06/06/2013
1636
Chiên trong tranh, chiên trong đời _Lm Phêrô Trần Trọng Khương

CHIÊN TRONG TRANH – CHIÊN TRONG ĐỜI

 

c761cf56-69c0-43ff-961d-f4e127ca8130.jpgNói đến bức tranh Chúa Chiên Lành, nhiều người dễ dàng liên tưởng đến hình ảnh Chúa Giêsu Mục Tử vác con chiên trên vai, hoặc là hình ảnh Chúa Giêsu vác chiên trên vai giữa một đàn chiên đông đúc, ngoan ngoãn bình yên nơi đồng cỏ.

Tranh Chúa Chiên Lành hiện diện khá phổ biến trong các hình thức nghệ thuật công cộng (public art) như tranh ghép kiếng, tranh khảm đá ở các nhà thờ, hay trong các hình thức nghệ thuật đại chúng (popular art) như các loại tiểu họa (icon) ngày xưa và các loại tranh in ngày nay.

Hình ảnh Chúa Chiên Lành, ít được các họa sĩ tên tuổi quan tâm, những tác phẩm đặc sắc về chủ đề này khá hiếm. Từ thời Giotto (1267-1377) cho đến nay chỉ có vài tác phẩm nổi tiếng của Bartolomé Esteban Murillo (1617-1682)và James Tissot (1836-1902). Ở đây không bàn đến trường phái nghệ thuật, chất liệu sử dụng hay bố cục, sắp xếp tỉ lệ… được tác giả sử dụng trong những bức tranh Chúa Giêsu Mục Tử, nhưng muốn nói lên một vài suy nghĩ từ những bức tranh này.

CHIÊN TRONG TRANH

Trong tất cả các bức tranh về Chúa Giêsu Mục Tử, con chiên được Chúa vác trên vai, hoặc ôm vào lòng lúc nào cũng là con chiên nhỏ. Sở dĩ Chúa vác chiên nhỏ là vì:

- Thứ nhất: Chiên nhỏ thường là thiếu kinh nghiệm – Thiếu kinh nghiệm trong việc tìm thức ăn, thiếu kinh nghiệm khi phải đối diện với nguy hiểm (sói dữ, cạm bẫy, hố sâu, vực thẳm…), vì thế cần sự bảo vệ, che chở của người mục tử.

- Thứ hai: Chiên nhỏ khi đi lạc thường là không biết lối về, nên người mục tử phải đi tìm và vác chiên trở về đàn.

- Thứ ba: Chiên nhỏ bao giờ cũng dễ vác hơn chiên lớn. Dễ hơn vì nhẹ hơn, dễ bảo dễ nghe hơn.

- Thứ tư: Người mục tử vác chiên nhỏ, sẽ đi được trên đoạn đường dài hơn là nếu vác con chiên lớn (vì chiên lớn nặng, người mục tử vác sẽ mau mệt hơn).

Trong các bức tranh Chúa Giêsu Mục Tử, lúc nào người mục tử cũng đi trước đàn chiên, hoặc nếu không đi trước thì cũng đứng giữa đàn chiên. Điều này hoàn toàn trái ngược với thực tế về những người chăn đàn súc vật trên những đồng cỏ. Những người chăn giữ đàn súc vật, lúc nào họ cũng lùa đàn súc vật đi trước, trong đàn sẽ có con vật đầu đàn, con đầu đàn sẽ dẫn đường cho những con còn lại đi theo. Người chăn giữ chỉ cần điều khiển con đầu đàn là cả đàn sẽ nghe theo.

Tại sao có sự trái ngược này: Vì đứng đầu đàn chiên không phải là con chiên mà phải là người mục tử. Khi người mục tử đi trước đàn chiên, nghĩa là mục tử chấp nhận rủi ro, đối diện với hiểm nguy, cạm bẫy, hố sâu, vực thẳm… có khi là thiệt hại đến cả tính mạng. Đó là mục tử và chiên ở trong tranh, còn chiên và mục tử trong đời thì sao?

CHIÊN TRONG ĐỜI

Trong một giáo xứ, người linh mục giữ vai trò là người mục tử chăn dắt đàn chiên là những người giáo dân trực thuộc xứ đạo mà linh mục đang coi sóc. Đàn chiên mà người linh mục chăn dắt có đàn lớn đàn nhỏ; Cho dù lớn hay nhỏ thì con chiên được vác trên vai, hay con chiên được ôm vào lòng phải là con chiên nhỏ.

