16/05/2023
365
Suy niệm Lễ Chúa Nhật VII Phục Sinh _Nhiều tác giả
















 

Các Bài Suy Niệm 
 

Chúa Nhật VII Phục Sinh
Cv 1,1-11; Ep 1,17-23; Mt 28,16-20

 

1. Bàn giao nhiệm vụ – ViKiNi

2. Lòng hướng về trời cao – Huệ Minh.

3. Niềm an ủi

4. Quê trời

5. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành.

6. Được sai đi

7. Ngày Chúa trở lại

8. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

9. Xây dựng Nước Trời

10. Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy

11. Một khởi đầu mới

12. Hộ chiếu Nước Trời – Thiên Phúc.

13. Lễ Chúa Thăng Thiên.

14. Bài chia sẻ của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.

15. Về Trời – Lm. Giuse Trần Việt Hùng.

16. Hành trình về Trời.

17. Lần gặp gỡ cuối cùng.

18. Thầy ở cùng anh em.

19. Biệt ly hay hội ngộ? – An Phong.

20. Quê hương chúng ta ở trên trời – An Phong.

21. Suy niệm của Lm. Dom. Trần Quang Hiền SDB.

22. Khai mở trang sử mới của Giáo hội

23. Thầy ở cùng anh em mọi ngày.

24. Chúa trong cuộc sống.

25. Ái mộ những sự trên trời

26. Ý nghĩa Thăng Thiên.

27. Người “Giời” – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền.

28. Sứ mệnh.

29. Ước mơ về trời – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền.

30. Lễ Thăng Thiên – Damiano.

31. Suy niệm của Lm Phêrô Trần Đình.

32. Hãy đi, vì có Thầy ở cùng!

33. Hãy đi loan báo Tin Mừng.

34. Bài giảng của Đức Cha Giuse Nguyễn Năng.

35. Đất trời giao duyên.

36. Cùng đích cuộc đời chúng ta là Nước Trời

37. Bài giảng của ĐGM. Giuse Vũ Văn Thiên.

38. Lên Trời: Ước mơ cao đẹp.

39. Ta ở với các ngươi mãi mãi

40. Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ.

41. Lệnh lên đường.

42. Ái mộ những sự trên trời

43. Khát vọng lên trời!

44. Nơi chân trời và mặt đất giao nhau.

45. Lời Chúa – R. Veritas.

46. Cùng loan Tin Mừng với Chúa Giêsu.

47. Niềm hy vọng Nước Trời

48. Bí tích rửa tội bằng chứng tình yêu.

49. Chúa Giêsu lên trời

50. Khát vọng lên trời cao.

51. Tái ngộ.

52. Lên trời

53. Lễ Thăng Thiên.

54. Lễ Thăng Thiên.

55. Chờ đợi

56. Chờ đợi

57. Quê hương.

58. Thực hiện sứ mạng.

59. Thiên đàng.

60. Suy niệm của JKN.

61. Suy niệm của Huy Châu.

62. Lên trời: ước mơ cao đẹp – Lm. Bùi Quang Tuấn.

63. Sứ mạng truyền giáo.

64. Chứng nhân.

65. Đời thường.

66. Chứng nhân Nước Trời

67. Hộ chiếu.

68. Hãy làm trở thành môn đệ.

69. Sứ mạng phổ quát – Lm PX. Vũ Phan Long, OFM.

70. Chú giải của Noel Quession.

71. Chú giải của Fiches Dominicales.

72. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt

73. Bài chia sẻ của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II

74. Sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội

75. Làm chứng cho Chúa hôm nay.

76. Sứ mạng rao giảng Tin Mừng.

77. Quê hương đích thực.

78. Ra đi trong lời hứa – G. Nguyễn Cao Luật

79. Hành trình về Trời.

 

 

 

 

 

1. Bàn giao nhiệm vụ – ViKiNi

(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)

 

1. Theo khoa khảo cổ, năm 370, một nhà thờ đã được xây trên sườn núi Ô liu, nơi Chúa Giêsu lên trời, bên trong đền thờ có một tảng đá in dấu chân, người ta tin đó là dấu chân Chúa Giêsu khi lên trời.

Quân Hồi đã phá đổ tường hình bát giác xây chung quanh đền thờ đó. Năm 1100 nghĩa binh Thánh giá đã xây lại tường thành. Năm 1200 quân Hồi chiếm lại, biến thành đền thờ Hồi giáo cho đến ngày nay, nhưng vẫn cho tín hữu Kitô giáo đến kính viếng. Đó là di tích Chúa Giêsu lên trời còn lại trên mặt đất.

Một di tích khác có giá trị lịch sử chắc chắn hơn về biến cố Chúa lên trời được ghi lại trong 3 sách Tin mừng Matthêu, Marcô, Luca và nhất là sách Công vụ Tông đồ và thơ Thánh Phaolô. Ba sách Tin mừng đều nói: Chúa Giêsu lên trời trước sự có mặt của mười một tông đồ. Sách Công vụ nói: “Người lên trời trước mặt các ông”, chứ không nói rõ 11 tông đồ. Sau đó các ông về nhà ở Giêrusalem: “Tất cả đều đồng tâm nhất trí chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy phụ nữ, Đức Maria, mẹ Chúa Giêsu, với anh em Người”. Trong những ngày ấy, Phêrô đứng lên giữa các anh em khoảng 120 người, để chọn một người làm tông đồ thay thế Giuđa. Số 120 người này chắc chắn có mặt lúc Chúa lên trời.

Sau này Phaolô nói với Giáo đoàn Côrintô rằng: “Người đã hiện ra với ông Phêrô, rồi với nhóm mười hai, sau đó Người hiện ra với hơn 500 anh em một lượt, trong số ấy phần đông nay còn sống, nhưng một số đã an nghỉ” (I Cor. 15,5-6).

Vậy khi Chúa lên trời có rất đông người chứng kiến, đó là lúc: “Người đã hiện ra với hơn 500 anh em một lượt”.

Biến cố Chúa Giêsu lên trời, đáng lẽ ra phải là một ngày đại lễ, một cuộc rước khải hoàn vĩ đại nhất, vui mừng nhất, long trọng nhất, như lễ Quốc khánh của trời đất, cho nên Đáp ca trong Thánh lễ đã hô hào: “Hỡi muôn dân, hãy vỗ tay, hãy reo mừng Thượng đế, Thượng đế ngự lên giữa tiếng tưng bừng, trong tiếng kêu vang, hãy ca mừng, ca mừng vua ta” (Tv. 46).

2. Nhưng việc Chúa Giêsu lên trời, sách Tin mừng chỉ tường thuật rất đơn giản âm thầm, như một cuộc bàn giao nhiệm vụ. Trên trời thì: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất” dưới đất thì Thầy đã trao cho anh em: “Anh em hãy đi đến với muôn dân, làm phép rửa cho họ, nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em, để muôn dân trở nên môn đệ của Thầy”. Đây là một cuộc bàn giao nhiệm vụ vô cùng trọng đại và nặng nề. Để các ông được an tâm tin tưởng và mạnh mẽ thi hành trọng trách này. Đức Giêsu đã quả quyết với các ông: “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.

