha Lêô khuyến khích sự dấn thân vào Giáo hội, đặc biệt là nơi người trẻ. “Các con không chỉ là tương lai của Giáo hội, các con là hiện tại,” ngài nói với các thiếu niên.

Ngài nói: “Nếu các con muốn giúp Giáo hội chuẩn bị cho tương lai, hãy bắt đầu bằng việc dấn thân hôm nay. Hãy gắn bó với giáo xứ của các con, tham dự Thánh lễ Chúa nhật, tham gia các hoạt động giới trẻ và nói ‘xin vâng’ trước những cơ hội… nơi đức tin của các con có thể lớn lên”.

“Tiếng nói của các con, ý tưởng của các con, đức tin của các con là quan trọng ngay lúc này, và Giáo hội cần các con. Giáo hội cần những gì các con đã được ban tặng để chia sẻ với tất cả chúng ta.”

“Càng hiểu biết Chúa Giêsu, các con càng muốn phục vụ Người và Hội thánh của Người. Một cách tuyệt vời để xây dựng Giáo hội là chia sẻ đức tin của mình, dạy đức tin cho người khác, giúp đỡ những người cần đến các con.”

8) Ơn gọi của các con luôn gắn liền với sứ mạng lớn lao hơn của Giáo hội

Đức Thánh Cha Lêô nói: “Khi các con phân định ơn gọi của mình, hãy tín thác nơi Chúa Giêsu. Người biết cách dẫn đưa các con đến hạnh phúc đích thực. Nếu các con mở lòng mình ra, các con sẽ nghe thấy tiếng Người gọi các con nên thánh”.

“Như Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI từng nói: ‘Chúa Giêsu không lấy đi bất cứ điều gì, và Người ban cho các con mọi sự’. Khi chúng ta dâng mình cho Người, chúng ta sẽ nhận được nhiều hơn những gì chúng ta có thể tưởng tượng.”

“Nếu các con nghĩ mình được mời gọi vào đời sống hôn nhân, hãy cầu nguyện để gặp một người bạn đời sẽ giúp các con lớn lên trong sự thánh thiện, giúp các con phát triển đức tin.”

Đức Thánh Cha Lêô nói: “Một số trong các con có thể được gọi vào chức tư tế để phục vụ dân Chúa qua Lời Chúa và các bí tích. Nếu các con cảm thấy sự thôi thúc đó trong tim, đừng bỏ qua. Hãy mang nó đến với Chúa Giêsu. Hãy nói chuyện với một linh mục mà các con tin tưởng”.

“Những người khác có thể được gọi vào đời sống thánh hiến, để trở thành chứng nhân cho một đời sống vui tươi dâng hiến trọn vẹn cho Thiên Chúa. Nếu các con cảm nhận được tiếng gọi này, tiếng gọi nhẹ nhàng đó, đừng sợ hãi.”

9) Chúng ta được tạo dựng cho điều cao cả hơn

Đức Thánh Cha nói: “Giờ là lúc để mơ ước những điều lớn lao, để mở lòng cho những điều Thiên Chúa có thể thực hiện qua đời sống của các con. Tuổi trẻ thường đi kèm với khát khao làm một điều gì đó thật ý nghĩa, một điều gì đó tạo nên sự khác biệt thật sự. Nhiều người trong các con đã sẵn sàng quảng đại, để giúp những người mình yêu thương, để làm điều gì đó lớn lao hơn chính bản thân mình”.

“Vì thế, không đúng khi nói rằng cuộc sống này chỉ là làm những gì cảm thấy tốt cho bản thân, làm cho mình thấy thoải mái, như một số người khẳng định. Chắc chắn, sự thoải mái có thể là tuyệt vời, nhưng như Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI nhắc nhở chúng ta: ‘Chúng ta không được tạo dựng cho sự thoải mái. Chúng ta được tạo dựng cho sự cao cả. Chúng ta được dựng nên cho chính Thiên Chúa’.”

Đức Thánh Cha Lêô nói: “Trong sâu thẳm, chúng ta khao khát chân lý, vẻ đẹp và sự thiện hảo, vì chúng ta được tạo dựng cho những điều đó”.

10) Đừng dùng các phạm trù chính trị để nói về đức tin

Đức Thánh Cha Lêô nói: “Niềm vui, hy vọng, sự sáng tạo, những chứng nhân đích thực trong Tin mừng có thể giúp chữa lành và hiệp nhất nhân loại. Chúa Giêsu cũng kêu gọi chúng ta là những môn đệ, hãy trở thành những người kiến tạo hòa bình - những người xây những nhịp cầu thay vì các bức tường, những người coi trọng đối thoại và hiệp nhất thay vì chia rẽ.”

“Các con hãy cẩn trọng đừng sử dụng các phạm trù chính trị để nói về đức tin, để nói về Giáo hội. Giáo hội không thuộc về bất kỳ đảng phái chính trị nào. Trái lại, Giáo hội giúp hình thành lương tâm các con… để các con có thể suy nghĩ và hành động với sự khôn ngoan và tình yêu thương. Khi các con đến gần Chúa Giêsu hơn, đừng sợ những điều Người có thể mời gọi các con làm.”

Tri Khoan (Theo Tessa Gervasini, ncregister)

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/10-diem-chinh-trong-bai-huan-du-cua-duc-thanh-cha-leo-xiv-danh-cho-gioi-tre-tai-ncyc

***

27.  Cuộc gặp gỡ trên nền tảng kỹ thuật số đầu tiên của Đức Thánh Cha Lêô XIV với giới trẻ Công giáo Hoa Kỳ

Chuyển ngữ: Tri Khoan

WHĐ (23/11/2025) – Đức Thánh Cha Lêô XIV đã có cuộc gặp gỡ trên nền tảng kỹ thuật số đầu tiên với giới trẻ Công giáo Hoa Kỳ trong khuôn khổ Đại hội Giới trẻ Công giáo toàn quốc Hoa Kỳ (NCYC) diễn ra từ 20 – 22/11/2025 tại Sân vận động Lucas Oil ở Indianapolis. Sau đây là bài tường thuật cuộc gặp gỡ này với những chia sẻ, những câu hỏi của các bạn trẻ và các câu trả lời của Đức Thánh cha Lêô XIV.

Đức Tổng Giám mục Perez: Tôi xin Đức Thánh Cha 10 phút, và ngài đã cho 45 phút!

Ngày 21 tháng 11 năm 2025 lúc 09:33 sáng ET

Đức Tổng Giám mục Nelson Pérez của Philadelphia đã chia sẻ những hy vọng sâu xa của ngài dành cho thế hệ trẻ khi hàng ngàn bạn trẻ Công giáo gặp gỡ Đức Thánh Cha trong Đại hội Giới trẻ Công giáo Toàn quốc tại Hoa Kỳ (NCYC). Ngài nói: “Điều tôi hy vọng là cuộc gặp gỡ này sẽ thắp lên ngọn lửa trong trái tim người trẻ, và ai biết được ân sủng sẽ thực hiện thế nào? Đó là việc tạo ra những cuộc gặp gỡ thiêng liêng trong những không gian và thời gian thánh - và chỉ có Chúa mới biết ân sủng sẽ thực hiện điều gì!”

Đức cha Pérez nhớ lại việc ngài chỉ xin một buổi tiếp kiến ngắn với Đức Thánh Cha, nhưng lại ngạc nhiên và xúc động khi Đức Thánh Cha đề nghị dành 45 phút trò chuyện với giới trẻ. Cuộc gặp gỡ trực tuyến lịch sử này thể hiện sự hiệp nhất của Đức Thánh Cha với các giám mục Hoa Kỳ và tình yêu của ngài dành cho giới trẻ Mỹ. Như Đức Tổng Giám mục Philadelphia đã nhận định, Đức Thánh Cha trân quý khoảnh khắc này trong tâm hồn, xem đây là cơ hội để đồng hành cùng người trẻ Công giáo và khuyến khích họ khám phá sức mạnh của đức tin khi được sống trong cộng đoàn.

 

Giới trẻ Công giáo: Những thách đố lớn nhất phải đối mặt ngày nay

Ngày 21 tháng 11 năm 2025 lúc 09:56 sáng ET

Giới trẻ Công giáo trên khắp nước Mỹ đang tiến bước với như những nhà lãnh đạo đức tin, truyền cảm hứng cho người lớn và bạn bè đồng trang lứa bằng sự cởi mở và nhiệt huyết của họ. Từ các phong trào hoạt động mạnh do giới trẻ lãnh đạo đến những câu chuyện cá nhân về cầu nguyện và sự kiên trì, video này giới thiệu cách các thiếu niên và người trẻ - đặc biệt là Gen Z - đang khơi dậy đức tin và niềm hy vọng trong Giáo hội.

Gặp gỡ các học sinh trung học, các nhân viên mục vụ giới trẻ và các nhà truyền giáo, chia sẻ những suy tư chân thành về việc tìm đến với Chúa Kitô trong những thời điểm thử thách, đối phó với những áp lực như mạng xã hội và công nghệ, đối diện với các vấn đề như nạn khiêu dâm, và tìm kiếm sự thuộc về đích thực sau đại dịch. Qua các cuộc tĩnh tâm, hành hương, nhà nguyện trường học và các nhóm nhỏ gặp gỡ, những người trẻ này tìm thấy sức mạnh, niềm vui và mục đích trong mối tương quan với Chúa Giêsu.

Các nghiên cứu gần đây cho thấy sự suy giảm của Kitô giáo đã chững lại, với việc Gen Z thúc đẩy một cuộc hồi sinh thiêng liêng mới - 52% thanh thiếu niên muốn đào sâu đức tin của họ. Các chương trình như LifeTeen, NET Ministries và các nhóm giới trẻ giáo xứ sôi động đang đáp lại bằng các nguồn lực cho những cuộc gặp gỡ thực sự với Đức Kitô. Khám phá những lời chứng mạnh mẽ và tận mắt chứng kiến giới trẻ Công giáo ngày nay không chỉ là tồn tại - họ đang dẫn đường cho tương lai của Giáo hội.

 

Giới trẻ reo hò chào đón Đức Thánh Cha Lêô XIV tại NCYC

Ngày 21 tháng 11 năm 2025 lúc 10:21 sáng ET

Cuộc đối thoại trực tiếp với Đức Thánh Cha Lêô XIV đã bắt đầu!

“Các bạn trẻ thân mến, các bạn thân mến, chào các con. Cha rất vui được hiện diện cùng tất cả các con qua kết nối trực tuyến này. ... Cha cảm ơn tất cả những người đã giúp tổ chức sự kiện này, và làm cho việc chúng ta có thể ở bên nhau hôm nay trở nên khả thi, dù chỉ qua màn hình. ...

Thật là ơn phúc khi thấy rất nhiều người trẻ Công giáo tìm kiếm Chúa với lòng chân thành và niềm vui!

Cha rất vui khi thấy biết bao thời gian được dành cho việc Chầu Thánh Thể, cho Thánh lễ hàng ngày, cho Bí tích Hòa giải (tại NCYC).

Chúng ta nhớ rằng Mẹ Maria, ngay từ khi còn trẻ, đã dâng hiến trọn vẹn cuộc đời cho Thiên Chúa như thế nào. Mẹ mời gọi chúng ta cũng hãy làm như vậy.”

 

Đức Thánh Cha Lêô: ‘Tội lỗi không bao giờ là tiếng nói cuối cùng’

Ngày 21 tháng 11 năm 2025 lúc 10:27 sáng ET

Mia Smothers đến từ Baltimore hỏi Đức Thánh Cha Lêô: “Theo kinh nghiệm của con, thật khó để nói ra những lỗi lầm của mình. Đức Thánh Cha có thấy khó khăn để đón nhận lòng thương xót của Chúa khi người phạm sai lầm, hoặc cảm thấy mình đã làm mọi người xuống tinh thần không?”

Đức Thánh Cha Lêô: “Tất cả chúng ta đều có những lúc vật lộn với điều này. Sự thật là không ai trong chúng ta là hoàn hảo cả. Thánh Phaolô dạy rằng mọi người đã phạm tội và bị tước mất vinh quang Thiên Chúa. Ngài nói với chúng ta điều đó trong thư gửi tín hữu Roma. Vì tội nguyên tổ, đôi khi chúng ta làm điều ngược lại với những gì chúng ta biết là đúng. Nhưng có một tin vui. Tội lỗi không bao giờ là tiếng nói cuối cùng. Bất cứ khi chúng ta cầu xin lòng thương xót của Thiên Chúa, Ngài tha thứ cho chúng ta. Ngay cả khi chúng ta vấp ngã trở lại, chúng ta hãy nhớ lời của Thánh Phaolô: Chúa Giêsu Kitô đã đến thế gian để cứu những người tội lỗi. Ngài đến vì chúng ta, biết rõ những yếu đuối của chúng ta. Chúa Giêsu đã kể nhiều câu chuyện về niềm vui của Thiên Chúa khi một người trở về với Ngài. ... Chúa Giêsu cũng tự gọi mình là Mục tử Nhân lành đi tìm con chiên lạc. Ngay cả trên thập giá, Ngài đã tha thứ cho người trộm lành và cầu nguyện cho những kẻ đóng đinh Ngài. Chúng ta có thể thấy khó tha thứ, nhưng trái tim của Thiên Chúa thì hoàn toàn khác. Thiên Chúa không bao giờ ngừng mời gọi chúng ta trở về.

Chúng ta cảm nghiệm lòng thương xót ấy của Thiên Chúa một cách đặc biệt trong Bí tích Hòa giải. ... Khi chúng ta chân thành xưng thú các tội và đón nhận việc đền tội, linh mục ban lời xá tội, và chúng ta biết chắc chắn rằng mình đã được tha thứ. ... Đừng chỉ tập trung vào tội lỗi của các con. Hãy nhìn lên Chúa Giêsu, tin tưởng vào lòng thương xót của Ngài, và đến với Ngài với lòng vững tin. Ngài sẽ luôn chào đón các con trở về.”

 

Đức Thánh Cha Lêô: Hãy trao những lo lắng của các con cho Chúa Giêsu

Ngày 21 tháng 11 năm 2025 lúc 10:34 sáng ET

Ezequiel Ponce thuộc Tổng giáo phận Los Angeles: “Lớn lên trong trường học công lập, con thấy bạn bè và thậm chí cả bản thân con phải vật lộn với đức tin. Có những lúc nhiều người trong chúng con cảm thấy buồn bã hoặc quá tải. ... Làm thế nào con có thể thật sự trao những vấn đề của con cho Thiên Chúa và biết rằng Ngài đang ở gần con?”

Đức Thánh Cha: “Trong thư thứ nhất, Thánh Phêrô nói với chúng ta hãy trao mọi lo âu cho Chúa Giêsu vì Ngài chăm sóc chúng ta. Chúa Giêsu không chỉ thấu hiểu những cuộc chiến đấu của chúng ta từ xa. Ngài thực sự muốn chúng ta hãy trao những điều đó cho Ngài vì Ngài tin tưởng chúng ta. Điều đó bắt đầu khi chúng ta có một mối tương quan thật sự. Chúng ta không thể trao vấn đề của mình cho một người mà chúng ta hầu như không quen biết. ... Ngài thấu biết khi nào cuộc sống trở nên nặng nề. Kinh Thánh nhắc chúng ta rằng Ngài ở gần những tâm hồn tan vỡ. Ngay cả khi chúng ta không cảm thấy sự hiện diện của Ngài, đức tin nói với chúng ta rằng Ngài đang ở đó. ... Chúng ta phải có một mối tương quan với Ngài. Trong thinh lặng, chúng ta có thể nói cách chân thành về những gì có trong tâm hồn mình. Trong giờ chầu Thánh Thể, các con có thể nhìn lên Chúa Giêsu trong Bí tích Cực Thánh, và con biết Ngài đang nhìn con... với tình yêu thương. Chúa thường nói với chúng ta một cách nhẹ nhàng, trong sự tĩnh lặng. Đó là lý do tại sao những giây phút tĩnh lặng hàng ngày lại quan trọng đến vậy. ... Trao những vấn đề của chúng ta cho Chúa Giêsu là điều chúng ta có thể làm, chúng ta cần làm, lặp đi lặp lại. ... [Gợi ý lần hạt Mân Côi với Đức Mẹ để xin sự chuyển cầu của Mẹ.]”

 

Đức Lêô nhắn nhủ giới trẻ: ‘Cha muốn các con biết rằng cha cầu nguyện cho các con’

Ngày 21 tháng 11 năm 2025 lúc 10:36 sáng ET

Đức Thánh Cha Lêô: “Trong những lần cha gặp gỡ giới trẻ... Cha thấy rằng các con thực sự mang trong mình những niềm vui và hy vọng chân thực, nhưng cũng có những cuộc đấu tranh và gánh nặng lớn. Cha đã thấy điều đó rất rõ trong Năm thánh Giới trẻ. Cha muốn các con biết rằng cha cầu nguyện cho các con, xin Chúa giúp các con lớn lên trong tình yêu dành cho Ngài và trong nhân đức. Cha biết rằng Chúa đang hoạt động trong tâm hồn các con. Nhưng cha cũng tin rằng Ngài kéo các con lại gần Ngài qua những người trong cuộc đời của các con. ...

Khi các con tìm được một người mà các con thực sự tin tưởng, đừng ngại mở lòng mình ra. Có được sự tin tưởng chân thực là rất quan trọng. Nhưng khi các con có lòng tin như vậy, hãy biết rằng họ có thể giúp con hiểu những gì các con đang cảm nhận, và họ có thể nâng đỡ các con trên đường đi. [Một người bạn thực sự] là người giúp con đến gần Chúa Giêsu hơn... Những người bạn tốt sẽ luôn nói cho chúng ta sự thật ngay cả khi điều đó không dễ dàng. ... Sự trung thực sẽ cho phép Chúa Giêsu hoạt động qua những con người mà Ngài đã đặt vào cuộc đời các con. Đồng thời, hãy nhớ rằng Chúa mời gọi chúng ta lớn lên qua những thử thách. Nhiều bạn trẻ nói rằng ‘không ai hiểu tôi’ nhưng suy nghĩ đó đôi khi có thể khiến các con tự cô lập mình.”

 

Đức Thánh Cha Lêô nói về việc bị chia trí

Ngày 21 tháng 11 năm 2025 lúc 10:40 sáng ET

Người điều phối Katie McGrady hỏi: “Khi Đức Thánh Cha bị chia trí, người làm gì để đưa mình trở lại?”

Đức Thánh Cha Lêô: “Điều đó còn tùy... đôi khi điều tốt nhất nên làm là dõi theo sự chia trí đó một chút, để xem tại sao nó lại xuất hiện ở đó, nhưng hãy quay trở lại và nhớ lý do vì sao các con ở đó và vì sao các con đang cầu nguyện, và thưa với Chúa rằng: ‘Lạy Chúa, con đang bị chia trí ngay lúc này. Con biết Chúa thấu hiểu. Nhưng đừng cho phép bản thân bị kéo đi quá xa, nhất là trong cầu nguyện. Có đủ mọi loại cám dỗ, và đủ loại chia trí, nhưng chỉ có một Chúa Giêsu Kitô mà thôi.”

 

Đức Thánh Cha Lêô nói về cách cân bằng công nghệ trong đời sống

Ngày 21 tháng 11 năm 2025 lúc 10:42 sáng ET

Chris Pantelakis từ Tổng giáo phận Las Vegas hỏi: “Con thường ngồi lướt điện thoại không ngừng nghỉ. Con cũng để ý thấy mọi người xung quanh con đều gặp vấn đề tương tự. Nhiều người lớn bảo con rằng công nghệ rất tuyệt vời nếu có chừng mực. Câu hỏi của con là: Đức Thánh Cha gợi ý để chúng con cân bằng tất cả các công cụ này như thế nào... trong khi vẫn tạo ra những kết nối đức tin bên ngoài công nghệ?”

Đức Thánh Cha Lêô: “Công nghệ thật sự có thể giúp chúng ta theo nhiều cách, kể cả việc [giúp] chúng ta sống đức tin Kitô giáo. ... Nó cung cấp cho chúng ta những công cụ tuyệt vời để cầu nguyện, để đọc Kinh Thánh, để tìm hiểu thêm về những gì chúng ta tin. Và nó cho phép chúng ta chia sẻ Tin mừng với những người mà chúng ta có thể không gặp trực tiếp. Nhưng nó không bao giờ có thể thay thế các mối tương quan trực tiếp thật giữa người với người. ... Là người Công giáo, chúng ta thường cầu nguyện chung với nhau. ... Giáo hội sơ khai đã trải nghiệm những khoảnh khắc mạnh mẽ về sự hiện diện của Chúa Giêsu khi họ cầu nguyện cùng nhau.

Xem Thánh lễ trực tuyến có thể hữu ích, đặc biệt là khi ai đó bị bệnh hoặc già yếu hoặc không thể tham dự trực tiếp. Nhưng hiện diện thực sự ở đó, tham dự vào Bí tích Thánh Thể, là vô cùng quan trọng cho đời sống cầu nguyện của chúng ta, cho ý thức cộng đoàn của chúng ta. Nó là thiết yếu cho mối tương quan của chúng ta với Thiên Chúa và với nhau. Không có gì có thể thay thế sự hiện diện thật sự của con người. ... Nhờ nguyên tắc này, ngài đã tìm thấy sự cân bằng lành mạnh, và giữ cho những ưu tiên của mình rõ ràng. Các bạn trẻ thân mến, cha khuyến khích các con noi gương Thánh Carlo Acutis. Hãy có chủ đích với thời gian sử dụng màn hình của mình. Hãy bảo đảm rằng công nghệ phục vụ đời sống của các con, chứ không phải ngược lại.”

 

Đức Thánh Cha Lêô thảo luận về Trí tuệ nhân tạo

Ngày 21 tháng 11 năm 2025 lúc 10:46 sáng ET

Micah Alcisto từ Honolulu: “Thường thì rất nhiều người trong chúng con, kể cả chính con, đều dựa vào AI... trong những việc như làm bài tập ở trường, viết một bài luận cho tốt, giải một bài toán hoặc trả lời một câu hỏi lịch sử... Đức Thánh Cha nghĩ chúng con cần thận trọng điều gì khi đón nhận công nghệ mới này?”

Đức Thánh Cha Lêô: “AI đang trở thành một trong những đặc điểm định nghĩa của thời đại chúng ta. Gần đây đã có một hội nghị tại Roma tập trung vào việc bảo vệ trẻ em và thanh thiếu niên trong thế giới kỹ thuật số ngày nay. ... Sự an toàn không chỉ là chuyện các quy tắc. Đó còn là chuyện giáo dục, và chuyện về trách nhiệm cá nhân. Các bộ lọc và hướng dẫn có thể giúp các con, nhưng chúng không thể thay các con đưa ra những lựa chọn. Chỉ có chính các con mới có thể làm điều đó. ... Điều đó cũng có nghĩa là củng cố ý chí của các con nhờ ơn Chúa, để các con có thể tự do chọn những gì giúp mình phát triển [và] tránh những gì gây hại. …

Sử dụng AI có trách nhiệm có nghĩa là sử dụng nó theo những cách giúp các con phát triển, không bao giờ theo những cách làm các con xao lãng phẩm giá hoặc lời mời gọi nên thánh của mình. ... AI có thể xử lý thông tin nhanh chóng. Nhưng nó không thể thay thế trí tuệ. Và đừng yêu cầu nó làm bài tập về nhà cho các con! Nó không thể trao cho các con sự khôn ngoan. AI sẽ không thật sự phân định được giữa đúng và sai. Và nó sẽ không có sự kinh ngạc đích thực trước vẻ đẹp của công trình sáng tạo của Thiên Chúa. Hãy thận trọng, hãy cẩn thận, hãy khôn ngoan khi sử dụng AI. Hãy dùng nó theo cách mà nếu ngày mai nó biến mất, các con vẫn biết cách suy nghĩ. ... AI không bao giờ có thể thay thế món quà độc nhất là chính các con cho thế giới này.”

 

Đức Thánh Cha Lêô nói về việc đối diện với tương lai

Ngày 21 tháng 11 năm 2025 lúc 10:50 sáng ET

Elise Wing từ Tổng giáo phận Dubuque, tiểu bang Iowa: “Con lo rằng Giáo hội có thể không còn thích hợp với mọi người hoặc không còn ý nghĩa nhiều nữa. Vì vậy câu hỏi của con là, Giáo hội đang chuẩn bị cho tương lai như thế nào?”

Đức Thánh Cha Lêô: “Khi chúng ta đối diện với những thách đố hoặc lo lắng về tương lai, sẽ thật tốt khi nhớ lời hứa Chúa Giêsu nói với Thánh Phêrô: “Cửa địa ngục sẽ không thắng được Giáo hội”. Chúa Giêsu luôn bảo vệ, [và hướng dẫn] Giáo hội của NgườiTất cả chúng ta đều ở trong tay Thiên Chúa. Chúa Giêsu muốn mọi người đến gần Ngài. Cha nhìn thấy khát khao này khi cha gặp những bạn trẻ đang chân thành tìm kiếm Thiên Chúa. ... Người dạy chúng ta đừng để bị áp đảo bởi sự lo lắng, nhưng hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa trước hết, tin tưởng rằng mọi sự khác sẽ được an bài. Người hứa rằng Chúa Thánh Thần sẽ hướng dẫn chúng ta và giúp chúng ta hiểu những gì chúng ta cần phải làm. Thật vậy, trong suốt dòng lịch sử, Chúa Thánh Thần đã hướng dẫn Giáo hội qua các công đồng, qua nhiều cuộc quy tụ quan trọng. … Trong những năm gần đây, sự hướng dẫn ấy bao gồm việc chăm chú lắng nghe tất cả tiếng nói của các tín hữu. ... Khi chúng ta nói và lắng nghe nhau trong bầu khí cầu nguyện, chúng ta có thể vững tin rằng Chúa Giêsu đang bước đi cùng chúng ta, ngay cả khi con đường phía trước vẫn chưa rõ ràng.”

 

Đức Thánh Cha Lêô nói với giới trẻ: ‘Các con không chỉ là tương lai của Giáo hội, các con là hiện tại!’

Ngày 21 tháng 11 năm 2025 lúc 10:53 sáng ET

Elise hỏi: “Làm thế nào để chúng con, là những người trẻ, có thể chắc chắn rằng mình là một phần của cuộc đối thoại về tương lai?”

Đức Thánh Cha Lêô: “Các con không chỉ là tương lai của Giáo hội, các con là hiện tại! [vỗ tay] Tiếng nói của các con, ý tưởng của các con, đức tin của các con là quan trọng ngay lúc này, và Giáo hội cần các con. Giáo hội cần những gì các con đã được ban tặng để chia sẻ với tất cả chúng ta. Nếu các con muốn giúp Giáo hội chuẩn bị cho tương lai, hãy bắt đầu bằng việc dấn thân hôm nay. Hãy gắn bó với giáo xứ của các con, tham dự Thánh lễ Chúa nhật. Tham gia các hoạt động giới trẻ. Và nói ‘xin vâng’ trước những cơ hội… nơi đức tin của các con có thể lớn lên. Càng hiểu biết Chúa Giêsu, các con càng muốn phục vụ Người và Hội thánh của Người.

Một cách tuyệt vời để xây dựng Giáo hội là chia sẻ đức tin của mình, dạy đức tin cho người khác, giúp đỡ những người cần đến các con. Hãy đào sâu đời sống cầu nguyện của các con. Dành thời gian cầu nguyện trước Thánh Thể. ... Hãy năng đi xưng tội. … Những thực hành này giúp [các con] nghe tiếng Chúa rõ ràng hơn. Nếu các con cảm thấy Chúa có thể đang mời gọi làm một điều gì đó cụ thể hơn, một ơn gọi nào đó, hãy nói chuyện với cha xứ hoặc một vị lãnh đạo khác mà các con tin tưởng. Họ có thể giúp các con phân định. ... [nhắc đến Chân phước Pier Giorgio Frassati] Khi ngài qua đời lúc mới 24 tuổi, hàng ngàn người, trong đó có rất nhiều người nghèo, đã đến tôn vinh ngài vì lòng tốt của ngài. Ngài cho chúng ta một mẫu gương tuyệt vời về sự thánh thiện được sống trong đời sống thường ngày như thế nào. ... [Nói với các bạn trẻ:] Cha tin rằng tiếng ‘xin vâng’ của các con sẽ làm cho Giáo hội vững mạnh bây giờ và trong những năm tháng sắp tới.”

 

Đức Thánh Cha Lêô nhắn nhủ giới trẻ: ‘Hãy tín thác vào Chúa Giêsu’

Ngày 21 tháng 11 năm 2025 lúc 10:59 sáng ET

Người điều phối Katie McGrady hỏi: “Điều gì đang mang lại cho Đức Thánh Cha niềm hy vọng lúc này, và đâu là niềm hy vọng của người cho tương lai của Giáo hội? Chúng con có thể giúp người như thế nào?”

Đức Thánh Cha: “Cha nghĩ điều quan trọng cần phải lặp lại rằng giới trẻ là phần hiện tại của Giáo hội, và là niềm hy vọng cho tương lai của Giáo hội. Cha và các mục tử nhìn vào các con... để giúp định hình Giáo hội trong những năm tới. Và đó là điều đáng để phấn khởi! [vỗ tay]. Giờ là lúc để mơ ước những điều lớn lao, để mở lòng cho những điều Thiên Chúa có thể thực hiện qua cuộc đời các con.

Tuổi trẻ thường đi kèm với khát khao làm một điều gì đó thật ý nghĩa, một điều gì đó tạo nên sự khác biệt thật sự. Nhiều người trong các con đã sẵn sàng quảng đại, để giúp những người mình yêu thương, để làm điều gì đó lớn lao hơn chính bản thân mình… Như Đức Thánh cha Bênêđictô XVI nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta không được tạo dựng cho sự thoải mái. Chúng ta được tạo dựng cho sự cao cả. Chúng ta được dựng nên cho chính Thiên Chúa. Trong sâu thẳm, chúng ta khao khát chân lý. Chúng ta khao khát cái đẹp. Khao khát sự thiện hảo. Bởi vì chúng ta được tạo dựng cho những điều ấy. Kho tàng mà chúng ta tìm kiếm có một cái tên: Giêsu. Ngài muốn được các con tìm thấy, muốn được các con biết đến. Tình bạn với Chúa Giêsu là trọng tâm của ý nghĩa là một Kitô hữu. …

Khi chúng ta nghĩ về tương lai của Giáo hội, điều đầu tiên chúng ta phải làm là đào sâu tình bạn của bản thân với Chúa Giêsu. Điều này có nghĩa là hoán cải cá nhân. Để Thiên Chúa biến đổi tâm hồn chúng ta để chúng ta có thể theo chân Chúa gần hơn. ... Là người môn đệ Chúa Giêsu có nghĩa là sống chân thực. Người trẻ có một trực giác mạnh mẽ về tính chân thật. Các con có thể nhận ra khi ai đó là người thành thật hay giả tạo. Đừng đánh mất trực giác ấy! Đừng thỏa hiệp với một phiên bản đức tin hời hợt. ... Những chứng nhân đích thực của Tin mừng có thể giúp chữa lành và hiệp nhất nhân loại. Chúa Giêsu cũng kêu gọi các môn đệ của Ngài trở thành những người kiến tạo hòa bình, những người xây dựng những nhịp cầu thay vì những bức tường. Những người coi trọng đối thoại và hiệp nhất thay vì chia rẽ.

Các con hãy cẩn thận đừng dùng những phạm trù chính trị để nói về đức tin, hoặc nói về Giáo hội. Giáo hội không thuộc về bất kỳ đảng phái chính trị nào. Trái lại, Giáo hội giúp hình thành lương tâm các con. Giáo hội giúp hình thành lương tâm để các con có thể suy nghĩ và hành động với sự khôn ngoan và tình yêu thương. Khi các con đến gần Chúa Giêsu hơn, đừng sợ những điều Người có thể mời gọi các con làm. Ngài thách đố các con thay đổi đời sống của mình, luôn luôn là vì Ngài muốn ban cho các con niềm vui lớn hơn, tự do lớn hơn. Thiên Chúa không bao giờ thua kém về sự quảng đại. ... Thánh Augustinô biết rằng Thiên Chúa ban sức mạnh cho những ai mở lòng ra với Ngài. …

Thế giới cần những gia đình thánh thiện truyền đạt đức tin và thể hiện tình yêu của Thiên Chúa trong cuộc sống hàng ngày. Nếu các con nghĩ mình được mời gọi vào đời sống hôn nhân, hãy cầu nguyện để gặp một người bạn đời sẽ giúp các con lớn lên trong sự thánh thiện, giúp các con phát triển đức tin. Một số trong các con có thể được gọi vào chức linh mục. … Nếu các con cảm thấy sự thôi thúc đó trong tim, đừng bỏ qua. Hãy nói chuyện với một linh mục mà các con tin tưởng. Những người khác có thể được mời gọi sống đời thánh hiến, để trở thành những chứng nhân cho một đời sống vui tươi dâng hiến trọn vẹn cho Thiên Chúa. ... Đừng sợ hãi. Hãy xin Chúa hướng dẫn các con, chỉ cho con thấy kế hoạch của Ngài. ... Hãy tin tưởng vào Chúa Giêsu. Ngài biết cách dẫn đưa các con đến hạnh phúc đích thực. … Khi chúng ta dâng mình cho Ngài, chúng ta sẽ nhận được nhiều hơn những gì chúng ta có thể tưởng tượng. Ơn gọi của các con luôn kết nối với sứ mạng lớn lao hơn của Giáo hội. ... Chúa Giêsu đã sai các môn đệ đi dọn đường cho Ngài, để rao giảng, để chữa lành. ... Có món quà nào lớn lao để các con có thể trao tặng cho thế giới hơn là món quà sự sống đời đời trong Đức Kitô? Có lý tưởng nào cao cả để các con có thể cống hiến cuộc đời mình hơn là Tin mừng? …

Với các bạn trẻ đang tham dự đại hội ở Indianapolis, hãy biết rằng cha đang cầu nguyện cho các con. Cha hy vọng mọi điều các con đã trải nghiệm trong đại hội sẽ khơi dậy trong các con lòng yêu mến Giáo hội và yêu mến Chúa Giêsu sâu sắc hơn. ... [Với các bạn trẻ tham dự trực tuyến] Các con cũng được kêu gọi trở thành những môn đệ thừa sai ở bất cứ nơi đâu. Cảm ơn các con vì những câu hỏi, cảm ơn các con vì đã lắng nghe hôm nay. Cha nhìn thấy niềm hy vọng và lời hứa lớn lao nơi các con! Và cha tin rằng Chúa đang hoạt động trong cuộc đời các con.”

 

‘Cảm giác như dấu ấn lịch sử’: Các bạn trẻ và ban tổ chức vỡ òa hạnh phúc sau cuộc đối thoại trực tuyến với Đức Thánh Cha Lêô

Ngày 21 tháng 11 năm 2025 lúc 06:14 chiều ET

Tại cuộc họp báo hôm thứ Sáu sau “chuyến viếng thăm kỹ thuật số” lịch sử của Đức Thánh Cha Lêô XIV với 16.000 người trẻ tại Đại hội Giới trẻ Công giáo Toàn quốc ở Indianapolis, các nhà lãnh đạo và các tham dự viên trẻ tuổi ca ngợi sự ấm áp, khiêm nhường, tính chân thành và sự rõ ràng về mục vụ của Đức Lêô, đồng thời nhấn mạnh thông điệp trọng tâm của ngài: mối tương quan cá nhân với Chúa Giêsu là điểm cốt lõi.

“Bước lên sân khấu đó cảm giác như khoảnh khắc lịch sử. Mà thực sự là như vậy,” chia sẻ của Elise Wing, một học sinh cuối cấp trung học đến từ Waterloo, bang Iowa, và là một trong những thiếu niên được chọn để đặt câu hỏi với Đức Thánh Cha Lêô trong cuộc đối thoại trực tuyến, được EWTN hỗ trợ kỹ thuật vào ngày 21 tháng 11.

Wing nói: “Thật tuyệt đẹp khi thấy một đấng thánh thiện như vậy lại đến với chúng con như thế, giống như Chúa Giêsu - như Chúa Giêsu vẫn làm”.

“Bởi vì cuối cùng... chúng con không chỉ phấn khởi vì được nói chuyện với Đức Thánh Cha. Chúng con phấn khởi vì đây là Chúa Giêsu đang hoạt động qua Giáo hội, hoạt động qua Đức Giáo hoàng trong cuộc trò chuyện này. Con nghĩ rằng biết và cảm nhận được điều đó không chỉ riêng về chúng con trong khoảnh khắc ấy, làm cho trải nghiệm này trở nên thật đáng kinh ngạc.”

Tri Khoan (Chuyển ngữ từ CNA Staff, ncregister)

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/cuoc-gap-go-tren-nen-tang-ky-thuat-so-dau-tien-cua-duc-thanh-cha-leo-xiv-voi-gioi-tre-cong-giao-hoa-ky

***

28.  Hội đồng Giám mục Việt Nam bổ nhiệm nhân sự (24/11/2025)

Tổng Giám mục Giuse Nguyễn Năng

WHĐ (24/11/2025) – Hôm nay, 24/11/2025, căn cứ Quy chế Hội đồng Giám mục Việt Nam năm 2025, Hội đồng Giám mục Việt Nam (HĐGMVN) đã bổ nhiệm nhân sự cho các chức vụ Chánh Văn phòng HĐGMVN và Quản lý Văn phòng HĐGMVN.

 

HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM

QUYẾT ĐỊNH

Số 004/QĐ/25/CT/HĐGMVN

- Căn cứ Quy chế Hội đồng Giám mục Việt Nam (HĐGMVN) 2025 (Điều 23-25), theo đó, nhiệm kỳ Chánh văn phòng mãn nhiệm cùng với nhiệm kỳ của Ban Thường vụ; Linh mục Giuse Đào Nguyên Vũ đảm nhận nhiệm vụ Chánh văn phòng HĐGMVN từ năm 2018, đã qua hai nhiệm kỳ và nay mãn nhiệm;

- Chiếu theo đề cử của Đức giám mục Tổng Thư ký Giuse Đỗ Mạnh Hùng;

- Tổng Giám mục, Chủ tịch HĐGMVN, quyết định:

BỔ NHIỆM

LINH MỤC GIOAN BAOTIXITA PHẠM QUÝ TRỌNG

HIỆN NAY THUỘC LINH MỤC ĐOÀN GIÁO PHẬN PHÚ CƯỜNG

LÀM CHÁNH VĂN PHÒNG HĐGMVN

(Địa chỉ : 72/12 Trần Quốc Toản, phường Xuân Hòa, Tp. Hồ Chí Minh).

Với các bổn phận sau:

Điều 1: Thực hiện trách vụ theo Quy chế HĐGMVN quy định, nhiệm kỳ 2025-2028, đến Đại hội lần thứ XVII của HĐGMVN năm 2028.

Điều 2: Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày ký.

Ngày 24 tháng 11 năm 2025

Chủ tịch

(đã ấn ký)

+ Giuse Nguyễn Năng

Tổng Giám mục Tổng Giáo phận Tp. Hồ Chí Minh

Nơi nhận:

- Các thành viên HĐGMVN (để kính tường);

- Ban Tôn giáo Chính Phủ - Bộ Dân tộc và Tôn giáo; Ban Tôn giáo - Sở Dân tộc và Tôn giáo Tp. HCM (để thông tin);

- Linh mục Gioan Baotixita Phạm Quý Trọng (để thi hành);

- Thư ký các giáo tỉnh và các ủy ban trực thuộc HĐGMVN (để thông tin);

- Lưu văn phòng HĐGMVN.

Tải file về tại đây!

________________

 

HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM

QUYẾT ĐỊNH

Số 005/QĐ/25/CT/HĐGMVN

- Căn cứ Quy chế Hội đồng Giám mục Việt Nam (HĐGMVN) 2025 (Điều 26-30);

- Chiếu theo đề cử của Đức Tổng giám mục Phó Chủ tịch Giuse Vũ Văn Thiên;

- Tổng Giám mục, Chủ tịch HĐGMVN, quyết định:

BỔ NHIỆM

LINH MỤC VINHSƠN LÊ NGỌC LINH

TIẾP TỤC NHIỆM VỤ QUẢN LÝ VĂN PHÒNG HĐGMVN

VÀ QUẢN LÝ BAN TÀI VỤ HĐGMVN

(Địa chỉ : 72/12 Trần quốc Toản, phường Xuân Hòa, Tp. Hồ Chí Minh).

Với các bổn phận sau:

Điều 1: Thực hiện trách vụ theo Quy chế HĐGMVN quy định, nhiệm kỳ 2025 - 2028, đến Đại hội lần thứ XVII của HĐGMVN năm 2028;

Điều 2: Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày ký.

Ngày 24 tháng 11 năm 2025

Chủ tịch

(đã ấn ký)

+ Giuse Nguyễn Năng

Tổng Giám mục Tổng Giáo phận Tp. Hồ Chí Minh

Nơi nhận:

- Các thành viên HĐGMVN (để kính tường);

- Ban Tôn giáo Chính Phủ - Bộ Dân tộc và Tôn giáo; Ban Tôn giáo - Sở Dân tộc và Tôn giáo Tp. HCM (để thông tin);

- Linh mục Vinhsơn Lê Ngọc Linh (để thi hành);

- Thư ký các giáo tỉnh và các ủy ban trực thuộc HĐGMVN (để thông tin);

- Lưu văn phòng HĐGMVN.

Tải file về tại đây!

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/hoi-dong-giam-muc-viet-nam-bo-nhiem-nhan-su-24112025

***

29.  Thực hiện sứ mạng loan báo Tin mừng theo Thư chung 2025 của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam

Lm. Thái Nguyên

WHĐ (25/11/2025) – Bài viết muốn đọc lại Thư chung 2025 dưới ba lăng kính: Nền tảng Kinh thánh; Chiều kích thần học và những cột trụ giáo huấn; và những hướng đi văn hóa – mục vụ cụ thể cho Hội thánh tại Việt Nam hôm nay.

DẪN NHẬP

I. NỀN TẢNG KINH THÁNH: SỨ VỤ BẮT NGUỒN TỪ TRÁI TIM THIÊN CHÚA

1. Sáng kiến của Thiên Chúa trong Cựu ước

2. Sứ mạng của Đức Kitô: lời truyền từ Đấng Phục Sinh

3. Sự hiện diện và quyền năng của Thánh Thần

II. CHIỀU KÍCH THẦN HỌC CỦA THƯ CHUNG 2025

1. Cuộc gặp gỡ – nền tảng của mọi sứ vụ

2. Hướng về vùng ngoại biên – tinh thần “Hội thánh đi ra”

3. Truyền giáo không phải là chiêu dụ, mà là thu hút

III. CÁC CỘT TRỤ GIÁO HUẤN LỚN ĐỠ NÂNG THƯ CHUNG

1. Evangelii Nuntiandi (1975) – Biến đổi nội tâm và hội nhập văn hóa

2. Redemptoris Missio (1990) – Bản chất truyền giáo của Hội thánh

3. Evangelii Gaudium (2013) – Niềm vui là linh hồn của truyền giáo

4. Fratelli Tutti (2020) – Loan báo Tin mừng bằng tình huynh đệ và văn hóa gặp gỡ

5. Lumen Gentium (1964) – Dân Thiên Chúa mang sứ mạng truyền giáo

IV. BA ĐỊNH HƯỚNG LỚN CỦA THƯ CHUNG

1. Canh tân nội tâm – nguồn mạch của mọi truyền giáo

2. Giáo xứ thừa sai – mô hình Hội thánh “đi ra”

3. Hiện diện giữa đời – khiêm hạ, kiên nhẫn và liên đới

V. ỨNG DỤNG MỤC VỤ VIỆT NAM HÔM NAY

1. Gia đình – nền tảng và bầu khí truyền giáo

2. Người trẻ – vùng đất mục vụ đang thiếu người đồng hành

3. Người nghèo và di dân – nơi Tin mừng “trở nên xác thực”

4. Không gian kỹ thuật số – “vùng ngoại vi” mới của truyền giáo

5. Văn hóa và nghệ thuật – con đường truyền giáo riêng của Việt Nam

VI. LINH ĐẠO TRUYỀN GIÁO – TRÁI TIM CỦA THƯ CHUNG

1. Thinh lặng – cội nguồn của hiệp thông và phân định

2. Đồng hành – linh đạo của Thượng Hội đồng và của chính Đức Giêsu

3. Niềm vui và bình an – dấu ấn của người mang Tin mừng

VII. KẾT LUẬN: HỘI THÁNH VIỆT NAM – NGƯỜI GIEO HY VỌNG



DẪN NHẬP

Thư chung 2025 của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam được viết trong bối cảnh tiến trình Thượng Hội Đồng Giám Mục về chủ đề “Hướng tới một Hội thánh hiệp hành: hiệp thông, tham gia, sứ vụ” bước vào giai đoạn thực hiện (2025–2028). Sau những năm học hỏi thấm nhuần, Hội thánh được mời gọi đem tinh thần hiệp hành đi vào đời sống cụ thể của Dân Chúa, qua việc canh tân sứ mạng loan báo Tin mừng.

Đồng thời, Hội thánh tại Việt Nam cũng hướng về cột mốc năm 2033, kỷ niệm 500 năm Tin mừng Chúa Giêsu được loan báo trên quê hương chúng ta. Đây là thời điểm thuận lợi để nhìn lại chặng đường đã qua, nhận diện những giới hạn và thách đố hiện nay, đồng thời khơi dậy một quyết tâm mới trong việc làm chứng cho Đức Kitô giữa lòng dân tộc.

Từ viễn tượng đó, các Giám mục đề nghị một chương trình mục vụ ba năm, tất cả đều quy chiếu về sứ mạng loan báo Tin mừng; trong đó năm 2025–2026 mang chủ đề: “Mỗi Kitô hữu là một môn đệ thừa sai: Anh em là ánh sáng thế gian” (Mt 5,14). Thư chung nhấn mạnh: công cuộc truyền giáo không phải là đặc quyền của một nhóm “chuyên viên”, nhưng là ơn gọi và trách nhiệm của mọi người đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội.

Bài chuyên đề này muốn đọc lại Thư chung 2025 dưới ba lăng kính:

– Nền tảng Kinh thánh.

– Chiều kích thần học và những cột trụ giáo huấn.

– Những hướng đi văn hóa – mục vụ cụ thể cho Hội thánh tại Việt Nam hôm nay.

Mục đích giúp chúng ta hiểu sâu hơn điều mà các Giám mục mong ước: mỗi Kitô hữu thực sự trở nên một môn đệ thừa sai, một “ánh sáng thế gian” chiếu tỏa giữa môi trường sống của mình.

I. NỀN TẢNG KINH THÁNH: SỨ VỤ BẮT NGUỒN TỪ TRÁI TIM THIÊN CHÚA

Sứ mạng loan báo Tin mừng không phát sinh từ sáng kiến con người, nhưng từ chính Thiên Chúa, Đấng luôn chủ động đi bước trước vì yêu thương: “Chúng ta yêu mến vì Người đã yêu chúng ta trước” (1 Ga 4,19). Toàn bộ Kinh thánh là câu chuyện Thiên Chúa tìm kiếm con người để đưa họ vào giao ước tình yêu.

1. Sáng kiến của Thiên Chúa trong Cựu ước

Ngay từ những trang đầu sách Sáng thế, ta không thấy một con người tự mình tìm đến Thiên Chúa, nhưng là một Thiên Chúa lên tiếng gọi, ngỏ lời và sai đi. Trong tiếng Hípri, động từ qārā’ (gọi) không chỉ là “gọi tên” nhưng còn hàm nghĩa “mời vào một sứ mạng”.

Khi Chúa gọi Abraham: “Hãy đi khỏi xứ sở ngươi… Ta sẽ làm cho ngươi thành một phúc lành” (St 12,1–3), sứ mạng này không nhằm kiến tạo một thế lực hay thiết lập quyền lực, nhưng để người được gọi trở thành “phúc lành cho muôn dân” (berakah). Thiên Chúa không ban ơn cho một người để người đó giữ riêng cho mình, nhưng để qua người đó, ân phúc được lan tỏa.

Cựu ước còn diễn tả Thiên Chúa như một Mục Tử đi tìm chiên lạc (Ed 34). Người là Đấng tìm kiếm trước khi con người đáp trả; Người lên đường trước khi con người khởi hành. Tư tưởng này là nền móng của truyền giáo: Hội thánh không loan báo điều mình nghĩ là tốt, nhưng là điều Thiên Chúa muốn trao ban. Người truyền giáo chỉ là người cộng tác với một sáng kiến đã có trước nơi Thiên Chúa.

2. Sứ mạng của Đức Kitô: lời truyền từ Đấng Phục Sinh

Tân ước đặt đỉnh cao của sứ mạng nơi lệnh truyền Phục Sinh: “Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ” (Mt 28,19). Trọng tâm của câu không phải “hãy đi” (poreuthentes), nhưng là “làm cho thành môn đệ” – mathēteusate.

Làm môn đệ nghĩa là:

– đi vào một tương quan sống động với Thầy,

– học cách sống và cảm, chứ không chỉ học một mớ kiến thức,

– mang lấy tâm tình của Đức Kitô (Pl 2,5), để suy nghĩ, phán đoán và hành động như Người.

Trong đời sống Đức Giêsu, ta nhận ra ba chiều kích xuyên suốt:

– Kērygma: Người rao giảng Tin mừng Nước Trời.

– Martyria: Người làm chứng bằng chính cuộc sống và cái chết, hiến mạng vì sự thật.

– Diakonia: Người cúi xuống phục vụ người bé nhỏ, bệnh tật, bị loại trừ.

Thư chung 2025 nhấn mạnh sự hiệp nhất nội tại của ba chiều kích này: không thể rao giảng (kērygma) nếu không sống chứng tá (martyria); và chứng tá sẽ trở nên rỗng nếu không đi kèm phục vụ (diakonia). Truyền giáo không phải là “nói thêm” nhưng là “sống sâu hơn” đời sống Đức Kitô.

3. Sự hiện diện và quyền năng của Thánh Thần

Lệnh truyền của Đấng Phục Sinh luôn đi đôi với một lời hứa: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần” (Cv 1,8). Thánh Thần là nguồn năng lượng nội tại (dunamis), biến những con người sợ hãi, đóng kín, trở thành những chứng nhân can đảm, mở cửa ra với thế giới.

Một từ quan trọng khác trong Công vụ Tông đồ là parrēsia: sự mạnh dạn để nói sự thật trong bác ái (Cv 4,29.31). Đây không phải là tính nóng thẳng thừng, nhưng là lòng can đảm hiền lành, phát xuất từ sự chắc chắn rằng mình được Thánh Thần nâng đỡ.

Thư chung 2025 nhắc Hội thánh Việt Nam rằng: truyền giáo không thể bằng quyền lực, bạo lực hay áp đặt, nhưng bằng sức mạnh dịu dàng của Thần Khí – Đấng làm cho lời nói có trọng lượng, làm cho sự hiện diện của Kitô hữu trở thành nguồn bình an và chữa lành.

II. CHIỀU KÍCH THẦN HỌC CỦA THƯ CHUNG 2025

Phần thần học của Thư chung giúp chúng ta hiểu rằng truyền giáo không phải là một hoạt động thêm vào, nhưng là cách Hội thánh sống bản chất của chính mình. Từ đó, nổi bật lên ba trục tư tưởng cho thấy sự sâu sắc và hiện đại của văn kiện.

1. Cuộc gặp gỡ – nền tảng của mọi sứ vụ

Đức Phanxicô khẳng định: “Đức tin được sinh ra từ một cuộc gặp gỡ” (EG 7). Không có cuộc gặp gỡ cá vị với Đức Kitô, truyền giáo chỉ còn là hoạt động, cơ cấu hay chiến lược.

Mẫu thức kinh điển của đời sống Kitô hữu là:

Gặp gỡ (encounter) không chỉ là khoảnh khắc cảm xúc, nhưng là để cho Đức Kitô chạm đến những vết thương sâu nhất của ta.

Biến đổi (transformation) là để Thánh Thần tái cấu trúc nội tâm, chữa lành cái nhìn, thanh luyện động cơ sống.

Sai đi (mission) là không giữ lại cho mình điều đã nhận, nhưng chia sẻ cho người khác điều mình đã gặp.

Thư chung đặt trọng tâm vào chiều kích tương quan này: truyền giáo thật sự khởi đầu khi một con người được chạm đến bởi tình yêu của Thiên Chúa, và được giải thoát khỏi nỗi sợ, mặc cảm, khép kín.

2. Hướng về vùng ngoại biên – tinh thần “Hội thánh đi ra”

Theo tư tưởng Đức Phanxicô, “vùng ngoại biên” (peripheries) không chỉ là những nơi xa xôi về mặt địa lý, nhưng là những vùng mà trái tim con người bị gạt ra bên lề: cô đơn, nghi ngờ, đổ vỡ, bị thương trong tương quan, bị nghiền nát bởi áp lực kinh tế hay kỹ thuật số.

Trong bối cảnh Việt Nam, các vùng ngoại biên mang nhiều khuôn mặt cụ thể:
– người trẻ bị cuốn trong cơn lốc số,

– người nghèo thành thị và công nhân xa quê,

– di dân mong manh giữa đô thị,

– các gia đình ly thân – ly dị,

– người lương dân khủng hoảng niềm tin,

– những người già cô độc,

– giới trí thức sống trong hoài nghi.

Thư chung mời Hội thánh đến không chỉ “nơi dễ đến” hay “nơi quen thuộc”, nhưng “nơi mà Chúa muốn đến” qua chúng ta. Sự di chuyển này trước hết là một cuộc hoán cải: rời khỏi vùng an toàn, khỏi lối mục vụ thụ động, để dám bước đến nơi con người thật đang chịu tổn thương.

3. Truyền giáo không phải là chiêu dụ, mà là thu hút

Đức Phanxicô nói rõ: “Giáo hội phát triển bằng sự thu hút, chớ không bằng chiêu dụ - The Church grows by attraction, not proselytism” (Tông huấn Niềm vui Tin mừng, số 14). Hội thánh lớn lên không nhờ tranh luận thắng bại hay chứng minh mình đúng, nhưng nhờ sức hút của tình yêu. Vi thế:

- Ánh sáng thật không bao giờ ồn ào.

- Muối thật không bao giờ phô trương.

- Men thật hoạt động trong âm thầm.

Tin mừng lan tỏa khi người Kitô hữu sống một đời sống mang vẻ đẹp của Đức Kitô: lắng nghe, tha thứ, bình an, khiêm nhường, và niềm vui phục sinh. Thư chung 2025 nhấn mạnh đường hướng này như một điều chỉnh cần thiết trong bối cảnh văn hóa Việt Nam, nơi đôi khi mạng xã hội trở thành đấu trường của tranh luận, chỉ trích, “ném đá” và những cuộc chiến vô nghĩa. Truyền giáo theo Tin mừng không phải là chiến thắng người khác, nhưng là mở lòng để người khác gặp được Chúa nơi mình.

III. CÁC CỘT TRỤ GIÁO HUẤN LỚN ĐỠ NÂNG THƯ CHUNG

Đằng sau Thư chung 2025 là cả một nền thần học truyền giáo đã được Hội thánh triển nở qua nhiều thập kỷ. Có thể thấy ít nhất năm trụ cột giáo huấn nâng đỡ và soi sáng văn kiện này.

1. Evangelii Nuntiandi (1975) – Biến đổi nội tâm và hội nhập văn hóa

Tông huấn Evangelii Nuntiandi của Thánh Phaolô VI đặt trọng tâm vào biến đổi nội tâm (interior transformation). Loan báo Tin mừng không phải là truyền đạt một hệ thống thông tin tôn giáo, nhưng là đưa con người vào cuộc gặp gỡ với Đức Kitô, để từ đó tâm hồn – lối sống – văn hóa – và cả cơ cấu xã hội được biến đổi từ bên trong.

Evangelii Nuntiandi cũng nhấn mạnh chiều kích văn hóa: Tin mừng phải “nhập thể” (inculturatio) trong đời sống của từng dân tộc. Thư chung 2025 tiếp nối đường hướng này khi mời gọi người Công giáo Việt Nam bước vào lòng dân tộc bằng đối thoại, thấm nhập và phục vụ, thay vì khép mình trong một “tiểu văn hóa Kitô giáo” tách biệt.

2. Redemptoris Missio (1990) – Bản chất truyền giáo của Hội thánh

Thánh Gioan Phaolô II khẳng định mạnh mẽ: Ecclesia sua natura missionaria est – “Hội thánh theo bản chất là truyền giáo.” Truyền giáo không phải là một “ngành” trong sinh hoạt Hội thánh, nhưng là hơi thở và lý do hiện hữu của Hội thánh.

Tông huấn Redemptoris Missio phân biệt ba cấp độ truyền giáo:

– ad gentes: đến với những người chưa biết Chúa,

– chăm sóc mục vụ thường xuyên cho cộng đoàn tín hữu,

– tái truyền giáo cho những nơi đức tin suy yếu.

Thư chung 2025 vận dụng cái nhìn này để đọc lại bối cảnh Việt Nam: một đất nước đa tôn giáo, đa văn hóa, có nhiều người thiện chí dù chưa biết đến Kitô giáo. Tinh thần ad gentes hôm nay không chỉ là “đi xa” về địa lý, nhưng là bước vào vùng ngoại vi của xã hội Việt Nam: người nghèo, người trẻ lạc hướng, nạn nhân của kỹ thuật số, người mất niềm tin, người mang nhiều vết thương tinh thần.

3. Evangelii Gaudium (2013) – Niềm vui là linh hồn của truyền giáo

Đức Phanxicô nhấn mạnh: “Không có niềm vui thì không thể truyền giáo.” Evangelii Gaudium (Niềm vui Tin mừng) mời gọi Hội thánh vượt khỏi não trạng “bảo tồn” và “duy trì”, để trở thành một “Hội thánh đi ra” (Iglesia en salida), dám mạo hiểm, dám gặp gỡ, dám đồng hành với những người bên lề.

Thư chung 2025 tiếp nhận tinh thần này: người loan báo Tin mừng không thể mang bộ mặt u sầu, căng thẳng, như người gánh một gánh nặng, nhưng phải tỏa ra bình an, sự ấm áp và lòng nhân hậu của Đức Kitô. Truyền giáo không phải là một chiến dịch hay dự án, nhưng là tỏa ra “mùi thơm của Đức Kitô” (2 Cr 2,15) trong từng gặp gỡ hằng ngày.

4. Fratelli Tutti (2020) – Loan báo Tin mừng bằng tình huynh đệ và văn hóa gặp gỡ

Trong Fratelli Tutti, Đức Phanxicô cho thấy loan báo Tin mừng không thể tách rời khỏi công cuộc chữa lành xã hội. Một thế giới đầy chia rẽ, kỳ thị, loại trừ và bạo lực không phải là mảnh đất dễ dàng cho Tin mừng. Ngay tại Việt Nam, Thư chung 2025 nhắc đến:

– các hình thức chia rẽ vùng miền,

– những định kiến xã hội – tôn giáo,

– những đổ vỡ gia đình và bất tín trong tương quan.

Loan báo Tin mừng, trước khi là những bài giảng, là kiến tạo một “văn hóa gặp gỡ” (cultura del encuentro): biết lắng nghe – tôn trọng – thấu hiểu – cộng tác vì thiện ích chung. Tin mừng được tin cậy hơn khi người ta thấy nơi Hội thánh một lối sống huynh đệ.

5. Lumen Gentium (1964) – Dân Thiên Chúa mang sứ mạng truyền giáo

Hiến chế tín lý Lumen Gentium, đặc biệt chương II, khẳng định căn tính truyền giáo của mọi thành phần Dân Chúa: không chỉ giám mục hay linh mục truyền giáo, nhưng mọi tín hữu, nhờ phép Rửa, đều tham dự vào munus propheticum – chức năng tiên tri của Đức Kitô.

Thư chung 2025 đi theo đường hướng này khi nhấn mạnh:

– cha mẹ là “nhà truyền giáo đầu tiên” của con cái,

– người trẻ truyền giáo bằng sáng tạo và công nghệ,

– giáo dân là ánh sáng giữa các môi trường làm việc đa dạng,

– các cộng đoàn tu trì trở thành “dấu chỉ ngôn sứ” giữa đời.

IV. BA ĐỊNH HƯỚNG LỚN CỦA THƯ CHUNG

Từ nền tảng Kinh thánh và thần học, Thư chung triển khai ba định hướng lớn cho công cuộc truyền giáo tại Việt Nam: canh tân nội tâm, giáo xứ thừa sai và hiện diện giữa đời.

1. Canh tân nội tâm – nguồn mạch của mọi truyền giáo

Thư chung nhắc lại một chân lý luôn đúng: “Không ai có thể trao điều mình không có.” Metanoia (μετάνοια) – hoán cải – không phải là một xúc động đạo đức thoáng qua, nhưng là một cuộc tái cấu hình nội tâm, một bước ngoặt trong cách nhìn (conversion of vision), để nhìn mọi sự dưới ánh sáng của Đức Kitô.

Canh tân nội tâm trong Thư chung mang ba chiều kích:

– Canh tân đời sống cầu nguyện: không chỉ là đọc kinh, nhưng là bước vào tương quan sống động với Thiên Chúa, để “tấm lòng được đổi mới nhờ Thánh Thần” (x. Rm 12,2).

– Canh tân tương quan yêu thương: sự hoán cải được đo bằng cách ta đối xử với người khác: tha thứ, lắng nghe, tôn trọng, đối thoại.

