07/05/2013
1310

Tỉnh tâm liên hạt tỉnh Đồng Tháp tại Giáo xứ Thiên Phước

Thứ hai, ngày 06 tháng 05 năm 2013

 

Bài Chia Sẻ:

ĐỨC TIN LÀ CÔNG TRÌNH CỦA CHÚA THÁNH THẦN

(Tài liệu Công đồng Vatican II: AG 15, DV 5, LG 12)

 

Nhập đề:

Tin vào Thiên Chúa và Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô, Đấng được sai đến trong Chúa Thánh Thần là điều cần thiết để đạt được ơn cứu độ: “Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị luận phạt” (Mc 16,16). Không có đức tin thì không thể đẹp lòng Thiên Chúa (x. Dt 11,6) và cũng không được chia sẻ chức vị làm con Thiên Chúa với Chúa Kitô. Không ai được nên công chính mà không cần đến đức tin, và không ai đạt tới cuộc sống muôn đời nếu không trung thành trong đức tin (x. GLHTCG 161). Sự hiện diện và tác động ơn sủng của Chúa Thánh Thần trong các Bí tích và đời sống cầu nguyện giúp hình thành một niềm tin kiên vững bên trong tâm hồn, đồng thời trùng tu nơi ta hình ảnh của Đức Kitô. Dưới tác động ơn sủng vô hình, Chúa Thánh Thần kiện cường Hội thánh trong đức tin. Thánh Thần cũng duy trì chúng ta trong tình hợp nhất yêu thương; khi hòa giải, Thánh Thần biến đổi con tim chúng ta. Đặc biệt, đối với các thừa tác viên chức thánh, Thánh Thần biến thành những người thờ lạy Cha cách đích thực. Và nơi dây hôn phối, Thánh Thần thánh hóa Hội thánh hiền thê của Đức Kitô. Có thể nói, công trình đức tin nơi mỗi người Công giáo không thể thành toàn và viên mãn nếu không có Chúa Thánh Thần. Qua các tài liệu của Hội thánh, nhất là các văn kiện Công đồng Vatican II, có thể khẳng định Giáo hội là nhân loại mới khai sinh trong hơi thở thần linh của Đấng Phục Sinh là Chúa Thánh Thần. Chính Người tái tạo chúng ta trong đức tin và kiện toàn đức tin chúng ta.

Khai triển:

1. Chúa Thánh Thần Khai sinh và xây dựng cộng đoàn Đức Tin.

Thiên Chúa tạo dựng con người như một tác phẩm sau cùng và tuyệt vời. Ngài đã trang điểm cho con người bằng ân sủng và nhất là hồng ân sự sống bởi Thần Khí Chúa. Nhưng con người lại trở nên thù địch của Thiên Chúa (Rm 1,30; 3,9-18; 8,7). Tổ tông loài người đã bất tuân lệnh Chúa, nghe theo sự xúi giục của ma quỷ (Ep 2,2; 5,6) để rồi cuối cùng phải chịu cơn thịnh nộ của Thiên Chúa (Ga 3,36). Trong thư Rôma, thánh Phaolô mô tả tình trạng hư mất của con người rõ ràng và sống động. Trạng thái ấy là một trạng thái vô vọng (Rm 1,23; 3,9,18). Bị tước mất khả năng thông phần vào sự sống của Thiên Chúa, con người đứng trước vực thẳm là sự hư mất đời đời cũng như những thụ tạo thấp kém khác trong công trình tạo dựng. Thiên Chúa, vì tình yêu vô điều kiện, đã không thể đành lòng nhìn con người chúng ta bị hủy hoại do tội lỗi. Ngài đã can thiệp vào tình trạng vô vọng này và đã tái sinh con người trong công trình cứu độ của Chúa Kitô. Qua đó, Thiên Chúa tiếp tục thông ban cho chúng ta Thánh Thần của Người và đồng thời tái thu nhận chúng ta làm con cái của Người. Người yêu thương chúng ta. Và chính Chúa Thánh Thần một lần nữa tái sinh chúng ta trong ân sủng để có khả năng thông hiệp với Thiên Chúa như tình trạng thánh thiện thuở ban đầu. Công việc của Chúa Thánh Thần là chuẩn bị và hoàn tất tiến trình tái sinh. Sự tái sinh này là một sự thay đổi tận gốc mà chỉ một mình Thánh Thần có thể thực hiện.

