13/03/2017
898
Tông huấn Amoris Laetitia - Chương IV: Tình yêu trong hôn nhân (147-164) 

 

Thiên Chúa yêu thích niềm vui của con cái Ngài

147.  Điều này đòi hỏi một tiến trình có tính sư phạm, một tiến trình bao hàm những từ bỏ. Xác tín này của Hội thánh thường bị tẩy chay viện lẽ nó đi ngược lại hạnh phúc của con người. Đức Bênêđictô XVI đã đúc kết vấn đề này thật rõ ràng: “Với tất cả những điều răn và những cấm đoán của mình, chẳng lẽ Hội thánh biến điều đẹp nhất trong đời sống thành sự cay đắng hay sao? Chẳng lẽ Hội thánh thổi phạt chính nơi mà niềm vui – vốn là quà tặng của Tạo Hóa – đem lại cho chúng ta niềm hạnh phúc, làm cho chúng ta cảm nếm trước chút gì đó của Nước Thiên Chúa đó sao?”[1] Nhưng ngài đã trả lời rằng mặc dù đã có những cường điệu và những hình thức khổ hạnh lệch lạc trong Kitô giáo, nhưng giáo huấn chính thức của Hội thánh, trong sự trung thành với Thánh Kinh, không hề bác bỏ “nhục cảm theo đúng nghĩa của nó, nhưng Hội thánh đã tuyên chiến với một thứ nhục cảm biến dạng và hủy diệt, bởi vì sự thần thánh hóa giả hiệu này của nhục cảm […] thực ra đã tước mất của nó phẩm giá thần linh và làm mất cả nhân tính của nó nữa”.[2]

148. Cần phải có chương trình giáo dục cảm xúc và bản năng, và có khi điều này đòi hỏi phải lập ra những giới hạn. Vui thú thái quá thiếu kiểm soát hoặc bị ám ảnh bởi một kiểu lạc thú duy nhất rốt cuộc sẽ làm suy yếu và bại hoại cho chính lạc thú ấy[3] và đe dọa đời sống gia đình. Thật ra người ta có thể hoàn tất một hành trình tốt đẹp với những đam mê của mình, bằng cách qui hướng chúng mỗi ngày một hơn vào một kế hoạch tự hiến và thực hiện sự viên mãn của chính mình, điều này luôn làm phong phú các mối tương quan liên vị trong đời sống gia đình. Điều này không có nghĩa là khước từ những khoảnh khắc vui thú cao độ,[4] nhưng là hội nhập chúng với những khoảnh khắc khác của sự quảng đại hiến thân, của niềm hi vọng bền bỉ, của sự mệt mỏi không tránh được và của sự nỗ lực để đạt lí tưởng. Đời sống gia đình là tất cả những điều đó, và nó đáng được sống đến mức trọn vẹn nhất.

149. Một số trào lưu linh đạo nhấn mạnh đến sự từ bỏ những ham muốn để được giải thoát khỏi đau khổ. Nhưng chúng ta tin rằng Thiên Chúa yêu thích niềm vui thú của con người, Ngài đã dựng nên mọi sự “cho chúng ta hưởng dùng” (1 Tm 6,17). Chúng ta hãy để niềm vui trào dâng trước tình yêu dịu dàng của Ngài khi Ngài bảo chúng ta: “Hỡi con, hãy làm cho đời con được tốt đẹp […] Đừng từ chối không hưởng một ngày vui” (Hc 14,11.14). Các đôi vợ chồng cũng hãy đáp lại thánh ý Thiên Chúa khi họ tuân theo lời mời này của Thánh Kinh: “Ngày gặp may mắn, hãy cứ vui hưởng” (Gv 7,14). Điều quan trọng là phải có tự do để nhận ra rằng niềm vui thú có thể có những cách diễn tả khác nhau vào những giai đoạn khác nhau của đời sống, phù hợp với các nhu cầu của tình yêu hỗ tương. Theo nghĩa này, chúng ta có thể đón nhận những đề nghị của một số bậc thầy Đông phương thúc đẩy chúng ta mở rộng ý thức, để chúng ta không bị giam hãm bởi một kinh nghiệm rất giới hạn khiến tầm nhìn của chúng ta lại khép lại. Sự mở rộng ý thức này không phủ nhận hay tiêu diệt lòng ham muốn cho bằng là mở rộng và hoàn thiện nó.