– Canh tân lối sống phù hợp với Tin mừng: một đời sống minh bạch về nhân bản – liêm chính – quảng đại.

Không có đổi mới đời sống, mọi kế hoạch truyền giáo chỉ là khẩu hiệu truyền giáo. Canh tân nội tâm là nền móng, vì truyền giáo không khởi đi từ chiến lược, nhưng từ một trái tim được biến đổi.

2. Giáo xứ thừa sai – mô hình Hội thánh “đi ra”

Thư chung mời gọi biến đổi mô hình hoạt động của giáo xứ. Giáo xứ không chỉ là nơi “giữ đạo”, cử hành bí tích và duy trì các sinh hoạt truyền thống, nhưng là không gian của sứ vụ, nơi mỗi tín hữu ý thức rằng mình được sai đi.

Tư tưởng này tương hợp với mô hình Basic Ecclesial Communities (BEC – Cộng đoàn Giáo hội cơ bản), nhấn mạnh ba chiều kích:

 Kerygma – công bố Lời Chúa: giáo xứ đặt Lời Chúa làm trung tâm. Mỗi gia đình, mỗi nhóm nhỏ, mỗi hội đoàn trở thành nơi chia sẻ Kinh thánh, nơi đức tin được nuôi dưỡng bằng gặp gỡ Lời.

– Koinonia – xây dựng hiệp thông: hiệp thông không chỉ là tránh chia rẽ, nhưng là tạo nên bầu khí thân tình, nâng đỡ, tin tưởng và đối thoại – một nền văn hóa hiệp thông theo tinh thần Công nghị.

– Diakonia – dấn thân phục vụ: Thư chung nhấn mạnh chiều kích phục vụ người nghèo, người yếu thế, người lương dân. Một giáo xứ xứng danh thừa sai khi người nghèo cảm thấy mình được đón nhận, và khi những người xa Hội thánh vẫn tìm được chỗ trong cộng đoàn.

Giáo xứ thừa sai là Hội thánh thu nhỏ, sống trọn ba chiều kích bản chất của Hội thánh: Lời – Hiệp thông – Phục vụ.

3. Hiện diện giữa đời – khiêm hạ, kiên nhẫn và liên đới

Loan báo Tin mừng không phải là rút lui khỏi đời, nhưng là đi vào giữa đời để làm men – muối – ánh sáng (Mt 5,13–14). Hiện diện Kitô giáo giữa xã hội không nhằm áp đặt hay tranh thắng, nhưng là hiến mình để thế giới được sống.

Thư chung mời gọi một hình thức hiện diện mang ba đặc tính:

– Khiêm hạ: không phô trương đạo đức, không tỏ ra “hơn” người khác, không lấy đức tin làm vũ khí tranh luận. Khiêm hạ là để Chúa đi trước; mình chỉ là “dụng cụ nhỏ bé”.

– Kiên nhẫn: Tin mừng lớn lên theo nhịp âm thầm của hạt giống (Mc 4,26–29). Hiện diện Kitô giáo là đi cùng với đời, chứ không ép đời phải thay đổi theo nhịp riêng của mình.

– Liên đới: liên đới (solidarity) không chỉ là chia sẻ vật chất, nhưng là đặt mình trong hoàn cảnh của tha nhân: cảm nỗi đau của người bị loại trừ, hiểu nỗi bất an của người trẻ, gánh trách nhiệm với xã hội.

Hiện diện như thế, Kitô hữu trở thành người gieo hạt, âm thầm nhưng kiên định, làm cho Tin mừng thấm vào xã hội từ bên trong.

V. ỨNG DỤNG MỤC VỤ VIỆT NAM HÔM NAY

Thư chung không dừng ở những khung lý thuyết, nhưng đi vào những lãnh vực cụ thể của đời sống xã hội và Giáo hội Việt Nam: gia đình, người trẻ, người nghèo – di dân, môi trường kỹ thuật số, và văn hóa – nghệ thuật.

1. Gia đình – nền tảng và bầu khí truyền giáo

Gia đình là “Hội thánh tại gia” (Ecclesia domestica – LG 11). Trong nền văn hóa Việt Nam vốn trọng hiếu nghĩa và tình làng nghĩa xóm, gia đình là nơi đầu tiên gieo mầm Tin mừng. Loan báo Tin mừng trong gia đình không phải là dạy dỗ đạo đức theo kiểu mệnh lệnh, nhưng qua:

– sự hiện diện có chất lượng (quality presence) trong một thời đại ai cũng bận rộn,

– bữa ăn chung như một “bí tích nhỏ” của hiệp thông,

– tha thứ như hành vi loan báo Tin mừng căn bản, vì gia đình là trường dạy yêu thương đầu tiên,

– ngôn ngữ hy vọng trong những lúc gia đình khủng hoảng.

Tại Việt Nam, gia đình đang bị thử thách bởi ly hôn, di dân, áp lực kinh tế, nghiện công nghệ. Thư chung mời gọi trở về với gia đình như “mảnh đất truyền giáo ưu tiên”.

2. Người trẻ – vùng đất mục vụ đang thiếu người đồng hành

Thách đố lớn nhất của người trẻ Việt Nam hôm nay không hẳn là vô thần, nhưng là quá nhiều ý nghĩa giả tạo (pseudo-meanings). Họ sống giữa:

– FOMO (fear of missing out): sợ bị bỏ lại phía sau,

– digital fatigue: kiệt sức vì kỹ thuật số,

– identity crisis: khủng hoảng căn tính,

– self-curated identity: căn tính được “chỉnh sửa” trên mạng.

Hội thánh được mời gọi:

– đồng hành hơn là lên lớp,

– đối thoại hơn là phán xét,

– thấu hiểu hơn là chỉ trích,

– lắng nghe nhiều hơn là lên án.

Người trẻ sẽ mở lòng khi họ cảm nhận mình được tôn trọng, được coi là bạn đường, chứ không là “đối tượng cần sửa chữa”. Loan báo Tin mừng cho người trẻ đòi Hội thánh chấp nhận bước vào thế giới phức tạp của họ với khiêm tốn và kiên nhẫn.

3. Người nghèo và di dân – nơi Tin mừng “trở nên xác thực”

Lời Đức Giêsu: “Mỗi lần các con làm cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là làm cho chính Ta” (Mt 25,40) cho thấy nơi người nghèo, Tin mừng trở nên cụ thể và kiểm chứng được. Trong bối cảnh Việt Nam, “người bé nhỏ” gồm:

– người lao động nhập cư,

– trẻ em bỏ học,

– công nhân nữ thiếu bảo vệ,

– người già neo đơn,

– nạn nhân của lừa đảo công nghệ và bất công xã hội.

Loan báo Tin mừng cho người nghèo không dừng lại ở cảm thương, nhưng dẫn tới hành động cụ thể:

– nhà trọ giá rẻ – an toàn,

– học bổng cho trẻ em,

– hỗ trợ tìm việc làm,

– chăm sóc tinh thần và lắng nghe,

– hỗ trợ pháp lý khi bị bóc lột.

Tin mừng trở thành “ánh sáng đồng hành” với những đời sống đang bị bóng tối vây quanh, làm cho sứ mạng truyền giáo mang chiều sâu nhân bản và xã hội.

4. Không gian kỹ thuật số – “vùng ngoại vi” mới của truyền giáo

Môi trường digital không còn là “thế giới ảo”, nhưng là một chiều kích thật của đời sống (real dimension). Loan báo Tin mừng trong môi trường digital không phải là đăng những hình ảnh đạo đức hay câu Kinh thánh đẹp cho profile, nhưng là:

– Authenticity: hiện diện chân thật, không phải một avatar thánh thiện giả tạo.

– Meaningful interaction: tương tác có chiều sâu, đưa ra hướng dẫn, nâng đỡ và phân định.

– Healing presence: đem lại bình an trong một môi trường dễ gây tổn thương và gây nghiện.

Trong một thế giới đầy “đạo đức trang trí” (decorative faith), Kitô hữu được mời gọi trở thành một sự hiện diện thật, như chính Đức Kitô.

5. Văn hóa và nghệ thuật – con đường truyền giáo riêng của Việt Nam

Hội nhập văn hóa (inculturatio) không phải là phụ kiện, nhưng là bản chất của việc loan báo Tin mừng. Văn hóa Việt Nam mang nhiều giá trị phù hợp với Tin mừng:

– hiếu nghĩa (filial piety),

– trọng tình hơn trọng lý,

– chiều sâu triết lý,

– sự tinh tế và khiêm cung.

Tin mừng không đến để xóa bỏ những giá trị ấy, nhưng để làm cho chúng nở hoa trong Đức Kitô. Âm nhạc, hội họa, thi ca, cải lương, dân ca, nghệ thuật số… đều có thể trở thành ngôn ngữ truyền giáo. Tại Việt Nam, thánh ca từ lâu đã là một kênh loan báo Tin mừng rất mạnh, chạm đến những nơi mà một bài giảng không thể chạm tới.

VI. LINH ĐẠO TRUYỀN GIÁO – TRÁI TIM CỦA THƯ CHUNG

Linh đạo truyền giáo không phải là một “phương pháp”, nhưng là nền tảng nội tâm, là “lửa bên trong” (inner fire) để mọi hoạt động trở nên hiệu quả. Thư chung 2025 đề nghị ba nét linh đạo mang chiều kích rất sâu của truyền thống Hội thánh và phù hợp với bối cảnh Việt Nam hôm nay.

1. Thinh lặng – cội nguồn của hiệp thông và phân định

Thinh lặng (Hán Việt: 靜默 – tịnh mặc) không phải là “không nói”, nhưng là nghệ thuật lắng nghe:

– lắng nghe Lời Chúa để biết phân định,

– lắng nghe tiếng người nghèo như nơi Thiên Chúa đang ẩn mình,

– lắng nghe nỗi đau của thời đại, của gia đình, của người trẻ, của văn hóa số.

Trong Kinh thánh, thinh lặng là nơi con người gặp Thiên Chúa: Êlia gặp Chúa trong tiếng gió hiu hiu (qôl demamah daqqah, 1 V 19,12); Đức Giêsu thường rút vào nơi hoang vắng (erēmos topos) để cầu nguyện (Mc 1,35); các môn đệ chỉ hiểu Thầy khi họ biết “ở lại trong Người” (menein en autō, Ga 15,4).

Trong một thời đại ồn ào – gấp gáp – đa nhiệm, thinh lặng trở thành một hành vi ngôn sứ (prophetic act): phản lại nền văn hóa ồn ào bên ngoài để trở về với chiều sâu thiêng liêng bên trong. Khi Hội thánh biết thinh lặng, Hội thánh trở thành:

– nơi chữa lành,

– nơi bình an,

– nơi lời nói có trọng lượng,

– nơi con người tìm được hướng đi.

Thinh lặng là nguồn năng lượng nội tâm giúp người truyền giáo không kiệt sức giữa vô vàn tiếng ồn và đòi hỏi.

2. Đồng hành – linh đạo của Thượng Hội đồng và của chính Đức Giêsu

Linh đạo đồng hành là trung tâm của Thượng Hội Đồng Giám Mục (syn-hodos: “cùng đi trên một con đường”). Đồng hành khác với chỉ đạo:

– đi trước để điều khiển – điều này khá dễ,

– đi sau để thúc đẩy – cũng không quá khó,

– nhưng đi cùng để nâng đỡ – rất khó, nhưng lại rất Tin mừng.

Đức Giêsu là mẫu gương của linh đạo này: Người đi cùng hai môn đệ Emmaus (Lc 24), lắng nghe trước khi giải thích; Người ngồi ăn với những người tội lỗi (Mc 2,16); Người trở thành bạn đường của người nghèo, người bị loại trừ.

Đồng hành đòi hỏi:

– khiêm tốn,

– kiên nhẫn,

– khả năng lắng nghe bằng trái tim,

– tôn trọng hành trình riêng của mỗi người.

Tại Việt Nam, linh đạo đồng hành mang sắc thái Á Đông: “đi cùng để cảm thông”, “kề vai để nâng đỡ”, “nhẹ nhàng nhưng kiên trì”. Người truyền giáo chỉ thật sự trở thành chứng nhân khi họ trở thành người bạn, chứ không chỉ là người giảng dạy hay phán xét.

3. Niềm vui và bình an – dấu ấn của người mang Tin mừng

Đức Phanxicô từng nói: “Khốn thay người loan báo Tin mừng mà buồn rầu như người đưa đám.” Từ “Tin mừng” trong tiếng Hy Lạp là eu-angelion, nghĩa là tin vui, tin tốt. Người mang Tin mừng phải là người mang:

– niềm vui nội tâm,

– bình an sâu xa,

– sự nhẹ nhàng,

– ánh sáng từ bên trong.

Niềm vui này không phải là vui nông nổi, nhưng là niềm vui vượt qua thập giá (gaudium cum crucis). Bình an không phải là không có sóng gió, nhưng là bình an của Thánh Thần (Ga 14,27), bình an vẫn còn đó ngay giữa thử thách.

Trong bối cảnh Việt Nam:

– người trẻ căng thẳng, trầm cảm gia tăng,

– gia đình chịu áp lực kinh tế, xung đột, đổ vỡ,

– nhà thờ đôi khi trở thành nơi của “bổn phận”, hơn là nơi của niềm vui.

Người loan báo Tin mừng được mời gọi trở thành người gieo bình an: một người mà khi người khác gặp, họ cảm thấy “ở gần người này, tôi thấy bình an hơn”. Không có niềm vui và bình an, không thể truyền giáo, vì Tin mừng chỉ được tin khi được nhìn thấy nơi khuôn mặt và cuộc đời cụ thể.

VII. KẾT LUẬN: HỘI THÁNH VIỆT NAM – NGƯỜI GIEO HY VỌNG

Thư chung 2025, với chủ đề “Mỗi Kitô hữu là một môn đệ thừa sai: Anh em là ánh sáng thế gian”, không nhằm thêm một khẩu hiệu mục vụ, nhưng muốn đánh thức lại ý thức căn bản nơi mỗi người đã chịu Phép Rửa: chúng ta không chỉ được gọi để “giữ đạo”, nhưng để sống và chia sẻ đức tin như một ánh sáng giữa trần gian.

Ánh sáng ấy không phát xuất từ chúng ta, nhưng đến từ Đức Kitô – “Ánh sáng thế gian”. Như mặt trăng chỉ tỏa sáng khi đón nhận ánh sáng mặt trời, Hội thánh chỉ có thể chiếu tỏa khi gắn chặt với Chúa Kitô trong Lời Chúa, Thánh Thể và đời sống cầu nguyện. Từ đó, ánh sáng được phản chiếu qua những việc lành cụ thể: trong gia đình, nơi làm việc, trên không gian mạng và giữa những người nghèo…

Thư chung cũng thẳng thắn cảnh báo về nguy cơ “Kitô hữu nửa mùa”: chỉ dừng lại ở những cảm xúc tôn giáo, ở vài thực hành bề ngoài, mà không thật sự dấn thân cho cánh đồng truyền giáo. Lời ấy là một chất vấn dành cho mỗi chúng ta: tôi có đang sống đức tin như một nhãn hiệu, hay như một sứ mạng? Tôi có để ánh sáng Đức Kitô soi sáng và biến đổi những vùng tối trong chính tâm hồn mình, để từ đó có thể chiếu tỏa cho người khác không?

Nếu mỗi người tín hữu để cho mình được canh tân từ bên trong, nếu mỗi gia đình trở thành một “Hội thánh tại gia” biết cầu nguyện, yêu thương và làm chứng, nếu mỗi cộng đoàn giáo xứ thực sự trở nên một cộng đoàn thừa sai, thì Hội thánh tại Việt Nam sẽ góp phần khiêm tốn nhưng thiết thực vào cánh đồng truyền giáo của Chúa hôm nay.

Xin nhờ lời chuyển cầu của Đức Maria – Mẹ Giáo hội – và các Thánh Tử đạo Việt Nam, chúng ta biết đáp lại lời mời gọi của Thư chung: trở thành những môn đệ hăng say làm việc trên cánh đồng truyền giáo, can đảm làm chứng cho Nước Chúa ở mọi nơi, đem lại bình an và sức sống mới cho con người trong thế giới hôm nay.

Lm. Thái Nguyên

(Nguồn: WHĐ)

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/thuc-hien-su-mang-loan-bao-tin-mung-theo-thu-chung-2025-cua-hoi-dong-giam-muc-viet-nam

***

30.  Tổng Giáo phận Hà Nội: Thư mục vụ Mùa Vọng và Giáng Sinh 2025

Tổng Giám mục Giuse Vũ Văn Thiên

WTGPHN (26/11/2025) - Ngày 20/11/2025, Đức Tổng Giám mục Giuse Vũ Văn Thiên của Tổng Giáo phận Hà Nội có thư mục vụ gửi cộng đoàn Dân Chúa. Sau đây là nguyên văn Thư mục vụ của Đức Tổng Giám mục Giuse.

TỔNG GIÁO PHẬN HÀ NỘI

THƯ MỤC VỤ MÙA VỌNG VÀ GIÁNG SINH 2025

Kính gửi quý Cha, quý Tu sĩ, quý Chủng sinh và Anh Chị Em tín hữu,

Mỗi năm, khi khởi đầu Mùa Vọng, chúng ta lại được mời gọi bước vào hành trình chuẩn bị tâm hồn đón mừng Ngôi Hai Thiên Chúa giáng trần. Trong những ngày này, tôi mời gọi quý Cha và anh chị em cùng suy tư về mầu nhiệm Nhập Thể, với ước mong mỗi giáo xứ, mỗi gia đình, mỗi cộng đoàn trở thành một máng cỏ sống động, nơi Hài Nhi Giê-su muốn đến và ở lại. Dựa trên Tông huấn Ta đã yêu con (Dilexi Te) được Đức Thánh Cha Lê-ô XIV ban hành ngày 04 tháng 10 năm 2025, chúng ta hãy nhận ra Tình yêu nhập thể trong người nghèo. Đức Giê-su đã khiêm hạ sinh ra trong hang đá khó nghèo, xin Người giúp chúng ta học cách sống khiêm nhường và yêu thương, liên đới và chia sẻ với những anh chị em đau khổ.

1. Mùa Vọng: Cầu nguyện và thực thi bác ái

Mùa Vọng là thời gian của tỉnh thức và chuẩn bị đón Chúa. Để cứu nhân độ thế, Chúa Cha đã sai Con của Ngài là Đức Giê-su đến trần gian. Con đường cứu độ của Người là con đường hy sinh thập giá. Cách thức cứu độ của Người là sự thân thiện với mọi người và nối kết tình huynh đệ. Người khẳng định: Tất cả đều là anh chị em với nhau và có cùng một Cha trên trời là Thiên Chúa. Nếu xưa kia Chúa Giê-su đã đến với hình hài của một Hài Nhi khiêm tốn đơn sơ, thì hôm nay, Người lại đang đến với chúng ta một cách bí tích. Chúng ta có thể đón Chúa bằng lời cầu nguyện, bằng việc lĩnh nhận các Bí tích, nhất là Bí tích Thánh Thể. Để niềm vui ngày lễ được trọn vẹn, chúng ta còn phải đón Chúa bằng những nghĩa cử bác ái. Sự quan tâm đến những anh chị em nghèo khó xung quanh ta không chỉ thể hiện bằng vật chất mà còn bằng tinh thần. Đức Thánh Cha Lê-ô đã viết trong Tông huấn Ta đã yêu con: “Sự phân biệt đối xử tồi tệ nhất mà người nghèo phải chịu đựng là thiếu sự chăm sóc về mặt tinh thần” (số 114). Quả vậy, đức Bác ái không chỉ là hành động chia sẻ cơm áo cho người khó khăn, mà còn là sự nâng đỡ giúp họ thay đổi hoàn cảnh sống, vượt lên những nghịch cảnh. Hưởng ứng lời dạy của Đức Thánh Cha, mỗi người hãy tiết kiệm chi tiêu mua sắm, dành để giúp đỡ người nghèo, đồng thời thăm hỏi, lắng nghe và an ủi những người đang sầu khổ hoặc bệnh tật, đem cho họ niềm hy vọng nơi Đức Giê-su. 

2. Mùa Giáng Sinh: Niềm vui được đón nhận và chia sẻ

Mặc dù sinh hạ trong cảnh đơn sơ nghèo nàn, Chúa Hài Đồng lại mang đến cho nhân loại niềm vui đích thực, là niềm vui có Chúa ở cùng chúng ta (Em-ma-nu-en). Các thiên sứ đã nói với những người chăn chiên: “Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân, hôm nay, Đấng Cứu độ đã sinh ra cho anh em” (Lc 2, 10). Lễ Giáng sinh sẽ sốt sắng và vui tươi hơn nếu chúng ta biết kể lại câu chuyện về Chúa Giê-su cho anh chị em mình. Cuộc đời Chúa Giê-su không chỉ được kể lại bằng lời nói, nhưng bằng chứng từ cụ thể qua lối sống trung thực, thân thiện và bao dung. Thánh Phao-lô VI Giáo hoàng đã viết: “Người thời nay sẵn sàng nghe những chứng nhân hơn là thầy dạy, và người ta có nghe theo thầy dạy là vì thầy dạy cũng là chứng nhân” (Thông điệp Loan Báo Tin Mừng, số 41). Hội đồng Giám mục Việt Nam, trong Thư Chung vừa qua đã mời gọi các tín hữu Công giáo Việt Nam ý thức và thực thi sứ vụ thừa sai để loan báo Tin Mừng. Đây là nhiệm vụ cấp bách, hơn nữa còn là bản chất của Giáo Hội. Sứ vụ này gắn liền với mỗi Ki-tô hữu chúng ta. Đối diện với một thế giới đang có nguy cơ tục hóa và vô thần, ước mong các tín hữu ý thức và nhiệt thành cộng tác trong công cuộc loan báo Tin Mừng, giới thiệu tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại. Lễ Giáng Sinh chính là bằng chứng cụ thể của tình yêu cao cả ấy.

3. Năm 2026: Trưởng thành đức tin để có thể nói về Chúa

Làm sao chúng ta có thể nói về Chúa, nếu chúng ta không biết hoặc biết rất sơ sài về Người? Thực tế hiện nay cho thấy, khá nhiều tín hữu thiếu kiến thức căn bản về Giáo lý. Do đó, có những người tách rời khỏi những sinh hoạt cộng đoàn và phai nhạt đức tin. Hướng tới năm 2026, Tổng Giáo phận chúng ta đặt trọng tâm vào việc Canh tân đức tin trong giáo dục Ki-tô giáo. Đây là nhiệm vụ quan trọng nếu chúng ta muốn những thành viên của Giáo hội có khả năng nói về Chúa cho người khác. Khi không biết Chúa, chúng ta sẽ không biết cầu nguyện với Ngài. Không cầu nguyện, sẽ không gặp được Chúa và không tìm được niềm vui đức tin. Không có niềm vui, làm sao có thể giới thiệu Chúa cho người khác bằng những cảm nhận thiêng liêng nơi chính cuộc đời mình? Trang mạng (Website) của Tổng Giáo phận có nhiều chương trình đào tạo, dành cho các lứa tuổi khác nhau. Xin các Cha và anh chị em tín hữu lưu ý và tận dụng những hiệu quả tích cực của hình thức giáo dục này.

Thưa quý Cha và Anh Chị Em,

Mùa Vọng và Giáng Sinh mời gọi chúng ta tái khám phá vẻ đẹp của tình yêu Thiên Chúa, Đấng đã nói với chúng ta qua Hài Nhi Giê-su: Ta đã yêu con (Dilexi te). Với những tâm tình trên đây, tôi ước mong gia đình Tổng Giáo phận của chúng ta cử hành Mùa Vọng và Mùa Giáng Sinh bằng những cố gắng thiết thực, đó là cầu nguyện, sám hối và chia sẻ. Lễ Giáng Sinh đích thực không chỉ dừng lại ở những ồn ào và trang trí lộng lẫy bên ngoài, nhưng phải lắng đọng và đánh thức nội tâm, giúp chúng ta đón Chúa vào lòng, nhờ đó chúng ta có thể đem niềm vui Giáng Sinh đến cho mọi người. 

Nhờ lời chuyển cầu của Đức Trinh nữ Ma-ri-a và thánh cả Giu-se, xin Chúa ban cho quý Cha và Anh Chị Em một Mùa Vọng thánh thiện, Mùa Giáng Sinh an lành, và Năm Mới 2026 bình an hạnh phúc.

Hà Nội, ngày 20 tháng 11 năm 2025

Tổng Giám mục Tổng Giáo phận Hà Nội
+ Giu-se Vũ Văn Thiên

Nguồn: tonggiaophanhanoi.org

(Nguồn: WHĐ)

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/tong-giao-phan-ha-noi-thu-muc-vu-mua-vong-va-giang-sinh-2025

***

31.  Tông thư vẽ nên những bản đồ mới của niềm hy vọng

Ban Dịch thuật Học viện Công giáo Việt Nam

WHĐ (28/11/2025) - Ngày 28 tháng 10 năm 2025 đánh dấu ngày kỷ niệm 60 năm Tuyên ngôn Gravissimum educationis của Công đồng Vaticano II về tầm quan trọng đặc biệt và tính thời sự sâu sắc của giáo dục trong đời sống con người. Nhân ngày này, Đức Giáo hoàng Lêô XIV đã công bố Tông thư "Vẽ nên những bản đồ mới của niềm hy vọng." Sau đây là toàn văn Việt ngữ Tông thư của Đức Thánh Cha do Ban Dịch thuật Học viện Công giáo Việt Nam thực hiện:

 

TÔNG THƯ

VẼ NÊN NHỮNG BẢN ĐỒ MỚI CỦA NIỀM HY VỌNG

của Đức Giáo hoàng Lêô XIV

Nhân dịp Kỷ niệm 60 năm Tuyên ngôn về Giáo dục Kitô giáo Gravissimum educationis

Quảng trường Thánh Phêrô

(Thứ Hai ngày 27 tháng 10 năm 2025)

[Đa phương tiện]

1. Nhập đề

2. Một lịch sử năng động

3. Một truyền thống sống động

4. Kim chỉ nam của Tuyên ngôn về Giáo dục Kitô giáo [Gravissimum educationis]

5. Trung tâm là con người

6. Căn tính và tính bổ trợ

7. Chiêm ngắm Thụ tạo

8. Một chòm sao giáo dục

9. Định hướng những không gian mới

10. Ngôi sao Bắc Đẩu của Hiệp ước Giáo dục Toàn cầu

11. Những bản đồ mới của niềm hy vọng



1. Nhập đề

1.1. Vẽ nên những bản đồ mới của niềm hy vọng. Ngày 28 tháng 10 năm 2025 đánh dấu ngày kỷ niệm 60 năm Tuyên ngôn Gravissimum educationis của Công đồng Vaticano II về tầm quan trọng đặc biệt và tính thời sự sâu sắc của giáo dục trong đời sống con người. Với Tuyên ngôn này, Công đồng Vaticanô II đã nhắc nhở Giáo hội rằng, giáo dục không phải là một hoạt động phụ trợ, nhưng tạo nên chính nền tảng của việc loan báo Tin mừng: đó là cách thức cụ thể để Tin mừng trở thành một cử chỉ giáo dục, một mối tương giao, một nền văn hóa. Ngày nay, trước những thay đổi nhanh chóng và những bất định khó định hướng, di sản này đang cho thấy sức bật đáng kinh ngạc. Nơi nào các cộng đồng giáo dục để mình được lời Chúa Kitô hướng dẫn, họ không thoái lui, nhưng được hồi sinh; họ không xây dựng những bức tường, nhưng những cây cầu. Họ đáp lại bằng sự sáng tạo, mở ra những khả năng mới cho việc truyền tải kiến thức và ý nghĩa trong các trường học, các đại học, đào tạo chuyên môn và dân sự, trong mục vụ học đường và giới trẻ, và trong nghiên cứu, bởi vì Tin mừng không làm cho già cỗi, nhưng làm “mới mọi sự” (Kh 21,5). Mỗi thế hệ lắng nghe Tin mừng như một điều mới mẻ có sức làm tái sinh. Mỗi thế hệ đều có trách nhiệm đối với Tin mừng, đồng thời khám phá sức mạnh sâu xa và lan tỏa của Tin mừng.

1.2. Chúng ta đang sống trong một môi trường giáo dục phức tạp, bị phân mảnh và số hóa. Chính vì lý do này, thật khôn ngoan khi dừng lại và hướng ánh nhìn của chúng ta về “vũ trụ quan của nền giáo dục Kitô giáo” - một tầm nhìn có thể tự đổi mới qua nhiều thế kỷ và khơi dậy nguồn cảm hứng tích cực cho mọi chiều kích đa dạng của giáo dục. Ngay từ khởi thủy, Tin mừng đã làm nảy sinh những “chòm sao giáo dục”: những trải nghiệm vừa khiêm nhường vừa mạnh mẽ, có khả năng giải nghĩa các dấu chỉ thời đại, gìn giữ sự hiệp nhất giữa đức tin và lý trí, giữa tư tưởng và cuộc sống, giữa kiến thức và công lý. Trong cơn giông bão, chúng là mỏ neo cứu rỗi; và trong lúc bình lặng, chúng là một cánh buồm căng gió. Một ngọn hải đăng trong đêm tối dẫn đường cho chúng ta.

1.3. Tuyên ngôn Giáo dục Kitô giáo (Gravissimum Educationis) vẫn không hề mất đi sức mạnh nội tại của nó. Từ khi được công bố và đón nhận, văn kiện này đã khơi dậy một “chòm sao” những công trình và đặc sủng, vẫn đang tiếp tục soi sáng và định hướng con đường giáo dục cho đến hôm nay: các trường học và các đại học, các phong trào và các học viện, các hiệp hội giáo dân, các dòng tu, và các mạng lưới quốc gia cũng như quốc tế. Cùng nhau, những thực thể sống động này đã củng cố một di sản tinh thần và sư phạm có khả năng vượt qua thế kỷ 21 và ứng phó với những thách thức cấp bách nhất. Di sản này không phải là bất di bất dịch: nó là một la bàn tiếp tục chỉ đường và nói về vẻ đẹp của cuộc hành trình. Những kỳ vọng ngày nay không hề kém cạnh những thách đố mà Giáo hội đã phải đối mặt sáu mươi năm trước. Ngược lại, chúng thậm chí còn rộng lớn hơn và trở nên phức tạp hơn. Đối diện với hàng triệu trẻ em trên khắp thế giới vẫn chưa được tiếp cận giáo dục tiểu học, làm sao chúng ta có thể không hành động? Đối mặt với những tình trạng khẩn cấp nghiêm trọng về giáo dục do chiến tranh, di dân, bất bình đẳng và các hình thức nghèo đói khác nhau gây ra, làm sao chúng ta không cảm thấy cần phải nhanh chóng canh tân sự dấn thân của mình? Như tôi đã nhắc lại trong Tông huấn Dilexi te: “Giáo dục luôn là một trong những biểu hiện cao nhất của đức ái Kitô giáo.”[1] Thế giới cần hình thức hy vọng này

2. Một lịch sử năng động

2.1. Lịch sử giáo dục công giáo là lịch sử hoạt động của Chúa Thánh Thần. Giáo hội là “hiền mẫu và tôn sư”[2] không phải bằng uy quyền, nhưng bằng phục vụ: Giáo hội đồng hành với sự phát triển của tự do, đảm nhận sứ mạng của Thầy Chí Thánh, để tất cả mọi người “được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10). Những phương thế giáo dục nối tiếp nhau đều biểu lộ một cái nhìn về con người như hình ảnh của Thiên Chúa, được kêu gọi hướng đến chân lý và sự thiện, và vô số phương pháp phục vụ cho ơn gọi này. Các đặc sủng giáo dục không phải là những công thức cố định, cứng nhắc nhưng là những đáp ứng độc đáo cho nhu cầu của mỗi thời đại.

2.2. Trong những thế kỷ đầu, các ẩn phụ sa mạc đã dạy sự khôn ngoan bằng dụ ngôn và châm ngôn; các ngài đã tái khám phá lộ trình dẫn đến điều cốt yếu, đến sự rèn luyện của miệng lưỡi và sự canh giữ trái tim; các ngài đã truyền đạt một phương pháp sư phạm về nhận thức, để nhận biết Thiên Chúa đang hiện diện ở khắp nơi. Thánh Augustinô, khi lồng ghép trí tuệ Kinh thánh vào truyền thống văn hóa La Hy, đã hiểu rằng người thầy đích thực khơi dậy khát vọng chân lý, giáo dục sự tự do để đọc các dấu chỉ và lắng nghe tiếng nói nội tâm. Đời sống đan tu đã duy trì truyền thống này ở những nơi khó tiếp cận nhất, nơi trong nhiều thập niên, các tác phẩm kinh điển được nghiên cứu, chú giải và giảng dạy, đến mức, nếu không có công việc thầm lặng phục vụ văn hóa này, thì nhiều kiệt tác đã không thể tồn tại cho đến ngày nay. Rồi từ “con tim của Giáo hội”, những đại học đầu tiên đã được khai sinh, và ngay từ khởi đầu, các trường ấy đã được biết đến là “một trung tâm ưu việt về sáng tạo và truyền bá tri thức vì lợi ích của toàn thể nhân loại.”[3] Chính trong những giảng đường đó, tư tưởng suy luận đã tìm được khả năng tự hình thành một hình thái vững chắc và can đảm vươn mình đến tận biên cương của khoa học, nhờ trung gian của các Dòng Hành khất. Nhiều Hội dòng đã đi tiên phong trong các lãnh vực tri thức này, làm phong phú thêm nền giáo dục theo cách đổi mới về mặt sư phạm và có tầm nhìn xã hội.

2.3. Điều này đã được thể hiện theo nhiều phương cách khác nhau. Trong Quy tắc Nghiên cứu [Ratio Studiorum], sự phong phú của truyền thống Kinh viện hòa quyện với linh đạo Inhaxiô, điều chỉnh một chương trình giảng dạy vừa mạch lạc vừa liên ngành và mở ra với các thử nghiệm. Vào thế kỷ XVII tại Rôma, thánh Giuse Calasanz đã mở những trường học miễn phí cho người nghèo, với nhận thức sâu sắc rằng việc biết đọc, biết viết và tính toán là một vấn đề của phẩm giá con người, trước khi là vấn đề của năng lực. Tại Pháp, thánh Gioan Lasan, “nhận ra sự bất công do việc loại trừ con em giới thợ thuyền và người bình dân khỏi hệ thống giáo dục,”[4] nên đã thành lập Dòng Anh Em Trường Kitô (thường được gọi là Dòng La San). Vào đầu thế kỷ XIX, cũng tại Pháp, thánh Marcellinô Champagnat đã tận tụy “hiến thân trọn vẹn cho sứ mạng giáo dục và loan báo Tin mừng, cho trẻ em và thanh thiếu niên, nhất là những em thiếu thốn nhất, trong giai đoạn mà việc tiếp cận giáo dục vẫn còn là đặc quyền của một số ít người”.[5] Tương tự như vậy, thánh Gioan Bosco, với “phương pháp phòng ngừa”, đã biến kỷ luật thành sự hợp lý và gần gũi. Những người phụ nữ can đảm như Vicenta María López y Vicuña, Francesca CabriniJosephine Bakhita, Maria Montessori, Katharine Drexel và Elizabeth Ann Seton đã mở ra cánh cửa cho các thiếu nữ, người di cư và những người bị gạt ra bên lề xã hội. Tôi xin nhắc lại điều tôi đã nêu rõ trong Tông huấn Dilexi te: “Đối với đức tin Kitô giáo, việc giáo dục người nghèo không phải là việc thi ân, nhưng là một bổn phận.”[6] Dòng chảy lịch sử của những hành động cụ thể ấy minh chứng rằng, trong Giáo hội, việc giáo dục không bao giờ chỉ là lý thuyết trừu tượng, mà là một thực tại sống động, mang hơi thở con người, đầy nhiệt huyết và gắn liền với lịch sử.

3. Một truyền thống sống động

3.1. Giáo dục Kitô giáo là một công trình tập thể: không ai giáo dục một mình. Cộng đồng giáo dục là một “chúng ta”, trong đó giáo viên, học sinh, gia đình, nhân viên hành chính và đội ngũ dịch vụ, các vị mục tử và xã hội dân sự cùng nhau gieo mầm và nuôi dưỡng sự sống.[7] Chính “chúng ta” ấy ngăn cản không để cho dòng nước giáo dục tù đọng trong vũng lầy của thói quen “xưa nay vẫn thế”, nhưng thúc đẩy nó chảy đi, nuôi dưỡng và làm trổ sinh hoa trái. Được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa (St 1,26), tự bản chất, con người có khả năng tiếp nhận chân lý và tương quan. Do đó, vấn nạn về mối liên hệ giữa đức tin và lý trí không phải là một chương sách tùy chọn: “Chân lý tôn giáo không chỉ là một phần, mà còn là một điều kiện của kiến thức phổ quát.”[8] Những lời này của thánh Gioan Henry Newman – mà trong bối cảnh Đại lễ Kỷ niệm của Thế giới Giáo dục này, tôi rất vui mừng long trọng được tuyên bố, ngài là đồng bổn mạng sứ vụ giáo dục của Giáo hội, cùng với thánh Tôma Aquinô – là một lời mời gọi chúng ta hãy canh tân sự dấn thân đối với một kiến thức, vừa có trách nhiệm về mặt trí tuệ, vừa nghiêm ngặt, nhưng vẫn mang tính nhân văn sâu sắc. Chúng ta cũng phải thận trọng để không sa vào cạm bẫy của thứ “khai sáng” chỉ dựa trên một đức tin (fides) vốn bị bó hẹp trong phạm vi lý trí (ratio) mà thôi. Chúng ta cần phải vượt qua bế tắc này, bằng cách khôi phục một tầm nhìn mang tính đồng cảm và cởi mở, để ngày càng hiểu rõ hơn cách con người ngày nay tự nhìn nhận bản thân họ, và để phát triển và đào sâu việc giáo dục của chúng ta. Do đó, chúng ta không được tách rời khát vọng và trái tim khỏi kiến thức: điều này đồng nghĩa với việc phân mảnh con người. Các đại học và các trường công giáo là nơi mà những vấn nạn không bị rơi vào im lặng, và những nghi ngờ không bị loại trừ, nhưng được đồng hành cùng chúng ta. Ở đó, trái tim đối thoại với trái tim, và phương pháp chính là chăm chú lắng nghe, nhận ra rằng, người khác là một điều tốt đẹp, chứ không phải là một mối đe dọa. Từ trái tim đối thoại với trái tim [cor ad cor loquitur] chính là châm ngôn sống của thánh Gioan Henry Newman, được trích lại từ một bức thư của thánh Phanxicô Salêsiô: “Chính lòng chân thành mới làm lay động trái tim con người, chứ không phải chỉ bằng những lời hoa mỹ mà thôi.”

3.2. Giáo dục là hành động của niềm hy vọng và sự đam mê được đổi mới vì nó hé lộ lời hứa mà chúng ta nhìn thấy ở tương lai của nhân loại.[9] Tính đặc thù, chiều sâu và phạm vi của hành động giáo dục là một công trình– vừa huyền nhiệm vừa thực tiễn – của việc “làm cho hữu thể phát triển mạnh mẽ [...] chính là chăm sóc linh hồn”, như chúng ta đọc được trong tác phẩm “Socrates tự biện”, được triết gia Platon ghi lại (30a-b). Giáo dục là “một sứ mạng của những lời hứa”: nó hứa trao thời gian, niềm tin và kỹ năng; nó hứa ban công lý và lòng thương xót; nó trao ban can đảm để sống sự thật và mang lại dầu thơm của niềm an ủi. Giáo dục là một công trình của tình yêu, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, hàn gắn những rạn nứt trong các mối tương giao và trả lại cho lời nói sức nặng của lời hứa: “Mọi người đều có khả năng tìm kiếm chân lý, nhưng lộ trình sẽ trở nên dễ dàng hơn khi có người đồng hành.”[10] Chân lý được tìm kiếm trong cộng đồng.

4. Kim chỉ nam của Tuyên ngôn về Giáo dục Kitô giáo [Gravissimum educationis]

4.1. Tuyên ngôn về Giáo dục Kitô giáo của Công đồng Vaticanô II tái khẳng định quyền được giáo dục của mọi con người, và xác định gia đình chính là trường học đầu tiên của nhân loại này. Cộng đồng Giáo hội được kêu gọi hỗ trợ các môi trường hội nhập đức tin và văn hóa, tôn trọng phẩm giá của mọi người, và tham gia đối thoại với xã hội. Văn kiện cảnh báo, không nên giản lược giáo dục thành một chức năng đào tạo hay một công cụ kinh tế: con người không phải là “một hồ sơ các kỹ năng” và không thể bị giản lược thành một thuật toán có thể dự đoán được, mà là một dung mạo, một lịch sử, và một ơn gọi.

4.2. Đào tạo Kitô giáo bao gồm toàn bộ con người [trong mọi lãnh vực]: gồm tinh thần, trí tuệ, tình cảm, xã hội và thể chất. Đào tạo Kitô giáo không đặt việc thực hành đối đầu với lý thuyết, khoa học đối đầu với chủ nghĩa nhân văn, công nghệ đối đầu với ý thức lương tâm; thay vào đó, nó đòi hỏi tính chuyên nghiệp phải dựa trên luân lý đạo đức, và đạo đức không phải là một khái niệm trừu tượng, nhưng là một thực hành hằng ngày. Giáo dục không đo lường giá trị chỉ bằng hiệu quả: mà giáo dục đo lường giá trị đó bằng phẩm giá, công lý và khả năng phục vụ lợi ích chung. Viễn tượng nhân học toàn diện này phải luôn là nền tảng của khoa sư phạm công giáo. Tiếp nối tư tưởng của thánh Gioan Henry Newman, điều này đi ngược lại cách tiếp cận thuần túy thương mại, vốn thường áp đặt giáo dục ngày nay, phải được đánh giá dựa trên chức năng và tính hữu dụng thực tiễn.[11]

4.3. Những nguyên tắc này không phải là ký ức từ quá khứ. Chúng là những vì sao dẫn đường. Chúng khẳng định rằng chân lý phải được cùng nhau tìm kiếm; rằng tự do không phải là sự tùy hứng nhất thời, nhưng là một sự đáp trả; rằng quyền bính không phải là thống trị, nhưng là phục vụ. Trong bối cảnh giáo dục, người ta không bao giờ được “tuyên bố mình độc quyền thủ đắc chân lý, dù là trong việc phân tích vấn đề hay đề xuất các giải pháp cụ thể”.[12] Ngược lại, “điều quan trọng nhất, là biết cách tiếp cận chúng hơn là đưa ra câu trả lời vội vàng về nguyên nhân của một sự kiện hoặc cách giải quyết nó. Mục đích là học cách đối diện với các vấn đề, vốn luôn khác biệt, bởi vì mỗi thế hệ đều mới mẻ, với những thách thức mới, những ước mơ mới, những vấn nạn mới.”[13] Giáo dục công giáo có nhiệm vụ xây dựng lại niềm tin trong một thế giới đầy những xung đột và sợ hãi, nhắc nhớ rằng chúng ta là con cái Chúa, chứ không phải là trẻ mồ côi; chính từ nhận thức này nảy sinh tình huynh đệ chân thành.

5. Trung tâm là con người

5.1. Đặt con người ở vị trí trung tâm có nghĩa là giáo dục họ biết nhìn xa trông rộng như tổ phụ Ápraham (St 15,5): giúp họ khám phá ý nghĩa của cuộc sống, nhận ra phẩm giá bất khả xâm phạm của mình và ý thức trách nhiệm đối với tha nhân. Giáo dục không chỉ là việc truyền đạt kiến thức, nhưng còn là học hỏi và rèn luyện các nhân đức. Giáo dục giúp đào luyện các công dân biết phục vụ và những tín hữu biết làm chứng cho đức tin, những người nam người nữ được tự do hơn, không còn đơn độc. Và việc đào luyện ấy không thể được thực hiện một cách ngẫu hứng. Tôi nhớ mãi những năm tháng sống tại Giáo phận Chiclayo thân yêu, khi đến thăm Đại học công giáo San Toribio de Mogrovejo, tôi đã có cơ hội nói chuyện với cộng đồng học thuật rằng: “Chúng ta không phải sinh ra đã là một chuyên gia; mỗi lộ trình học thuật đều được xây dựng từ bước này qua bước khác, từ cuốn sách này sang cuốn sách khác, từ năm này sang năm khác và, từng hy sinh nối tiếp hy sinh.”[14]

5.2. Trường công giáo là môi trường nơi mà đức tin, văn hóa và cuộc sống hòa quyện vào nhau. Đó không chỉ là một cơ sở giáo dục, nhưng còn là một môi trường sống, trong đó viễn tượng Kitô giáo thấm nhập vào mọi môn học và mọi tương tác. Người làm công tác giáo dục được mời gọi đảm nhận một trách nhiệm vượt lên trên cả khuôn khổ của hợp đồng lao động ; chứng tá của họ cũng có giá trị như những bài giảng của họ. Vì lý do đó, việc đào tạo các nhà giáo dục –khoa học, sư phạm, văn hóa và thiêng liêng – rất quan trọng và mang tính cách quyết định. Chia sẻ một sứ mạng giáo dục chung cũng đòi hỏi một lộ trình đào tạo chung, “một chương trình đào tạo khởi đầu và liên tục, có khả năng nắm bắt những thách đố giáo dục của thời đại hôm nay và cung cấp những công cụ hữu hiệu nhất để đối phó với chúng [...]. Điều này có nghĩa là các nhà giáo dục phải sẵn sàng học hỏi và phát triển kiến thức, cởi mở với việc đổi mới và cập nhật các phương pháp sư phạm, nhưng đồng thời cũng cần mở lòng với việc đào luyện và chia sẻ đời sống thiêng liêng, tôn giáo.”[15] Những cập nhật kỹ thuật thôi thì chưa đủ: cần phải biết nuôi dưỡng một con tim biết lắng nghe, một ánh nhìn biết khích lệ và một trí tuệ biết phân định.

5.3. Gia đình vẫn luôn là môi trường giáo dục đầu tiên. Các trường công giáo cộng tác với các bậc phụ huynh, chứ không thay thế họ, bởi vì “bổn phận giáo dục, nhất là về phương diện tôn giáo, trước hết thuộc về họ.”[16] Sự cộng tác giáo dục đòi hỏi sự chủ tâm, biết lắng nghe và tinh thần đồng trách nhiệm. Nền giáo dục ấy được xây dựng nhờ những tiến trình, phương thế và việc lượng giá chung. Đó vừa là một nỗ lực đầy gian khó, vừa là một ân ban: khi vận hành tốt, nó khơi dậy niềm tín nhiệm; nhưng khi thất bại, thì mọi sự trở nên mong manh hơn.

6. Căn tính và tính bổ trợ

6.1. Tuyên ngôn Gravissimum educationis đã dành một tầm quan trọng đặc biệt cho nguyên tắc bổ trợ (subsidiarity), đồng thời nhìn nhận rằng những hoàn cảnh cụ thể nơi các Giáo hội địa phương có thể rất khác nhau. Tuy nhiên, Công đồng Vaticanô II vẫn khẳng định rằng quyền được giáo dục và các nguyên tắc nền tảng của nó mang giá trị phổ quát. Tuyên ngôn ấy nhấn mạnh trách nhiệm của cả phụ huynh lẫn xã hội. Văn kiện xem việc cung cấp một nền giáo dục giúp học sinh “biết đánh giá các giá trị luân lý với lương tâm ngay chính”[17] là “một quyền thánh thiêng”, và kêu gọi các nhà cầm quyền dân sự tôn trọng quyền này. Đồng thời, Tuyên ngôn cũng cảnh báo không được đặt nền giáo dục dưới sự chi phối của thị trường lao động hay của những quy luật tài chính khắc nghiệt và phi nhân.

6.2. Nền giáo dục Kitô giáo được ví như một vũ đạo được dàn dựng cách hài hòa. Phát biểu trước các học giả tại Ngày Giới trẻ Thế giới ở Lisbon, vị tiền nhiệm quá cố của tôi, Đức Giáo hoàng Phanxicô, đã nói: “Hãy nỗ lực kiến tạo một ‘vũ đạo mới’, một ‘vũ đạo’ tôn trọng vũ điệu của cuộc sống bằng cách đặt con người ở trung tâm.”[18] Việc đào luyện con người “toàn diện” đòi hỏi tránh xa sự phân mảnh trong giáo dục. Khi đức tin là chân thực, nó không hiện diện như một “môn học” được thêm vào, nhưng như luồng sinh khí thấm nhuần và làm sinh động mọi lĩnh vực tri thức khác. Như thế, nền giáo dục công giáo trở nên men trong cộng đồng nhân loại: nó khơi dậy sự tương tác hỗ tương, vượt qua lối nhìn giản lược, và mở ra với tinh thần trách nhiệm xã hội. Sứ vụ hôm nay là can đảm dấn bước theo đuổi một nền nhân bản toàn diện, biết đối diện với những vấn đề của thời đại mà không đánh mất cội nguồn của nền nhân bản này.

7. Chiêm ngắm Thụ tạo

7.1. Nhân học Kitô giáo là nền tảng cho một phong cách giáo dục cổ võ sự tôn trọng, đồng hành cá vị, sự phân định và sự phát triển mọi chiều kích của con người. Trong số đó, nguồn cảm hứng thiêng liêng không phải là yếu tố thứ yếu; trái lại, nó được kiện toàn và củng cố qua việc chiêm ngắm thụ tạo. Khía cạnh này không phải là điều mới mẻ trong truyền thống triết học và thần học Kitô giáo, trong đó việc nghiên cứu thiên nhiên cũng nhằm mục đích nhận ra những dấu vết của Thiên Chúa (vestigia Dei) trong thế giới chúng ta. Trong tác phẩm Collationes in Hexaemeron, thánh Bônaventura thành Bagnoregio viết rằng: “Toàn bộ thế giới là một cái bóng, một con đường, một dấu vết. Nó là một cuốn sách được viết từ bên ngoài (Ed 2,9), bởi vì trong mỗi thụ tạo đều có sự phản chiếu của mô hình thần linh, nhưng pha trộn với bóng tối. Do đó, thế giới là một hành trình, tương tự như sự mờ đục pha trộn với ánh sáng; theo nghĩa này, thế giới chính là một con đường. Cũng như bạn thấy một tia sáng chiếu qua cửa sổ lấp lánh với nhiều màu sắc khác nhau, tùy thuộc vào các phần khác nhau của tấm kính, thì tia sáng thần linh cũng được phản chiếu khác nhau trong mỗi thụ tạo, và mang những đặc tính khác nhau.”[19] Điều này cũng áp dụng cho tính linh hoạt của việc giảng dạy, được điều chỉnh cho phù hợp với các đặc điểm khác nhau, trong mọi trường hợp, đều quy hướng về vẻ đẹp của thụ tạo và sự bảo tồn của nó. Điều này đòi hỏi các dự án giáo dục “liên ngành và xuyên ngành… được thực hiện với sự khôn ngoan và sáng tạo.”[20]

7.2. Việc quên đi tính nhân bản chung của chúng ta đã gây ra chia rẽ và bạo lực; và khi trái đất bị tàn phá, người nghèo chính là những người chịu thiệt thòi nhiều nhất. Nền giáo dục công giáo không thể im lặng: nền giáo dục ấy phải kết hợp công bằng xã hội với công bằng môi sinh, thúc đẩy lối sống tiết độ và bền vững, đồng thời đào luyện lương tâm biết lựa chọn những điều đúng đắn chứ không chỉ là điều tiện lợi. Mỗi cử chỉ nhỏ – như tránh lãng phí, lựa chọn có trách nhiệm, bảo vệ lợi ích chung – đều góp phần vào việc giáo dục về văn hóa và luân lý, đạo đức.

7.3. Trách nhiệm sinh thái không chỉ giới hạn trong dữ liệu kỹ thuật. Những dữ liệu này tuy cần thiết, nhưng vẫn chưa đủ. Điều cần thiết là một nền giáo dục vận dụng trí óc, trái tim và đôi tay: hình thành những thói quen mới, lối sống cộng đoàn và các thực hành đạo đức. Bình an không phải là sự vắng bóng xung đột: đó là sức mạnh hiền hòa biết từ chối bạo lực. Một nền giáo dục vì hòa bình “phi vũ trang và giải trừ vũ khí”[21] dạy chúng ta từ bỏ vũ khí của những ngôn từ công kích và ánh nhìn phán xét, để học ngôn ngữ của lòng xót thương và công lý được hòa giải.

8. Một chòm sao giáo dục

8.1. Tôi nói về một “chòm sao”, bởi vì mạng lưới giáo dục công giáo là một hệ thống sống động và đa dạng: các trường học của các giáo xứ và các trường cao đẳng, các đại học và học viện giáo dục chuyên sâu, các trung tâm đào tạo nghề, các phong trào, nền tảng kỹ thuật số, các sáng kiến học tập gắn với phục vụ và các chương trình mục vụ học đường, đại học và văn hóa. Mỗi “ngôi sao” đều có ánh sáng riêng, nhưng khi cùng nhau, chúng vẽ nên một lộ trình chung. Nếu trước đây còn có sự cạnh tranh, thì ngày nay chúng ta kêu gọi các tổ chức cùng nhau hợp tác: sự hiệp nhất chính là sức mạnh mang tính ngôn sứ lớn lao nhất của chúng ta.

8.2. Những khác biệt về phương pháp và cấu trúc không phải là gánh nặng, nhưng là nguồn lực. Sự đa dạng của các đặc sủng, nếu được phối hợp hài hòa, sẽ tạo nên một tổng thể thống nhất và phong nhiêu. Trong một thế giới được kết nối bởi một mạng lưới các mối liên hệ, cuộc chơi được diễn ra ở hai bình diện: địa phương và toàn cầu. Việc trao đổi giáo viên và học viên, các dự án chung giữa các châu lục, sự công nhận lẫn nhau về các thực hành tốt nhất, sự hợp tác truyền giáo và học thuật là điều thiết yếu. Tương lai đòi hỏi chúng ta phải học cách hợp tác chặt chẽ hơn và cùng nhau phát triển.

8.3. Các chòm sao phản chiếu ánh sáng riêng của chúng trong một vũ trụ vô tận. Giống như kính vạn hoa, màu sắc của chúng hòa quyện vào nhau, tạo ra những biến thể màu sắc khác nhau. Điều này đúng trong các cơ sở giáo dục công giáo, nơi luôn cởi mở để gặp gỡ và lắng nghe xã hội dân sự, các cơ quan chính trị và hành chính, cũng như đại diện của các lĩnh vực sản xuất và các ngành nghề chuyên môn. Các cơ sở giáo dục công giáo được mời gọi cộng tác tích cực hơn nữa với những đối tác ấy, nhằm chia sẻ và hoàn thiện các lộ trình giáo dục, để lý thuyết được củng cố bởi kinh nghiệm và thực tiễn. Lịch sử cũng dạy chúng ta rằng các cơ sở giáo dục của chúng ta chào đón những học sinh và gia đình không theo tín ngưỡng nào hoặc theo các tôn giáo khác, nhưng vẫn khao khát một nền giáo dục mang tính nhân bản thực sự. Do đó, như thực tế đã diễn ra, chúng ta phải tiếp tục thúc đẩy các cộng đồng giáo dục có sự tham gia của các đối tượng, trong đó giáo dân, tu sĩ, gia đình và học sinh cùng chia sẻ trách nhiệm về sứ mạng giáo dục với các cơ sở công lập và tư thục.

9. Định hướng những không gian mới

9.1. Sáu mươi năm trước, Tuyên ngôn Gravissimum Educationis về giáo dục đã mở ra một thời kỳ của tin tưởng: bản Tuyên ngôn này khuyến khích việc cập nhật các phương pháp và thuật ngữ. Ngày nay, lòng tin tưởng này phải đối diện với môi trường kỹ thuật số. Công nghệ phải phục vụ con người, chứ không phải thay thế con người; phải làm phong phú quá trình học tập, chứ không phải làm nghèo nàn các mối tương quan và cộng đồng. Một đại học hay một trường học công giáo mà không có viễn tượng của mình thì sẽ có nguy rơi vào tính hiệu năng vô hồn, một tiêu chuẩn kiến thức thông thường, và cuối cùng dẫn đến sự nghèo nàn về tinh thần.

9.2. Để hiện diện sống động trên những không gian này, cần có sự sáng tạo mục vụ: tăng cường việc đào tạo giáo viên, kể cả trong lãnh vực kỹ thuật số; coi trọng phương pháp giảng dạy tích cực; thúc đẩy việc học tập gắn liền với việc phục vụ, và tinh thần công dân có trách nhiệm; tránh mọi thái độ sợ hãi công nghệ. Thái độ của chúng ta đối với công nghệ không bao giờ được phép thù nghịch, bởi vì “tiến bộ công nghệ chính là một phần trong kế hoạch sáng tạo của Thiên Chúa”.[22] Nhưng nó đòi hỏi sự phân định trong việc lập kế hoạch giảng dạy, đánh giá, lựa chọn nền tảng, bảo vệ dữ liệu và bảo đảm quyền tiếp cận công bằng. Trong mọi trường hợp, không thuật toán nào có thể thay thế những gì làm nên tính nhân bản của giáo dục: như thi ca, châm biếm trào phúng, tình yêu thương, nghệ thuật, trí tưởng tượng, niềm vui khám phá, và thậm chí học hỏi từ chính những sai lầm như một cơ hội để trưởng thành.

9.3. Vấn đề cốt yếu không phải là bản chất của công nghệ, mà là cách chúng ta sử dụng công nghệ. Trí tuệ nhân tạo và môi trường kỹ thuật số phải hướng đến việc bảo vệ phẩm giá, công lý và lao động; chúng phải được quản lý bởi các tiêu chí về đạo đức cộng đồng và tinh thần tham gia; và chúng phải đi kèm với một suy tư thần học và triết học tương ứng. Các đại học công giáo có một sứ mạng quan trọng: đó là thực thi “một thừa tác vụ phục vụ văn hóa”, bớt bục giảng, mà nhiều bàn tròn hơn, nơi người ta có thể ngồi lại với nhau, không cần những thứ bậc không cần thiết, để chạm đến những vết thương của lịch sử và trong Chúa Thánh Thần, tìm kiếm sự khôn ngoan nảy sinh từ đời sống của các dân tộc.

10. Ngôi sao Bắc Đẩu của Hiệp ước Giáo dục Toàn cầu

10.1. Trong số những ngôi sao dẫn đường, có Hiệp ước Giáo dục Toàn cầu. Tôi đón nhận với lòng tri ân di sản mang tính ngôn sứ này mà Đức cố Giáo hoàng Phanxicô đã trao phó cho chúng ta. Đây là lời mời gọi hình thành một liên minh và mạng lưới để giáo dục trong tình huynh đệ phổ quát. Bảy lộ trình của Hiệp ước sẽ là nền tảng cho chúng ta tiến bước: đặt con người ở vị trí trung tâm; lắng nghe trẻ em và giới trẻ; thúc đẩy phẩm giá và vai trò của phụ nữ; công nhận gia đình như nhà giáo dục đầu tiên; mở lòng đón nhận và hội nhập; đổi mới nền kinh tế và chính trị để phục vụ nhân loại; và cuối cùng là chăm sóc ngôi nhà chung của chúng ta. Những “ngôi sao” này đã truyền cảm hứng cho các trường học, đại học và cộng đồng giáo dục trên khắp thế giới, khơi dậy những tiến trình cụ thể nhằm nhân bản hóa đời sống con người.

10.2. Sáu mươi năm sau Tuyên ngôn về vai trò quan trọng của giáo dục [Gravissimum educationis] và năm năm sau Hiệp ước Giáo dục Toàn cầu, lịch sử kêu gọi chúng ta với sự khẩn cấp mới. Những thay đổi một cách sâu sắc và nhanh chóng đã và đang đặt trẻ em, thanh thiếu niên và giới trẻ vào những nguy cơ bị tổn thương chưa từng có. Bảo tồn thôi thì chưa đủ: chúng ta cần phải tái khởi động. Tôi kêu gọi tất cả các cơ sở giáo dục hãy mở ra một thời kỳ mới, một thời kỳ chạm đến trái tim của các thế hệ mới, dung hòa kiến thức và ý nghĩa, năng lực và trách nhiệm, đức tin và cuộc sống. Hiệp ước này là một phần của Chòm sao Giáo dục Toàn cầu rộng lớn hơn: các đặc sủng và tổ chức, tuy đa dạng, nhưng tạo thành một dự án thống nhất và sáng ngời, dẫn dắt bước chân chúng ta giữa bóng tối của thời đại hôm nay.

10.3. Tôi xin bổ sung thêm ba ưu tiên nữa vào bảy con đường của Hiệp ước Giáo dục Toàn cầu. Ưu tiên thứ nhất liên quan đến đời sống nội tâm: Người trẻ khao khát chiều sâu; họ cần không gian cho sự tĩnh lặng, phân định và đối thoại với lương tâm cũng như với Thiên Chúa. Ưu tiên thứ hai liên quan đến con người kỹ thuật số: chúng ta hãy giáo dục về việc sử dụng công nghệ và trí tuệ nhân tạo một cách khôn ngoan, đặt con người lên trên thuật toán và hài hòa trí tuệ kỹ thuật, cảm xúc, xã hội, tâm linh và sinh thái. Ưu tiên thứ ba là hòa bình không có vũ trang và giải trừ vũ khí: chúng ta hãy giáo dục tiến tới ngôn ngữ bất bạo động, hòa giải, xây những cây chứ không phải những bức tường. Câu Lời Chúa “Phúc thay ai xây dựng hòa bình” (Mt 5,9) phải trở thành cả phương pháp lẫn nội dung của việc học hành.