Hơn nữa, Thánh Thần không ngừng thanh tẩy chúng ta khi chúng ta chịu phép Rửa, và Người vẫn tiếp tục không ngừng thanh tẩy chúng ta để chúng ta hiệp nhất một cách sâu xa và luôn mãi với Chúa Giêsu, được dìm vào trong Mầu Nhiệm quyền năng của Người, của uy lực của Người, nghĩa là trong mầu nhiệm của sự chết của Người, là nguồn của sự sống, để tham dự vào sự sống lại của Người, để tái sinh vào trong đời sống mới. Đó là phép lạ mà không ai có thể làm được ngoài Chúa Thánh Thần. Khi lãnh nhận Bí tích Rửa Tội tất cả chúng ta được tái sinh làm con của Thiên Chúa, tham dự vào mối liên hệ con cái mà Chúa Giêsu đã có với Chúa Cha, có khả năng thưa lên với Thiên Chúa khi gọi Ngài với sự tín thác trọn vẹn và sự phó thác: "Abba, Lạy Cha!".

Thực vậy, nói như Đức Cha Phaolô: “Người Kitô hữu được sinh ra cho sự sống mới bởi Nước Và Thần Khí (Ga 3,5). Sự tái sinh này làm cho con người không còn thuộc lãnh vực xác phàm nữa, mà thuộc lãnh vực Thần Khí: “Sự gì sinh bởi xác thịt là xác thịt, và sự gì sinh bởi Thần Khí là Thần Khí” (Ga 3,6).[1]

Đức Thánh Cha Bênêđictô viết trong bài suy niệm Chúa Nhật Lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa, ngày 13.01.2013 tại Nhà Nguyện Sistina, trong đó Ngài rửa tội cho 20 Em bé: Nước mà qua đó các em bé này sẽ được rửa nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần, sẽ dìm các em vào trong "nguồn mạch" của sự sống là chính Thiên Chúa và sẽ làm cho các em nên những con cái chính thực của Ngài. Và mầm mống các nhân đức đối thần, được Thiên Chúa đổ vào trong các em, Đức Tin, Đức Cậy và Đức Mến, mầm mống mà hôm nay được gieo vào trong con tim của các em nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần, sẽ luôn được nuôi dưỡng bằng Lời của Thiên Chúa và các Bí tích; như thế các nhân đức này có thể lớn lên và vươn tới tình trạng trưởng thành trọn vẹn, cho tới việc làm cho mỗi em bé trở nên một chứng nhân chân thực của Đức Kitô.”[2] Chắc chắn, trong ân sủng Chúa Thánh Thần, qua Bí tích Rửa Tội, sự sống mới của Thiên Chúa nơi thụ nhân sẽ tăng trưởng mạnh mẽ, vươn đến tầm vóc viên mãn nơi Đức Kitô. Họ thật sự trở nên một dòng tộc mới bởi Ađam mới là Đức Kitô. Trong tiến trình sống mới này, Chúa Thánh Thần tác động mạnh mẽ giúp cho người thụ nhân khởi đầu hành trình của mình tiến bước trong Chúa Thánh Thần.

