QUAN NIỆM CỦA
THÁNH JUSTINÔ
VỀ TRIẾT HỌC
1.
Thân thế của Thánh Justinô
:
[1]
- Thánh Justinô sinh tại Flavia, thuộc miền Syria bên Palestina
- Đã thụ giáo nhiều trường phái triết học như Stoa, Aristote, Pythagoros, Tân Platon
- Trở lại Kitô giáo khoảng năm 130 và trở thành nhà truyền bá đức tin Kitô giáo.
2.
Sự nghiệp của Thánh Justinô
:
[2]
Thánh Justinô đã viết hai tác phẩm nổi tiếng là:
- “Hộ Giáo” (Apologia) nhằm bảo vệ chân lý đức tin, bảo vệ cho lập trường Kitô giáo, chống lại sự tấn công của dân ngoại và các trườgn phái triết học, các tôn giáo, đặc biệt là Do thái giáo đang tấn công vào chân lý đức tin của Kitô giáo còn non trẻ.
- “Đối Thoại Với Ông Tryphô” (Dialogus Cum Tryphone), đây là tác phẩm nhằm trình bày và đối thoại với Do thái giáo, nhưng vẫn kiên vững trong lập trường, trong chân lý đức tin của Kitô giáo đã được chính các Tông Đồ, các Tông Phụ truyền lại.
Qua hai tác phẩm “Hộ Giáo” và “Đối Thoại Với Ông Tryphô” của Thánh Justinô cho phép khẳng định cách chắn chắn Thánh Justinô là một trong những nhà Hộ giáo Kitô giáo nổi bậc của thế kỷ thứ II.[3] Là nhà Hộ giáo Kitô giáo nhưng có thái
độ
cởi mở, đối thoại với nền văn minh và văn hoá Hylạp.[4]
Tư tưởng hộ giáo của Thánh Justinô được trình bày qua hai tác phẩm với những tư tưởng mang tính đột phá, mới mẽ trong hai lãnh vực triết học và thần học về “Logos” của thánh nhân.
Triết học của Thánh Justinô là kết quả của những suy tư cách chân chính về con đường tìm kiếm Thiên Chúa
. Không dừng lại ở đó, triết học của thánh nhân như là hàng rào bảo vệ Kitô giáo trước sự tấn công của những tư tưởng triết học, có nguy cơ tạo ra lạc giáo cho Kitô giáo như: trường phái Khắc Kỷ, Ngộ Đạo Thuyết.
[5]
Để nhận biết chân lý, để làm cho cuộc sống con người ngày càng nhân hản hơn, con người có nhiều nguồn lực khích lệ, trong đó phải kể đến triết học.
[6]
Quả thật, mục đích của triết học là tìm kiếm chân lý. Chân lý đó chính là uyên nguyên, hay một thực tại phổ quát chi phối toàn bộ vũ trụ và con người.
[7]
Nói cách khác, triết học là nhằm đưa con người đến với chân lý đích thực,
[8]
chân lý này chính là cùng đích, là cội nguồn của mọi thứ chân lý, mà các nghành khoa học sở hữu, trong đó có cả triết học.
Chân lý của triết học mang tính tịnh tiến dần đến nguồn cội của chân lý,
[9]
nguồn cội của chân lý trong triết học tuỳ theo cách gọi khác nhau mà có những tên khác nhau như: Thượng Đế, Thiên Chúa, Đấng Sáng Tạo … tuy có những tên gọi khác nhau, nhưng chung quy là nói đến một Thực Tại Tự Hữu chi phối, quyết định toàn thể vũ trụ và con người.
[10]
Đối với Thánh Justinô, thánh nhân quan niệm: triết học phải trở thành phương tiện tốt nhất tiếp cận được với uyên nguyên, nguồn cội phát sinh mọi chân lý là chính Thiên Chúa trong và của Kitô giáo.
Tư tưởng này được Thánh Justinô trình bày rất rõ trong những lời tự thuật và giải thích của cụ già về các tiên tri.
Triết học quả là điều thiện hảo lớn lao, quí giá trước mặt Thiên Chúa, chỉ có triết học mới dẫn chúng ta kết hợp với Ngài. Những người để tâm trí vào triết học mới thực là bậc thiêng thánh … vì thế, ngay từ đầu tôi đã khao khát lui tới với họ và đã tin tưởng vào một triết gia khắc kỷ – nhưng rồi chẳng được biết thêm gì về Thiên Chúa – bởi chính ông ta cũng không biết gì về Ngài, và cũng không coi sự hiểu biết Thiên Chúa là điều thiết yếu […] (Dialogue II,3-6).
