LINH MỤC CỦA CHÚA KITÔ
Divo Barsotti
Bài 12: Sứ điệp cứu rỗi
Chúng ta đã duyệt qua chức vụ tiên tri, không phải theo lối thần học, mà theo lối tu đức. Chúng ta hãy tiến thêm một bước nữa.
Có nhiệm vụ phải rao giảng: điều đó có nghĩa gì đối với cuộc sống nội tâm của chúng ta? đối với chức linh mục của chúng ta? Chúng ta đã vạch ra hai đường lối để suy nghĩ.
Thứ nhất: Chúa đã bảo đảm sự hiện hữu của các nhiệm tích thánh thế nào để nó không lệ thuộc vào sự thánh thiện của thừa tác viên bí tích; cũng thế, Ngài đã bảo đảm tính cách bất khả ngộ của quyền giáo huấn thế nào để nó không lệ thuộc vào sự thánh thiện của các thừa tác viên của Giáo Hội – chắc chắn, không phải là sự thánh thiện của Giáo Hội. Nhưng Ngài đã không bảo đảm sự hiện hữu của Lời mà không cần đến sự thánh thiện. Chắc chắn, Lời Chúa tự nó có thể hữu hiệu, và không phải chúng ta có thể làm gì để cho nó thêm một hiệu năng nào. Nhưng chắc chắn chúng ta có thể gây nên chướng ngại cho hiệu năng ấy và làm tê liệt Lời Chúa.
Thứ hai: Nếu chúng ta có nhiệm vụ phải nói, trước hết, chúng ta phải tập lắng nghe, vì Lời mà chúng ta phải mang lấy không phải là lời của chúng ta mà là Lời Chúa. Đời sống thiêng liêng của chúng ta, đời sống linh mục của chúng ta phải là lắng nghe Lời Chúa. Chúa vẫn nói trong tâm hồn chúng ta, Ngài vẫn tiếp tục thông truyền chính mình cho chúng ta. Sứ mệnh trong thời gian của Con Thiên Chúa tương ứng với sự sinh sản đời đời của Ngôi Lời. Sứ mệnh ấy liên can đến toàn thể Giáo Hội, và linh hồn của mỗi người chúng ta. Cũng như Chúa Cha sinh ra Chúa Con trong cung lòng Ngài thế nào, Ngài cũng sinh Chúa Con trong lòng Đức Maria, trong lòng Giáo Hội và trong tâm hồn của những ai chấp nhận Lời Ngài như thế. Từ đó, chúng ta phải luôn chú ý một cách khiêm nhường và liên lỉ đến Chúa, Đấng ngỏ lời với chúng ta. Nhưng chúng ta phải chắc chắn về Lời đó. Muốn thế, chúng ta phải nhớ đến lời Chúa mà Giáo Hội đã ban bố cho chúng ta trong Kinh Thánh. Đời sống linh mục của chúng ta phải là một sự nghiềm ngẫm liên lỉ Lời Chúa.
Không thể sống đời sống kitô-hữu và hơn nữa, là đời sống linh mục nếu không liên lỉ nghiền ngẫm Lời Chúa. Giáo dân, nhất là linh mục phải sống trong một sự hiệp thông với Thánh Truyền, với các giáo phụ, với các thánh tiến sĩ, với tất cả các thánh. Chúng ta cần phải sống trong một sự tuỳ thuộc khiêm tốn đối với quyền giáo huấn của Giáo Hội, và nhất là sống hiệp nhất, vâng phục và yêu thương đối với người mà chúng ta có thể nói là miệng lưỡi của toàn thể Giáo Hội.