Công đồng Vatican II, trong Sắc lệnh về truyền giáo Ad Gentes có viết: “Chúa Thánh Thần là Ðấng kêu gọi mọi người đến với Chúa Kitô, thúc đẩy tâm hồn họ vâng phục đức tin nhờ hạt giống Lời Chúa và việc rao giảng Phúc Âm. Chính khi Ngài sinh những kẻ tin Chúa Kitô trong lòng Giếng Rửa Tội để sống đời sống mới, Ngài tập họp họ thành một Dân Chúa duy nhất. Dân này là "dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân tộc thánh thiện, là dân được Thiên Chúa thu phục" (1P 2,9) (AG 15). Qua Bí tích Rửa Tội, Kitô hữu được trở nên con cái Thiên Chúa và hội nhập gia đình của Thiên Chúa là Giáo hội. Họ hiệp thông với tất cả anh chị em Kitô hữu sống đức tin, đức cậy và đức mến. Sách Công vụ Tông đồ trình bày đời sống đức tin của các cộng đoàn tiên khởi như một gia đình hiệp nhất: các tín hữu đã sống liên đới với nhau trong cộng đoàn đức tin. Họ chuyên cần nghe các Tông đồ giảng dạy, hiệp thông với nhau trong việc cử hành Lời Chúa và Thánh Thể, cầu nguyện chung và sống tinh thần bác ái qua việc chia sẻ cơm áo. Họ đồng tâm nhất trí, ca tụng Thiên Chúa và được toàn dân thương mến (Cv 2,42-47). Thực vậy, Giáo hội được Chúa Kitô thiết lập trong Chúa Thánh Thần để liên đới mọi Kitô hữu với nhau trong tình yêu Thiên Chúa, sống và chia sẻ yêu thương của Thiên Chúa đến với nhân loại và họ thật sự trở thành "dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân tộc thánh thiện, là dân được Thiên Chúa thu phục" (1Pl 2,9).

2. Chúa Thánh Thần khơi lại cảm thức đức tin và đoàn sủng trong dân Thiên Chúa.

Thực tế xã hội cho thấy hiện tượng các buổi lễ ngày thường ít thu hút được giáo dân, nơi các phố thị, các khu công nghiệp có đông dân cư nhưng nhiều buổi lễ ngày thường chỉ có ba, bốn người đến dự lễ, lọt thỏm giữa thánh đường mênh mông. Ngày Thứ Bảy, Chủ Nhật nhà thờ toàn người già, rất ít thanh niên và người trung tuổi. Khoa học, kỹ thuật ngày càng phát triển, tình trạng kinh tế khó khăn, nên tầng lớp thanh niên đang dần dần phai lạt ý thức về Thiên Chúa. Chúng ta cũng chứng kiến tình trạng báo động về sự giảm sút các tín hữu Kitô ở một số khu vực: Trung Đông, Châu Phi, Mỹ La Tinh và một số nước châu Âu... Một số giáo phận tại các quốc gia theo chủ nghĩa cộng sản như Trung Quốc, Triều Tiên... chính quyền quản lý chặt nhà thờ, can thiệp sâu vào việc bổ nhiệm, phong chức thánh cho các linh mục, giám mục Công giáo. Mối quan hệ giữa Rôma và các giáo phận này bị hạn chế, thậm chí bị ngăn cản, cắt đứt.

Một bối cảnh xã hội phức tạp, những điều đó ắt hẳn phần nào ảnh hưởng tới cuộc sống tâm linh của mỗi người Công giáo chúng ta. Sâu xa hơn, bằng chính trải nghiệm nơi một xứ đạo kỳ cựu, người viết bài này nhận thấy: ngày xưa những lời kinh sáng tối vang lên nơi gia đình, trong nhà thờ, nay dường như thưa thớt và im vắng. Tiếng kinh, lời nguyện thưa dần nhường chỗ cho những phương tiện giải trí, phim ảnh, âm nhạc, những live show, game show truyền hình. Những thánh lễ sáng, giờ Chầu Thánh Thể ngày nay thường thiếu vắng người tham dự. Hơn thế nữa, môi trường xã hội quá ồn ào dễ làm ta xa Chúa và bị “hoà tan” trong cả tư tưởng, lối sống khi ngày lại ngày ta tiếp xúc với những trào lưu xã hội, khuynh hướng dễ dãi, thực dụng, hưởng thụ,… Thật khó để giữ được một Đức Tin tinh ròng như những ngày xưa.