[11]
Triết học là sản phẩm của trí tuệ,
[12]
có giá trị của con người đối với Thiên Chúa, là phương tiện đưa con người kết hợp với Thiên Chúa.
Khi nhận định như vậy, đồng nghĩa với việc Thánh Justinô đưa ra một quan điểm đánh giá mới về giá trị của triết học. Nhưng không chỉ dừng lại ở việc đánh giá, Thánh Justinô còn đưa ra một khẳng định về việc con người nhận biết được Thiên Chúa qua con đường lý trí tự nhiên:
Triết học quả là điều thiện hảo lớn lao, quí giá trước mặt Thiên Chúa, chỉ có triết học mới dẫn chúng ta kết hợp với Ngài
.
Quan điểm này của Thánh Justinô đã được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II tái khẳng định lại trong thông điệp Đức Tin Và Lý Trí như sau:
Đức Tin và Lý Trí là như đôi cánh giúp cho trí tuệ con người băng mình lên để chiêm niệm chân lý. Thiên Chúa đã in vào tâm khảm con người khát vọng nhận biết chân lý, và sau cùng để nhận biết chính Người, ngõ hầu khi đã biết và yêu mến Người thì con người cũng nhận biết chân lý đầy đủ về chính mình.
[13]
Khi khẳng định con người có khả năng nhận biết Thiên Chúa nhờ lý trí, thánh Justinô đã mở ra một cửa ngõ ở vị thế ngang bằng, và bình đẳng cho tất cả mọi người, trên con đường tìm kiếm chân lý là Thiên Chúa.
Vì tất cả mọi người, ai ai cũng đều sở hữu một thứ lý trí, mang tính chủ thể cá biệt nơi chính bản thân mình. Đức Giáo Hoàng Piô XIII nói về khả năng nhận biết Thiên Chúa bằng lý trí của con người như sau:
Lý trí con người nhờ sức lực và ánh sáng tự nhiên của mình, có thể nhận biết cách xác thật và chắc chắn về một Thiên Chúa hữu ngã, Đấng bảo vệ và điều khiển thế giới bằng sự quan phòng, cũng như về luật tự nhiên mà Đấng Sáng tạo đã đặt trong tâm hồn chúng ta
[14]
Thiên Chúa dưới cái nhìn triết học của Thánh Justinô đã trở nên phổ quát, trở thành tài sản của hết mọi người.
Thiên Chúa không còn là tài sản độc quyền của triết học nữa, không còn là sản phẩm thuần tuý của lý trí nữa, nhưng trở thành đối tượng và cứu cánh cho sự tìm kiếm của lý trí con người, cũng như của tất cả các ngành khoa học
[15]
.
Thiên Chúa cũng không còn là của riêng dân Do thái nữa, nhưng được mở ra cho hết tất cả mọi người, không phân biệt giai cấp, địa vị, trí thức hay bình dân … nhưng tất cả mọi người với lý trí tự nhiên của mình đều tiếp cận và nhận biết được Thiên Chúa.
[16]
Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đây, xem ra chưa thấu đáo hết được thiện ý mà Thánh Justinô trình bày, vì sao như vậy? Vì nếu chỉ dừng lại ở lý trí tự nhiên nhận biết Thiên Chúa, vô tình đã làm cho tư tưởng của Thánh Justinô trở nên một hình thức đề cao thái quá khả năng của lý trí tự nhiên của con người.
Điều này rất dễ rơi vào chủ trương duy trí, hay xa hơn là rơi vào lập trường của phái Ngộ Đạo chủ trương nhận biết Thiên Chúa nhờ vào “biết”
[17]
, hay gần hơn là hình thức “tự hào triết học”, đưa cái nhìn còn khiếm khuyết lên hàng bài học phổ quát,
[18]
như cách nói của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong thông điệp Đức Tin Và Lý Trí.
Khả năng trừu tượng là đặc trung của trí tuệ con người; với hoạt động triết lý, khả năng này sẽ dẫn đến việc thiết lập một hình thức tư tưởng nghiêm túc, và như vậy, xây dựng một kiến thức có hệ thống, với sự mạch lạc hữu lý của những phán đoán, và tính cách hữu cơ của nội dung. […] Nhưng hiển nhiên là trong những trường hợp này, có một thứ “tự hào triết học” xen vào, đưa cái nhìn còn khiếm khuyết lên hàng bài học phổ quát
[19]
.