Chiều kích dục tình của tình yêu

150. Tất cả những điều này đưa chúng ta đến với đời sống tính dục của đôi bạn. Chính Thiên Chúa tạo dựng nên tính dục, đó là món quà kì diệu cho các thụ tạo của Ngài. Khi tính dục được vun xới và tránh việc thiếu kiểm soát, đó là để phòng tránh “làm nghèo nàn đi một giá trị đích thực”.[5] Thánh Gioan Phaolô II bác bỏ quan điểm cho rằng giáo huấn của Hội thánh “phủ nhận giá trị của tính dục con người”, hay cho rằng Hội thánh chấp nhận tính dục đơn giản “chỉ vì nó cần cho việc truyền sinh”.[6] Nhu cầu tình dục của vợ chồng không phải là một cái gì đáng khinh dể, và “đó không phải là vấn đề cần đặt ra”.[7]

151. Với những ai lo sợ việc huấn luyện các đam mê và tính dục sẽ làm ảnh hưởng đến tính bộc phát tự nhiên của tình yêu nam nữ, Thánh Gioan Phaolô II trả lời rằng nhân vị con người được “mời gọi hướng đến tính cách tự nhiên đầy đủ và trưởng thành trong các mối tương quan của mình”, điều đó “là hoa trái trổ sinh dần dần từ một sự phân định các xung năng trong lòng mình”.[8] Đó là một cái gì chúng ta đắc thủ, bởi vì mọi người đều “phải học – một cách kiên trì và nhất quán – để biết ý nghĩa của thân xác mình”.[9] Tính dục không phải là một phương tiện để thỏa mãn hay để giải trí, vì nó là một ngôn ngữ liên vị trong đó tha nhân được nghiêm túc trân trọng, trong phẩm giá thánh thiêng và bất khả xâm phạm của người ấy. Như thế, “tâm hồn con người dần tham dự vào, có thể nói, một tính cách tự phát khác”.[10] Trong bối cảnh này, ái tình xuất hiện như một sự thể hiện tính dục chuyên biệt của con người. Trong đó, người ta có thể tìm thấy lại “ý nghĩa hợp hôn của thân xác và phẩm giá đích thực của tặng phẩm trao hiến”.[11] Trong các bài giáo lí về thần học thân xác, Thánh Gioan Phaolô II đã dạy rằng thân xác với tính dục dị biệt không những là “nguồn của sự phong nhiêu và sinh sản”, mà nó còn sở hữu “khả năng diễn tả tình yêu: tình yêu mà chính ở đó con người – nhân vị trở thành một quà tặng”.[12] Một khao khát tình dục lành mạnh, cho dù gắn với một mưu cầu lạc thú, đều giả thiết có một cảm thức cảm thán, và chính bởi đó mà nó có thể làm cho các xung năng có tính nhân văn.

152. Vì thế, dù sao đi nữa chúng ta cũng không thể xem chiều kích nhục dục của tình yêu như một sự dữ được phép, hay như một gánh nặng phải chịu đựng vì thiện ích của gia đình, đúng hơn, nó phải được xem như tặng phẩm của Thiên Chúa, nhằm làm đẹp cho mối hạnh ngộ vợ chồng. Xét như một đam mê được thăng hoa bởi một tình yêu đầy kính trọng phẩm giá của người kia, đam mê trở thành một “khẳng định tinh tuyền và trọn vẹn” của tình yêu thể hiện những điều kì diệu có thể ẩn chứa trong trái tim con người, và như thế, ngay bây giờ đây, ta có thể nhận thấy rằng “cuộc sống con người đã là một thành công”.[13]