Như vậy, anh em không phải đăm đăm nhìn trời mong chờ Thầy nữa, vì Thầy không lìa xa anh em mà là ở cùng anh em, không ở cùng anh em bằng thân xác 3 năm hay 30 năm như trước đây mà ở cùng anh em bằng tinh thần Thiên Chúa. Thầy lên trời như vậy là để anh em được sống hiệp thông, hiệp nhất với Thầy ở khắp mọi nơi, trong tinh thần và chân lý, trong tình yêu và quyền năng Thiên Chúa. Nhờ thế anh em đến được với muôn dân thực hiện nhiệm vụ làm cho họ trở nên môn đệ của Thầy, như Thầy đã làm cho anh em vậy. Đó là con đường phép rửa, đó là con đường lên trời.

3. Đức Giêsu đã mở con đường phép rửa này khi đến sông Giođan và cùng với Gioan kêu gọi toàn dân chịu phép rửa hối cải. Đó là bước đầu của con đường lên trời.

Bước thứ hai là: “Ngài sẽ thanh tẩy các ngươi trong Thánh thần” (Mt. 3,11). Thánh thần đã lấy hình chim bồ câu đậu trên đầu Đức Giêsu để chứng tỏ cho mọi người thấy: “Này là con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng” (Mt. 3,17-17). “Chính nhờ Thánh thần của Đức Kitô mà anh em được gọi Thiên Chúa là Cha” (Rm. 8,15-16).

Ta muốn chứng tỏ làm con yêu dấu của Thiên Chúa thì hãy nghe lời Người: “Ai yêu mến Ta thì hãy giữ lời Ta, Cha Ta sẽ yêu mến kẻ ấy”. Cho nên Thầy đã bảo anh em: “Dạy cho họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em”. Khi họ đã yêu mến giữ lời Thầy truyền, họ xứng đáng được rửa “Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Đây là bước tột đỉnh lên trời, vì họ đã thực sự sống trong gia đình Thiên Chúa, là con Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Họ đã được thanh tẩy mọi tì ố để trở nên giống hình ảnh của Thiên Chúa và được “Thầy ở cùng họ mọi ngày cho đến tận thế”. Đó chính là lên trời, là Thiên đàng thực sự vì họ được Thiên Chúa ở cùng mãi mãi.

“Lạy Cha, ngày Đức Giêsu, Con Cha yêu dấu, lên trời đã mở cho chúng con thấy con đường lên trời. Xin Cha ở cùng chúng con luôn mãi để chúng con cùng với muôn dân được sức mạnh của Con Cha thúc đẩy, cùng nhau hăng hái tiến bước lên trời vinh quang của Cha. Amen”.

 

 

 

 

 

2. Lòng hướng về trời cao – Huệ Minh

 

Ngày hôm nay, Giáo hội mừng lễ Chúa Giêsu lên trời. Chúa Giêsu trở về nhà Cha sau khi Ngài đã hoàn tất sứ vụ Chúa Cha trao phó. Sau thời gian 33 năm xa nhà, Chúa Giêsu hồi hương trong vinh quang phục sinh và được đưa về trời ngự bên hữu Thiên Chúa.

Chúa về trời vì chính Người đã từ trời xuống thế: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng đã từ trời xuống” (Ga 3,13). Người đến nhân gian để nói với nhân loại về Nước Trời, mặc khải cho con người biết Thiên Chúa. Người giúp họ thay đổi quan niệm về Thiên Chúa cũng như quan niệm về con người.

Trang Tin Mừng hôm nay tường thuật lại việc Chúa Giêsu lên trời, đây là một minh chứng cho thấy rằng có thiên đàng, có sự sống đời sau. Nhưng lên trời không phải là một di chuyển từ nơi chốn này đến nơi chốn khác. Trời ở đây không phải là nơi chốn có thể đụng chạm, sờ mó được nhưng sâu xa hơn đó là một trạng thái. Chúa Giêsu lên trời có nghĩa là Ngài về cùng với Thiên Chúa Cha và Chúa Thánh Thần là nơi Ngài đã xuất phát. Trời ở đây có nghĩa là sống trong tình yêu tròn đầy của Thiên Chúa Ba Ngôi. Vì thế, việc Chúa Giêsu lên trời không phải giã từ thế giới đi vào cõi xa vắng mịt mù, nhưng Ngài đi về thế giới của Thiên Chúa Ba Ngôi, sống với Thiên Chúa Ba Ngôi.

Trước khi Chúa Giêsu lên trời Ngài đã nhắn nhủ các môn đệ rằng “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thụ tạo”. Đây là lệnh truyền của Chúa Giêsu và trở thành căn tính của mỗi người kitô hữu chúng ta, đó là làm chứng nhân tin mừng phục sinh, niềm vui của Chúa Giêsu cho tất cả mọi người không phân biệt màu da, sắc tộc, tôn giáo. Mỗi người chúng ta có trách nhiệm mang Đức Kitô đến với thế giới hôm nay đang sống trong đau khổ, chiến tranh, bất an, tội lỗi…. để xoa dịu hết tất cả những vết thương của họ.

Chúa Giêsu lên trời không có nghĩa là Ngài không còn hiện diện với chúng ta nữa, trái lại Ngài sẽ ở lại cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Để có thể lên trời như Chúa Giêsu mỗi người chúng ta cần phải hoàn thành hành trình dưới thế của mình như chính Ngài. Dù phải sống ở trần thế này với muôn ngàn thánh giá, thử thách, khó khăn… nhưng chúng ta không quên mục đích tối hậu của chúng ta đó là về quê trời, nơi ấy chúng ta sẽ sống trong tình yêu viên mãn của Chúa Ba Ngôi. Nếu như cuộc đời của người kitô hữu chúng ta thiếu đi cùng đích của đời mình là hướng về sự sống đời sau thì chắc chắn những nỗ lực, cố gắng của chúng ta sẽ trở nên vô nghĩa. Chúa Thăng Thiên cũng cố đức tin của mỗi người chúng ta vào niềm hy vọng tràn trề trong đó mỗi người chúng ta sẽ nếm cảm hạnh phúc thiên đàng sau này.

Chúa về trời, một cuộc tạm biệt chứ không ly biệt. Chia tay để rồi sẽ gặp lại nhau trong một tương quan mới. Chúa về trời gợi lên trong tâm hồn chúng ta một khát vọng quy hướng về Người để rồi đối với chúng ta không còn hạnh phúc nào lớn hơn là được ở trong Người, đón nhận sự sống sung mãn Người ban tặng. Nhận thức được niềm hạnh phúc ấy, đời sống cầu nguyện của chúng ta sẽ có một sự thú vị ngọt ngào. Nơi thiên cung, mọi đau khổ, bệnh tật, chiến tranh, khủng bố không còn nữa. Ở đó chỉ có thanh bình, công bằng, và hạnh phúc viên mãn, nhân phẩm và nhân vị con người hoàn toàn được phục hồi trong ánh sáng phục sinh của Chúa Kitô.

