13/01/2016
1667
Lênh đênh một kiếp con người_Lm FX. Thượng

 

Tình cờ đọc lại gia thế và tác phẩm của cụ Nguyễn Công Trứ, một nhân sĩ tài đức xưa. Là một người của hành động, trải qua nhiều thăng trầm, Cụ hiểu sâu sắc nhân tình thế thái đương thời. Cụ khinh bỉ và ngán ngẩm nó. Chán chường với chốn quan trường nhưng cụ không chán đời. Cụ vốn yêu đời, là người chịu chơi, với cụ cái gì cũng có thể đem chơi kể cả tài kinh bang tế thế. Cụ vì không được triều đình nhà Nguyễn trọng dụng cái tài trí của mình đặc biệt là ở thời vua Tự Đức nên cụ chán chường mới than thở trời sinh cho nhưng không được dùng. Ngay lúc chua chát nhìn lại đời mình, cụ vẫn là người đầy khí phách:

“Ngồi buồn mà trách ông xanh 
Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười 
Kiếp sau xin chớ làm người 
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo 
Giữa trời vách đá cheo leo 
Ai mà chịu rét thời trèo với thông.”
(Nguyễn Công Trứ - Vịnh Cây Thông)

Đây là một tiếng thở than cho thân phận, cho thế thái nhân tình nhưng không hoàn toàn thất vọng trước cuộc đời. Ngược lại, người khí phách biết chọn cho mình một “thế đứng” giữa cuộc trần dâu biển, đổi thay vô thường. Cây thông trong văn chương ước lệ cổ điển là hình ảnh chỉ người quân tử. Đó là lý do tác giả “chọn” làm cây đó chứ không phải cây khác. “Giữa trời vách đá cheo leo” là một hình ảnh nghệ thuật chứ không phải từ ngữ xác định vị trí. Chịu rét chính xác là sở trường của cây thông vì nó là loài cây lá kim, thích hợp khí hậu hàn đới, bằng chứng là nó có nhiều ở Châu Âu, vùng băng tuyết, ở Đà Lạt. Ai bảo làm cây thông giữa trời là reo tiếng reo kẻ trốn lánh? Đứng giữa trời nắng mưa bão tố mà "reo" là tiếng của kẻ anh hùng, là lời bậc trượng phu. Nguyễn Công Trứ mượn hình ảnh cây thông - tượng trưng cho người quân tử, chịu được giá rét, phong ba bão táp, dám đương đầu với khó khăn để kiếp sau hướng đến là ý ông muốn hướng đến những gì tốt đẹp, vì “kiếp người” đôi khi không đạt được những phẩm chất của “cây thông”. Câu cuối gửi gắm tâm sự khát khao muốn có người cùng chí hướng.

Ai có thể cho biết vì sao một người lại được làm người? Càng khó hơn khi hỏi thử: sống làm sao cho đáng một kiếp người? Khỏi uổng công tạo hóa sinh thành nên ngươi. Ngày xưa, nhà hiền triết Trung Hoa cổ đại – Khổng Tử đã nói một câu chí lý: “Vị nhân nan”, làm người thì khó. Lời nói này ngàn xưa cho đến bây giờ luôn luôn được coi như là một khuôn vàng thước ngọc, một định luật bất dịch trong kiếp sống con người. Hành xử quyền làm người đã gắn chặt vào vận mệnh từ khi là trẻ sơ sinh. Biết bao nhiêu ngày tháng kiếp người tiếp theo, mệnh lệnh của đạo đức làm người đã là quy luật đời sống. Con người tự dính liền vào bản ngã thiên nhiên, tất định, bất di bất dịch. Vấn đề đạo đức làm người trở thành một vấn đề quan yếu cho riêng mỗi con người. Không thể vì một lý do này hay một lý do khác con người có thể đặt cho mình một giới hạn của đạo đức, cuộc sống con người cũng không thể tách rời ra khỏi hai tiếng “đạo đức” đơn sơ ấy.

“Nhân Đạo” - đạo làm người từ ngày ấy đã làm thành một cột trụ để kiến tạo cuộc đời. Chúng ta không có quyền từ chối hay là không chấp nhận đạo đức nữa, nó đã trở thành một khuôn thước tinh thần. Nếu chúng ta ngày nào còn đón nhận cuộc sống là ngày ấy còn phải chấp nhận giá trị của luân lý cổ nhân. Giá trị của đạo đức là như thế. Nói cách dứt khoát, chúng ta có thể tự tìm lấy cho mình một hy vọng trong tương lai cũng như chính mình sẽ có thể tự đào sẵn một ngôi huyệt để hủy diệt cuộc đời nếu có hoặc không đạo đức. Làm người tức “hành đạo” tự nhiên của mình, đạo nguyên thủy và thuần khiết – “Đạo làm người”.