Vấn đề đặt ra là phải hiểu việc nhận biết Thiên Chúa qua triết học, hay vị trí của lý trí tự nhiên nhận biết Thiên Chúa của Thánh Justinô phải được định vị như thế nào cho thoả đáng? Justinô trả lời vấn đề này như sau:
[…] Nhưng trước hết anh hãy cầu nguyện để cánh cửa của ánh sáng mở ra cho anh, bởi lẽ không ai có thể thấy hay hiểu biết Thiên Chúa nếu Thiên Chúa và Đức Kitô của Ngài không cho người đó hiểu biết (Dialogue VII,1-3)
.
[20]
Khẳng định của Thánh Justinô đã dịnh vị cách rõ ràng vị trí của lý trí tự nhiên được phô diễn qua triết học, đó là lý trí tự nhiên hay triết học chỉ đạt đến một khả năng nhận thức nhất định mà không thể thấu đáo hay vươn đến những chân trời mới nằm ngoài khả năng của triết học.
Nói rõ hơn là triết học không thấu đạt được những chân lý thuộc về mầu nhiệm, nó chỉ có thể giúp hiểu thêm về mầu nhiệm, mà không thể sở hữu được mầu nhiệm như một thứ tri thức mà nó đắc thủ
[21]
.
Quan niệm về triết học của Thánh Justinô đã trở thành quan niệm về lý trí nhận biết được Thiên Chúa của con người
[22]
. Đối tượng của lý trí không dừng lại ở những tri thức thuần tuý trong các nghành khoa học, nghiên cứu, thực hành, hay suy tư của con người nữa.
Nhưng đối tượng cuối cùng của lý trí trên đường tìm kiếm chân lý, chính là Thiên Chúa
[23]
. Khi xác định Thiên Chúa là cùng đích sự tìm kiếm chân lý của lý trí, cũng đồng nghĩa với việc: Thánh Justinô phản kháng lại những lập luận biện hộ cho những quan niệm sai lệch rằng: Con người là thước đo của vạn vật, hay đúng hơn con người là chân lý cho chính nó
[24]
.
Nếu xét ở góc độ dự phóng, quả thật quan niệm triết học của Thánh Justinô vượt quá thời đại của chính ông. Nghĩa là mãi đến hôm nay, quan niệm triết học của Thánh Justinô vẫn đang công kích vào những triết thuyết sai lệch. Hay nói cách tế nhị hơn rằng: lập trường triết học của Thánh Justinô tiếp tục hộ giáo cho Giáo hội trước sự tấn công của những triết thuyết lệch lạc. Ví dụ như triết thuyết sai lệch của Feuerbach quan niệm: Thượng Đế không gì khác hơn là lý trí dưới đặc tính tuyệt đối của nó.
[25]
Quan niệm về triết học của Thánh Justinô, hoàn toàn khác biệt với những trường phái triết học mà thánh nhân đã theo đuổi. Trong lời tự thuật của Thánh Justinô, thánh nhân đã chỉ ra sự yếu kém của triết học phái Khắc kỷ.
[…] ngay từ đầu tôi đã khao khát lui tới với họ và đã tin tưởng vào một triết gia khắc kỷ – nhưng rồi chẳng được biết thêm gì về Thiên Chúa – bởi chính ông ta cũng không biết gì về Ngài, và cũng không coi sự hiểu biết Thiên Chúa là điều thiết yếu […]
[26]
Sự khác biệt trong quan niệm triết học của Thánh Justinô, đó là ông chủ trương triết học phải tìm kiếm Thiên Chúa. Vì thế, khi đến với phái Khắc kỷ ông nhận thấy họ không biết gì về Thiên Chúa, không coi sự hiểu biết Thiên Chúa là điều tất yếu.
Trái lại, Khắc kỷ coi việc giải thoát linh hồn ra khỏi thân xác là điều thiết yếu, cho nên họ chọn đời sống nhiệm nhặt khổ chế triệt để, nhằm nhanh chóng đưa linh hồn ra khỏi thân xác
[27]
.
Như vậy, Khắc kỷ chủ trương giải thoát là trước tiên, sự giải thoát là do nổ lực của cá nhân. Trong khi đó, thánh Justinô chủ trương tìm kiếm Thiên Chúa là điều trước hết. Nói như thế, không lẽ triết học của Thánh Justinô không chủ trương tìm kiếm giải thoát?
