LINH MỤC CỦA CHÚA KITÔ
Divo Barsotti
Bài 10: Lắng nghe Lời Chúa
Chúng ta chỉ có thể nói với Chúa được gì khác ngoài những gì chúng ta đã nghe được? Trước khi “trở nên Lời”, chúng ta phải tiếp nhận Lời ấy trong ta. Đời sống kitô-hữu trên trần gian này có thể được xem như đời sống của một đệ tử. Tin Mừng là thầy. Và các Tông đồ đã là môn đệ.
“Môn đệ không hơn thầy. Môn đệ hoàn hảo như thầy” (Lc 6,40). Môn đệ sẽ không bao giờ hơn thầy, vì thế phải luôn luôn sống trong một sự lệ thuộc khiêm nhường và đầy đặn đối với Thầy. Thánh Gioan, trong Tin Mừng, đã cho đó là tính cách đặc thù của đời sống kitô-hữu. Những sấm ngôn loan báo thời đại thiên sai được thực hiện chính khi con người nhận Chúa làm thầy mình. Sống trong một vâng phục khiêm nhường đối với Thầy Chí Thánh, đó là tất cả cuộc sống kitô-hữu. Điều ấy xác thực đến mức độ thánh Irênê (thế kỷ II) đã công nhận rằng cuộc sống trên trời vẫn là một trường học. Chúng ta vẫn là học trò và Chúa vẫn là Thầy ta.
Chúng ta có thể chấp nhận ý kiến của thánh Irênê không? Tôi nghĩ rằng đúng. Nhiều nhà thần học hôm nay cũng theo chiều hướng đó, nhưng riêng tôi, tôi chưa dám theo họ. Nhưng ý kiến của thánh Irênê rất đúng. Con Thiên Chúa vẫn được Chúa Cha sinh ra và lãnh nhận mãi luôn những gì làm cho Ngài thành Lời. Vậy con người, một khi ở thiên đàng, sống nếp sống của Chúa khi Chúa Cha đời đời vẫn sinh ra Chúa Con trong họ, và khi họ mãi mãi chấp nhận Lời Ngài. Không bao giờ con người có thể trở thành nguyên lý hay nguồn cội, và dù ở thiên đàng, họ vẫn sống bởi Chúa mà thôi.
Tất cả đời sống kitô-hữu chỉ có một việc là tiếp nhận Lời Chúa, cưu mang Lời ấy trong tâm hồn và sinh ra Lời ấy trong hành động của chúng ta. Đó chính là giáo thuyết của một thánh tiến sĩ hết sức rõ ràng và quân bình là thánh Tôma Aquinô.
Sống nếp sống kitô-hữu là tiếp nhận Lời Chúa và Lời ấy như một giống tốt, nẩy mầm trong tâm hồn con người, sống nhờ thịt máu con người đến nỗi mặc lấy và bao gồm tất cả con người. Chính Chúa Kytô trở nên sự sống của con người. Ngài được cưu mang trong thâm cung của đời sống thiêng liêng. Ngài được sinh ra trong việc làm và trong thừa tác vụ.
Và chính như thế, chúng ta phải sống đời sống của chúng ta bằng cách lắng nghe Chúa. Nhưng làm sao Chúa nói với chúng ta được?
Câu hỏi này cũng quan trọng lắm. Nếu mối liên hệ đầu tiên của chúng ta với Chúa giống như liên hệ của Đức Mẹ khi Ngài chấp nhận Lời Chúa, thì khuôn mẫu của đời sống thiêng liêng của chúng ta là Đức Maria. Chúa Kytô là nguyên nhân mô phạm của đời sống thiêng liêng, nhưng Ngài không là một thụ tạo. Đức Maria là thụ tạo duy nhất đã thực hiện một cách tuyệt hảo trong sự thánh thiện, ơn gọi của Kitô-hữu. Như Đức Mẹ, chúng ta hãy luôn luôn sẵn sàng đối với Lời Chúa.Tất cả đời sống kitô-hữu, đời sống linh mục, trước tiên, là tiếp nhận Lời Chúa.