Bạo lực và thao túng

153. Trong bối cảnh của cái nhìn tích cực này về tính dục, thật là thích hợp để tiếp cận chủ đề trong tính toàn thể với một tinh thần thực tế lành mạnh. Thật ra, chúng ta không thể không biết tình dục rất thường bị phi nhân vị hóa và trở thành bệnh hoạn, đến nỗi, “nó luôn trở thành cơ hội và phương tiện cho người ta tự khẳng định mình và thỏa mãn cách ích kỉ các ham muốn và bản năng của mình”.[14] Trong thời đại của chúng ta, tình dục có nguy cơ bị nhiễm độc bởi não trạng “sử dụng và vứt bỏ”. Thân xác của tha nhân thường bị thao túng và xem như một đồ vật để sử dụng bao lâu nó còn đem lại thỏa mãn, và bị khinh dễ khi nó không còn hấp dẫn nữa. Liệu người ta có thể không biết hay bỏ qua những hình thức cố hữu của sự thống trị, ngạo mạn, lạm dụng, lệch lạc và bạo lực tình dục, vốn là kết quả của một cách hiểu méo mó về ý nghĩa của tình dục, nhằm chôn vùi phẩm giá của người khác và tiếng gọi vươn đến yêu thương ẩn bên dưới một kiếm tìm u mê chính bản thân mình?

154. Cũng không thừa khi chúng ta nhắc nhớ rằng ngay trong hôn nhân, tình dục cũng có thể trở thành một nguồn của đau khổ và của sự thao túng. Bởi thế cần phải xác nhận lại rõ ràng rằng “một hành vi vợ chồng áp đặt trên người phối ngẫu mà không xem xét đến điều kiện của người đó, hay không cần biết người đó có muốn hay không, thì không phải là hành vi đích thực của tình yêu, và do đó nó xúc phạm trật tự luân lí đúng đắn trong tương quan vợ chồng”.[15] Những hành vi dành riêng cho sự kết hợp tính dục giữa vợ chồng phù hợp với bản chất của tính dục theo ý muốn của Thiên Chúa khi chúng được thực hiện một cách “hợp nhân tính thực sự”.[16] Bởi thế Thánh Phaolô đã khuyên rằng: “Về điểm này, đừng ai làm tổn thương hay lừa dối người anh em mình” (1 Tx 4,6). Cho dù Thánh Phaolô viết trong bối cảnh một nền văn hóa mà tính gia trưởng thống lĩnh, trong đó người phụ nữ bị coi như là hoàn toàn phụ thuộc vào đàn ông, song ngài vẫn dạy rằng tính dục phải liên quan đến việc tương giao vợ chồng: Thánh Phaolô nêu ra khả năng của việc đình hoãn quan hệ tình dục trong một giai đoạn nào đó, nhưng dĩ nhiên là “với sự đồng thuận” (1 Cr 7,5).

155. Thánh Gioan Phaolô II cảnh giác một cách rất tinh tế rằng đôi vợ chồng có thể bị “đe dọa bởi sự ham hố vô độ”.[17] Nói cách khác, họ được mời gọi đạt tới một mối kết hợp không ngừng thâm sâu hơn, nhưng có thể đưa đến nguy cơ xóa bỏ những sự khác biệt và khoảng cách không thể tránh được giữa hai người. Vì mỗi người có một phẩm giá riêng và độc đáo. Khi sự quí trọng thuộc về nhau chuyển thành sự thống trị, thì “nó thay đổi [...] về bản chất cấu trúc hiệp thông trong mối quan hệ liên vị”.[18] Trong tâm thức thống trị, ngay cả người thống trị rốt cuộc cũng phủ nhận phẩm giá của chính mình,[19] và sau cùng, họ không còn “đồng nhất một cách chủ quan với thân xác của chính mình nữa”,[20] vì đã mất hết mọi ý nghĩa. Kết cuộc, họ dùng tính dục như cách để thoát li bản thân và chối bỏ vẻ đẹp của sự kết hợp vợ chồng.