Chúa về trời mở ra sứ vụ mới cho các Tông đồ. Đó là khai trương công cuộc truyền giáo toàn cầu với lệnh truyền của Chúa: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thọ tạo”. Nội dung của việc truyền giáo được chỉ định rõ ràng: “Làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Thầy. Làm phép rửa cho họ. Dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy truyền cho anh em”. Bảo chứng cho sứ vụ truyền giáo là: “Có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng”. Nhờ việc sai đi và uỷ quyền cho các Tông đồ, qua các Tông đồ rồi đến các môn đệ, Chúa Giêsu trở thành người sống đương thời với chúng ta “và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.

Chúa Giêsu trao cho Giáo Hội sứ mạng tiếp nối sự hiện diện của Người, Người cũng đòi chúng ta phải có một sự chọn lựa dứt khoá như Người. Chính vì thế, rất có thể đã xảy ra là tại một nơi nào đó, có sự hiện diện của người Kitô hữu, của Giáo Hội, nhưng lại không có sự hiện diện đích thực của Đức Kitô. Sở dĩ như vậy là vì sự chọn lựa của chúng ta đã đi ngược lại với sự chọn lựa của Chúa Giêsu. Chẳng hạn như khi chúng ta có những hành động bất công, bóc lột kẻ khác, thì chính bản thân chúng ta đã bôi nhọ và xoá bỏ sự hiện diện của Đức Kitô.

Người Kitô hữu chân đạp đất nhưng lòng vẫn hướng về trời cao. Niềm hy vọng đó giải thoát ta khỏi nô lệ vào mặt đất nhờ đã biết rõ vật chất chỉ là phương tiện sẽ mau chóng qua đi. Niềm hy vọng đó nâng cuộc sống con người lên vì từ nay ta hiểu rằng định mệnh loài người không phải như loài súc vật, nhưng ngang hàng với thần linh. Niềm hy vọng đó đó làm cho cuộc sống của ta có ý nghĩa, vì Chúa tạo dựng nên con người không phải để con người tàn lụi đi theo quy luật của vật chất mà để con người phát triển, tồn tại đến vô biên, không phải bị kết án vào những đau khổ vất vả trần gian, nhưng đã được tiền định hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trên thiên đàng. Niềm hy vọng đó cho ta thêm động lực phục vụ tha nhân tận tâm hơn vì đó chính là sứ mang Chúa trao phó. Niềm hy vọng đó khuyến khích ta tích cực xây dựng xã hội tốt đẹp hơn, vì đó chính là điều kiện cho ta được vào Nước Trời.

Chúa Giêsu lên trời, ngự bên hữu Chúa Cha. Chính Chúa Cha đã sai Ngài đến trần gian. Ngài đã tiến nhận cái chết một cách bi thương và đã được quyền năng Chúa Cha làm cho sống lại. Cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu là bằng chứng chắc chắn về ơn cứu độ và sự tha thứ tội lỗi (Dt 10,22-24). Đây là căn nguyên niềm vui nơi các môn đệ cũng như nơi chúng ta.

Mừng lễ Chúa lên trời, chúng ta không phải chỉ biết ngước mắt nhìn lên cao, mà điều quan trọng đó chính là chu toàn sứ mạng rao giảng Tin Mừng cứu độ cho muôn dân. Rao giảng không chỉ bằng lời nói, mà bằng cả việc làm và đời sống, nhất là bằng sự dấn thân, để thực hiện một sự lựa chọn rõ rệt. Con Thiên Chúa khi làm người và ở giữa chúng ta, đã thể hiện một sự lựa chọn rõ rệt, Ngài không hiện diện một cách chung chung, và vô thưởng vô phạt, nhưng đã hiện diện như một Tin Mừng cứu độ cho nhiều người, đồng thời như một hòn đá vấp ngã đối với một số người khác.

Mừng Lễ Chúa Thăng Thiên hôm nay, Chúa muốn nhắn gởi cho chúng ta một sứ điệp nữa đó là hãy xây dựng thiên đàng tại trần thế này, khi tất cả chúng ta đều xem nhau như là anh em cùng một Cha trên trời. Khi mỗi người chúng ta biết sống từ bỏ, hy sinh và phục vụ nhau.

 

 

 

 

 

3. Niềm an ủi

 

Biến cố Chúa về trời đem lại cho chúng ta niềm an ủi nào?

Niềm an ủi thứ nhất đó là sự hy vọng vào cuộc sống vinh quang. Thực vậy, nếu để ý chúng ta sẽ thấy rằng: Núi cây Dầu là nơi đã tiếp nhận những giây phút đau khổ cũng như vinh quang của Ngài. Ngọn núi ấy còn in những vết máu trong cơn hấp hối vào đêm thứ năm Tuần Thánh. Ngọn núi ấy đã nghe thấy tiếng van xin tha thiết của Ngài, đã chứng kiến hành động phản Chúa của Giuđa. Nhưng ở đâu có đau khổ Ngài sẽ biến nó thành vinh quang. Chính vì thế mà Núi cây Dầu đã được chọn làm nơi giã biệt và về trời vinh hiển của Ngài. Đó là một niềm an ủi vì chúng ta sẽ tìm thấy vinh quang ở chính những đau khổ phải chịu cũng như chúng ta chỉ ngắt được những bông hồng thắm trên những gai nhọn của nó, hay như lời Đức Kitô đã phán: Ngài sẽ phải chịu nhiều đau khổ trước khi được bước vào chốn vinh quang. Chúng ta cũng vậy, sau một cuộc sống đầy chông gai thử thách, chúng ta sẽ được trở v62 trời với Chúa trong niềm hạnh phúc bất diệt.

Niềm an ủi thứ hai đó là Chúa Giêsu về trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha để cầu bầu cho chúng ta. Chắc hẳn Ngài sẽ trình bày mọi nhu cầu, mọi ước vọng và mọi sự trợ giúp chúng ta cần đến như lời thánh Phaolô đã viết: Chúa Giêsu đã chết, đã sống lại và ngự bên hữu Đức Chúa Cha, Ngài chuyển cầu cho chúng ta luôn mãi. Và thánh Gioan cũng nói: Nếu chúng ta trót phạm tội, thì hãy vững tâm vì chúng ta có được một vị trạng sư thần thế trước toà án tối cao đó là Chúa Giêsu Kitô. Vì thế, bao giờ chúng ta cũng kết thúc lời nguyện bằng câu: Nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.