Ai trong chúng ta cũng phải biết: Đức tin cần thiết cho đời sống tâm linh của con người vì nó giúp con người mở rộng tầm nhìn về Thiên Chúa thương yêu (2Ga 4,8) đã tạo dựng con người “giống hình ảnh Thiên Chúa” (St 1,27) và muốn mọi người nhận biết chân lý cứu độ (1Tm 2:4). Abraham đã sẵn sàng giết con trai duy nhất để chứng tỏ lòng tin mạnh mẽ nơi Thiên Chúa. Vì thế, Thiên Chúa đã chúc lành cho ông và làm cho dòng dõi ông nên nhiều như sao trên trời và như cát ngoài bãi biển (St 22, 15-18). “Những ai dựa vào đức tin thì được chúc phúc làm một với ông Ápbraham, người có đức tin” (Gl 3,9). Thánh Phaolô nói “tôi biết tôi tin vào ai và xác tín rằng Người có đủ quyền năng bảo toàn nhửng gì tôi phó thác nơi Ngài” (2 Tm 1,12). Thánh Phêrô nhắn nhủ: “Tuy không thấy Người, anh em vẫn yêu mến, tuy chưa được giáp mặt mà lòng vẫn kính tin. Vì vậy, anh em được chan chứa một niềm vui khôn tả, rực rỡ vinh quang, bởi nhận được thành quả của đức tin, là ơn cứu độ con người”. (1Pr 8-9). Đức tin là tối cần thiết để được cứu độ.

Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI trong Tự sắc Porta Fidei - Cánh cửa Đức tin để thay cho lời cuối cùng muốn nói: Mỗi chúng ta hãy “tái khám phá hành trình Đức Tin để luôn làm nổi bật niềm vui và lòng hăng say mới của việc gặp gỡ Đức Kitô”, đồng thời “khơi dậy nơi mỗi tín hữu khát vọng tuyên xưng Đức Tin trong sự toàn vẹn và với niềm xác tin được đổi mới, trong niềm tín thác và hy vọng”“ước gì Năm Đức Tin này làm cho tương quan của chúng ta với Chúa Kitô vững chắc thêm mãi, vì chỉ trong Người chúng ta mới vững lòng nhìn về tương lai và được bảo đảm về một tình yêu đích thực và lâu bền” (Tự sắc Porta Fidei - Cánh cửa Đức tin, số 2.9.15).

Hiến Chế Tín lý về Giáo hội chỉ ra rằng: “Dân Thánh Thiên Chúa cũng tham dự vào chức vụ tiên tri của Chúa Kitô bằng cách phổ biến chứng tá sống động về Người, nhất là qua đời sống đức tin và đức ái; và dâng lên Thiên Chúa của lễ ca tụng, hoa trái của những miệng lưỡi ngợi khen thánh Danh Người (x. Dt 13,15). (LG 15). Con người thời nay tin vào các chứng nhân hơn là các thầy dạy. Tin vào kinh nghiệm hơn là đạo lý, tin vào đời sống và các sự kiện hơn là các lý thuyết. Chúa Thánh Thần đang đồng hành với Giáo hội trên bước đường của Giáo hội, đồng thời liên kết Giáo hội với lời chứng của người về Chúa Kitô (Ga 15,26-27): “Nhờ cảm thức về đức tin được Thánh Thần chân lý khơi dậy và duy trì, dưới sự hướng dẫn và giáo huấn thần linh của Giáo hội mà họ trung thành tuân theo, Dân Thiên Chúa nhận lãnh không phải lời nói của loài người nữa, mà thực sự là lời của Thiên Chúa (x. 1Tx 2,13); họ gắn bó hoàn toàn "với đức tin chỉ một lần được ban bố cho các thánh" (Gđ 3), họ tiến sâu hơn trong đức tin nhờ phán đoán đứng đắn, và sống đức tin cách hoàn hảo hơn. (LG 15). Chúng ta đều thấy phần đóng góp của những chứng tá sống động của người Kitô hữu. Thường họ chỉ là những giáo dân bình thường, quê mùa, ít học nhưng có niềm tin mạnh mẽ và tấm lòng rộng mở. Lối sống tốt lành, thánh thiện, yêu thương, phục vụ, hy sinh, quên mình của họ là đường lối mà bàn tay quyền năng của Thiên Chúa sử dụng để đưa các linh hồn về với Chúa và Giáo hội[3]. Mọi người Kitô hữu đều được mời gọi dâng hiến sự hiện hữu của mình cho Chúa Giêsu và để sự hiện hữu của mình được uốn nắn bởi Chúa Thánh Thần. Cuộc sống của người tín hữu, qua việc tìm kiếm sự thánh thiện, lớn lên trong việc đồng hóa với đời sống của chính Chúa Giêsu, trở nên chứng tá cho việc truyền giáo.