Nhưng Chúa nói với chúng ta thế nào? Chúa Cha ban Chúa Con cho chúng ta. Ngài sinh ra Chúa Con trong lòng chúng ta trong một hành động trao ban liên lỉ và vĩnh cửu, như Chúa là vĩnh cửu, và không trừu lại. Như thế, mãi mãi Chúa vẫn liên hệ với chúng ta. Ngài và chúng ta không thể rời nhau được nữa. Silêsius, một nhà thần học người Đức vào thế kỷ XVII đã nói: “Không những con người không thể không có Chúa, mà Chúa cũng không thể không có con người”. Quả vậy, Chúa không thể rời xa nhân loại mà Ngài đã đảm nhận trong việc Nhập Thể rồi, vì huyền nhiệm ấy là vĩnh cửu. Nhưng còn hơn thế nữa, vì Ngôi Lời cũng không thể rứt rời ra khỏi nhân loại vì nhân loại đã trở thành Nhiệm Thể của Ngài rồi. Giáo Hội với Chúa Kytô là một. Chúa Kytô ngày nay đã được vinh quang rồi, Ngài đã tách rời khỏi Giáo Hội rồi chăng? Giáo Hội là một thân thể với Ngài. Khi chúng ta là một phần tử sống động của Giáo Hội, chúng ta đã được sống với Ngài trong vinh quang rồi, Chúa Cha nới rộng liên hệ của Ngài với chúng ta trong Chúa Con. Và Chúa Con sống với chúng ta, vì chúng ta là “một” với Ngài, mối liên hệ của Ngài với Chúa Cha. Chúng ta là một Chúa Kytô duy nhất trong Chúa Giêsu Kytô.
Chắc chắn, bản tính nhân loại vẫn phân biệt với bản tính Thiên Chúa, và những con người được tạo nên vẫn phân biệt đối với Con Người Bất Thụ Tạo của Ngôi Lời. Nhưng sự hiệp nhất của Chúa Kytô không vì thế mà bị tổn thương. Chân phước Ruysbroech đã nói: “Trong hành động mà Chúa Cha sinh ra Chúa Con là Ngôi Lời, Ngài cũng sinh ra linh hồn được hiệp nhất như thế”. Và như Chúa Cha thông ban mình hoàn toàn cho Chúa Con, cũng thế, Người sẽ ban mình Người cho chúng ta khi Ngôi Lời bao gồm chúng ta trong sự hiệp nhất của thân thể Ngài. Chúa Cha sinh ra Chúa Con trong ta và như thế, Con Thiên Chúa trở thành con người.
Khuyền nhiệm ấy cao cả thật và đề cập đến là một nguy hiểm. Thiên Chúa đã ban Con của Người cho chúng ta, và Người chỉ có thể thông ban chính mình cho chúng ta nhờ việc thông ban Ngôi Lời mà thôi: ân huệ Người ban cho chúng ta là chính Người và ân huệ ấy chỉ được thực hiện bằng những nhiệm xuất thần linh, được nối dài mà thôi. Chính thánh Tôma đã giải thích như thế. Vậy, nếu Chúa muốn thông ban mình cho chúng ta, hồng ân ấy trở nên thực tại trong việc nhập thể của Ngôi Lời: huyền nhiệm kitô giáo được thực hiện trong việc trao ban Người Con duy nhất. “Này đây một trẻ thơ đã sinh ra cho chúng ta. Này đây, một Người Con đã được ban cho chúng ta”. Thư gởi ông Diognèt, ở thế kỷ thứ II cũng nói ý như vậy; và thánh truyền kitô-giáo từ xưa cho đến don Marmion cũng vậy: đời sống kitô-hữu sinh Ngôi Lời trong tâm hồn. Chúng ta phải làm như Đức Mẹ để những gì đã được thực hiện nơi Ngài cũng được thực hiện nơi ta. Chắc chắn là với một phương cách khác, vì mầu nhiệm nhập thể không thể tái hiện lại trong ta nữa, dẫu vậy mầu nhiệm ấy sẽ tái hiện một cách nào đó sự hiện diện của Ngài: sẽ không có sự tái hiện, nhưng mầu nhiệm ấy sẽ được nối tiếp và lan rộng ra.