156. Điều quan trọng cần nói rõ là phải từ chối bất kì một hình thức nô lệ tình dục nào. Vì thế phải tránh tất cả những diễn dịch sai lạc bản văn của Thư gửi tín hữu Êphêsô, trong đó đề nghị rằng các phụ nữ hãy “tùng phục chồng mình” (Ep 5,22). Ở đây Thánh Phaolô diễn tả những phạm trù văn hóa của thời đó, nhưng chúng ta không buộc phải mang lấy hình thái văn hóa đó, mà chỉ nhận sứ điệp mạc khải mà nó chuyển tải. Chúng ta nghe lại cách giải thích khôn ngoan của Thánh Gioan Phaolô II: “Tình yêu loại trừ mọi loại qui phục theo nghĩa người vợ có thể trở thành một tôi tớ hay nô lệ của người chồng […] Cộng đồng hay sự hợp nhất mà họ phải kiến tạo nhờ hôn nhân được thực hiện bởi một sự tự hiến cho nhau, mà sự tự hiến này vốn cũng là một sự qui phục nhau”.[21] Bởi thế Phaolô còn nói rằng “những người chồng phải yêu vợ mình như yêu chính thân xác mình” (Ep 5,28). Bản văn Thánh Kinh này thực ra mời gọi chúng ta vượt qua chủ nghĩa cá nhân tự mãn để sống lưu tâm tới người khác: “Anh em hãy tùng phục nhau” (Ep 5,21). Trong hôn nhân, sự “tùng phục” hỗ tương này mang một ý nghĩa đặc biệt và được hiểu như một sự thuộc về nhau theo cách tự do chọn lựa, với sự tập hợp các đặc tính là sự trung tín, kính trọng và quan tâm. Tính dục và phục vụ không tách rời nhau trong tình bạn này giữa vợ chồng, vì nó được đặt định để giúp người kia sống viên mãn.

157. Thế nhưng, việc từ khước tính dục và nhục cảm lệch lạc không bao giờ được dẫn chúng ta đến chỗ xem thường hay dửng dưng với chúng. Lí tưởng của hôn nhân không thể chỉ được xem như sự quảng đại trao hiến và quên mình, trong đó mỗi người phối ngẫu từ bỏ tất cả những nhu cầu riêng và chỉ tìm cách làm vui lòng người kia mà không quan tâm gì đến sự thỏa mãn riêng của mình. Chúng ta cần nhớ rằng một tình yêu đích thực còn phải biết đón nhận từ người kia, đó là khả năng chấp nhận sự mỏng manh và thiếu thốn của mình, và không từ khước đón nhận chân thành và với lòng tri ân những biểu lộ tình yêu nơi thân xác như một cử chỉ vuốt ve, một vòng tay ôm ấp, một nụ hôn, và cả sự giao hợp. Đức Bênêđictô XVI tuyên bố điều này rất rõ ràng: “Nếu người ta mong muốn trở thành tinh thần thuần túy và loại bỏ xác thịt như một di sản thuộc về bản tính động vật mà thôi, thì cả tinh thần và thân xác đều mất đi phẩm giá của nó”.[22] Vì vậy, “người ta không thể chỉ sống với tình yêu trao hiến mà thôi. Người ta không thể chỉ luôn luôn cho đi, mà còn phải đón nhận nữa. Bất cứ ai muốn trao hiến tình yêu thì cũng phải đón nhận tình yêu như một quà tặng”.[23] Điều này đòi hỏi chúng ta không bao giờ được quên rằng sự cân bằng của con người chúng ta rất là mong manh; trong ta luôn có cái gì đó đề kháng lại sự trưởng thành nhân bản, và bất cứ lúc nào nó cũng có thể bộc lộ những xu hướng ích kỉ và hoang sơ nhất.