Chúa thương ban cho chúng ta sự sống, đó là điều chắc chắn và chúng ta không thể chấp nhận rằng sự thông hiệp với Chúa là một sự thông thiệp không trực tiếp. Sự thông hiệp với Chúa đòi hỏi Mầu Nhiệm Nhập Thể. Sự thông hiệp của chúng ta với Chúa là một sự thông hiệp trong Chúa Kytô. Nếu Chúa Kytô là Đấng Trung Gian thì sự trung gian ấy là môt sự trung gian đặc biệt, vì nơi Ngài, Thiên Chúa và loài người là một. Cũng thế, sự trung gian của chức linh mục thừa tác tham dự vào sự riêng biệt ấy, và như thế, chữ trung gian xem ra hàm hồ. Cái gì chúng ta gọi là sự trung gian chỉ là dấu hiệu của sự hiệp nhất không những giữa con người với Thiên Chúa mà thôi, mà cũng là giữa tất cả mọi người với toàn thể nhân loại trong Giáo Hội, và giữa mọi người với mọi thời và mọi người, vì Chúa Kytô chỉ là một. Đó chính là sự trung gian của Giáo Hội. Giáo Hội không xen giữa con người với thiên Chúa, nhưng Giáo Hội cấu thành sự hiệp nhất nhiệm mầu giữa con người với Thiên Chúa trong Đức Kytô. Chúa Kytô chỉ sống trong chúng ta khi chúng ta thuộc về Giáo Hội là Nhiệm Thể của Ngài. Như thế, sự hiệp nhất của chúng ta với Thiên Chúa trong Chúa Kytô đòi hỏi sự hiệp nhất của mỗi người chúng ta với toàn thể Giáo Hội, và không những với Giáo Hội hôm nay mà cả với Giáo Hội của quá khứ và tương lai, vì Giáo Hội chỉ là một.
Chúng tôi muốn đề cập ở đây đến việc rao giảng. Những văn kiện Công Đồng như Về chức vụ và đời sống linh mục và Chức vụ Giám Mục mang nhiều ý nghĩa. Chúng ta hãy rút ra những gì cần thiết để suy nghĩ về vấn đề chúng ta đang đề cập đến.
Ý tưởng thứ nhất hoàn toàn là Tin Mừng. Thường người ta dễ quên tính cách bi thảm của đời sống kitô-hữu, sự nghiêm trọng của đời sống và sự dấn thân của kitô-hữu.
“Ai tin và được thanh tẩy sẽ được cứu rỗi; ai không tin thì đã bị kêt án rồi” (Mc16,16). Sắc lệnh về chức vụ và đời sống linh mục đã lặp lại lời ấy. Có nhiều người muốn đưa tất cả mọi người vào thiên đàng, bất chấp mọi sự. Điều đó, Chúa Kytô không nói và Tin Mừng cũng không ghi lại. Sự hư mất là một điều có thể xảy ra trong thực tế và không thể loại trừ ra khỏi giáo huấn kitô-giáo và đó chính là yếu tố đem lại cho việc rao giảng mãnh lực và sự cần thiết của nó. Hoả ngục có thật.
Nếu đức tin phát xuất từ những gì đã nghe, ex auditu, thì sự cứu rỗi của thế giới tuỳ thuộc vào việc rao giảng kitô-giáo: “các linh mục mắc nợ mọi người”. Đó là ý tưởng thứ hai. Nếu đức tin phát xuất từ việc rao giảng, thì chúng ta có nhiệm vụ phải lo cho toàn thể thế giới, chúng ta lãnh trách nhiệm về phần rỗi của mọi người. Tất cả, chắc chắn đó là trách nhiệm của chức tư tế nói chung, nhưng mỗi linh mục đều liên luỵ trong vấn đề đó. Thiên Chúa đòi hỏi chúng ta lo lắng cho phần rỗi của mọi người. Đó là điều trước tiên sắc lệnh về chức vụ và đời sống linh mục đã dạy.
Và đây là điều trước tiên chúng ta phải suy nghĩ. Nếu Lời Chúa Giêsu còn có giá trị đối với chúng ta, nếu những lời ấy vẫn còn đúng với hôm nay, thì trong hai việc: một là ai không tin và từ chối Tin Mừng sẽ bị luận phạt hay là chính chúng ta phải bị luận phạt vì không rao giảng Tin Mừng. Không có lối nào khác. Chúa đạt đến mọi người trên thế giới bằng cách nào, tôi không thể biết. Điều đó thuộc lãnh vực huyền nhiệm và chúng ta không thể kiểm nhận kết quả hay hiệu năng của công việc chúng ta làm. Nhưng một điều chúng ta có thể chắc chắn: sứ điệp cứu rỗi phải đạt đến mọi người nhờ việc rao giảng của chúng ta. Chúng ta không thể biết làm sao được như thế, nhưng chúng ta biết rằng chức linh mục của chúng ta có mãnh lực đó và có thể đạt đến toàn thể nhân loại, vì nhân loại được trao phó cho chúng ta. Nếu vì lỗi của chúng ta, vì chúng ta thiếu yêu thương, thiếu nhiệt thành, thiếu hy sinh, việc ấy không đạt dược kết quả thì không phải những kẻ khác sẽ bị luận phạt, mà chính chúng ta sẽ bị luận phạt. Nếu ngược lại, biết được sứ điệp Tin Mừng mà vì ngoan cố, họ từ chối, lúc ấy, chính họ mới bị luận phạt.