10.4. Chúng ta ý thức rằng mạng lưới giáo dục công giáo có một hệ thống chi ly độc đáo. Đó là một chòm sao trải rộng khắp các châu lục, với sự hiện diện đặc biệt nơi các vùng có thu nhập thấp: một lời hứa cụ thể về khả năng thăng tiến trong giáo dục và công bằng xã hội.[23] Chòm sao này đòi hỏi chất lượng và can đảm: chất lượng trong việc lập kế hoạch giáo dục, đào tạo giáo viên và quản trị; can đảm trong việc đảm bảo quyền tiếp cận cho những người nghèo nhất, hỗ trợ các gia đình đang gặp khó khăn, thúc đẩy học bổng và các chính sách hòa nhập. Tính nhưng không Tin Mừng không phải là lời nói suông: đó là lối sống tương giao, một phương pháp và một mục tiêu. Ở những nơi việc tiếp cận giáo dục vẫn còn là một đặc quyền, thì Giáo hội phải nỗ lực mở ra những cánh cửa và sáng tạo ra những lộ trình mới, bởi vì “mất đi người nghèo” cũng đồng nghĩa với việc mất đi chính ngôi trường. Điều này cũng đúng với đại học: một cái nhìn đón nhận và sự chăm sóc tâm hồn sẽ ngăn ngừa sự đồng nhất tiêu chuẩn; tinh thần phục vụ khơi dậy trí tưởng tượng và thắp sáng tình yêu thương.

11. Những bản đồ mới của niềm hy vọng

11.1. Nhân dịp kỷ niệm 60 năm Tuyên ngôn Gravissimum educationis, Giáo hội kỷ niệm một lịch sử giáo dục phong phú, nhưng cũng đối mặt với yêu cầu cấp thiết phải cập nhật các hoạt động của mình dưới ánh sáng của những dấu chỉ thời đại. Các chòm sao giáo dục công giáo là một hình ảnh đầy cảm hứng về phương cách truyền thống và tương lai có thể đan xen mà không mâu thuẫn: một truyền thống sống động mở rộng hướng tới những hình thức hiện diện và phục vụ mới. Các chòm sao không bị giản lược thành những chuỗi liên kết trung lập và vô hồn của những kinh nghiệm khác nhau. Thay vì những chuỗi mắt xích liên kết khô cứng, chúng ta dám nghĩ đến các chòm sao, sự đan xen của chúng đầy ắp sự kỳ diệu và thức tỉnh. Trong đó ẩn chứa khả năng định hướng giúp vượt qua những thách thức với niềm hy vọng, cùng với sự đổi mới đầy can đảm, mà không đánh mất lòng trung thành với Tin mừng. Chúng ta nhận thức rõ những khó khăn: siêu số hóa có thể phân mảnh sự chú ý; cuộc khủng hoảng về các mối tương quan có thể làm tổn thương tâm lý; bất an xã hội và bất bình đẳng có thể dập tắt khát vọng. Tuy nhiên, chính ở đây, giáo dục công giáo có thể trở nên một ngọn hải đăng: không phải là nơi trú ẩn hoài niệm, mà là một không gian thực nghiệm của sự phân định, đổi mới sư phạm và chứng tá ngôn sứ. Vẽ nên những bản đồ mới của niềm hy vọng: đây chính là tính cấp thiết của sứ mệnh.

11.2. Tôi yêu cầu các cộng đồng giáo dục: hãy giải trừ vũ khí ngôn từ công kích, hãy hướng mắt lên cao và gìn giữ tâm hồn mình. Hãy giải trừ ngôn từ công kích, bởi vì giáo dục không tiến triển bằng những cuộc tranh luận, nhưng bằng sự hiền lành biết lắng nghe. Hãy hướng mắt lên cao. Như Thiên Chúa đã phán với Ápraham: “Hãy ngước mắt lên trời, và thử đếm các vì sao” (St 15,5): hãy biết tự hỏi mình đang đi đâu và tại sao. Hãy canh giữ trái tim mình: các mối tương quan thì quan trọng hơn ý kiến, nhân vị thì quan trọng hơn chương trình. Đừng lãng phí thời gian và cơ hội; xin mượn câu nói của thánh Augustinô: “Hiện tại của chúng ta là một trực giác, một thời gian mà chúng ta đang sống và chúng ta phải tận dụng trước khi nó vuột khỏi tầm tay.”[24] Cuối cùng, anh chị em thân mến, tôi xin lấy lời khuyên của thánh Phaolô làm của riêng mình: anh chị em “phải chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời, là làm sáng tỏ Lời ban sự sống” (Pl 2,15-16).

11.3. Tôi xin phó thác hành trình này cho Đức Trinh Nữ Maria, là Tòa đấng Khôn ngoan, và cho tất cả các nhà giáo dục thánh thiện. Tôi kêu gọi các vị mục tử, các tu sĩ nam nữ, anh chị em giáo dân, những người phụ trách các cơ sở giáo dục, các giáo viên và học viên: hãy là những người phục vụ cho thế giới giáo dục, những đoàn vũ công của niềm hy vọng, những người không ngừng tìm kiếm sự khôn ngoan, những người sáng tạo đáng tin cậy của những biểu hiện của cái đẹp. Hãy bớt đi những nhãn hiệu, nhưng thêm nhiều câu chuyện; hãy bớt đi những đối kháng vô bổ, nhưng hãy gia tăng những bản hòa tấu trong Thánh Thần. Khi đó, chòm sao của chúng ta không chỉ tỏa sáng mà còn dẫn đến chân lý giải thoát (x. Ga 8,32), hướng đến tình huynh đệ củng cố công lý (x. Mt 23,8), hướng đến niềm hy vọng không bao giờ làm chúng ta thất vọng (x. Rm 5,5).

Ban hành tại Vương cung thánh đường thánh Phêrô, ngày 27 tháng 10 năm 2025

Đêm canh thức kỷ niệm 60 năm Tuyên ngôn Gravissimum Educationis

Giáo hoàng Lêô XIV

*******

Chuyển ngữ: Giuse Phan Văn Phi, O.Cist. & Maria Đào Phượng, Đaminh Rosa Lima

Ban Dịch thuật Học viện Công giáo Việt Nam

Hiệu đính: Gm. Giuse Đinh Đức Đạo

------------------------

(Nguồn: WHĐ)

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/tong-thu-ve-nen-nhung-ban-do-moi-cua-niem-hy-vong

***

32.  Ngày thứ ba của cuộc “Đại hành hương hy vọng” tại Penang, Malaysia - 29/11/2025

Nt. Ngọc Lan, FMM

WHĐ (30/11/2025) – Chương trình của ngày thứ ba - thứ Sáu, 29 tháng 11 năm 2025 - bắt đầu với phần cầu nguyện cám ơn Chúa rất sôi nổi của nhóm trẻ tại Giáo xứ Thánh Anna.

Nội dung ngày hôm nay tập trung vào chủ đề “Sống và chia sẻ câu chuyện về Chúa Giêsu – Cùng nhau trong hành trình hướng tới năm 2033”. Bài chia sẻ của Đức Hồng y Pablo Virgilio David, Phó Chủ tịch FABC đã truyền cảm hứng cho cộng đoàn về tầm quan trọng của việc sống và loan báo Tin mừng trong bối cảnh châu Á, đặc biệt khi chúng ta hướng tới năm 2033 – kỷ niệm 2000 năm Chúa Giêsu chịu chết và phục sinh. Những câu chuyện Kinh thánh cần được kể lại theo nhiều cách mới mẻ. Chúng ta thấy rằng những câu chuyện tương tự nhau đan quyện trong Kinh thánh để nói về Thiên Chúa, Đấng yêu thương giải thoát dân Người. Điều quan trọng là cách chú giải cần giúp người nghe hiểu được ý nghĩa phong phú của câu chuyện. Và chúng ta cần nhớ tất cả các câu chuyện về Chúa Giêsu và ơn cứu độ chưa thể kết thúc nếu chưa có một kết thúc có hậu – happy ending!

Trong cuộc sống cụ thể của Giáo hội Á châu, mọi câu chuyện của đau khổ bệnh tật phải được kết thúc bằng chữa lành, tội lỗi được tha thứ, người nghèo được giải thoát, người lạ được đón tiếp, khi có sự nối kết với Chúa Giêsu… Cuộc đời của Người không dừng ở đau khổ và cái chết thập giá, mà là sự phục sinh. Người đã đi vào cuộc đời con người, phản ánh tình yêu thương xót của Chúa Cha, mạc khải cho họ một Thiên Chúa lắng nghe tiếng kêu của người nghèo và giải thoát họ. Đi vào sự hiệp thông với Người tất cả để được biến đổi. Trong câu chuyện Emmaus, Người biến mất để rồi tiếp tục hiện diện trên mọi nẻo đường cuộc sống của chúng ta hôm nay. Người đang sống giữa chúng ta. Để Chúa Giêsu sống trong chúng ta, lòng chúng ta phải được bừng cháy, dám thay đổi để trở về với cộng đoàn và cùng sống chứng tá. Đó là niềm hy vọng cần có cho thế giới hôm nay.

Để kể lại câu chuyện Chúa Giêsu cho Á châu, chúng ta không cần to tiếng nhưng phải xem lại các mối tương quan, sự tôn trọng và đời sống chiêm niệm của mình. Những câu chuyện kể cho nhau về Chúa Giêsu trở thành những câu chuyện của chính chúng ta, đặt chúng ta vào vùng đất thánh thiêng nơi Chúa Giêsu hiện diện. Chúng ta kể bằng mọi hình thức của nền văn hóa như âm nhạc, lễ hội, truyền thông, bằng việc gặp gỡ với các tôn giáo Á châu, bằng việc đi đến với người nghèo. Mục tử là người chăm sóc, nuôi sống đàn chiên, “hãy chăm sóc chiên của Ta”. Và chính Chúa Giêsu đã trở nên người nghèo giữa người nghèo, trở nên “con chiên của Thiên Chúa” để được chăm sóc đón nhận nơi người nghèo. Chúng ta cũng cần kể lại câu chuyện Chúa Giêsu qua việc chăm sóc các thụ tạo. Tất cả đều là những câu chuyện của hy vọng. Năm thánh 2025 chúng ta đang cử hành việc kể câu chuyện chưa được mở ra hết, chúng ta cũng đang muốn tiến đến mốc điểm 2033 nơi Giáo hội sẽ cử hành 2000 năm Cái chết và Phục sinh của Chúa Giêsu. Á châu là món quà độc đáo cho thế giới nhờ những câu chuyện đầy hy vọng, câu chuyện Emmaus chính là biểu tượng và họa ảnh cho những câu chuyện của chúng ta về Chúa Giêsu.

Ban tổ chức đã tóm gọn kết quả cuộc Đối thoại trong Thánh Thần ngày hôm trước trong một câu đầy ý nghĩa. “Chúa Thánh Thần đang mời gọi Giáo hội tại châu Á đào sâu đời sống nội tâm trong Chúa Kitô, lắng nghe với lòng thương xót, cùng nhau tiến bước trong tính hiệp hành, làm chứng cho niềm hy vọng qua việc phục vụ khiêm tốn và can đảm, xây dựng những nhịp cầu xuyên văn hóa và tôn giáo, và loan báo Tin mừng qua những đời sống được bén rễ sâu trong cầu nguyện, hiệp nhất và tình yêu”.

Tiếp nối chương trình, Cha Enrico người Philippines một lần nữa hướng dẫn cuộc “Đối thoại trong Chúa Thánh Thần” theo từng nhóm với những câu hỏi rõ ràng hơn. Các tham dự viên đã đi sâu vào ba câu hỏi của hôm nay gồm:

- Vòng 1: Bạn đã học được điều gì hoặc nhận ra điều gì liên quan đến việc sống và chia sẻ câu chuyện về Chúa Giêsu?

- Vòng 2: Từ những điều đã được chia sẻ trong nhóm của bạn, điều gì đã truyền cảm hứng hoặc thách thức bạn?

- Vòng 3: Thần Khí đang mời gọi chúng ta sống và chia sẻ câu chuyện về Chúa Giêsu trong tám năm tới (2033) như thế nào?

Các tham dự viên đã chăm chú lắng nghe nhau và cùng nhau phân định những hướng đi cần thiết cho sứ mạng loan báo Tin mừng. Sau đó các thư ký nhóm tổng kết câu thứ ba để gởi lại cho Ban Tổ chức qua email.

Không khí phòng hội trở nên sôi động hơn trong phiên Tọa đàm sau giải lao, được điều phối bởi Đức Hồng y Tarcisio Isao Kikuchi, Tổng Thư ký FABC. Các dự án truyền giáo mang tính toàn cầu như Global 2033, Alpha Asia, The Chosen, Tình nguyện viên Giới trẻ truyền giáo của Chúa Giêsu, nhóm Thánh Carlo Acutis và Shalom World, đã cùng nhau chia sẻ những kinh nghiệm thực tiễn và những công cụ mới như là các video clip để hỗ trợ việc loan báo Tin mừng và cổ võ ơn gọi trong thời đại số.

Sau đó, các tham dự viên chia ra để dự một trong các chuyên đề, một tại phòng họp hội lớn và 6 chuyên đề ở các tầng lầu khác. Các phiên họp song song này đã mang đến những kiến thức chuyên biệt và thực tiễn về nhiều khía cạnh của việc truyền giáo thời hiện đại. Từ "Biên giới sáng tạo của việc loan báo Tin mừng" đến cách sử dụng loạt phim 'The Chosen' làm công cụ truyền giáo, hay việc giới thiệu Chúa Giêsu ngay tại nơi làm việc – mỗi Chuyên đề đều thu hút các tham dự viên học hỏi để sống hăng say với sứ mạng cụ thể của mình. Các chủ đề nhạy cảm như "Căn tính về giới tính – một góc nhìn Công giáo" và những thách thức của việc truyền giáo trong bối cảnh đa văn hóa & đa tôn giáo cũng được trình bày, thể hiện cam kết của Đại hội trong việc đối diện với các vấn đề của xã hội đương đại.

Tiếp đến là giờ ăn trưa và nghỉ ngơi. Đây lại cũng là cơ hội cho mọi tham dự viên giao lưu trao đổi với nhau… Sự hăng say của buổi chiều được tiếp nối với hai chủ đề khác song song, nơi các tham dự viên nghe chia sẻ kinh nghiệm "Kể câu chuyện về Chúa Giêsu trong nghề nghiệp của tôi". Sự chia nhóm theo nghề nghiệp đã giúp mọi người tìm ra những khả năng và thách thức cụ thể để biến nơi làm việc thành không gian của sứ mạng.

Những chia sẻ cụ thể mang đến những kiến thức và diễn giải rất cần thiết và hữu ích của các chuyên gia về nhiều phương diện khác nhau liên quan đến hoạt động loan báo Tin mừng mà các tham dự viên quan tâm yêu thích.

Đỉnh điểm và là sự kiện khép lại ngày làm việc là chuyến hành hương và Thánh lễ long trọng tại Tiểu vương cung thánh đường Thánh Anna, do Đức Hồng y Luis Antonio Cardinal Tagle chủ sự. Tinh thần hòa đồng, hiệp hành không chỉ được thể hiện trong Thánh lễ nhưng còn trong bữa ăn huynh đệ khi các vị hồng y, giám mục cùng chia sẻ bữa ăn trong bầu khí thân tình, gần gũi với các thành phần của dân Chúa.

Buổi tối sau bữa ăn, chương trình diễn ra với chủ đề: "Hãy trở thành những người hành hương của niềm hy vọng". Sau màn trình diễn khai mạc của The Rexband, Đức Tổng Giám mục Christopher Prowse đã mang đến bài nói chuyện truyền cảm hứng, khuyến khích mọi người mang trở thành người hành hương của hy vọng ngay trong gia đình và cộng đoàn. Chương trình kết thúc trong sự thăng hoa với buổi Hòa nhạc của Cha Rob Galea đến từ Australia – một ca sĩ, nhạc sĩ quốc tế đã truyền tải thông điệp Tin mừng qua âm nhạc cách mạnh mẽ và đầy thu hút. Những bài hát và câu chuyện kể của cha để lại nhiều ấn tượng sâu sắc và nguồn năng lượng tích cực cho tất cả những người tham dự.

Ngày họp thứ ba đã khép lại, để lại trong lòng các tham dự viên những nội dung thể hiện quyết tâm của Giáo hội châu Á trong việc cùng nhau hành trình hướng tới Năm thánh 2033, với tư cách là những chứng nhân và những người hành hương của niềm hy vọng trên khắp các nẻo đường của châu lục thân yêu này.

Nữ tu Ngọc Lan, fmm.

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/ngay-thu-ba-cua-cuoc-dai-hanh-huong-hy-vong-tai-penang-malaysia---29112025

***

 

 

 

TIN GIÁO HỘI HOÀN VŨ

1. Thư người trẻ gửi Đức Thánh Cha: “Trường học phải gieo lòng tin, không gieo nỗi sợ thất vọng

Kết thúc sự kiện “Trường học là sự sống”, thuộc chuỗi hoạt động của Ngày Năm Thánh Giới Giáo dục, các bạn trẻ đã gửi lá thư của họ cho Đức Thánh Cha Lêô XIV, trong đó bày tỏ nỗi khao khát được tin tưởng và được nhìn nhận trong một xã hội nhiều áp lực và sợ hãi.

Vatican News

Trong thư, họ viết rằng bản thân đang sống “giữa hai nhịp đập: nỗi sợ không được người lớn nhận ra và khát vọng vươn tới những vì sao”. Các bạn không chờ đợi phép lạ, chỉ xin người lớn “hãy tin tưởng chúng con”. Theo họ, trường học phải trở thành “đài quan sát của các chòm sao”, nơi mỗi học sinh được khích lệ để tìm ra ánh sáng của mình.

Thư kêu gọi các trường học “nối kết” và gieo vào học sinh “niềm tin”, “trái ngược với nỗi sợ thất vọng”. Lá thư kết thúc với ba đề xuất cụ thể: tạo ra một “cuộc hành hương giáo dục” kết nối Học viện về Giáo phụ Augustinianum với một ngôi trường mang tính biểu tượng ở ngoại ô Roma, để tái khám phá “con đường giáo dục chung”; thiết lập một “tiêu chuẩn giáo dục phổ quát” để cùng thiết kế các sáng kiến hòa bình và hợp tác; và cuối cùng, duy trì bằng cách tổ chức hàng năm các “phòng thực nghiệm giáo dục” như đã được tổ chức trong những ngày qua.

(Nguồn: RV)

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/thu-nguoi-tre-gui-duc-thanh-cha-%E2%80%9Ctruong-hoc-phai-gieo-long-tin-khong-gieo-noi-so-that-vong

 

***

2. Giáo hội Công giáo điều hành 231.000 cơ sở giáo dục, với hơn 70 triệu học sinh

Theo số liệu được giáo sư Antonello Maruotti trình bày tại Hội nghị quốc tế “Các chòm sao giáo dục – Một hiệp ước với tương lai” diễn ra tại Vatican, hệ thống giáo dục Công giáo hiện bao gồm 231 ngàn trường học tại 171 quốc gia, phục vụ hơn 70 triệu học sinh, trở thành một trong những mạng lưới giáo dục rộng lớn nhất toàn cầu. Dữ liệu này không được trình bày để gây ấn tượng, nhưng để định hướng và phục vụ sứ mạng.

Vatican News

Theo báo cáo, gần một nửa số học sinh Công giáo (43%) sống tại châu Phi, tiếp đến là châu Á (21%), châu Mỹ (20%) và châu Âu (14%). Ở nhiều khu vực có thu nhập thấp, các trường Công giáo là lựa chọn duy nhất mang lại nền giáo dục ổn định và lâu dài. Trong khi ở châu Á và châu Phi, những thách thức liên quan đến cơ sở hạ tầng và khả năng tiếp cận, thì ở châu Âu, vấn đề lại nằm ở sự phân mảnh và khả năng duy trì của các trường học nhỏ.

160 triệu thanh thiếu niên trên thế giới vẫn chưa được học trung học

Một thực trạng đáng lo ngại là hơn 160 triệu thanh thiếu niên trên thế giới vẫn chưa được học trung học. Đối với nhiều em, đặc biệt ở những vùng ngoại ô hoặc nông thôn nghèo, trường Công giáo là nơi duy nhất mở ra cơ hội tiếp tục học tập. Tuy nhiên, việc “mở cửa” trường học thôi là chưa đủ – cần tạo điều kiện để học sinh có thể ở lại. Điều này đồng nghĩa với việc cung cấp phương tiện đi lại, học bổng, an toàn, hướng dẫn và kết nối với cộng đồng địa phương.

Hiện nay có ba mô hình giáo dục Công giáo chính: Các quốc gia có hệ thống Công giáo chiếm đa số (như Bỉ, Rwanda); các mô hình hợp tác công – tư có cấu trúc rõ ràng; và những bối cảnh mà sự hiện diện của Công giáo là thiểu số nhưng đáng kể, thường mang tính đổi mới.

Mỗi trường học trở thành dấu chỉ của Tin Mừng

Một trong những sáng kiến nổi bật được giới thiệu tại hội nghị là "Bản đồ tương tác giáo dục Công giáo", do Viện Quan sát Quốc tế khởi xướng, nhằm cập nhật dữ liệu, xác định các khu vực dễ tổn thương và nhu cầu phát triển.

Nhân kỷ niệm 60 năm Tuyên ngôn Gravissimum educationis, Đức Thánh Cha Lêô XIV, trong Tông thư Vẽ nên những bản đồ hy vọng mới, mời gọi Giáo hội “biết đọc các dữ kiện bằng ánh sáng đức tin, để mỗi trường học trở thành dấu chỉ của Tin Mừng và mỗi chọn lựa giáo dục là một hành động của bác ái cao cả”.

(Nguồn: RV)

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/giao-hoi-cong-giao-dieu-hanh-231000-co-so-giao-duc-voi-hon-70-trieu-hoc-sinh

 

***

3. Đức Thánh Cha: Giáo dục Kitô giáo phải khởi đi từ nội tâm, hiệp nhất, tình yêu và niềm vui

Ngày 31/10/2025, gặp gỡ các nhà giáo đến từ khắp nơi trên thế giới – từ bậc tiểu học đến đại học – nhân Ngày Năm Thánh Giới Giáo dục, Đức Thánh Cha Lêô XIV khích lệ họ đặt đời sống nội tâm, sự hiệp nhất, tình yêu và niềm vui làm những điểm tựa trong sứ mạng của mình và ghi nhớ lời Chúa Giêsu: “Tất cả những gì anh em làm cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là làm cho chính Ta” (Mt 25,40).

Vatican News

Ngỏ lời với các nhà giáo dục, Đức Thánh Cha nhắc rằng Giáo hội là “Mẹ và Thầy dạy” (x. Thông điệp Mater et magistra của Thánh Gioan XXIII), và chính các nhà giáo đang diễn tả gương mặt hiền mẫu ấy trong việc đào luyện tâm hồn các thế hệ trẻ. Ngài nêu bật vai trò của các nhà giáo dục Công giáo, thông qua các đặc sủng, phương pháp và kinh nghiệm, cũng như sự dấn thân "đa âm sắc" của họ trong Giáo hội, "đảm bảo cho hàng triệu người trẻ một nền giáo dục đầy đủ, trong khi luôn đặt lợi ích của con người làm trọng tâm trong việc truyền đạt kiến thức nhân văn và khoa học".

Từ kinh nghiệm bản thân từng là giáo viên tại các cơ sở giáo dục của Dòng Thánh Augustinô, Đức Thánh Cha nhấn mạnh bốn trụ cột của giáo dục Kitô giáo theo tư tưởng của thánh nhân: nội tâm, hiệp nhất, tình yêu và niềm vui.

Học sinh và giáo viên cần được hướng trở lại với chiều sâu tâm hồn 

Về nội tâm, Đức Thánh Cha trích lời Thánh Augustinô: “Âm thanh lời nói đánh động tai nghe, nhưng vị Thầy đích thực ở trong nội tâm”, là Chúa Thánh Thần. Ngài khẳng định, việc dạy học không thể chỉ dựa vào phương tiện hay phương pháp, vì “chân lý không truyền qua tường hay âm thanh, mà qua cuộc gặp gỡ sâu xa giữa con người với con người”. Trong thế giới bị chi phối bởi công nghệ, cả học sinh lẫn thầy cô đều cần được hướng trở lại với chiều sâu tâm hồn – nơi chân lý cư ngụ.

Củng cố sự cộng tác và liên đới trong giáo dục

Nói đến hiệp nhất, Đức Thánh Cha nhắc lại châm ngôn của ngài In Illo uno unum – “Trong Đấng Duy Nhất chúng ta là một”, bởi chỉ trong Đức Kitô con người mới thực sự nên một. Ngài loan báo việc tiếp tục canh tân “Hiệp ước Giáo dục Toàn cầu” – sáng kiến mang tính ngôn sứ của Đức Thánh Cha Phanxicô – để củng cố sự cộng tác và liên đới giữa mọi thành phần tham gia vào giáo dục. Theo ngài, "Việc chia sẻ kiến thức có thể được coi là một hành động yêu thương lớn lao".

Chỉ khi được thúc đẩy bởi tình yêu, việc giáo dục mới thật sự biến đổi

Tiếp đến, về tình yêu, Đức Thánh Cha trích Thánh Augustinô: “Yêu mến Thiên Chúa là điều răn hàng đầu, yêu thương người lân cận là điều răn đầu tiên phải thực hành” (In Evangelium Ioannis Tractatus 17, 8)”. Theo ngài, truyền đạt tri thức mà thiếu tình yêu thì không thể sinh hoa trái; chỉ khi được thúc đẩy bởi lòng bác ái, việc giáo dục mới thật sự biến đổi và mang lại hy vọng cho xã hội. Ngài cũng nhắc nhở cần tôn trọng những đóng góp của các nhà giáo dục cho cộng đồng và cảnh báo "việc làm tổn hại đến vai trò xã hội và văn hóa của các nhà giáo dục chính là đang tự đặt cược tương lai của chúng ta, và một cuộc khủng hoảng trong việc truyền tải kiến thức cũng kéo theo một cuộc khủng hoảng hy vọng".

“Dạy bằng nụ cười”

Từ khóa cuối cùng là niềm vui. Đức Thánh Cha mời gọi các nhà giáo “dạy bằng nụ cười” và khơi dậy niềm vui nơi tâm hồn học trò. Trong bối cảnh nhiều người trẻ khép kín, lạc hướng và dễ bị cô lập bởi công nghệ hay trí tuệ nhân tạo, ngài nhấn mạnh rằng giáo dục là một hành động nhân bản sâu xa, “một ngọn lửa hợp nhất nhiều tâm hồn nên một”.

(Nguồn: RV)

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/duc-thanh-cha-giao-duc-kito-giao-phai-khoi-di-tu-noi-tam-hiep-nhat-tinh-yeu-va-niem-vui

 

***

4. Thánh Lễ Trọng Kính Các Thánh Nam Nữ (Thứ Bảy 01/11)

Sáng Thứ Bảy ngày 1/11, Lễ trọng kính Các Thánh Nam Nữ, và cũng là Ngày Năm Thánh Thế giới Giáo dục, Đức Thánh Cha đã dâng Thánh Lễ tại quảng trường thánh Phêrô với khoảng 50 ngàn người và phong tước hiệu “Tiến sĩ Hội Thánh” cho thánh John Henry Newman, người đã trở lại từ Anh Giáo. Vì vậy, một phái đoàn chính thức của Giáo hội Anh giáo cũng hiện diện trong Thánh Lễ.

Vatican News

Bài giảng của Đức Thánh Cha
Thánh Lễ trọng Các Thánh Nam Nữ, ngày 1 tháng 11 năm 2025
Năm Thánh Thế Giới Giáo Dục

Trong ngày lễ trọng kính Các Thánh Nam Nữ hôm nay, thật là niềm vui lớn lao khi chúng ta ghi tên Thánh John Henry Newman vào hàng các Tiến sĩ Hội Thánh, và đồng thời – nhân dịp Năm Thánh Thế Giới Giáo Dục – tuyên đặt ngài làm bổn mạng, cùng với Thánh Tôma Aquinô, của tất cả những ai đang tham gia vào tiến trình giáo dục. Tầm vóc văn hóa và thiêng liêng vĩ đại của thánh Newman sẽ là nguồn linh hứng cho những thế hệ mới, với con tim khao khát vô biên, sẵn sàng thực hiện, qua việc tìm kiếm và mở mang tri thức, cuộc hành trình mà – như người xưa vẫn nói – dẫn chúng ta “vượt qua chông gai để tới được các vì sao” (per aspera ad astra).

Đời sống các thánh chứng tỏ rằng có thể sống hết mình giữa những phức tạp của thời đại mà không bỏ quên mệnh lệnh tông đồ: “Anh em hãy chiếu sáng như những vì sao giữa thế gian” (Pl 2,15). Trong dịp long trọng này, tôi muốn lặp lại với các nhà giáo dục và các cơ sở giáo dục: “Anh chị em hãy chiếu sáng như những vì sao giữa thế giới hôm nay”, nhờ sự chân thực trong dấn thân chung tìm kiếm sự thật, nhờ việc quảng đại chia sẻ sự thật ấy qua việc phục vụ giới trẻ – đặc biệt là những người nghèo – và nơi kinh nghiệm thường ngày rằng “tình yêu Kitô giáo là tình yêu mang tính tiên tri và có thể làm nên những điều kỳ diệu” (x. Tông huấn Dilexi te, 120).

Năm Thánh là một cuộc hành hương trong niềm hy vọng, và tất cả anh chị em – những người đang phục vụ trong lĩnh vực giáo dục – đều hiểu rõ hy vọng chính là hạt giống không thể thiếu! Khi nghĩ đến các trường học, đại học, tôi hình dung đó là những “phòng thực nghiệm của lời tiên tri”, nơi hy vọng được sống, được kể lại và được nối tiếp.

Điều này cũng chính là ý nghĩa nơi Tin Mừng các Mối Phúc được công bố hôm nay. Các Mối Phúc chứa đựng một diễn giải mới về thực tại. Các Mối Phúc là lộ trình và là sứ điệp của Đức Giêsu – Vị Thầy. Thoạt nhìn, xem ra không thể nào gọi là “phúc thay” những người nghèo khó, những người đói khát công lý, những người bị bách hại hay những người xây dựng hòa bình. Thế nhưng, điều tưởng như vô lý theo lối suy nghĩ của thế gian lại được chất đầy ý nghĩa và sáng ngời khi chúng ta ở gần Nước Thiên Chúa. Nơi các thánh, chúng ta thấy Nước ấy đến gần, hiện diện ngay giữa chúng ta. Thánh Mátthêu đã trình bày các Mối Phúc như một giáo huấn, và mô tả Đức Giêsu như một Vị Thầy đang thông truyền cách nhìn mới về mọi sự, trong đó viễn tượng của Người hòa quyện với con đường Người đi.

Thế nhưng, các Mối Phúc không chỉ là một bài học trong số nhiều bài học khác: nhưng đó là bài học cốt lõi. Cũng thế, Đức Kitô không phải là một thầy dạy giữa bao thầy dạy khác: Người là Vị Thầy đích thực. Hơn thế, Người là Nhà Giáo Dục tuyệt hảo. Chúng ta – những môn đệ của Người – đang trong trường học của Người, học cách khám phá nơi cuộc đời của Người – nơi con đường Người đã đi – một chân trời chan chứa ý nghĩa, có thể soi sáng mọi lĩnh vực tri thức. Ước gì các trường học và đại học của chúng ta luôn là nơi lắng nghe và thực hành Tin Mừng!

Những thách đố hôm nay đôi khi xem ra vượt quá khả năng của chúng ta, nhưng không phải vậy. Đừng để chủ nghĩa bi quan lấn át chúng ta! Tôi nhớ lại lời nhắc nhở của vị Tiền nhiệm đáng kính – Đức Thánh Cha Phanxicô – trong bài diễn từ tại Khóa họp Khoáng đại đầu tiên của Bộ Văn hóa và Giáo dục: “Chúng ta cần cùng nhau giải thoát nhân loại khỏi bóng tối của chủ nghĩa hư vô, một thứ bệnh tật nguy hiểm của văn hóa hiện đại, bởi nó đe dọa xóa bỏ niềm hy vọng.” Nhắc đến đêm tối đang vây phủ, chúng ta nhớ tới một trong những bản văn nổi tiếng nhất của Thánh John Henry, bài thánh thi Lead, kindly Light (“Xin dẫn con đi, Lạy Ánh Sáng dịu hiền”). Trong lời nguyện tuyệt đẹp ấy, chúng ta nhận ra mình xa quê, chân bước không vững, và chân trời trước mắt như tối mù. Thế nhưng, chẳng điều gì ngăn bước, bởi chúng ta đã tìm được Người Dẫn Đường: “Lạy Chúa, xin dẫn con đi, Ánh Sáng dịu hiền, giữa bóng tối bủa vây, xin dẫn dắt con!”.

Và đó chính là sứ mạng của giáo dục: đem ánh sáng dịu hiền ấy trao cho những ai có thể bị cầm chân bởi những bóng tối hiểm nguy của hoài nghi và sợ hãi. Vì thế, tôi muốn nói với anh chị em: hãy loại bỏ những lý do giả tạo của sự buông xuôi và bất lực, và hãy lan tỏa những lý lẽ lớn lao của niềm hy vọng. Hãy chỉ cho con người hôm nay những chòm sao của sự thật và bình an, chiếu sáng bầu trời tối tăm vì bất công và bất định. Do đó, tôi hết lòng khích lệ anh chị em hãy biến các trường học, đại học, và mọi môi trường giáo dục – kể cả ngoài hệ thống chính quy – thành những cửa ngõ của một nền văn minh đối thoại và hòa bình. Hãy để đời sống của anh chị em phản chiếu “đám đông khổng lồ” mà sách Khải Huyền hôm nay nói đến: “một đoàn người đông vô kể, thuộc mọi dân nước, chi tộc, ngôn ngữ, đứng trước Con Chiên” (x. Kh 7,9).

Trong bản văn Kinh Thánh ấy, một vị trưởng lão nhìn đoàn người đông đảo và hỏi: “Những người mặc áo trắng kia là ai vậy, và họ từ đâu đến?” (Kh 7,13). Cũng thế, trong lãnh vực giáo dục, ánh mắt Kitô hữu luôn hướng nhìn những người “đến từ cuộc bách hại lớn lao” (c.14), và nhận ra nơi họ gương mặt của biết bao anh chị em thuộc mọi ngôn ngữ và văn hóa đã bước vào sự sống viên mãn qua cánh cửa hẹp là Đức Giêsu. Vậy, một lần nữa, chúng ta phải tự hỏi: “Phải chăng những người kém tài hơn không còn là con người? Phải chăng những người yếu đuối kém phẩm giá hơn chúng ta? Những người sinh ra với ít cơ hội hơn thì giá trị con người của họ có thấp kém, và họ phải bằng lòng chỉ được tồn tại thôi sao?” Câu trả lời của chúng ta cho những câu hỏi này sẽ quyết định giá trị của xã hội chúng ta, và cũng từ đó mà tương lai chúng ta được định hình” (x. Tông huấn Dilexi te, 95). Và chúng ta có thể thêm rằng: câu trả lời ấy cũng quyết định chiều kích Tin Mừng của nền giáo dục của chúng ta.

Giữa những gia sản trường tồn mà Thánh John Henry để lại, có những đóng góp rất ý nghĩa cho lý thuyết và thực hành giáo dục. Ngài viết: “Thiên Chúa đã dựng nên tôi để tôi phục vụ Người cách riêng. Người trao cho tôi một công việc mà Người không trao cho ai khác. Tôi có một sứ mạng: có thể tôi sẽ không nhận ra trong đời này, nhưng nó sẽ được mạc khải trong đời sau” (Meditations and Devotions, III, I, 2). Trong những lời này, chúng ta thấy diễn tả thật tuyệt vời mầu nhiệm phẩm giá mỗi con người, cũng như sự phong phú muôn vẻ của các ân huệ Thiên Chúa ban.

Cuộc sống được chiếu sáng không phải vì sự giàu có hay thành công, mà vì chúng ta khám phá ra một sự thật: tôi được Thiên Chúa kêu gọi, tôi có một ơn gọi, tôi có một sứ mạng. Tôi phục vụ một điều gì đó lớn lao hơn chính mình! Mỗi thụ tạo đều có vai trò riêng. Đóng góp của mỗi người đều vô giá, và nhiệm vụ của các cộng đồng giáo dục là khuyến khích và phát huy những đóng góp ấy. Đừng quên rằng: trung tâm của các hành trình giáo dục không phải là những cá nhân trừu tượng, mà là những con người bằng xương bằng thịt – nhất là những người xem ra “không hiệu quả” qua lăng kính của một nền kinh tế loại trừ và hủy hoại sự sống. Chúng ta được mời gọi đào tạo nên những con người, để họ tỏa sáng như những vì sao trong phẩm giá trọn vẹn của mình.

Chúng ta có thể nói: giáo dục theo cái nhìn Kitô giáo là giúp mọi người trở thành thánh – không hơn, không kém. Đức Giáo hoàng Biển Đức XVI, trong chuyến Tông du tại Vương quốc Anh tháng 9 năm 2010 – dịp ngài tôn phong chân phước cho John Henry Newman – đã nói với người trẻ: “Điều Thiên Chúa mong muốn nhất nơi mỗi người là các con hãy trở nên thánh. Người yêu các con hơn các con có thể tưởng tượng, và Người muốn điều tốt đẹp nhất cho các con”. Đây chính là lời mời gọi phổ quát bước vào sự thánh thiện, điều mà Công đồng Vaticanô II đã làm nổi bật như sứ điệp cốt lõi của mình (x. Lumen gentium, chương V). Và sự thánh thiện được đề nghị cho tất cả mọi người – không trừ ai – như một hành trình cá nhân và cộng đoàn, được dẫn dắt bởi các Mối Phúc.

Tôi cầu nguyện để nền giáo dục Công giáo giúp mỗi người khám phá ơn gọi nên thánh của mình. Thánh Augustinô – vị mà Thánh John Henry Newman rất mến mộ – đã từng nói rằng chúng ta là những bạn học có cùng một Thầy, trường học của Người ở dưới đất, còn giảng tòa của Người thì ở trên trời (x. Bài giảng, 292,1).

(Nguồn: RV)

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/thanh-le-trong-kinh-cac-thanh-nam-nu-thu-bay-0111

 

***

5. Thánh lễ tại nghĩa trang Verano (2/11): Tình yêu chiến thắng sự chết

Chiều ngày 2/11, Đức Thánh Cha đã đến Nghĩa trang Verano, nghĩa trang lớn nhất của Roma để dâng Thánh Lễ cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời. Hiện diện trong thánh lễ tại nghĩa trang, có rất đông các tín hữu tham dự.

Vatican News

Bài giảng của Đức Thánh Cha Lêô XIV

Anh chị em thân mến,

Hôm nay, chúng ta tụ họp tại nơi an nghỉ này để cử hành lễ tưởng niệm tất cả các tín hữu đã qua đời, cách riêng là những người đang yên nghỉ tại đây, và với lòng trìu mến đặc biệt, chúng ta nhớ đến những người thân yêu của mình. Trong ngày họ rời bỏ cõi đời, họ như đã đi xa khỏi chúng ta, nhưng trong sâu thẳm trái tim, ký ức về họ vẫn mãi sống động. Hằng ngày, trong nhịp sống của chúng ta, ký ức ấy như một dòng chảy không ngừng. Một hình ảnh, một âm thanh, hay thậm chí hương thoảng trong căn nhà, cũng đủ gợi lại bao thời khắc thiêng liêng bên những người chúng ta mến thương – và đã khuất.

Tuy nhiên hôm nay, chúng ta không chỉ đến đây để tưởng nhớ những người đã đi trước. Đức tin Kitô giáo, được xây dựng trên nền tảng mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô, giúp ta sống ký ức không chỉ như điều đã qua, nhưng còn là niềm hy vọng hướng về tương lai. Không chỉ là quay nhìn lại, mà còn ngước trông lên phía trước: nhìn đến cùng đích, đến bến bờ an toàn mà Thiên Chúa đã hứa ban, nhìn đến bữa tiệc không cùng mà Người đã dọn sẵn cho chúng ta. Tại nơi ấy, quanh Đấng Phục Sinh và những người thân yêu của chúng ta, chúng ta sẽ được nếm trải niềm vui trọn vẹn trong bữa tiệc đời đời: “Ngày ấy, trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc…. Người sẽ vĩnh viễn tiêu diệt tử thần” (Is 25,6.8).

Chính niềm hy vọng ấy làm sinh động ký ức và lời cầu nguyện của chúng ta hôm nay. Đây không phải là ảo tưởng để xoa dịu nỗi đau chia ly, cũng không phải là thứ lạc quan hời hợt. Đó là niềm hy vọng được đặt nền trên sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chiến thắng sự chết và mở lối cho chúng ta đi vào sự sống vĩnh cửu. Như tôi đã nhắc lại trong một buổi giáo lý gần đây: “Người là điểm đến tối hậu trong hành trình của chúng ta. Không có tình yêu của Người, cuộc đời biến thành những bước lạc lối: sai mục đích, hụt mất định hướng. Nhưng với Đức Kitô Phục Sinh, chúng ta có bảo chứng cho bến đỗ, Người dẫn chúng ta về nhà, nơi chúng ta được chờ đợi, yêu thương và được cứu” (Buổi tiếp kiến chung, 15 tháng 10 năm 2025).

Và bến đỗ ấy, bữa tiệc mà Chúa quy tụ chúng ta, sẽ là một cuộc gặp gỡ của tình yêu. Vì yêu thương mà Thiên Chúa đã dựng nên chúng ta; nhờ tình yêu của Con Một Người mà chúng ta được cứu khỏi sự chết; và chính trong sự vui mừng yêu thương mà Thiên Chúa muốn chúng ta được sống mãi mãi – với Người và với những người thân yêu của chúng ta. Vì thế, chúng ta tiến bước về cùng đích ấy, và ngay từ bây giờ, chúng ta đón nhận trong niềm hiệp thông khắng khít với những ai đã đi trước, mỗi khi chúng ta sống trong tình yêu và thực thi lòng bác ái dành cho nhau, đặc biệt là với những ai yếu đuối, nghèo hèn. Đức Giêsu đã phán: “Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến hỏi han” (Mt 25,35-36).

Tình yêu chiến thắng sự chết. Chính trong tình yêu mà Thiên Chúa sẽ quy tụ chúng ta với những người thân yêu. Và nếu ta sống trong đức ái, cuộc đời ta sẽ trở thành một lời cầu nguyện dâng lên, quyện vào đời sống của những người đã qua đời, để chúng ta gần họ hơn, và cùng họ chờ đợi buổi đoàn viên trong niềm vui vĩnh cửu.

Anh chị em thân mến, dù bóng dáng người thân yêu không còn đồng hành cùng chúng ta trên nẻo đường trần thế, nỗi đau chia lìa vẫn hằn sâu nơi con tim. Nhưng giữa những vết thương ấy, chúng ta vẫn tin tưởng vào “niềm hy vọng không làm thất vọng” (Rm 5,5). Chúng ta nhìn lên Đức Kitô Phục Sinh; nghĩ về những người thân yêu như đang được bao phủ trong ánh sáng của Người; chúng ta hãy để cho lời hứa về sự sống đời đời của Chúa thấm vào lòng chúng ta. Chính Người sẽ vĩnh viễn tiêu diệt sự chết. Chính Người đã mở một lối đi vượt qua sự chết – nghĩa là làm nên cuộc Vượt Qua của Người – để khi chúng ta kết hợp với Người, chúng ta cũng có thể bước qua và sống mãi trong sự sống ấy.

Người đang chờ đón chúng ta. Và khi cuộc đời trần thế này chấm dứt, chúng ta sẽ được vui mừng sum họp với Người, cùng với những người thân yêu đã đi trước. Ước gì lời hứa ấy trở thành nguồn nâng đỡ, lau khô giọt lệ của chúng ta, và hướng mắt chúng ta về phía trước, đến với niềm hy vọng vững bền, không bao giờ phai mờ.

(Nguồn: RV)

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/thanh-le-tai-nghia-trang-verano-211-tinh-yeu-chien-thang-su-chet

***

6. “Hiệp nhất trong Đức Kitô, hiệp nhất trong sứ vụ” – Chủ đề Ngày Thế giới Truyền giáo 2026

Vatican đã công bố chủ đề Ngày Thế giới Truyền giáo năm 2026 do Đức Thánh Cha Lêô XIV chọn: “Hiệp nhất trong Đức Kitô, hiệp nhất trong sứ vụ”. Năm 2026 đánh dấu kỷ niệm 100 năm thiết lập Ngày Thế giới Truyền giáo, một sáng kiến được Đức Thánh Cha Piô XI công bố vào năm 1926 theo đề nghị của Hội Giáo hoàng Truyền bá Đức tin.

Vatican News

Chủ đề “Hiệp nhất trong Đức Kitô, hiệp nhất trong sứ mạng” được công bố vào ngày cuối cùng của tháng 10, là tháng theo truyền thống Giáo hội cầu nguyện đặc biệt cho các hoạt động truyền giáo. Ngày Thế giới Truyền giáo hằng năm được ấn định vào Chúa nhật áp chót của tháng Mười. Vào năm 2026, Ngày này sẽ diễn ra vào ngày 18/10.

Trong lời kêu gọi năm nay hỗ trợ cho Ngày Thế giới Truyền giáo, Đức Thánh Cha Lêô XIV nhấn mạnh rằng đó là một dịp đặc biệt để toàn thể Giáo hội cùng cầu nguyện cho các nhà truyền giáo và cho công việc tông đồ của họ được thành quả. Nhắc lại kinh nghiệm cá nhân khi còn là linh mục và sau này là giám mục truyền giáo ở Peru, Đức Thánh Cha cho biết: “Tôi đã tận mắt chứng kiến đức tin, lời cầu nguyện và lòng quảng đại được thể hiện trong Chúa Nhật Khánh nhật Truyền Giáo có thể biến đổi toàn thể cộng đồng như thế nào”.

Phần đầu của chủ đề năm 2026, “Hiệp nhất trong Đức Kitô”, gợi lại châm ngôn giáo hoàng của Đức Thánh Cha Lêô XIV: “In Illo uno unum” – “Trong Đấng duy nhất, chúng ta là một”. Chủ đề này làm nổi bật sự hiệp nhất giữa các tín hữu trong cùng một đức tin, được xây dựng trên sự hiệp nhất của Chúa Con với Chúa Cha, và dẫn đến sứ mạng chung là loan báo Tin Mừng.

Trong những tháng đầu năm 2026, Sứ điệp của Đức Thánh Cha nhân Ngày Thế giới Truyền giáo sẽ được công bố, trở thành định hướng nền tảng cho các sáng kiến nuôi dưỡng tinh thần và trách nhiệm truyền giáo nơi mọi tín hữu trong năm đặc biệt này.

Năm 2026 cũng đánh dấu 110 năm thành lập Liên hiệp Giáo hoàng Truyền giáo, được Thánh Phaolô VI gọi là “linh hồn” của ba Hội Giáo hoàng khác: Hội Truyền bá Đức tin, Hội Thánh Nhi và Hội Thánh Phêrô Tông đồ. Bốn hội truyền giáo này, mỗi hội có sứ mạng riêng, cùng hoạt động để thúc đẩy tinh thần truyền giáo nơi các tín hữu và hỗ trợ các Giáo hội trẻ.

(Nguồn: RV)

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/%E2%80%9Chiep-nhat-trong-duc-kito-hiep-nhat-trong-su-vu%E2%80%9D-%E2%80%93-chu-de-ngay-the-gioi-truyen-giao-2026

***

7.  Đức Thánh Cha tuyên bố Thánh John Henry Newman là bổn mạng Đại học Giáo hoàng Urbaniana

Trong một tự sắc viết tay đề ngày 1/11/2025, Lễ Trọng Các Thánh, cùng ngày Thánh John Henry Newman được tuyên phong là Tiến sĩ Hội Thánh, Đức Thánh Cha Lêô XIV đã tuyên bố Thánh tân tiến sĩ Hội Thánh là Bổn Mạng của Đại học Giáo hoàng Urbaniana.

Vatican News

Văn bản được công bố ngày 3/11/2025, nêu rõ rằng thỉnh cầu của Đức Hồng y Luis Antonio Gokim Tagle, Đại Chưởng ấn của Đại học Giáo hoàng Urbaniana, theo đề nghị của đại diện Giáo hoàng, cũng là Viện trưởng của cùng trường đại học này, đã được xem xét.

Vì vậy, Đức Thánh Cha đã yêu cầu rằng “Thánh John Henry Newman, Tiến sĩ Hội thánh, sinh ngày 21/2/1801 tại London, qua đời ngày 11/8/1890 tại Edgbaston, và được phong thánh ngày 13/10/2019 tại Quảng trường Thánh Phêrô, được tuyên bố là Bổn mạng của Đại học Giáo hoàng Urbaniana, để ngài có thể cầu bầu cho học viện này và trở thành một tấm gương sáng ngời về đức tin và chân thành tìm kiếm chân lý cho những người được đào tạo tại đây cho sứ vụ truyền giáo của Giáo hội”.

Trong Thánh lễ trọng kính Các Thánh hôm 1/11, nhân dịp Ngày Năm Thánh Giới Giáo dục, tại Quảng trường Thánh Phêrô, Đức Thánh Cha đã tuyên bố Thánh Newman là Tiến sĩ Hội Thánh. Trong bài giảng Thánh lễ, ngài nhấn mạnh “tầm vóc văn hóa và tinh thần đáng kính của Thánh Newman”, một nguồn cảm hứng cho các thế hệ tương lai, những người có trái tim “khao khát sự vô hạn” và, thông qua “nghiên cứu và kiến thức”, sẽ có thể thực hiện “cuộc hành trình, như người xưa đã nói, đưa chúng ta per aspera ad astra, tức là vượt qua khó khăn để đến các vì sao”.

Đại học Giáo hoàng Urbaniana là một Đại học của Tòa Thánh, nơi đào tạo các linh mục và chủng sinh của nhiều nước thuộc Bộ Loan báo Tin Mừng. Nhiều thế hệ Giám mục, linh mục và tu sĩ Việt Nam đã và đang được đào tạo tại ngôi trường này.

(Nguồn: RV)

 

Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/chi-tiet/duc-thanh-cha-tuyen-bo-thanh-john-henry-newman-la-bon-mang-dai-hoc-giao-hoang-urbaniana

***

8.  Đức Thánh Cha Lêô XIV cầu nguyện tại mộ Đức Thánh Cha Phanxicô

Tối ngày 3/11/2025, trên đường đến Dinh thự Giáo hoàng ở Castel Gandolfo để nghỉ ngơi hàng tuần như thường lệ, Đức Thánh Cha Lêô XIV đã đến Đền thờ Đức Bà Cả viếng mộ Đức Thánh Cha Phanxicô và cầu nguyện trước ảnh Đức Mẹ là Phần rỗi dân thành Roma.

Vatican News

Đức Thánh Cha đã quỳ xuống và đặt một bó hoa hồng trắng trên ngôi mộ bằng đá cẩm thạch. Đây là một lời tri ân dành cho vị tiền nhiệm của ngài, được chôn cất cạnh Nhà nguyện Phaolô, nơi lưu giữ bức ảnh Salus Populi Romani (Đức Mẹ là Phần rỗi của dân thành Roma) mà Đức cố Giáo Hoàng Phanxicô thường xuyên kính viếng trước và sau mỗi chuyến công du quốc tế hoặc nằm viện.

Đức Thánh Cha Lêô XIV cầu nguyện tại mộ Đức Thánh Cha Phanxicô

Theo thông tin từ Phòng Báo chí Tòa Thánh, Đức Thánh Cha cũng đã dừng lại cầu nguyện trước ảnh Đức Mẹ trước khi rời Đền thờ Đức Bà Cả lúc khoảng 8:15 tối và tiếp tục hành trình đến Castel Gandolfo.

Đức Thánh Cha Lêô XIV cầu nguyện trước ảnh Đức Mẹ

Trước đó, sáng cùng ngày 3/11/2025, Đức Thánh Cha đã cử hành Thánh lễ tại Bàn thờ Ngai Tòa trong Đền thờ Thánh Phêrô để cầu nguyện cho Đức cố Giáo hoàng Phanxicô và các Hồng y, Giám mục đã qua đời trong năm qua.

Đây không phải lần đầu tiên Đức Thánh Cha đến cầu nguyện tại Đền thờ Đức Bà Cả. Ngay từ ngày 10/5/2025, hai ngày sau khi được bầu kế vị Thánh Phêrô, trên đường trở về từ Đền thánh Genazzano, Đức Thánh Cha đã viếng mộ Đức Thánh Cha Phanxicô, được rất nhiều tín hữu và khách hành hương viếng thăm hàng ngày. Chiều hôm đó, vị Giáo hoàng mới đắc cử đã đặt hoa lên bia mộ và dừng lại cầu nguyện một lát. Ngài cũng làm như vậy một lần nữa vào ngày 22/6/2025, sau cuộc rước kiệu trọng thể Mình và Máu Thánh Chúa Kitô từ Đền thờ Thánh Gioan Latêranô đến Đền thờ Đức Bà Cả.

(Nguồn: RV)

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/duc-thanh-cha-leo-xiv-cau-nguyen-tai-mo-duc-thanh-cha-phanxico

***

 

9.  Đức Thánh Cha mời gọi cầu nguyện cho những người đang chiến đấu với ý nghĩ tự tử

Đức Thánh Cha Lêô XIV dành ý chỉ cầu nguyện trong tháng 11/2025 để cầu nguyện cho “những người đang chiến đấu với ý nghĩ tự tử, để họ tìm được sự nâng đỡ, quan tâm và tình yêu thương cần thiết nơi cộng đoàn, và biết mở lòng ra trước vẻ đẹp của sự sống”.

Vatican News

Ngài mở đầu lời cầu nguyện như sau: “Lạy Chúa Giêsu, Chúa mời gọi những ai vất vả và mang gánh nặng nề đến cùng Chúa và nghỉ ngơi trong Thánh Tâm Chúa. Trong tháng này, chúng con xin dâng lên Chúa tất cả những ai đang sống trong bóng tối và tuyệt vọng, đặc biệt là những người đang chiến đấu với ý nghĩ tìm đến cái chết”.

Theo Tổ chức Y tế Thế giới, mỗi năm có khoảng 720.000 người tự kết liễu đời mình – tức gần 2.000 người mỗi ngày. Đáng lo ngại hơn, tự tử là nguyên nhân tử vong đứng thứ ba nơi thanh thiếu niên và người trẻ từ 15 đến 29 tuổi. Tình hình này không chỉ giới hạn ở các nước nghèo, nhưng như tại Hoa Kỳ, tỷ lệ tự tử hiện cao hơn 1/3 so với năm 2000.

Trong Video Ý Cầu nguyện trong tháng 11 – do Mạng lưới Cầu nguyện Toàn cầu của Đức Thánh Cha thực hiện, với sự hợp tác của Giáo phận Phoenix (Hoa Kỳ) – Đức Thánh Cha mời gọi các cộng đoàn giáo xứ, giáo phận và dòng tu lắng nghe và đồng hành với những ai đang sống trong “bóng tối và tuyệt vọng”. Ngài cũng cầu nguyện cho mỗi người có “trái tim biết quan tâm và trắc ẩn, để có thể trao ban niềm an ủi và nâng đỡ, cùng với sự trợ giúp chuyên môn cần thiết”.

Ý thức tầm quan trọng khẩn thiết của mục vụ sức khỏe tâm thần, Giáo hội Công giáo đã dành nhiều nỗ lực trong việc ngăn ngừa tự tử và chữa lành những thương tổn nội tâm. Tại Roma, từ ngày 5 đến 7/11, Hiệp hội Công giáo các Thừa Tác viên Sức khỏe Tâm lý tổ chức hội nghị về đồng hành mục vụ với những người gặp khó khăn tâm lý, dưới sự bảo trợ của Hàn lâm viện Tòa Thánh về Sự sống. Trong sự kiện này, Video Ý Cầu nguyện của Đức Thánh Cha sẽ được trình chiếu và là điểm nhấn trong các giờ cầu nguyện chung.

Giáo phận Phoenix – nơi quay video tháng này – cũng là một mẫu gương mục vụ, với Văn phòng Mục vụ Sức khỏe Tâm thần hoạt động tích cực trong lắng nghe, huấn luyện cộng đồng, hợp tác với các tổ chức y tế, và cử hành Thánh lễ tưởng niệm những người đã qua đời vì tự tử.

Trong khi cầu xin để mọi người nhận ra rằng sự sống là một hồng ân, cuộc sống vẫn còn đó vẻ đẹp và ý nghĩa, dẫu cho giữa những khổ đau và phiền muộnĐức Thánh Cha cũng khẳng định rằng “ngay cả những người đi theo Chúa cũng dễ rơi vào nỗi buồn vô vọng”. Để chữa lành nỗi thất vọng, Đức Thánh Cha cầu xin Chúa cho mỗi người “luôn cảm nghiệm được tình Chúa yêu thương, ngõ hầu qua sự gần gũi của Chúa, chúng con có thể nhận biết và loan báo cho mọi người tình yêu vô biên của Chúa Cha, Đấng nắm tay dắt dìu chúng con để làm mới niềm tin vào sự sống mà Chúa ban tặng”.

(Nguồn: RV)

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/duc-thanh-cha-moi-goi-cau-nguyen-cho-nhung-nguoi-dang-chien-dau-voi-y-nghi-tu-tu

***

 

10.  Đức Thánh Cha: “Quyền thiêng liêng” của người di dân bị giam giữ phải được tôn trọng

Trả lời các nhà báo chờ đợi ngài bên ngoài Dinh thự Giáo hoàng ở Castel Gandolfo vào tối ngày 4/11/2025, khi chuẩn bị trở về Vatican sau ngày nghỉ thường lệ hàng tuần, Đức Thánh Cha Lêô XIV kêu gọi “suy ngẫm sâu sắc” về cách đối xử với người di dân tại Hoa Kỳ và nhấn mạnh rằng “các quyền thiêng liêng” của người di dân bị giam giữ phải được tôn trọng.

Vatican News

Tôn trọng nhu cầu thiêng liêng của người di dân

Các nhà lãnh đạo Công giáo ở Chicago đã tìm cách mang Mình Thánh Chúa đến cho những người di dân bị giam giữ vào ngày 1/11 tại một tòa nhà ở khu vực Chicago, nơi giam giữ những người bị giam giữ trong chiến dịch truy xét người nhập cư của chính quyền Trump. Đức Giám mục Phụ tá Jose María García-Maldonado và các linh mục đã không được cho phép vào cơ sở mặc dù đã yêu cầu trước đó nhiều tuần và cố gắng tuân thủ các hướng dẫn của Bộ An ninh Nội địa Hoa Kỳ.

Trả lời câu hỏi của một nhà báo liên quan đến sự việc trên, trước hết Đức Thánh Cha nhắc lại rằng “vai trò của Giáo hội là rao giảng Phúc Âm”, và nhắc lại lời tường thuật của Thánh sử Mátthêu về Ngày Phán Xét Chung (chương 25): “Chúa Giêsu nói rất rõ ràng: Vào ngày tận thế, chúng ta sẽ được hỏi, các ngươi đã tiếp đón người ngoại kiều như thế nào? Các ngươi đã tiếp đón họ, và chào đón họ hay không?”. Ngài nhấn mạnh: “Tôi nghĩ rằng cần phải suy ngẫm sâu sắc về những gì đang xảy ra.”

Ngài nói thêm: “Nhiều người di dân sống nhiều năm mà không hề gây ra vấn đề gì đã bị ảnh hưởng sâu sắc bởi những gì đang xảy ra ngay lúc này”. Do đó, ngài mời gọi xem xét các quyền thiêng liêng của những người bị giam giữ: “Tôi chắc chắn sẽ mời gọi các nhà chức trách cho phép các nhân viên mục vụ chăm sóc nhu cầu của những người này. Nhiều lần họ đã bị xa cách gia đình trong một thời gian dài; không ai biết chuyện gì đang xảy ra... nhưng nhu cầu thiêng liêng của họ cần phải được tôn trọng”.

Căng thẳng giữa Mỹ và Venezuela

Nói với các nhà báo, bằng cả tiếng Ý và tiếng Anh, Đức Thánh Cha cũng bày tỏ lo ngại về căng thẳng gia tăng giữa Mỹ và Venezuela.

Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ đã được triển khai gần vùng biển Venezuela để thực hiện những gì Hoa Kỳ mô tả là một hoạt động chống ma túy, nhưng Tổng thống Venezuela Nicholas Maduro gọi đó là cái cớ để “áp đặt sự thay đổi chế độ” nhằm chiếm đoạt dầu mỏ của Venezuela.

Đức Thánh Cha nói: “Tôi tin rằng bạo lực không bao giờ mang lại chiến thắng”, đồng thời lưu ý rằng ngài vừa đọc được báo cáo về việc các tàu chiến tiến gần hơn đến bờ biển Venezuela. “Điều quan trọng là tìm kiếm đối thoại, tìm ra những cách thức công bằng để giải quyết các vấn đề có thể tồn tại giữa các quốc gia”.