Xét khía cạnh nào đó, đối diện với các vấn nạn đức tin hiện nay và nhu cầu cấp thiết của công cuộc tân Phúc Âm hóa thì mỗi người Kitô hữu cần có một kinh nghiệm trở lại đi vào một cuộc sống mới một cách sâu xa. Phải hiểu rằng Canh tân như một ơn sủng linh hoạt lại phép rửa và phép thêm sức, một lễ Hiện xuống mới làm cho người thụ nhận trở lại, gặp gỡ lại và nhận ra Chúa Giêsu Kitô, mở lòng đón nhận lại Chúa Thánh Thần.

Sau Công Đồng Vaticanô II, người ta thấy có các luồng thần học về đoàn sủng: Có những người chủ trương rằng bản chất của Hội thánh có tính cách đoàn sủng chứ không phải là phẩm trật; nói khác đi, họ đối chọi các đặc sủng với cơ cấu phẩm trật. Một tác giả tiêu biểu cho khuynh hướng này là Hans Kung. Phong trào đặc sủng (Mouvement charismtique) nhấn mạnh đến đặc sủng chữa bệnh và nói tiếng lạ trong các buổi họp cầu nguyện. Sau một vài thái quá của buổi đầu, nay phong trào đổi tên là “canh tân Thánh Linh”, bớt để ý tới các hiện tượng kỳ lạ nhưng chú trọng tới đời sống tâm linh cầu nguyện hơn. Thần học đã dùng tiếng đoàn sủng để diễn tả chỗ đứng của đời tận hiến trong Hội thánh cũng như căn tính của mỗi dòng, mỗi đoàn thể Công giáo.

Thánh Thần làm cho Hội thánh được sinh động bằng các đoàn sủng, nhờ đó các tín hữu đóng góp mỗi người một cách vào sinh hoạt của cộng đoàn. Thánh Thần đã trút xuống cộng đoàn nhiều đoàn sủng, nghĩa là Ngài đã biến các tín hữu thành những thành phần chủ động, mỗi người góp tay làm một việc, nhằm xây dựng cộng đoàn. Nhiệm vụ của cơ quan lãnh đạo là biết phối hợp các sáng kiến khác nhau, sao cho chúng được hài hòa trong đức ái thay vì trở thành đố kị xung khắc. Dù sao cũng đừng quên rằng các tín hữu giáo dân cũng lãnh nhận rất nhiều đoàn sủng, như đức Gioan Phaolô II đã viết trong tông huấn Christifideles Laici số 24, Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo nói tới các đoàn sủng ở các số 799-801,951; 2003-2004.

3. Chúa Thánh Thần kiện toàn đức tin qua các ơn của Ngài

Thánh Thần là “hồng ân” được ban cho Đức Kitô chịu chết và sống lại. Ơn Chúa Thánh Thần liên hệ tới từng người tín hữu: chúng biểu lộ sự hiện diện và tác động của Thánh Thần trong tâm hồn của mỗi Kitô hữu. Đành rằng Thánh Thần ngự trong tâm hồn như là trong đền thờ (x.Rm 8,9-11; 1Cr 3,16-17), và Ngài là chủ xướng của hết mọi nhân đức tâm tình ước muốn lành thánh cùng như lời cầu nguyện: nhưng thần học cổ điển đã muốn diễn tả tác động nổi bật của Ngài qua bảy hồng ân.