Nhưng tất cả những việc ấy có ý nghĩa gì? Chúng ta phải luôn luôn rộng mở, sẵn sàng đón tiếp Lời Chúa, luôn luôn sẵn sàng lắng nghe: “Này là tôi tớ Chúa: chớ gì lời Chúa được thể hiện như ý Ngài”. (Lc 1, 38). Đời sống nội tâm là sẵn sàng, là đón nhận. Thực ra, chúng ta sống trong thời gian. Cường độ của mối liên hệ của ta với Chúa không thể giữ một mực nhất định được, và chúng ta không thể luôn luôn chú ý được. Nhưng Chúa là Đấng vĩnh cửu, Ngài có thể thông ban chính mình mãi cho chúng ta trong một hoạt động luôn luôn tồn tại qua thời gian. Chúng ta có thể đón nhận Ngài bất cứ lúc nào. Tham vọng cao cả nhất có lẽ là có thể chấp nhận Chúa là Đấng đang nói và thông ban chính mình mỗi lúc. Đối với linh hồn không có lúc nào là vô ích cả, chỉ trừ những lúc chúng ta không sống đức tin và không mở rộng cho tình yêu mà thôi.
Chúa gọi chúng ta vào một công việc quá lớn lao. Sống trong trạng thái luôn luôn chú ý đến Lời vĩnh cửu của Chúa. Lời ấy là chính Chúa, Đấng muốn thông ban mình cho chúng ta, muốn sống trong ta và nhờ xương tuỷ ta vì Lời ấy phải nhập thể một cách nào đó vào mỗi người chúng ta.
Chúa Kytô phải sống trong chúng ta. Chúng ta phải luôn luôn lắng nghe Lời Chúa. Đó là nhiệm vụ tiên quyết của chúng ta vì sứ mệnh tiên tri Chúa trao phó. Làm sao chúng ta có thể thông truyền cho người khác tiếng nói mà chúng ta không đón nhận? Chúng ta có cách nào chuyển đạt sứ điệp nếu tâm hồn chúng ta không đón nhận và biến hoá sứ điệp ấy trong con người chúng ta? Muốn sống luôn luôn chú ý đến Lời Chúa một cách khiêm tốn và liên lỉ, cần phải có đức tin mạnh mẽ biết bao! Càng lớn tuổi tôi càng thấy cuộc đời kitô-hữu rất giản dị. Chỉ cần đức tin thôi. Nhưng bao la biết bao! Càng lớn tuổi tôi càng thấy rằng đức tin không những là một huyền nhiệm mà còn là một phép lạ. Và là phép lạ quan trọng nhất. Tôi không thôi ngỡ ngàng khi nghĩ rằng tôi có thể tin Chúa, có thể tin rằng, một người đã đến trong trần gian và người ấy là Con Một Thiên Chúa, tin rằng Thiên Chúa yêu con người và muốn tự hiến cho con người. Và sự ngỡ ngàng của tôi càng tăng thêm khi tôi tin rằng chúng ta được Chúa Thánh Thần chiếm hữu, chúng ta là dụng cụ của Thiên Chúa Toàn Năng Sáng Tạo, dụng cụ của Tình Yêu bao la và cứu thoát.