Tình hình Trung Đông

Sau đó, Đức Thánh Cha đã trả lời một câu hỏi về tình hình Trung Đông, nơi thỏa thuận ngừng bắn đang bị đe dọa bởi các cuộc không kích mới của Israel và các cuộc tấn công của người định cư vào các ngôi làng ở Bờ Tây. Ngài nói: “Ít nhất thì giai đoạn đầu tiên của thỏa thuận hòa bình vẫn đang được duy trì”, ám chỉ đến thỏa thuận giữa Israel và Hamas ngày 10/10/2025, trước khi thừa nhận rằng thỏa thuận ngừng bắn “rất mong manh”. Ngài nhấn mạnh sự cần thiết phải chuyển sang “giai đoạn thứ hai, giải quyết vấn đề quản trị và đảm bảo quyền của tất cả mọi người”.

Vấn đề các khu định cư của Israel ở Bờ Tây, vốn là bất hợp pháp theo luật pháp quốc tế, “thực sự phức tạp”, Đức Thánh Cha nói: “Israel nói một đằng, nhưng đôi khi lại làm một nẻo”. Điều cần thiết, ngài nhấn mạnh, là “cùng nhau hành động vì công lý cho tất cả mọi người”.

Quyền của người lao động

Đức Thánh Cha cũng đề cập đến vấn đề quyền của người lao động trước thềm Ngày Năm Thánh của Giới Lao động sắp tới, và trước nhiều trường hợp tử vong do tai nạn lao động ở Ý và nhiều nơi khác, trong đó có trường hợp một công nhân 66 tuổi đã thiệt mạng trong vụ sập tháp Torre dei Conti ở Roma. Ngài nói: “Tiếng nói của Giáo hội là vì các quyền lợi. Chúng tôi thực sự tin rằng tất cả chúng ta phải cùng nhau làm việc. Có một công việc xứng đáng là một quyền con người, nơi người ta cũng có thể kiếm tiền vì lợi ích của gia đình mình”. Ngài nhắc lại mối quan tâm của ngài về sự an toàn và tuyên bố rằng việc cử hành Năm Thánh cũng nhằm mục đích “mang lại một chút hy vọng và cố gắng hợp tác để tìm ra giải pháp chứ không chỉ đơn thuần là bình luận về các vấn đề”.

(Nguồn: RV)

 

Link nội dung đầy đủ: https://giaophanmytho.net/chi-tiet/duc-thanh-cha-%E2%80%9Cquyen-thieng-lieng%E2%80%9D-cua-nguoi-di-dan-bi-giam-giu-phai-duoc-ton-trong

***

 

11. Đức Thánh Cha tiếp Tổng thống Palestine Mahmoud Abbas

Ngày 6/11/2025, tại Dinh Tông Tòa ở Vatican, Đức Thánh Cha Lêô XIV và Tổng thống Nhà nước Palestine đã gặp nhau lần đầu tiên, trong khuôn khổ chuyến công du đã được lên kế hoạch từ lâu của nhà lãnh đạo Palestine tới Ý.

Vatican News

Trong cuộc gặp riêng, hai vị đã tái khẳng định nhu cầu cấp thiết phải cứu trợ cho người dân Gaza, nơi vẫn đang phải hứng chịu các cuộc tấn công của Israel bất chấp lệnh ngừng bắn ngày 10/10/2025, việc chấm dứt xung đột ở Dải Gaza, và cam kết về giải pháp hai nhà nước. Sau đó, hai vị đã nhắc lại kỷ niệm 10 năm Hiệp định Toàn diện giữa Tòa Thánh và Nhà nước Palestine, được ký kết vào tháng 6/2015.

Đức Thánh Cha tiếp Tổng thống Palestine Mahmoud Abbas   (@Vatican Media)

Chuyến đi đến Roma của Tổng thống Abbas đã được lên kế hoạch từ lâu. Sau cuộc gặp gỡ với Đức Thánh Cha, ông dự kiến ​​sẽ gặp Tổng thống Cộng hòa Ý, Sergio Mattarella, và Thủ tướng Giorgia Meloni.

Chuyến thăm này mang một ý nghĩa mới sau khi dự thảo nghị quyết của Hoa Kỳ về kế hoạch hòa bình Gaza được trình lên mười thành viên Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc hôm qua. Đại diện của Ai Cập, Qatar, Ả Rập Xê Út, Thổ Nhĩ Kỳ và Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất được cho là đã ủng hộ nghị quyết này.

Đức Thánh Cha tiếp Tổng thống Palestine Mahmoud Abbas   (@Vatican Media)

Cuộc gặp hôm nay với Đức Thánh Cha Lêô XIV là cuộc gặp cá nhân đầu tiên. Hai bên đã có cuộc điện đàm vào ngày 21/7/2025 về các diễn biến tại Gaza và các vấn đề ở Bờ Tây và kỷ niệm 10 năm Hiệp định Toàn diện giữa Tòa Thánh và Nhà nước Palestine, được ký kết vào ngày 26/6/2015.

Một tuyên bố từ Tòa Thánh nêu rõ: "Trong cuộc trò chuyện thân mật, nhu cầu cấp thiết phải hỗ trợ người dân thường ở Gaza và chấm dứt xung đột, hướng tới triển vọng giải pháp hai nhà nước đã được ghi nhận".

(Nguồn: RV)

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/duc-thanh-cha-tiep-tong-thong-palestine-mahmoud-abbas

***

 

12.  Đức Thánh Cha Lêô XIV: Ơn gọi linh mục đòi hỏi sự hiến dâng tự do và trái tim thuần khiết

Trong bức thư gửi tới các chủng sinh nhân dịp kỷ niệm 400 năm thành lập Đại Chủng viện San Carlos và San Marcelo tại Trujillo, Peru, ngày 4/11 vừa qua, Đức Thánh Cha Lêô XIV nhấn mạnh rằng: ơn gọi linh mục là một hồng ân đòi hỏi sự hiến dâng toàn diện xuất phát từ lòng tự do và một trái tim thuần khiết.

Vatican News

Đức Thánh Cha Lêô XIV, người từng giữ chức Giám đốc và giảng dạy tại chủng viện này từ năm 1988 đến 1998, cảnh báo việc coi chức linh mục như một “đích đến bên ngoài” hay “con đường thoát khỏi các vấn đề cá nhân”. Ngài khẳng định: chỉ trong tự do, người ta mới có thể hiến dâng chính mình hoàn toàn, bởi “người ta chỉ thực sự tự do khi không còn làm nô lệ” cho lợi ích hay sợ hãi. Điều thực sự quan trọng là trở thành một linh mục đích thực, đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô, chứ không chỉ là việc được thụ phong.

Để xây dựng nền tảng vững chắc cho thừa tác vụ, Đức Thánh Cha nhấn mạnh tầm quan trọng của “sự phân định và minh bạch” trong đời sống chủng sinh. Giáo hội cần những người tìm kiếm Chúa Kitô không sống “hai lòng”, thông qua việc xưng tội thường xuyên và vâng phục, giúp chủng sinh trưởng thành và “thoát khỏi tham vọng và tính toán của con người”.

Hai trụ cột không thể thiếu để hình thành trái tim thuần khiết là cầu nguyện và học tập nghiêm túc. Đức Thánh Cha gọi thời gian dành cho cầu nguyện là “khoản đầu tư sinh lợi nhất trong cuộc đời”, vì tại đó Chúa sẽ uốn nắn cảm xúc và củng cố ơn gọi. “Ai ít nói chuyện với Chúa thì không thể nói về Chúa!” Tương tự, không có học tập nghiêm túc thì không có mục vụ đích thực, bởi “một giáo lý không có cầu nguyện sẽ trở nên vô bổ và lạnh lẽo”.

Đức Thánh Cha cũng cảnh báo về những “nguy hiểm rất cụ thể” mà các linh mục tương lai phải đối mặt: sự thế tục hóa, chủ nghĩa hoạt động gây kiệt sức, sự phân tán kỹ thuật số làm đánh cắp đời sống nội tâm, và đặc biệt là sự cô đơn của người cố gắng sống mà không có linh mục đoàn và giám mục của mình. Ngài khẳng định “Giáo hội cần những mục tử thánh thiện cùng nhau hiến dâng, chứ không phải những công chức cô độc”, chỉ như vậy họ mới có thể trở thành chứng nhân đáng tin cậy.

Bức thư kết thúc bằng lời động viên mạnh mẽ, nhắc nhở các chủng sinh tận dụng kho tàng thời gian ở chủng viện vì họ “không bao giờ đơn độc trên hành trình này”.

(Nguồn: RV)

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/duc-thanh-cha-leo-xiv-on-goi-linh-muc-doi-hoi-su-hien-dang-tu-do-va-trai-tim-thuan-khiet

***

 

13.  Đức Thánh Cha: Chỉ có Chúa có thể giúp chúng ta loan báo Đức Kitô cách thuyết phục nhất

Ngày 6/11/2025, ngỏ lời với các thành viên của Ủy ban Liên hợp Hội đồng các Hội đồng Giám mục Châu Âu (CCEE), Hội đồng các Giáo hội Thế giới (WCC), và đại diện của các Giáo hội Kitô giáo Châu Âu, Đức Thánh Cha Lêô XIV nhắc rằng giữa bối cảnh xã hội thay đổi, "ân sủng, lòng thương xót và bình an của Chúa thực sự rất quan trọng" để giúp chúng ta rao giảng Tin Mừng.

Hồng Thủy - Vatican News

Đức Thánh Cha chào phái đoàn các thành viên của các Hội đồng Giáo hội tham gia ký kết bản cập nhật của Charta Oecumenica (Hiến chương Đại kết) tại Đan viện Tre Fontane, gần nơi Thánh Phaolô chịu tử đạo, bằng lời chào của Thánh Phaolô gửi Timôthê: “Xin Thiên Chúa Cha và Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ban cho anh em ân sủng, lòng thương xót và bình an” (1 Tm 1,2).

Ngài nhắc rằng đã 25 năm trôi qua kể từ khi Hiến chương Đại kết được ký lần đầu. Bối cảnh châu Âu nay đã thay đổi, đòi hỏi các Giáo hội cần xem xét lại sứ mạng chung trong việc loan báo Tin Mừng. Dù có những dấu hiệu tăng trưởng tích cực, nhiều cộng đoàn Kitô hữu đang dần trở thành thiểu số và đối diện với những thay đổi mạnh mẽ về văn hóa, nhân khẩu và bối cảnh xã hội.

Lắng nghe những “tiếng nói mới” 

Đức Thánh Cha kêu gọi lắng nghe những “tiếng nói mới” và đón nhận các câu chuyện của những thế hệ, dân tộc và truyền thống khác nhau, đồng thời cổ võ đối thoại, hiệp nhất và tình huynh đệ trong bối cảnh chiến tranh và bạo lực còn vang lên trên lục địa. Ngài nhấn mạnh: "Trong mọi tình huống này, ân sủng, lòng thương xót và sự bình an của Chúa thực sự rất quan trọng, vì chỉ có sự giúp đỡ của Chúa mới chỉ cho chúng ta cách thuyết phục nhất để rao giảng về Chúa Kitô trong những bối cảnh thay đổi này".

Hiến chương Đại kết là một chứng tá về thiện chí của các Giáo hội ở Châu Âu

Ngài nhận định rằng bản Hiến chương Đại kết là một chứng tá về thiện chí của các Giáo hội ở Châu Âu trong việc nhìn lại lịch sử bằng ánh sáng của Đức Kitô" và "nhờ Chúa Thánh Thần, chúng ta sẽ có thể hiểu được mình đã thành công ở đâu, còn thiếu sót ở đâu, và phải đi đâu để loan báo Tin Mừng một lần nữa. Hiến Chương không chỉ gợi ý những phương pháp mà còn nhấn mạnh đến những người bạn đồng hành trên hành trình và những con đường khả thi để tiến về phía trước". Ngài mời gọi mở lòng đón nhận những thúc đẩy và bất ngờ của Chúa Thánh Thần!

“Hành trình hiệp hành mang tính đại kết, và hành trình đại kết mang tính hiệp hành"

Đức Thánh Cha cũng nhắc lại lời Đức Thánh Cha Phanxicô: trong Giáo hội Công giáo, “hành trình hiệp hành mang tính đại kết, và hành trình đại kết mang tính hiệp hành”. Ngài đánh giá cao việc các Giáo hội châu Âu đã cùng nhau xác định những thách đố chung và đề ra ưu tiên cho tương lai, cho thấy một nỗ lực “bước đi cùng nhau”.

Kết thúc, Đức Thánh Cha chia sẻ rằng khi đến Nixêa trong Năm Thánh 2025 để cầu nguyện với các lãnh đạo Kitô giáo, ngài muốn tuyên xưng một lần nữa rằng: “Đức Giêsu Kitô là Niềm Hy Vọng của chúng ta”.

(Nguồn: RV)

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/duc-thanh-cha-chi-co-chua-co-the-giup-chung-ta-loan-bao-duc-kito-cach-thuyet-phuc-nhat

***

 

14.  Đức Thánh Cha mời gọi các nữ tu “Hãy can đảm dấn thân trên những nẻo đường mới của lòng bác ái”

Tiếp các nữ tu đang tham dự Tổng Tu nghị của hai hội dòng nữ: Dòng Nữ tu Đức Giêsu-Maria và Dòng Nữ tu Thừa sai Thánh Carlo Borromeo (Scalabriniane) vào ngày 6/11/2025, Đức Thánh Cha Lêô XIV mời gọi họ dành nhiều thời gian cầu nguyện để lắng nghe Chúa và nghe nhau, để có thể nhận ra Thiên Chúa nơi anh chị em gặp khó khăn và can đảm dấn thân vào những con đường bác ái mới.

Hồng Thủy - Vatican News

Đức Thánh Cha nhận định rằng hai hội dòng tuy được thành lập trong những hoàn cảnh khác nhau, nhưng đều được sinh ra từ cùng một tình yêu dành cho người nghèo khổ: một dòng, qua thánh Claudine Thévenet, chăm sóc các thiếu nữ gặp khó khăn trong thời Cách mạng Pháp, và một dòng, qua thánh Gioan Baotixita Scalabrini, chân phước Assunta Marchetti và tôi tớ Chúa Giuseppe Marchetti, phục vụ người di dân nghèo.

Tình yêu chủ động của Thiên Chúa và sự đáp trả quảng đại của con người

Hai chủ đề được chọn cho các Tổng Tu nghị – “Chính Đức Giêsu tiến đến gần” (Lc 24,15) và “Mẹ đi đâu, con cũng đi theo” (Rt 1,16) – được Đức Thánh Cha nhận định là bổ túc cho nhau: diễn tả tình yêu chủ động của Thiên Chúa và sự đáp trả quảng đại của con người. Đó là mẫu gương gặp gỡ của Đức Giêsu với môn đệ trên đường Emmau, và lòng trung tín của cô Rút với mẹ chồng Noemi.

Cuộc gặp gỡ với Chúa Phục Sinh là bí quyết của lòng trung thành

Nhắc lại khởi đầu khó khăn của các dòng, Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng cuộc gặp gỡ với Chúa Phục Sinh là bí quyết của lòng trung thành, là khởi đầu cho mọi sự, và cũng là nơi để mỗi người can đảm khởi hành lại, nhất là trong bối cảnh của Tổng Tu nghị. Ngài mời gọi các nữ tu dành chỗ ưu tiên cho cầu nguyện và thinh lặng, vì chính “trong tư thế quỳ gối” mà những soi sáng lớn lao được đón nhận.

Đòi hỏi lòng can đảm dấn thân trên những con đường mới

Ngài cũng nhắc rằng việc chăm sóc người đau khổ đòi hỏi lòng can đảm dấn thân trên những con đường mới, sẵn sàng buông bỏ an toàn để tìm kiếm “dung mạo Thiên Chúa nơi anh chị em bé nhỏ”.

Cuối buổi gặp, Đức Thánh Cha biểu lộ lòng biết ơn đối với những hoạt động của các nữ tu trên thế giới, hứa cầu nguyện và chân thành chúc lành cho họ.

(Nguồn: RV)

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/duc-thanh-cha-moi-goi-cac-nu-tu-%E2%80%9Chay-can-dam-dan-than-tren-nhung-neo-duong-moi-cua-long-bac-ai%E2%80%9D

***

 

15.  Đức Thánh Cha Lêô XIV mời gọi xây dựng "Chủ nghĩa Nhân văn mới trong kỷ nguyên kỹ thuật số”

Ngày 7/11, gặp gỡ các thành viên Hội đồng Cố vấn của RCS Academy – Học viện cấp cao chuyên về các lĩnh vực báo chí, kinh tế, truyền thông và doanh nghiệp, Đức Thánh Cha Lêô XIV nhấn mạnh rằng việc đào tạo thế hệ mới về truyền thông, kinh tế và công nghệ phải luôn đặt phẩm giá con người ở trung tâm.

Vatican News

Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng trọng tâm của cuộc thảo luận này phải là mối quan hệ giữa đạo đức và trí tuệ nhân tạo. Ngài bày tỏ lo ngại sâu sắc về nguy cơ truyền thông bị biến thành "một hệ thống thuật toán sao chép vô hạn định, mà không có bất kỳ lương tâm hay nhận thức nào, biến suy luận của chúng ta thành dữ liệu đơn thuần". Ngài khẳng định mục đích tối thượng là để truyền thông phải phục vụ con người.

Đối với các nhà lãnh đạo trong lĩnh vực báo chí, truyền thông và kinh tế, Đức Thánh Cha giao phó một "nhiệm vụ kép": cung cấp thông tin một cách có trách nhiệm và đồng thời, trang bị cho công chúng khả năng đánh giá mọi thứ một cách phê phán, để phân biệt sự thật với ý kiến, tin tức thật với tin tức giả.

Ngài cảnh báo rằng sự quá tải thông tin và sự thiếu vắng khôn ngoan có thể làm phát sinh các hình thức thao túng và phi nhân hóa mới, nơi mà "sự bóc lột được ngụy trang thành sự chăm sóc và sự dối trá thành sự thật". Ngài kêu gọi các doanh nghiệp lớn phải minh bạch hóa các logic đằng sau thông điệp của họ để đảm bảo tính trách nhiệm trong diễn ngôn công chúng.

Phá bỏ quan niệm cũ "Kinh doanh là kinh doanh!", Đức Thánh Cha mời gọi các nhà lãnh đạo doanh nghiệp đặt ra những câu hỏi nền tảng: "Chúng ta đang đi đâu? Chúng ta đang làm việc vì ai và vì điều gì?" Ngài nhấn mạnh rằng “kinh tế truyền thông không thể và không được tách rời số phận của mình khỏi số phận của sự thật", và rằng “không có chủ nghĩa nhân văn thực sự nếu thiếu đi ý thức phê phán và sự tự vấn liên tục”.

Ngài cũng chỉ ra các yếu tố quan trọng để mở ra quyền công dân thực sự cho mọi người là minh bạch về nguồn gốc và quyền sở hữu, trách nhiệm giải trình, chất lượng, rõ ràng và khách quan.

Kết thúc bài chia sẻ, Đức Thánh Cha Lêô trích dẫn lời Đức cố Giáo hoàng Phanxicô: "Chúng ta phải giải trừ vũ khí ngôn từ, để giải trừ vũ khí tâm trí và giải trừ vũ khí trên Trái đất". Ngài kêu gọi các doanh nhân và nhà truyền thông cần có lòng can đảm và tầm nhìn xa, vượt qua những lợi ích tức thời để chăm sóc lợi ích chung cho tương lai nền truyền thông của nhân loại.

(Nguồn: RV)

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/duc-thanh-cha-leo-xiv-moi-goi-xay-dung-%22chu-nghia-nhan-van-moi-trong-ky-nguyen-ky-thuat-so%E2%80%9D

***

 

16.  ĐTC Lêô XIV mời gọi thăng tiến nền giáo dục ở châu Phi

Tiếp các thành viên của "Fondation Internationale Religions et Sociétés" vào sáng 7/11/2025, Đức Thánh Cha Lêô XIV đề cao sự dấn thân của họ trong việc thăng tiến giáo dục Công giáo tại châu Phi, đồng thời mời gọi họ dấn thân trong việc hợp tác rao giảng Tin Mừng giữa hai miền Bắc và Nam.

Vatican News

Mở đầu buổi gặp gỡ, Đức Thánh Cha chào thăm các tham dự viên và bày tỏ niềm vui được đón tiếp phái đoàn ngay sau Ngày Năm Thánh Giới Giáo dục. Ngài đánh giá cao tinh thần dấn thân của tổ chức, nhất là qua chuyến hành hương tại Roma và việc chuẩn bị cho Đại hội lần thứ hai sẽ diễn ra tại Nairobi trong hai tuần tới với chủ đề “Giáo dục Công giáo và việc cổ võ các dấu chỉ hy vọng trong bối cảnh châu Phi”.

Đức Thánh Cha nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đào tạo giới trẻ châu Phi theo tinh thần của Hiệp ước Giáo dục châu Phi, nghĩa là một nền giáo dục vừa có chất lượng, vừa bén rễ trong căn tính văn hóa của lục địa này. Ngài bày tỏ quan ngại trước “sự mong manh nội tâm đang lan rộng ở mọi lứa tuổi”, và kêu gọi không được làm ngơ trước “những lời kêu cứu thinh lặng” của người trẻ.

Không chỉ dừng lại ở lãnh vực giáo dục, Đức Thánh Cha còn khích lệ sáng kiến tăng cường hợp tác truyền giáo giữa Bắc và Nam, theo tinh thần Tin Mừng: Chúa Giêsu đã sai các môn đệ “đi từng hai người một” (Lc 10,1), nhắc rằng sứ vụ loan báo Tin Mừng luôn đòi hỏi sự cộng tác, hiệp lực và tránh cô lập. Đức Thánh Cha đánh giá cao quyết định của tổ chức trong việc thành lập một Trung tâm Quốc tế về Truyền giáo và Mục vụ Bắc-Nam, nhằm đào tạo, tháp tùng và tổ chức việc trao đổi nhân sự mục vụ giữa các Giáo hội.

Ngài khuyến khích tiến hành dự án cách chuyên nghiệp để giúp các linh mục, tu sĩ và giáo dân truyền giáo hội nhập tốt vào các giáo phận được sai đến, góp phần xây dựng một tình hiệp thông truyền giáo bền vững, không chỉ dựa trên hỗ trợ vật chất mà còn trên “sự dấn thân huynh đệ của các tác nhân mục vụ”.

Kết thúc buổi tiếp kiến, Đức Thánh Cha mời gọi mọi người cùng cầu xin “ơn trở nên những môn đệ và mục tử truyền giáo theo thánh ý Chúa”, xin Chúa Thánh Thần soi sáng các dự án và củng cố những ai đang phục vụ Tin Mừng. Người cảm ơn phái đoàn vì đã “nhắc lại cho thế giới vẻ đẹp của công cuộc loan báo Tin Mừng”.

(Nguồn: RV)

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/dtc-leo-xiv-moi-goi-thang-tien-nen-giao-duc-o-chau-phi

***

 

17.  Đức Thánh Cha Lêô XIV kêu gọi trợ giúp và giáo dục giới trẻ thoát khỏi tình trạng ‘nghiện ngập’

Trong một sứ điệp video gửi đến Hội nghị Quốc gia về các chứng nghiện do chính phủ Ý tổ chức tại Roma ngày 7/11 vừa qua, Đức Thánh Cha Lêô XIV đã lên tiếng cảnh báo về tình trạng nghiện ngập đang gia tăng ở giới trẻ, nhấn mạnh rằng đây là triệu chứng rõ ràng của sự bất ổn tinh thần cá nhân và sự suy đồi của các giá trị xã hội.

Vatican News

Đức Thánh Cha bày tỏ mối quan ngại sâu sắc khi chứng kiến thanh thiếu niên và giới trẻ có xu hướng “khép mình lại” trước những bất trắc của tương lai, đối diện với một “thế giới thiếu vắng hy vọng” nơi các đề xuất nhân văn và tâm linh mạnh mẽ đang bị thiếu hụt.

Ngài nhận định rằng giới trẻ đang sống trong “một thời điểm của thử thách và những vấn nạn”, bị cuốn vào hàng ngàn kích thích mà không thể phân biệt được thiện ác. Điều này khiến ranh giới đạo đức ngày càng trở nên mong manh.

Không chỉ đề cập đến các chứng nghiện truyền thống như ma túy và rượu, Đức Thánh Cha còn nhấn mạnh các chứng nghiện mới do việc lạm dụng công nghệ kỹ thuật số, bao gồm nghiện internet, trò chơi điện tử, cờ bạc, cá cược và nội dung khiêu dâm. Ngài cảnh báo: "Đối tượng gây nghiện trở thành một nỗi ám ảnh, điều kiện hóa hành vi và sự hiện hữu hàng ngày”. Việc gia tăng thị trường ma túy, cùng với việc tìm kiếm lợi nhuận dễ dàng thông qua máy đánh bạc, là minh chứng cho thấy sự thiếu vắng nghiêm trọng các định hướng tích cực trong xã hội.

Đức Thánh Cha kêu gọi một hành động “phối hợp” từ toàn bộ cộng đồng, bao gồm Nhà nước, các hiệp hội tình nguyện, Giáo hội, nhà trường và gia đình để can thiệp kịp thời vào công tác phòng ngừa cho người trẻ.

Theo ngài, mục tiêu là phải nắm bắt được tiếng kêu cứu của người trẻ, nhưng đồng thời cả “khát vọng sống sâu sắc” của họ, để mang lại một sự hiện diện quan tâm giúp họ “rèn luyện ý chí của mình”.

Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng việc “tăng cường lòng tự trọng của các thế hệ mới” là cần thiết để chống lại cảm giác bất an và bất ổn cảm xúc. Con đường phòng ngừa hiệu quả nằm ở việc cung cấp các cơ hội sống tích cực: việc làm, giáo dục, thể thao, lối sống lành mạnh, và đặc biệt là chiều kích tâm linh của sự sống. Thanh thiếu niên cần được giúp đỡ để “hình thành lương tâm, phát triển đời sống nội tâm” và thiết lập đối thoại xây dựng với người lớn.

Kết thúc sứ điệp, Đức Thánh Cha kêu gọi tất cả các bên liên quan thúc đẩy “một văn hóa liên đới và bổ trợ”, tập trung vào việc lắng nghe và gặp gỡ tha nhân, nhất là khi họ đang ở trong tình trạng mong manh và dễ bị tổn thương nhất.

(Nguồn: RV)

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/duc-thanh-cha-leo-xiv-keu-goi-tro-giup-va-giao-duc-gioi-tre-thoat-khoi-tinh-trang-%E2%80%98nghien-ngap%E2%80%99

***

 

18.  ĐTC Lêô XIV: Trí tuệ nhân tạo phải phản chiếu kế hoạch của Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa

Trong sứ điệp gửi đến các tham dự viên Diễn đàn "Builders AI 2025", diễn ra tại Đại học Giáo hoàng Gregoriana ở Roma, Đức Thánh Cha Lêô XIV kêu gọi các nhà khoa học, doanh nhân và những người hoạt động mục vụ liên quan đến trí tuệ nhân tạo (AI) bảo đảm rằng công nghệ mới luôn phục vụ phẩm giá con người, công lý và thiện ích chung.

Vatican News

Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng sự phát triển của công nghệ đạo đức không chỉ là một trách nhiệm xã hội, mà còn là một sứ mạng mang chiều kích Giáo hội, phản chiếu thiết kế của Thiên Chúa: “thông minh, có tương quan và được hướng dẫn bởi tình yêu”.

Ngài khẳng định vấn đề không chỉ là Trí tuệ nhân tạo có thể làm gì, nhưng là con người đang trở thành ai qua những công nghệ mình tạo ra. Trí tuệ nhân tạo, cũng như mọi phát minh nhân loại, xuất phát từ khả năng sáng tạo mà Thiên Chúa ký thác nơi con người, nên đổi mới công nghệ có thể được hiểu như một hình thức tham dự vào hoạt động sáng tạo của Thiên Chúa. Tuy nhiên, khả năng sáng tạo ấy luôn mang giá trị luân lý và thiêng liêng, vì mỗi lựa chọn thiết kế đều hàm chứa một quan niệm về con người.

Vì thế, Đức Thánh Cha mời gọi những người đang làm việc trong lãnh vực Trí tuệ nhân tạo nuôi dưỡng khả năng phân định luân lý, để xây dựng các hệ thống phản chiếu công lý, liên đới và tôn trọng sự sống. Ngài nhắc rằng tiến trình này không thể giới hạn trong phòng thí nghiệm hay các quỹ đầu tư, nhưng phải trở thành một nỗ lực mang tính Giáo hội, diễn tả cuộc đối thoại giữa đức tin và lý trí trong thời đại kỹ thuật số.

Đức Thánh Cha khuyến khích đặt công nghệ vào phục vụ công cuộc loan báo Tin Mừng và sự phát triển toàn diện của mỗi người, cho dù trong giáo dục, y tế hay truyền thông kỹ thuật số. Ngài khẳng định trí tuệ, dù là nhân tạo hay của con người, chỉ đạt tới ý nghĩa trọn vẹn khi gắn liền với tình yêu, tự do và tương quan với Thiên Chúa.

(Nguồn: RV)

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/dtc-leo-xiv-tri-tue-nhan-tao-phai-phan-chieu-ke-hoach-cua-thien-chua-dang-tao-hoa

***

 

19.  Làm mới lại Cảm thức về Ơn gọi Nên Thánh trong thế giới hôm nay

Lời mời gọi của Thiên Chúa: “Hãy nên thánh, vì Ta là Đấng Thánh” (Lv 19:2), là hạt nhân của Kitô giáo, là sứ mạng nguyên thủy và nền tảng của mọi người đã chịu phép Rửa. Tuy nhiên, qua nhiều thế kỷ, cảm thức về sự thánh thiện thường bị thu hẹp, bị xem là một mục tiêu xa vời, gắn liền với thiểu số được tuyển chọn hoặc những người tách biệt khỏi đời sống xã hội.

Vatican News

Ngày nay, Giáo hội đang lữ hành trong bối cảnh Năm Thánh 2025 với chủ đề “Những người hành hương của Hy vọng”, đòi hỏi một sự làm mới lại cảm thức nên thánh đích thực. Sự thánh thiện không phải là một lối thoát khỏi thế giới, mà là con đường duy nhất dẫn đến Hy Vọng đích thực ngay giữa những biến động, sự ồn ào và cám dỗ của thế giới hôm nay.

Việc làm mới này chính là tái khám phá ơn gọi phổ quát đã được Công Đồng Chung Vatican II long trọng tái khẳng định. Để thực hiện sự canh tân này, trước hết, chúng ta phải trở về với nền tảng thần học cốt lõi, bắt đầu từ nguồn mạch thánh thiện duy nhất là chính Thiên Chúa.

Thiên Chúa là Đấng Thánh Thiện Duy nhất

Việc canh tân cảm thức nên thánh phải bắt nguồn từ một sự hiểu biết sâu sắc và đúng đắn về Thiên Chúa. Sự thánh thiện là ý niệm cốt lõi trong thần học, bắt nguồn từ chính Thiên Chúa. Về bản chất, Thiên Chúa là Đấng Thánh Thiện duy nhất, và mọi sự thánh thiện khác đều xuất phát và phụ thuộc vào Người.

Trong tiếng Do Thái cổ, từ qadash mang ý nghĩa là “được tách riêng ra” và “dành riêng, thánh hiến”. Khi áp dụng cho Thiên Chúa, qadash không chỉ là một thuộc tính, mà là bản chất của chính Người, thể hiện sự siêu việt hoàn toàn so với mọi tạo vật.

Sự siêu việt này biểu hiện ở hai khía cạnh: xét về hữu thể, Thiên Chúa không bị giới hạn bởi không gian, thời gian hay vật chất, là Đấng hoàn toàn khác biệt; xét về mặt đạo đức, Người tách biệt với mọi bất toàn và mọi điều ác, là Sự Thanh Khiết và Tốt Lành tuyệt đối. Nói tóm lại, Thiên Chúa là thánh bởi vì Người khác biệt trong sự vĩ đại, vinh quang và thanh khiết so với tất cả những gì không phải là Người.

Vì Thiên Chúa là Đấng qadash duy nhất, mọi sự thánh thiện khác đều bắt nguồn từ Người. Một vật, một người, hay một ngày trở nên “thánh” không phải do bản chất tự thân mà là vì chúng đã được “tách riêng ra” và “dành riêng” cho việc phục vụ hoặc thuộc về Thiên Chúa. Sự thánh thiện do đó không phải là một đức tính mà con người có thể tự mình tạo ra hay sở hữu, mà là một quà tặng và là một mối liên hệ mật thiết với Người.

Sự thánh thiện của Kitô hữu: Sống trong Đức Kitô

Sự canh tân cảm thức nên thánh chủ yếu nằm ở việc tái định nghĩa nơi chốn và cách thức nên thánh của người Kitô hữu. Trong quá khứ, nhiều Kitô hữu vẫn còn mang nặng quan niệm sai lầm, hình dung sự thánh thiện là một cuộc đời khổ hạnh, tách biệt khỏi xã hội, gắn liền với những phép lạ cả thể hay những công việc phi thường.

Nhưng Đức Giáo hoàng Phanxicô, trong Tông huấn Vui mừng và Hân hoan (Gaudete et Exsultate) về ơn gọi nên thánh trong thế giới ngày nay, đã đưa ra hình ảnh mới mẻ, làm mới cảm thức nên thánh khi gọi đó là những “thánh nhân bên cạnh nhà mình”, hay các vị thánh “ở kề bên” - những người sống thánh thiện giữa những điều bình thường. Sự thánh thiện không phải là đặc ân dành riêng cho các linh mục hay tu sĩ mà là trách nhiệm của tất cả mọi người đã chịu phép Rửa.

Thánh nhân không phải là người không bao giờ phạm lỗi, mà là người biết đứng dậy sau mỗi lần vấp ngã, vì sự thánh thiện không xóa bỏ yếu đuối con người, nhưng biến đổi nó nhờ Lòng Thương Xót của Chúa. Cốt lõi của sự thánh thiện Kitô hữu là lời mời gọi được tham dự vào sự sống của Thiên Chúa, khi mọi người và mọi vật được kết hợp với Người.

Sự thánh thiện này được ban cho Kitô hữu qua Bí Tích Rửa Tội, vì Đức Kitô chính là hiện thân trọn vẹn và hoàn hảo của sự thánh thiện, là Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Nên thánh một cách sâu sắc và đơn giản, chính là trở nên giống Chúa Giêsu hơn mỗi ngày – suy nghĩ, hành động, và yêu thương như Người đã yêu, biến đổi nội tâm để “mặc lấy tâm tình của Đức Kitô” (Pl 2:5).

Tuyên ngôn của Công Đồng Vatican II qua Hiến chế Tín lý Lumen Gentium (Ánh Sáng Muôn Dân), đã làm nền tảng thần học cho sự làm mới này, khẳng định: “Mọi người trong Giáo hội, dù thuộc bậc sống nào, đều được Chúa kêu gọi nên thánh”. Tuyên ngôn này có ý nghĩa cách mạng vì nó xóa bỏ mọi quan niệm phân biệt sự thánh thiện theo cấp bậc hay chức vụ, mời gọi giáo dân nên thánh giữa lòng thế giới, thánh hóa chính những thực tại trần thế mà họ đang sống và làm việc.

Ba trụ cột dẫn đến sự thánh thiện phổ quát

Việc làm mới lại cảm thức nên thánh không dừng lại ở lý thuyết mà phải được thực hành qua những phương thế cụ thể trong đời sống hàng ngày, được Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI chỉ ra là ba trụ cột căn bản của đời sống Giáo hội: Công bố Lời Chúa, Cử hành các Bí Tích, và Thực thi sứ vụ Bác ái.

Trước hết, việc lắng nghe và suy niệm Lời Chúa là nền tảng đầu tiên và cốt yếu: Lời Chúa là ánh sáng dẫn lối, là lương thực nuôi dưỡng tâm hồn, giúp chúng ta nhận ra khuôn mặt Chúa Cha và ý muốn của Người. Để Lời Chúa biến đổi, chúng ta không chỉ đọc Kinh Thánh để biết, mà để gặp gỡ Chúa qua quá trình cầu nguyện, suy niệm, chiêm niệm và hành động. Nên thánh không thể tách rời cầu nguyện, dù là năm phút tĩnh lặng hay những lời nguyện tắt, tất cả đều là những “hơi thở của tâm hồn”, nối kết ta với Thiên Chúa.

Kế đến, các Bí Tích, đặc biệt là Thánh Thể và Hòa Giải, là những trợ lực mạnh mẽ nhất cho đường nên thánh. Thánh Thể là “nguồn mạch và đỉnh cao của toàn bộ đời sống Kitô giáo”, khi rước Chúa Giêsu Thánh Thể, chúng ta đón nhận chính Đấng Thánh vào trong tâm hồn. Sự kết hiệp này là đỉnh điểm của hành trình nên thánh, thanh luyện và biến đổi chúng ta từ bên trong.

Bí Tích Hòa Giải chính là “bí tích của sự nên thánh”, giúp chúng ta liên tục được giao hòa với Chúa, đón nhận Lòng Thương Xót, và can đảm đứng dậy sau sa ngã để tiếp tục bước đi trong ánh sáng của Chúa.

Cuối cùng, sự thánh thiện được chứng tỏ qua hành động yêu thương cụ thể, vì Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI đã nhấn mạnh: “Đức ái không phải là một loại hoạt động từ thiện mà Giáo hội có thể bỏ qua được, nhưng thuộc về bản tính của Giáo hội”. Thánh Têrêsa Calcutta dạy rằng không cần làm những việc lớn lao, mà chỉ cần làm những việc nhỏ bé với tình yêu lớn lao, và trong mỗi người nghèo, người bệnh, người bị bỏ rơi, chúng ta phục vụ chính Chúa Kitô, qua đó biến bác ái thành trụ cột không thể thiếu của sự nên thánh.

Thánh hóa đời sống thường ngày theo tinh thần của Thánh Josemaría Escrivá

Thánh Josemaría Escrivá (1902–1975) đã đưa ra phương thức canh tân cảm thức nên thánh, bằng cách tái khẳng định chân lý sâu sắc: đời sống thường ngày chính là nơi gặp gỡ Chúa Kitô, và mọi ngả đường trần gian đều là ngả đường thần linh.

Giáo huấn trung tâm của ngài là “biến công việc thành lời cầu nguyện”; ngài dạy rằng công việc không phải là gánh nặng, mà là một phương tiện để nên thánh và phục vụ tha nhân. Ngài thúc giục mọi người lao động với sự hoàn hảo và chuyên nghiệp cao nhất, vì đó là của lễ dâng lên Thiên Chúa. Điều này được tóm tắt trong lời dạy nổi tiếng: “Hãy thánh hóa công việc của con, hãy thánh hóa chính mình trong công việc của con, và hãy thánh hóa người khác qua công việc của con”, biến công việc của một kỹ sư hay một người nội trợ đều có thể trở thành “bàn thờ” nơi phụng vụ được cử hành.

Kế đến, ngài đề cao nhân đức anh hùng trong những điều nhỏ bé, vì sự thánh thiện không đòi hỏi những hành động phi thường, mà là sự trung thành một cách anh hùng trong những chi tiết nhỏ nhặt của cuộc sống, từ sự đúng giờ, ngăn nắp, nụ cười nhân hậu, sự nhẫn nại trong gia đình, đến sự tỉ mỉ trong nhiệm vụ. Ngài dạy: “Thiên Chúa không cần sự hy sinh lớn lao. Ngài chỉ cần con thực hiện nhiệm vụ của mình và hoàn thành công việc của mình bằng tình yêu”.

Sức mạnh của sự thánh thiện giữa lòng thế giới

Việc làm mới cảm thức về ơn gọi nên thánh giữa lòng thế giới đòi hỏi chúng ta phải mở rộng tầm nhìn vượt ra khỏi những vị thánh được tôn phong trên bàn thờ, để khám phá vẻ đẹp và sức mạnh của sự thánh thiện ngay giữa đời thường.

Đức Giáo hoàng Phanxicô, trong Tông huấn Vui mừng và Hân hoan, một lần nữa nhắc nhở chúng ta: Sự thánh thiện đích thực không bao giờ là một chiến tích cá nhân cô độc, mà là một hành trình thuộc về dân thánh của Thiên Chúa. Chúng ta được thánh hóa trong mạng lưới tương quan phức tạp của cộng đồng nhân loại, bởi lẽ “chẳng ai được cứu độ một mình”. Chính trong sự hiệp thông này, sự thánh thiện sáng chói nhất lại nằm ở “tầng lớp giữa của con đường nên thánh” - nơi sự kiên trì âm thầm của những người cha người mẹ nuôi dưỡng con cái với tình thương bao la, những người lao động vất vả lo toan cho gia đình, hay những bệnh nhân cao niên không đánh mất nụ cười.

Những “vị thánh ở kề bên” này là tấm gương phản chiếu sự hiện diện sống động của Thiên Chúa ngay giữa đời thường. Như Thánh Têrêsa Bênêđicta Thánh Giá đã chỉ ra, lịch sử cứu độ thực sự thường được định đoạt bởi những “tâm hồn mà chẳng sử sách nào đề cập đến”. Những hành động kiên trung, âm thầm và đầy yêu thương đó chính là những bước ngoặt quyết định nhất, không chỉ trong lịch sử thế giới mà còn trong đời sống riêng của mỗi người chúng ta.

Để làm mới lại ơn gọi nên thánh, chúng ta được mời gọi trở về với vẻ đẹp và sức mạnh của sự thánh thiện hằng ngày và đầy âm thầm này. Đó chính là men, là ánh sáng, là sức sống làm cho Tin Mừng trở nên hữu hình và đáng tin cậy nhất trong thế giới hôm nay.

(Nguồn: RV)

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/lam-moi-lai-cam-thuc-ve-on-goi-nen-thanh-trong-the-gioi-hom-nay

***

 

20.  Đức Thánh Cha gửi sứ điệp tới Hội nghị Quốc tế về “Trí tuệ nhân tạo và Y học”

Trong sứ điệp gửi đến các tham dự viên Hội nghị Quốc tế của Hàn lâm viện Tòa Thánh về Sự Sống về chủ đề “Trí tuệ nhân tạo và Y học”, Đức Thánh Cha Lêô XIV cảnh báo rằng, dù công nghệ mang lại nhiều lợi ích, việc quá lệ thuộc vào máy móc khiến nhân loại có nguy cơ đánh mất “khuôn mặt con người”. Ngài nhấn mạnh rằng tiến bộ chân thật chỉ có thể đạt được khi phẩm giá con người và lợi ích chung được đặt lên hàng đầu.

Vatican News

Ngỏ lời với các tham dự viên Hội nghị “Trí tuệ nhân tạo và Y học: Thách đố của phẩm giá con người”, diễn ra từ ngày 10 đến 12/11/2025, Đức Thánh Cha nhận định rằng cuộc cách mạng kỹ thuật số hiện nay đang định hình một “thời khắc chuyển đổi lịch sử”. Nó ảnh hưởng mạnh mẽ đến cách chúng ta suy nghĩ, cách chúng ta hiểu về các tình huống và cách chúng ta nhìn nhận bản thân và người khác. Hiện nay, chúng ta tương tác với máy móc như thể chúng là những người đối thoại. Theo nghĩa này, ngài cảnh báo, "chúng ta không chỉ có nguy cơ đánh mất hình ảnh của những người xung quanh mà còn quên mất cách nhận ra và trân trọng tất cả những gì thực sự là con người".

Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng công nghệ đã và đang mang lại những lợi ích đáng kể cho nhân loại, đặc biệt là trong lĩnh vực y tế và sức khỏe. Nhưng tiến bộ chân thật chỉ có thể đạt được khi phẩm giá con người và lợi ích chung được đặt lên hàng đầu. Ngài cũng cảnh báo về “sức tàn phá” của công nghệ nếu bị điều khiển bởi các ý thức hệ phi nhân. Tuy nhiên, nếu được khai thác và sử dụng đúng mục đích phục vụ con người, những tác động này cũng có thể mang tính chuyển đổi và có lợi.

Trong sứ điệp, Đức Thánh Cha nhắc nhở đừng bao giờ quên phẩm giá của hữu thể con người, bởi vì họ hiện hữu và được Thiên Chúa mong muốn, tạo dựng và yêu thương. Ngài mời gọi những người làm việc trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo và y học hãy trở thành “người bảo vệ và phục vụ sự sống con người”, đặc biệt khi sự sống ở trong những giai đoạn mong manh nhất.

Ngài nhắc rằng y học không chỉ là việc giải quyết vấn đề kỹ thuật, mà còn đòi hỏi sự đồng hành và truyền thông giữa con người với nhau, điều mà không công nghệ nào có thể thay thế. Do đó, việc ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong y học chỉ thật sự phục vụ phẩm giá con người khi nó giúp củng cố mối tương quan giữa bệnh nhân và nhân viên y tế, đồng thời nâng cao chất lượng chăm sóc.

Cuối cùng, Đức Thánh Cha kêu gọi sự hợp tác rộng rãi giữa giới y khoa, giới chính trị và các quốc gia để bảo đảm công nghệ được sử dụng đúng hướng, vì lợi ích của toàn thể nhân loại.

(Nguồn: RV)

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/duc-thanh-cha-gui-su-diep-toi-hoi-nghi-quoc-te-ve-%E2%80%9Ctri-tue-nhan-tao-va-y-hoc%E2%80%9D

***

 

21.  Hàng ngàn hướng đạo sinh châu Âu hành hương đến Pháp

Khoảng 3.500 hướng đạo sinh và huynh trưởng đến từ 13 quốc gia châu Âu đã cùng nhau hành hương đến thị trấn Vézelay, vùng Burgundy của Pháp, để “xây dựng lại Nước Thiên Chúa bằng chính đôi tay mình” và tìm kiếm sức mạnh từ Chúa Thánh Thần trong hành trình đức tin kéo dài bốn ngày.

Vatican News

Sự kiện năm nay, kéo dài từ ngày 30/10 đến 2/11/2025, đánh dấu kỳ hành hương lần thứ 50 kể từ lần đầu tiên năm 1976, khi chỉ có khoảng một trăm bạn trẻ tham dự. Chủ đề của năm 2025 là “Được kêu gọi thi hành sứ vụ Tông đồ của Vẻ đẹp”, thể hiện tinh thần sống đức tin qua vẻ đẹp của thiên nhiên, cộng đoàn và lòng quảng đại phục vụ.

Các hướng đạo sinh – phần lớn là thanh niên từ 18 đến 26 tuổi thuộc phong trào "Nam nữ Hướng đạo sinh của châu Âu" – khởi hành từ tám nhà thờ khác nhau cách Vézelay khoảng 40 km. Trên đường đi qua các ngôi làng nhỏ như Marigny, Cure và Malassis, họ tham dự Thánh lễ, dựng trại ngoài trời, và mời người dân địa phương cùng cầu nguyện, tạo nên bầu khí hiệp thông và chia sẻ đức tin sống động.

Trong suốt hành trình, các hướng đạo sinh bước đi trong thinh lặng, cầu nguyện và tình huynh đệ, cùng tham dự chầu Thánh Thể, sinh hoạt quanh lửa trại và lắng nghe huấn từ của các linh mục tuyên úy về đời sống dấn thân Kitô hữu. Nhiều người cho biết đây là “trải nghiệm khó diễn tả” giúp họ cảm nhận sâu sắc tình bạn, đức tin và niềm hy vọng.

Các hướng đạo sinh đã có thể đến thăm thị trấn nhỏ Paray-le-Monial, nơi Chúa Giêsu Kitô đã mặc khải cho Thánh Margaret Mary Alacoque về Thánh Tâm của Người.

Đỉnh cao của chuyến hành hương là đêm canh thức truyền thống tại Vương cung Thánh đường Thánh Maria Mađalêna ở Vézelay, nơi các bạn trẻ gõ cửa nhà thờ bằng gậy hành hương, hát bài “Kyrie des gueux” – diễn tả lời cầu xin trợ giúp của những người hành khất” – trước khi bước vào giờ chầu Thánh Thể và lãnh nhận Bí tích Hoà giải.

Trong Thánh lễ bế mạc ngày 2/11/2025, Tổng Giám mục Pascal Wintzer của giáo phận Sens-Auxerre khích lệ các hướng đạo sinh mang tinh thần đức tin từ Vézelay trở lại đời sống hằng ngày: “Đức tin Kitô giáo không phải là tấm bảo hiểm giúp ta tránh khỏi thử thách, nhưng là sức mạnh để ta vượt qua chúng”.

(Nguồn: RV)

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/hang-ngan-huong-dao-sinh-chau-au-hanh-huong-den-phap

***

 

22. Đức Thánh Cha cử hành Thánh lễ kỷ niệm 125 năm cung hiến Nhà thờ Thánh Anselmo

Chiều ngày 11/11/2025, chủ sự Thánh lễ trọng thể tại Nhà thờ Thánh Anselmo trên đồi Aventino, nhân dịp kỷ niệm 125 năm ngày cung hiến nhà thờ, Đức Thánh Cha Lêô XIV mời gọi mọi người đặt Chúa Kitô vào trung tâm cuộc sống và sứ mệnh của mình, bắt đầu bằng hành động đức tin giúp chúng ta nhận ra Người là Đấng Cứu Độ và biến đức tin ấy thành lời cầu nguyện, học hỏi và dấn thân sống thánh thiện.

Hồng Thủy - Vatican News

Trong bài giảng, Đức Thánh Cha nhận định: “Ngay từ đầu, đời sống đan tu đã là một thực tại "hàng đầu", thúc đẩy những người can đảm thiết lập các trung tâm cầu nguyện, lao động và bác ái ở những vùng đất hẻo lánh và khó tiếp cận nhất, biến nơi hoang vu thành mảnh đất phì nhiêu – không chỉ về kinh tế mà trên hết là tinh thần”.

Đặt Chúa Kitô làm trung tâm của đời sống và sứ mạng

Khẳng định rằng thời đại ngày nay cũng đầy thách đố, với những biến chuyển nhanh chóng đòi hỏi các Kitô hữu phải đặt Chúa Kitô làm trung tâm của đời sống và sứ mạng, Đức Thánh Cha mời gọi các đan sĩ, giáo sĩ và giáo dân gắn bó với Chúa qua đời sống cầu nguyện, học hỏi và nên thánh, để mỗi cộng đoàn trở thành “trường học phục vụ Chúa,” theo tinh thần Thánh Biển Đức.

Tìm kiếm Đức Kitô và dẫn đưa người khác đến với Người

Nhắc đến hình ảnh dòng sông chảy ra từ Đền Thờ trong sách Êdêkien, Đức Thánh Cha ví Nhà thờ Thánh Anselmo như “trái tim đang bơm máu nuôi sống" cho toàn thân thể dòng Biển Đức, làm phong phú mọi hoạt động phụng vụ, mục vụ và nghiên cứu. Ngài trích lời Đức Gioan Phaolô II khi thăm Học viện vào năm 1986: “Thánh Anselmo nhắc chúng ta rằng tri thức về các mầu nhiệm Thiên Chúa không phải là thành quả của trí tuệ con người, nhưng là ân huệ dành cho người khiêm nhường và tin tưởng”.

Đức Thánh Cha cũng nhấn mạnh ý nghĩa thiêng liêng của việc cung hiến nhà thờ: nơi gặp gỡ giữa không gian và thời gian, giữa hữu hạn và vô hạn, giữa con người và Thiên Chúa: một cánh cửa mở ra cõi vĩnh hằng, nơi tâm hồn tìm thấy câu trả lời cho "sự căng thẳng giữa sự giao thoa của khoảnh khắc và ánh sáng của thời gian, của chân trời rộng lớn hơn...".

Kết thúc bài giảng, Đức Thánh Cha kêu gọi mọi tín hữu “tìm kiếm Đức Kitô và dẫn đưa người khác đến với Người,” để ngôi đền thánh này luôn là nơi chan hòa niềm vui và lòng biết ơn, nơi con người chia sẻ cách quảng đại những gì họ đã nhận lãnh từ Thiên Chúa.

(Nguồn: RV)

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/duc-thanh-cha-cu-hanh-thanh-le-ky-niem-125-nam-cung-hien-nha-tho-thanh-anselmo

***

 

23.  Phim tài liệu về Đức Thánh Cha Lêô XIV: “Leo from Chicago”

Ngày 10/11/2025, Vatican chính thức ra mắt bộ phim tài liệu “Leo from Chicago” kể về cuộc đời Đức Thánh Cha Lêô XIV tại Hoa Kỳ. Sự kiện này diễn ra đúng dịp kỷ niệm sáu tháng triều đại của vị giáo hoàng đầu tiên trong lịch sử mang hai quốc tịch Mỹ và Peru.

Vatican News

Buổi công chiếu phim diễn ra lúc 16 giờ (giờ Roma) tại Thư viện Phim Vatican dành cho các nhà báo có đăng ký tại Phòng Báo chí Tòa Thánh. Hai giờ sau, vào lúc 18 giờ, bộ phim được đăng tải trên các kênh YouTube của Vatican News bằng ba ngôn ngữ: Anh, Ý và Tây Ban Nha, theo thông cáo của Bộ Truyền thông Tòa Thánh.

“Leo from Chicago” được sản xuất bởi Bộ Truyền thông Vatican, với sự phối hợp của Tổng giáo phận Chicago và phong trào Tông đồ “El Sembrador Nueva Evangelización”. Dự án do các nhà báo Deborah Castellano Lubov, Salvatore Cernuzio và Felipe Herrera-Espaliat phụ trách, với phần biên tập của Jaime Vizcaíno Haro.

Phim ghi lại nhiều địa điểm gắn liền với cuộc đời Đức Thánh Cha, đặc biệt là khu vực Dolton thuộc vùng ngoại ô Chicago – nơi ngài sống cùng gia đình. Các cảnh phim còn tái hiện những ký ức và câu chuyện của hai người anh ruột của ngài, Louis Martin và John Prevost.

Bộ phim cũng giới thiệu các cơ sở giáo dục, văn phòng, và giáo xứ do dòng Augustinô điều hành, trung tâm nghiên cứu Catholic Theological Union, cùng những nơi quen thuộc với Đức Thánh Cha thời trẻ như quán Aurelio’s Pizza hay sân bóng chày Rate Field của đội White Sox.

Bộ phim còn ghi hình tại Đại học Villanova gần Philadelphia và thành phố Port Charlotte, bang Florida – nơi anh trai cả của ngài hiện sinh sống. Khoảng 30 nhân chứng, gồm bạn bè, người thân và cộng sự cũ, đã chia sẻ kỷ niệm về Đức Thánh Cha Lêô XIV, trong đó có những lần ngài tham gia các cuộc tuần hành ủng hộ sự sống tại Washington, D.C.

“Leo from Chicago” là phần tiếp theo của phim tài liệu “Leo from Peru” ra mắt hồi tháng 6, tập trung vào những năm tháng Đức Thánh Cha phục vụ tại Peru trước khi được bầu làm giáo hoàng.

(Nguồn: RV)

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/phim-tai-lieu-ve-duc-thanh-cha-leo-xiv-%E2%80%9Cleo-from-chicago%E2%80%9D

***

 

24.  Đức Thánh Cha sẽ chủ sự Thánh lễ Ngày Năm Thánh Người Nghèo và ăn trưa với 1.300 người nghèo

Ngày 11/11/2025, Bộ Loan báo Tin Mừng đã công bố chương trình chính thức của Ngày Năm Thánh Người Nghèo, sẽ được tổ chức tại Vatican từ ngày 14 đến 16/11/2025, với các sáng kiến trợ giúp những người nghèo nhất. Đức Thánh Cha sẽ chủ sự Thánh lễ vào Chúa Nhật ngày 16/11/2025 và sau đó dùng bữa trưa với hơn một ngàn người nghèo.

Vatican News

Ngày Năm Thánh Người nghèo sẽ quy tụ khoảng 10.000 khách hành hương từ khắp thế giới, đặc biệt là những người nghèo được các tổ chức bác ái trợ giúp, cùng với các tình nguyện viên và nhân viên phục vụ.

Chương trình

Theo thông tin từ Bộ Loan Báo Tin Mừng, chương trình sẽ khai mạc lúc 17 giờ 30 thứ Sáu 14/11 với “Buổi Canh Thức Lòng Thương Xót” tại Đền thờ Thánh Phaolô Ngoại Thành, do Hiệp hội Huynh đệ của Pháp phụ trách.

Thứ Bảy 15/11, từ 9 giờ đến 15 giờ, các tín hữu sẽ hành hương qua Cửa Thánh Đền thờ Thánh Phêrô, và lúc 16 giờ chiều sẽ có giờ cầu nguyện kính Đức Mẹ tại Quảng trường Thánh Phêrô.

Chúa Nhật 16/11, Giáo hội hoàn vũ sẽ cử hành Ngày Thế giới Người Nghèo lần thứ IX, sáng kiến do Đức Giáo hoàng Phanxicô thiết lập năm 2017. Đức Thánh Cha Lêô XIV sẽ chủ sự Thánh lễ lúc 10 giờ tại Đền thờ Thánh Phêrô, với sự tham dự của người nghèo và các hội đoàn bác ái. Chủ đề năm nay, trích từ Thánh vịnh 71, câu 5: “Lạy Chúa, Ngài là niềm hy vọng của con”.

Đặc biệt, thánh tích thánh Benoît-Joseph Labre, người Phápvị thánh “lang thang của Thiên Chúa”, sẽ được rước đến Đền thờ Thánh Phêrô trong dịp này.

Sau Thánh lễ, Đức Thánh Cha sẽ cùng 1.300 người nghèo và thiện nguyện viên dùng bữa trưa tại Hội trường Phaolô VI. Mỗi người nghèo sẽ được nhận một ba lô chứa các nhu yếu phẩm, do các cha dòng Thánh Vinh Sơn trao tặng nhân kỷ niệm 400 năm thành lập dòng.

Phòng khám bệnh miễn phí

Nhằm phục vụ người khó khăn, Tòa Thánh sẽ mở rộng hoạt động của Phòng khám “Mẹ của Lòng Thương Xót” dưới hàng cột Quảng trường Thánh Phêrô từ ngày 10 đến 15/11, cung cấp miễn phí khám bệnh, xét nghiệm, tiêm vắc-xin, phát thuốc, kính mắt và thiết bị trợ thính. Một phòng khám mới mang tên Thánh Martino, được xây dựng với sự hợp tác của Sở Y tế và Vệ sinh thuộc Phủ Thống đốc Thành Vatican, cũng sẽ được khánh thành, với thiết bị y khoa hiện đại và dịch vụ chụp X-quang.

Nhà tắm giặt; xe cứu trợ Ucraina; thanh toán hóa đơn cho người nghèo

Bên cạnh đó, Vatican còn hỗ trợ “Nhà giặt Thánh Phanxicô Assisi” tại Parma, nơi người nghèo có thể tắm rửa và giặt giũ miễn phí, đồng thời tổ chức một “chuyến xe hy vọng” chở hàng cứu trợ đến thành phố Kharkiv, Ucraina. Ngoài ra, các gia đình nghèo khổ tại Ý sẽ tiếp tục được giúp đỡ qua việc thanh toán hóa đơn và cung cấp phiếu mua thực phẩm, nhờ sự đóng góp của các doanh nghiệp thiện nguyện.

(Nguồn: RV)

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/duc-thanh-cha-se-chu-su-thanh-le-ngay-nam-thanh-nguoi-ngheo-va-an-trua-voi-1300-nguoi-ngheo

***

 

25. ĐTC Lêô XIV: Trung tâm của đời sống thần bí nằm ở sự hiệp thông sâu xa với Chúa

Ngày 13/11/2025, tiếp kiến các tham dự viên Hội nghị do Bộ Phong Thánh tổ chức, với chủ đề “Hiện tượng thần bí và sự thánh thiện”, Đức Thánh Cha Lêô XIV đã khẳng định rằng trung tâm của đời sống thần bí không nằm ở các hiện tượng lạ lùng, nhưng ở sự hiệp thông sâu xa với Thiên Chúa, được thể hiện qua hoa trái thiêng liêng của đời sống Kitô hữu.

Vatican News

Đức Thánh Cha nhắc rằng “cây tốt thì sinh trái tốt”: giá trị của một kinh nghiệm thiêng liêng được kiểm chứng nơi những nhân đức và sự biến đổi nội tâm của người trải nghiệm.

Trong khi thừa nhận rằng các thị kiến, xuất thần hay những trải nghiệm phi thường "có thể xuất hiện", Đức Thánh Cha nhấn mạnh chúng không bao giờ là điều kiện thiết yếu của sự thánh thiện, cũng không phải tiêu chuẩn để mở án phong thánh. Ngài cảnh báo không được tuyệt đối hóa những hiện tượng này, cũng không được gạt bỏ một ứng viên vì họ có những kinh nghiệm đặc biệt, nếu đời sống nhân đức của họ đã được chứng thực.

Trích dẫn thánh Têrêsa Avila và thánh Gioan Thánh Giá, Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng đỉnh cao của đời sống thiêng liêng là “ý muốn của ta nên một với ý Chúa”, chứ không phải những dấu lạ hay cảm nghiệm đặc biệt. Vì thế, trong tiến trình phong thánh, yếu tố quan trọng nhất vẫn là fama sanctitatis – tiếng thơm thánh thiện – và chứng từ về sự kiên trì trong nhân đức.