Sau cùng niềm an ủi thứ ba đó là Chúa Giêsu về trời để dọn cho chúng ta. Điều ấy muốn nói lên rằng quê hương chúng ta không phải là mặt đất này nhưng là ở chốn trời cao. Nhìn vào thực tế chúng ta phải thú nhận rằng: chúng ta đã bén rễ quá sâu vào cuộc sống trần gian, chúng ta đã quá quyến luyến và đã có quá nhiều ràng buộc vào những thực tại chóng qua. Chúng ta đã chọn trái đất này làm quê hương vĩnh cửu. Chúng ta sẵn sàng bán cả linh hồn cho một nắm bụi đất. Dân Do Thái trong sa mạc đã quỳ gối thờ lạy bò vàng thế nào thì con người hôm nay cũng đang đi vào con đường ấy, họ đã tôn thờ những thần tượng chóng qua thay cho Thiên Chúa, như lời phát biểu châm biếm sau đây: Tôn giáo lớn nhất trên hoàn cầu hiện giờ là tôn giáo bóng đá.

Bởi đó ngày hôm nay, sau khi đã hoàn tất sứ mạng ở trần gian, Chúa Giêsu đã về trời để nói với chúng ta rằng: cuộc sống trần gian chỉ là như một chiếc thang dẫn các con tới quê trời. Khốn cho các con nếu các con quên đi điều đó. Khốn cho các con nếu các con ra sức biến đổi trái đất trở thành một thiên đàng vĩnh cửu. Khốn cho các con nếu các con không biết dùng cuộc sống này để chuẩn bị cho mình những hành trang cần thiết cho tương lai mai hậu.

 

 

 

 

 

4. Quê trời

 

Dựa vào đâu chúng ta xác quyết được rằng: Còn có một cuộc đời khác, còn một thế giới khác, còn một quê hương khác là Nước Trời?

Chúng ta không chụp được hình, chúng ta không bắt được làn sóng của thế giới ấy, không một ai đã nhìn thấy, không một ai đã có kinh nghiệm. Nhưng sở dĩ chúng ta tin là bởi vì Thiên Chúa đã mạc khải, đã tỏ lộ cho chúng ta. Thực vậy, chúng ta không thể biết nếu Đức Kitô đã không nói đến Nước Trời bằng những từ ngữ khác nhau. Chúng ta không thể biết nếu thánh Phaolô đã không viết: mắt không thể nhìn, tai không thể nghe và trái tim chưa một lần cảm nghiệm được những gì mà Thiên Chúa đã chuẩn bị cho những kẻ yêu mến Ngài. Chúng ta không thể biết nếu thánh Gioan đã không mô tả: Ở đó sẽ không còn thời gian và không gian, buổi sáng và buổi chiều, đói khát và cơm áo, tội lỗi và sự chết. Ở đó chỉ còn Thiên Chúa và vương quốc của Ngài, ở đó Con Chiên sẽ dẫn chúng ta đến nguồn suối mát. Chúng ta không thể biết, nếu hôm nay Đức Kitô đã không về trời để củng cố niềm tin của mọi tín hữu suốt dòng thời gian, giúp họ hăng say công bố Tin Mừng, chịu đựng mọi thử thách, chấp nhận mọi đau khổ.

Thế giới của kẻ chết sẽ lớn gấp ngàn vạn lần thế giới chúng ta đang sống. Vậy thế giới đó ở đâu? Có phải là ở ngoài các vì sao? Có phải là ở giữa không trung bao la? Có phải là ở dưới lòng đại dương sâu thẳm? Không, tất cả đều không đúng. Vậy thế giới ấy ở đâu? Tôi xin thưa thế giới ấy ở bất kỳ nơi nào có Thiên Chúa, ở bất kỳ nơi nào chúng ta được nhìn thấy và chiêm ngắm Ngài, thì đó là Nước Trời, thì đó là hạnh phúc vĩnh cửu. Còn trái lại, ở bất kỳ nơi nào không có Thiên Chúa, ở bất kỳ nơi nào chúng ta không được nhìn thấy và chiêm ngắm Ngài, thì đó là hoả ngục, là chốn đoạ đày.

Ngày kia thánh Tôma nói với các tông đồ: Nào chúng ta cùng đi để được chết với Ngài. Thì bây giờ chúng ta cũng có thể đối lại câu nói ấy: Nào chúng ta cùng đi để được sống với Ngài. Chúng ta sẽ sống với Ngài trong cuộc sống vĩnh cửu. Niềm tin ấy đã thiêu đốt biết bao nhiêu con tim suốt 20 thế kỷ. Phải, chúng ta cần đến khoa học kỹ thuật, nhưng chúng ta luôn nhớ rằng: khoa học kỹ thuật không giúp chúng ta tránh khỏi cái chết. Và sau cái chết sẽ còn lại một cuộc sống khác, trải dài đến muôn ngàn đời. Nếu có ai hỏi tôi rằng: điều đó có chắc chắn như ngày mai sẽ là ngày thứ hai hay không? Tôi sẽ trả lời: Còn hơn thế nữa. Nếu có ai hỏi tôi rằng: điều đó có chắc như mặt trời mọc vào ban sáng và sẽ lặn vào ban chiều không? Tôi sẽ trả lời: Còn hơn thế nữa. Nếu có ai hỏi tôi rằng: Điều đó có chắc như mùa xuân sẽ trở lại khi mùa đông qua đi hay không? Tôi sẽ trả lời: Còn hơn thế nữa. Phải, còn hơn thế nữa, vì có thể có một ngày Chúa nhật mà sau đó không còn ngày thứ hai. Có thể có mặt trời mọc vào ban sáng mà không còn buổi chiều để lặn. Có thể có một mùa đông mà sau đó, mùa xuân sẽ không bao giờ trở lại. Nhưng sẽ không bao giờ, phải, không bao giờ xảy ra rằng lời Chúa sẽ chẳng được thực hiện: Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta sẽ không phải chết nhưng sẽ được sống đời đời. Vì ý của Cha Ta là hễ ai tin vào Con Ngài thì sẽ có sự sống đời đời và Ta, Ta sẽ cho họ sống lại ngày sau hết. Hãy tin Chúa bằng cách bước theo Ngài, bằng cách thực thi những điều Ngài truyền dạy, để nhớ đó chúng ta sẽ được sống đời đời, sẽ được về trời trong niềm hạnh phúc bất diệt với Chúa.

 

 

 

 

 

5. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành

 

Biến cố Đức Giêsu lên trời là một biến cố lịch sử. Vì biến cố này đã diễn ra trong một thời gian và không gian nhất định, có sự chứng kiến của nhiều người và đã được sách Cộng Vụ Tông Đồ và các sách Tin mừng ghi lại. Bài đọc I cho chúng ta biết, sau thời gian thi hành nhiệm vụ ở thế gian, Ngài chịu nạn chịu chết, sống lại và hiện ra với nhiều người.