Vô số triết gia đã đặt câu hỏi: con người là gì? Từ đâu tới đây? Đến cõi trần ai này để làm gì? Sống chi để phải chịu muôn ngàn khổ đau? Sống để làm gì? Chết rồi còn sống hay tiêu tan theo gió bụi? Hoặc đi về đâu? Có còn tái sinh lại cõi trần này nữa hay không? Biết bao nhiêu thắc mắc giày vò trí não con người biết suy nghĩ. Khoa học có tiến bộ tinh vi, tuyệt kỹ, phóng tầm hiểu biết đến các thiên hà xa xôi, dò thấu lòng biển, khai thác tiềm lực vô tận của năng lượng nguyên tử, nối vòng thế giới bằng vô tuyến điện, khai thông thị trường chung cho hoàn cầu trở thành như “ngôi làng nhỏ”, thế mà chưa giải đáp thỏa mãn cho chúng ta những thắc mắc vừa kể trên.

Kitô giáo tư duy con người với lăng kính khác. Con người được tạo thành do hình ảnh của Thiên Chúa (linh hồn, tinh thần hướng thiện, ý chí tự do, tình yêu, lòng quả cảm, đức nhẫn nhục, biết hy sinh…), nhưng con người đã xa ngã và rời xa Thiên Chúa, vì kiêu căng và vì đam mê, vì “tính bản năng” quá nặng nề nơi thân xác của mình. Nhờ Đức Kitô con Thiên Chúa làm người được vực dậy, được thông phần vào cuộc sống vĩnh hằng của Thần linh (được cứu rỗi, được mặc lấy sự tinh ròng của tâm hồn).

Nếu cuộc đời tôi là một quà tặng yêu thương đến từ Thiên Chúa, tôi giơ tay đón nhận với cả lòng biết ơn và sự quý mến. Nếu cuộc đời tôi là một mầu nhiệm do Thiên Chúa, tôi sẽ chiêm bái và cung kính đối cuộc đời mình. Nếu cuộc đời tôi là một ân sủng có giá trị linh thánh, hành trình sống của tôi từ lòng mẹ cho đến lòng đất sẽ phải được bảo vệ và trân trọng.

Cuộc đời có nghĩa hay vô nghĩa cũng là điều mà chúng ta phải sống. Xoay quanh thân phận con người và ý nghĩa cuộc đời luôn có những câu hỏi làm cho người ta trăn trở và day dứt khôn nguôi. Tất nhiên, khi nói đến thân phận con người và ý nghĩa cuộc đời là nói đến điều gì đó vừa cụ thể gần gũi nhưng lại vừa bao la vượt quá tầm hiểu biết của con người. Thân phận con người là điều mà chúng ta sống, chúng ta đảm nhận từng ngày. Một mệnh lệnh không đến từ chúng ta nhưng lại cho chúng ta tự do lựa chọn làm hoặc không làm. Ai cũng “là” người, nhưng “làm” người nghiêm túc thì “soi đuốc mà tìm”, con số không quá lớn.

Vậy thì “làm người phải thế nào?”. Đúng là “làm người” khổ thật vì ta chẳng bao giờ thấy bằng lòng với những gì mình “là” (sự thể) và với những gì mình “có” (sự hữu). “Làm người” đòi hỏi một điều gì đó xem ra “cao cả” và “trỗi vượt” hơn so với những gì thấp hèn hay bình thường mà chúng ta biết được. Thang bậc cao sang hay thấp hèn tuỳ thuộc rất nhiều vào khả năng đánh giá của từng cá nhân, trong từng hoàn cảnh. Tuy nhiên, từ trong thâm sâu chúng ta luôn biết giá trị của chính mình. Ta chẳng phải đơn giản là sỏi đá, cây cỏ hay loài giun dế, và thú vật, nên khi cảm thấy bị xem thường, hay bị chà đạp hay bị xúc phạm, liền sẵn sàng “vung nắm đấm” để đòi được tôn trọng, đòi quyền lợi, đòi hạnh phúc, đòi tự do và công bằng, hay nói tóm lại, đòi quyền sống và quyền làm người đó sao?