Đức Thánh Cha cũng cảnh báo chống lại sự nhẹ dạ hoặc xu hướng mê tín khi gặp những hiện tượng khó giải thích. Ngài kêu gọi việc phân định phải dựa trên sự khôn ngoan của giáo huấn của Giáo hội, sự khiêm tốn và thận trọng của người điều tra, cùng tinh thần phục vụ cộng đoàn Dân Chúa. Ngài nhấn mạnh giá trị linh đạo của kinh nghiệm thần bí trong truyền thống Kitô giáo, đồng thời mời gọi Giáo hội giữ thái độ quân bình và sáng suốt khi phân định những hiện tượng siêu nhiên.

Đối với các chuyên viên và cộng tác viên của Bộ Phong Thánh, Đức Thánh Cha mời gọi họ noi gương các thánh trong chính đời sống của mình, để công việc phân định và nghiên cứu các trường hợp phong thánh trở thành một sứ vụ mang tính thánh hóa. Chúc lành cho họ, ngài khích lệ họ kiên trì trong việc phục vụ Giáo hội với trí tuệ và lòng trung thành.

(Nguồn: RV)

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/dtc-leo-xiv-trung-tam-cua-doi-song-than-bi-nam-o-su-hiep-thong-sau-xa-voi-chua

***

 

26.  Đức Thánh Cha: Đại học Laterano phải trở thành “không gian đối thoại và phục vụ tương lai của Giáo hội”

Ngày 14/11, Đức Thánh Cha Lêô XIV đã chủ sự lễ khai giảng năm học mới tại Đại học Giáo hoàng Laterano, đánh dấu năm thứ 253 trong lịch sử của cơ sở đào tạo. Ngỏ lời với các giáo sư, sinh viên, nhân viên và các vị khách mời, ngài khẳng định sứ mạng độc đáo của trường là “trung tâm đặc quyền nơi giáo huấn của Giáo hội hoàn vũ được nghiên cứu, phát triển và hội nhập vào thực tại thời đại”.

Vatican News

Mở đầu diễn văn, Đức Thánh Cha bày tỏ lòng biết ơn về truyền thống lâu dài giữa các Giáo hoàng và Đại học Laterano – từ việc Đức Giáo hoàng Clemente XIV đặt nền tảng vào năm 1773 đến những cải tổ của các vị kế nhiệm như Chân phước Piô IX, Đức Lêô XIII, Piô XII, Thánh Gioan XXIII, Thánh Phaolô VI và gần đây là Đức Giáo hoàng Phanxicô. Nhắc lại lời Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Đức Thánh Cha nói rằng mối liên hệ chặt chẽ đó không chỉ là “danh dự nhưng cũng là trách nhiệm”.

Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng Đại học Laterano không có “một đặc sủng sáng lập cần gìn giữ”, nhưng định hướng của trường chính là giáo huấn của Giáo hoàng, vì thế trường trở thành điểm tham chiếu hữu ích cho cả hoạt động của Giáo triều. Ngài cũng nhắc đến mạng lưới rộng lớn gồm bốn phân khoa, hai viện nghiên cứu, ba học viện liên kết và 28 cơ sở cộng tác tại ba châu lục, thể hiện “sự phong phú văn hóa và kinh nghiệm của Giáo hội hoàn vũ”.

Trong phần trọng tâm của bài diễn văn, Đức Thánh Cha kêu gọi các khoa: Thần học phải “làm sáng tỏ vẻ đẹp của đức tin” trong bối cảnh đương đại; Triết học cần tìm kiếm chân lý qua lý trí mở ra đối thoại, đặc biệt trước các xu hướng của "chủ nghĩa hậu nhân văn"; các khoa Luật phải tiếp tục đào sâu giá trị so sánh giữa luật dân sự và luật giáo hội, đồng thời chú trọng nghiên cứu các quy trình hành chính – một nhu cầu cấp thiết của Giáo hội ngày nay. Ngài cũng giao nhiệm vụ phát triển hơn nữa hai chương trình mới về Khoa học Hòa bình và Sinh thái – Môi trường, nhằm đào tạo các tác nhân xây dựng hòa bình và thăng tiến công lý trong bối cảnh thế giới nhiều xung đột.

Đức Thánh Cha trình bày ba định hướng ưu tiên cho việc đào tạo tại trường: tinh thần huynh đệ, nhằm chống lại “chủ nghĩa cá nhân cực đoan”; tính khoa học nghiêm túc trong nghiên cứu, để tránh sự giản lược hóa trong tư duy và mục vụ; và hướng đến thiện ích chung, đào tạo con người có khả năng góp phần xây dựng một thế giới liên đới và công bằng hơn.

Kết thúc bài diễn văn, Đức Thánh Cha mời gọi toàn đại học “dấn thân vào cuộc đối thoại với thế giới và các thách đố của thời đại”, đồng thời bày tỏ sự tin tưởng rằng Laterano sẽ tiếp tục là không gian nuôi dưỡng tư duy Kitô giáo cho tương lai. “Hãy mơ lớn”, ngài nói, “và làm việc với niềm vui để mọi người có thể khám phá Đức Kitô, nơi Người tìm được sự viên mãn mà nhân loại hằng khao khát”.

(Nguồn: RV)

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/duc-thanh-cha-dai-hoc-laterano-phai-tro-thanh-%E2%80%9Ckhong-gian-doi-thoai-va-phuc-vu-tuong-lai-cua-giao-hoi%E2%80%9D

***

 

27. “Lối Sống Thánh Thể” – Chiếc neo giúp người Kitô hữu giữ vững căn tính giữa trào lưu tục hóa

Vì được bám rễ sâu và kín múc sức sống nơi mối tương quan cá vị với Đức Kitô, “Lối sống Thánh Thể” không phải là một lựa chọn thêm vào hay một việc làm tùy ý, mà là con đường cốt yếu giúp người Kitô hữu giữ vững bản chất và niềm tin của mình giữa một thế giới đầy rẫy sự cám dỗ của chủ nghĩa cá nhân và sự xói mòn của thế tục hóa.

Vatican News

Công đồng Vaticanô II đã mở ra một kỷ nguyên đổi mới cho đời sống Giáo hội, nhưng cũng mang theo những thách thức sâu sắc về căn tính đức tin trong một thế giới ngày càng thế tục hóa. Trong một bài nói chuyện nổi tiếng vào năm 1966, tức chỉ một thời gian ngắn sau khi Công đồng Vatican II kết thúc, nhà thần học Karl Rahner đã đưa ra một lời tiên tri: “Kitô hữu của tương lai sẽ là một nhà thần bí – tức là một người đã chiêm niệm và cảm nghiệm được điều gì đó – hoặc sẽ không là Kitô hữu”.

Lời tiên tri này đặt ra một câu hỏi then chốt: làm thế nào để đức tin có thể tồn tại và phát triển khi những khuôn mẫu tôn giáo truyền thống đang mất đi sức ảnh hưởng? Thật đáng tiếc, trong bối cảnh Giáo hội Công giáo thập niên 1970, lời của Rahner đã thường bị đọc một cách chủ quan hóa, đặt trọng tâm vào “kinh nghiệm của tôi” và một “điều gì đó” mơ hồ, dễ bị nhầm lẫn với cảm xúc thoáng qua.

Cha Robert Imbelli, một linh mục thuộc Tổng Giáo phận New York, trong bài tiểu luận gần đây có tựa đề A Eucharistic Way of Life đăng trên The Catholic World Report, đã không chỉ nhắc lại mà còn tinh chỉnh lời tiên tri này một cách đầy thuyết phục: “Kitô hữu trong tương lai sẽ là một nhà thần bí Thánh Thể - tức là người đã cảm nghiệm về một Đấng, là Đức Kitô Thánh Thể - hoặc sẽ không là Kitô hữu”.

Sự điều chỉnh này chuyển trọng tâm từ “kinh nghiệm về một điều gì đó” mơ hồ, sang kinh nghiệm “một Đấng nào đó” cụ thể, là sự Hiện Diện Thực Sự của Đức Kitô Phục Sinh trong Bí tích Thánh Thể. Đây không phải là sự giới hạn, mà là sự neo giữ: nó kéo đời sống thần bí chiêm niệm của Kitô hữu ra khỏi vòng xoáy tự kỷ của cảm xúc và neo nó vào thực tại khách quan, sống động của Đức Kitô phục sinh.

“Logos Duy Trì Vũ Trụ”: Chiều kích thần bí của Thánh Thể

Lập luận của Cha Imbelli bắt đầu bằng việc đưa chúng ta vào trọng tâm của thần học Tân Ước qua thư Thánh Phaolô gửi tín hữu Côlôxê 1,15-20 - một tuyên ngôn tổng hợp về căn tính và vai trò của Đức Kitô. Người là “Hình ảnh của Thiên Chúa vô hình”, “Trưởng tử của mọi loài thọ tạo”, và là Đấng mà “trong Người, mọi sự được duy trì”.

Cụm từ Hy Lạp “synestēken” (trong Người, mọi sự được duy trì) không chỉ nói về việc Đức Kitô đã tham gia vào công trình sáng tạo trong quá khứ, mà còn là một sự thật về hiện tại. Đức Kitô là nguyên lý nội tại gắn kết và giữ cho vạn vật tồn tại và không tan rã. Người là Logos – Ngôi Lời, nguồn năng lượng đang đổ tràn vào vũ trụ để duy trì nó từng khoảnh khắc.

Kinh nghiệm thần bí về Thánh Thể bắt đầu từ sự thừa nhận vũ trụ này. Nếu Đức Kitô là Đấng duy trì toàn bộ vật chất, năng lượng, và sự sống của vạn vật, thì việc Người hiến tế chính mình trong Bí tích Thánh Thể không thể nào chỉ là một nghi thức cá nhân. Đó là một sự kiện có tầm vóc vũ trụ.

Khi rước Chúa, người Kitô hữu không chỉ rước một ân sủng cá nhân, một hành động tha thứ hay an ủi, mà đang tiếp nhận chính Nguyên lý Duy trì Vạn vật vào trong con người của mình. Điều này biến thân xác họ thành một “nhà tạm” di động, chứa đựng Logos duy trì vạn vật. Những Kitô hữu, vì vậy được mời gọi trở thành nơi mà sự hiệp nhất của vũ trụ được biểu lộ.

Điều này giải thích tại sao một người sống Thánh Thể không thể là một người hời hợt. Họ phải là người ý thức được rằng mình là trung tâm của sự gặp gỡ của vũ trụ, một người đang được bén rễ và xây dựng trong Đấng là nguồn gốc và mục đích cuối cùng của mọi sự. Sống Thánh Thể là sống trong sự hiện diện của Đấng Duy Trì Vạn Vật.

“Giao Ước Mới”: Bí Tích chứ không phải là “một cuốn sách”

Chuyển sang mối liên hệ giữa Thánh Thể và Kinh Thánh, Cha Imbelli đã làm sáng tỏ một sự thật sâu sắc mà học giả Kinh Thánh Scott Hahn đã tóm gọn: “Điều mà các Kitô hữu tiên khởi gọi là ‘Tân Ước’ (Giao Ước Mới) không phải là một cuốn sách, mà là Bí Tích Thánh Thể”.

Trong thừa tác vụ của mình, các linh mục vẫn hằng ngày kính cẩn lặp lại qua lời truyền phép: “Đây là Chén Máu Thầy, Máu Giao Ước Mới và Vĩnh Cửu”. Chính sự hiện diện thực sự của Đức Kitô, Mình và Máu Người, là Giao Ước Mới mà Thiên Chúa đã thiết lập.

Điều này thay đổi hoàn toàn cách chúng ta nhìn nhận các văn phẩm Tân Ước. Chúng ta không đọc Kinh Thánh như một cuốn sách luật hay một cuốn sách giáo lý tách biệt. Đúng hơn, các bản văn Tân Ước là lời giải thích quý giá về sự Hiện Diện Thực Sự của Chúa Giêsu Kitô trong Bí tích Thánh Thể và nơi những tâm hồn những ai đón rước Ngài.

Do đó, các bản văn Tân Ước được đọc đúng cách và hiệu quả nhất trong khi cử hành Thánh Lễ. Phụng vụ Lời Chúa là sự chuẩn bị, là lời tiên tri được ứng nghiệm, chuẩn bị tâm hồn người tín hữu để nhận ra và gặp gỡ Giao Ước bằng xương bằng thịt trong Phụng vụ Thánh Thể, khi Chúa Giêsu Kitô được nhớ lại và nhận ra một lần nữa trong việc bẻ Bánh. Ở đó, căn tính Thánh Thể của người Kitô hữu được thừa nhận và khẳng định khi chúng ta đáp lời “Amen” – một lời xác tín mang tính Giao Ước – trước lời mời gọi: “Mình Thánh Đức Kitô”.

Lối sống Thánh Thể bén rễ trong Tạ ơn

Nếu căn tính mới của chúng ta được neo vào Giao Ước Thánh Thể, thì đời sống của chúng ta phải phản ánh sự bén rễ đó. Thánh Phaolô nói với giáo đoàn Côlôxê: “Như anh em đã nhận Đức Kitô Giêsu làm Chúa, thì hãy tiếp tục sống kết hợp với Người. Anh em hãy bén rễ sâu và ​xây dựng đời mình trên nền tảng là Đức Kitô Giêsu, hãy dựa vào đức tin mà anh em đã được thụ huấn, và để cho lòng chan chứa tâm tình tạ ơn – en eucharistia” (Cl 2:6-7).

Sống bén rễ trong Đức Kitô chính là sống tâm tình tạ ơn. Đây không phải là một cảm xúc thoáng qua mà là một trạng thái hiện hữu.

Cha Imbelli khuyến khích chúng ta suy ngẫm về Thánh Thể như một động từ hơn là một danh từ - là gratiarum actio, hành động tạ ơn.

Khi Linh mục xướng lên: “Hãy tạ ơn Chúa là Thiên Chúa chúng ta”, và cộng đoàn đáp lại “Thật là chính đáng”, chúng ta không chỉ nói lời cảm ơn đơn thuần. Chúng ta đang được cuốn vào hành động tự hiến của chính Chúa Giêsu Kitô, Đấng dâng lời tạ ơn trọn vẹn lên Chúa Cha vì ơn cứu độ của chúng ta.

Chính nhờ Đức Kitô, với Người và trong Người, người Kitô hữu được ban khả năng tạ ơn bằng cách tự hiến mình như một hy lễ sống động. Lời mở đầu Kinh Nguyện Thánh Thể xác nhận đây là “bổn phận và là ơn cứu độ của chúng con, để chúng con luôn luôn và ở mọi nơi dâng lời tạ ơn Chúa”.

Tầm nhìn thần học này không chỉ dừng lại ở cá nhân. Giáo hội, qua lời Đức Giáo hoàng Phanxicô trong thông điệp Laudato si’, khẳng định rằng: “Chính trong Bí tích Thánh Thể, mọi thụ tạo đều tìm thấy sự tôn vinh cao nhất của mình... Thánh Thể là trung tâm sống động của vũ trụ, là cốt lõi tràn đầy của tình yêu và sự sống vô tận... Kết hợp với Con Nhập Thể, hiện diện trong Thánh Thể, toàn thể vũ trụ dâng lời tạ ơn Thiên Chúa”.

Thánh Thể và thách thức đạo đức

 “Lối sống Thánh Thể” là quá trình chậm chạp, gian khổ để tìm cách luôn chú tâm đến công việc đang làm, đến người trước mặt chúng ta, và biến mọi hành vi thành một hành động dâng lời tạ ơn nhân danh Chúa Giêsu. Đây là công việc thần bí thực sự: duy trì sự chú tâm trong thế giới đầy dẫy những sự làm chúng ta phân tâm.

Lối sống Thánh Thể này mời gọi một sự biến đổi đạo đức triệt để, được trình bày chi tiết trong Côlôsê chương 3.

Cha Imbelli đưa ra hình ảnh đối chiếu giữa “người cũ” bước đi trong bóng tối (pusilla anima - linh hồn nhỏ nhen, hẹp hòi) và “người mới” bước đi trong ánh sáng (magna anima - linh hồn cao thượng, quảng đại).

“Người cũ” là người bị ràng buộc bởi các tội lỗi chết người: ham muốn xấu xa, tham lam, giận dữ, ác ý, và dối trá. Những hành vi này tự bản chất là “phản Thánh Thể” vì chúng xé nát Thân Thể Đức Kitô. Chúng phủ nhận và hủy bỏ thực tại phi thường rằng “Đức Kitô là tất cả, và ở trong tất cả” (Cl 3,11). Làm sao một người vừa rước Mình và Máu Thánh Đức Kitô – Đấng là nguyên tắc hiệp nhất của vạn vật – lại có thể nuôi dưỡng sự giận dữ, hận thù, hay tham lam? Những điều này là những lực lượng ly tâm, phá hủy sự gắn kết mà Đức Kitô đang nỗ lực duy trì.

Một đời sống Thánh Thể phải cởi bỏ “người cũ” và mặc lấy “người mới”, được thể hiện qua lòng nhân hậu, khiêm nhường, kiên nhẫn, và đặc biệt là sự tha thứ lẫn nhau. Thánh Phaolô tổng kết lệnh truyền đạo đức này bằng một mệnh lệnh kép, kết hợp hành động và tạ ơn: “Dù anh em làm gì, bằng lời nói hay hành động, hãy làm mọi sự nhân danh Chúa Giêsu, dâng lời tạ ơn Thiên Chúa Cha qua Người” (Cl 3,17). Sống Thánh Thể là sống đạo đức; sống đạo đức là sống tạ ơn. Không có sự tách biệt nào giữa sự đời sống bí tích và đời sống luân lý.

Sự Ưu tiên mang tính Thánh Thể: Bàn thờ và Người nghèo

Lối sống Thánh Thể đạt đến sự hoàn thiện khi được cụ thể hóa trong đời sống xã hội. Thánh Gioan Kim Khẩu từng cảnh báo: “Việc mặc quần áo lộng lẫy cho bàn thờ Chúa mà lại để các chi thể của Người trần truồng thì hầu như không có ý nghĩa Thánh Thể”.

Đây là một lời cảnh báo về sự đạo đức giả của việc tôn kính một Bàn Thờ nơi Bí tích nhưng lại phớt lờ Bàn Thờ kia nơi Người nghèo. Lối sống Thánh Thể buộc chúng ta phải nhận ra rằng sự hiện diện thực sự của Đức Kitô không chỉ giới hạn trong hình bánh và rượu; nó còn mở rộng ra, một cách bí nhiệm nhưng rất thực, nơi những thành viên nghèo khổ hơn của Thân Thể Đức Kitô. Cách chúng ta đối xử với người anh chị em, với người bị bỏ rơi, là thước đo chính xác nhất cho lòng tin của chúng ta vào Bí tích Thánh Thể. Chăm sóc người nghèo không phải là một hành vi bác ái tùy chọn, mà là một yêu cầu thiết yếu của hành động tạ ơn đích thực.

Đạt đến sự viên mãn: Ý nghĩa của đời sống thần bí Thánh Thể

“Thần bí” không phải là những hiện tượng kỳ lạ, xuất thần. Theo nhà thần học phụng vụ Louis Bouyer, thần bí là “sự phát triển trưởng thành của đời sống mới đã bắt đầu trong Bí tích Rửa Tội”. Đó là một tiến trình sống chậm rãi nhưng sâu sắc, nơi cái tôi giả dối tan biến, và cái tôi chân thật, được biến đổi trong Đức Kitô, trỗi dậy.

Mục tiêu của sự phát triển trưởng thành này là đạt đến “sự viên mãn” (plērōma) của Thiên Chúa” (Ep 3,19). Người sống Bí Tích Thánh Thể là người tìm kiếm sự viên mãn của Thiên Chúa ngay trong đời sống hàng ngày, thông qua sự hiệp thông không ngừng với Đức Kitô Thánh Thể.

Người sống Thánh Thể là người có thể vui mừng khẳng định cùng với Thánh Phaolô: “Không còn phải là tôi sống nữa, mà là Đức Kitô sống trong tôi. Và đời sống tôi hiện đang sống trong thân xác, tôi sống bởi đức tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu tôi và hiến mình vì tôi” (Gl 2,20).

Vì thế, Lối sống Thánh Thể chính là chiếc neo vững chắc, giữ cho đức tin của người Kitô hữu không bị cuốn trôi hay lạc lối giữa sóng gió của chủ nghĩa thế tục hôm nay.

(Nguồn: RV)

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/%E2%80%9Cloi-song-thanh-the%E2%80%9D-%E2%80%93-chiec-neo-giup-nguoi-kito-huu-giu-vung-can-tinh-giua-trao-luu-tuc-hoa

***

 

28.  Đức Thánh Cha Lêô XIV: Nền kinh tế "vì lợi ích chung" là động lực của tương lai và công lý

Trong thông điệp gửi đến Hội nghị Công nghiệp Argentina lần thứ 31, khai mạc tại Buenos Aires ngày 13/11 vừa qua, Đức Thánh Cha Lêô XIV đã kêu gọi các nhà lãnh đạo doanh nghiệp tại nước này đặt phẩm giá con người và lợi ích chung lên hàng đầu, tái khẳng định vai trò của kinh tế như một động lực của “tương lai, sự hòa nhập và công lý”.

Vatican News

Thông điệp nhấn mạnh rằng các hoạt động kinh tế phải được định hướng theo “dự án tình yêu mà Thiên Chúa dành cho mọi người”, đồng thời cảnh báo rằng việc theo đuổi lợi nhuận và sản xuất một cách biệt lập là không đủ.

Đức Thánh Cha nhắc lại nền tảng của Học thuyết Xã hội của Giáo hội, cụ thể là Thông điệp Tân Sự (Rerum Novarum, năm 1891) của Đức Giáo hoàng Lêô XIII. Ngài lên án những vi phạm phẩm giá người lao động trong thế giới toàn cầu hóa ngày nay và nhấn mạnh các nguyên tắc về lương công bằng, quyền thành lập hiệp hội và quyền sống với phẩm giá. Ngài trích dẫn lời Vị tiền nhiệm: thành công của doanh nghiệp không được đo lường chỉ bằng điều khoản kinh tế, mà còn dựa trên “khả năng tạo ra sự phát triển con người, sự gắn kết xã hội và sự chăm sóc cho thụ tạo”.

Đức Thánh Cha giới thiệu Vị Tôi tớ đáng kính Enrique Shaw, một doanh nhân người Argentina, như một hình mẫu về đạo đức kinh doanh. Enrique Shaw, người đã qua đời vào năm 1962, đã quản lý doanh nghiệp như một “cộng đồng thực sự của những người được kêu gọi cùng nhau phát triển”, thúc đẩy mức lương công bằng, các chương trình đào tạo và chăm sóc cho gia đình công nhân. Ngài khẳng định cuộc đời của Enrique Shaw chứng minh rằng “có thể vừa là một doanh nhân vừa là một vị thánh”, và rằng “hiệu quả kinh tế và lòng trung thành với Tin Mừng không hề loại trừ lẫn nhau”.          

Kết thúc Thông điệp, Đức Thánh Cha kêu gọi các nhà lãnh đạo công nghiệp Argentina cam kết thực thi một ngành công nghiệp “đổi mới, cạnh tranh và, trên hết, mang tính nhân văn”. Đức Thánh Cha nói: “Thế giới đang khẩn thiết cần những doanh nhân và nhà lãnh đạo, vì tình yêu Thiên Chúa và tha nhân, làm việc vì một nền kinh tế phục vụ lợi ích chung". Ngài bày tỏ hy vọng Hội nghị sẽ là không gian để củng cố cam kết hỗ trợ sự phát triển của các dân tộc mà không “bỏ lại bất kỳ ai phía sau”.       

(Nguồn: RV)

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/duc-thanh-cha-leo-xiv-nen-kinh-te-%22vi-loi-ich-chung%22-la-dong-luc-cua-tuong-lai-va-cong-ly

***

 

29. Đức Thánh Cha Lêô XIV thành lập Hội Tông Đồ Biển

Ngày 13/11, Đức Thánh Cha Lêô XIV đã ban hành phúc chiếu thành lập Hội Tông Đồ Biển, một cơ quan trung tâm và điều phối Hoạt động Tông Đồ Biển, chịu trách nhiệm thúc đẩy việc chăm sóc mục vụ cho "người dân biển". Ngài cũng phê chuẩn Quy chế của Hội mới được thành lập.

Vatican News

Từ lâu Giáo hội đã đồng hành cùng người dân biển, được hiểu là các thủy thủ, người đi biển và gia đình của họ, cũng như những người khác mà cuộc sống gắn liền với nghề hàng hải và đánh bắt cá trên biển, sông và hồ.

Phúc chiếu mới của Đức Thánh Cha đề cập đến "những can thiệp mục vụ và lập pháp của Tòa Thánh, qua đó đáp ứng nhu cầu thiêng liêng của các tín hữu, những người, vì lý do di chuyển, không thể hưởng được sự chăm sóc mục vụ thông thường", bắt đầu từ tự sắc Iam pridem năm 1914 của Đức Giáo hoàng Piô X.

Tất cả những điều này cho thấy Giáo hội quan tâm đến những nhu cầu thiêng liêng của những người sống và làm việc trong môi trường hàng hải. Về vấn đề này, văn kiện của Đức Thánh Cha nhắc lại sắc lệnh Apostolatus Maris của Ủy ban Tòa Thánh khi đó về việc Chăm sóc Thiêng liêng cho Người Di cư và Người Lưu động, ban hành ngày 24/9/1977, trong đó sửa đổi các quy tắc và năng quyền theo ánh sáng của Công đồng Vatican II. Tiếp theo là tự sắc Stella Maris của Thánh Gioan Phaolô II, ban hành ngày 31/1/1997, trong đó cập nhật các quy tắc đã ban hành trước đó. Cuối cùng, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã ra sắc lệnh giao phó việc điều hành Phong trào Tông đồ Biển cho Bộ Phục vụ Phát triển Con người Toàn diện, cơ quan trong thời gian đó đã đảm nhận trách nhiệm chăm sóc mục vụ cho người di cư và người lưu động.

Do đó, Đức Thánh Cha viết trong Phúc chiếu, việc thành lập cơ quan điều phối trung tâm này xuất phát từ "mong muốn sâu sắc rằng việc chăm sóc thiêng liêng của Giáo hội trong lĩnh vực chăm sóc mục vụ biển có thể tiếp tục với lòng nhiệt thành và quảng đại".

Đây là kết quả của một quá trình tham vấn kéo dài, bắt đầu từ tháng 10/2022, với sự tham gia của các giám đốc quốc gia và giám mục đang thúc đẩy Phong trào Tông đồ Biển trên nhiều châu lục, và tiếp tục vào năm 2025 với các cuộc tham vấn tập trung hơn về các mục tiêu và cơ cấu của Phong trào Tông đồ Biển.

Các cuộc tham vấn được tiến hành và điều phối bởi Bộ Phục vụ Phát triển Con người Toàn diện, theo điều 166 § 1 của Tông Hiến Praedicate Evangelium, thực hiện cả việc chỉ đạo toàn bộ Hoạt động Tông đồ Biển và giám sát cơ quan trung ương của hoạt động này.

(Nguồn: RV)

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/duc-thanh-cha-leo-xiv-thanh-lap-hoi-tong-do-bien

***

 

30.  Đức Thánh Cha tiếp các đại diện của thế giới điện ảnh

Trưa 15/11/2025, Đức Thánh Cha đã tiếp các đại diện của thế giới điện ảnh tham dự cuộc hành hương Roma nhân dịp Năm Thánh. Ngài nói với họ rằng "điện ảnh không chỉ là hình ảnh chuyển động: nó đang gieo rắc hy vọng!", và mời gọi họ trở thành những chứng nhân của hy vọng, vẻ đẹp và chân lý.

Hồng Thủy - Vatican News

Giúp tìm lại niềm hy vọng thiết yếu cho cuộc sống

Cuộc gặp gỡ diễn ra trong bối cảnh thế giới điện ảnh kỷ niệm 130 năm thành lập, từ buổi chiếu công khai đầu tiên do anh em nhà Lumière tổ chức vào ngày 28/12/1895 tại Paris. Ngỏ lời với họ, Đức Thánh Cha ca ngợi tính phổ quát của nghệ thuật thứ bảy này theo nghĩa nó "được sinh ra cho tất cả mọi người và nói với tất cả mọi người". Một trong những đóng góp quý giá nhất của điện ảnh, theo ngài, là giúp khán giả nhìn lại chính mình, khám phá thế giới bằng đôi mắt mới và tìm lại niềm hy vọng thiết yếu cho cuộc sống.

"Nếu các bạn là bạn của nghệ thuật đích thực, thì các bạn là bạn của chúng tôi"

Đức Thánh Cha nhận định rằng những người hoạt động trong giới điện ảnh "đang hành trình như những người lữ hành của trí tưởng tượng, những người tìm kiếm ý nghĩa, những người kể chuyện hy vọng, những sứ giả của nhân loại... Đó là một cuộc hành hương vào mầu nhiệm của cuộc sống nhân sinh mà anh chị em đi qua với một cái nhìn thấu suốt, có khả năng nhận ra vẻ đẹp ngay cả trong những nếp gấp của nỗi đau, hy vọng giữa những bi kịch của bạo lực và chiến tranh".

Ngài bày tỏ sự trân trọng của Giáo hội đối với họ và lặp lại lời Thánh Giáo Hoàng Phaolô VI: "Nếu các bạn là bạn của nghệ thuật đích thực, thì các bạn là bạn của chúng tôi", và cho biết ngài muốn "canh tân tình bạn đó, bởi vì điện ảnh là một phòng thí nghiệm của hy vọng, một nơi con người có thể một lần nữa nhìn lại chính mình và vận mệnh của mình".

"Hãy biến điện ảnh thành một nghệ thuật của Thần Khí"

Nhắc lại lời của nghệ sĩ vĩ đại David W. Griffith: "Điều mà điện ảnh hiện đại thiếu là cái đẹp, cái đẹp của làn gió chuyển động trong những tán cây", Đức Thánh Cha mời gọi họ "hãy biến điện ảnh thành một nghệ thuật của Thần Khí" và trở thành "những chứng nhân của hy vọng, vẻ đẹp và chân lý". Ngài nhấn mạnh: "Việc khôi phục tính chân thực của hình ảnh để bảo vệ và thúc đẩy phẩm giá con người nằm ở sức mạnh của điện ảnh chân chính, của những người sáng tạo và diễn viên chính". Ngài khích lệ họ "Đừng ngại đối mặt với những vết thương của thế giới... Điện ảnh vĩ đại không khai thác nỗi đau: nó đồng hành cùng nỗi đau, đào sâu vào nỗi đau".

Điện ảnh phải luôn là nơi gặp gỡ

Đức Thánh Cha cũng lưu ý đến chiều kích tập thể, hợp tác và huynh đệ trong điện ảnh, nơi mỗi người phải phát huy tài năng của chính mình nhưng cũng cần đến tài năng và phẩm chất của những người làm việc cùng họ. Ngài mong rằng điện ảnh luôn là nơi gặp gỡ, là mái nhà cho những ai tìm kiếm ý nghĩa, là ngôn ngữ của hòa bình.

(Nguồn: RV)

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/duc-thanh-cha-tiep-cac-dai-dien-cua-the-gioi-dien-anh

***

 

31.  Hơn 150.000 người đã đăng ký viếng di hài Thánh Phanxicô Assisi

Hơn 150.000 người từ khắp nơi trên thế giới đã đăng ký viếng di hài thánh Phanxicô Assisi trong cuộc trưng bày công khai lần đầu tiên, dự kiến diễn ra từ ngày 22/2 đến 22/3/2026 tại nhà thờ dưới của Vương cung thánh đường Thánh Phanxicô ở Assisi. Theo giới hữu trách, con số trên cho thấy tính phổ quát của thông điệp của Thánh Phanxicô và sức hấp dẫn vượt thời gian của chính con người ngài.

Vatican News

Cha Giulio Cesareo, Dòng Phanxicô Viện tu, Giám đốc Văn phòng Truyền thông của Đền thánh, cho biết thật “đáng kinh ngạc” khi chứng kiến lòng mến yêu của các tín hữu dành cho thánh Phanxicô. Cha nhấn mạnh: “Ngài thực sự là người anh em của mọi người, và đối với chúng tôi, những người con và môn sinh của ngài, được góp phần tạo nên không gian gặp gỡ với ngài, người vẫn còn rất nhiều điều để chia sẻ và cống hiến cho những người trong thời đại của chúng ta, là một niềm vinh dự lớn”.

Ban tổ chức thông báo việc đặt chỗ hoàn toàn miễn phí và tiếp tục mở trên trang web chính thức sanfrancescovive.org (saintfrancisliveson.org), nơi cung cấp toàn bộ thông tin liên quan đến việc trưng bày và Năm Kỷ niệm Phanxicô 2026, kỷ niệm 800 năm ngày thánh nhân qua đời.

Bên cạnh đặt chỗ, cộng đoàn tu sĩ cũng cung cấp các nội dung dưới dạng kỹ thuật số nhằm đồng hành thiêng liêng với người hành hương. Mỗi tuần, các kênh chính thức của Vương cung thánh đường đăng tải hai nhóm nội dung: thông tin vào thứ Ba và tài liệu văn hóa – thiêng liêng vào thứ Bảy. Ứng dụng "Saint Francis Digital" cũng được phát triển để giúp khách hành hương tiếp cận đầy đủ thông tin cần thiết về cuộc trưng bày và chương trình Năm Kỷ niệm.

Chương trình viếng di hài này là một phần trong chuỗi sự kiện Kỷ niệm Phanxicô 2026, không chỉ tưởng nhớ sự qua đời của thánh Phanxicô, mà còn tôn vinh đời sống và thông điệp của ngài, nguồn cảm hứng cho hàng triệu người trên thế giới. Khẩu hiệu "Saint Francis Lives On" (Thánh Phanxicô vẫn sống) đi cùng hình ảnh Tin Mừng về hạt lúa gieo vào lòng đất để sinh nhiều bông hạt. Như một hạt giống mục nát trong thời gian, thân xác thánh nhân vẫn tiếp tục sinh hoa trái trong đời sống Giáo hội và trong tâm hồn những ai tìm kiếm hoán cải và bình an.

(Nguồn: RV)

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/hon-150000-nguoi-da-dang-ky-vieng-di-hai-thanh-phanxico-assisi

***

 

32.  Thánh Lễ Ngày Năm Thánh dành cho Người nghèo

Sáng Chúa Nhật ngày 16/11, Đức Thánh Cha đã dâng thánh lễ với khoảng 6 ngàn tín hữu bên trong đền thờ thánh Phêrô và 20 ngàn tín hữu ngoài quảng trường thánh Phêrô, trong Ngày Thế giới Người nghèo và cũng là Ngày Năm Thánh dành cho người nghèo.

Vatican News

Bài giảng của Đức Thánh Cha

Anh chị em thân mến,

Những Chúa Nhật cuối của năm phụng vụ mời gọi chúng ta nhìn vào lịch sử trong những kết cục sau cùng của nó. Trong bài đọc thứ nhất, ngôn sứ Malakhi thấy trước việc “Ngày của Chúa” đến là bước vào một thời đại mới. Ngày ấy được mô tả như thời của Thiên Chúa: mặt trời công chính sẽ mọc lên, nơi những hy vọng của người nghèo và người khiêm nhường sẽ nhận được câu trả lời sau cùng và dứt khoát từ Chúa; còn công việc của kẻ ác và bất công của họ – đặc biệt là những bất công gây ra cho người yếu đuối và nghèo hèn – sẽ bị nhổ tận gốc và thiêu rụi như rơm rạ.

Mặt trời công chính ấy, như chúng ta biết, chính là Đức Giêsu. Ngày của Chúa không chỉ là ngày sau hết của lịch sử, nhưng là Nước Trời đến gần mỗi con người nơi Con Thiên Chúa đang đến. Trong Tin Mừng, qua ngôn ngữ khải huyền phổ biến thời bấy giờ, Đức Giêsu loan báo và khai mở Nước ấy: chính Người là quyền năng Thiên Chúa đang hiện diện và mở lối ngay giữa những biến cố đầy kịch tính của lịch sử. Vì thế, các biến cố đó không phải làm cho môn đệ sợ hãi, nhưng khiến họ kiên trì hơn trong việc làm chứng, và ý thức rằng lời hứa của Chúa Giêsu luôn sống động và trung tín: “Dù một sợi tóc trên đầu anh em cũng không bị mất đâu” (Lc 21,18).

Anh chị em thân mến, đó là niềm hy vọng mà chúng ta neo chặt vào, ngay cả giữa những biến cố không mấy vui tươi của cuộc đời. Ngay hôm nay, “Giáo Hội tiếp tục cuộc lữ hành giữa những bách hại của thế gian và những an ủi của Thiên Chúa, loan báo cái chết của Chúa cho tới khi Người lại đến” (Lumen gentium, 8). Và ngay tại những chỗ mà mọi hy vọng nhân loại dường như cạn kiệt, thì sự chắc chắn duy nhất – vững bền hơn trời đất – lại càng thêm mạnh mẽ: rằng Chúa sẽ chẳng để mất một sợi tóc nào trên đầu chúng ta.

Trong bách hại, đau khổ, mệt mỏi và áp bức của đời sống và xã hội, Thiên Chúa không bỏ rơi chúng ta. Người tỏ mình là Đấng đứng về phía chúng ta. Toàn bộ Kinh Thánh được dệt bằng sợi chỉ đỏ cho thấy một Thiên Chúa luôn đứng về phía kẻ bé nhỏ, phía người mồ côi, người ngoại kiều và người goá bụa (x. Đnl 10,17-19). Và nơi Đức Giêsu, Con của Người, sự gần gũi của Thiên Chúa đạt tới tột đỉnh của tình yêu: bởi thế sự hiện diện và lời của Đức Kitô trở thành niềm vui và là năm hồng ân cho người nghèo, vì Người đã đến để loan báo Tin Mừng cho người nghèo và công bố một năm hồng ân của Chúa (x. Lc 4,18-19).

Hôm nay, chúng ta được thông phần cách đặc biệt vào năm hồng ân ấy khi cử hành Ngày Thế Giới Người Nghèo – chính là Năm Thánh của người nghèo. Toàn thể Giáo Hội hân hoan vui mừng, và trước hết, tôi muốn mạnh mẽ gửi đến anh chị em lời không thể huỷ bỏ của chính Chúa Giêsu: “Dilexi te – Ta đã yêu con” (Kh 3,9). Đúng vậy, trước sự bé nhỏ và nghèo hèn của chúng ta, Thiên Chúa nhìn chúng ta bằng ánh mắt mà không ai khác có thể có, và Người yêu chúng ta bằng tình yêu vĩnh cửu. Và Giáo Hội, hôm nay – có lẽ nhất là trong thời đại còn bị thương tích bởi bao nghèo đói cũ và mới – muốn trở nên “người mẹ của người nghèo, nơi của đón tiếp và công lý” (Tông huấn Dilexi te, 39).

Biết bao nghèo đói đang đè nặng thế giới! Trước hết là nghèo đói vật chất, nhưng còn biết bao tình trạng nghèo luân lý và tinh thần, thường chạm tới người trẻ nhiều nhất. Và bi kịch băng ngang qua mọi hình thức nghèo ấy chính là sự cô đơn. Điều này thách thức chúng ta nhìn nghèo đói cách toàn diện: đáp ứng những nhu cầu cấp bách là cần thiết, nhưng hơn hết chúng ta phải xây dựng một văn hóa quan tâm, phá vỡ bức tường cô đơn. Vì thế, chúng ta muốn chú ý đến tha nhân, đến từng người, ngay nơi mình sống và làm việc, trong gia đình, trường học, cộng đồng, trong thế giới kỹ thuật số, và cả nơi những vùng ngoại biên, để trở nên chứng nhân của sự dịu dàng của Thiên Chúa.

Ngày nay, các cảnh tượng chiến tranh – đáng tiếc là hiện diện ở nhiều vùng trên thế giới – dường như củng cố cảm giác bất lực nơi chúng ta. Nhưng sự toàn cầu hoá của bất lực xuất phát từ một lời nói dối: rằng lịch sử vẫn luôn như thế và không thể thay đổi. Trái lại, Tin Mừng cho biết: chính trong những biến động của lịch sử, Chúa đến để cứu chúng ta. Và chúng ta, cộng đoàn Kitô hữu, phải là dấu chỉ sống động của ơn cứu độ ấy ở giữa người nghèo.

Nghèo đói đặt ra vấn đề cho Kitô hữu nhưng cũng cho tất cả những ai có trách nhiệm trong xã hội. Vì thế tôi kêu gọi các nguyên thủ quốc gia và những người lãnh đạo các dân tộc biết lắng nghe tiếng kêu của người nghèo. Sẽ không thể có hòa bình nếu không có công lý, và người nghèo nhắc nhớ điều đó bằng muôn vàn cách: qua hành trình di cư của họ, hoặc qua những tiếng kêu bị bóp nghẹt bởi huyền thoại của sự thịnh vượng và tiến bộ mà không dành cho tất cả mọi người, và thậm chí còn bỏ rơi nhiều người khác lại phía sau.

Đối với những ai đang phục vụ bác ái – biết bao thiện nguyện viên và những người đang làm việc để giảm bớt đau khổ cho người nghèo – tôi bày tỏ lòng biết ơn. Đồng thời, tôi khích lệ anh chị em trở thành lương tâm phê bình trong xã hội. Anh chị em biết rõ vấn đề của người nghèo chạm đến cốt lõi đức tin chúng ta, rằng họ chính là da thịt của Đức Kitô, chứ không chỉ là một hạng mục xã hội (x. Dilexi te, 110). Vì thế, “Giáo Hội như người mẹ, đồng hành với những ai đang bước đi. Nơi thế gian thấy đe doạ, Giáo Hội thấy con cái; nơi người ta xây tường, Giáo Hội xây những cây cầu” (sđd, 75).

Chúng ta hãy cùng dấn thân. Như Thánh Phaolô viết cho tín hữu Thessalonica (x. 2 Tx 3,6-13), trong lúc chờ Chúa trở lại trong vinh quang, chúng ta không được sống thu mình hay trong một chủ nghĩa đạo đức khép kín dẫn đến thờ ơ với tha nhân và với lịch sử. Trái lại, tìm kiếm Nước Thiên Chúa đòi hỏi ước muốn biến đổi đời sống chung thành không gian của tình huynh đệ và phẩm giá cho mọi người, không loại trừ ai. Luôn có nguy cơ chúng ta sống như những khách lữ hành sao lãng, chẳng quan tâm mục đích cuối cùng, cũng chẳng để ý đến những người đang cùng đi trên hành trình.

Trong Năm Thánh của người nghèo này, chúng ta hãy để mình được linh hứng bởi chứng tá của các Thánh – những người đã phục vụ Đức Kitô nơi người nghèo khổ và bước theo Người trong đường lối bé nhỏ và từ bỏ. Tôi đặc biệt muốn nhắc lại hình ảnh Thánh Bênêđictô Giuse Labre, người mà cuộc đời “kẻ hành khất của Thiên Chúa” của ngài khiến ngài trở thành vị thánh bảo trợ xứng hợp cho những người vô gia cư nghèo khổ.

Xin Đức Trinh Nữ Maria, Đấng trong kinh Magnificat nhắc chúng ta nhớ những chọn lựa của Thiên Chúa và cất tiếng thay cho những người không có tiếng nói, giúp chúng ta bước vào lôgic mới của Nước Trời, để trong đời sống Kitô hữu của chúng ta luôn hiện diện tình yêu của Thiên Chúa – Đấng đón nhận, tha thứ, băng bó vết thương, an ủi và chữa lành.

(Nguồn: RV)

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/thanh-le-ngay-nam-thanh-danh-cho-nguoi-ngheo

***

 

33.  Đức Thánh Cha tiếp các cộng tác viên ngoại giao của Tòa Thánh

Chiều ngày 17/11/2025, tiếp các cộng tác viên ngoại giao tại các Cơ quan Ngoại giao của Tòa Thánh ở các nước trên thế giới, Đức Thánh Cha mời gọi họ trở thành “những linh mục yêu mến Chúa Kitô và tận tụy xây dựng Thân Thể Người”, phản ánh sự gần gũi của Đức Thánh Cha với các Giáo hội địa phương và gắn bó với Giáo hội nơi mình xuất thân cũng như nơi được sai đến phục vụ.

Hồng Thủy - Vatican News

Mang sự hiện diện của Giáo hội và của Đức Thánh Cha đến mọi nơi

Ngỏ lời với các linh mục phục vụ tại các cơ sở Ngoại giao của Tòa Thánh, trước hết Đức Thánh Cha cảm ơn họ đã đáp lại tiếng Chúa mời gọi theo Người để mang Lời Cứu độ của Tin Mừng đến tận cùng trái đất. Ngài nói rằng lời mời gọi này vang vọng một cách thật đặc biệt đối với những người được chọn để thực thi thừa tác vụ linh mục tại các cơ sở Đại diện của Tòa Thánh tại các nước: “một hồng ân và cam kết hiện diện khắp mọi nơi cho toàn thể Giáo hội, và đặc biệt, cho sự quan tâm mục vụ của Đức Giáo Hoàng, Đấng chủ trì Giáo hội trong đức ái”.

Chứng tá của những linh mục yêu mến Chúa Kitô và tận tụy xây dựng Thân Thể Người

Đức Thánh Cha nhận định rằng công việc phục vụ của các cộng tác viên tại các cơ sở Ngoại giao của Tòa Thánh đòi hỏi vừa gắn kết với Thiên Chúa vừa cởi mở với tha thân, đòi hỏi sự học chuyên môn và sự hy sinh can đảm. Sứ vụ này được phát triển trong đức tin và vâng phục Giáo hội. Ngài nhấn mạnh rằng tại nơi họ phục vụ, “chứng tá đầu tiên mà anh chị em phải thể hiện là chứng tá của những linh mục yêu mến Chúa Kitô và tận tụy xây dựng Thân Thể Người”. Ngài mời gọi họ “hãy phản ánh tình cảm và sự gần gũi của Đức Giáo Hoàng đối với mỗi người, duy trì một sự đồng cảm với Giáo Hội”.

Cầu nguyện

Ngài cũng khẳng định rằng Giáo hội luôn hỗ trợ các linh mục ở các Tòa Sứ Thần bằng lời cầu nguyện. Do đó, ngài mời gọi họ “củng cố căn tính linh mục của anh em bằng cách kín múc sức mạnh từ các Bí tích, từ sự hiệp thông huynh đệ, và từ sự nhu thuận liên lỉ với Chúa Thánh Thần”.

Xây dựng tương quan với mọi người

Bên cạnh đó, các cộng sự viên trong ngành ngoại giao Tòa Thánh được mời gọi xây dựng các tương quan với mọi người, chống lại cám dỗ tự cô lập. “Hãy tiếp tục gắn kết với thân thể Giáo Hội và lịch sử các dân tộc: cả nơi anh em xuất thân lẫn nơi anh em được sai đến”. Ngài kêu gọi họ tiếp tục nuôi dưỡng tương quan với Giáo hội từ đó mình xuất thân, bởi vì “khi cảm giác thuộc về này mất đi, sự chán nản sẽ xuất hiện: khi đó chúng ta sẽ giống như những cái cây không có rễ. Tuy nhiên, nếu nó tiếp tục nhận được máu, nó thậm chí có thể được cấy ghép ở nơi khác và do đó sinh ra những trái mới”.

Điều không thể thiếu trong đời sống của các linh mục hoạt động tại các cơ sở Ngoại giao của Tòa Thánh đó là gặp gỡ Chúa trong Nhà nguyện, nơi họ cùng với mọi người ngợi khen và cầu xin Chúa. Chỉ nhờ thế họ mới có thể là “muối cho đất và ánh sáng cho thế gian” (x. Mt 5,13-14).

(Nguồn: RV)

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/duc-thanh-cha-tiep-cac-cong-tac-vien-ngoai-giao-cua-toa-thanh

***

 

34.  ĐTC Lêô XIV: Tìm những hình thức mới giúp mọi người gặp gỡ Lời Chúa

Tiếp Liên đoàn Kinh Thánh Công giáo vào sáng ngày 17/11/2025, Đức Thánh Cha Lêô XIV lưu ý rằng “các thế hệ mới đang sống trong những môi trường kỹ thuật số mới, nơi Lời Chúa dễ bị lu mờ, nơi Phúc Âm còn xa lạ hoặc bị bóp méo bởi những lợi ích riêng”. Ngài mời gọi họ “tìm ra những hình thức mới trong việc tiếp cận Kinh Thánh, có khả năng mở ra những con đường dẫn đến Kinh Thánh, để Lời Chúa có thể bén rễ trong lòng mọi người và dẫn mọi người sống trong ân sủng của Người”.

Hồng Thủy - Vatican News

Câu hỏi Đức Thánh Cha đặt ra là “‘Việc dễ dàng tiếp cận Kinh Thánh’ có nghĩa là gì trong thời đại chúng ta? Làm thế nào chúng ta có thể tạo điều kiện cho những người chưa từng nghe Lời Chúa hoặc những người có nền văn hóa chưa được Phúc Âm chạm đến có thể gặp gỡ Kinh Thánh?”

Lắng nghe và loan báo Lời Chúa

Ngài đã dùng giáo huấn của Giáo hội trong Hiến chế “Lời Chúa” để nhắc lại rằng chúng ta được mời gọi lắng nghe Lời Chúa và loan báo Lời Chúa với đức tin (x. DV 1), và do đó, Giáo hội phải đảm bảo để “mọi Kitô hữu cần được tiếp cận Thánh Kinh một cách dễ dàng” (DV 22).

Sứ vụ của Liên đoàn được nêu lên trong hiến chương là “thúc đẩy và phát triển Mục vụ Kinh Thánh theo cách để Lời Chúa hiện diện trong Kinh Thánh trở thành nguồn cảm hứng năng động cho mọi lĩnh vực của đời sống và sứ mạng của Giáo hội trong thế giới ngày nay”. Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng đó là “công bố kerygma, mầu nhiệm cứu độ của Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”. Bởi thế, sứ vụ này phải được soi sáng bởi niềm xác tín rằng “Giáo hội không kín múc sự sống từ chính mình mà từ Phúc Âm”.

Giúp mọi người dễ dàng tiếp cận Kinh Thánh

Do đó, Giáo hội phải đảm bảo để mọi tín hữu có thể dễ dàng tiếp cận Kinh Thánh, để mọi người có thể gặp gỡ Thiên Chúa, Đấng đang nói, chia sẻ tình yêu của Người và dẫn đưa chúng ta đến sự sống viên mãn (x. Ga 10,10). Đức Thánh Cha lưu ý rằng việc dịch Kinh Thánh vẫn là điều không thể thiếu, và ngài cảm ơn nỗ lực của các thành viên Liên đoàn Kinh Thánh trong việc thúc đẩy phương pháp “lectio divina” và mọi sáng kiến khuyến khích việc đọc Kinh Thánh thường xuyên.

Làm chứng tá cho Lời Chúa

Và Đức Thánh Cha không quên nhắc các chuyên viên Kinh Thánh cần sống Lời Chúa, trở thành “những chữ sống động… được viết không phải bằng mực nhưng bằng Thần Khí của Thiên Chúa hằng sống” (2 Cr 3,1-6), làm chứng cho tính ưu việt của Lời Chúa trên muôn vàn tiếng nói đang tràn ngập thế giới chúng ta”.

(Nguồn: RV)

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/dtc-leo-xiv-tim-nhung-hinh-thuc-moi-giup-moi-nguoi-gap-go-loi-chua

***

 

35. Đức Thánh Cha Lêô XIV cảnh báo về nguy cơ “thiên vị” khi ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong y tế

Tiếp các thành viên của Hiệp hội Hệ thống Y tế Tư nhân Mỹ Latinh đang tham dự Khóa Chuyên đề về Đạo đức trong Quản lý Y tế, do Hàn lâm Viện Tòa Thánh về Sự Sống tổ chức, Đức Thánh Cha đã lên tiếng cảnh báo về những rủi ro đạo đức và sự thiên vị khi ứng dụng trí tuệ nhân tạo và công nghệ số vào lĩnh vực chăm sóc sức khỏe.

Vatican News

Đức Thánh Cha chào đón các tham dự viên như “những người hành hương của hy vọng”, nhấn mạnh rằng cuộc gặp gỡ này là một “chặng đường tuyệt đẹp của hành trình” mà Giáo hội và xã hội cần cùng nhau đi.

Đề cập đến các chủ đề phức tạp như Trí tuệ Nhân tạo và đổi mới công nghệ, Đức Thánh Cha đã bày tỏ quan ngại về nguy cơ tạo ra “sự thiên vị” trong quản lý y tế. Ngài mô tả sự thiên vị này như là việc đưa vào “một điểm ghi chú làm sai lệch, cắt xén, loại trừ một cách gian lận nhận thức của chúng ta về thực tế xã hội và người bệnh cụ thể”, dẫn đến một “tình trạng bất công trong việc quản lý các nguồn lực” y tế.

Đức Thánh Cha cảnh báo rằng ngay cả những công cụ hiệu quả như trí tuệ nhân tạo cũng có thể bị thao túng vì “lý do cơ hội hoặc lợi ích, dù là kinh tế, chính trị hay bản chất khác”, và dẫn đến sự phi nhân hóa trong chăm sóc sức khỏe khi công nghệ được sử dụng không đúng cách. “Con người sẽ rơi vào sự thao túng sai lầm, phân loại họ dựa trên các phương pháp điều trị cần thiết và chi phí, bản chất các căn bệnh của họ, biến họ thành đồ vật, thành dữ liệu, thành số liệu thống kê”.

Để chống lại sự phi nhân hóa này, Đức Thánh Cha kêu gọi các nhà quản lý y tế và chuyên gia công nghệ thay đổi cách tiếp cận của họ, bằng việc “thay đổi cái nhìn”, và “nhận thức giá trị của điều tốt lành với một cái nhìn rộng lớn như cái nhìn của Thiên Chúa”. Cái nhìn này phải tập trung vào “điều gì là tốt nhất cho tất cả mọi người”, thay vì “lợi nhuận tức thời”, và phải xây dựng các mối liên kết, thúc đẩy sự kiên nhẫn, quảng đại và liên đới.

Đức Thánh Cha kết luận rằng “cái nhìn rộng lớn này không bao giờ được tách rời khỏi mối quan hệ nhân bản, khỏi sự ân cần, khỏi sự thừa nhận con người cụ thể, trong sự mỏng manh và phẩm giá của họ”. Ngài khẳng định rằng: “Hai tầm nhìn” – Tầm nhìn rộng lớn về công ích và sự quan tâm sâu sắc đến cá nhân – sẽ là “liều thuốc giải tốt nhất” để bảo vệ điều tốt lành mà mọi người được mời gọi gìn giữ.

(Nguồn: RV)

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/duc-thanh-cha-leo-xiv-canh-bao-ve-nguy-co-%E2%80%9Cthien-vi%E2%80%9D-khi-ung-dung-tri-tue-nhan-tao-trong-y-te

***

 

36. ĐTC Lêô XIV: Trẻ vị thành niên và người dễ tổn thương phải được tôn trọng và bảo vệ

Trong sứ điệp gửi đến hội thảo “Xây dựng cộng đồng bảo vệ phẩm giá” do Ủy ban Giáo hoàng về Bảo vệ Trẻ vị thành niên tổ chức tại Roma từ ngày 17 đến 19/11/2025, Đức Thánh Cha Lêô XIV nhấn mạnh tầm quan trọng của việc “xây dựng những cộng đồng nơi phẩm giá của mỗi người – đặc biệt là trẻ em và người dễ bị tổn thương – được bảo vệ và thăng tiến”, đồng thời khẳng định phải “ngăn chặn mọi hình thức lạm dụng”.

Vatican News

Hội thảo quy tụ đại diện các hội dòng nam nữ, các tu sĩ sống đời chiêm niệm và đời tông đồ đến từ 20 quốc gia, cùng thành viên của Bộ Tu sĩ.

Đây là bước khởi đầu cho một lộ trình lắng nghe, thông hiểu và đồng hành mà Ủy ban Bảo vệ Trẻ vị thành niên muốn thúc đẩy, hướng đến việc công bố Báo cáo thường niên lần thứ ba, tập trung đặc biệt vào đời sống cộng đoàn tu trì—nơi đôi khi đã xảy ra lạm dụng quyền lực, lạm dụng lương tâm và cả lạm dụng tính dục do các tương quan thiếu lành mạnh hoặc thiếu phân định chung.

Trong sứ điệp được đọc vào phiên khai mạc tại Palazzo Maffei Marescotti, Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng phẩm giá con người “là món quà của Thiên Chúa”, không tùy thuộc thành tựu hay địa vị, và “không bóng tối nào có thể xóa được ánh sáng” của phẩm giá ấy. Chính từ ý thức này mà nảy sinh trách nhiệm chăm sóc lẫn nhau, bằng sự tôn trọng và dịu dàng. https://ssl.gstatic.com/ui/v1/icons/mail/images/cleardot.gif

Đức Thánh Cha nhắc lại rằng đời sống thánh hiến phải trở thành “ngôi nhà đón tiếp và nơi gặp gỡ của ân sủng”, nơi mọi hành vi phục vụ được khởi đi từ việc nhận biết giới hạn bản thân và tình yêu Thiên Chúa dành cho mỗi người, kể cả trong yếu đuối. Điều đó giúp các tu sĩ yêu thương người khác với tự do và sự tế nhị thật sự.

Ngài khuyến khích các cộng đoàn “chia sẻ kinh nghiệm và phương pháp học tập về cách ngăn chặn mọi hình thức lạm dụng và cách giải trình, với sự chân thành và khiêm nhường, về những nỗ lực bảo vệ đã được thực hiện”. Đức Thánh Cha mời gọi tiếp tục dấn thân để các cộng đoàn trở thành “mẫu gương của sự tin cậy và đối thoại, nơi mỗi người được tôn trọng, lắng nghe và trân trọng”.

Kết thúc, ngài khẳng định: “Nơi nào công lý được sống với lòng thương xót, vết thương sẽ biến thành cánh cửa dẫn đến ân sủng”.

(Nguồn: RV)

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/dtc-leo-xiv-tre-vi-thanh-nien-va-nguoi-de-ton-thuong-phai-duoc-ton-trong-va-bao-ve

***

 

37.  Tòa Thánh tại Hội nghị COP30: Biến đổi khí hậu ảnh hưởng nhiều nhất đến người nghèo

Ngày 18/11/2025, tại Belém (Brazil), Đức Tổng Giám mục Giambattista Diquattro, Sứ thần Tòa Thánh tại Brazil và Trưởng phái đoàn Tòa Thánh tại COP30, đã phát biểu trước các bộ trưởng môi trường của các quốc gia trên toàn cầu, nhấn mạnh ưu tiên của Vatican trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu. Ngài lưu ý rằng hậu quả của biến đổi khí hậu ảnh hưởng nhiều nhất trên người nghèo và người dễ bị tổn thương.

Vatican News

Mở đầu bài phát biểu, Sứ thần Tòa Thánh tại Brazil trích lại thông điệp của Đức Thánh Cha Lêô đã được Đức Hồng y Parolin đọc tại phiên họp thượng đỉnh ngày 7/11/2025, trong đó khẳng định tình trạng khí hậu đe dọa sự sống trên toàn hành tinh và đòi hỏi “một chủ nghĩa đa phương liên đới và có tầm nhìn,” đặt trọng tâm nơi phẩm giá con người và công ích.

Chủ nghĩa đa phương 

Đức Tổng Giám mục Diquattro nhấn mạnh bốn ưu tiên của phái đoàn Tòa Thánh, đầu tiên là tăng cường “chủ nghĩa đa phương gắn kết và hướng về tương lai”. Ngài lưu ý rằng biến đổi khí hậu vượt mọi biên giới và chỉ có nỗ lực chung mới mang lại hiệu quả. Trích tư tưởng trong Tông huấn Laudate Deum, đại diện Tòa Thánh khẳng định chỉ một hệ thống đa phương vững mạnh mới có thể giải quyết các vấn đề thực sự của nhân loại, theo cách đặt đạo đức cao hơn những lợi ích cục bộ.

Lộ trình giảm dần nhiên liệu hóa thạch

Ngài cho biết Tòa Thánh ủng hộ lộ trình giảm dần nhiên liệu hóa thạch – mục tiêu được các nước thống nhất tại COP28, đồng thời khẳng định quá trình chuyển đổi này phải đi đôi với công bằng và bảo vệ nhóm dễ bị tổn thương.

Khuôn mặt con người của khủng hoảng khí hậu

Đại diện Tòa Thánh đặc biệt lưu ý đến “khuôn mặt con người của khủng hoảng khí hậu”. Ngài bày tỏ hy vọng Kế hoạch Hành động vì Bình đẳng Giới sẽ chính thức thừa nhận phụ nữ và trẻ em gái, nhất là tại các nước ở nam bán cầu, là những người chịu tác động bất cân đối của biến đổi khí hậu, đồng thời là tác nhân quan trọng trong việc ứng phó thảm họa. Ngài kêu gọi các nước tìm kiếm “ngôn ngữ chung và đồng thuận”, đặt sang một bên các lợi ích ích kỷ và ý thức trách nhiệm giữa các thế hệ.

Tầm quan trọng của giáo dục

Cuối cùng, đại diện Tòa Thánh nhấn mạnh rằng tài chính và giải pháp kỹ thuật là cần thiết nhưng chưa đủ. Các mục tiêu của Thỏa thuận Paris chỉ có thể đạt được khi đi kèm một tiến trình giáo dục rộng rãi, thúc đẩy lối sống mới tôn trọng môi trường. Ngài đánh giá cao nhiều quốc gia đã đưa các yếu tố liên quan đến giáo dục vào bản đóng góp quốc gia được cập nhật tại COP30.