Hôm nay, trước mặt các Tông đồ, Ngài được cất nhắc lên trời (x. Cv 1,1-11). Cũng trong khung cảnh đó, bài Tin mừng cho chúng ta biết, theo lời hẹn trước, Mười một Tông đồ đã đến Galilê gặp Đức Giêsu. Trước khi lên trời, Ngài trao cho các ông sứ mạng loan báo Tin mừng (x. Mt 28,18-20).

Qua biến cố trên và qua những lời nhắn nhủ của Đức Giêsu, chúng ta thử hỏi: Biến cố Đức Giêsu lên trời nói gì với mọi người chúng ta hôm nay?

1. Biến cố Đức Giêsu lên trời khẳng định cho chúng ta rằng: Có Thiên Đàng.

Có đời sau, có Thiên đàng là niềm tin căn bản của người Kitô chúng ta. Niềm tin này luôn được củng cố bởi Kinh Thánh.

Chính Đức Giêsu đã khẳng định: Ngài bởi thượng giới (x. Ga 8,23), Ngài tự trời mà xuống (x. Ga 6, 38). Ngài nói với Matha rằng: “Ta là sự sống và là sự sống lại. Ai tin vào Ta thì dù đã chết, cũng sẽ được sống” (Ga 11,25). Ngài nói với kẻ trộm lành rằng: “Tôi bảo thật anh: Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23,43); Ngài nói với các Tông đồ: “Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14,2-3). Ngài khuyên nhủ mọi người rằng: “Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, và kẻ trộm khoét vách lấy đi. Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, và kẻ trộm không đào ngạch và lấy đi được” (Mt 6, 19-20); “Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao” (Mt 5,12).

Đức Giêsu còn kể nhiều dụ ngôn chứng minh cho chúng ta về sự hiện diện của Thiên đàng: Trong dụ ngôn ông nhà giàu và anh La-da-rô nghèo khó cho chúng ta biết: ông La-da-rô chết và được thiên thần đem vào lòng ông Abraham (x. Lc 16,18–31). Trong dụ ngôn những nén bạc: người đầy tớ tài giỏi và trung thành được vào hưởng niềm vui của chủ anh (Mt 25,21). Trong bài Tin mừng nói về ngày phán xét chung (x. Mt 25,41-45) cũng cho chúng ta biết về phần thưởng của kẻ lành là được “thừa hưởng Vương Quốc đã dọn sẵn từ thuở tạo thiên lập địa” …

Trong bài đọc II hôm nay, thánh Phaolô cho chúng ta biết: Đức Kitô đã sống lại, lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha và được làm chúa muôn loài muôn vật: “Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Kitô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội thánh, mà Hội thánh là thân thể Đức Kitô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn” (Ep 1,22-23). Ngài còn nói: “Nếu ngôi nhà của chúng ta ở dưới đất là chiếc lều này bị phá hủy đi, thì chúng ta có một nơi ở do Thiên Chúa dựng lên, một ngôi nhà vĩnh cửu ở trên trời, không do tay người thế làm ra” (2 Cr 5,1).

Tóm lại, tin vào sự sống lại, tin vào Thiên đàng là đức tin căn bản mà chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại, tôi tin hằng sống vậy.” Và, biến cố Đức Giêsu lên trời một lẫn nữa củng cố đức tin của chúng ta.

2. Biến cố Đức Giêsu lên trời giúp chúng ta sống niềm hy vọng sẽ được lên Thiên Đàng

Thiên Chúa giàu lòng thương xót muốn cho hết thảy mọi người được lên Thiên đàng. Bởi vì “Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ” (Ga 3,17). Nhưng, Thiên Chúa vẫn tôn trọng tự do của con người. Vì vậy, để được lên Thiên đàng, xin được nêu lên một số cách thế mà Đức Giêsu mời gọi chúng ta thực hiện sau đây: Đó là những kẻ tin và lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy trong Chúa Thánh Thần. Đức Giêsu đã trả lời với ông Nicôđêmô rằng: “Tôi bảo thật ông: không ai có thể thấy Nước Thiên Chúa, nếu không được sinh lại bởi ơn trên” (Ga 3,3); Đó là những người đi theo con đường thơ ấu thiêng liêng của Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu. Nghĩa là họ trở nên như trẻ nhỏ, vì nước trời là của những ai giống như chúng (x. Mt 19,14); Đó là những ai thực hiện tám mối phúc thật (x. Mt 5,1-12), chẳng hạn như: Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ; Đó là những người tình nguyện sống khiết tịnh vì Nước Trời như các linh muc, tu sĩ (x. Mt 19,12) và những người từ bỏ mọi sự trần gian vì danh Chúa (x. Mt 19, 27-29); Đó là những người tội lỗi biết ăn năn hối cải trở về với Chúa (x. Mt 21,31-32), như người trộm lành (x. Lc 23,39-43), như Augustinô, như Maria Madalêna…; Đó là những người biết làm việc từ thiện, bác ái (x. Mt 6, 20; Mt 25,31-46); Đó còn là những người biết dọn mình xứng đáng để ăn uống Mình và Máu Thánh Chúa, vì “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời”(Ga 6,54)…

Tóm lại, ai cũng có thể được lên Thiên đàng. Nhưng để được lên Thiên đàng cần thực hiện những điều Đức Giêsu chỉ cho như vừa nêu trên, và duy trì tình trạng đó, đặc biệt trong giờ kết thúc cuộc đời này. Sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo nói rất rõ rằng: “Những ai chết trong ân sủng và tình bằng hữu của Thiên Chúa và được thanh tẩy hoàn toàn sẽ sống đời đời với Chúa Kitô. Họ đời đời giống Thiên Chúa, vì họ ‘nhìn thấy Ngài’ mặt đối mặt” (Số 1023); “Những ai chết trong ân sủng và tình bằng hữu của Thiên Chúa và được thanh tẩy không trọn vẹn, dù không được chắc chắn sự cứu rỗi đời đời, phải trải qua sự thanh tẩy sau khi chết, cũng sẽ đạt được sự thánh khiết cần thiết để bước vào sự vui thoả của Thiên Chúa” (Số 1054).

3. Biến cố Đức Giêsu lên trời mời gọi chúng ta thực thi bổn phận loan báo Tin mừng.

Mẹ Têrêxa Calcutta kể lại rằng: Trong những ngày đầu khi mới khởi sự làm việc cho những người cùng khổ nhất trong vùng ngoại ô, tôi bị sốt liệt giường. Trong cơn mê sảng, tôi bỗng thấy mình được đến trình diện trước mặt thánh Phêrô, người giữ cửa Thiên Ðàng. Nhưng Thánh Phêrô chận lại không cho tôi vào Thiên Ðàng. Ngài nói như sau: “Không thể để cho một người thuộc khu ổ chuột được vào Thiên Ðàng. Thiên Ðàng không có nơi cho người cùng khổ.”