Tất cả những suy tưởng về thân phận con người chỉ được coi là nghiêm túc và sâu lắng khi đằng sau nó có lấp lánh chút tia sáng của niềm tin, của hy vọng. Sống là một cuộc hành trình. Nhìn cuộc sống theo hướng nào, người ta sẽ đẩy hành trình đời mình theo hướng ấy. Nếu cuộc đời chỉ là kết quả của một ngẫu nhiên vô tình nào đó, cùng lắm chỉ có thể sống giữa đời ở mức ngẫu nhiên và vô tình. Nếu cuộc đời là bể khổ mênh mông và con người chỉ là một cánh bèo trôi bập bềnh trong bể khổ ấy, chẳng cần ham sống để xây dựng cuộc đời, nhưng chỉ lo tìm cho mình một lối ngõ nào đó để vượt thoát mà thôi. Nếu cuộc đời là hư vô, chỉ có thể giam mình trong nỗi day dứt của một thân phận bi đát bị tất định theo một cái định luật nghiệt ngã nào đó. Nếu cuộc đời là một sự kết án và đày ải, không sớm thì muộn bị phá đổ và tự hủy hoại.

Có lẽ con người như một loài thọ tạo, tự thân con người không thể vươn tới “Trời cao” nếu Thiên Chúa không đưa tay kéo họ, và con người cần đến một trung gian, vì giữa Thiên Chúa và con người, xét về mặt hữu thể học, có một sự khác biệt khá lớn. Ngoài ra, nhờ được thông phần vào bản tính Thần linh, mà con người trở nên tạo vật sáng giá và là người cộng tác vào chương trình Cứu Độ của Thiên Chúa. Giá trị của cuộc sống con người: “Vinh quang của Thiên Chúa là con người hiện sinh” (khẳng định của Thánh Giáo Phụ I-rê-nê). Niềm hy vọng cho một kiếp người rực rỡ là cánh cửa mở ra một chân trời mới, sự sống mới trong cung lòng của Thiên Chúa.

Câu chuyện của ông Abraham cầu xin Thiên Chúa tha thứ tội lỗi cho dân thành Sôđôm và Gômôra và xin đừng đoán phạt. Sự đối thoại trả giá diễn tả tấm lòng nhân từ của Thiên Chúa. Ông Abraham lý luận theo cách suy tưởng của con người. Ông biết rằng trong đời sống con người, có kẻ tốt, người xấu và kẻ lành, người dữ. Thiên Chúa yêu thương mọi người. Chẳng lẽ Chúa phạt cả kẻ dữ lẫn người lành sao: Abraham lại gần và thưa: “Chẳng lẽ Ngài tiêu diệt người lành một trật với kẻ dữ sao?” (x. St 18,23). Ông Abraham ước muốn Thiên Chúa tha phạt cho cả thành, vì nghĩ rằng có một số người lành đang chung sống giữa họ. Ông thưa: “Giả như trong thành có năm mươi người lành, chẳng lẽ Ngài tiêu diệt họ thật sao?” (x. St 18,24). Thiên Chúa ban ơn mưa móc xuống cho cả kẻ lành, người dữ. Người lành thánh có thể giúp người tội lỗi hối cải và người tội lỗi cũng có thể giúp cho người lành phấn đấu sống thánh thiện hơn.

Ông Abraham đã trả giá với Thiên Chúa, từ 50 người lành xuống tới chỉ còn 10 người. Cả thành không kiếm được mười người lành, nên thành Sôđôm phải chịu hình phạt. Lịch sử nhân loại là một cuộc phấn đấu không ngừng để tinh luyện đạo đức làm người cho đến độ tinh ròng. Tiếc thay, con số đó cũng còn quá ít. Ông Abraham hết lời: “Xin Chúa đừng giận, cho con nói một lần này nữa thôi: Giả như tìm được mười người thì sao?” Chúa đáp: “Vì mười người đó, Ta sẽ không phá hủy Sôđôm.” (St 18,32). Nhưng sự thể đã không như Abraham muốn, mười người không có lấy một! Và, lửa diêm sinh đã thanh trừ sự ác của thành Sodoma khỏi thế gian.

Chính mình là người ban cho cuộc đời mình một ý nghĩa, để khoát cho mình ánh vinh quang. Ai người đi tìm kiếm tạo cuộc đời mình trong tiền tài, danh vọng, địa vị xã hội, bản năng tính dục rồi đến một lúc nào đó, ngỡ ngàng nhận ra rằng tất cả những điều ấy chỉ là những thứ bên ngoài mà mình đã cố công để tô điểm cho mình. Còn chính mình thì vẫn cứ là một vấn nạn càng lúc càng bí ẩn. Nếu con người chúng ta không thể tự ban cho mình một cuộc đời, làm sao chúng ta có thể ban cho cuộc đời ấy một ý nghĩa đích thực? Mọi lý thuyết, mọi quan niệm nhân tạo gắn vào cuộc đời của con người dường như đều gượng gạo và gò ép. Thân phận con người và ý nghĩa của cuộc đời là điều người ta phải sống, phải chiêm niệm và khám phá từng ngày, hơn là điều để người ta tranh luận bàn cãi hay chiến đấu để chiếm đoạt.