Không phải như thế, sự giải thoát không dừng lại ở bề mặt tư tưởng nơi triết học của ông, nhưng nằm ở đằng sau thực tại của triết học nhận biết Thiên Chúa của Thánh Justinô. Sự giải thoát theo kiểu triết học nhận biết Thiên Chúa của Thánh Justinô, chính là sự hoàn thiện, nói theo ngôn ngữ của Thánh Justinô, đó là bậc thiêng thánh.
Trong thông điệp Đức Tin Và Lý Trí, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, tiếp tục lấy lại tư tưởng: Triết học là công cụ giúp con người nhận biết Thiên Chúa, của Justinô. Tuy nhiên, Đức Thánh Cha trình bày dưới cái nhìn phổ quát mà xúc tích, trong tương quan với đức tin.
Về phần mình, Giáo hội phải thán phục những nổ lực của lý trí để đạt tới những mục tiêu làm cho cuộc nhân sinh ngày càng xứng đáng hơn. Quả thực, giáo hội nhận thấy nơi triết học một phương cách nhận biết những chân lý nền tảng liên quan đến cuộc sống của con người. Đồng thời Giáo hội coi triết học như một trợ lực không thể thiếu để thấu hiểu đức tin và để truyền thông chân lý của Tin Mừng cho những ai chưa biết đến.
[28]
Tiếp tục trong lời tự thuật của mình, Thánh Justinô lượng giá triết học của Aristote và Platon. Đối với triết học của Aristote, Justinô phê phán sự vụ lợi của những người theo triết thuyết của Aristote:
[…] tôi đành ra đi và tìm đến với một người khác theo thuyết Aristote, một người tinh tế – ông ta nghĩ mình như thế – Những ngày đầu ông chấp nhận tôi, nhưng sau đó ông muốn tôi xác định tiền học phí để sự gặp gỡ giữa chúng tôi không ra vô ích.
[29]
Thánh Justinô phê phán sự vụ lợi của các môn đồ theo triết thuyết của Aristote, cũng đồng nghĩa ông phê phán sự vụ lợi của lý trí trên con đường tìm kiếm chân lý. Sự vụ lợi này được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, mà ở đây Justinô trưng dẫn hình thức mua bán tri thức, mua bán chân lý. Nghĩa là lấy việc đắc thủ trên con đường tìm gặp được chân lý, tìm gặp Thiên Chúa để bán chát, trao đổi.
Điều này đối với Thánh Justinô là không thể chấp nhận được, vì: chân lý là khách quan, chân lý tối hậu cuối cùng là Thiên Chúa. Thiên Chúa là Chân Lý mà mọi người ai ai cũng phải tìm kiếm,
[30]
không thể là sở hữu của riêng một ai.
Lấy việc đắc thủ cách tìm thấy chân lý, tìm gặp Thiên Chúa để mua bán, trao đổi là xúc phạm đến Thiên Chúa. Chân lý là vô giá, là ân ban của Thiên Chúa cho con người, vì thế không thể đem ra mua bán, trao đổi hay lượng giá bằng vật chất, bằng tiền bạc được.
Khi phê phán như vậy, Thánh Justinô cũng phê phán quan niệm: chỉ có các triết gia mới là những con người sở hữu, phân phát chân lý cho người khác. Đối với triết thuyết Platon, Thánh Justinô cũng không thể tìm gặp được Thiên Chúa, mặc dù cùng đích của triết Platon chính là Thiên Chúa. Thiên Chúa mà Platon quan niệm là Thiên Chúa của triết học, Thiên Chúa của những khái niệm của những ý tưởng tuyệt đối, của những định đề, của những phạm trù vô thể vô chất.
[…] tôi bị cuốn hút mãnh liệt vào việc hiểu biết những điều vô thể, vô chất. Việc chiêm ngắm các ý niệm làm tim tôi bay bổng. Chỉ một ít thời gian, tôi những tưởng mình đã thành bậc hiền triết, và do dự trì độn, tôi hy vọng được nhìn thấy Thiên Chúa ngay, bởi đó là cùng đích của triết thuyết Platon.
[31]
Khi nhận ra sự khao khát được chiêm ngưỡng Thiên Chúa của triết Platon, Justinô cũng nhận ra sự thất vọng khi không gặp được Thiên Chúa như ông mong muốn. Bởi vì, Thiên Chúa của Platon là Thiên Chúa của lý trí, là Thiên Chúa của các triết gia.