Tôi mới tức giận nói với Ngài như sau: “Thế ư? Vậy thì con sẽ làm mọi cách để làm cho Thiên Ðàng đầy dẫy dân cư của các khu ổ chuột và lúc đó, Ngài bị bắt buộc sẽ để cho con vào Thiên Ðàng.”

Sau giấc mơ ấy, biết bao nhiêu người cùng khổ, cô đơn đã được chăm sóc và chết êm ái trong vòng tay yêu thương của Mẹ Têrêxa Calcutta và các nữ tu của Mẹ. Thế rồi, cùng đi với Mẹ Têrêxa lên Thiên Đàng là một đội quân đông đảo, họ là những người cùng khổ, cô đơn, những người bị bỏ rơi bên lề xã hội. Thật đúng như ai đó đã nói: “Không ai lên thiên đàng một mình.” Đó là bài học cho tất cả mọi người chúng ta hôm nay. Để lên Thiên đàng, không phải chỉ lo cho chính mình mà còn phải giúp cho người khác nữa, bằng việc chu toàn bổn phận truyền giáo. Bổn phận đó đã được Đức Giêsu đề cập đến trong đoạn Tin mừng hôm nay: “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần.” (Mt 28,19).

Nhưng phải loan báo Tin mừng như thế nào? Chúng ta có thể loan báo Tin mừng bằng việc rao giảng, rao giảng lúc thuận tiện cũng như không thuận tiện (x. 2Tm 4,2), để có thể nói được như Thánh Phaolô: “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin mừng” (1Cr 9,16). Chúng ta có thể loan báo Tin mừng bằng việc cầu nguyện, hy sinh như thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã làm. Đặc biệt, chúng ta có thể loan báo Tin mừng bằng một đời sống thấm nhuần Giáo huấn của Đức Giêsu trong gia đình, trong giáo xứ và ngoài xã hội. Đối với gia đình: vợ chồng luôn sống đúng với những lời cam kết trong Bí tích Hôn Phối bằng cách biết yêu thương chung thủy, giúp đỡ nhau phần hồn phần xác; cha mẹ biết tôn trọng sự sống, sinh sản và giáo dục con cái theo đức tin Công giáo; con cái kính trọng, vâng lời, giúp đỡ cha mẹ, ông bà. Tất cả mọi thành viên trong gia đình biết siêng năng cầu nguyện, lãnh nhận các Bí tích. Đối với giáo xứ: các thành viên luôn biết chu toàn những bổn phận mà Giáo xứ đề ra như tham gia các sinh hoạt chung của giáo xứ, đóng góp công của xây dựng giáo xứ, sống tình liên đới với mọi người xung quanh. Đối với xã hội: hãy luôn ý thức sống tinh thần truyền giáo nơi mỗi môi trường sống của mình bằng đời sống công bằng, bác ái, yêu thương.

Ước mong rằng, nhờ lời rao giảng, nhờ lời cầu nguyện và đặc biệt nhờ đời sống chứng tá của chúng ta nhiều người sẽ biết Chúa, biết tìm đến với Giáo hội để biết con đường tới Thiên đàng.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã lên trời và sẽ trở lại đón chúng con. Xin cho chúng con luôn xác tín mạnh mẽ vào sự sống đời sau, biết sống niềm hy vọng và thực hiện những điều Chúa chỉ cho để được lên Thiên đàng. Đồng thời, xin cho mỗi chúng con luôn biết chu toàn bổn phận loan báo Tin mừng. Amen.

 

 

 

 

 

6. Được sai đi

 

Sứ điệp được sai đi là một điểm nổi bật trong phần phụng vụ Lời Chúa sáng hôm nay, ngày lễ Chúa lên trời.

Trước hết là bài đọc trong sách Công Vụ Tông Đồ, kể lại những biến cố xảy ra trước, trong và sau khi Chúa Giêsu về trời. Điều đáng ghi nhận đó là lời Ngài căn dặn các môn đệ: Các con sẽ làm chứng về Thầy tại Giêrusalem, tại Giuđêa, tại Samaria và cho đến tận cùng trái đất.

Lời căn dặn này cũng là lời tuyên bố của Ngài trong bài Phúc Âm: Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho các con. Và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế.

Giáo Hội ngay từ buổi đầu đã ý thức được tầm mức quan trọng của việc lên đường rao giảng Tin Mừng. Ngay sau ngày lễ Hiện Xuống, các môn đệ đã lên đường chinh hục thế giới, đem ánh sáng Phúc Âm chiếu tỏa cho muôn dân. Và từ đó cho tới nay, trải dài hơn hai mươi thế kỷ, Giáo Hội không ngừng thực hiện lệnh truyền của Đức Kitô.

Thế nhưng, không phải lúc nào Giáo Hội cũng nhiệt thành với sứ mạng của mình. Theo các nhà nghiên cứu, thì trong mấy thập niên gần đây, đà hoạt động truyền giáo đã giảm sút một cách đột ngột. Và ngay cả sứ điệp cứu độ của Giáo Hội cũng xem ra mất đi nhiều sức thu hút và tính bén nhạy, trước những thách đố và khủng hoảng do hiện tượng tục hóa gây ra bên Tây Phương và các giáo phái lớn bên Đông Phương.

Chính vì thế mà các Đức Thánh Cha, tiếp nối công cuộc danh tân của Công Đồng Vaticanô II, đã không ngừng lên tiếng và nhấn mạnh đến sứ mệnh rao giảng Tin Mừng cho muôn dân, làm chứng cho Đức Kitô, giúp cho con người khám phá ra Giáo Hội là dấu chỉ và là dụng cụ Thiên Chúa dùng để cứu chuộc nhân loại.

Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II trong tông huấn “Người tín hữu giáo dân”, đã nêu lên vấn để phải đổi mới việc truyền bá Phúc Âm. Đổi mới ở đây có nghĩa là phải có phương pháp mới, nhiệt huyết mới và tổ chức mới. Muốn có được sự đổi mới ấy, thì cần phải thực hiện một cuộc kiểm điểm đời sống một cách nghiêm túc và khiêm tốn, từ đời sống cá nhân của mỗi thành phần dân Chúa, đến đời sống tập thể của cộng đoàn Giáo Hội, trong đó điểm nổi bật cần lưu ý, đó là đời sống bác ái yêu thương, và bênh vực công lý hòa bình của Giáo Hội. Đây cũng chính là những khía cạnh nhạy cảm đối với con người thời nay.

Còn chúng ta, chúng ta đã thực sự lên đường, đã thực sự góp phần vào công cuộc truyền bá Phúc Âm, rao giảng Tin Mừng của Giáo Hội hay chưa?

 

 

 

 

 

7. Ngày Chúa trở lại

 

Sau khi Chúa Giêsu lên trời, các môn đệ trở lại Giêrusalem, chính tại đây bổn phận và nhiệm vụ đang chờ đón các ông.