Thánh Thần về bảy ơn Chúa Thánh Thần dựa trên đoạn văn của Isaia 11,2. Ngôn sứ này nói đến một vị vua lý tưởng thuộc dòng Đavít, được thần khí trang điểm với các nhân đức lỗi lạc vượt xa các tiền bối. Thần khí Giavê sẽ đậu xuống trên vị ấy: thần khí khôn ngoan và trí tuệ (như 70 bô lão và Salomon: Tl 1,13; 1V 3,12), thần khí mưu lược và hùng mạnh (như Đavít), thần khí hiểu biết và kính sợ Giavê (như các tổ phụ Abraham, Isaac, Giacop, Maisen). Truyền thống Kitô giáo đã áp dụng vào đời sống của mỗi tín hữu dưới ảnh hưởng của Thánh Thần. Ý nghĩa của bảy ơn thường được giải thích như sau:

1. Khôn ngoan (sapientia), giúp cho ta gắn bó với Thiên Chúa, nguồn hạnh phúc thực;

2. Thông hiểu (Intellectus), ban cho ta sự hiểu biết sâu xa các chân lý đức tin;

3. Minh luân (Scientia) giúp ta phán đoán giá trị của các thụ tạo theo ánh sáng đức tin;

4. Chỉ giáo (Consilium), ban cho ta biết chọn lựa con đường nào hợp ý Chúa hơn cả và ngoan ngoãn để cho Chúa hướng dẫn.

5. Sùng hiếu (Pietas), ban cho ta lòng tôn thờ Thiên Chúa với tinh thần con thảo và liên hệ với mọi người như con cái cùng Cha.

6. Can đảm (Fortitudo), vượt thắng mọi khó khăn hoặc chịu đựng đau khổ bằng sức mạnh Chúa ban.

7. Kính sợ Chúa (Timor Domini), tránh tội và loại bỏ sự quyến luyến của cải trần thế khi nó làm mất lòng tôn kính yêu mến Chúa.

Trong thư gửi Rôma (8,26-27), thánh Phaolô đã nhắc nhở chúng ta rằng cần phải có Thánh Thần đến giúp đỡ thì chúng ta mới biết cách cầu nguyện đẹp lòng Chúa. Thực vậy, chúng ta cần Thánh Thần không phải để dạy các kinh phải đọc (xét vì các sách kinh nguyện không thiếu) cho bằng để có thể đàm đạo thân mật với Chúa, như là con cái nói chuyện với cha mẹ (x.Rm 8,14). Đối lại, đâu mà có lời cầu nguyện chân thành (kể cả ở ngoài Kitô giáo) thì đấy Thánh Thần đang tác động. Như đã nói, Đức Gioan Phaolô II đã ghi nhận điều đó trong thông điệp Dominum et Vivificantem số 65.