Kết thúc, Đức Tổng Giám mục Diquattro lặp lại lời mời gọi của Đức Thánh Cha: một sự “hoán cải sinh thái đích thực” chỉ có thể bắt đầu khi nhân loại biết trở về với trái tim.

(Nguồn: RV)

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/toa-thanh-tai-hoi-nghi-cop30-bien-doi-khi-hau-anh-huong-nhieu-nhat-den-nguoi-ngheo

***

38.  ĐTC Lêô XIV nhấn mạnh phẩm giá của người di cư, ủng hộ tuyên bố của các Giám mục Mỹ

Trả lời các câu hỏi của giới báo chí vào tối 18/11/2025, khi chuẩn bị từ Castel Gandolfo trở về Vatican, Đức Thánh Cha Lêô XIV bày tỏ sự ủng hộ đối với tuyên bố của các Giám mục Mỹ phản đối việc trục xuất hàng loạt người di dân và khẳng định an ninh quốc gia không mâu thuẫn với việc tôn trọng phẩm giá con người. Ngài mời gọi các tín hữu và “mọi người thiện chí” lắng nghe lập trường này.

Vatican News

Các biện pháp chống lại người di cư ở Hoa Kỳ

Trong thư mục vụ ngày 13/11/2025, các Giám mục Hoa Kỳ phản đối việc trục xuất hàng loạt, bày tỏ quan ngại về tình hình trong nước và tái khẳng định rằng an ninh quốc gia và việc bảo vệ nhân phẩm không hề mâu thuẫn nhau. 

Đức Thánh Cha bày tỏ sự cảm kích đối với tuyên bố của các giám mục, gọi đó là “rất quan trọng”. Ngài nói với giới báo chí: “Tôi muốn mời gọi tất cả người Công giáo – và cả những người thiện chí – hãy lắng nghe kỹ những gì họ đã nói. Tôi tin rằng chúng ta phải tìm cách đối xử với mọi người một cách nhân đạo, với phẩm giá vốn có”.

“Nếu ai đó đang ở Hoa Kỳ bất hợp pháp, có nhiều cách để giải quyết vấn đề này. Có tòa án. Có hệ thống tư pháp. Tôi tin rằng có rất nhiều vấn đề trong hệ thống này. Chưa ai nói rằng Hoa Kỳ nên mở cửa biên giới”, Đức Thánh Cha lưu ý, và nói thêm, “Tôi nghĩ mọi quốc gia đều có quyền quyết định ai được nhập cảnh, bằng cách nào và khi nào”.

Tuy nhiên, ngài nói thêm, “khi mọi người đã sống một cuộc sống tốt đẹp – nhiều người trong số họ đã sống 10, 15, 20 năm – thì việc đối xử với họ theo cách, nói một cách nhẹ nhàng nhất, là cực kỳ thiếu tôn trọng, và có những trường hợp bạo lực, là điều đáng lo ngại”.

Ngài kết luận: “Các giám mục đã nói rất rõ ràng. Tôi chỉ muốn mời tất cả người Mỹ hãy lắng nghe họ”.

Hòa bình tại Ucraina

Trước thềm nỗ lực nối lại đàm phán Nga – Ucraina tại Thổ Nhĩ Kỳ, được hỏi về khả năng Ucraina nhượng lãnh thổ để kết thúc chiến tranh – ý kiến được Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump gần đây đề cập, Đức Thánh Cha khẳng định vấn đề thuộc thẩm quyền của Ucraina; hiến pháp Ucraina rất rõ ràng. Ngài lưu ý: “Vấn đề là không có lệnh ngừng bắn. Họ chưa đạt đến điểm có thể bắt đầu đối thoại và tìm cách giải quyết vấn đề này. Đáng tiếc là người dân đang chết mỗi ngày. Tôi tin rằng chúng ta phải kiên quyết đòi hỏi hòa bình, bắt đầu bằng lệnh ngừng bắn và sau đó là đối thoại”.

Bách hại Kitô hữu tại Nigeria

Trước câu hỏi về các cuộc tấn công nhắm vào Kitô hữu và những cộng đồng khác tại Nigeria, Đức Thánh Cha cảnh báo nguy cơ đối với cả Kitô hữu lẫn người Hồi giáo. Ngài cho rằng chủ nghĩa khủng bố gắn liền với kinh tế chiến tranh và tranh chấp đất đai, đồng thời kêu gọi chính phủ và các cộng đồng thúc đẩy tự do tôn giáo thực sự.

Các chuyến tông du

Được hỏi về chuyến viếng thăm châu Mỹ Latinh “của ngài”, Đức Thánh Cha cho biết các kế hoạch cho Năm Thánh đang được ưu tiên, nhưng ngài hy vọng có thể thăm Fatima, Guadalupe (Mexico), Uruguay, Argentina và “dĩ nhiên” Peru, nơi ngài từng phục vụ hơn 20 năm.

Ngày nghỉ mỗi thứ Ba tại Castel Gandolfo

Tiết lộ về ngày nghỉ mỗi thứ Ba tại Castel Gandolfo, Đức Thánh Cha chia sẻ: “Một chút thể thao, một chút đọc sách, một chút làm việc… tennis và bơi lội”. Khoảng nghỉ này, theo ngài, là điều con người cần để chăm sóc thể lý và tinh thần.

(Nguồn: WHĐ)

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/dtc-leo-xiv-nhan-manh-pham-gia-cua-nguoi-di-cu-ung-ho-tuyen-bo-cua-cac-giam-muc-my

***

39. Đức Thánh Cha Lêô XIV công bố Ngày Thế giới Trẻ em 2026: Lời mời gọi ươm mầm hòa bình từ gia đình

Vào cuối buổi tiếp kiến chung thứ Tư ngày 19/11/2025, Đức Thánh Cha Lêô XIV đã công bố Ngày Thế giới Trẻ em lần thứ hai sẽ được tổ chức tại Roma từ ngày 25-27/09/2026. Sự kiện này do Bộ Giáo dân, Gia đình và Sự sống khởi xướng, hứa hẹn sẽ là một ngày hội lớn của sự gặp gỡ, cầu nguyện và hiệp thông dành cho các gia đình từ khắp năm châu.

Vatican News

Khoảnh khắc xúc động nhất của buổi tiếp kiến diễn ra khi bé Majd Bernard, 7 tuổi đến từ dải Gaza – vùng đất đang chịu nhiều đau thương bởi xung đột – cùng với cha Enzo Fortunato, Chủ tịch Ủy ban Giáo hoàng về Ngày Thế giới Trẻ em, đệ trình lên Đức Thánh Cha lá cờ cùng với logo chính thức của Ngày Thế giới Trẻ em 2026. Đức Thánh Cha đã làm phép và ký tên lên lá cờ, biến nó thành biểu tượng thiêng liêng khởi đầu cho hành trình hướng về kỳ Đại hội năm tới.

Cha Enzo Fortunato đã gửi lời tri ân đến Đức Thánh Cha và nhắc nhở cộng đoàn về những con số biết nói đầy đau lòng. Theo các tổ chức quốc tế, mỗi ngày có khoảng 13.000 trẻ em dưới 5 tuổi mất đi sự sống vì những nguyên nhân có thể phòng ngừa, và hàng triệu em khác đang bị kẹt giữa các vùng chiến sự. Ngày Thế giới Trẻ em năm 2026 sẽ là lời khẳng định mạnh mẽ rằng “một tương lai tốt đẹp hơn là điều hoàn toàn có thể”.

Logo chính thức của sự kiện với hình ảnh 7 dấu chân nhiều màu sắc, tượng trưng cho sự hiện diện của trẻ em từ 7 châu lục và sự đa dạng văn hóa. Tất cả được bao bọc bởi mái vòm Đền thờ Thánh Phêrô như một vòng tay che chở, cùng Thánh giá gợi nhớ đến tình yêu cứu độ của Chúa Kitô.

Chia sẻ về ý nghĩa của sự kiện, Đức Hồng y Kevin Farrell, Tổng trưởng Bộ Giáo dân, Gia đình và Sự sống nhấn mạnh: “Trong kỳ đại hội tới, Giáo hội muốn đặc biệt quan tâm đến môi trường tự nhiên nơi trẻ em lớn lên, đó chính là gia đình”. Ngài khẳng định rằng trẻ em cần được chứng kiến vẻ đẹp của hòa bình ngay trong chính ngôi nhà của mình vì “trẻ em rất nhạy cảm, các em hiểu giá trị của hòa bình và chịu nhiều đau khổ khi cảm nhận được sự căng thẳng từ cha mẹ hay xung đột từ môi trường xung quanh”.

Nối tiếp thành công của lần tổ chức đầu tiên vào năm 2024 với 100.000 tham dự viên, Ngày Thế giới Trẻ em 2026 tái khẳng định cam kết của Giáo hội trong việc lắng nghe và trân trọng tiếng nói của những “công dân nhỏ tuổi” – những nhân vật chính của một thế giới đang khao khát hòa bình và tình yêu thương.

(Nguồn: RV)

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/duc-thanh-cha-leo-xiv-cong-bo-ngay-the-gioi-tre-em-2026-loi-moi-goi-uom-mam-hoa-binh-tu-gia-dinh

***

40.  ĐTC Lêô XIV nói với các Giám mục Ý : Cần đặt Chúa Giêsu ở trung tâm đời sống Giáo hội

Sáng ngày 20/11/2025, ngỏ lời với các Giám mục Ý quy tụ tại Vương cung thánh đường Đức Mẹ các Thiên Thần ở Assisi, nhân bế mạc Khóa họp Khoáng đại thứ 81 của Hội đồng Giám mục Ý, Đức Thánh Cha Lêô XIV đã nhấn mạnh việc cần đặt Chúa Giêsu ở trung tâm của đời sống Giáo hội, để giúp mọi người gặp gỡ Người và trở lại với đức tin. Ngài cũng nhấn mạnh đến tinh thần hiệp hành trong Giáo hội, “cùng nhau bước đi với Đức Kitô”, đồng hành với mọi người, nhất là các gia đình, người cao tuổi và người nghèo.

Vatican News

Đặt Chúa Giêsu vào trung tâm của mọi hoạt động

Trong diễn văn, Đức Thánh Cha gợi lại lời mời gọi của Chúa dành cho Thánh Phanxicô: “Sống theo hình thức của Tin Mừng”, nhắc rằng Đức Kitô – Đấng vốn giàu sang – đã chọn sống khó nghèo cùng Mẹ Maria. Chính vì vậy, ngài mời gọi toàn thể Giám mục trước hết hãy hướng nhìn về Chúa Giêsu, đặt Người vào trung tâm của mọi hoạt động, như ngài từng nhấn mạnh với các giám mục: trong thời điểm này, hơn bao giờ hết, chúng ta cần “đặt Chúa Giêsu Kitô vào trung tâm và, theo con đường được chỉ ra bởi Tông huấn Niềm Vui Phúc Âm, giúp mọi người trải nghiệm mối tương quan cá nhân với Người, khám phá niềm vui của Tin Mừng. Trong thời đại phân mảnh lớn lao, cần phải trở về với nền tảng đức tin của chúng ta – kerygma”. Ngài nói rằng điều này phải bắt đầu từ chính các mục tử, "bắt đầu lại từ hành vi đức tin giúp chúng ta nhận ra Chúa Kitô là Đấng Cứu Độ và được thể hiện trong mọi khía cạnh của cuộc sống thường nhật.

Sứ mạng của Giáo hội là mang bình an của Chúa Phục Sinh cho toàn thế giới.

Theo Đức Thánh Cha, khi hướng mắt về Chúa Giêsu, chúng ta có khả năng nhìn thấy gương mặt của anh chị em, bởi chính tình yêu của Đức Kitô thúc đẩy ta đến với họ. Ngài nhấn mạnh rằng thế giới hôm nay bị tổn thương bởi chia rẽ, bạo lực, áp lực của công nghệ và sự cô đơn, nhưng Lời Chúa lại kêu gọi các tín hữu trở thành “nghệ nhân xây dựng tình bạn và tình huynh đệ”, biết lắng nghe, hòa giải và xây dựng văn hóa gặp gỡ. Sứ mạng của Giáo hội là mang bình an của Chúa Phục Sinh cho toàn thế giới.

Tiến trình hiệp hành

Bước sang phần định hướng mục vụ, Đức Thánh Cha nhắc lại những hướng dẫn để trở thành một Giáo hội thể hiện Tin Mừng và là dấu chỉ của Nước Thiên Chúa – việc loan báo Sứ điệp cứu độ, xây dựng hòa bình, thăng tiến phẩm giá con người, văn hóa đối thoại, và tầm nhìn nhân học Kitô giáo – đã được ngài chia sẻ với các Giám mục Ý trong cuộc gặp gỡ vào tháng Sáu năm nay. Ngài khẳng định những định hướng này hoàn toàn phù hợp với tiến trình hiệp hành tại Ý và mời gọi các Giám mục xác định đường hướng cho những năm tới trong tinh thần hiệp hành chân thực.

Chia sẻ các quyết định và thách đố

Hiệp hành, Đức Thánh Cha giải thích, nghĩa là “cùng nhau bước đi với Đức Kitô và hướng về Nước Thiên Chúa”, là ân ban của Chúa giúp định hình mọi tương quan trong Giáo hội. Ngài kêu gọi xây dựng một “Giáo hội hiệp hành”, nơi các quyết định được chia sẻ và các thách đố – từ nhân khẩu học, văn hóa đến nhu cầu loan báo Tin Mừng – cần được giải quyết bằng sự cộng tác thực sự. Ngài thúc giục không lùi lại trong vấn đề sáp nhập các giáo phận khi cần thiết, và khuyến khích từng vùng thực hiện phân định cẩn trọng, nhất là đối với các giáo phận nhỏ thiếu nguồn lực.

"Học biết rút lui"

Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng điều quan trọng là xây dựng các cộng đoàn mở ra với mọi người, hiếu khách và liên đới, nơi mọi tín hữu chia sẻ trách nhiệm trong việc loan báo Tin Mừng. Hiệp hành còn đòi hỏi lắng nghe Dân Chúa, mở rộng sự tham gia trong việc tham khảo ý kiến trước khi bổ nhiệm Giám mục mới và phối hợp nhịp nhàng giữa Tòa Thánh và các Giáo hội địa phương. Ngài nói về sự cần thiết của canh tân: Giáo hội phải luôn đổi mới và tránh sự trì trệ. Nhắc lại lời Đức Giáo hoàng Phanxicô về “học biết rút lui”, ngài khẳng định Giám mục nên kết thúc nhiệm vụ ở tuổi 75, ngoại trừ trường hợp các Hồng y có thể gia hạn thêm tối đa hai năm.

Dạy người trẻ “ở lại” mạng xã hội một cách nhân bản

Về sứ mạng rộng lớn của Giáo hội tại Ý, Đức Thánh Cha mời gọi Giáo hội Ý tiếp tục cổ võ nhân bản toàn diện, bảo vệ sự sống, chăm sóc mọi thụ tạo và can dự vào đời sống xã hội để xây dựng văn hóa hợp pháp và liên đới. Ngài cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của mục vụ trong thế giới kỹ thuật số, nơi Giáo hội phải dạy người trẻ “ở lại” mạng xã hội một cách nhân bản, chứ không chỉ dùng nó như công cụ.

Gần gũi người nghèo, người già, gia đình, người cô đơn và các nạn nhân

“Đồng hành với mọi người, cũng có nghĩa là trở thành một Giáo hội sống giữa mọi người, đón nhận những câu hỏi của họ, xoa dịu nỗi đau khổ của họ và chia sẻ hy vọng của họ”. Đức Thánh Cha đặc biệt mời gọi các Giám mục ở gần người nghèo, người già, gia đình, người cô đơn và các nạn nhân của các hình thức lạm dụng, để xây dựng một nền văn hóa phòng ngừa mọi hình thức lạm dụng và chữa lành.

Cuối cùng, Đức Thánh Cha mời gọi theo gương Thánh Phanxicô và các anh em đầu tiên của ngài – những người đã sống tinh thần hiệp hành từ thuở ban đầu – và cầu xin cho Giáo hội hôm nay can đảm bước theo con đường Tin Mừng như các ngài.

 (Nguồn: RV)

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/dtc-leo-xiv-noi-voi-cac-giam-muc-y--can-dat-chua-giesu-o-trung-tam-doi-song-giao-hoi

***

41.  Đức Thánh Cha Lêô XIV: Caritas quốc tế là “một dấu chỉ rạng ngời về tình yêu mẫu tử của Giáo hội”

Trong cuộc tiếp kiến dành cho Hội đồng Đại diện Caritas Quốc tế vào ngày 21/11, Đức Thánh Cha Lêô XIV đã ca ngợi tổ chức này là “dấu chỉ rạng ngời về tình yêu mẫu tử của Giáo hội”. Ngài mời gọi họ tiếp tục xây dựng sứ mạng trên nền tảng hòa bình, công lý và chân lý.

Vatican News

Mở đầu buổi tiếp kiến, Đức Thánh Cha gửi lời chào đến Đức Hồng y Tarcisio Isao Kikuchi – Tổng Giám mục Tokyo, Nhật Bản, và là Chủ tịch của Caritas Quốc tế - cùng toàn thể phái đoàn. Đức Thánh Cha đã bày tỏ niềm vui và lòng biết ơn sâu sắc đối với tổ chức đã và đang cống hiến sự phục vụ kiên định cho toàn thể Giáo hội qua việc thể hiện sự ưu tiên của Đức Kitô dành cho những người dễ tổn thương nhất.

Trong bài phát biểu, Đức Thánh Cha đã dùng những lời lẽ mạnh mẽ để mô tả bản chất của Caritas. Ngài tuyên bố: “Caritas Quốc tế từ lâu đã là một dấu chỉ rạng ngời về tình yêu mẫu tử của Giáo hội, và tôi cảm thấy ấm lòng khi biết rằng anh chị em sẵn sàng đồng hành cùng Người Kế vị Thánh Phêrô trong việc phục vụ mỗi người với phẩm giá”.

Ngài giải thích rằng tình yêu nhận được từ Đức Kitô không chỉ là ơn phúc cá nhân mà còn là lời mời gọi hành động. Tình yêu này không bao giờ là “kho báu riêng tư” mà luôn luôn là “một sứ mạng được trao phó vào tay chúng ta. Tình yêu sai chúng ta đi; tình yêu biến chúng ta thành tôi tớ; tình yêu mở mắt chúng ta để nhìn thấy những vết thương của người khác”.

Đức Thánh Cha tái khẳng định rằng sứ mạng của Caritas được xây dựng trên ba trụ cột chính mà ngài đã chia sẻ trước đó với Ngoại giao đoàn: hòa bình, công lý và chân lý. “Những trụ cột này không phải là những lý tưởng trừu tượng. Chúng chính là công việc hằng ngày của Caritas. Bất cứ nơi nào anh chị em đồng hành với một gia đình phải di dời, bảo vệ quyền lợi của người nghèo, hoặc dâng tặng một trái tim biết lắng nghe cho những người bị lãng quên, thì lời chứng của Giáo hội lại càng trở nên đáng tin cậy hơn”.

Đức Thánh Cha khuyến khích các nhà lãnh đạo Caritas tiếp tục củng cố việc đào tạo giáo dân và bảo vệ sự hiệp nhất trong tổ chức. Ngài khẳng định rằng sứ mạng chung của Giáo hội chỉ có thể thành công “khi chúng ta cùng nhau bước đi như những người bạn đồng hành trên đường, cho phép Chúa Thánh Thần định hình các công việc bác ái của chúng ta”.

Kết thúc bài phát biểu, Đức Thánh Cha đã phó thác công việc của Caritas cho Đức Maria, Mẹ của Người Nghèo, cầu xin cho họ luôn là “những lữ khách của niềm hy vọng và những thợ xây hòa bình”.

(Nguồn: RV)

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/duc-thanh-cha-leo-xiv-caritas-quoc-te-la-%E2%80%9Cmot-dau-chi-rang-ngoi-ve-tinh-yeu-mau-tu-cua-giao-hoi%E2%80%9D

***

42. Đức Thánh Cha tiếp các tham dự viên Khóa Đào tạo Luật pháp và Mục vụ của Tòa Thượng thẩm Roma

Sáng ngày 21/11, tiếp các tham dự viên khóa học chuyên đề do Tòa Thượng Thẩm Roma tổ chức trong bối cảnh kỷ niệm 10 năm cải tổ tiến trình tuyên bố hôn nhân vô hiệu do Đức Thánh Cha Phanxicô khởi xướng, Đức Thánh Cha Lêô XIV đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hiểu đúng chiều kích giáo hội học, pháp lý và mục vụ trong công việc tư pháp của Giáo hội, đồng thời khẳng định cải cách về giáo luật nhằm phục vụ chân lý và ơn cứu độ các linh hồn.

Vatican News

Nhấn mạnh mối quan hệ giữa ba chiều kích Giáo hội học, Pháp lý và Mục vụ, Đức Thánh Cha lưu ý đến xu hướng coi thần học, luật pháp và chăm sóc mục vụ như những ngăn kín; nhưng thực ra đây là những thành phần của một thực tại duy nhất. Theo ngài, lý do nhiều người vẫn hiểu sai là vì cho rằng tiến trình tuyên bố hôn nhân vô hiệu như một thủ tục thuần kỹ thuật hoặc một cách để đạt được “tự do về hôn nhân”. Ngài nói: “Đây là một quan điểm hời hợt, bỏ qua cả những tiền đề giáo hội học của các tiến trình này lẫn ý nghĩa mục vụ của chúng”. Thực tế, tiến trình này có nền tảng giáo hội học sâu sắc, liên quan đến thẩm quyền thiêng liêng của Giáo hội trong việc phục vụ chân lý và đến chính bản chất bí tích của hôn nhân.

Ngài nhắc đến hai nền tảng then chốt: năng quyền thiêng liêng được thực hiện trong các tiến trình tư pháp của giáo hội nhằm phục vụ sự thật và đối tượng của tiến trình chính là mầu nhiệm giao ước hôn nhân, được Thiên Chúa thiết lập và mang tính bất khả phân ly. Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng các vị mục tử khi thi hành quyền tài phán thiêng liêng thực thi một dạng “chức vụ phó tế của chân lý”, giúp các tín hữu và gia đình hiểu đúng tình trạng của họ trước mặt Giáo hội, để theo đuổi đúng đắn con đường đức tin và bác ái.

Trích dẫn Hiến chế “Lumen gentium” và thánh Augustinô, Đức Thánh Cha giải thích rằng lòng thương xót đích thực không bao giờ tách rời công lý. Chính vì vậy, “mục tiêu của cải cách, hướng đến sự dễ tiếp cận và tốc độ trong các thủ tục, nhưng không bao giờ làm tổn hại đến sự thật, do đó xuất hiện như một biểu hiện của công lý và lòng thương xót”. Lòng thương xót đích thực phải được thực thi chính xác trong việc thực thi quyền tư pháp một cách đúng đắn.

Đức Thánh Cha nhắc rằng “hôn nhân, do Thiên Chúa thiết lập, là nền tảng thần học cốt yếu của tiến trình tuyên bố hôn nhân vô hiệu. Giáo hội khẳng định hôn nhân không phải là lý tưởng trừu tượng, nhưng là chuẩn mực của tình yêu chân thật, trung tín và sinh hoa trái, và là món quà Thiên Chúa ban cho đôi vợ chồng. Nguyên tắc bất khả phân ly của dây hôn phối được tái nhấn mạnh trong bối cảnh cải tổ thủ tục. Vì thế, việc xét xử phải nhằm phục vụ chân lý về sự kết hợp cụ thể”.

Ngài cũng nhấn mạnh bản chất mục vụ của tiến trình tư pháp. Công việc của các tòa án Giáo hội không tách rời khỏi mục vụ gia đình; trái lại, là một phần thiết yếu của việc đồng hành, đặc biệt với những gia đình gặp khủng hoảng. Tiến trình điều tra tiền tố tụng – nhằm xem xét có nên mở hồ sơ hay không – là một ví dụ điển hình cho sự cộng tác mật thiết giữa mục vụ và tư pháp.

Kết thúc, Đức Thánh Cha khẳng định rằng cả ba chiều kích – giáo hội học, pháp lý và mục vụ – cùng quy hướng về “ơn cứu độ các linh hồn”, vốn là luật tối thượng của Giáo hội.

(Nguồn: RV)

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/duc-thanh-cha-tiep-cac-tham-du-vien-khoa-dao-tao-luat-phap-va-muc-vu-cua-toa-thuong-tham-roma

***

43. Mục vụ ơn gọi linh mục và tu sĩ: “Hãy để Đức Kitô tham gia lại cuộc chơi!”

Trong bối cảnh thế giới hiện đại, mục vụ ơn gọi linh mục và tu sĩ đang đứng trước yêu cầu phải chuyển mình chiến lược, từ mô hình “duy trì” trong khuôn khổ truyền thống sang mô hình “sứ vụ” năng động, sẵn sàng “quăng lưới vào hồ sâu” của thế giới thế tục, nơi có vô số người trẻ Công giáo đang hiện diện. Tuy nhiên, mọi nỗ lực đều phải bắt đầu từ một sự thật nền tảng: Trước khi một người trẻ có thể phân định ơn gọi, trái tim họ phải được thắp lửa vì Chúa Kitô.

Vatican News

Thực trạng phân cực: Suy giảm toàn cầu và mất cân bằng mục vụ

Các số liệu mới nhất từ Văn phòng Thống kê Trung ương của Tòa Thánh và Trung tâm Nghiên cứu Ứng dụng về Tông đồ tại Đại học Georgetown, Hoa Kỳ, đã phác họa một bức tranh toàn cảnh về sự phân cực rõ rệt của các ơn gọi trong Giáo hội Công giáo toàn cầu. Mặc dù số lượng tín hữu Công giáo toàn cầu tiếp tục tăng trưởng, ước đạt khoảng 1,406 tỷ người vào năm 2025, sự tăng trưởng này lại không đi kèm với sự tăng trưởng tương ứng và đồng đều về số lượng linh mục và tu sĩ.

Tổng số linh mục toàn cầu có xu hướng giảm nhẹ liên tục kể từ năm 2012, ví dụ, giảm 42 linh mục (từ 407.872 xuống còn 407.730) vào năm 2022. Cùng chung xu hướng này, số lượng nam tu sĩ không phải linh mục và nữ tu sĩ cũng đang suy giảm đáng kể, đặt ra một gánh nặng lớn lên vai các thừa tác viên còn lại.

Thậm chí, tổng số chủng sinh toàn cầu cũng giảm, ước tính khoảng 106.000 đến 108.000 chủng sinh vào năm 2022, giảm khoảng 1.3% so với năm trước. Đây là một chỉ báo quan trọng về nguồn cung linh mục trong tương lai.

Dịch chuyển trọng tâm ơn gọi: Từ Châu Âu, Châu Mỹ sang Châu Phi và Châu Á

Điểm nổi bật nhất trong xu hướng toàn cầu là sự dịch chuyển mạnh mẽ của trung tâm ơn gọi. Một mặt, Châu Âu - giảm 6% chủng sinh - và Bắc Mỹ là các khu vực truyền thống bị ảnh hưởng nặng nề nhất, đối mặt với tình trạng thiếu linh mục và tu sĩ nghiêm trọng, khiến nhiều giáo xứ phải sáp nhập hoặc phải giao phó việc mục vụ cho các thừa tác viên giáo dân.

Mặt khác, Châu Phi và Châu Á là hai khu vực có sự tăng trưởng ổn định và mạnh mẽ về ơn gọi. Hơn 60% ơn gọi mới của Giáo hội toàn cầu trong những thập kỷ gần đây đến từ hai châu lục này. Châu Phi đặc biệt nổi bật khi chiếm khoảng một phần ba tổng số chủng sinh toàn cầu và là lục địa duy nhất có mức tăng trưởng bền vững (tăng 3,2% linh mục và 1,7% tu sĩ nữ). Sự dịch chuyển này không chỉ là một thay đổi về số liệu thống kê mà còn là một dấu chỉ của thời đại, cho thấy sự sống động của Giáo hội đang ngày càng phát triển tại các “Giáo hội trẻ” ở miền Nam bán cầu.

Tại Hoa Kỳ, theo báo cáo năm học 2024-2025 của Trung tâm Nghiên cứu Ứng dụng về Tông đồ tại Đại học Georgetown, tình hình ơn gọi linh mục cho thấy sự sụt giảm chung ở cấp độ sau trung học. Cụ thể, số lượng chủng sinh tại Đại Chủng Viện giảm 8% (từ 2.920 xuống 2.686) và Tiểu Chủng Viện cấp Đại học giảm 6% (từ 889 xuống 840). Tuy nhiên, có một tia hy vọng khi Tiểu Chủng Viện cấp Trung học lại tăng nhẹ 2% (từ 295 lên 300), chứng tỏ việc nuôi dưỡng ơn gọi từ sớm vẫn còn hiệu quả.

Một điểm đáng chú ý là vai trò của các chủng sinh ngoại quốc. Khoảng 17% chủng sinh Đại chủng viện tại Hoa Kỳ là người nước ngoài, trong đó cộng đồng Công giáo Việt Nam là một điểm sáng nổi bật, đóng góp số lượng đông nhất với 80 chủng sinh.

Điều chỉnh mô hình mục vụ ơn gọi

Để đối phó với sự sụt giảm ở phương Tây và tận dụng sự sống động ở các khu vực khác, mục vụ ơn gọi đang dịch chuyển theo các hướng chiến lược, ưu tiên chất lượng hơn số lượng. Mô hình đào tạo chủng sinh đang có sự điều chỉnh sâu sắc, hướng tới việc hình thành nhân bản và thiêng liêng vững chắc. Nhiều chủng viện đã quyết định giới hạn số lượng chủng sinh để đảm bảo quy trình hình thành chất lượng cao, tin rằng sự hình thành chất lượng sẽ có tác động tích cực lâu dài hơn.

Song song đó, việc áp dụng Giai Đoạn Dự Bị mới, thường kéo dài một năm, trước khi ứng viên bước vào chương trình học thuật chính thức, đang ngày càng phổ biến. Giai đoạn này tập trung hoàn toàn vào sự phát triển nhân bản, thiêng liêng và cộng đoàn nhằm giúp các ứng viên củng cố căn bản đức tin và phân định rõ ràng hơn.

Các phương pháp hiện đại cũng nhấn mạnh sự đồng hành cá nhân sâu sắc hơn là các sự kiện đại chúng. Mục tiêu của phương pháp “Làm Môn Đệ Có Chủ Ý” không chỉ là thu hút thanh niên đến nhà thờ, mà là giúp họ hình thành mối quan hệ cá nhân sâu sắc với Chúa Kitô, điều cần được vun trồng từ giai đoạn trung học cơ sở trở đi.

Việc hình thành đức tin từ sớm ở cấp trung học cơ sở là rất quan trọng để xây dựng môn đệ có chủ ý. Nếu học sinh không phát triển được tình yêu dành cho Chúa Kitô và niềm hứng khởi với đức tin trong thời tiểu học, thì những năm trung học cơ sở và trung học phổ thông sẽ có nguy cơ trở thành một bài tập mang tính thủ tục.

Trung học cơ sở là thời kỳ then chốt để hình thành môn đệ có chủ ý, nơi các em cần được tiếp xúc với sức sống của một cuộc sống dâng hiến cho Chúa, qua gương mẫu của cả bạn bè, người cố vấn giáo dân, tu sĩ, và giáo sĩ. Vì vậy, Giáo hội cũng cần đầu tư vào việc đào tạo và trao quyền cho các lãnh đạo giáo dân - cha mẹ, giáo lý viên, giáo viên, mục vụ giới trẻ - để họ trở thành những người cố vấn và làm gương sống cho đời sống dấn thân, vì chính sự làm gương của những người dâng hiến trọn vẹn sẽ khơi gợi được những câu hỏi đầu tiên về ơn gọi nơi người trẻ.

Nghịch lý chiến lược: Ao cạn so với hồ sâu tiềm năng

Tuy nhiên, thách thức lớn nhất nằm ở chiến lược mục vụ. Phần lớn nguồn lực cổ võ ơn gọi hiện tại của Giáo hội tại phương Tây đang tập trung vào các trường Công giáo, hay nói cách khác là “cái ao đang cạn dần”. Thực tế phũ phàng cho thấy sự nghịch lý này: số lượng học sinh Công giáo đang theo học tại các trường công lập thường gấp hơn hai lần số lượng học sinh toàn bộ của trường Công giáo.

Ví dụ, trong khi một trường Công giáo tiêu biểu như Carmel Catholic High School có khoảng 1.150 học sinh, thì số lượng học sinh Công giáo tại các trường công lập lân cận có thể lên đến gần 2.828 em. Giáo hội đang lãng phí nguồn lực để cố gắng bắt cá trong ao cạn, trong khi lại ngoảnh mặt làm ngơ trước một hồ nước lớn đầy ắp tiềm năng.

Thất bại của mô hình “duy trì”: Thiếu sứ vụ và tính đích thực

Sự thất bại này bắt nguồn từ việc duy trì các mô hình mục vụ “duy trì” cũ kỹ. Các mô hình cổ điển như đêm sinh hoạt xã hội hay lớp học giáo lý khô khan đã không còn phù hợp.

Thanh thiếu niên ngày nay khao khát tính đích thực, sự dấn thân, và cơ hội để biến đức tin thành hành động. Họ muốn cảm thấy mình là một phần của một sứ vụ có ý nghĩa. Khi chúng ta chỉ cung cấp các hoạt động “duy trì” hơn là các hoạt động “sứ vụ”, chúng ta thất bại trong việc khơi gợi ngọn lửa dấn thân.

Đã đến lúc phải thực hiện một thay đổi mang tính chiến lược, chấp nhận rủi ro để “quăng lưới vào hồ sâu” của các trường công lập.

Lời kêu gọi sứ vụ mới qua phục vụ và hành động

Lời kêu gọi sứ vụ mới phải dựa trên hành động và sự phục vụ đích thực. Giới trẻ Công giáo ngày nay bị thu hút bởi đời sống môn đệ đích thực và sự phục vụ. Họ muốn tham gia vào các công việc bác ái, công lý, và phục vụ cùng với bạn bè đồng trang lứa. Chính trong những môi trường hoạt động thực tế này, chứ không phải trong một phòng học, mà những câu hỏi thiêng liêng và sự thôi thúc về ơn gọi tự nhiên nảy sinh.

Tầm nhìn mới cần tập trung vào việc tạo cơ hội phục vụ có ý nghĩa (như tổ chức các chuyến đi với các tổ chức bác ái), dự án do học sinh lãnh đạo (như các chiến dịch quyên góp, chương trình dạy kèm), và Mục vụ bí tích khu vực (như tổ chức các giờ Chầu Thánh Thể hoặc xưng tội theo khu vực để tăng quy mô và sự thu hút). Những nỗ lực này nhằm mục đích trao cho người trẻ một sứ vụ; khi họ đào sâu cảm thức về sứ vụ qua việc phục vụ, các cuộc trò chuyện về ơn gọi sẽ trở thành một phần tự nhiên của hành trình.

Hai ví dụ về giải pháp cấu trúc

Để tầm nhìn này thành hiện thực, chúng ta cần một sự thay đổi chiến lược ở hai cấp độ: cấp độ cộng tác và cấp độ hình thành đức tin.

Giải pháp cho các giáo xứ nhỏ thiếu nguồn lực có thể là khuyến khích sự hợp tác khu vực dựa trên giáo hạt, nhằm chia sẻ tình nguyện viên, nguồn tài chính và kinh nghiệm tốt nhất. Sự hợp tác này cho phép tổ chức các sự kiện quy mô lớn và giúp khử bí ẩn hóa tiến trình phân định thông qua các buổi tọa đàm ơn gọi.

Đồng thời, Giáo hội có thể áp dụng các nguyên tắc hoạt động của Newman Centers – một mô hình mục vụ đã rất thành công và phổ biến tại các trường đại học không Công giáo ở Bắc Mỹ và một số khu vực khác. Mặc dù rào cản pháp lý giới hạn hành động chính thức trong trường công lập, trung tâm đã thực hiện những hành động gián tiếp và sáng tạo bằng cách hỗ trợ các tổ chức phi lợi nhuận, tổ chức Thánh lễ, nhóm học hỏi Kinh Thánh, và thành lập các nhóm phục vụ Công giáo hoạt động ngoài khuôn viên trường. Mô hình này đã chứng minh được hiệu quả trong việc giúp sinh viên giữ vững đức tin, phát triển đời sống tâm linh sâu sắc, và thậm chí là khơi nguồn ơn gọi linh mục và tu sĩ, ngay cả khi họ đang theo học trong một môi trường học thuật thế tục.

Hãy để Đức Kitô tham gia lại cuộc chơi!

Tương lai của Giáo hội không chỉ nằm ở những con số thống kê, mà nằm ở khả năng của chúng ta trong việc khơi dậy chiều sâu đức tin và mời gọi người trẻ dấn thân. Mặc dù chúng ta chứng kiến sự sống động của ơn gọi tại Châu Phi và Châu Á, nhưng tại các khu vực truyền thống, Giáo hội phải chấp nhận một sự thay đổi chiến lược.

Sứ mạng của Giáo hội là giúp tất cả người trẻ Công giáo khám phá niềm vui khi sống vì người khác, bởi vì ơn gọi linh mục-tu sĩ, tự bản chất là một lời kêu gọi tự hiến, làm môn đệ Chúa Ki-tô và phục vụ anh chị em đồng loại theo gương của Người. Giáo hội phải sẵn sàng thay đổi cấu trúc mục vụ từ duy trì sang sứ vụ, và can đảm quăng lưới nơi cá đang dồi dào, chứ không phải nơi an toàn và quen thuộc.

Trước khi một người trẻ có thể phân định ơn gọi, trái tim họ phải được thắp lửa vì Chúa Kitô. Niềm đam mê đó được nhóm lên qua mục vụ dựa trên những tương quan chân thực, những giờ giáo lý hiệu quả, và những công việc phục vụ ý nghĩa.

Hãy để Đức Kitô tham gia lại cuộc chơi! Đây là lời kêu gọi khẩn thiết. Mục vụ không nên tập trung vào các cơ cấu, chương trình, hay sự kiện bề ngoài. Thay vào đó, Giáo hội cần tái tập trung vào Đức Kitô là trọng tâm của mọi tương quan và hoạt động, giúp người trẻ có trải nghiệm trực tiếp về sự hiện diện và quyền năng của Ngài.

Tương lai của Giáo hội không phụ thuộc vào số lượng chương trình mục vụ, mà phụ thuộc vào việc chúng ta có thành công trong việc tạo ra những trái tim yêu mến Chúa Kitô nồng cháy hay không. Đây là một “lựa chọn chiến lược” mà Giáo hội cần thực hiện ngay từ hôm nay.

(Nguồn: RV)

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/muc-vu-on-goi-linh-muc-va-tu-si-%E2%80%9Chay-de-duc-kito-tham-gia-lai-cuoc-choi%E2%80%9D

***

44.  Mục vụ ơn gọi linh mục và tu sĩ: “Hãy để Đức Kitô tham gia lại cuộc chơi!”

Trong bối cảnh thế giới hiện đại, mục vụ ơn gọi linh mục và tu sĩ đang đứng trước yêu cầu phải chuyển mình chiến lược, từ mô hình “duy trì” trong khuôn khổ truyền thống sang mô hình “sứ vụ” năng động, sẵn sàng “quăng lưới vào hồ sâu” của thế giới thế tục, nơi có vô số người trẻ Công giáo đang hiện diện. Tuy nhiên, mọi nỗ lực đều phải bắt đầu từ một sự thật nền tảng: Trước khi một người trẻ có thể phân định ơn gọi, trái tim họ phải được thắp lửa vì Chúa Kitô.

Vatican News

Thực trạng phân cực: Suy giảm toàn cầu và mất cân bằng mục vụ

Các số liệu mới nhất từ Văn phòng Thống kê Trung ương của Tòa Thánh và Trung tâm Nghiên cứu Ứng dụng về Tông đồ tại Đại học Georgetown, Hoa Kỳ, đã phác họa một bức tranh toàn cảnh về sự phân cực rõ rệt của các ơn gọi trong Giáo hội Công giáo toàn cầu. Mặc dù số lượng tín hữu Công giáo toàn cầu tiếp tục tăng trưởng, ước đạt khoảng 1,406 tỷ người vào năm 2025, sự tăng trưởng này lại không đi kèm với sự tăng trưởng tương ứng và đồng đều về số lượng linh mục và tu sĩ.

Tổng số linh mục toàn cầu có xu hướng giảm nhẹ liên tục kể từ năm 2012, ví dụ, giảm 42 linh mục (từ 407.872 xuống còn 407.730) vào năm 2022. Cùng chung xu hướng này, số lượng nam tu sĩ không phải linh mục và nữ tu sĩ cũng đang suy giảm đáng kể, đặt ra một gánh nặng lớn lên vai các thừa tác viên còn lại.

Thậm chí, tổng số chủng sinh toàn cầu cũng giảm, ước tính khoảng 106.000 đến 108.000 chủng sinh vào năm 2022, giảm khoảng 1.3% so với năm trước. Đây là một chỉ báo quan trọng về nguồn cung linh mục trong tương lai.

Dịch chuyển trọng tâm ơn gọi: Từ Châu Âu, Châu Mỹ sang Châu Phi và Châu Á

Điểm nổi bật nhất trong xu hướng toàn cầu là sự dịch chuyển mạnh mẽ của trung tâm ơn gọi. Một mặt, Châu Âu - giảm 6% chủng sinh - và Bắc Mỹ là các khu vực truyền thống bị ảnh hưởng nặng nề nhất, đối mặt với tình trạng thiếu linh mục và tu sĩ nghiêm trọng, khiến nhiều giáo xứ phải sáp nhập hoặc phải giao phó việc mục vụ cho các thừa tác viên giáo dân.

Mặt khác, Châu Phi và Châu Á là hai khu vực có sự tăng trưởng ổn định và mạnh mẽ về ơn gọi. Hơn 60% ơn gọi mới của Giáo hội toàn cầu trong những thập kỷ gần đây đến từ hai châu lục này. Châu Phi đặc biệt nổi bật khi chiếm khoảng một phần ba tổng số chủng sinh toàn cầu và là lục địa duy nhất có mức tăng trưởng bền vững (tăng 3,2% linh mục và 1,7% tu sĩ nữ). Sự dịch chuyển này không chỉ là một thay đổi về số liệu thống kê mà còn là một dấu chỉ của thời đại, cho thấy sự sống động của Giáo hội đang ngày càng phát triển tại các “Giáo hội trẻ” ở miền Nam bán cầu.

Tại Hoa Kỳ, theo báo cáo năm học 2024-2025 của Trung tâm Nghiên cứu Ứng dụng về Tông đồ tại Đại học Georgetown, tình hình ơn gọi linh mục cho thấy sự sụt giảm chung ở cấp độ sau trung học. Cụ thể, số lượng chủng sinh tại Đại Chủng Viện giảm 8% (từ 2.920 xuống 2.686) và Tiểu Chủng Viện cấp Đại học giảm 6% (từ 889 xuống 840). Tuy nhiên, có một tia hy vọng khi Tiểu Chủng Viện cấp Trung học lại tăng nhẹ 2% (từ 295 lên 300), chứng tỏ việc nuôi dưỡng ơn gọi từ sớm vẫn còn hiệu quả.

Một điểm đáng chú ý là vai trò của các chủng sinh ngoại quốc. Khoảng 17% chủng sinh Đại chủng viện tại Hoa Kỳ là người nước ngoài, trong đó cộng đồng Công giáo Việt Nam là một điểm sáng nổi bật, đóng góp số lượng đông nhất với 80 chủng sinh.

Điều chỉnh mô hình mục vụ ơn gọi

Để đối phó với sự sụt giảm ở phương Tây và tận dụng sự sống động ở các khu vực khác, mục vụ ơn gọi đang dịch chuyển theo các hướng chiến lược, ưu tiên chất lượng hơn số lượng. Mô hình đào tạo chủng sinh đang có sự điều chỉnh sâu sắc, hướng tới việc hình thành nhân bản và thiêng liêng vững chắc. Nhiều chủng viện đã quyết định giới hạn số lượng chủng sinh để đảm bảo quy trình hình thành chất lượng cao, tin rằng sự hình thành chất lượng sẽ có tác động tích cực lâu dài hơn.

Song song đó, việc áp dụng Giai Đoạn Dự Bị mới, thường kéo dài một năm, trước khi ứng viên bước vào chương trình học thuật chính thức, đang ngày càng phổ biến. Giai đoạn này tập trung hoàn toàn vào sự phát triển nhân bản, thiêng liêng và cộng đoàn nhằm giúp các ứng viên củng cố căn bản đức tin và phân định rõ ràng hơn.

Các phương pháp hiện đại cũng nhấn mạnh sự đồng hành cá nhân sâu sắc hơn là các sự kiện đại chúng. Mục tiêu của phương pháp “Làm Môn Đệ Có Chủ Ý” không chỉ là thu hút thanh niên đến nhà thờ, mà là giúp họ hình thành mối quan hệ cá nhân sâu sắc với Chúa Kitô, điều cần được vun trồng từ giai đoạn trung học cơ sở trở đi.

Việc hình thành đức tin từ sớm ở cấp trung học cơ sở là rất quan trọng để xây dựng môn đệ có chủ ý. Nếu học sinh không phát triển được tình yêu dành cho Chúa Kitô và niềm hứng khởi với đức tin trong thời tiểu học, thì những năm trung học cơ sở và trung học phổ thông sẽ có nguy cơ trở thành một bài tập mang tính thủ tục.

Trung học cơ sở là thời kỳ then chốt để hình thành môn đệ có chủ ý, nơi các em cần được tiếp xúc với sức sống của một cuộc sống dâng hiến cho Chúa, qua gương mẫu của cả bạn bè, người cố vấn giáo dân, tu sĩ, và giáo sĩ. Vì vậy, Giáo hội cũng cần đầu tư vào việc đào tạo và trao quyền cho các lãnh đạo giáo dân - cha mẹ, giáo lý viên, giáo viên, mục vụ giới trẻ - để họ trở thành những người cố vấn và làm gương sống cho đời sống dấn thân, vì chính sự làm gương của những người dâng hiến trọn vẹn sẽ khơi gợi được những câu hỏi đầu tiên về ơn gọi nơi người trẻ.

Nghịch lý chiến lược: Ao cạn so với hồ sâu tiềm năng

Tuy nhiên, thách thức lớn nhất nằm ở chiến lược mục vụ. Phần lớn nguồn lực cổ võ ơn gọi hiện tại của Giáo hội tại phương Tây đang tập trung vào các trường Công giáo, hay nói cách khác là “cái ao đang cạn dần”. Thực tế phũ phàng cho thấy sự nghịch lý này: số lượng học sinh Công giáo đang theo học tại các trường công lập thường gấp hơn hai lần số lượng học sinh toàn bộ của trường Công giáo.

Ví dụ, trong khi một trường Công giáo tiêu biểu như Carmel Catholic High School có khoảng 1.150 học sinh, thì số lượng học sinh Công giáo tại các trường công lập lân cận có thể lên đến gần 2.828 em. Giáo hội đang lãng phí nguồn lực để cố gắng bắt cá trong ao cạn, trong khi lại ngoảnh mặt làm ngơ trước một hồ nước lớn đầy ắp tiềm năng.

Thất bại của mô hình “duy trì”: Thiếu sứ vụ và tính đích thực

Sự thất bại này bắt nguồn từ việc duy trì các mô hình mục vụ “duy trì” cũ kỹ. Các mô hình cổ điển như đêm sinh hoạt xã hội hay lớp học giáo lý khô khan đã không còn phù hợp.

Thanh thiếu niên ngày nay khao khát tính đích thực, sự dấn thân, và cơ hội để biến đức tin thành hành động. Họ muốn cảm thấy mình là một phần của một sứ vụ có ý nghĩa. Khi chúng ta chỉ cung cấp các hoạt động “duy trì” hơn là các hoạt động “sứ vụ”, chúng ta thất bại trong việc khơi gợi ngọn lửa dấn thân.

Đã đến lúc phải thực hiện một thay đổi mang tính chiến lược, chấp nhận rủi ro để “quăng lưới vào hồ sâu” của các trường công lập.

Lời kêu gọi sứ vụ mới qua phục vụ và hành động

Lời kêu gọi sứ vụ mới phải dựa trên hành động và sự phục vụ đích thực. Giới trẻ Công giáo ngày nay bị thu hút bởi đời sống môn đệ đích thực và sự phục vụ. Họ muốn tham gia vào các công việc bác ái, công lý, và phục vụ cùng với bạn bè đồng trang lứa. Chính trong những môi trường hoạt động thực tế này, chứ không phải trong một phòng học, mà những câu hỏi thiêng liêng và sự thôi thúc về ơn gọi tự nhiên nảy sinh.

Tầm nhìn mới cần tập trung vào việc tạo cơ hội phục vụ có ý nghĩa (như tổ chức các chuyến đi với các tổ chức bác ái), dự án do học sinh lãnh đạo (như các chiến dịch quyên góp, chương trình dạy kèm), và Mục vụ bí tích khu vực (như tổ chức các giờ Chầu Thánh Thể hoặc xưng tội theo khu vực để tăng quy mô và sự thu hút). Những nỗ lực này nhằm mục đích trao cho người trẻ một sứ vụ; khi họ đào sâu cảm thức về sứ vụ qua việc phục vụ, các cuộc trò chuyện về ơn gọi sẽ trở thành một phần tự nhiên của hành trình.

Hai ví dụ về giải pháp cấu trúc

Để tầm nhìn này thành hiện thực, chúng ta cần một sự thay đổi chiến lược ở hai cấp độ: cấp độ cộng tác và cấp độ hình thành đức tin.

Giải pháp cho các giáo xứ nhỏ thiếu nguồn lực có thể là khuyến khích sự hợp tác khu vực dựa trên giáo hạt, nhằm chia sẻ tình nguyện viên, nguồn tài chính và kinh nghiệm tốt nhất. Sự hợp tác này cho phép tổ chức các sự kiện quy mô lớn và giúp khử bí ẩn hóa tiến trình phân định thông qua các buổi tọa đàm ơn gọi.

Đồng thời, Giáo hội có thể áp dụng các nguyên tắc hoạt động của Newman Centers – một mô hình mục vụ đã rất thành công và phổ biến tại các trường đại học không Công giáo ở Bắc Mỹ và một số khu vực khác. Mặc dù rào cản pháp lý giới hạn hành động chính thức trong trường công lập, trung tâm đã thực hiện những hành động gián tiếp và sáng tạo bằng cách hỗ trợ các tổ chức phi lợi nhuận, tổ chức Thánh lễ, nhóm học hỏi Kinh Thánh, và thành lập các nhóm phục vụ Công giáo hoạt động ngoài khuôn viên trường. Mô hình này đã chứng minh được hiệu quả trong việc giúp sinh viên giữ vững đức tin, phát triển đời sống tâm linh sâu sắc, và thậm chí là khơi nguồn ơn gọi linh mục và tu sĩ, ngay cả khi họ đang theo học trong một môi trường học thuật thế tục.

Hãy để Đức Kitô tham gia lại cuộc chơi!

Tương lai của Giáo hội không chỉ nằm ở những con số thống kê, mà nằm ở khả năng của chúng ta trong việc khơi dậy chiều sâu đức tin và mời gọi người trẻ dấn thân. Mặc dù chúng ta chứng kiến sự sống động của ơn gọi tại Châu Phi và Châu Á, nhưng tại các khu vực truyền thống, Giáo hội phải chấp nhận một sự thay đổi chiến lược.

Sứ mạng của Giáo hội là giúp tất cả người trẻ Công giáo khám phá niềm vui khi sống vì người khác, bởi vì ơn gọi linh mục-tu sĩ, tự bản chất là một lời kêu gọi tự hiến, làm môn đệ Chúa Ki-tô và phục vụ anh chị em đồng loại theo gương của Người. Giáo hội phải sẵn sàng thay đổi cấu trúc mục vụ từ duy trì sang sứ vụ, và can đảm quăng lưới nơi cá đang dồi dào, chứ không phải nơi an toàn và quen thuộc.

Trước khi một người trẻ có thể phân định ơn gọi, trái tim họ phải được thắp lửa vì Chúa Kitô. Niềm đam mê đó được nhóm lên qua mục vụ dựa trên những tương quan chân thực, những giờ giáo lý hiệu quả, và những công việc phục vụ ý nghĩa.

Hãy để Đức Kitô tham gia lại cuộc chơi! Đây là lời kêu gọi khẩn thiết. Mục vụ không nên tập trung vào các cơ cấu, chương trình, hay sự kiện bề ngoài. Thay vào đó, Giáo hội cần tái tập trung vào Đức Kitô là trọng tâm của mọi tương quan và hoạt động, giúp người trẻ có trải nghiệm trực tiếp về sự hiện diện và quyền năng của Ngài.

Tương lai của Giáo hội không phụ thuộc vào số lượng chương trình mục vụ, mà phụ thuộc vào việc chúng ta có thành công trong việc tạo ra những trái tim yêu mến Chúa Kitô nồng cháy hay không. Đây là một “lựa chọn chiến lược” mà Giáo hội cần thực hiện ngay từ hôm nay.

(Nguồn: RV)

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/muc-vu-on-goi-linh-muc-va-tu-si-%E2%80%9Chay-de-duc-kito-tham-gia-lai-cuoc-choi%E2%80%9D

***

45.  Đại hội Truyền giáo Châu Á: Trở nên những Lữ khách của Hy vọng

Đại hội Truyền giáo của các Giáo hội Châu Á sẽ diễn ra từ ngày 27-30/11 tại Penang, Malaysia. Sự kiện do Văn phòng Loan báo Tin Mừng của Liên Hội đồng Giám mục Châu Á và Các Hiệp hội Truyền giáo Giáo hoàng tổ chức, với trọng tâm là thảo luận và định hướng tương lai của sứ vụ truyền giáo tại Châu Á.

Vatican News

Đại hội dự kiến quy tụ hơn 900 đại biểu đến từ khắp các lục địa, bao gồm 10 Hồng Y, hơn 100 Giám mục, 150 linh mục, 75 nữ tu và hơn 500 giáo dân. Chủ đề “Cuộc hành hương vĩ đại của hy vọng” được lấy cảm hứng từ Tin Mừng Mátthêu: “...họ đã đi lối khác mà về” (Mt 2,12). Chủ đề này mời gọi toàn thể Giáo hội Châu Á tự vấn và tìm kiếm hướng đi mới. Cha Basel Fernando, Giám đốc Các Hiệp hội Truyền giáo Giáo hoàng tại Sri Lanka, tóm tắt tinh thần này: “Chúng tôi sẽ tự hỏi con đường nào cần đi theo cho tương lai của Giáo hội tại Châu Á”.

Các phiên làm việc được thực hiện theo phương pháp “các cuộc trò chuyện trong Chúa Thánh Thần”, một phương pháp đã được áp dụng hiệu quả trong khuôn khổ Thượng Hội đồng Giám mục toàn thế giới.

Bài phát biểu khai mạc trọng tâm được giao cho Đức Hồng Y Luis Antonio Tagle, Trưởng Phân bộ thứ hai của Bộ Loan báo Tin Mừng, mời gọi các đại biểu “đổi mới bản thân như những lữ khách của hy vọng”.

Trong ngày thứ hai của sự kiện, Đức Tổng Giám mục Simon Poh của Tổng Giáo phận Kuching, Malaysia sẽ trình bày về chủ đề cùng nhau bước đi trong sự đa dạng của các dân tộc Châu Á.

Ngày thứ ba được dành cho bài thuyết trình của Đức Hồng Y Pablo Virgilio David, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Philippines. Ngài sẽ tập trung suy tư về hành trình đức tin hướng tới năm 2033, năm kỷ niệm hai ngàn năm ơn cứu chuộc được thực hiện qua cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu.

Đại hội tổ chức nhiều hội thảo chuyên đề nhằm đối mặt với các thách thức hiện tại của việc loan báo Tin Mừng, bao gồm: Vai trò của truyền thông kỹ thuật số và trí tuệ nhân tạo; Đối thoại trong các xã hội đa nguyên và tìm kiếm hòa bình; Thúc đẩy sinh thái toàn diện và đóng góp của “thiên tài nữ giới”; Xây dựng một Giáo hội hiệp hành trong sứ vụ; Sứ vụ tại nơi làm việc, đào tạo giới trẻ, và bản dạng giới từ góc độ Công giáo.

Các “biên giới sáng tạo của việc loan báo Tin Mừng” cũng được khám phá qua các buổi hội thảo về âm nhạc, đổi mới kỹ thuật số và việc sử dụng loạt phim “The Chosen” như một công cụ truyền giáo hiệu quả.

Đại hội sẽ kết thúc sau bài phát biểu của Đức Tổng Giám mục Christopher Prowse, chủ tịch Ủy ban Giám mục Úc về Truyền giáo, Giáo dân và Mục vụ bằng một cuộc tọa đàm tổng hợp. Các diễn giả khẳng định, hành trình truyền giáo tương lai của Châu Á sẽ được định hình bởi tinh thần lắng nghe, tính sáng tạo mục vụ và tâm thế của “những lữ khách của hy vọng”.

(Nguồn: RV)

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/dai-hoi-truyen-giao-chau-a-tro-nen-nhung-lu-khach-cua-hy-vong

***

46.  Tông thư “In Unitate Fidei”: Lời hiệu triệu khẩn thiết về hiệp nhất Kitô giáo và hòa bình

Nhân dịp kỉ niệm 1700 năm Công đồng Nixêa, Đức Thánh Cha Lêô XIV đã công bố Tông thư mang tên “In Unitate Fidei” (Trong sự Hiệp nhất của Đức tin). Văn kiện này không chỉ nhìn lại lịch sử mà còn là lời mời gọi khẩn thiết gửi đến tất cả các Kitô hữu, thúc đẩy họ “cùng nhau bước đi để đạt được sự hiệp nhất và hòa giải” nhằm trở thành “dấu chỉ hòa bình” trong thế giới đang bị chia cắt.

Vatican News

Trong tông thư được công bố ngày lễ Chúa Giêsu Kitô Vua vũ trụ 23/11 vừa qua,  Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng Kinh Tin Kính Nixêa-Constantinope là “di sản chung giữa các Kitô hữu” qua nhiều thế kỷ và là “trọng tâm của đức tin Kitô giáo”, tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô là “Con Một Thiên Chúa, đồng bản thể với Chúa Cha”. Công đồng Nixêa có một “giá trị đại kết cao cả nhất”, cung cấp cơ sở vững chắc cho phong trào đại kết ngày nay.

Đức Thánh Cha mời gọi các tín hữu thực hiện một “cuộc xét mình” sâu sắc dựa trên Kinh Tin Kính: Thiên Chúa có thực sự là Đấng Toàn Năng duy nhất trong cuộc đời tôi, hay tôi đang tôn thờ những “thần tượng” khác? Tôi có đang “gìn giữ và vun trồng” tạo vật một cách công bằng hay đang “khai thác” và “hủy hoại” nó?

Mặc dù sự hiệp nhất hữu hình trọn vẹn vẫn chưa đạt được, Đức Thánh Cha Lêô XIV ca ngợi những thành tựu của đối thoại đại kết trong việc giúp các Giáo hội đón nhận nhau như những “anh chị em trong Chúa Giêsu Kitô”. Ngài hình dung về một “nền đại kết hướng tới tương lai” – không phải là sự quay về quá khứ hay chấp nhận hiện trạng, mà là một hành trình “hòa giải trên con đường đối thoại” và “trao đổi các ân huệ thiêng liêng”.

Để đạt được mục tiêu này, cần phải gác lại “những tranh cãi thần học đã mất đi lý do tồn tại của chúng” và tập trung vào “sự lắng nghe và đón nhận lẫn nhau”. Đây là một thách thức thiêng liêng, đòi hỏi “sự hoán cải từ tất cả mọi người”, và cần một “nền đại kết thiêng liêng của lời cầu nguyện”.

Đức Thánh Cha nhắc nhở rằng, trong thế giới hiện tại “bị chia rẽ và xâu xé bởi nhiều xung đột”, các môn đệ Chúa Kitô phải là “dấu chỉ hòa bình và công cụ hòa giải”. Con đường của Chúa Giêsu là con đường của sự hạ mình và dâng hiến cho tha nhân, đặc biệt là “những người nghèo và thấp kém nhất”.

Đức Thánh Cha kết luận: “Nếu Thiên Chúa yêu thương chúng ta hết lòng, thì chúng ta cũng phải yêu thương nhau”. Chỉ khi làm chứng cho lòng thương xót của Thiên Chúa qua hành động cụ thể đối với những người đau khổ, chúng ta mới có thể giúp những người chưa tin vào Thiên Chúa “trải nghiệm lòng thương xót của Người thông qua chúng ta”.

(Nguồn: RV)

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/tong-thu-%E2%80%9Cin-unitate-fidei%E2%80%9D-loi-hieu-trieu-khan-thiet-ve-hiep-nhat-kito-giao-va-hoa-binh

***

47. Vatican ban hành Quy chế Tổng quát mới và quy chế nhân sự cho Giáo triều Roma

Ngày 23/11/2025 - lễ Chúa Kitô Vua, Đức Giáo hoàng Lêô XIV đã chính thức phê duyệt và ban hành “Quy chế Tổng quát của Giáo triều Roma”, một văn bản pháp lý quan trọng định hình lại cơ cấu tổ chức, hoạt động và phương thức điều hành của toàn bộ hệ thống Giáo triều Roma. Quy chế được công bố “để thử nghiệm” (ad experimentum) trong 5 năm, bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2026, đánh dấu bước tiến tiếp theo trong công cuộc canh tân Giáo triều theo tinh thần Tông hiến Praedicate Evangelium.