Hôn nhân và trinh khiết

158. “Nhiều người sống mà không kết hôn, họ không chỉ lo cho gia đình mình mà thường còn phục vụ nhiều trong nhóm bạn hữu của họ, trong cộng đoàn Hội thánh và trong đời sống nghề nghiệp. [...] Rồi, có rất nhiều người đem tài năng của mình phục vụ cho cộng đoàn Kitô hữu trong các việc bác ái và thiện nguyện. Cũng có những người khác không kết hôn vì họ thánh hiến cuộc đời của họ cho tình yêu Đức Kitô và tha nhân. Sự hiến dâng của họ góp phần lớn lao làm phong phú cho gia đình, trong Hội thánh và trong xã hội”.[24]

159. Trinh khiết là một hình thức của tình yêu. Xét như một dấu chỉ, nó nhắc chúng ta về Nước Thiên Chúa đang đến và về nhu cầu cấp bách dấn thân hoàn toàn phục vụ cho công cuộc loan báo Tin mừng (cf. 1 Cr 7,32). Trinh khiết cũng là một phản ánh của sự viên mãn trên thiên quốc, ở đó “người ta không còn dựng vợ gả chồng” (Mt 22,30). Thánh Phaolô cổ võ sự trinh khiết vì ngài mong đợi sự trở lại nhanh chóng của Đức Giêsu và ngài muốn mọi người chỉ tập trung vào việc loan báo Tin mừng: “Thời gian chẳng còn bao lâu” (1 Cr 7,29). Tuy nhiên, ngài cũng nói rõ đây là quan điểm và ý muốn cá nhân của ngài (cf. 1 Cr 7,6-9), chứ không phải là một đòi hỏi của Đức Kitô: “Tôi không có chỉ thị nào của Chúa” (1 Cr 7,25). Đồng thời ngài cũng nhìn nhận giá trị của những ơn gọi khác nhau: “Mỗi người nhận được ơn riêng của Thiên Chúa ban, người ơn này kẻ ơn khác” (1 Cr 7,7). Theo hướng đó Thánh Gioan Phaolô II khẳng định rằng các bản văn Thánh Kinh “không cho ta lí do để khẳng định tính ‘thấp kém’ của hôn nhân, cũng không khẳng định tính ‘ưu việt’ của trinh khiết hay độc thân”[25] dựa trên sự tiết dục. Thay vì nói về tính ưu việt của bậc sống trinh khiết trong mọi khía cạnh, có lẽ ta nên cho thấy các bậc sống khác nhau bổ sung cho nhau, theo đó người này có thể hoàn hảo hơn về khía cạnh này và người khác sẽ hoàn hảo hơn theo một quan điểm khác. Alexandro di Hales, chẳng hạn, tuyên bố rằng theo một nghĩa nào đó thì hôn phối có thể được xem như ưu việt hơn các bí tích khác: vì nó là biểu tượng của thực tại lớn lao, đó là “sự kết hợp của Đức Kitô với Hội thánh, hay sự kết hợp giữa thiên tính và nhân tính của Người”.[26]

160. Do đó, “vấn đề ở đây không phải là giảm thiểu giá trị của hôn nhân để thiên vị sự trinh khiết”[27] và “không có cơ sở nào để ta giả thiết sự đối lập giá trị của bên này và bên kia […] Nếu người ta nói về “bậc trọn lành” (status perfectionis) theo một truyền thống thần học nào đó, thì điều đó không dựa trên lí do của chính sự tiết dục, nhưng liên hệ tới toàn thể đời sống đặt nền trên các lời khuyên của Phúc Âm”.[28] Tuy nhiên, một người đã kết hôn có thể sống mức độ cao nhất của đức ái. Vì thế, người ấy có thể “đạt tới sự hoàn thiện phát xuất từ đức ái, nhờ trung thành sống tinh thần các lời khuyên Phúc Âm. Sự hoàn thiện như thế là điều có thể và mọi người nam nữ đều có thể đạt được”.[29]