Với chúng ta cũng thế, thời gian hiện tại không phải là thời gian mơ mộng, thương tiếc vẩn vơ, nhưng là thời gian hành động. Vậy chúng ta phải làm gì trong lúc trông chờ ngày Chúa lại đến. Chúng ta sẽ tìm thấy câu trả lời trong Phúc Âm bằng những hình ảnh cụ thể.

Hình ảnh thứ nhất là hình ảnh những nén bạc. Một người giàu có trước khi trẩy đi phương xa, đã gọi các đầy tớ đến và trao phó tiền bạc của mình cho họ tuỳ theo như khả năng của họ. Sau khi chủ lên đường, người thì dùng tiền ấy đầu tư cho công chuyện làm ăn và đã sinh lời. Kẻ thì chôn giấu số tiền của mình dưới đất. Và khi chủ về đòi tính sổ, ông đã nói với những đầy tớ sinh lời rằng: Hỡi tôi tớ trung thành và khôn ngoan, hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi. Còn tên đầy tớ biếng nhác, chôn vùi tiền bạc, thì đã bị trừng phạt một cách đích đáng.

Qua hình ảnh này Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta rằng chúng ta không được phép chờ đợi ngày Ngài trở lại một cách thụ động và biếng nhác. Chúng ta cũng không được phép chọn lựa giữa hành động và chối từ. Thiên Chúa đã trao phó cho chúng ta một sứ mệnh mà chúng ta có bổn phận phải thực hiện. Ngài cần đến chúng ta. Đó là một nhu cầu, một đòi hỏi cần thiết. Nếu chúng ta không làm gì cả là chúng ta đã xỉ nhục Ngài và trong ngày sau hết Ngài sẽ không đón nhận chúng ta như là những người con của Ngài.

Hình ảnh thứ hai là hình ảnh 10 cô trinh nữ được mời đi phù dâu trong số đó 5 cô khôn ngoan đem đèn và dầu. Còn 5 cô khờ dại, đem đèn mà không có dầu. Và khi chàng rể đến, những cô đã sẵn sàng thì bước vào phòng tiệc với chàng, còn những cô khờ dại thì chạy đi mua dầu và bị chàng rể từ chối. Để kết luận Chúa Giêsu khuyên nhủ chúng ta: Hãy tỉnh thức. Điều quan trọng không phải là biết được ngày giờ Ngài trở lại, nhưng là sẵn sàng với đèn cháy sáng trong tay.

Điều này đòi buộc chúng ta phải cố gắng thực thi thánh ý Chúa, tuân giữ những điều Ngài truyền dạy. Để trở nên bạn hữu của Chúa, chúng ta phải cố gắng, chúng ta phải hành động. Thế nhưng chúng ta phải cố gắng những gì và phải hành động ra làm sao?

Yêu mến Thiên Chúa là chu toàn thánh ý Ngài trong việc lớn cũng như trong việc nhỏ. Nghĩa là sẵn sàng xin vâng ở mọi nơi và trong mọi lúc. Xin vâng là dùng mọi khả năng của mình để chu toàn điều Chúa muốn, như những người đầy tớ đã sinh lời cho chủ. Xin vâng là sống gắn bó mật thiết với Chúa qua những tâm tình cầu nguyện. Vì cầu nguyện không phải chỉ kết hiệp chúng ta lại với Thiên Chúa mà còn giúp chúng ta khám phá ra được những điều Chúa muốn nơi chúng ta. Xin vâng là sẵn sàng thực hiện những hành động bác ái giúp đỡ anh em.

Bởi vì trong ngày thẩm phán, chúng ta sẽ bị xét xử về những hành động yêu thương chúng ta đã làm hay không làm để giúp đỡ những người nghèo túng, ốm đau và bất hạnh. Thi hành được như thế là chúng ta đã góp phần xây dựng Nước Chúa, và tương lai của chúng ta sẽ được bảo đảm trong ngày Chúa trở lại.

 

 

 

 

 

8. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

 

SỰ SỐNG MỚI- HIỆN DIỆN MỚI.

Có lẽ nhiều người ngạc nhiên tự hỏi: sao trong bài Phúc Âm lễ Thăng Thiên hôm nay, chẳng thấy nói gì đến trời, đến bay lên? Thắc mắc như vậy là hợp lý. Ta vẫn quen gọi hôm nay là lễ Chúa Giêsu lên trời. Và theo quan niệm bình dân, không gian chia làm ba tầng. Tầng dưới đất là âm ty, địa ngục, dành cho người chết. Tầng mặt đất mà ta đang sống là dương gian. Và tầng trên mặt đất là trời. Chúa Giêsu đã sống trên mặt đất, khi chết Người bị chôn trong lòng đất, đi vào cõi âm ty. Sống lại, Người trở lại mặt đất. Và hôm nay Người được đưa lên trời, bay lên đám mây, ngự bên hữu Chúa Cha.

Đó chỉ là một lối diễn tả bình dân. Thực ra, trời đâu phải là một nơi chốn. Con người có thân xác, bị giới hạn trong không gian, cần một nơi chốn để cư ngụ. Thiên Chúa không bị giới hạn trong không gian thì đâu còn bên tả bên hữu gì nữa.

Vậy, tại sao ta nói Chúa Giêsu lên trời? Lên trời ở đây có ý nghĩa gì?

Trời không phải là một nơi chốn, nhưng là một trạng thái, trong đó Ba Ngôi Thiên Chúa sống chan hoà yêu thương. Sự sống của Thiên chúa không giống sự sống của cây cỏ. Cũng không giống như sự sống của động vật hay loài người. Đó là sự sống thần linh. Sự sống vượt không gian, vượt thời gian, không còn bị lệ thuộc vào điều kiện vật chất. Sự sống không còn bị hao hụt, giảm thiểu bởi đau đớn, bệnh tật, đói khát. Đó là sự sống viên mãn tràn đầy. Được tham dự vào sự sống ấy là một hạnh phúc vô song. Đó chính là thiên đường. Lên trời hay lên thiên đàng như vậy không phải là thay đổi nơi chốn nhưng là thay đổi sự sống. Đó là chuyển đổi sự sống hữu hạn của con người sang sự sống vô hạn của Thiên Chúa. Đó là rời bỏ thế giới hữu hạn của loài người để bước vào thế giới vô hạn của Thiên Chúa. Đức Giêsu lên trời có nghĩa là Đức Giêsu về với Thiên Chúa, sống với Thiên Chúa, sống cuộc sống Thiên Chúa. Lên trời không phải lên theo chiều cao trong không gian vật lý. Nhưng là lên theo cấp độ sự sống, là sống cao hơn, mạnh mẽ hơn, tràn đầy hơn.

Chính vì thế, Chúa Giêsu lên trời không phải giã từ thế giới, để đi vào xa vắng mịt mù. Nhưng Người không đi vào một hiện hữu mới để hiện diện mãnh liệt hơn. Không còn bị kềm chế trong không gian, giờ đây Người hiện diện ở khắp mọi nơi. Không còn bị lệ thuộc vào một thân xác, giờ đây Người có thể hiện diện dưới nhiều hình thức khác nhau.