Bên cạnh đó, Công đồng Vatican II cũng xác nhận: “Mạc khải phải được đón nhận bằng đức tin. Phải bày tỏ "sự vâng phục của đức tin" (x. Rm 16,26; Rm 1,5; 2Cor 10,5-6) đối với Thiên Chúa mạc khải. Nhờ sự vâng phục đó, con người phó thác toàn thân cho Thiên Chúa một cách tự do "dâng lên Thiên Chúa mạc khải sự quy phục hoàn toàn của lý trí và ý chí", đồng thời sẵn lòng chấp nhận mạc khải Ngài ban cho. Ðể được niềm tin này, cần có ân sủng Thiên Chúa đi trước giúp đỡ và sự trợ giúp bên trong của Chúa Thánh Thần: Ngài thúc đẩy và quy hướng con tim về cùng Thiên Chúa, mở mắt lý trí và làm cho "mọi người cảm thấy dịu ngọt khi đón nhận và tin theo chân lý". Và để việc hiểu biết mạc khải được sâu rộng thêm mãi, cũng chính Chúa Thánh Thần không ngừng kiện toàn đức tin qua các ơn của Ngài.” (DV 5). Các chân lý mạc khải hàm chứa trong bộ Kinh Thánh là những sách mà Chúa Thánh Thần đã linh hứng cho các tác giả nhân loại viết ra những điều Thiên Chúa muốn cho con người được biết. Chính Thiên Chúa đã đi bước trước, tự ý tỏ mình ra cho con người, Ngài đã nói với con người bằng ngôn ngữ loài người, qua các Ngôn sứ và qua chính Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô (x. Dt 1,1-2a). Vì thế, Thánh Kinh là nền tảng căn bản của đức tin và đời sống Kitô giáo. Để nhận được đức tin, một đàng con người phải nỗ lực tìm kiếm chân lý, đàng khác cần có ơn Chúa và sự trợ giúp bên trong của Chúa Thánh Thần: “Ngài đánh động và quy hướng con tim về cùng Thiên Chúa, Ngài mở mắt lý trí cho mọi người cảm thấy dịu ngọt khi đón nhận và tin vào chân lý. Và để việc hiểu biết mạc khải được sâu rộng thêm mãi, cũng chính Chúa Thánh Thần không ngừng kiện toàn đức tin qua các ơn của Ngài” (GLHTCG 153).

Kết luận

Đức tin chính là nhận biết Thiên Chúa với trọn trí khôn con người: biết Thiên Chúa là Đấng nào, biết Ngài hằng yêu thương chăm sóc chúng ta, biết những lời hứa của Ngài sẽ thực hiện cho mỗi người, biết Ngài sẽ đáp trả những lời cầu nguyện đem lại lợi ích cho phần rỗi chúng ta. Hơn nữa, đức tin còn do ý chí thúc đẩy con người lựa chọn đứng về phía Thiên Chúa, yêu mến và tình nguyện theo Ngài: “đức tin là quyết định ở lại với Chúa để cùng sống với Ngài” (Porta Fidei, số 10). “Đức tin là nhân đức đối thần nhờ đó chúng ta tin vào Thiên Chúa và tất cả những gì Ngài đã mạc khải cho chúng ta và những gì Hội thánh dạy chúng ta tin, bởi vì Thiên Chúa là chính Chân Lý. Nhờ đức tin, con người phó thác bản thân mình một cách tự do cho Thiên Chúa. Vì thế, người tin tìm biết và tìm thi hành ý muốn của Ngài, vì ‘đức tin hoạt động nhờ đức ái’ (Gl 5,6)” (Toát Yếu GL 386).

Để nhận được đức tin, một đàng con người phải nỗ lực tìm kiếm chân lý, đàng khác cần có ơn Chúa và sự trợ giúp bên trong của Chúa Thánh Thần: “Ngài đánh động và quy hướng con tim về cùng Thiên Chúa, Ngài mở mắt lý trí cho mọi người cảm thấy dịu ngọt khi đón nhận và tin vào chân lý. Và để việc hiểu biết mạc khải được sâu rộng thêm mãi, cũng chính Chúa Thánh Thần không ngừng kiện toàn đức tin qua các ơn của Ngài” (GLHTCG 153).

GX Thiên Phước, Chúa Nhật VI Phục Sinh

Lm. Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thượng



[1] http://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/THANHOC/ChuaThanhThan/Chuong11.htm

[2] http://hdmtggv.weebly.com/2/post/2013/01/suy-nim-ca-tc-bnedicto-v-b-tch-ra-ti.html

[3] http://www.fmavtn.org/index.php?option=com_content&view=article&id=1609:truyn-giao-bng-chng-ta-i-sng&catid=44:tai-liu-v-truyn-giao&Itemid=494