Nếu có một tỷ lệ nào giữa con người và Thiên Chúa, thì chỉ có đức tin mới thiết lập nên được. Thực sự, tất cả những gì Thiên Chúa đòi hỏi nơi con người, thì không là gì cả sánh với đức tin. Nhiệm vụ bám sát vào những gì Thiên Chúa đã mạc khải, đó là nhiệm vụ quan yếu nhất của con người, vì Chúa đòi hỏi con người một dung tích có thể chứa đựng Ngài nguyên vẹn, một dung tích vô biên.
Ở đây không phải là chấp nhận một giáo thuyết về Chúa: khi tự mạc khải, Thiên Chúa tự ban mình và Ngài muốn được chấp nhận với chính bản tính của Ngài. Như thế, trong con người, đức tin là một cách hiểu biết vừa thiêng liêng vừa đồng hoá mọi sự.
Khi tự mạc khải, Thiên Chúa đã thông ban chính mình cho tôi. Và vì thế,việc chiêm ngưỡng Chúa trên thiên đàng là chiếm hữu Chúa mãi mãi. Dưới trần gian này, việc mạc khải chưa phải là thấy Chúa, cũng chưa là chiếm hữu Chúa trọn vẹn. Nhưng nhờ tiến trình của đức tin, con người đồng hoá với Chúa. Thiên Chúa chỉ tự mạc khải khi Ngài trở nên như một lề luật của sự sống. “Ngươi phải trở nên Đấng ấy”, vì đó chính là điều Ngài ban cho ta và buộc ta phải thực hiện: trở nên những gì Ngài mạc khải, đúng hơn: trở nên Đấng đang tự mạc khải.
Như thế, đức tin bao gồm một cái gì thật vĩ đại.
Chúng ta nghèo hèn quá! Nhưng chúng ta phải tin những điều lớn lao, chúng ta phải đón nhận Thiên Chúa. Chúa không tự mãn trong sự cao cả của Ngài đâu, làm như Ngài cần đến sự khen ngợi của chúng ta. Ngài tự mạc khải, chính là để thông ban mình cho chúng ta.
Lắng nghe Lời Chúa là nghĩa vụ đầu tiên của chúng ta và điều đó đòi buộc chúng ta đón nhận Ngài trong tâm hồn chúng ta. Khi chúng ta lắng nghe tiếng Ngài, Ngài ban cho chúng ta khả năng đón nhận Ngài. Lời Chúa tức là chính Chúa ban mình cho chúng ta; nếu tôi lắng nghe Ngài, Ngài trở nên sự giàu có phong phú của chúng ta. Nếu Lời Chúa phải nhập thể trong tôi, thì chính tôi phải trở nên Chúa một cách nào đó, trở nên Chúa nhờ sự tham gia bằng tình yêu, như thánh Gioan Thánh Giá nói, hay bằng ân sủng như thánh Maxime le Confesseur dạy. Đúng thế, ơn gọi của kitô-hữu là trở nên Chúa. Chúng ta không phải là Chúa, chúng ta phải trở nên Chúa. Thiên Chúa tự mạc khải là để thông ban chính mình khi chúng ta chiếm hữu Ngài. Nhưng làm sao chiếm hữu Chúa? bằng cách thu gọn Ngài theo kích thước nhân loại hay sao? Chúng ta chỉ có thể chiếm hữu Ngài khi chúng ta đồng hoá với Ngài. Tin tưởng rằng mình có thể chiếm hữu Chúa mà không “trở nên” Chúa là ấu trỉ.
Lắng nghe Lời Chúa, chúng tôi đã nói là phải luôn luôn lắng nghe. Vậy phải luôn luôn tĩnh tâm. Tôi tưởng rằng chúng ta không thể sống đời sống kitô-hữu mà không trầm tĩnh. Các đấng bậc thầy trong đời sống đạo đức vẫn dạy: “ Cuộc sống kitô-hữu không thể có được nếu không có sự thinh lặng”. Không có sự thinh lặng trong tâm hồn, không thể lắng nghe Lời Chúa được. Đây là một hiện diện của Tình Yêu muốn thông ban chính mình, đang chờ đợi nơi con người một sự sẵn sàng luôn luôn mới, một đức tin sống động. Tôi không ở trước một số thính giả ở đây, tôi đang ở trước mặt Chúa. Đối với loài người, tỏ ra bất kính còn có thể tha thứ, đối với Thiên Chúa, chúng ta sẽ lãnh lấy án phạt, nếu chúng ta thiếu cởi mở, thiếu sự sẵn sàng và khiêm tốn.