Chúng ta không thể nói gì khác nữa. Đó là Tin Mừng mà chúng ta phải loan báo và chúng ta không có quyền thay đổi để làm vui lòng người này hay người khác.
Đó chính là ý muốn của Chúa, và ý muốn của Chúa vẫn còn đó, và trách nhiệm của chúng ta thật đáng sợ! Chúa đã muốn cần đến con người. Ngài có thể không cần đến chúng ta, nhưng Ngài đã muốn cần đến chúng ta và nếu không có chúng ta, công việc của Ngài sẽ không thành tựu. Ngài chỉ kiện toàn công việc của Ngài khi chúng ta dấn thân một cách thành thật , mặc dù chúng ta thấy rằng công việc của chúng ta không mang lại kết quả nào. Công trình của Chúa Giêsu đã xem ra như thất bại, nhưng thật ra, sự thất bại bên ngoài ấy đã cứu vớt tất cả nhân loại.
Chúng ta không biết sứ mệnh của chúng ta sẽ đi đến đâu và sẽ thành tựu cách nào, nhưng phần rỗi của nhân loại tuỳ thuộc vào chúng ta. Sự tuyển trạch của Chúa, sứ mệnh mà Chúa đã giao phó cho Giáo Hội và cho chúng ta nhờ Giáo Hội, không phải là một trò đùa. Con người chỉ được cứu rỗi trong Giáo Hội mà thôi. Chân lý không bao giờ biến dịch. Làm sao người ta có thể thuộc về Giáo Hội? Đó là huyền nhiệm của Chúa. Nhưng họ phải là thành phần của Giáo Hội, đó là một khẩn thiết dụng cụ cho mọi người. Mọi người phải là thành phần của Nhiệm Thể Chúa Kytô vì chỉ có Ngài mới vào sâu trong cung lòng của Chúa Cha. Sự cứu rỗi chính là sự sống thần linh. Nhân loại đi vào trong Thiên Chúa vì Con Chúa đã đảm nhận tất cả mọi người trong Nhiệm Thể của Ngài.
Huyền nhiệm của sự cứu rỗi con người chính là huyền nhiệm của việc Chúa Giêsu lên trời, huyền nhiệm nhờ đó mà bản tính nhân loại thánh thiện của Ngôi Lời đi vào cung lòng Chúa Cha và ngự bên hữu Ngài. Các giáo phụ dạy: việc thăng thiên là huyền nhiệm nhờ đó, Chúa Giêsu thành Nadaret, với tất cả nhân loại Ngài kéo theo Ngài, lên trên các thiên thần, đến ngai toà Chúa Cha. Sự cứu rỗi con người không là gì khác.
Chúng ta có ý thức tầm quan trọng của điều ấy không? Chúng ta có ý thức tầm quan trọng của sứ mệnh chúng ta không? Tôi xin mạn phép khơi lại một kỷ niệm riêng. Khi tôi mới lên tám, tôi bị rung động cả tâm hồn vì biến cố này: Đức Giáo Hoàng Piô XI, mới được tấn phong độ vài tháng, đã giảng trong lễ Hiện Xuống năm 1922 những lời này của tiên tri Isaia: “Hãy la to lên không ngừng!” (Is 58,1). Tất cả nhân loại đã được trao phó cho Ngài, Ngài phải mang ơn cứu rỗi cho tất cả mọi người. Câu nói ấy đã in sâu vào đời tôi và có lẽ nó đã là yếu tố làm chín muồi ơn gọi của tôi.