Vatican News

Khung pháp lý và phạm vi áp dụng

Quy chế mới áp dụng cho tất cả các cơ quan Giáo triều: bao gồm Phủ Quốc Vụ Khanh, các Bộ, các Cơ quan Tư pháp và Cơ quan Kinh tế của Tòa Thánh. Văn bản định nghĩa rõ phạm vi, cấu trúc và thẩm quyền của các cơ quan này nhằm bảo đảm tính minh bạch, thống nhất và hiệu quả trong hoạt động phục vụ sứ mạng của Đức Giáo hoàng.

Một trong những quy định đầu tiên được nêu ra là thời gian làm việc tối thiểu của các cơ quan: 36 giờ mỗi tuần, với khả năng điều chỉnh khi có lý do đặc biệt theo phê chuẩn của Phủ Quốc Vụ Khanh.

Tăng cường phối hợp cấp cao của Giáo triều

Quy chế dành nhiều điều khoản để quy định chi tiết các cuộc họp cấp cao, bao gồm: Công nghị của Hồng y đoàn; Họp các lãnh đạo cơ quan Giáo triều, được Phủ Quốc Vụ Khanh triệu tập nhằm điều phối kế hoạch mục vụ và hành chính; Hội nghị liên bộ, tập hợp nhiều Bộ để giải quyết các vấn đề liên ngành.

Các cuộc họp này đảm bảo sự liên kết chặt chẽ giữa các cơ quan, thống nhất hướng đi và tránh trùng lặp hoặc xung đột trong hoạt động. Quy chế quy định tỉ mỉ thủ tục họp, thành phần tham dự, cách bỏ phiếu, lập biên bản và báo cáo lên Đức Giáo hoàng.

Cơ chế ra quyết định và thẩm quyền pháp lý

Quy chế nhấn mạnh rằng mỗi cơ quan phải hoạt động trong khuôn khổ thẩm quyền do Praedicate Evangelium xác định. Các Bộ được phép ban hành nghị định thi hành và hướng dẫn mục vụ, nhưng không được ban hành luật hay sửa đổi luật hiện hành nếu không có sự phê chuẩn đặc biệt của Đức Giáo hoàng.

Liên hệ với Giáo hội địa phương và việc thăm viếng ad limina

Quy chế cũng nhấn mạnh vai trò của Giáo triều trong việc hỗ trợ các Giáo phận, đồng thời quy định chi tiết tiến trình thăm viếng ad limina, bao gồm: Gửi báo cáo 6 tháng trước chuyến viếng thăm; các buổi gặp gỡ Đức Giáo hoàng; các phiên làm việc với các Bộ có liên quan.

Quy chế Nhân sự của Giáo triều

Cùng với việc công bố Tổng quát mới cho Giáo triều Roma, Vatican cũng công bố Quy chế Nhân sự của Giáo triều, một văn bản pháp lý toàn diện quy định cơ cấu tổ chức, tiêu chuẩn tuyển dụng, quyền lợi, nghĩa vụ và kỷ luật của toàn bộ nhân sự đang phục vụ tại các cơ quan thuộc Giáo triều. Quy chế này được ban hành nhằm bảo đảm sự minh bạch, hiệu quả và tinh thần phục vụ trong toàn bộ hệ thống hành chính trung ương của Tòa Thánh.

Theo văn bản, quy chế đặt nền tảng trên Tông hiến Praedicate Evangelium, vốn cải tổ sâu rộng Giáo triều Rôma để đáp ứng nhu cầu mục vụ của Giáo hội hoàn vũ. Các quy định mới nêu rõ tính chất “việc phục vụ giáo hội” của mọi công việc trong Giáo triều: nhân sự không chỉ thực thi nhiệm vụ hành chính, mà còn tham gia vào sứ mạng của Đức Giáo hoàng trong tinh thần phục vụ, trách nhiệm và trung thành.

Cơ cấu tổ chức và bộ máy nhân sự

Mỗi cơ quan của Giáo triều được điều hành bởi một Bộ trưởng hoặc chức danh tương đương, cùng với các Thư ký và Phó Thư ký. Nhân sự được phân bổ theo hệ thống 10 cấp bậc chức năng, mỗi cấp có mô tả công việc và mức lương tương ứng. Danh sách biên chế chính thức phải được mỗi cơ quan trình lên và được Bộ Kinh tế phê duyệt.

Việc bổ nhiệm các chức vụ cao – như Giám đốc, Thư ký, các chức danh lãnh đạo hoặc cố vấn – đều do Đức Giáo hoàng trực tiếp quyết định theo nhiệm kỳ 5 năm. Nhân sự thường được tuyển chọn dựa trên tiêu chí đạo đức, chuyên môn, kinh nghiệm và đời sống đức tin.

Quy định tuyển dụng và hợp đồng

Quy chế chia nhân sự thành ba nhóm: (1) Giáo sĩ và tu sĩ thuộc các Dòng tu hay Hội dòng, thường phục vụ theo hợp đồng 5 năm có thể gia hạn; (2) Nhân viên giáo dân, trải qua thời gian thử việc từ 1 đến 2 năm trước khi được tuyển dụng chính thức ; (3) Ngoài ra còn có các loại hợp đồng đặc biệt, như hợp đồng thời vụ, làm việc theo giờ, chuyên gia tư vấn, thực tập sinh hay thiện nguyện viên.

Mọi ứng viên đều phải đáp ứng yêu cầu về sức khỏe, lý lịch tư pháp trong sạch, trình độ học vấn phù hợp và sự chấp thuận của cơ quan liên quan.

Kỷ luật, nghĩa vụ và chuẩn mực đạo đức

Toàn bộ nhân sự được yêu cầu sống và làm việc theo chuẩn mực đạo đức Công giáo, tôn trọng bí mật công vụ, tuân thủ phong cách làm việc trang nghiêm và liêm chính. Việc tiết lộ thông tin, lạm dụng chức vụ, vi phạm kỷ luật hay làm tổn hại danh dự của cơ quan đều bị xử lý nghiêm, từ cảnh cáo bằng miệng, cảnh cáo bằng văn bản, phạt hành chính, đình chỉ công tác cho đến sa thải hoặc bãi nhiệm theo luật định đối với các trường hợp vi phạm nghiêm trọng.

Chế độ làm việc, nghỉ phép và phúc lợi

Thời gian làm việc được quy định ở mức 36 giờ mỗi tuần, có thể linh hoạt tùy theo nhu cầu của từng cơ quan. Nhân viên toàn thời gian có quyền hưởng 158 giờ nghỉ mỗi năm, cùng với những ngày nghỉ lễ, tham gia tĩnh tâm và được hưởng các chế độ bảo hiểm, y tế, thai sản và trợ cấp gia đình theo quy định của Vatican.

Trường hợp bệnh tật, nhân viên có thể được nghỉ tối đa 18 tháng trong chu kỳ 3 năm nếu có giấy chứng nhận y tế. Việc chuyển đổi công tác giữa các cơ quan Giáo triều được phép thực hiện khi có sự đồng thuận của hai bên và được Bộ Kinh tế phê duyệt.

(Nguồn: RV)

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/vatican-ban-hanh-quy-che-tong-quat-moi-va-quy-che-nhan-su-cho-giao-trieu-roma

***

48.  Đức Thánh Cha Lêô XIV mời gọi Dòng Tôi Tớ Đức Mẹ: Hãy là dấu chỉ hòa bình trong thế giới phân cực

Ngày 24/11 vừa qua, Đức Thánh Cha Lêô XIV đã tiếp kiến các tham dự viên Khóa Tổng Tu Nghị lần thứ 215 của Dòng Tôi Tớ Đức Mẹ. Với chủ đề “Trở nên Tôi Tớ trong một thế giới bị phân cực để xây dựng những gì hiệp nhất chúng ta, đồng thời trân trọng những khác biệt”, Đức Thánh Cha đã phác thảo ba con đường sứ vụ cho Dòng trong thời đại hiện nay: tình huynh đệ, tinh thần phục vụ và linh đạo Đức Maria.

Vatican News

Đức Thánh Cha nhấn mạnh bối cảnh thế giới hiện đại đang bị chia rẽ sâu sắc bởi chiến tranh, xung đột, sự chênh lệch giàu nghèo, khác biệt về chủng tộc và tôn giáo. Ngài khẳng định Dòng Tôi Tớ Đức Mẹ có một ơn gọi đặc biệt: đó là, sống và mang tình huynh đệ đến những nơi con người bị tổn thương. Ngài mời gọi các tu sĩ noi gương bảy vị sáng lập Dòng – một “trường hợp gần như độc nhất” trong lịch sử các hội dòng – những người đã xây dựng tình bạn vững mạnh trong Chúa Kitô và trở thành sứ giả hòa giải giữa những thù hận trong các thành phố của họ.

Để có cái nhìn “tiên tri” về tương lai, Đức Giáo Hoàng kêu gọi Dòng trở về nguồn: “Càng trở về nguồn gốc của mình, càng trở nên có khả năng sáng tạo và tiên tri”. Điều này bao gồm việc đọc lại Lời Chúa, Quy luật, Hiến pháp và di sản linh đạo.

Sự phục vụ của Dòng phải gắn liền với việc lắng nghe “tiếng kêu của người nghèo”, mà Đức Thánh Cha gọi là “thời điểm ân sủng”. Ngài khuyến khích Dòng tiếp tục tận tâm phục vụ những người bị tổn thương nhất, bao gồm người nhập cư, tù nhân, và người bệnh. Đức Thánh Cha cũng mời gọi các tu sĩ dấn thân vào việc thúc đẩy sinh thái học toàn diện để bảo vệ công trình sáng tạo và con người tại những nơi Dòng hoạt động. Ngài khẳng định rằng chỉ trong sự kết hợp giữa “niềm đam mê dành cho Thiên Chúa và cho con người, mới có thể sinh ra những lựa chọn đúng đắn”.

Kết thúc buổi gặp gỡ, Đức Thánh Cha cổ võ Dòng Tôi Tớ Đức Mẹ, với tư cách là “những người yêu mến đặc biệt, vĩ đại của Đức Mẹ”, phát huy lòng sùng kính Đức Trinh Nữ dựa trên nền tảng thần học vững chắc. Ngài ca ngợi những đóng góp của Dòng tại phân khoa Thần học Marianum ở Roma và trong việc chăm sóc mục vụ tại các Đền Thánh Đức Mẹ. Ngài mời gọi các tu sĩ nhìn vào Mẹ Maria, Đấng mạnh mẽ và trung thành đứng bên Thánh Giá: “Mẹ Maria sẽ chỉ cho anh em cách đứng bên vô số thập giá nơi Chúa Kitô vẫn còn chịu khổ trong anh chị em của Người, để mang lại niềm an ủi, hiệp thông, sự giúp đỡ và tấm bánh quý giá của tình thân”.

Dòng Tôi Tớ Đức Mẹ hiện có khoảng 700 tu sĩ nam cùng với các nữ tu chiêm niệm, các nữ tu hoạt động và giáo dân đã thánh hiến.

(Nguồn: RV)

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/duc-thanh-cha-leo-xiv-moi-goi-dong-toi-to-duc-me-hay-la-dau-chi-hoa-binh-trong-the-gioi-phan-cuc

***

49. Đức Thánh Cha Lêô XIV kêu gọi tăng cường nhận thức về tình trạng thiếu việc làm

Trong một sứ điệp gửi đến Hội nghị toàn quốc của Liên đoàn Quốc gia Ý về Thủ công mỹ nghệ và Doanh nghiệp vừa và nhỏ, Đức Thánh Cha Lêô XIV đã bày tỏ mối quan tâm sâu sắc đến các vấn đề xã hội và kinh tế Ý, đồng thời kêu gọi các cấp thể chế và xã hội dân sự tăng cường nhận thức về tình trạng thiếu việc làm.

Vatican News

Hội nghị đã khai mạc ngày 25/11 vừa qua, tại Thính phòng Hòa giải ở Roma. Sứ điệp của Đức Thánh Cha, được ký thay bởi Đức Hồng y Quốc vụ khanh Pietro Parolin, được đọc trước đông đảo các đại biểu, bao gồm các doanh nhân, thợ thủ công, đại diện của các thể chế, Nghị viện và các tổ chức kinh tế xã hội từ khắp nước Ý.

Đức Thánh Cha bày tỏ hy vọng mạnh mẽ vào một hành động tập thể và có trách nhiệm, cũng như “một sự nâng cao nhận thức đổi mới của các cấp thể chế và xã hội khác nhau đối với các vấn đề liên quan đến tình trạng thiếu việc làm”.

Lời kêu gọi này nhấn mạnh trách nhiệm chung của các cơ quan chính phủ, xã hội dân sự và cộng đồng doanh nghiệp trong việc tìm kiếm các giải pháp bền vững cho những người đang gặp khó khăn trong thị trường lao động.

Trong sứ điệp, Đức Thánh Cha đã “khuyến khích tiếp tục kiên trì thúc đẩy một nền văn hóa đoàn kết và công bằng dựa trên các giá trị Phúc Âm”. Lời khích lệ này không chỉ nhắm đến các chính sách kinh tế mà còn là lời mời gọi thấm nhuần các nguyên tắc đạo đức và nhân bản vào hoạt động kinh doanh và các mối quan hệ lao động.

Đức Thánh Cha cũng đảm bảo về lời cầu nguyện của ngài và chúc lành cho tất cả những người tham gia sự kiện. Lời chúc lành này nhằm củng cố tinh thần và khuyến khích các nỗ lực xây dựng một xã hội công bằng hơn.

Sự hiện diện và sứ điệp của Tòa Thánh tại Hội nghị toàn quốc của Liên đoàn Quốc gia Ý về Thủ công mỹ nghệ và Doanh nghiệp vừa và nhỏ một lần nữa khẳng định vai trò của Giáo hội Công giáo trong việc tham gia vào các vấn đề xã hội cấp thiết, luôn đặt phẩm giá con người và quyền được làm việc lên hàng đầu.

(Nguồn: RV)

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/duc-thanh-cha-leo-xiv-keu-goi-tang-cuong-nhan-thuc-ve-tinh-trang-thieu-viec-lam

***

50.  ĐTC Lêô: Thần học phải chiếu tỏa ánh sáng của Chúa Kitô giữa những đổi thay của thời đại

Sáng ngày 26/11, Đức Thánh Cha đã gặp gỡ các thành viên Ủy ban Thần học Quốc tế trong phiên họp toàn thể thường niên. Đây là cuộc gặp đầu tiên của ngài với Ủy ban kể từ khi được bầu kế vị Thánh Phêrô trong sứ vụ hiệp nhất Giáo hội hoàn vũ.

Vatican News

Mở đầu bài diễn văn với những người hiện diện, Đức Thánh Cha bày tỏ niềm vui được gặp gỡ các thành viên đến từ nhiều quốc gia khác nhau và cảm ơn những đóng góp của họ cũng như những người đã phục vụ trước đây. Ngài đặc biệt đánh giá cao việc Ủy ban đã kịp thời công bố tài liệu “Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ”, nhân kỷ niệm 1700 năm Công đồng Nicea I, một văn kiện quan trọng cho đối thoại đại kết trong tương lai.

Ba định hướng cho thần học hôm nay

Đức Thánh Cha khích lệ Ủy ban tiếp tục sứ mạng phục vụ Tòa Thánh bằng việc đào sâu thần học với ba định hướng quan trọng:

(1) Tính công giáo – sự phong phú của các truyền thống và kinh nghiệm toàn cầu. Ngài nhấn mạnh rằng chính sự đa dạng của các dân tộc và bối cảnh văn hóa giúp các nhà thần học hiểu rõ những vấn đề mới – “những diện mạo mới của các vấn đề xưa” – và từ đó có thể nắm bắt tốt hơn các thao thức của con người hôm nay.

(2) Đối thoại liên ngành và xuyên ngành. Đức Thánh Cha khẳng định đối thoại với các khoa học và tri thức khác là “không chỉ hữu ích mà còn cần thiết” cho sứ mạng loan báo Tin Mừng. Ngài nhắc đến định hướng của Veritatis gaudium, kêu gọi đưa mọi tri thức vào không gian ánh sáng của Sự Khôn Ngoan đến từ Mặc Khải.

(3) Kết hiệp giữa học thuật và đời sống thiêng liêng. Đức Thánh Cha đề cập đến các vị Thánh Tiến Sĩ như Thánh Augustinô, Thánh Bonaventura, Thánh Tôma Aquinô, Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu hay Thánh John Henry Newman, và lưu ý rằng thần học chỉ thực sự sâu sắc khi được nuôi dưỡng bằng cầu nguyện, đời sống thiêng liêng và lòng bác ái. Nhờ đó, người làm thần học mới thực sự sống và làm chứng cho chân lý mà họ nghiên cứu.

Thần học là làm cho ánh sáng của Chúa Kitô tỏa rạng

Đức Thánh Cha Lêô XIV nhấn mạnh vai trò của thần học như một công trình khiêm tốn giúp cho ánh sáng của Đức Kitô chiếu tỏa giữa lịch sử nhân loại đầy biến động. Ngài cảnh báo rằng sự tách rời giữa các ngành khoa học, hoặc việc phủ nhận siêu hình học, sẽ làm nghèo nàn hiểu biết về con người và cản trở sự phát triển đích thực của các dân tộc.

Ngài khẳng định: “Không có lãnh vực nào mà đức tin không thể soi sáng; cũng không có khoa học nào mà thần học có thể bỏ qua.” Do đó, các nhà thần học được mời gọi dấn thân với “cái nhìn toàn diện”, góp phần phân định và giải quyết những thách đố đang đặt ra cho Giáo hội và cho toàn thể nhân loại.

(Nguồn: RV)

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/dtc-leo-than-hoc-phai-chieu-toa-anh-sang-cua-chua-kito-giua-nhung-doi-thay-cua-thoi-dai

***

51.  Bộ Giáo lý Đức tin công bố Tài liệu mới về Hôn nhân Công giáo

Trong văn kiện giáo lý được công bố vào ngày 25/11 mang tên “Một xương một thịt – Lời ca ngợi chế độ đơn hôn”, Bộ Giáo lý Đức tin đã tái khẳng định đặc tính liên kết giữa một người nam và một người nữ của hôn nhân Công giáo. Tài liệu này nhằm đào sâu giá trị và ý nghĩa của hôn nhân Công giáo, đặc biệt trong bối cảnh chủ nghĩa cá nhân và tiêu thụ đang ngày càng gia tăng trên thế giới.

Vatican News

Văn kiện đã được Đức Thánh Cha Lêô XIV phê chuẩn vào ngày 21/11 vừa qua.

Đức Hồng y Víctor Manuel Fernández, Tổng trưởng Bộ Giáo lý Đức tin, đã giải thích rằng Tài liệu mới về hôn nhân ra đời nhằm đối phó với ba xu hướng xã hội đang thách thức định nghĩa của Giáo hội về hôn nhân là “sự hợp nhất không thể phân ly” và “sự thuộc về mang tính độc hữu và hỗ tương”. Ba thách thức được nêu ra bao gồm: Ảo tưởng về “sự không giới hạn” do công nghệ mang lại làm mờ đi giá trị của tình yêu độc hữu; Nhu cầu khẳng định chế độ một vợ một chồng là chuẩn mực phổ quát trong bối cảnh các cuộc đối thoại về đa thê, nhất là với các Giám mục Châu Phi, và Sự phát triển của các hình thức kết hợp không đơn hôn được công khai ở các nước phương Tây.

Tài liệu khẳng định rằng việc hiến dâng bản thân một cách trọn vẹn và toàn diện chỉ có thể thực hiện giữa một người nam và một người nữ. Sự độc quyền không phải là một sự giới hạn, mà là khả năng cho một tình yêu mở ra sự vĩnh cửu.

Tài liệu nhấn mạnh hai yếu tố quyết định: sự thuộc về hỗ tương và bác ái vợ chồng. Sự thuộc về này, được xây dựng trên sự đồng thuận tự do, là sự phản ánh của sự hiệp thông Ba Ngôi và là động lực mạnh mẽ cho sự bền vững. “Sự thuộc về hỗ tương là bản chất của tình yêu độc hữu, đòi hỏi sự chăm sóc tinh tế, một nỗi sợ thánh thiện khi làm ô uế sự tự do của người kia, vì họ có phẩm giá và các quyền như nhau”.

Tài liệu lên án mạnh mẽ mọi hình thức bạo lực về thể chất và tâm lý trong hôn nhân, khẳng định: “Hôn nhân không phải là sự sở hữu”. Một mối quan hệ lành mạnh đòi hỏi sự tôn trọng lẫn nhau đối với sự tự do của nhau.

Trong bối cảnh chủ nghĩa cá nhân và mạng xã hội đang làm xói mòn sự kín đáo, Tài liệu kêu gọi một “sư phạm mới”: Cần giáo dục giới trẻ đón nhận kinh nghiệm tình yêu như một bí ẩn nhân học, không chỉ là một xung năng mà là một lời mời gọi đến trách nhiệm và “khả năng hy vọng trọn vẹn nơi người kia”.

Cuối cùng, Tài liệu tái khẳng định rằng hôn nhân đích thực là sự hợp nhất của hai cá nhân, đòi hỏi một mối quan hệ mật thiết và toàn diện đến mức không thể chia sẻ với người khác. Tình yêu vợ chồng là một thực tại năng động, luôn mời gọi sự phát triển không ngừng trong một “lời hứa về sự vô hạn”.

(Nguồn: RV)

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/bo-giao-ly-duc-tin-cong-bo-tai-lieu-moi-ve-hon-nhan-cong-giao

***

52. Giáo hội Công giáo tại Thổ Nhĩ Kỳ và Libăng

Chuyến viếng thăm Thổ Nhĩ Kỳ của Đức Thánh Cha Lêô XIV, từ ngày 27-30/11/2025, diễn ra trong bối cảnh kỷ niệm 1700 năm Công đồng Nixêa. Chuyến viếng thăm Libăng, từ ngày 30/11-2/12/2025, mang khẩu hiệu “Phúc thay ai xây dựng hoà bình” nhấn mạnh đối thoại và hoà giải cho Libăng.

Vatican News

Vào lúc 7 giờ 40 sáng giờ Roma thứ Năm 27/11/2025, Đức Thánh Cha Lêô XIV sẽ rời Roma bắt đầu chuyến tông du đầu tiên của ngài; cụ thể, ngài sẽ đến thăm Thổ Nhĩ Kỳ và Libăng từ ngày 27/11 đến ngày 2/12/2025.

Vị Giáo hoàng thứ năm viếng thăm Thổ Nhĩ Kỳ

Thổ Nhĩ Kỳ giữ vị trí đặc biệt trong lịch sử các chuyến tông du của các Giáo hoàng. Từ thời Đức Gioan XXIII, dù ngài không đến với tư cách Giáo hoàng, nhưng ngài đã từng sống gần mười năm tại Istanbul. Sau đó, các Thánh Giáo hoàng Phaolô VI (1967) và Gioan Phaolô II (1979), và hai Giáo hoàng Biển Đức XVI (2006) và Phanxicô (2014) đã lần lượt viếng thăm nước này, trong tinh thần đại kết và đối thoại với Hồi giáo.

Như vậy, Đức Thánh Cha Lêô XIV sẽ là vị Giáo hoàng thứ năm viếng thăm Thổ Nhĩ Kỳ. Ngài viếng thăm Thổ Nhĩ Kỳ nhân kỷ niệm 1700 năm Công đồng Nixêa (325) tại Iznik. Công đồng này xác quyết tín điều về Đức Kitô “đồng bản thể với Chúa Cha” và bàn về ngày lễ Phục Sinh. Ngài đã nhấn mạnh Nixêa vẫn là kim chỉ nam cho sự hiệp nhất Kitô hữu.

Logo chuyến tông du của ngài gồm vòng tròn bao quanh chiếc cầu Dardanelles, biểu tượng gặp gỡ Á–Âu và Đức Kitô là nhịp cầu. Sóng nước gợi nên phép rửa và hồ İznik; Thánh Giá Năm Thánh 2025 và biểu tượng Ba Ngôi hoàn tất ý nghĩa: một Chúa, một đức tin, một phép rửa, mời gọi đối thoại Đông–Tây.

Viếng thăm Libăng: hoàn thành ước muốn của Đức Giáo hoàng Phanxicô

Bên cạnh Thổ Nhĩ Kỳ, Libăng là vùng đất giàu lịch sử và đa dạng tôn giáo – văn hóa, đã nhiều lần được các Giáo hoàng viếng thăm. Thánh Giáo hoàng Phaolô VI đã dừng chân tại sân bay Beirut năm 1964 khi trên đường sang Ấn Độ. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đến Libăng năm 1997 để công bố Tông huấn Một niềm hy vọng mới cho Libăng. Đức Giáo hoàng Biển Đức XVI thăm nước này năm 2012 và trao Tông huấn Giáo hội tại Trung Đông, nhấn mạnh nhu cầu chứng tá Kitô giáo mới, đối thoại liên tôn và xây dựng hòa bình. Tài liệu khẳng định vai trò đặc biệt của Libăng như chiếc cầu giữa Đông và Tây. Đức Giáo hoàng Phanxicô đã nhiều lần bày tỏ mong muốn viếng thăm nước này nhưng vì nhiều lý do ngài chưa thực hiện được. Đức Thánh Cha Lêô XIV đã nói rằng ngài viếng thăm Libăng để hoàn thành mong muốn của Đức Thánh Cha Phanxicô.

Logo chuyến viếng thăm Libăng mô tả Đức Thánh Cha Lêô XIV ban phép lành, bên cạnh chim bồ câu hoà bình và cây tuyết tùng biểu tượng của Libăng. Thánh Giá – mỏ neo Năm Thánh 2025 – diễn tả niềm hy vọng. Tông màu nhẹ gợi sự an bình. Khẩu hiệu “Phúc thay ai xây dựng hoà bình” nhấn mạnh đối thoại và hoà giải cho Libăng.

Tình hình xã hội và Giáo hội tại Thổ Nhĩ Kỳ

Theo thống kê mới nhất do Phòng báo chí Tòa Thánh công bố, Thổ Nhĩ Kỳ rộng hơn 774 ngàn cây số vuông, gấp đôi Việt Nam, với dân số hơn 85 triệu người, hầu hết là tín đồ Hồi giáo. So với 10 năm trước, khi Đức Giáo hoàng Phanxicô thăm nước này vào tháng 11/2014, số tín hữu Công Giáo tại đây chỉ còn 33 ngàn, đã giảm 20 ngàn người, và chỉ tương đương với 0,04% dân số. Các tín hữu thuộc 7 giáo phận với 40 giáo xứ và 18 trung tâm mục vụ khác.

Về nhân sự mục vụ, Giáo Hội Công Giáo tại Thổ Nhĩ Kỳ có 10 Giám mục và 76 linh mục, trong số này chỉ có 18 linh mục giáo phận, 58 vị còn lại thuộc các dòng tu. Cả nước chỉ có 5 tu huynh và 37 nữ tu, 10 đại chủng sinh.

Về mặt xã hội, Giáo hội Công Giáo đảm trách 13 trường mẫu giáo và tiểu học, 10 trường trung học, 1 cao đẳng và đại học, 5 nhà thương và 2 bệnh xá, cùng với 5 nhà cho người già, người khuyết tật, 2 nhà trẻ mồ côi và 7 cơ sở khác.

Thổ Nhĩ Kỳ là quốc gia xuyên lục địa, chủ yếu thuộc Tây Á và một phần nhỏ nằm ở châu Âu. Sau sự sụp đổ của Đế quốc Ottoman trong Thế chiến I, nước Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ được thành lập năm 1923 dưới sự lãnh đạo của Mustafa Kemal Atatürk, người khởi xướng các cải cách sâu rộng nhằm xây dựng một nhà nước thế tục, hiện đại và thống nhất. Từ năm 1945, Thổ Nhĩ Kỳ tích cực hội nhập với phương Tây thông qua việc gia nhập NATO, OECD, Hội đồng châu Âu và G20.

Năm 1946 đánh dấu sự chuyển sang chế độ đa đảng, nhưng từ 1960 đến đầu thập niên 1980, đất nước trải qua nhiều cuộc đảo chính quân sự. Sau đó, đời sống chính trị dần ổn định trở lại. Từ năm 1994, Recep Tayyip Erdoğan nổi lên trên chính trường, trở thành Thủ tướng năm 2003 và Tổng thống từ năm 2014. Các chiến thắng bầu cử năm 2018 và 2023 tiếp tục củng cố quyền lực của ông, định hình mô hình tổng thống mạnh mẽ tại Thổ Nhĩ Kỳ.

Mặc dù là nơi khai sinh hoạt động truyền giáo của Thánh Phaolô và từng giữ vai trò trung tâm trong sự phát triển của Kitô giáo thời sơ khai, hiện nay người Kitô hữu chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong tổng số gần 86 triệu dân Thổ Nhĩ Kỳ, vốn đa số là tín đồ Hồi giáo Sunni. Hiến pháp Thổ Nhĩ Kỳ quy định tự do tín ngưỡng và từ năm 2003, việc thay đổi tôn giáo được thừa nhận hợp pháp. Tuy nhiên, các cộng đồng Kitô giáo, cùng với những nhóm tôn giáo thiểu số khác, vẫn gặp nhiều khó khăn trong đời sống thực tế.

Đặc biệt, Giáo hội Công giáo chưa được Nhà nước công nhận về mặt pháp lý. Điều này nghĩa là Giáo hội không có tư cách pháp nhân, không sở hữu tài sản theo danh nghĩa tôn giáo, và các cơ cấu như giáo phận, giáo xứ hay tình trạng pháp lý của giáo sĩ đều không được bảo đảm. Trong khi đó, Hiệp ước Lausanne năm 1923 chỉ trao quy chế “tôn giáo được công nhận” cho Chính thống giáo Hy Lạp, Armenia và cộng đồng Do Thái.

Một tín hiệu tích cực đã xuất hiện năm 2011 khi Thủ tướng Erdoğan ban hành sắc lệnh trả lại tài sản bị tịch thu trong nửa đầu thế kỷ XX cho các cộng đồng Chính thống Hy Lạp, Armenia, Công giáo Canđê và Do Thái. Tuy nhiên, Giáo hội Công giáo Latinh bị loại khỏi tiến trình này, tiếp tục không được sở hữu tài sản hợp pháp.

Nỗ lực của Giáo hội nhằm mở rộng quyền tự do tôn giáo vẫn gặp phải sự chống đối của các nhóm Hồi giáo chính trị chủ trương tái lập một nhà nước mang tính tôn giáo. Quan hệ giữa chính quyền Erdoğan – mang xu hướng Hồi giáo ôn hòa – và các cộng đồng Kitô giáo nhìn chung mang tính đối thoại, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế và thách thức.

Tình hình xã hội và Giáo hội tại Libăng

Libăng, tên bắt nguồn từ tiếng Aramaic laban (“trắng”, ám chỉ các đỉnh núi phủ tuyết), là vùng đất cổ của người Phơnixia và trong nhiều thế kỷ giữ vai trò giao điểm của các nền văn minh, tôn giáo và dân tộc tại Trung Đông. Libăng là quốc gia nhỏ bé, chỉ có hơn 4,4 triệu, với diện tích gần 10.500 cây số vuông, chỉ bằng 1/30 nước Việt Nam, từ đầu nước đến cuối chỉ dài 250 km và chiều ngang chỗ rộng chỗ hẹp từ 25 đến 60 km.

Theo một nghĩa nào đó, Libăng cũng là Thánh Địa: Chúa Giêsu đã nhiều lần đến thành Tyro và Siđôn để giảng Tin Mừng và chữa lành các bệnh nhân, trong đó có con gái người phụ nữ xứ Canaan. Thánh Phêrô Tông Đồ đã lưu lại Tyro một tuần lễ trước khi đến thành Antiokia; Thánh Tađêô Tông Đồ đã giảng tại Beirut và Thánh Phaolô cũng dừng lại ở Tyro.

Nhờ truyền thống là nơi trú ẩn cho các nhóm thiểu số bị bách hại, quốc gia nhỏ bé bên bờ Địa Trung Hải này, trở thành một “bức tranh ghép” gồm 18 cộng đồng tôn giáo được công nhận chính thức: gồm 5 cộng đoàn Hồi giáo, và 1 cộng đoàn Do thái giáo, 12 cộng đoàn Kitô, trong đó có 6 cộng đoàn Công Giáo gồm 6 nghi lễ khác nhau.

Libăng tuy nhỏ, chỉ bằng 1/550 diện tích của toàn vùng Trung Đông, nhưng quá một nửa số tín hữu Kitô của toàn vùng này, tức là hơn 2 người, sống tập trung tại Libăng; với 49 giám mục 1.564 linh mục triều và dòng, 1.698 nữ tu và 118 tu huynh, 270 đại chủng sinh.

Từ thế kỷ XVI đến sau Thế chiến I, Libăng bị sáp nhập vào Đế quốc Ottoman rồi trở thành Lãnh thổ ủy trị của Pháp (cùng với Syria). Thời kỳ Pháp trị đã đặt nền móng cho hệ thống chính trị – tôn giáo đặc thù của Libăng. Khi giành độc lập năm 1943, mô hình này được củng cố bởi “Hiệp ước Quốc gia” – một thỏa thuận bất thành văn phân chia quyền lực theo cơ cấu tôn giáo: Tổng thống là Kitô hữu nghi lễ Maronite, Thủ tướng là người Hồi giáo Sunni và Chủ tịch Quốc hội là người Hồi giáo Shia.

Sau độc lập, Libăng trải qua những giai đoạn phồn thịnh xen kẽ bất ổn. Các hạn chế của mô hình phân chia quyền lực, cùng các xung đột khu vực như chiến tranh Ả Rập–Israel, khiến quốc gia này tiếp nhận lượng lớn người tị nạn Palestine sau năm 1948. Sự hiện diện của lực lượng OLP tại Libăng từ đầu thập niên 1970 làm gia tăng căng thẳng, dẫn đến nội chiến kéo dài từ năm 1975 đến 1990, khiến khoảng 150.000 người thiệt mạng. Cuộc chiến, thực chất là chuỗi xung đột chồng chéo giữa nhiều phe phái nội địa và các thế lực khu vực như Syria, Israel và Iran, đã tạo điều kiện cho sự trỗi dậy của Hezbollah – lực lượng Shia thân Iran hình thành sau cuộc xâm lược Libăng của Israel năm 1982.

Nội chiến kết thúc với Thỏa thuận Ta'if (1989), quy định giải giáp các lực lượng dân quân vũ trang, điều chỉnh sự cân bằng quyền lực giữa Kitô hữu và Hồi giáo, đồng thời giảm bớt quyền hạn của Tổng thống. Syria tiếp tục đóng vai trò “bảo trợ” cho đến khi quân đội nước này rút khỏi Libăng năm 2005 sau “Cách mạng Tuyết tùng” bùng nổ vì vụ ám sát Thủ tướng Rafiq al-Hariri.

Tuy giúp chấm dứt chiến sự, Thỏa thuận Ta'if không giải quyết các vấn đề cốt lõi: ảnh hưởng của Syria và Iran, sự tồn tại của Hezbollah như “nhà nước trong nhà nước”, tình trạng tham nhũng và chia rẽ giáo phái. Những yếu tố này, cùng khủng hoảng kinh tế, đã dẫn đến các cuộc biểu tình quy mô lớn của thanh niên vào năm 2019. Khủng hoảng càng trầm trọng hơn bởi đại dịch COVID-19 và vụ nổ thảm khốc ở cảng Beirut năm 2020.

Từ 2023, giao tranh giữa Hezbollah và Israel tái bùng phát. Dù một thỏa thuận đạt được cuối năm 2024, xung đột vẫn rải rác và tương lai hòa bình phụ thuộc vào việc thực thi Nghị quyết 1701 của Liên Hiệp Quốc, yêu cầu Hezbollah rút lực lượng về phía Bắc sông Litani.

Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II từng khẳng định: “Libăng không chỉ là một quốc gia, mà là một sứ điệp”, nhấn mạnh giá trị phổ quát của sự đa dạng tôn giáo – văn hóa và vai trò lịch sử của quốc gia này như mảnh đất gặp gỡ, đối thoại giữa các cộng đồng. Trong chuyến thăm năm 1977, ngài khẳng định Libăng có một ơn gọi đặc biệt: trở thành không gian chung sống hài hòa giữa các tôn giáo, vì vậy không thể để quốc gia này bị lãng quên giữa đau khổ và bất ổn.

Các Giáo hội Công giáo tại Libăng

Libăng là quê hương của nhiều cộng đồng Kitô giáo khác nhau, mỗi cộng đồng đóng góp vào sự phong phú tôn giáo của đất nước.

Giáo hội Maronite có nguồn gốc từ thánh Maron, một ẩn sĩ thế kỷ V sống tại vùng Syria – Antiochia, nơi các môn đệ được gọi là “Kitô hữu” lần đầu tiên. Do bị bách hại bởi phái nhất tính (monophysite) và sau đó là sức ép từ cuộc chinh phục của người Ả Rập, các môn đệ của thánh Maron di cư lên núi Liban, hình thành các cộng đồng Maronit đầu tiên quanh các đan viện. Truyền thống đan tu và đời sống ẩn tu, cùng phụng vụ bằng tiếng Syria (phương ngữ Tây Syria) và tiếng Ả Rập, là nét đặc trưng của Giáo hội này.

Giáo hội Công giáo Hy Lạp-Melkite là cộng đoàn tách khỏi Chính thống giáo Antiokia vào năm 1724 và tái lập hiệp thông với Roma, một phần nhờ ảnh hưởng của Giáo hội Maronit và các nhà truyền giáo phương Tây trong các thế kỷ XVII–XVIII, đặc biệt là dòng Tên.

Giáo hội Công giáo Armenia hình thành năm 1742 sau khi một phần tín hữu tách khỏi Giáo hội Armeni Tông truyền. Người Armeni Công giáo đến Libăng qua ba đợt di cư lớn: thế kỷ XVIII do bị bách hại sau khi hiệp thông với Roma; sau Thế chiến I do các cuộc tàn sát của Ottoman; và sau Thế chiến II.

Giáo hội Công giáo Syriac (Siro-Công giáo) tách khỏi Giáo hội Syriac Chính thống để hiệp thông trở lại với Tòa Thánh; được Roma công nhận vào năm 1783 và chính thức hóa năm 1797.

Giáo hội Canđê có nguồn gốc từ Giáo hội Lưỡng Hà do thánh Tôma Tông đồ truyền giảng. Giáo hội Canđê xuất phát từ sự tách rời khỏi Giáo hội Assyria phương Đông, và hiệp thông với Roma được xác lập chính thức năm 1830.

Cộng đoàn Công giáo Latinh được hình thành từ thế kỷ XIII–XIV khi các tu sĩ Phanxicô đặt chân đến Libăng để chăm sóc mục vụ cho người châu Âu buôn bán tại các cảng và cho các tín hữu Maronite, Melkite. Năm 1772, Tòa Thánh thiết lập Đại diện Tông tòa Latinh Aleppo cho vùng Libăng – Syria. Từ thế kỷ XIX, sự xuất hiện của các nhà truyền giáo Tin Lành tiếp tục thúc đẩy hoạt động truyền giáo Công giáo, với sự hiện diện của các dòng tu.

Tại Libăng còn có các Giáo hội Chính thống Hy Lạp, Giáo hội Tông truyền Armeni, Giáo hội Chính thống Syria, Giáo hội Assyria phương Đông, Giáo hội Chính thống Copt và Các cộng đoàn Tin Lành khác nhau.

(Nguồn: RV)

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/giao-hoi-cong-giao-tai-tho-nhi-ky-va-libang

***

 

53.  Đức Thánh Cha gặp gỡ các cấp chính quyền, xã hội dân sự và ngoại giao đoàn tại Thổ Nhĩ Kỳ

Sau nghi thức tiếp đón tại Dinh Tổng thống, Đức Thánh Cha và tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ đã có cuộc gặp gỡ riêng. Sau đó, Đức Thánh Cha di chuyển đến Thư viện Quốc gia và tại đây ngài đã có cuộc gặp gỡ với các cấp chính quyền, xã hội dân sự và ngoại giao đoàn.

Vatican News

Tổng thống Recep Tayyip Erdoğan năm nay 71 tuổi. Ông được bầu làm Thị trưởng Istanbul năm 1994, sau đó bị cách chức và giam giữ năm 1998. Là người sáng lập và lãnh đạo đảng Công lý và Phát triển (2001) theo đường hướng Hồi giáo ôn hòa, ông thắng ba kỳ bầu cử liên tiếp và làm Thủ tướng từ 2003–2014. Được bầu làm Tổng thống thứ 12 năm 2014, hiện ông đang ở nhiệm kỳ thứ ba. Ông kết hôn với bà Emine và có bốn con. Ngày 15/7/2016, một cuộc đảo chính chống lại ông đã diễn ra nhưng thất bại trong vòng một ngày.

Sau cuộc gặp gỡ và chụp hình chung với gia đình tổng thống, Đức Thánh Cha di chuyển đến Thư viện Quốc gia và tại đây ngài đã có cuộc gặp gỡ với các cấp chính quyền, xã hội dân sự và ngoại giao đoàn. Ngỏ lời với những người hiện diện, ngài kêu gọi tôn trọng phẩm giá mọi người, vượt qua “sự toàn cầu hóa của dửng dưng”, và đề cao gia đình cùng vai trò của phụ nữ. Ngài mong Thổ Nhĩ Kỳ góp phần vào hòa bình, chống phân cực và cùng nhân loại “tiến bước trong sự thật và tình bạn”. Ngài cũng khẳng định rằng các Kitô hữu tại nước này mong muốn đóng góp tích cực vào sự hiệp nhất dân tộc.

Mở đầu bài diễn văn, Đức Thánh Cha cảm ơn sự đón tiếp nồng hậu tại Thổ Nhĩ Kỳ, nơi ngài chọn làm điểm khởi đầu cho các chuyến tông du của triều đại giáo hoàng Lêô XIV. Ngài nhấn mạnh rằng vùng đất này gắn liền với lịch sử Kitô giáo và là nơi mà, theo lời ngài, “mời gọi con cháu của Ápraham cũng như toàn thể nhân loại đến với một tình huynh đệ biết nhận ra và trân trọng những khác biệt”. Sự lựa chọn Thổ Nhĩ Kỳ, vì thế, không chỉ là một quyết định mục vụ mà còn mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc trong bối cảnh thế giới nhiều chia rẽ hiện nay.

Từ vẻ đẹp thiên nhiên và văn hóa của đất nước này, Đức Thánh Cha nhắc đến trách nhiệm chung của nhân loại trong việc bảo vệ công trình sáng tạo và “gìn giữ sự phong phú của nghệ thuật, văn hóa và tinh thần”. Theo ngài, chính những cuộc gặp gỡ giữa các thế hệ, các truyền thống và những ý tưởng khác biệt là môi trường đã sản sinh ra những nền văn minh lớn. Bởi vậy, việc tôn trọng sự khác biệt không phải là một điều tùy chọn, mà là điều kiện để phát triển xã hội và khôn ngoan chung sống. Tuy nhiên, ngài cũng lưu ý rằng thế giới ngày nay vẫn bị đe dọa bởi “những tham vọng và quyết định chà đạp công lý và hòa bình”, khiến sự ổn định toàn cầu bị lung lay. Trước tình trạng ấy, việc một dân tộc có lịch sử vĩ đại như Thổ Nhĩ Kỳ ý thức được quá khứ của mình vừa là một ân ban vừa là một trách nhiệm đối với hiện tại và tương lai.

Hình ảnh cây cầu bắc qua eo biển Dardanelles trong logo của chuyến viếng thăm Thổ Nhĩ Kỳ mô tả vai trò đặc biệt của nước này. Đức Thánh Cha nói rằng trước khi nối liền hai châu lục, cây cầu ấy “liên kết Thổ Nhĩ Kỳ với chính mình”, làm cho đất nước trở thành một giao điểm của cảm thức và các truyền thống. Vì thế, bất kỳ sự đồng nhất hóa hoặc mong muốn xóa nhòa sự đa dạng nội tại đều sẽ là sự nghèo nàn. Xã hội chỉ thật sự sống động khi nó đa nguyên, bởi “chính những cây cầu nối giữa các linh hồn khác nhau” mới làm nên một xã hội văn minh. Trước hiện tượng phân cực đang lan tràn khắp các cộng đồng nhân loại, lời cảnh báo này mang tính thời sự đặc biệt.

Đức Thánh Cha khẳng định rằng các Kitô hữu tại Thổ Nhĩ Kỳ mong muốn đóng góp tích cực vào sự hiệp nhất dân tộc. Ngài nhắc lại gương Thánh Gioan XXIII, người từng được dân Thổ Nhĩ Kỳ gọi bằng danh xưng thân thương “Đức Giáo Hoàng Thổ Nhĩ Kỳ”. Trích dẫn một đoạn văn nổi tiếng mà vị Thánh này viết từ thời còn phục vụ tại Istanbul, Đức Thánh Cha cho thấy một tư tưởng mang tính ngôn sứ: Thánh Gioan XXIII từng cảnh báo rằng việc các nhóm tôn giáo chỉ lo “khép mình trong vòng tròn hạn hẹp của nhóm mình” là một lối lý luận sai lầm, bởi dưới ánh sáng Tin Mừng, con người được mời gọi bước ra khỏi sự khép kín đó để sống hiệp thông và đối thoại. Ngài khẳng định rằng lời dạy ấy đến nay vẫn còn nguyên giá trị và đóng góp vào việc hình thành cái mà Đức Giáo Hoàng Phanxicô gọi là “văn hóa gặp gỡ”.

Từ tư tưởng này, Đức Thánh Cha dẫn sang chủ đề về “sự toàn cầu hóa của dửng dưng”, một khái niệm được vị Tiền nhiệm của ngài sử dụng nhằm mô tả thái độ vô cảm trước đau khổ của người khác. Ngài nhấn mạnh rằng con đường Kitô giáo, và cũng là con đường nhân bản đích thực, không thể chấp nhận sự dửng dưng đó. Thay vào đó, cần “cảm nhận nỗi đau của người khác” và lắng nghe tiếng kêu của người nghèo và của trái đất. Ngài mượn hình ảnh một cây cầu khác, lần này là cây cầu giữa trời và đất mà Thiên Chúa thiết lập khi tỏ mình ra, để giải thích rằng Thiên Chúa dựng nên cây cầu ấy “để trái tim chúng ta thay đổi, trở nên giống trái tim Người”. Theo ngài, tình yêu có một chiều kích cá nhân sâu xa, nhưng đồng thời cũng có một chiều kích xã hội và công khai; nó không chỉ là cảm xúc riêng tư mà là động lực để xây dựng công lý và hòa bình.

Đức Thánh Cha nhận định rằng công lý và lòng thương xót có khả năng “thách thức luật của sức mạnh”, khẳng định rằng các giá trị như lòng trắc ẩn và tình liên đới phải trở thành tiêu chí của sự phát triển xã hội. Trong một xã hội nơi tôn giáo có vai trò rõ rệt như Thổ Nhĩ Kỳ, điều này càng có ý nghĩa quan trọng. Ngài nhấn mạnh rằng mọi người – nam hay nữ, người bản xứ hay người nước ngoài, người giàu hay người nghèo – đều là con cái Thiên Chúa và điều này có hệ quả xã hội và chính trị. Ngài kêu gọi những người có trách nhiệm phải có “trái tim ngoan ngùy vâng theo ý Thiên Chúa”, bởi như thế họ mới có thể thúc đẩy công ích. Đồng thời, ngài cảnh báo rằng sự phát triển công nghệ, nếu không được hướng dẫn bởi các giá trị nhân bản, có thể làm gia tăng bất công. Ngay cả trí tuệ nhân tạo cũng không trung lập, vì nó “phản chiếu sở thích của chúng ta và thúc đẩy nhanh hơn các tiến trình mà, nếu nhìn kỹ, không phải là do máy móc mà là do chính nhân loại đang thực hiện”. Vì vậy, nhiệm vụ cấp bách của nhân loại là biến đổi quỹ đạo phát triển và chữa lành những rạn nứt trong gia đình nhân loại.

Trong diễn văn, Đức Thánh Cha cũng chia sẻ những suy tư về gia đình mà ngài mô tả như “tế bào đầu tiên của đời sống xã hội”. Ngài mời gọi mọi người nhìn vào gia đình như chiếc cầu căn bản nối kết con người với nhau và mở ra ý thức về công ích. Trong văn hóa Thổ Nhĩ Kỳ, gia đình có tầm quan trọng đặc biệt và điều này, theo ngài, là một nền tảng quý giá. Tuy nhiên, ngài cũng thừa nhận những nguy cơ nội tại của gia đình, chẳng hạn như sự khép kín, nuôi dưỡng thù hận hoặc ngăn cản sự phát triển cá nhân của một số thành viên. Đức Thánh Cha khẳng định rằng hạnh phúc và sự phát triển không thể đến từ “nền văn hóa cá nhân chủ nghĩa” hay thái độ coi thường hôn nhân và sự sinh sản. Ngược lại, chống lại “nền kinh tế tiêu thụ, nơi cô đơn trở thành một loại hình kinh doanh”, ngài đề nghị một nền văn hóa trân trọng các mối dây liên kết giữa con người. Theo ngài, “chỉ cùng nhau chúng ta mới trở nên chính mình một cách đích thực”, và chính trong tình yêu, nội tâm con người mới được làm phong phú. Ai khinh thường các mối liên kết căn bản ấy, ngài cảnh báo, sẽ dễ trở nên khó bao dung và không thể tương tác với thế giới phức tạp hiện nay.

Đức Thánh Cha dành sự trân trọng đặc biệt cho vai trò của phụ nữ, những người đang ngày càng đóng góp tích cực cho đời sống chuyên môn, văn hóa và chính trị của đất nước. Sự tham gia của họ, theo ngài, giúp Thổ Nhĩ Kỳ gia tăng ảnh hưởng tích cực trên trường quốc tế. Do đó, ngài đánh giá cao các sáng kiến nhằm hỗ trợ gia đình và đề cao vai trò của phụ nữ trong xã hội.

Hướng về tương lai, Đức Thánh Cha bày tỏ mong muốn Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục đóng vai trò là “yếu tố ổn định và gắn kết giữa các dân tộc”, trở thành một lực lượng kiến tạo hòa bình bền vững. Ngài nhắc lại rằng bốn Giáo Hoàng trước ngài từng viếng thăm đất nước này, cho thấy mối quan hệ tốt đẹp giữa Tòa Thánh và Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ. Dịp kỷ niệm 1700 năm Công đồng Nixêa mà chuyến đi này đánh dấu cũng là minh chứng cho truyền thống gặp gỡ và đối thoại, khi tám Công đồng chung đầu tiên của Kitô giáo được tổ chức trên vùng đất nay thuộc Thổ Nhĩ Kỳ.

Ở cuối bài diễn văn, Đức Thánh Cha đề cập đến tình hình toàn cầu hiện nay, mà ngài mô tả là giai đoạn “đầy xung đột”, nơi các chiến lược quyền lực kinh tế và quân sự lấn át nhu cầu đối thoại. Ngài trích lại nhận định của Đức Phanxicô về “cuộc chiến tranh thế giới thứ ba từng mảnh” để cảnh báo rằng nhân loại không được phép đầu hàng khuynh hướng nguy hiểm này. Các nguồn lực đang đổ vào những động lực hủy diệt ấy phải được dành cho các thách đố đích thực, như hòa bình, xóa đói nghèo, chăm sóc sức khỏe, giáo dục và bảo vệ môi trường. Tòa Thánh, với “sức mạnh tinh thần và đạo đức” của mình, cam kết hợp tác với tất cả các quốc gia nỗ lực cho sự phát triển toàn diện của con người.

Đức Thánh Cha kết thúc bằng lời mời gọi: hãy “cùng nhau tiến bước, trong sự thật và tình bạn, khiêm tốn tín thác vào sự trợ giúp của Thiên Chúa”.

(Nguồn: RV)

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/duc-thanh-cha-gap-go-cac-cap-chinh-quyen-xa-hoi-dan-su-va-ngoai-giao-doan-tai-tho-nhi-ky

***

 

54.  Đức Thánh Cha kết thúc chuyến thăm Ankara, đến Istanbul trong khung cảnh riêng tư

Vào lúc 18:05 (giờ Thổ Nhĩ Kỳ), Đức Thánh Cha Lêô XIV đã chính thức rời thủ đô Ankara tại Sân bay Quốc tế Ankara-Esenboğa. Việc chia tay diễn ra với sự đón chào và tiễn biệt của một Bộ trưởng của chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ. Đức Thánh Cha đã chào tạm biệt Phái đoàn địa phương trước khi lên máy bay.

Vatican News

Vào lúc 18:20, ngài bắt đầu chuyến bay từ Ankara đến Istanbul trên máy bay ITA Airways A320neo. Chuyến bay kéo dài 1 giờ 10 phút, di chuyển quãng đường 435 km.

Lúc 19:30, Đức Thánh Cha đã đáp xuống Sân bay Istanbul-Atatürk. Theo lịch trình, việc đón tiếp diễn ra dưới hình thức riêng tư nghiêm ngặt, với sự hiện diện của một số quan chức chính quyền địa phương. Không có các nghi thức ngoại giao nào được sắp xếp cho sự kiện này.

Istanbul là thành phố lớn nhất thế giới nằm giữa hai lục địa, Châu Á và Châu Âu, trên hai bờ eo biển Bosphorus, nối Biển Đen với Địa Trung Hải. Là thủ đô cổ xưa của Đế chế Ottoman, kế thừa từ Byzantine và Constantinople. Đô thị này, với khoảng 16 triệu dân, là trung tâm thành phố đông dân nhất châu Âu và thứ bảy trên thế giới.

Được coi là một thành phố toàn cầu, Istanbul có một di sản lịch sử và văn hóa quan trọng: các khu vực lịch sử của nó đã là một phần của danh sách Di sản Thế giới của UNESCO kể từ năm 1985.

Mặc dù đã mất danh hiệu thủ đô, thành phố vẫn giữ vai trò là trung tâm văn hóa và tôn giáo chính của đất nước, vì đây vẫn là trụ sở của Tòa Thượng phụ Đại kết Constantinople.

Trong năm nay, một số trận động đất đã ảnh hưởng đến đất nước, trận gần đây nhất xảy ra vào cuối tháng 10, được cảm nhận rõ ràng ngay cả ở Istanbul. Thổ Nhĩ Kỳ nằm trên các đứt gãy quan trọng và động đất thường xuyên xảy ra.

Năm 2023, một trận động đất mạnh 7,8 độ Richter đã giết chết hơn 53.000 người ở Thổ Nhĩ Kỳ và phá hủy hoặc làm hư hỏng hàng trăm nghìn tòa nhà ở 11 tỉnh phía nam và đông nam. Hơn 6.000 người khác đã thiệt mạng ở các khu vực phía bắc của nước láng giềng Syria.

Trong bối cảnh thành phố đang chịu ảnh hưởng nặng nề từ các thảm họa động đất gần đây, sự hiện diện của Đức Thánh Cha tại trung tâm lịch sử này càng thêm ý nghĩa. Nó không chỉ là sự khẳng định về tình liên đới mà còn là một sứ điệp hy vọng và sức mạnh tinh thần gửi đến người dân Thổ Nhĩ Kỳ.

(Nguồn: RV)

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/duc-thanh-cha-ket-thuc-chuyen-tham-ankara-den-istanbul-trong-khung-canh-rieng-tu

***

 

55.  Hồng y Parolin: Đức Giáo hoàng là sứ giả của hòa hợp, đối thoại và hòa bình ở Trung Đông

Massimiliano Menichetti

WTGPSG (27/11/2025) - Khi Đức Giáo hoàng Lêô XIV chuẩn bị thăm Thổ Nhĩ Kỳ và Lebanon, Đức Hồng y Quốc vụ khanh Pietro Parolin nhấn mạnh tầm quan trọng của chuyến Tông du đối với đối thoại liên tôn và liên giáo, cũng như vai trò của ngài như một dấu hiệu hy vọng và hòa bình.

Thổ Nhĩ Kỳ và Lebanon sẵn sàng chào đón Đức Giáo hoàng Lêô XIV trong chuyến Tông du quốc tế đầu tiên của ngài, tập trung vào chứng tá và gặp gỡ. Đức Giáo hoàng đi Trung Đông để củng cố đức tin và chia sẻ thông điệp của Chúa Kitô.

Ở cả hai quốc gia này, các cộng đồng Công giáo và các cộng đồng địa phương khác tại những vùng bị chiến tranh tàn phá đang nóng lòng chờ đón chuyến thăm của ngài. Dù chịu nhiều đau khổ, các quốc gia này đã xây dựng được con đường đối thoại, hiếu khách và hòa bình.

Hai khẩu hiệu được chọn cho chuyến thăm là “Một Chúa, một đức tin, một phép rửa” và “Phúc thay ai xây dựng hòa bình” làm nổi bật các chủ đề hy vọng, hiệp nhất và huynh đệ.

Chuyến thăm Thổ Nhĩ Kỳ sẽ tập trung vào lễ kỷ niệm đại kết đánh dấu 1.700 năm Công đồng Nicea. Ở Lebanon, một khoảnh khắc đặc biệt sẽ là cầu nguyện thinh lặng tại cảng Beirut, nơi xảy ra vụ nổ cách đây 5 năm khiến hơn 200 người chết và 7.000 người bị thương.

Trong cuộc phỏng vấn với Vatican News, Đức Hồng y Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, nói rằng chuyến thăm của Đức Giáo hoàng sẽ mang lại hy vọng, hòa bình và động lực mới cho các Kitô hữu ở Trung Đông.

H: Đây là chuyến Tông du đầu tiên của Đức Giáo hoàng Lêô XIV. Ngài chuẩn bị thế nào cho các chuyến thăm mục vụ tới Thổ Nhĩ Kỳ và Lebanon?

Đức Giáo hoàng cầm lấy gậy hành hương. Trước Ngài, đã có Đức Giáo hoàng Phaolô VI, rồi Đức Gioan Phaolô II, Đức Bênêđictô XVI và Đức Phanxicô. Theo một nghĩa nào đó, ngài đi theo bước chân của các vị tiền nhiệm. Tôi hình dung đây sẽ là một chuyến đi được mong đợi rất nhiều, là chuyến đầu tiên của triều giáo hoàng này.

Ngài lên đường với tâm tình luôn đồng hành cùng các vị Giáo hoàng tối cao trong việc thi hành sứ vụ Phêrô: gặp gỡ các cộng đồng Kitô tại những miền đất này và củng cố họ trong đức tin, đây là bổn phận của người kế vị Thánh Phêrô, đồng thời gặp gỡ các dân tộc, chính quyền và cộng đồng dân sự, phục vụ như một sứ giả của hòa bình, hòa hợp và đối thoại.

Tôi hình dung sẽ có niềm vui, cũng như ý thức trách nhiệm trong việc hoàn thành các nhiệm vụ được giao phó.

H: Kỷ niệm 1.700 năm Công đồng Nicea là trung tâm của chuyến thăm Thổ Nhĩ Kỳ. Kỷ niệm này có ý nghĩa gì đối với Giáo hội hôm nay và sự hiện diện của Đức Giáo hoàng tượng trưng cho điều gì?

Đây là một dịp kỷ niệm rất quan trọng, và công tác chuẩn bị đã diễn ra từ lâu, nhằm làm nổi bật tầm quan trọng của nó. Sự hiện diện của Đức Giáo hoàng tự nó nhấn mạnh ý nghĩa của dịp này.

Công đồng Nicea - 1.700 năm trước - đặt nền tảng cho đức tin của chúng ta: niềm tin vào Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa và là người cách trọn vẹn. Đức Kitô là Thiên Chúa thật và là người thật. Đây là nền tảng của tất cả đức tin Kitô giáo, mặc dù vẫn còn nhiều chia rẽ đáng tiếc giữa chúng ta.

Tất cả các Kitô hữu đều tin vào thần tính và nhân tính của Đức Kitô; đây là nền tảng đức tin của chúng ta. Sau đó, Công đồng Constantinople đã triển khai thêm điều này, đặc biệt về Chúa Thánh Thần.

Hình ảnh từ máy bay không người lái cho thấy tàn tích của Vương cung Thánh đường Byzantine Thánh Neophytos dưới nước bên hồ Iznik, nơi dự kiến Đức Giáo hoàng Lêô XIV sẽ tới thăm vào cuối tuần này để tham dự lễ kỷ niệm 1.700 năm Công đồng Nicea lần thứ nhất

Chúng ta cũng nên lưu ý rằng đây là vùng đất từng là cái nôi của Kitô giáo, nơi các cộng đồng đầu tiên xuất hiện, những cộng đồng mà các Tông thư, như của Thánh Phaolô, được gửi tới, và là nơi đã diễn ra 8 công đồng đầu tiên trong lịch sử Giáo hội.

Tôi muốn nhấn mạnh cả trọng tâm Kitô học, vốn nằm ở trung tâm đức tin Kitô, và chiều kích đại kết, vốn đưa chúng ta đến cùng tuyên xưng đức tin chung nơi Chúa Giêsu, Thiên Chúa thật và Con người thật.

H: Ở Thổ Nhĩ Kỳ, Đức Giáo hoàng cũng sẽ thăm Đền thờ Xanh (Blue Mosque). Trong thời điểm chịu ảnh hưởng mạnh của chủ nghĩa cực đoan, chuyến đi này có thể giúp củng cố tình huynh đệ và đối thoại, đồng thời khẳng định rằng danh Chúa không bao giờ được dùng để giết hoặc chia rẽ?