Đó là nhiệm vụ của mỗi người chúng ta, vì chúng ta không thể luôn luôn có một đức tin sống động để rộng mở đón nhận Thiên Chúa là Đấng vô biên đang thông ban mình cho chúng ta, ít ra, chúng ta phải thỉnh thoảng dùng những phương tiện có thể giúp chúng ta hồi tâm và lắng nghe Chúa, và những phương tiện ấy giúp chúng ta đối chiếu những tiếng nói âm thầm trong tâm hồn với Lời Chúa do Giáo Hội lặp đi lặp lại cho con cái mình.
Phải hiểu thế nào? “Con người không chỉ sống bằng cơm bánh, nhưng sống bằng tất cả những lời do miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4,4). Lời Chúa là lương thực của tâm hồn, là của ăn của đời sống kitô-hữu mà chúng ta nhận lãnh nơi Giáo Hội. Ai không luôn luôn tiếp xúc với Lời Chúa, có thể bị chết đói. Cựu Ước và Tân Ước chính là Lời Chúa mà Giáo Hội luôn luôn ban bố trong Phụng Vụ. Đời sống nội tâm của kitô-hữu, nếu không được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa, dần dà sẽ kiệt sức. Đừng nói rằng chúng ta không cảm thấy cần thiết. Khi chúng ta không còn lương thực nữa, là lúc chúng ta sắp chết. Đời sống thiêng liêng cũng vậy. Nếu chúng ta không cảm thấy cần suy nguyện, nếu chúng ta không cảm thấy cần nuôi mình bằng Lời Chúa nữa, đó là dấu hiệu chúng ta đang đau và sắp chết rồi. Lòng yêu thích suy ngắm đã biến dần trong Giáo hội Công giáo rồi, và thật là một điều đáng buồn. Đó là một triệu chứng nguy hại trong hoàn cảnh hiện tại của chúng ta. Không những lời cầu nguyện cá nhân mà cả đến việc tiếp xúc thân mật với Lời Chúa cũng bị bỏ quên. Cuộc sống của chúng ta không thể không cần đến việc suy gẫm Lời Chúa, lectio divina. Công Đồng đã có nhiều từ ngữ rất xác đáng về vấn đề này.
Nếu chúng ta không đọc Kinh Thánh “trong chính Thánh Thần” đã linh ứng thì Thánh Kinh trở thành một tài liệu khảo cổ, một tài liệu tôn giáo, một chứng từ quí báu của lịch sử, một bản văn hay, có lẽ là hay nhất từ thời thượng cổ để lại cho chúng ta, nhưng không phải là Lời Chúa. Đọc như thế, Kinh Thánh có thể hướng dẫn chúng ta, nuôi dưỡng tinh thần chúng ta hơn bất cứ sách nào, có thể là nguồn vui cho chúng ta nữa, nhưng nó vẫn chưa phải là Lời Chúa. Kinh Thánh chỉ trở nên Lời Chúa cho chúng ta, khi Lời ấy được Giáo Hội ban bố vì Chúa sống động trong Giáo Hội. Chúa Thánh Thần đã muốn nói với chúng ta nhờ Lời ấy, dù Lời ấy là lời của một con người và của một nền văn hoá nào đó, nhưng cần thiết là Thánh Thần sẽ giải thích cho chúng ta hôm nay. Lúc ấy, việc giải thích Kinh Thánh không thể là tiếng nói của loài người thay thế cho tiếng nói của Chúa.