161. Trinh khiết có giá trị biểu tượng của một tình yêu vốn không có nhu cầu chiếm hữu người khác, và bằng cách đó nó phản ánh sự tự do của Nước Trời. Đây là một lời mời gọi dành cho những người kết hôn sống tình yêu phu phụ của họ trong viễn ảnh tình yêu dứt khoát dành cho Đức Kitô, cùng đồng hành với nhau tiến tới sự viên mãn của Nước Trời. Về phần mình, tình yêu của đôi bạn giới thiệu những giá trị biểu tượng khác: một đàng, nó là một phản ánh đặc biệt của Thiên Chúa Ba Ngôi. Thật ra, Ba Ngôi là một sự hiệp nhất trọn vẹn, nhưng trong đó vẫn có phân biệt các Ngôi vị. Hơn nữa, Gia đình cũng là một dấu chỉ Kitô học, vì gia đình biểu thị sự gần gũi của Thiên Chúa, Đấng chia sẻ sự sống của con người qua việc Người trở nên một với chúng ta trong mầu nhiệm Nhập thể, Thập giá và sự Phục sinh: mỗi người phối ngẫu trở thành “một xương một thịt” với người kia và dâng hiến chính mình để chia sẻ mọi sự với người ấy cho tới chết. Trong khi trinh khiết là một dấu chỉ “cánh chung” của Đức Kitô Phục sinh, thì hôn nhân là một dấu chỉ “lịch sử” cho những người đang trên đường lữ hành trần thế, một dấu chỉ của Đức Kitô tại thế, là Đấng đã chấp nhận nên một với chúng ta và tự hiến cho chúng ta đến mức đổ máu mình ra. Trinh khiết và hôn nhân là – và phải là – những cách thế khác nhau để yêu thương, vì “con người không thể sống mà không có tình yêu. Con người vẫn là một hữu thể không thể hiểu nổi đối với chính mình, đời sống của con người sẽ vô nghĩa, nếu tình yêu không được mạc khải cho con người”.[30]

162. Độc thân có thể có nguy cơ trở thành một đời sống thoải mái một mình, trong đó người ta có tự do để sống độc lập, để di chuyển từ chỗ ở này đến chỗ ở khác, từ công việc này đến công việc khác, hay từ chọn lựa này đến chọn lựa khác, tự do sử dụng tiền bạc của mình và thường xuyên đi lại với người này người khác tùy theo ý muốn nhất thời. Trong trường hợp đó, chứng tá của những người kết hôn trở nên sáng ngời. Những người được gọi để sống trinh khiết có thể gặp thấy trong một số cặp hôn phối một dấu chỉ rõ ràng của lòng trung tín quảng đại và bền vững của Thiên Chúa đối với Giao ước của Ngài, và điều này có thể thúc đẩy họ sẵn sàng phục vụ người khác cách cụ thể và hiến dâng hơn. Quả thật, có những người kết hôn vẫn giữ được lòng trung thành của họ khi người kia với vẻ bề ngoài trở nên không còn hấp dẫn, hay không còn thỏa mãn các nhu cầu của mình được nữa, hoặc có nhiều cơ hội xúi giục họ bất trung hoặc rời bỏ người bạn đời của mình. Một người vợ có thể chăm sóc người chồng bệnh tật của mình, khi đó, kề bên Thập giá, chị lặp lại lời cam kết ưng thuận của tình yêu cho đến suốt đời. Trong tình yêu đó, phẩm giá của người yêu thương tỏa sáng, một phẩm giá như phản chiếu đức ái, vì lẽ nó thuộc về đức ái hệ tại ở yêu người nhiều hơn ở được người yêu.[31] Chúng ta cũng có thể gặp thấy nhiều gia đình có khả năng phục vụ cách ân cần và quên mình đối với những đứa con gây phiền nhiễu và thậm chí phụ bạc. Các cha mẹ như thế trở thành một dấu chỉ của tình yêu tự do và vô vị lợi của Đức Giêsu. Tất cả những điều ấy mời gọi những người độc thân sống sự dấn thân vì Nước Trời một cách cởi mở và quảng đại hơn. Ngày nay, hiện tượng tục hóa đã che mờ giá trị của một sự kết hợp suốt đời và làm giảm thiểu vẻ đẹp phong phú của ơn gọi dâng hiến trong hôn nhân, bởi thế ta “cần phải đào sâu những khía cạnh tích cực của tình yêu vợ chồng”.[32]