Còn chúng ta, làm sao chúng ta có thể ngủ yên được? Chúng ta có thực sự là kitô-hữu không? Chúng ta có thực sự là linh mục không? Đứng trước sự hư mất của bao tâm hồn, làm sao chúng ta ngủ ngon, ăn uống? Hãy nhớ đến Cha thánh Vianney. Tôi tin có hoả ngục, và tôi tin như thế cho tôi trước hết vì Chúa đã giao cho tôi một trách nhiệm làm tôi kinh hãi. Những người không biết gì về Chúa thì quá nhiều và tôi không biết làm sao cho họ nghe được lời Chúa. Chỉ nhờ vào lòng tin cậy Chúa mà tôi dám đảm nhận sứ mệnh này và tiếp tục bước tới. Tôi phó thác cho Chúa, Ngài biết rõ sự nghèo hèn của tôi và có lẽ Ngài chỉ đòi hỏi nơi tôi sự đau khổ vì thấy mình bất lực mà thôi. Tôi tin có hoả ngục. Hơn nữa, tôi không thể tin có thiên đàng nếu không có hoả ngục. Thực vậy, tất cả đều là ân huệ. Tất cả đều là yêu thương, tình thương của Chúa vô thường và vô biên. Nhưng vì chính thế, tình yêu ban cho người yêu một giá trị vô cùng, giá trị của chính tình yêu. Con người là “tất cả” đối với Chúa. Nếu hành động của tôi không có giá trị gì đối với Ngài, nếu Ngài hoàn toàn dửng dưng đối với những gì tôi làm, thì tôi không thể tin vào tình yêu của Ngài. Chính tình yêu của Chúa đã ban cho đời sống con một tầm mức nghiêm trọng khôn sánh, một sự cao cả đến độ bi thương. Con người có giá trị đối với Chúa. Những hành động của con người cũng có giá trị, đời sống tôi, đối với Ngài, là một giá trị bao la. Và riêng tôi, tôi có thể chẳng những cứu lấy tôi mà còn có thể cứu lấy kẻ khác nếu tôi sống chức vụ linh mục của tôi.
Thiên Chúa tin cậy chúng ta biết chừng nào! Linh hồn người ta đã là giá máu của Ngài, và Ngài đã trao phó họ trong tay ta. Làm sao chúng ta quên được lời Chúa nói qua miệng tiên tri Êdêkiên: “Hỡi con người, Ta đã đặt ngươi làm tuần canh trên nhà Itraen. […] Nếu Ta phán với kẻ vô đạo: “Đã hẳn ngươi phải chết!”mà ngươi lại không cảnh giác, không nói lên để cảnh giác kẻ vô đạo bỏ đàng dữ để cứu sống nó, nó sẽ phải chết vì tội của nó, nhưng Ta sẽ đòi máu nó nơi tay ngươi”.(Ed 3,17-18) Có lẽ người vô đạo không chết mà chính chúng ta sẽ hư mất. Chúng ta không chỉ cứu vớt mình được khi chúng ta đã thi hành sứ mệnh của chúng ta cũng là sứ mệnh của Chúa Kytô và chúng ta phải trả một giá như Chúa Kytô. Một sự rao giảng ràng buộc chúng ta đến chết, vì con người chỉ được cứu rỗi nếu họ tin “nhưng làm sao họ có thể tin được Đấng mà không bao giờ nghe nói tới?” (Rm10,14). Không phải là yêu thương họ một cách nào đó, nhưng là mang đến cho họ sứ điệp cứu rỗi. Một cách nào đó con người nhận lấy Chúa từ nơi chúng ta.
Làm sao tiếng nói của chúng ta đạt tới mọi người được? Chúng ta mắc nợ mọi người. Và nếu chúng ta bất lực, Lời Chúa không bất lực đâu! Khi chúng ta nói rằng, chúng ta đã làm hết khả năng của mình rồi lúc ấy chúng ta có thể chắc chắn rằng Chúa cũng làm hết khả năng của Ngài: lời nói nghèo nàn của chúng ta đã mở cửa cho quyền năng vô biên của Chúa. Vì thế mà tôi tự nói và nói với anh em: chớ gì sự ý thức về sự yếu hèn của mình không làm hại cho ý nghĩa của trách nhiệm chúng ta. Lắm khi vì nản chí trước sự bất lực không làm tất cả được, chúng ta đã cuốn buồm. Chúng ta chỉ làm đủ những gì có thể làm yên lòng chúng ta thôi, và chúng ta đã bằng lòng cam chịu thất bại. Sự nản chí ấy là một sự thiếu tin tưởng vào sứ mệnh của chúng ta, và là một sự thiếu thốn tình yêu.