Vâng, chắc chắn là thế. Tôi vừa nhớ lại chiều kích đại kết của chuyến thăm, vốn cũng bao gồm đối thoại liên tôn. Chúng ta gần đây kỷ niệm 60 năm văn kiện Nostra Aetate, nhấn mạnh không chỉ mối liên kết đặc biệt giữa Kitô hữu và Do Thái giáo mà còn những gì Kitô hữu và Hồi giáo chia sẻ với nhau.

Tôi tin rằng đây là một cử chỉ đối thoại, một dấu hiệu của sự tôn trọng liên tôn, cho thấy rằng Kitô hữu và Hồi giáo có thể hợp tác vì một thế giới công bằng, hỗ trợ lẫn nhau và huynh đệ hơn.

Du khách tham quan Đền thờ Sultan Ahmed, còn được gọi là Đền thờ Xanh (Blue Mosque), trước chuyến thăm Thổ Nhĩ Kỳ của Đức Giáo hoàng Lêô XIV (AFP hoặc các bên cấp phép)

Gần đây, Đức Giáo hoàng phát biểu tại Colosseum, nói rằng những ai cầu nguyện sẽ không khuất phục trước chủ nghĩa cực đoan. Vì vậy, đây vừa là sự bác bỏ chủ nghĩa cực đoan, vừa là lời mời củng cố hợp tác vì những mục tiêu chung.

H: Lebanon là một quốc gia đa dạng đã nhiều lần tự tái thiết trong 50 năm qua. Đức Giáo hoàng sẽ mang thông điệp gì đến cho người dân nơi đây?

Trên hết, tôi nghĩ đó sẽ là thông điệp hy vọng, vì Lebanon cần hy vọng. Gần đây, Lebanon đã đạt được một số tiến bộ trong việc giải quyết cuộc khủng hoảng đã ảnh hưởng đến đất nước trong những năm gần đây.

Hiện nay, Lebanon có tổng thống, chính phủ và các cải cách đang tiến hành. Nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, chậm trễ và trở ngại, có thể làm chậm hoặc làm thất vọng kỳ vọng của người dân.

Thông điệp của Đức Giáo hoàng là lời cổ vũ: “Hãy tiếp tục, can đảm lên, đi tiếp con đường bạn đã bắt đầu.” Đồng thời, nó thể hiện sự gần gũi của Giáo hội.

Tòa Thánh luôn quan tâm đến Lebanon chính bởi vì - theo một câu nói thường được nhắc đến - ‘đó là một thông điệp hơn là một quốc gia’, nghĩa là sự hòa hợp giữa các tôn giáo và các nhóm dân tộc đã được thực hiện, và điều này phải được tiếp tục.

Tòa Thánh luôn đứng cận kề vì lý do này và sẽ tiếp tục làm như vậy. Tôi tin rằng sự hiện diện của Đức Giáo hoàng trước hết là để truyền đạt thông điệp này.

H: Ngài đã đề cập trước đó về nhiều chuyến tông du, theo sau những chuyến đi đầu tiên của Đức Phaolô VI và 61 năm sau chuyến thăm Thánh Địa đầu tiên của ngài trong thời gian Công đồng Vatican II. Ý nghĩa của các chuyến Tông du đó là gì?

Các chuyến tông du, bắt đầu từ Đức Phaolô VI, được coi là công cụ hiện đại để thực hiện sứ vụ của các ngài. Chúng chính là một phần của sứ mạng Chúa Giêsu giao cho Thánh Phêrô: nâng đỡ anh em và phục vụ sự hiệp nhất của Giáo hội.

Trong suốt lịch sử, có nhiều cách để thực hiện điều này, nhưng các vị Giáo hoàng nhận thấy rằng việc đi lại là phương pháp đặc biệt thích hợp.

Đức Giáo hoàng Phaolô VI đã tới Thánh Địa trong thời gian Công đồng Vatican II vào năm 1964

Theo lời Đức Phanxicô, đây là sự thể hiện Giáo hội “ra đi.” Giáo hội không chờ mọi người đến Rôma mà đi ra gặp gỡ tất cả các dân tộc, các nền văn hóa và các thực tại. Vượt ra ngoài nội dung cụ thể của mỗi chuyến đi, đây là ý nghĩa toàn cầu: người chăn chiên phổ quát làm cho Giáo hội hiện diện với tất cả mọi người.

H: Đây là một chuyến đi hướng về châu Âu và Trung Đông, những khu vực chịu ảnh hưởng của chiến tranh, chia rẽ, khủng hoảng và di cư. Kitô hữu có thể đóng góp gì trong bối cảnh này?

Ngay từ đầu, Kitô hữu luôn là một hiện diện nền tảng ở Trung Đông, đóng góp rất nhiều vào đời sống xã hội, kinh tế, văn hóa và chính trị. Họ mong muốn tiếp tục vai trò này. Tôi tin rằng, cuối cùng, vai trò cân bằng này giúp tạo điều kiện cho đối thoại và thúc đẩy các cuộc gặp gỡ giữa các bên khác nhau.

Vấn đề hiện nay là dân số Kitô giáo ở Trung Đông đang giảm dần - một vấn đề rất được Tòa Thánh quan tâm. Chúng ta hy vọng các Kitô hữu có thể ở lại khu vực này và tiếp tục đóng góp cho xã hội nơi họ sống.

Họ là công dân của các quốc gia này và là thành viên không thể tách rời của các xã hội này, và họ phải có khả năng tiếp tục thực hiện vai trò và đóng góp của mình.

H: Ngài thường nhấn mạnh vai trò độc đáo của Tòa Thánh trong các vấn đề quốc tế. Từ góc độ đức tin và ngoại giao, Ngài nhìn nhận ý nghĩa chuyến thăm Thổ Nhĩ Kỳ và Lebanon của Giáo hoàng ra sao?

Tôi đã nói trước đây rằng: những chuyến đi như thế, giống nhiều sáng kiến của Tòa Thánh, có thể được ví như gieo hạt; Chúa biết hoa trái là gì và thời điểm nào sẽ gặt hái.

Tuy nhiên, tôi tin rằng, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu chịu ảnh hưởng bởi nhiều khó khăn, Tòa Thánh phải tiếp tục công bố chủ đề gặp gỡ thay vì đối đầu.

Nói cách khác, vượt lên trên các đối lập và tìm những lĩnh vực chung để làm việc vì lợi ích của xã hội và gia đình nhân loại - đó là chủ đề lợi ích chung.

Giáo hội tiếp tục rao giảng những giá trị Tin Mừng nền tảng này. Tôi tin rằng đây là vai trò của Giáo hội, và hy vọng rằng từ thông điệp này - mà Đức Giáo hoàng đã nhiều lần chia sẻ, ‘Opportune et importune’ (thuận tiên hay không thuận tiện), như Thánh Phaolô nói - những thực tại mới sẽ xuất hiện, nơi các dân tộc có thể hiểu nhau, sống trong hòa bình và hòa hợp, và cùng xây dựng gia đình nhân loại.

Xuân Đại chuyển ngữ từ vaticannews.va/en

Nguồn: tgpsaigon.net

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/hong-y-parolin-duc-giao-hoang-la-su-gia-cua-hoa-hop-doi-thoai-va-hoa-binh-o-trung-dong

***

 

56.  Bài giảng của ĐTC Lêô XIV trong buổi gặp gỡ và cầu nguyện tại Nhà thờ Chúa Thánh Linh ở Istanbul

Trong bài giảng trong cuộc gặp gỡ và cầu nguyện tại Nhà thờ chính tòa Chúa Thánh Linh ở Istanbul vào sáng ngày 28/11/2025, Đức Thánh Cha Lêô XIV nhấn mạnh chiều sâu lịch sử đức tin ở vùng đất Thổ Nhĩ Kỳ và mời gọi cộng đoàn sống hy vọng giữa thực tại nhỏ bé. Từ kỷ niệm 1700 năm Công đồng Nixêa, ngài nêu ra ba thách đố: nắm bắt bản chất đức tin và đời sống Kitô hữu, khám phá dung mạo Chúa Cha nơi Chúa Kitô, và truyền đạt đức tin và phát triển giáo lý.

BÀI GIẢNG CỦA ĐỨC THÁNH CHA
BUỔI GẶP GỠ VÀ CẦU NGUYỆN
với các Giám mục, linh mục, phó tế, tu sĩ nam nữ và nhân viên mục vụ

Istanbul, Nhà thờ Chính tòa Chúa Thánh Linh, 28/11/2025

 

Kính thưa quý Đức cha,
Quý linh mục, tu sĩ nam nữ,
các nhân viên mục vụ,
và toàn thể anh chị em thân mến!

Thật là niềm vui lớn lao khi tôi được hiện diện giữa anh chị em. Tôi tạ ơn Chúa vì trong Chuyến Tông du đầu tiên của tôi, Người cho tôi được viếng thăm “vùng đất thánh” này – Thổ Nhĩ Kỳ – nơi mà lịch sử của dân Israel gặp gỡ với Kitô giáo thời khai sinh, nơi Cựu Ước và Tân Ước giao hòa, và nơi đã ghi lại những trang sử của nhiều Công đồng.

Đức tin liên kết chúng ta hôm nay mang những cội rễ rất xa xưa: Tổ phụ Ápraham của chúng ta, vâng theo tiếng gọi của Thiên Chúa, đã lên đường rời khỏi Ur xứ Canđê và sau đó từ vùng Kharan – ở phía nam Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay – để tiến về Đất Hứa (x. St 12,1). Khi thời gian viên mãn, sau cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa Giêsu, các môn đệ của Người cũng đã tiến về vùng Anatolia; và tại Antiokia – nơi sau này Thánh Inhaxiô làm giám mục – lần đầu tiên họ được gọi là “Kitô hữu” (x. Cv 11,26). Từ thành đó, Thánh Phaolô đã khởi hành nhiều chuyến truyền giáo, thành lập nhiều cộng đoàn. Cũng chính trên bờ biển Anatolia, tại Êphêsô, theo một số nguồn cổ xưa, thánh sử Gioan – môn đệ được Chúa yêu mến – đã sống và qua đời (x. thánh Irênê, Chống Lạc giáo III, 3, 4; Eusêbiô thành Xêdarê, Lịch sử Giáo hội V, 24, 3).

Chúng ta cũng tưởng nhớ cách ngưỡng mộ quá khứ huy hoàng của Đế quốc Byzantin, sức mạnh truyền giáo của Giáo hội Constantinople và sự lan rộng của Kitô giáo tại toàn vùng Cận Đông. Ngày nay, Thổ Nhĩ Kỳ vẫn là nơi sinh sống của nhiều cộng đoàn Kitô hữu nghi lễ Đông phương: Armeni, Syria, Canđê, cũng như nghi lễ Latinh. Tòa Thượng Phụ Đại Kết vẫn là điểm quy chiếu cho các tín hữu Hy Lạp của mình và cho các tín hữu thuộc nhiều truyền thống Chính Thống khác.

Anh chị em thân mến, chính từ kho tàng lịch sử phong phú này cả anh chị em được sinh ra trong đức tin. Hôm nay, chính anh chị em là cộng đoàn được mời gọi chăm sóc hạt giống đức tin đã được truyền lại từ Ápraham, từ các Tông đồ và các Giáo phụ. Lịch sử đó không phải chỉ để nhớ rồi cất vào quá khứ huy hoàng, trong khi chúng ta buồn rầu mà nhìn Giáo hội Công giáo trở nên nhỏ bé hơn. Trái lại, chúng ta được mời gọi nhìn mọi sự theo ánh sáng Tin Mừng, được Chúa Thánh Thần soi dẫn.

Khi nhìn bằng đôi mắt của Thiên Chúa, chúng ta khám phá rằng Người đã chọn con đường bé nhỏ để đến ở giữa chúng ta. Đây chính là phong cách của Thiên Chúa mà chúng ta được mời gọi làm chứng: các ngôn sứ loan báo lời hứa của Thiên Chúa bằng hình ảnh một chồi non bé nhỏ sẽ đâm lên (x. Is 11,1); Chúa Giêsu chúc lành cho những người bé mọn tin tưởng nơi Người (x. Mc 10,13-16); và Người khẳng định Nước Thiên Chúa không đến bằng cách phô trương (x. Lc 17,20-21), nhưng lớn lên như hạt cải nhỏ bé nhất được gieo xuống đất (x. Mc 4,31).

Chính lôgic bé nhỏ này là sức mạnh thật sự của Giáo hội. Giáo hội không sống nhờ những nguồn lực hay cơ cấu, cũng không phải hoa trái của sứ mạng đến từ số lượng đông đảo, quyền lực kinh tế hay tầm ảnh hưởng xã hội. Trái lại, Giáo hội sống nhờ ánh sáng của Chiên Con, được quy tụ quanh Người, và được Chúa Thánh Thần thúc đẩy đi vào lòng thế giới. Trong sứ vụ này, Giáo hội luôn được mời gọi tín thác vào lời hứa của Chúa: “Đừng sợ, hỡi đoàn chiên nhỏ bé, vì Cha các con đã vui lòng ban Nước của Người cho các con” (Lc 12,32). Chúng ta hãy nhớ lời Đức Giáo hoàng Phanxicô: “Trong một cộng đoàn Kitô hữu mà nơi đó người tín hữu, linh mục, giám mục không đi trên con đường bé nhỏ này, thì cộng đoàn ấy thiếu tương lai… Nước Thiên Chúa nảy nở từ điều nhỏ bé, luôn luôn từ điều nhỏ bé.”
(Bài giảng tại Nhà thánh Mácta, 3/12/2019)

Giáo hội tại Thổ Nhĩ Kỳ là một cộng đoàn nhỏ bé, nhưng vẫn sinh hoa kết quả như hạt giống và men của Nước Trời. Vì thế, tôi khích lệ anh chị em nuôi dưỡng thái độ thiêng liêng của niềm hy vọng tín thác, được xây dựng trên đức tin và sự hiệp nhất với Thiên Chúa. Chúng ta cần làm chứng cho Tin Mừng bằng niềm vui và nhìn tương lai với hy vọng. Một số dấu chỉ hy vọng ấy đã hiện diện rõ ràng; chúng ta cầu xin Chúa cho chúng ta biết nhận ra và vun trồng chúng. Những dấu chỉ khác, có lẽ chính chúng ta phải sáng tạo để biểu lộ qua sự kiên trì trong đức tin và chứng tá.

Trong số những dấu chỉ đẹp đẽ và hứa hẹn nhất, tôi nghĩ đến nhiều bạn trẻ đang gõ cửa Giáo hội Công giáo, mang theo những thao thức và khắc khoải của họ. Tôi khuyến khích anh chị em tiếp tục công việc mục vụ đầy trách nhiệm mà anh chị em đang thực hiện; đồng thời hãy lắng nghe và đồng hành với giới trẻ; và chăm lo cho những lãnh vực mà Giáo hội tại Thổ Nhĩ Kỳ được mời gọi đặc biệt phục vụ: đối thoại đại kết và liên tôn, truyền đạt đức tin cho người dân địa phương, và phục vụ mục vụ cho người tị nạn và di dân.

Khía cạnh sau cùng này đáng được đặc biệt suy tư. Thực vậy, sự hiện diện đáng kể của người di dân và người tị nạn tại quốc gia này đặt ra cho Giáo hội thách đố đón tiếp và phục vụ những người dễ bị tổn thương nhất. Đồng thời, chính Giáo hội này cũng gồm nhiều người nước ngoài; nhiều người trong anh chị em – linh mục, tu sĩ, nhân viên mục vụ – đến từ các quốc gia khác. Điều này đòi hỏi anh chị em phải dấn thân đặc biệt vào công cuộc hội nhập văn hóa, để ngôn ngữ, phong tục và truyền thống của Thổ Nhĩ Kỳ ngày càng trở thành của anh chị em. Việc loan báo Tin Mừng đi qua chính sự hội nhập này.

Tôi cũng muốn nhắc rằng trên mảnh đất này của anh chị em đã diễn ra tám Công đồng Chung đầu tiên của Giáo hội. Năm nay là dịp kỷ niệm 1700 năm Công đồng Nixêa I, “một dấu mốc căn bản trong hành trình của Giáo hội và của toàn thể nhân loại” (ĐGH Phanxicô, diễn văn trước Ủy ban Thần học Quốc tế, 28/11/2024). Sự kiện luôn mang tính thời sự này đặt ra cho chúng ta một vài thách đố mà tôi muốn nêu lên.

Thách đố thứ nhất: nắm bắt bản chất đức tin và việc làm Kitô hữu. Chung quanh Kinh Tin Kính, Giáo hội tại Nixêa đã tìm lại được sự hiệp nhất (x. Spes non confunditTông sắc công bố Năm Thánh 2025, số 17). Kinh Tin Kính không chỉ là một công thức giáo lý, nhưng là lời mời gọi luôn tìm kiếm – giữa những khác biệt về cảm thức, linh đạo và văn hóa – sự hiệp nhất và cốt lõi của đức tin Kitô giáo, xoay quanh trung tâm là Đức Kitô và Truyền thống của Giáo hội. Nixêa hôm nay vẫn mời gọi ta đặt câu hỏi về điều này: Chúa Giêsu là ai đối với chúng ta? Cốt lõi của đời Kitô hữu là gì? Kinh Tin Kính – được tuyên xưng chung và đồng thuận – trở thành tiêu chuẩn phân định, kim chỉ nam và là tâm điểm cho việc tin và hành động của chúng ta. Nhân đây, tôi cũng muốn cảm ơn các tổ chức quốc tế, đặc biệt Caritas Quốc tế và Trợ giúp các Giáo hội Đau khổ, vì những hỗ trợ dành cho các hoạt động bác ái của Giáo hội, nhất là cho các nạn nhân của trận động đất năm 2023.

Thách đố thứ hai: tái khám phá nơi Đức Kitô dung mạo của Chúa Cha. Nixêa tuyên xưng thiên tính của Chúa Giêsu và sự đồng bản thể của Người với Chúa Cha. Trong Đức Giêsu, chúng ta tìm thấy dung mạo thật của Thiên Chúa và lời quyết định của Người về nhân loại và lịch sử. Chân lý này liên lỉ đặt vấn đề cho những hình dung của chúng ta về Thiên Chúa, khi các hình dung ấy không phù hợp với điều Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta, và mời gọi chúng ta thực hiện một tiến trình phân định nghiêm túc liên tục về những hình thức sống đức tin, đời sống cầu nguyện, đời sống mục vụ, và nói chung là toàn bộ đời sống thiêng liêng của chúng ta. Nhưng còn có một thách đố khác, mà tôi muốn gọi là “chủ nghĩa Ariô tái xuất”, hiện diện trong nền văn hóa ngày nay và đôi khi ngay cả giữa các tín hữu: đó là khi người ta nhìn Chúa Giêsu với sự ngưỡng mộ mang tính nhân loại, có thể kèm theo một tinh thần tôn giáo nào đó, nhưng lại không thực sự xem Người là Thiên Chúa hằng sống và chân thật đang hiện diện giữa chúng ta. Thiên tính của Người, Đấng là Chúa của lịch sử, bị che khuất phần nào, và người ta chỉ dừng lại ở việc xem Người như một nhân vật lịch sử vĩ đại, một bậc thầy khôn ngoan, một vị ngôn sứ đã chiến đấu cho công lý — và không hơn thế. Nixêa nhắc chúng ta rằng: Đức Kitô Giêsu không phải là nhân vật của quá khứ; Người là Con Thiên Chúa đang hiện diện giữa chúng ta, Đấng dẫn dắt lịch sử tiến về tương lai mà Thiên Chúa đã hứa cho chúng ta.

Thách đố thứ ba: truyền đạt đức tin và phát triển giáo lý. Trong bối cảnh văn hóa phức tạp, Kinh Tin Kính Nixêa đã có thể chuyển đạt cốt lõi của đức tin qua các phạm trù văn hóa và triết học của thời đại. Tuy nhiên, chỉ vài thập kỷ sau, tại Công đồng Constantinople I, chúng ta thấy rằng bản kinh ấy được đào sâu và mở rộng, và chính nhờ việc đào sâu giáo lý mà người ta đi đến một công thức mới: Kinh Tin Kính Nixêa–Constantinople, tức là bản kinh vẫn được tuyên xưng trong các cử hành Chúa Nhật của chúng ta. Từ đây, chúng ta cũng học được một bài học lớn: luôn luôn cần phải truyền đạt đức tin Kitô giáo trong ngôn ngữ và trong các phạm trù của bối cảnh mà chúng ta đang sống, như các Giáo phụ đã làm tại Nixêa và các Công đồng khác. Đồng thời, chúng ta cần phân biệt giữa cốt lõi của đức tin và những công thức hay những hình thức lịch sử diễn tả cốt lõi ấy, vì các hình thức ấy luôn chỉ là từng phần và mang tính tạm thời, và có thể thay đổi khi chúng ta đào sâu giáo lý. Chúng ta nhớ rằng Tân Tiến sĩ Hội Thánh, Thánh John Henry Newman, đã nhấn mạnh đến sự phát triển của giáo lý Kitô giáo, vì giáo lý không phải là một ý tưởng trừu tượng và bất động, nhưng phản ánh chính mầu nhiệm của Đức Kitô: do đó, đó là một sự phát triển nội tại của một hữu thể sống, nhờ đó cốt lõi căn bản của đức tin được làm sáng tỏ và diễn tả cách đầy đủ hơn.

Anh chị em thân mến, trước khi kết thúc, tôi muốn nhắc lại hình ảnh rất thân thương đối với anh chị em: Thánh Gioan XXIII, người đã yêu mến và phục vụ dân tộc này. Ngài từng nói: “Tôi thích lặp lại điều trái tim tôi cảm thấy: tôi yêu đất nước này và người dân của nó.” Từ cửa sổ Nhà Dòng Tên, quan sát những ngư phủ ở Bosphorus đang tất bật với thuyền và lưới, ngài đã viết: “Khung cảnh khiến tôi xúc động. Đêm hôm trước, khoảng một giờ sáng, trời mưa như trút, nhưng các ngư phủ vẫn ở đó, không nao núng trong công việc vất vả… Noi gương các ngư phủ ở Bosphorus, làm việc ngày đêm với những ngọn đuốc sáng, mỗi người trên chiếc thuyền nhỏ của mình, dưới sự hướng dẫn của các vị lãnh đạo thiêng liêng – đó chính là bổn phận nặng nề và thánh thiêng của chúng ta.”

Tôi cầu chúc anh chị em được nhiệt thành như thế, giữ được niềm vui của đức tin và làm việc như những ngư phủ can đảm trong con thuyền của Chúa.
Nguyện xin Đức Maria Rất Thánh, Mẹ Thiên Chúa, chuyển cầu cho anh chị em và gìn giữ anh chị em. Xin chân thành cảm ơn!

(Nguồn: RV)

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/bai-giang-cua-dtc-leo-xiv-trong-buoi-gap-go-va-cau-nguyen-tai-nha-tho-chua-thanh-linh-o-istanbul

***

 

57.  Đức Thánh Cha Lêô XIV thăm viếng Nhà Tình thương của Dòng Tiểu muội người nghèo: “Bác ái nảy sinh từ tình huynh đệ”

Tiếp nối chương trình chuyến tông du tại Thổ Nhĩ Kỳ, sáng ngày 28/11, Đức Thánh Cha Lêô XIV đã thăm viếng Nhà Tình thương dành cho người cao tuổi của Dòng Tiểu muội người nghèo tại Istanbul. Chuyến thăm không chỉ mang đến niềm vui cho cộng đoàn mà còn truyền tải thông điệp mạnh mẽ về lòng bác ái và sự kính trọng dành cho người cao tuổi.

Vatican News

Sau buổi gặp gỡ cầu nguyện với các Giám mục, Linh mục, Phó tế, tu sĩ nam nữ và các nhân viên mục vụ tại Nhà thờ Chính tòa Chúa Thánh Thần, vào lúc 10:30, Đức Thánh Cha đã di chuyển bằng xe ô tô đến Nhà tình thương dành cho người cao tuổi của Dòng Tiểu muội người nghèo, cách nhà thờ Chính tòa 2,4 km.

Dòng Tiểu muội người nghèo, được thành lập vào năm 1839 bởi Thánh Giovanna Jugan, hiện diện tại hơn 30 quốc gia trên thế giới. Nhà Tình thương này hoạt động tại Thổ Nhĩ Kỳ suốt 123 năm qua, trở thành một chứng tá sống động và hiệp nhất về việc phục vụ người cao tuổi nghèo khổ, bao gồm cả Kitô hữu, Hồi giáo và Do Thái. Mẹ Mary Ignatius, Bề trên cộng đoàn, khẳng định: "Chúng tôi không hề phân biệt tôn giáo”. Cơ sở thậm chí có cả nhà nguyện cho Kitô hữu và phòng cầu nguyện cho người Hồi giáo.

Chia sẻ về sự kiện, nữ tu Margaret bày tỏ: "Chúng tôi vô cùng vinh dự và xúc động. Ngay cả những người cao tuổi không phải Kitô hữu cũng cảm thấy được đặc ân”. Các nữ tu, với lòng khiêm tốn, tin rằng chuyến thăm này là một phép lành, sống theo lời dạy của Thánh Jeanne Jugan: "Các chị chăm sóc ai là đang chăm sóc chính Chúa Giêsu”.

Sau khi được đón tiếp tại lối vào của Nhà dòng, Đức Thánh Cha cùng phái đoàn đến Nhà nguyện, nơi có sự hiện diện của khoảng 100 người gồm các nhân viên, người cao tuổi được chăm sóc và các ân nhân.

Thông điệp cốt lõi: Bác ái nảy sinh từ tình huynh đệ

Trong lời chào thăm cộng đoàn hiện diện, Đức Thánh Cha nói:

Quý Sơ và anh chị em thân mến, xin chào!

Tôi vô cùng biết ơn những lời chào mừng của Sơ Bề trên, cũng như lòng hiếu khách mà tất cả quý vị đã thể hiện. Lòng hiếu khách là ơn ban của ngôi nhà này! Một ơn ban đến từ Thiên Chúa và đang sinh hoa trái nơi quý Sơ thuộc Dòng Tiểu muội người nghèo, nơi các nhân viên và các ân nhân, nhưng cũng nơi tất cả các cư dân, trong sự chung sống hằng ngày của họ. Xin cảm ơn tất cả quý vị!

Tôi muốn chia sẻ với quý vị hai suy tư đơn sơ.

Suy tư đầu tiên lấy cảm hứng từ tên gọi của quý Sơ thân mến: quý Sơ được gọi là "Tiểu muội người nghèo" nghĩa là Những người chị em bé nhỏ của người nghèo. Một tên gọi tuyệt vời, khiến chúng ta phải suy nghĩ! Đúng vậy, Thiên Chúa không chỉ mời gọi quý Sơ đến để hỗ trợ hay giúp đỡ người nghèo. Người mời gọi quý Sơ đến để trở thành "chị em" của họ! Giống như Chúa Giêsu mà Chúa Cha đã sai đến với chúng ta, không chỉ để giúp đỡ và phục vụ chúng ta, mà còn để trở thành anh em của chúng ta. Đây chính là bí mật của lòng bác ái Kitô giáo: trước khi là vì người khác, chúng ta phải ở cùng người khác, trong sự chia sẻ dựa trên tình huynh đệ.

Suy tư thứ hai là điều mà chính quý vị đã gợi ý cho tôi, thưa quý anh chị em đang ở tại ngôi nhà này. Quý vị là những người cao tuổi. Và từ "người cao tuổi" này ngày nay có nguy cơ mất đi ý nghĩa chân thật nhất của nó: trong nhiều bối cảnh xã hội, nơi hiệu suất và chủ nghĩa vật chất thống trị, người ta đã đánh mất ý nghĩa tôn trọng đối với người cao tuổi. Tuy nhiên, Kinh Thánh và các truyền thống tốt đẹp dạy chúng ta rằng – như Đức Giáo Hoàng Phanxicô yêu thích nhắc đi nhắc lại – người cao tuổi là sự khôn ngoan của một dân tộc, một kho tàng cho cháu chắt của họ, cho gia đình họ, và cho toàn xã hội!

Vậy thì, xin bày tỏ lời cảm ơn gấp đôi đến ngôi nhà này, ngôi nhà đã đón tiếp mọi người nhân danh tình huynh đệ, và đặc biệt là với những người cao tuổi. Chúng ta biết rằng điều này không hề dễ dàng, nó đòi hỏi rất nhiều lòng kiên nhẫn và rất nhiều lời cầu nguyện. Chính vì thế, giờ đây chúng ta hãy cầu nguyện xin Chúa đồng hành và nâng đỡ quý vị. Tôi xin khẩn cầu Phép lành của Thiên Chúa xuống trên tất cả quý vị.

Ký sổ và trao tặng Icon Đức Mẹ Iverskaya

Sau lời chào thăm, Đức Thánh Cha cùng đọc Kinh Kính Mừng với cộng đoàn và ký tên vào sổ danh dự kèm theo dòng chữ: “Tôi thân ái chúc lành cho ngôi nhà này cùng với tất cả những người cư ngụ, và cách riêng cho các Tiểu muội người nghèo vì sự phục vụ và chứng tá của chị em đối với mọi người”.

Đức Thánh Cha đã tặng cho Nhà tình thương của Dòng Tiểu muội người nghèo một bức Icon Đức Mẹ Iverskaya tuyệt đẹp và đầy ý nghĩa.

Bức icon được miêu tả như "một cánh cửa vàng dẫn vào mầu nhiệm", nơi nền vàng tượng trưng cho sự vĩnh cửu. Đức Trinh Nữ Maria ôm Hài Nhi, ánh mắt sâu lắng chiêm ngắm Thiên Chúa. Màu đỏ áo choàng Mẹ tượng trưng cho tình yêu và hy sinh, màu xanh của Hài Nhi là thần tính; cả hai tạo nên sự hài hòa giữa Trời và Đất. Với cử chỉ chỉ tay về phía Con, Mẹ Maria không giữ lại, nhưng "dâng hiến và đồng hành", bao hàm toàn bộ thần học về hy vọng. Sự tĩnh lặng của hai khuôn mặt là lời cầu nguyện, nơi Giáo Hội tìm thấy sự dịu dàng và lời hứa thế gian không bao giờ bị bỏ rơi.

Icon Đức Mẹ Iverskaya bắt nguồn từ truyền thống Byzantine và lưu giữ lịch sử phép lạ từ thế kỷ thứ IX. Tương truyền, sau khi bị đâm chảy máu, bức ảnh thánh này đã được sóng biển đưa đến tu viện Iviron trên Núi Athos. Tại đây, bức ảnh thường xuất hiện lơ lửng trên cổng, nên được tôn kính là "Portaitissa" – "Đấng Ngự trên Cổng", bảo vệ ngưỡng cửa giữa thế giới và thần linh. Trải qua nhiều thế kỷ, bức icon là dấu hiệu của sự hiện diện từ mẫu của Đức Maria, nhắc nhở các tín hữu rằng Mẹ không chỉ là Đấng canh giữ, mà còn là Đấng mở ra cho mầu nhiệm, cho hy vọng và cho ân sủng.

Cuối buổi viếng thăm, Đức Thánh Cha đã ban phép lành cho cộng đoàn và chụp ảnh lưu niệm cùng với mọi người.

Tiếp tục hành trình đến Iznik (Nixêa)

Vào lúc 11:10, ngài di chuyển đến Phái đoàn Tòa Thánh để dùng bữa trưa riêng.

Lúc 14:15 chiều, Đức Thánh Cha đến Sân bay Istanbul-Atatürk và di chuyển bằng trực thăng đến Iznik, cách Istanbul 150km.

Iznik, trước đây là Nixêa, là một thành phố thuộc tỉnh Bursa, nổi tiếng vì là nơi diễn ra hai Công đồng chung quan trọng của Kitô giáo: Công đồng Nixêa I năm 325 và Công đồng Nixêa II năm 787. Ngoài ra, ngày nay Iznik còn được biết đến qua nghề sản xuất gốm sứ.

Chuyến thăm Nhà Tình thương tại Istanbul cho thấy sự quan tâm đặc biệt của Đức Thánh Cha đối với người cao tuổi và những công việc bác ái của Giáo hội. Với việc Ngài đặt chân đến Iznik – cái nôi lịch sử của Kitô giáo, nơi từng định hình những giáo lý nền tảng – chuyến Tông du tại Thổ Nhĩ Kỳ được kỳ vọng sẽ tiếp tục mang lại ý nghĩa thiết thực cho hành trình đối thoại liên tôn và hiệp nhất đại kết Kitô giáo.

(Nguồn: RV)

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/duc-thanh-cha-leo-xiv-tham-vieng-nha-tinh-thuong-cua-dong-tieu-muoi-nguoi-ngheo-%E2%80%9Cbac-ai-nay-sinh-tu-tinh-huynh-de%E2%80%9D

***

 

58. [Tông du Thổ Nhĩ Kỳ] Kinh Tụng Ca với Đức Thượng Phụ Đại kết

Vào đầu giờ chiều Thứ Bảy 29/11, Đức Thánh Cha đã Nhà thờ Thượng Phụ Thánh George để cùng cầu nguyện Kinh Tụng Ca với Đức Thượng Phụ Đại kết Bartôlômêô.

Vatican News

Kinh Tụng Ca chung với Đức Thượng Phụ Đại kết Bartôlômêô.

Mở đầu buổi cầu nguyện, Đức Thượng Phụ Đại kết Bartôlômêô bày tỏ niềm vui lớn lao khi đón tiếp Đức Thánh Cha, trong cùng tinh thần huynh đệ đã dành cho các vị tiền nhiệm của ngài, những người đã góp phần quan trọng vào việc xích lại gần nhau giữa các Giáo hội qua đối thoại tình yêu và sự thật.

Ngài nhắc lại rằng chính tình yêu đã đưa hai bên gặp gỡ trong lễ khai mạc triều đại Giáo hoàng, và đã hướng dẫn chuyến tông du đầu tiên của Đức Thánh Cha đến Trung tâm Chính Thống giáo tại Phanar.

Đức Thượng Phụ nói về lời hứa chung, trước đây được trao đổi với Đức Giáo hoàng Phanxicô, là thực hiện một cuộc hành hương đến Nicêa nhân kỷ niệm 1700 năm Công đồng Chung Nicêa I. Dù Đức Phanxicô đã qua đời trước khi hoàn tất lời hứa, nhưng Đức Thánh Cha Lêô đã thực hiện cuộc hành hương này, điều mà Đức Thượng Phụ tin chắc đã làm linh hồn Đức Phanxicô vui mừng.

Theo truyền thống Chính Thống giáo, ngài ví chuyến đi Nicêa như việc Đức Thánh Cha đến lãnh lấy Kairos - ơn lành và sức mạnh cho khởi đầu sứ vụ Giáo hoàng, đặc biệt trong việc dấn thân phục vụ sự hiệp nhất Kitô hữu, điều ngày nay cần thiết hơn bao giờ hết.

Cuối cùng, Đức Thượng Phụ tái khẳng định niềm vui chào đón Đức Thánh Cha như một người anh em và quyết tâm của các Giáo hội chị em trong việc cùng nhau loan báo Tin Mừng, đem lại hòa bình và hòa giải cho thế giới, kết thúc với lời tuyên xưng: “Chúa Kitô ở giữa chúng ta!”

Tình bạn chân thành và huynh đệ

Trong bài phát biểu, Đức Thánh Cha bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với sự chào đón nồng hậu và những lời chúc tốt đẹp của Đức Thượng Phụ. Ngài cũng cảm ơn các thành viên của Thánh Thượng Hội đồng, cùng với hàng giáo sĩ và anh chị em tín hữu, những người mà chúng ta đang cùng nhau hiệp thông trong giờ kinh tụng ca hôm nay.

Khi bước vào ngôi Thánh đường này, tôi cảm thấy vô cùng xúc động, vì tôi ý thức rằng mình đang bước theo dấu chân của Đức Phaolô VI, Đức Gioan Phaolô II, Đức Bênêđictô XVI và Đức Phanxicô. Tôi cũng biết rằng Đức Thượng Phụ đáng kính đã nhiều lần gặp gỡ trực tiếp các vị tiền nhiệm của tôi và vun đắp một tình bạn chân thành, huynh đệ dựa trên cùng một niềm tin và cùng một tầm nhìn trước nhiều thách đố lớn lao mà Giáo hội và thế giới đang phải đối diện. Tôi tin chắc rằng cuộc gặp gỡ giữa chúng ta hôm nay cũng sẽ góp phần củng cố hơn nữa mối dây thân hữu ấy, vốn đã bắt đầu triển nở khi chúng ta gặp nhau lần đầu vào ngày khởi đầu sứ vụ Giám mục Roma, đặc biệt là trong Thánh lễ trọng thể mà Đức Thượng Phụ đã ưu ái hiện diện.

Hôm qua và một lần nữa sáng nay, chúng ta đã sống những khoảnh khắc ân sủng thật đặc biệt khi cùng tưởng niệm, với anh chị em tín hữu, kỷ niệm 1700 năm Công đồng Chung Nicêa I. Khi nhớ lại biến cố trọng đại ấy, và được khích lệ bởi lời cầu nguyện của Chúa Giêsu: “Xin cho tất cả nên một” (x. Ga 17,21), chúng ta được mời gọi kiên trì dấn thân tìm kiếm sự hiệp thông trọn vẹn giữa tất cả các Kitô hữu – một sứ mạng mà chúng ta thực hiện với ơn Chúa trợ giúp. Thúc đẩy bởi khát vọng hiệp nhất ấy, chúng ta cũng chuẩn bị cử hành lễ kính Thánh Anrê Tông đồ, quan thầy của Tòa Thượng Phụ Đại kết. Trong giờ kinh tụng ca này, vị phó tế đã dâng lên Thiên Chúa lời cầu xin “cho sự bền vững của các Thánh Giáo Hội và cho sự hiệp nhất của tất cả mọi người”. Lời khẩn cầu này cũng sẽ được lặp lại trong Phụng vụ Thánh ngày mai. Xin Thiên Chúa, Cha của Đức Giêsu Kitô, đoái thương chúng ta và thực sự làm cho lời cầu nguyện đó được nên trọn.

Một lần nữa xin cảm ơn Đức Thượng Phụ vì sự đón tiếp huynh đệ. Nhân dịp mừng lễ bổn mạng, tôi xin gửi đến Đức Thượng Phụ cùng toàn thể cộng đoàn hiện diện nơi đây những lời chúc tốt đẹp và sốt mến nhất.

Gặp gỡ và ký Tuyên bố chung

Sau buổi cầu nguyện, Đức Thánh Cha và Đức Thượng Phụ Bartolomeo đã có cuộc gặp gỡ riêng và ký một Tuyên Bố Chung, trong đó khẳng định quyết tâm tiếp tục tiến bước trên con đường đối thoại để đạt tới hiệp thông trọn vẹn giữa Giáo hội Công giáo và Chính Thống giáo.

Hai vị lãnh đạo nhấn mạnh ý nghĩa đặc biệt của 1700 năm Công đồng Nicea (325), được kỷ niệm ngay trước cuộc gặp gỡ. Việc tưởng niệm này không chỉ mang tính lịch sử, mà còn là lời mời gọi các Kitô hữu hôm nay mở lòng để Thánh Thần tiếp tục dẫn dắt, nhất là trong việc đối diện với những thách đố chung. Cả hai khẳng định rằng đức tin chung được tuyên xưng trong Kinh Tin Kính Nixêa liên kết các Kitô hữu mạnh mẽ hơn những trở ngại còn tồn tại.

Tuyên bố chung bày tỏ niềm vui vì năm nay toàn thể thế giới Kitô giáo đã cử hành Lễ Phục Sinh vào cùng một ngày, và hai vị cùng bày tỏ mong muốn tiếp tục tìm kiếm một giải pháp ổn định để có thể mừng lễ Phục Sinh chung mỗi năm.

Nhân kỷ niệm 60 năm Tuyên bố chung năm 1965 giữa Đức Phaolô VI và Thượng phụ Athenagoras – văn kiện xóa bỏ vạ tuyệt thông năm 1054 – hai vị lãnh đạo kêu gọi các tín hữu tiếp tục nuôi dưỡng tinh thần đối thoại, vượt qua nghi kỵ, và cộng tác chặt chẽ hơn trong chứng tá Kitô giáo.

Tuyên bố cũng nhấn mạnh trách nhiệm chung trong việc xây dựng hòa bình. Trong bối cảnh nhiều khu vực trên thế giới bị tàn phá bởi chiến tranh và bạo lực, hai vị mạnh mẽ kêu gọi những người có trách nhiệm chính trị làm mọi cách để chấm dứt xung đột. Đồng thời, hai vị dứt khoát bác bỏ mọi hình thức sử dụng tôn giáo để biện minh cho bạo lực, và khẳng định tầm quan trọng của đối thoại liên tôn trong việc xây dựng sự hiểu biết và hoà hợp giữa các dân tộc.

Cuối cùng, Đức Giáo hoàng Leo XIV và Thượng phụ Bartôlômêô bày tỏ niềm hy vọng vào sự hoạt động của Chúa Thánh Thần trong lịch sử nhân loại. Hai vị phó thác mọi người – đặc biệt những ai đang đau khổ vì chiến tranh, đói nghèo hay bệnh tật – cho tình thương của Thiên Chúa, và cầu xin ân sủng giúp nhân loại lớn lên trong tình bác ái và hiểu biết mầu nhiệm của Đức Kitô.

(Nguồn: RV)

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/tong-du-tho-nhi-ky-kinh-tung-ca-voi-duc-thuong-phu-dai-ket

***

 

59.  Đức Thánh Cha tham dự Phụng Vụ Thánh tại Nhà thờ Thượng Phụ của Giáo hội Chính Thống Constantinople

Vào ngày cuối cùng của chuyến viếng thăm Thổ Nhĩ Kỳ, Chúa Nhật 30/11/2025, trước khi khởi hành đi Libăng, Đức Thánh Cha đã tham dự Phụng vụ Thánh do Đức Thượng phụ Bartolomeo I chủ sự. Ngài kêu gọi các Giáo hội tiếp tục kiên định trên con đường hòa giải, bất chấp những trở ngại, đồng thời ca ngợi công việc của Ủy ban Quốc tế Hỗn hợp về Đối thoại Thần học giữa Công giáo và Chính thống giáo và kêu gọi họ hãy là "những người xây dựng hòa bình".

Vatican News

Tiếp tục những hoạt động cuối cùng tại Istanbul, Đức Thánh Cha đến Nhà thờ Thượng Phụ Thánh George của Giáo hội Chính Thống để tham dự Phụng vụ Thánh do Đức Thượng phụ Bartolomeo chủ sự.

Có một truyền thống nhấn mạnh tình huynh đệ hiệp thông giữa Giáo hội Công giáo Roma và Giáo hội Chính Thống Constantinople. Sau cuộc gặp lịch sử giữa Đức Giáo hoàng Phaolô VI và Đức Thượng phụ Athenagoras I năm 1964 tại Giêrusalem, mỗi năm, Giáo hội Chính Thống Constantinople có phái đoàn tham dự lễ Thánh Phêrô - bổn mạng Giáo hội Roma, tại Vatican, và ngược lại, Giáo hội Roma có phái đoàn tham dự lễ Thánh Anrê - bổn mạng Giáo hội Chính Thống Constantinople, tại Istanbul.

Thánh lễ của các Giáo hội Kitô Đông phương được cử hành theo nghi thức Byzantine, bằng tiếng Hy Lạp, với nhiều nghi thức như xông hương nhiều lần, các cuộc rước trong nhà thờ, hoàn toàn hát chứ không đọc và không dùng nhạc cụ. Các vị chủ sự thường đứng trong một khu vực riêng, được ngăn bởi một bức bình phong có các ảnh icon vẽ kiểu Đông phương, ngăn cách Cung Thánh và giáo dân. Do đó, Đức Thánh Cha tham dự từ gian bên ngoài Cung Thánh.

Dù khác với Phụng vụ Công giáo Tây phương, Phụng vụ Thánh cũng là cử hành Thánh Thể và cùng tuyên xưng đức tin theo kinh Tin Kính Nixêa.

Đức Thánh Cha tham dự Phụng Vụ Thánh tại Nhà thờ Thượng Phụ của Giáo hội Chính Thống Constantinople   (@Vatican Media)

Lời mời gọi những người kế vị các Tông đồ tiếp tục làm việc vì sự hiệp nhất Kitô giáo

Trong bài giảng, Đức Thượng phụ Bartolomeo nhấn mạnh ý nghĩa sâu xa của các thánh tích của Thánh Anrê và Thánh Phêrô được các Giáo hoàng tiền nhiệm trao tặng và được lưu kính ở đây, cũng như biểu tượng sâu sắc của bức icon “nụ hôn giữa hai Thánh Tông đồ”, hình ảnh đã trở thành dấu chỉ sống động của hành trình đại kết kéo dài suốt nửa thế kỷ qua. Ngài giải thích rằng mối hiệp thông thiêng liêng giữa hai Tông đồ, những người sáng lập hai Giáo hội, trở thành gương mẫu và lời mời gọi cho những người kế vị các ngài tiếp tục làm việc vì sự hiệp nhất Kitô giáo.

Đức Thượng phụ khẳng định rằng chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha Lêô và truyền thống trao đổi phái đoàn nhân dịp lễ bổn mạng hai Giáo hội không chỉ mang ý nghĩa nghi thức, nhưng là hành động mục vụ và cá nhân nhằm nuôi dưỡng tình hiệp thông và khát vọng khôi phục sự hiệp nhất trọn vẹn. Ngài nhắc lại sự kiện quyết định 60 năm trước: việc dỡ bỏ các vạ tuyệt thông năm 1054, được công bố trong Tuyên ngôn Chung ngày 7/12/1965. Đối với ngài, đây là một “mùa xuân thiêng liêng” sau “mùa đông chia rẽ”, mở ra thời kỳ mới của hòa giải, nhờ việc hoán cải trái tim, nhìn nhận sai lầm lịch sử và kiên trì tìm một cách diễn đạt chung đức tin Tông truyền.

Đức Thánh Cha tham dự Phụng Vụ Thánh tại Nhà thờ Thượng Phụ của Giáo hội Chính Thống Constantinople   (@Vatican Media)

Một ngày lễ Phục Sinh chung vẫn mang ý nghĩa đại kết cấp bách

Từ đây, Đức Thượng phụ Bartolomeo chuyển sang điểm nhấn trung tâm của năm phụng vụ: kỷ niệm 1700 năm Công đồng Nixêa. Cuộc hành hương chung đến İznik, cùng với các vị Thượng phụ Alexandria, Antiokia và Giêrusalem, không chỉ là chuyến thăm mang tính tượng trưng mà là sự tái khẳng định tính bền vững của Kinh Tin Kính Nixêa – bản tuyên xưng đức tin vượt thời gian, giữ gìn sự hiệp nhất của Giáo hội từ thời các Tông đồ. Ngài trích thư Thánh Atanasiô để giải thích mục đích Công đồng: chống lại lạc giáo Ariô và xác định một ngày mừng Phục Sinh chung. Chính vì Phục Sinh là nền tảng đức tin Kitô giáo, việc tìm kiếm một ngày lễ Phục Sinh chung ngày nay vẫn mang ý nghĩa đại kết cấp bách.

Ngài nhắc đến Công đồng toàn Chính thống giáo tại Crete (2016), nơi đã xác định rõ trách nhiệm của Chính thống giáo đối với sự hiệp nhất và nhấn mạnh rằng đức tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi và Đức Kitô theo Kinh Tin Kính Nixêa-Constantinople là tiêu chuẩn cho mọi đối thoại đại kết. Điều này chính là cơ sở để Chính thống giáo tham gia Hội đồng Đại kết Kitô giáo Thế giới, Hội nghị các Giáo hội châu Âu và các cuộc đối thoại song phương và đa phương.

Đức Thánh Cha tham dự Phụng Vụ Thánh tại Nhà thờ Thượng Phụ của Giáo hội Chính Thống Constantinople   (@Vatican Media)

“Đối thoại tình yêu” và “đối thoại chân lý”

Tiếp đó, Đức Thượng phụ đề cao hoa trái của “đối thoại tình yêu” và “đối thoại chân lý” giữa hai Giáo hội, đặc biệt nơi Ủy ban hỗn hợp quốc tế về Đối thoại thần học được thành lập bởi Thánh Gioan Phaolô II và Thượng phụ Dimitrios. Trong 45 năm, Ủy ban đã xây dựng tinh thần tin cậy, hiểu biết lẫn nhau và tạo không gian để hai Giáo hội đối diện những vấn đề lịch sử nhạy cảm. Những cuộc thảo luận gần đây về “tính hiệp hành” và “quyền tối thượng” không chỉ làm phong phú hai truyền thống mà còn truyền cảm hứng cho Kitô giáo toàn cầu. Ngài bày tỏ hy vọng rằng cả hai vấn đề thần học còn gây tranh luận – filioque và tín điều bất khả ngộ – sẽ được giải quyết để không còn là chướng ngại cho sự hiệp thông trọn vẹn.

Đức Thượng phụ nhấn mạnh rằng sự hiệp nhất Kitô giáo không phải là điều tùy ý, mà là lời cầu xin cuối cùng của Đức Giêsu trong Tin Mừng Gioan: “xin cho họ nên một”. Hiệp nhất còn là yêu cầu khẩn thiết của sứ vụ trong bối cảnh thế giới bị tàn phá bởi chiến tranh, bạo lực, bất công, bóc lột tài nguyên và thảm họa môi sinh. Ngài mạnh mẽ kêu gọi các Kitô hữu lên tiếng chống chiến tranh – đặc biệt là tại Ucraina – cũng như rộng mở trái tim với những tín hữu phải rời bỏ Trung Đông, hoặc những “anh em bé mọn nhất” bị bỏ rơi. Đồng thời, người Kitô hữu phải làm gương trong việc gìn giữ môi trường, phản đối ô nhiễm và biến đổi khí hậu, sống như những người kiến tạo hòa bình và đói khát công lý.

Cuối bài giảng, Đức Thượng phụ bày tỏ lòng tri ân sâu sắc đối với chuyến thăm của Đức Thánh Cha và cầu xin Thánh Anrê và Thánh Phêrô – hai trụ cột của Giáo hội – tiếp tục chuyển cầu cho công cuộc đại kết. Ngài khuyến khích mọi người kiên trì trên hành trình chung, để thế giới tin rằng “chúng ta đã gặp Đấng Mêsia”. Ngài kết thúc với lời chào huynh đệ, bày tỏ niềm vui lớn lao khi đón tiếp “người anh em rất đáng mến trong Đức Kitô”.

Đức Thánh Cha tham dự Phụng Vụ Thánh tại Nhà thờ Thượng Phụ của Giáo hội Chính Thống Constantinople   (@Vatican Media)

Kinh Tin Kính Nixêa–Constantinople là nền tảng hiệp thông đích thực

Về phần Đức Thánh Cha, trong diễn văn, ngài nhắc lại ý nghĩa của cuộc hành hương đến các địa điểm gắn với Công đồng Chung đầu tiên và việc cử hành Thánh Lễ kính Thánh Anrê Tông đồ, người được truyền thống cho là đã mang Tin Mừng đến Constantinople. Ngài nhấn mạnh: “Đức tin của Thánh Anrê, được các Công đồng Chung xác định và Giáo hội tuyên xưng ngày nay, là đức tin chung của mọi Kitô hữu”. Ngài nói rằng trong giờ cầu nguyện đại kết với các vị lãnh đạo Kitô giáo, cộng đoàn được nhắc rằng Kinh Tin Kính Nixêa–Constantinople là nền tảng hiệp thông đích thực, cho phép các Giáo hội nhận biết nhau như anh chị em, bất chấp những hiểu lầm lịch sử và những rào cản còn tồn tại.

Từ tinh thần ấy, theo Đức Thánh Cha, Thánh Giáo hoàng Phaolô VI và Thượng phụ Athenagoras cách đây 60 năm đã hủy bỏ khỏi ký ức Giáo hội những biến cố dẫn đến cuộc tuyệt thông năm 1054, mở ra hành trình hòa giải, bình an và hiệp thông sâu sắc giữa Công giáo và Chính thống giáo. Nhờ tiếp xúc thường xuyên, gặp gỡ huynh đệ và đối thoại thần học phong phú, những tiến triển quan trọng đã đạt được về phương diện giáo hội học và giáo luật. Ngày nay, các Kitô hữu được mời gọi dấn thân hơn nữa để khôi phục sự hiệp thông trọn vẹn.

Đức Thánh Cha bày tỏ lòng biết ơn đối với sự hỗ trợ liên tục của Tòa Thượng phụ Đại kết dành cho Ủy ban hỗn hợp quốc tế về đối thoại thần học, đồng thời kêu gọi các Giáo hội Chính thống tự quản tích cực tham gia trở lại vào nỗ lực chung này. Ngài khẳng định rằng, theo tinh thần Công đồng Vatican II, “việc theo đuổi sự hiệp thông trọn vẹn giữa tất cả những ai đã lãnh nhận phép Rửa nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần – trong sự tôn trọng những khác biệt chính đáng – là một trong những ưu tiên hàng đầu của Giáo hội Công giáo và đặc biệt của sứ vụ Giám mục Roma, người được trao trách nhiệm phục vụ toàn thể Giáo hội trong việc xây dựng và gìn giữ hiệp thông, hiệp nhất”.

Đức Thánh Cha tham dự Phụng Vụ Thánh tại Nhà thờ Thượng Phụ của Giáo hội Chính Thống Constantinople   (@Vatican Media)

Bổn phận xây dựng hòa bình, chăm sóc thụ tạo

Nhìn về các thách đố của thời đại, ngài nhấn mạnh trước hết đến bổn phận chung xây dựng hòa bình trong bối cảnh thế giới đầy xung đột. Hòa bình không chỉ là nỗ lực nhân loại mà trước hết là ân ban của Thiên Chúa, cần được cầu xin bằng cầu nguyện, sám hối và đời sống kết hợp với Chúa. Thách đố thứ hai là khủng hoảng sinh thái, đòi hỏi một cuộc hoán cải thiêng liêng. “Công giáo và Chính thống giáo được mời gọi hợp tác để cổ võ một não trạng mới trong đó mọi người đều cảm thấy mình là người trông coi thụ tạo mà Thiên Chúa trao phó”. Thách đố thứ ba là sự phát triển nhanh chóng của công nghệ, đặc biệt là trong truyền thông. Đức Thánh Cha kêu gọi Công giáo và Chính thống giáo cùng nhau cổ võ việc sử dụng có trách nhiệm, phục vụ phát triển toàn diện và đảm bảo cơ hội tiếp cận cho mọi người.

Cuối cùng, Đức Thánh Cha cầu chúc Đức Thượng phụ Bartolomeo và cộng đoàn muôn ơn lành, cảm ơn sự đón tiếp huynh đệ và phó thác tất cả cho lời chuyển cầu của Thánh Anrê, Thánh Phêrô, Thánh Tử đạo George, các Nghị phụ Công đồng Nixêa và các Thánh mục tử của Giáo hội Constantinople, xin Thiên Chúa đổ tràn phúc lành trên toàn thể cộng đoàn.

Đức Thánh Cha tham dự Phụng Vụ Thánh tại Nhà thờ Thượng Phụ của Giáo hội Chính Thống Constantinople   (@Vatican Media)

Phép lành Đại kết

Vào cuối cử hành Phụng vụ Thánh, Đức Thánh Cha Lêô và Đức Thượng phụ Bartolomeo đến ban công của Văn phòng Tổng Thư ký và tại đó hai vị lãnh đạo Giáo hội Công giáo và Chính Thống Constantinople cùng ban phép lành đại kết cho mọi người.

Đức Thánh Cha nói: Xin Thiên Chúa toàn năng, Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, ban phước lành cho anh chị em và ở cùng anh chị em luôn mãi.

Và Đức Thượng phụ nói: Nguyện xin ân sủng của Chúa Giêsu Kitô, tình yêu của Thiên Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em.

Sau đó, Đức Thánh Cha đã dùng bữa trưa huynh đệ với Đức Thượng phụ tại Tòa Thượng phụ Chính Thống Constantinople, trước khi đến phi trường Istanbul cách đó 17 km để bắt đầu chuyến viếng thăm Libăng.

Đức Thánh Cha tham dự Phụng Vụ Thánh tại Nhà thờ Thượng Phụ của Giáo hội Chính Thống Constantinople   (@Vatican Media)

(Nguồn: RV)

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/duc-thanh-cha-tham-du-phung-vu-thanh-tai-nha-tho-thuong-phu-cua-giao-hoi-chinh-thong-constantinople

***

 

60.  Đức Thánh Cha gặp các vị lãnh đạo các Giáo hội Kitô và Cộng đồng Kitô giáo ở Thổ Nhĩ Kỳ

Ngày 29/11/2025, Đức Thánh Cha Lêô XIV đã có cuộc gặp riêng với các nhà lãnh đạo và đại diện của các Giáo hội và cộng đồng Kitô giáo tại Nhà thờ Mor Ephrem của Chính Thống Syria. Ngài nhắc lại việc kỷ niệm Công đồng Nixêa, bày tỏ hy vọng về các cuộc gặp gỡ tiếp theo và nhắc lại rằng sự chia rẽ giữa các Kitô hữu là một trở ngại cho việc làm chứng cho Chúa Kitô.

Vatican News

Đến nhà thờ Thánh Ephrem, Đức Thánh Cha được đón tiếp bởi Thượng phụ Chính thống Syria và Đức Tổng Giám mục của Giáo hội Chính thống Syria tại Antiokia phụ trách các giáo phận Istanbul, Ankara và Izmir.

Nhà thờ Chính thống dâng kính Thánh Ephrem người Syria tọa lạc tại khu vực Yeşilköy thuộc Istanbul châu Âu, được khánh thành năm 2023 và là nhà thờ đầu tiên xây mới tại Thổ Nhĩ Kỳ kể từ khi Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ được thành lập. Nhà thờ được xây dựng trong mười năm, trong đó có 7 năm bị trì hoãn do thủ tục hành chính, đại dịch COVID-19 và trận động đất năm 2023.

Thượng phụ Ignazio Efrem và Đức Thánh Cha tiến vào nhà thờ và cùng các vị lãnh đạo tôn giáo chụp ảnh lưu niệm; trong số này có một số vị đã hiện diện tại Iznik trong buổi lễ kỷ niệm 1700 năm Công đồng Nixêa vào ngày 29/11/2025.

Sau kinh cầu xin Chúa Thánh Thần, Đức Thánh Cha và các vị lãnh đạo tôn giáo đã có cuộc gặp gỡ riêng tư, với cuộc đối thoại quanh một bàn tròn lớn. Trong cuộc gặp gỡ, Đức Thánh Cha đã tái khẳng định cam kết cầu nguyện và đồng hành trên con đường hướng tới sự hiệp nhất Kitô giáo.

Những cuộc gặp gỡ khác và loan báo Tin Mừng

Đức Thánh Cha nhắc lại ý nghĩa của buổi kỷ niệm 1700 năm Công đồng Nixêa, nhấn mạnh trọng tâm là Tin Mừng Nhập Thể. Ngài bày tỏ mong muốn từ sự kiện này sẽ tiếp tục nảy sinh những cuộc gặp gỡ mới, kể cả với những Giáo hội không thể tham dự cuộc gặp gỡ này. Ngài đặc biệt nhắc đến tầm quan trọng của việc loan báo Tin Mừng và sứ điệp kerygma, đồng thời khẳng định rằng sự chia rẽ giữa các Kitô hữu đang làm suy yếu chứng tá của họ trước thế giới.

Cuộc hành hương thiêng liêng đến Giêrusalem vào năm 2033

Hướng tới tương lai, Đức Thánh Cha mời gọi các Giáo hội cùng nhau tiến bước trong “hành trình thiêng liêng” dẫn tới Năm Thánh Cứu Chuộc 2033, kỷ niệm 2000 năm Cuộc Khổ nạn và Phục sinh của Chúa Kitô. Ngài gợi lên viễn cảnh trở về Giêrusalem - đặc biệt là phòng Tiệc Ly, nơi Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ và nơi diễn ra lễ Hiện Xuống - như là biểu tượng của hành trình tiến đến sự hiệp nhất trọn vẹn. Nhắc lại khẩu hiệu giám mục của mình, In Illo Uno Unum (“Trong Đấng Duy Nhất, chúng ta là một”), ngài nhấn mạnh mục tiêu hướng tới một sự hiệp thông ngày càng sâu sắc hơn giữa các Giáo hội.

Canh tân đức tin của chúng ta

Trước khi rời Nhà thờ Chính tòa Mor Ephrem, Đức Thánh Cha đã ghi vào Sổ Lưu niệm một thông điệp bằng tiếng Anh: "Trong dịp lịch sử này, khi chúng ta kỷ niệm 1.700 năm kể từ Công đồng Nixêa, chúng ta hiệp nhất để canh tân đức tin của chúng ta vào Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa thật và người thật, cử hành đức tin mà chúng ta cùng chia sẻ. Tôi cầu chúc mọi phúc lành cho tất cả những người quy tụ ở đây và cho tất cả các cộng đồng mà họ đại diện”.

(Nguồn: RV)

 

Link nội dung đầy đủ:  https://giaophanmytho.net/chi-tiet/duc-thanh-cha-gap-cac-vi-lanh-dao-cac-giao-hoi-kito-va-cong-dong-kito-giao-o-tho-nhi-ky

***