Sự biến đổi của tình yêu

163. Ngày nay, tuổi thọ dài hơn dẫn đến một điều gì đó vốn ở những thời đại khác không thường gặp: tương quan mật thiết và thuộc về nhau phải kéo dài bốn mươi, năm mươi hay thậm chí sáu mươi năm; và điều đó bao hàm chọn lựa ban đầu phải thường xuyên được làm mới lại. Có thể một người phối ngẫu không còn được hấp dẫn bởi một khao khát tình dục mạnh mẽ đối với người kia nữa, nhưng người ấy vẫn cảm thấy niềm hoan lạc thuộc về người kia, cũng như người kia thuộc về mình, vì biết rằng mình không cô đơn, vì có một “bạn đường” biết tất cả cuộc đời và lịch sử của mình và chia sẻ với mình mọi sự. Đây là người bạn đồng hành trong hành trình cuộc sống mà với họ ta có thể đương đầu với những khó khăn và cùng họ vui hưởng những điều tốt đẹp. Cả điều đó cũng tạo niềm thỏa mãn đi kèm theo khát khao riêng của tình yêu vợ chồng. Chúng ta không thể hứa chắc chắn rằng chúng ta sẽ có cùng những tình cảm ấy trong suốt cuộc đời. Nhưng chúng ta có thể chắc chắn rằng chúng ta có một dự án chung ổn định, cùng cam kết yêu nhau và cùng sống gắn bó với nhau cho đến khi cái chết tách lìa hai người, và luôn vui sống tình ái ân phong phú. Tình yêu mà chúng ta cam kết với nhau thì vượt trên mọi cảm xúc, tình cảm, hay mọi tâm trạng bất thường, dù nó có thể bao gồm tất cả những yếu tố ấy. Đó là một tình yêu thương sâu xa nhất, với một quyết định của con tim gắn với toàn thể cuộc sống. Như vậy, ngay cả giữa những xung đột còn ngổn ngang, và dù cho có nhiều tình cảm lẫn lộn quay cuồng con tim, chúng ta vẫn sống mỗi ngày quyết định yêu thương của mình, thuộc về nhau, chia sẻ toàn bộ cuộc sống với nhau, và tiếp tục yêu thương nhau và tha thứ cho nhau. Mỗi người thực hiện cuộc hành trình tăng trưởng và biến đổi cá nhân. Trên hành trình này, tình yêu mở hội ở mỗi bước đi và ở mỗi chặng đường mới.

164. Trong lịch sử của một cuộc hôn nhân, khía cạnh ngoại hình sẽ thay đổi, nhưng đây không phải là lí do để sự hấp dẫn của tình yêu phai nhạt. Chúng ta yêu một người vì chính con người của người ấy, không chỉ vì thân xác, cho dù thân xác ấy, héo tàn theo năm tháng, vẫn diễn tả căn tính con người ấy vốn đã chinh phục trái tim chúng ta thuở ban đầu. Trong khi những người khác không còn thấy được vẻ đẹp của căn tính ấy, thì người phối ngẫu thương yêu vẫn có thể tiếp tục nhìn thấy nó qua bản năng của tình yêu, và vì thế lòng thương mến không biến mất. Người phối ngẫu tái xác nhận quyết định thuộc về người kia và diễn tả sự chọn lựa người kia một cách mới mẻ qua sự gần gũi trung thành và đầy yêu thương. Quyết định cao quí của chọn lựa vì người kia, mãnh liệt và sâu xa, sẽ khơi dậy một loại cảm xúc mới khi người ta chu toàn sứ mạng đời sống hôn nhân của mình. Vì “cảm xúc được khơi lên bởi một người khác như một nhân vị […] tự nó không hướng đến hành vi vợ chồng”.[33] Nó tìm thấy những diễn tả khả giác khác, vì tình yêu “là một thực tại đuy nhất, nhưng với những chiều kích khác nhau; lúc này hay lúc khác, chiều kích này hay chiều kích kia có thể hiện lộ rõ ràng hơn”.[34] Mối dây hôn nhân tìm thấy những hình thức diễn tả mới và không ngừng tìm kiếm những cách thức mới để thực hiện. Nhưng nó không chỉ được gìn giữ mà còn được làm tăng trưởng. Đó là một hành trình xây dựng ngày này qua ngày khác. Tuy nhiên, chúng ta sẽ không thể làm được điều nào cả, nếu không khẩn cầu cùng Chúa Thánh Thần, nếu không kêu van mỗi ngày để xin Ngài đổ tràn ân sủng của Ngài, nếu không tìm kiếm sức mạnh siêu nhiên, nếu không than van xin Ngài đổ tràn ngọn lửa thiêng liêng của Ngài trên tình yêu của chúng ta để củng cố, hướng dẫn và biến đổi tình yêu của chúng ta trong mỗi hòan cảnh mới.