Chúng ta đừng mong thành công. Hiệu năng trong lịch sử Giáo Hội không là dấu chứng của hiệu năng của Lời Chúa, vì Lời Chúa chỉ hoạt đông trong tâm hồn con người. Dù kết quả của việc chúng ta làm, của bao nhiêu đau khổ của chúng ta có chán nản mấy đi nữa, chúng ta phải tin rằng, ngay cả hôm nay, thế giới vẫn được trao phó cho thừa tác vụ của chúng ta và chính nhờ chúng ta mà thế giới lãnh nhận được ơn cứu rỗi của Chúa Kytô. Chúng ta phải tin như thế và chúng ta phải làm việc luôn, đến cùng, tin vững vào Lời Chúa. Sự xác tín của chúng ta không lệ thuộc vào sự thành công trần thế mà lệ thuộc vào Lời Chúa, vì Chúa luôn trung thành. Không bao giờ nản chí, đó là điều chúng ta phải nhất quyết.
Sự nản lòng là cám dỗ ghê gớm nhất, mạnh mẽ nhất và cũng là nghiêm trọng nhất của linh mục, vì khi chúng ta nản chí, chúng ta tự rứt ra khỏi quyền năng vô biên của Chúa là Đấng đã tuyển chọn chúng ta. Lúc ấy, chúng ta chỉ còn là những con người đáng thương hại mà thôi, và như thế, chúng ta hoàn toàn bất lực. Chúng ta phản bội sứ mệnh của chúng ta, chúng ta chỉ làm thế giới tuyệt vọng mà thôi. Chúng ta phải tin tưởng. Tin vào Chúa, đó là điều Ngài đòi hỏi nơi chúng ta. Chỉ có lòng tin cậy có thể giúp chúng ta thanh thản vui tiến mà thôi.
Phải có một niềm tin anh hùng mới có thể làm linh mục hôm nay, nhưng Thiên Chúa, Đấng đã kêu gọi chúng ta, sẽ ban cho chúng ta niềm tin ấy nếu chúng ta khiêm tốn nài xin. Đó là điều giáo huấn của Công Đồng về thừa tác vụ rao giảng đã được trao phó cho chúng ta: chúng ta phải mang đến cho toàn thể nhân loại sứ điệp cứu rỗi, vì nhân loại hôm nay không biết mình đang đi về đâu. Chúng ta phải mang lại sứ điệp ấy với niềm xác tín rằng, nếu chúng ta không cảm thấy mình bị ràng buộc với mọi người, không phải những người khác sẽ bị hư mất mà chính chúng ta sẽ bị trầm luân. Đó chính là ân huệ Chúa ban cho chúng ta, và chúng ta phải luôn luôn nhớ rằng, nếu hoả ngục có thật, nó có thể dành để cho chúng ta nữa.
Dù vậy, chúng ta hãy tin cậy. Nếu chúng ta tin có hoả ngục, nếu chúng ta tin rằng chúng ta cũng có thể bị luận phạt trong đó, chúng ta cũng có tin vững hơn vào tình yêu, vì tình yêu vẫn lớn lao và mãnh liệt hơn mọi sự, muốn cứu vớt chúng ta. Thiên Chúa đã tuyển chọn chúng ta làm linh mục của Ngài, và việc loan báo mà chúng ta phải làm vẫn là loan báo ơn cứu rỗi. Sự nghiêm trọng của sự dữ không thể thắng vượt mãnh lực của một tình yêu vô biên. Nhưng hy vọng vào ơn cứu rỗi là một sự tự mãn nếu nó không gồm một điều kiện tiên quyết là chúng ta phải hoàn toàn tự hiến cho thừa tác vụ đã được trao phó cho chúng ta.
Lm. Trầm Phúc chuyển ngữ