Vì thế, Justinô chỉ thấy được Thiên Chúa nơi triết thuyết Platon qua sự thoả mãn của lý trí, mà ông diễn tả rằng “tim tôi bay bổng”, và chỉ dừng lại ở sự thoả mãn cho lý trí cho giác quan … nhưng không thể mang đến hạnh phúc đích thực cho tâm hồn thánh Justinô được.
Lm. Pet. Trần Trọng Khương
Giáo xứ Chánh Tòa
[1]
X. LÊ VĂN CHÍNH, Giáo Trình Giáo Phụ, p.30, ĐCV Thánh Giuse 2006-2007
[2]
X.
JACQUES LIÉBAERT, Giáo Phụ tập 1, p.48-52, ĐCV Thánh Giuse
[3]
X. LÊ VĂN CHÍNH, Giáo Trình Giáo Phụ, p.30, ĐCV Thánh Giuse 2006-2007
[4]
X. Ibid, p.31
[5]
X. Ibid, p.30
[6]
X. GIOAN PHAOLÔ II, Thông Điệp Đức Tin Và Lý Trí, số 3 (đoạn 1)
[7]
Ibid, số 3 (đoạn 1)
[8]
Ibid, số 5 (đoạn 1)
[9]
Ibid, số 4 (đoạn 1)
[10]
X. LOUIS LEAHY, Con Người Và Vấn Đề Thượng Đế, Học Viện Thánh Piô X Đà Lạt – Việt Nam, p.14
[11]
JACQUES LIÉBAERT, Giáo Phụ tập 1, Đối Thoại Với Ông Tryphô III,3-6, p.54, ĐCV Thánh Giuse
[12]
X. GIOAN PHAOLÔ II, Thông Điệp Đức Tin Và Lý Trí, số 4 (đoạn 2
[13]
GIOAN PHAOLÔ II, Thông Điệp Đức Tin Và Lý Trí (lời dẫn nhập thông điệp)
[14]
ĐGH Piô XIII, Humani Generis; DS 3875
[15]
X. GLHTCG, số 39
[16]
X. CĐ Vat.II, Hiến Chế Tín Lý Về Mạc Khải số 6
[17]
X. GM PHAO LÔ BÙI VĂN ĐỌC, Chỉ Một Thiên Chúa Chúa Cha Chúa Con Chúa Thánh Thần, p.229
[18]
X. GIOAN PHAO LÔ II, Thông Điệp Đức Tin Và Lý Trí, số 4 (đoạn 2)
[19]
Ibid
[20]
JACQUES LIÉBAERT, Giáo Phụ tập 1, Đối Thoại Với Ông Tryphô III,3-6, p.55, ĐCV Thánh Giuse
[21]
X.
GIOAN PHAOLÔ
,
Thông Điệp Đức Tin Và Lý Trí
,
số 3 (đoạn 1)
[22]
X. ĐGH Lêô XIII, Thông Điệp Aeterni Patris, p.97-115
[23]
X. GIOAN PHAOLÔ II, Thông Điệp Đức Tin Và Lý Trí, số 33
[24]
X. LÊ TÔN NGHIÊM, Lịch Sử Triết Học Tây Phương, nxb Thành Phố Hồ Chí Minh 2000, p.255
[25]
X. LOUIS LEAHY, Con Người Và Vấn Đề Thượng Đế, Học Viện Thánh Piô X Đà Lạt – Việt Nam, p.121
[26]
JACQUES LIÉBAERT, Giáo Phụ tập 1, Đối Thoại Với Ông Tryphô III,3-6, p.54, ĐCV Thánh Giuse
[27]
X. GM PHAOLÔ BÙI VĂN ĐỌC, Chỉ Có Một Thiên Chúa Chúa Cha Chúa Con Chúa Thánh Thần,p.233
[28]
GIOAN PHAOLÔ II, Thông Điệp Đức Tin Và Lý Trí, số 5
[29]
JACQUES LIÉBAERT, Giáo Phụ tập 1, Đối Thoại Với Ông Tryphô III,3-6, p.55, ĐCV Thánh Giuse
[30]
X. GLHTCG, số 27
[31]
JACQUES LIÉBAERT, Giáo Phụ tập 1, Đối Thoại Với Ông Tryphô III,3-6, p.55, ĐCV Thánh Giuse