Việc giải thích Lời Chúa là công việc của Chúa Thánh Thần. Theo các giáo phụ, việc giải thích Cựu Ước là chính Chúa Kytô, Ngôi Lời nhập thể. Những gì Lời Chúa đã loan báo, chính Lời Chúa đã thực hiện. Lề Luật của Cựu Ước không phải Cựu Ước đã kiện toàn mà chính Chúa Kytô, vì chỉ có Ngài mới kiện toàn luật yêu thương tuyệt hảo. Và chính trong Chúa Kytô mà những lời hứa và những sấm ngôn của Cựu Ước được kiện toàn. Chính việc nhập thể là cách giải thích đích thực của Lời Chúa.
Điều đó cũng có giá trị đối với việc suy gẫm của chúng ta. Chúng ta chỉ hiểu được Kinh Thánh là khi chúng ta sống lời Kinh Thánh, khi Kinh Thánh trở nên nguồn sống cho chúng ta, kích thích tố làm cho chúng ta kết hiệp với Chúa sâu xa hơn, món ăn của đời sống nội tâm. Nếu Kinh Thánh chỉ là một dụng cụ về văn hoá, thì Kinh Thánh không thể là lời Chúa phán với chúng ta, nếu nó là món ăn cho sự kiêu căng của chúng ta, nó sẽ là phiến đá vấp phạm. Nếu chúng ta nghe Lời Chúa một cách đơn thành, làm sao chúng ta không trở nên những người tội lỗi đang van nài lòng tha thứ của Chúa, đang nhìn nhận sự nghèo hèn cùng cực của mình và đang cởi mở cho tình yêu? Làm sao chúng ta vẫn đứng trong nhãn quan của một giáo sư được? Ai lại cả dám dạy Chúa điều gì? Hãy khiêm nhượng lắng nghe và Lời Chúa sẽ thiết lập một mối liên hệ sống động giữa Chúa với chúng ta. Lời Chúa sẽ cứu vớt chúng ta, sẽ ban cho chúng ta sự sống. Đây sẽ không là “một” lời nói mà là “Lời nói”, là hạt giống của Chúa gieo vào tâm hồn chúng ta. Nó sẽ nẩy mầm và bén rễ sâu vào thâm tâm chúng ta và lớn lên thành một cây Sự Sống đích thực.
Lời Chúa phải nhập thể cách nào đó trong chúng ta, và việc đó là việc của Chúa Thánh Thần, như những gì đã xảy ra nơi Đức Mẹ. Chắc chắn là không giống ý như thế, nhưng cũng có một sự tương ứng nào đó giữa những gì đã được thực hiện nơi Mẹ Maria và những gì phải được kiện toàn nơi ta. Việc đọc Lời Chúa phải kèm theo việc cầu khẩn và sự hiện xuống của Thánh Thần, Đấng ban mình cho linh hồn, rồi đến việc lắng nghe Chúa nói. Khi tâm hồn lắng nghe và tiếp nhận Lời Chúa, thì Lời Chúa sẽ không lên án chúng ta như những kẻ xa lạ với sự sống của Chúa và không đoán phạt chúng ta nữa, trái lại, sẽ thực hiện sự kết hiệp mật thiết giữa linh hồn với Chúa.