 [1] DCE, 3: AAS 98 (2006), 219-220.

[2] DCE, 4 : AAS 98 (2006), 220.

[3] Cf. ST I-II, q. 32, a. 7.

[4] Cf. ST, II-II, q. 153, a. 2, ad 2: «Abundantia delectationis quae est in actu venereo secundum rationem ordinato, non contrariatur medio virtutis».

[5] Gioan Phaolô II, HG (22.10.1980), 5: Insegnamenti III, 2 (1980), 951.

[6] Ibid., 3: Insegnamenti III, 2 (1980), 951.

[7] Gioan Phaolô II, HG (24.12.1980), 4: Insegnamenti III, 2 (1980), 719.

[8] Gioan Phaolô II, HG (12.11.1980), 2: Insegnamenti III, 2 (1980), 1133.

[9] Ibid., 4.

[10] Ibid., 5.

[11] Ibid., 1: 1132.

[12] Gioan Phaolô II, HG (16.01.1980), 1: Insegnamenti III, 1 (1980), 151.

[13] Josef Pieper, Über die Liebe, München 2014, 174.

[14] Gioan Phaolô II, Thđ. Evangelium Vitae (25.3.1995), 23: AAS 87 (1995), 427.

[15] HV, 13: AAS 60 (1968), 489.

[16] GS, 49.

[17] Gioan Phaolô II, HG (18.6.1980), 5: Insegnamenti III, 1 (1980), 1778.

[18] Ibid., 6.

[19] Cf. ibid. (30.7.1980), 1: Insegnamenti III, 2 (1980), 311.

[20] Ibid. (8.4.1981), 3: Insegnamenti IV, 1 (1981), 904.

[21] Ibid. (11.8.1982), 4: Insegnamenti V, 3 (1982), 205-206.

[22] DCE, 5: AAS 98 (2006), 221.

[23] Ibid., 7.

[24] RF 2015, 22.

[25] Gioan Phaolô II, HG (14.4.1982), 1: Insegnamenti V, 1 (1982), 1176.

[26] Alessandro di Hales, Glossa in quatuor libros sententiarum Petri Lombardi, IV, XXVI, 2 (Quaracchi 1957, 446).

[27] Gioan Phaolô II, HG (7.4.1982), 2: Insegnamenti V, 1 (1982), 1127.

[28] Ibid. (14.4.1982), 3: Insegnamenti V, 1 (1982), 1177.

[29] Ibid., 3.

[30] Gioan Phaolô II, Thđ. Redemptor hominis (4.3.1979), 10: AAS 71 (1979), 274.

[31] Cf. ST II-II, q. 27, a. 1.

[32] HĐTT VỀ Gia Đình,  Famiglia, matrimonio e “unioni di fatto” (26.7.2000), 40.

[33] Gioan Phaolô II, HG (31.10.1984), 6: Insegnamenti VII, 2 (1984), 1072.

[34] DCE, 8: AAS 98 (2006), 224.

Tác giả: Đức Giáo hoàng Phanxicô

Bản dịch của Văn phòng Hội đồng Giám mục Việt Nam