Chiên nhỏ là những Kitô hữu nguội lạnh, bê tha, trễ nải, lơ là… trong đời sống đức tin và luân lý. Đây là những con chiên cần được chăm sóc, quan tâm nhiều hơn hết. Chiên nhỏ còn là những trẻ nhỏ, các thiếu nhi, thiếu niên, cần được lưu tâm để ý và ưu tiên hàng đầu. Bởi vì các trẻ nhỏ chưa có đủ kinh nghiệm khi phải đối diện với cám dỗ, lại càng hụt hơi hơn nữa khi phải chiến đấu chống lại sự dữ.

Hơn nữa trẻ em khi làm điều gì sai lỗi, thường không thể tự mình nhận ra và sửa sai. Vì thế, luôn cần đến người mục tử (cần đến người lớn) chỉ ra những thiếu sót để các em sửa lỗi. Thông thường, để việc sửa lỗi, hay giáo dục con người mang lại hiệu quả cao nhất, là khi đối tượng còn nhỏ. Tục ngữ Việt Nam có câu: Uốn cây từ thuở còn non. Dạy con từ thuở con còn ngây thơ.

Kinh nghiệm mục vụ cho thấy, để tiếp xúc được với những người nguội lạnh, bê trễ, tội lỗi, thiếu sót… không phải là dễ (nếu không nói là rất khó). Khó ở chỗ, họ luôn tìm cách lẩn trốn các linh mục. Việc họ lẫn tránh có thể vì lý do ngại tiếp xúc với linh mục, vì mình đang sống trong tình trạng không tốt? Hoặc nhiều lý do khác như: Không muốn để ai làm phiền, dòm ngó về đời sống riêng tư của mình. Hoặc chính bản thân họ đã có những đổ vỡ lớn với các mục tử trước đây (vì thế họ in trí không tốt về các linh mục), hoặc đã có những xung khắc, gây gổ, cải vã, to tiếng… với những anh chị em giáo dân khác trong xứ đạo.

Khó tiếp xúc, khó gặp cho nên đòi hỏi người mục tử phải theo đuổi họ trên một chặng đường dài (vác họ trên một đoạn đường dài), một thời gian lâu. Mặc dù khó giao tiếp, khó gặp gỡ nhưng khi đã mang họ trở lại được với cộng đoàn, thì lại dễ hướng dẫn, dễ dạy dỗ bảo ban. Bởi vì khi đã chấp nhận trở về cũng có nghĩa là họ đã tuân phục người mục tử.

Người tín hữu trong giáo xứ là đàn chiên, là đàn chiên nhưng không có chiên đứng đầu, mà đứng đầu là linh mục. Người linh mục luôn đi trước và nhìn thấy những đồng cỏ, những nơi tốt đẹp bình an để hướng dẫn cho đàn chiên đi tới. Đồng thời người linh mục cũng chấp nhận rủi ro, đó là những cạm bẫy mà linh mục có thể sa vào.

Để những điều tốt đẹp về người mục tử và đàn chiên trong tranh trở thành hiện thực trong đời, đòi hỏi người giáo dân phải là những con chiên biết lắng nghe sự hướng dẫn của linh mục. Đối với nhiều người tín hữu lầm đường lạc lối, người linh mục sẵn sàng ra đi tìm kiếm, vác trên vai hay ôm vào lòng mà mang trở về đàn.

Thiết nghĩ tốt nhất cho đàn chiên và mục tử (giáo dân và linh mục) là: Anh chị em giáo dân biết lắng nghe và sống đúng theo sự hướng dẫn của Giáo hội qua Đức thánh Cha, qua các Giám mục, Linh mục, Phó tế là những vị mục tử thay mặt cho Chúa Giêsu Mục Tử ở trần gian. Mặc dù biết rằng: Nếu người giáo dân sa ngã lầm đường lạc lối, nguội lạnh, bê tha, trễ nải… mục tử phải có nhiệm vụ tìm và mang về. Nhưng tốt hơn là đừng có quá nhiều chiên lạc trong một đàn chiên.

Lm Phêrô Trần Trọng Khương