Là kitô-hữu nghĩa là môn đệ của Chúa Kytô, nhưng cũng là liên kết với Ngài. Nhưng vì Chúa đã nói qua Giáo Hội, chúng ta không thể nghe tiếng Ngài nếu chúng ta không là môn đệ của các giáo phụ và các thánh, nếu chúng ta không liên kết mật thiết và sống động với Thánh Truyền. Giáo Hội cũng là sự hiệp nhất trong thời gian. Khốn cho chúng ta, nếu chúng ta bẻ gãy mối dây liên lạc nối liền chúng ta với Giáo Hội ngàn đời. Tôi không thể nhìn nhận Giáo Hội hôm nay, nếu Giáo Hội đó không là Giáo Hội của Công Đồng Triđentinô, nếu không là Giáo Hội của Phanxicô và của Tôma, của Bênađô và của Augutinô. Tôi không thể làm gì với Giáo Hội mới được đầu thai ngày hôm nay. Nếu sự duy nhất bị phá đổ, thì Giáo Hội không thể còn sống. Giáo Hội sẽ không thể sống nếu không có một giải pháp để tiếp tục và trong Giáo Hội, tôi là một với các vị Tông Đồ để nên một với Chúa Kytô. Chúng ta phải sống nhờ Thánh Truyền, phải cảm thấy mình là anh em và là môn đệ không chỉ của Chúa, mà của một Thiên Chúa đã thông ban mình cho chúng ta qua các giáo phụ. Các giáo phụ ấy là những người đã nối quyền các Tông Đồ một cách liên tục, thánh Basiliô và Gioan, thánh Augutinô và Grêgôriô, thánh Bênađô và Tôma và cho đến thánh An phong, đến Newman, Rosmini, Piô XII và Đức đương kim Giáo Hoàng. Nhưng đó cũng là các thánh của thời đại và của mọi quốc gia. Đối với các Đấng ấy, tôi chỉ như một đứa trẻ tiếp nhận sự sống mà thôi. Chúng ta không thể sống yêu thương trong Giáo Hội nếu chúng ta loại trừ mối liên hệ không những huynh đệ mà còn là tử hệ nữa. Mối liên hệ ấy được sống trong sự tuỳ thuộc vào huấn quyền của Giáo Hội. Đó là giáo thuyết của thánh Clément thành Alexandria và cũng là giáo thuyết của thánh Bênađô nữa. “Hỡi con, hãy nghe những giáo thuyết của thầy con”. Chính vị tôn sư thông truyền sự sống. Chính lúc chúng ta lắng nghe tiếng nói của tôn sư mà chúng ta trở nên con cái và tiếp nhận sự sống. Tôi biết rằng Chúa Giêsu đã nói: chỉ có một Cha và một Thầy mà thôi, và chúng ta hết thảy đều là anh em. Nhưng quyền giáo huấn của Giáo Hội không thêm vào giáo huấn của Chúa Kytô, vì Ngài là một với Giáo Hội, cũng thế, tình phụ tử của Giáo Hội không thêm vào tình phụ tử của Chúa Cha, vì nó chỉ nối tiếp và thay mặt mà thôi. Mối liên hệ huynh đệ - chúng ta tất cả đều là con Chúa – không loại trừ chức vụ tư tế thừa tác, nhưng nó làm cho chức tư tế của Chúa Kytô thủ lãnh, được hiện diện và sinh động trong Giáo Hội hôm nay mà thôi.
Từ đó nảy sinh ân huệ kỳ diệu mà chúng ta có được trong Giáo Hội, là nên một với nhau, theo mẫu gương của Chúa, nhận lãnh sự sống từ người này qua người kia, nhưng hơn hết, nhận lãnh sự sống ấy từ nơi Đấng là Cha tuyệt hảo trong Giáo Hội và là Thầy với tư cách là “đại diện của Chúa Kytô”. Như thế, tất cả chúng ta là một khối duy nhất, không chỉ với Chúa mà thôi, mà với nhau, trong một liên hệ nhờ đó người này sống trong người kia, tất cả sống trong một người và mỗi người trong tất cả mọi người. Thật là một thực thể kỳ diệu! Bây giờ tôi hiểu tình yêu là gì: tôi không thể kiện toàn chức vụ linh mục của tôi, nếu tôi không cảm thấy mắc nợ mọi người: tôi chỉ có thể là kitô-hữu và là con Thiên Chúa khi tôi là con của mọi người vì chính tôi phải nhận lãnh sự sống từ nơi mọi người.
Lm. Trầm Phúc chuyển ngữ