Trong đời sống hiện sinh, nếu đặt niềm tin tưởng vào Thiên Chúa là Đấng quyền năng vô cùng, Người có thể củng cố, tái cấu trúc cho mọi loài thụ tạo, ban phát sự sống mới, giữ gìn luân thường đạo lý, thì những từ ngữ như “cầu nguyện, cầu xin, nguyện xin, cầu bầu, xin ơn, ơn phù trợ và nâng đỡ chở che…” không còn quá xa xỉ và có chút nào đáng xấu hổ. Ta đoạn tuyệt với sự hoài nghi nơi chính bản thân mình khi hạt giống đức tin bắt đầu nảy mậm trong tâm hồn ta và có dưỡng chất là hy vọng để vươn xanh. Một điều quan trọng mà Chúa Giêsu dạy là anh em cứ xin, thì sẽ được: “Thế nên Thầy bảo anh em: Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho.” (x. Lc 11,9). Chúng ta xin Chúa điều gì bây giờ? Tuyệt vọng trong chính những suy nghĩ bi quan của mình là hướng đi tự nhiên thường thấy. Nhìn ra những giá trị tích cực, tìm ra sự tươi tắn ngay trong những đổ vỡ mất mát và yếu nhược, đó mới là cách sống của một người có niềm tin vào Thiên Chúa.

Tuy nhiên đây không phải là một xác tín dễ giải, không phải là một liều thuốc trấn an chúng ta, và càng không phải là một lối thoát để chúng ta được giải gỡ ra khỏi những trăn trở ưu tư về thân phận con người. Chúng ta được dạy để thành thật nhìn ra những yếu đuối và tạm bợ trong cuộc đời làm người: như một thoáng mây bay chợt đến rồi chợt đi giữa cuộc đời, như bông hoa sớm nở chiều tàn, như sương mai vừa hợp đã vội tan, như mong manh cát bụi sẽ trở về với cát bụi…

Người ta có thể bị ràng buộc mãi mãi về những lo toan đơn giản nhất, vì mọi bất trắc có thể xảy ra bất cứ lúc nào, ngay cả khi thế giới này bước vào giai đoạn phát triển tột bậc. Trong khi đó người ta không thể quên rằng giữa mọi lo toan phải tìm cách để luôn sống ‘cho ra con người’ ‘thành người’ hơn.

Nhân gian thường nói: “Ngày bạn sinh ra, mọi người quanh bạn cười, còn bạn thì khóc. Hãy sống làm sao để khi nhắm mắt xuôi tay, mọi người quanh bạn thương khóc, còn bạn thì có thể mỉm cười”. Hãy tin cuộc sống như một quà tặng duy nhất và quí giá cùng khả năng ‘trời cho’ không như bao người khác, nhưng chính mình mới có thể tạo nên giá trị cho chính cuộc sống của mình vậy.

Khi chiêm niệm về thân phận con người, chúng ta được dẫn đến với hình ảnh của một Thiên Chúa làm người. Trước những đớn đau dằn vặt của con người, Thiên Chúa cho chúng ta một câu trả lời. Câu trả lời ấy nằm chính nơi cuộc đời của con người Chúa Giêsu. Chúa Giêsu không đến để đưa ra một thiên khảo luận về con người, không giải đáp những thắc mắc về thân phận con người. Ngài đến để sống như một con người. Ba mươi năm ở làng Nagiareth, Chúa Giêsu lặng lẽ sống như một con người bình thường giữa bao nhiêu con người khác. Vì sao thế? Phải chăng vì cuộc sống con người với những cái bình lặng thường ngày của nó luôn có một giá trị nhất định. Chỉ cặp mắt biết chiêm niệm và con tim biết yêu thương mới có thể nhận ra cuộc đời này ý nghĩa dường bao.

“Tạng phủ con, chính Ngài đã cấu tạo, dệt tấm hình hài trong dạ mẫu thân con. Tạ ơn Chúa đã dựng nên con cách lạ lùng, công trình Ngài xiết bao kỳ diệu! Hồn con đây biết rõ mười mươi.” (TV 139: 13-14)

Lm FX. Nguyễn Văn Thượng

Gp. Mỹ Tho