Người ở đó trong những trang Sách Thánh đầy lời lẽ nhiệm mầu để dạy cho ta biết con đường về với Thiên Chúa. Người ở đó trong bí tích Thánh Thể huyền diệu để nuôi linh hồn ta, để kết hợp với ta, để giúp ta đủ sức mạnh đi hết con đường trần gian khổ. Người ở đó trong những người anh em đồng tâm nhất trí cùng nhau dâng lời cầu nguyện lên Chúa Cha. Người ở đó trong những anh em bé nhỏ nghèo hèn đang chờ chúng ta mở rộng trái tim, mở rộng vòng tay nhân ái. Người ở đó trong những người hiến thân phục vụ anh em, trong những người hy sinh bản thân mình cho công bình, cho chân lý, cho một thế giới tươi đẹp hơn. Người có mặt trên khắp mọi nơi nẻo đường, trong tất cả mọi cảnh ngộ của cuộc đời. Người có mặt trong mọi thời gian đúng như Người đã hứa: “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”.

Bây giờ thì chúng ta đã hiểu: Trời không phải là một nơi chốn xác định, là một không gian vật lý có thể cân đo đong đếm. Nhưng trời là Thiên đàng, là chính sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi, là chính Thiên Chúa Ba Ngôi.

Bây giờ chúng ta đã hiểu lên trời không phải là bay bổng lên không gian. Nhưng là chuyển đổi cấp độ sự sống, hay là bước vào sự sống siêu nhiên của Thiên Chúa.

Bây giờ thì chúng ta đã hiểu, lên trời không phải là vắng mặt, là xa vắng nhưng lại là một hiện diện vô cùng phong phú, vô cùng mãnh liệt, ở bên cạnh tất cả mọi người, ở mọi nơi và ở mọi thời.

Chúa Giêsu là người mở đường cho nhân loại. Người tiến về một thế giới sự sống viên mãn, cao cả để cho ta thêm niềm tin tưởng rằng: vận mệnh của Người cũng sẽ là vận mệnh của ta. Ta cũng sẽ được cùng Người bước vào sự sống thần linh vĩnh cửu, miễn là ta đi vào con đường của Người: con đường khiêm nhường phục vụ. Miễn là ta vâng giữ lời Người truyền dạy: Hãy yêu tha nhân như chính bản thân mình.

Lạy Đức Giêsu, xin hãy nâng lòng con lên khao khát những sự trên trời. Amen.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Bạn có cảm nhận được sự hiện diện của Chúa Giêsu trong đời sống hằng ngày?

2) Bạn làm cách nào để mọi người cảm thấy Chúa Giêsu đang hiện diện mãnh liệt trong thế giới?

3) Bạn làm gì để xây dựng Nước Trời?

 

 

 

 

 

9. Xây dựng Nước Trời - ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt

 

Chúng ta vừa nghe những câu cuối cùng trong Tin mừng theo thánh Matthêu. Đây là những lời nói cuối cùng của Chúa Giêsu trước khi từ giã trần gian về trời. Nên có tầm quan trọng rất lớn. Chính vì thế Chúa Giêsu triệu tập các môn đệ lên một ngọn núi cao. Trong Tin mừng, những biến cố quan trọng bao giờ cũng diễn ra trên ngọn núi cao. Chúa ký kết giao ước với dân Do thái trên núi. Chúa giảng bài giảng đầu tiên trên núi. Chúa biến hình trên núi. Chúa chịu chết trên núi. Và hôm nay Chúa trao sứ điệp cuối cùng trên núi. Sứ điệp này thật quan trọng vì cho ta hiểu được định mệnh của con người, hiểu được sự thật về Nước Trời và hướng dẫn đời sống của ta trên trần gian.

Sứ điệp đó cho thấy định mệnh con người.

Chúa Giêsu nói: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất”. Khi bị treo trên thánh giá, không một mảnh vải che thân, ai cũng nghĩ là Chúa Giêsu đã mất tất cả. Nhưng hôm nay khi về trời, Chúa Giêsu được tất cả. Trong hoang địa, Chúa Giêsu đã từ chối cơn cám dỗ thờ lạy ma quỉ nhằm được lợi lộc trần gian. Thì nay Đức Chúa Cha đem tất cả đặt dưới chân Người. Là người đầu tiên về trời, Chúa Giêsu mở cho ta một chân trời hi vọng. Định mệnh con người không bị tàn lụi đi theo thân xác ở trần gian, nhưng triển nở đến vô tận trên Nước Trời. Định mệnh con người không chìm trong nhục nhằn thống khổ, nhưng sẽ trổi vượt trong vinh quang trên Nước Trời. Định mệnh con người không phải chịu giam cầm trong số phận xác đất vật hèn ngang hàng với cỏ cây súc vật, nhưng sẽ được nâng lên ngang hàng với các bậc thần thánh trên Nước Trời.

Sứ điệp đó cho thấy sự thật về Nước Trời.

Chúa Giêsu nói: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”. Theo quan niệm dân gian ta thường phân chia trời với đất. Trời cách xa đất ngàn trùng. Đất chẳng bao giờ với được tới trời. Trời chẳng bao giờ có thể cúi xuống tới đất. Nhưng với lời Chúa Giêsu hôm nay, ta thấy trời đất không cách xa nhau. Chúa Giêsu về trời nhưng vẫn ở bên cạnh ta mọi ngày mọi giờ cho đến tận thế. Chúa Giêsu không nói Chúa sẽ lên trời, nhưng Chúa thường nói Người sẽ về với Chúa Cha. Nước Trời chính là sự sống trong Chúa Cha, trong sự hợp nhất của Chúa Thánh Thần. Nước Trời chính là sự sống trong Ba Ngôi Thiên Chúa. Nước Trời là được hưởng hạnh phúc trong tình yêu Thiên Chúa. Như thế Nước Trời là một trạng thái chứ không phải một nơi chốn. Ai sống trong tình yêu Thiên Chúa thì đã ở trong Nước Trời rồi.

Sứ điệp đó cho thấy sứ mạng của người môn đệ.

Chính vì không cách biệt mà trời và đất không đối lập nhau. Trời không tách rời đất. Đất không đối lập với trời. Nước Trời phải được xây dựng ngay từ bây giờ, trên mặt đất. Trái đất Chúa ban cho để ta xây dựng thành Nước Trời. Đó là sứ mạng của người môn đệ. Đó là tiếp tục sứ mạng của Chúa Giêsu. Xây dựng bằng cách nào. Thưa bằng “dậy cho họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em”. Những điều Chúa Giêsu dậy đã được tóm tắt trong điều răn mới: “Thầy truyền cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Điều răn mới này thay thế mọi điều răn cũ. Như thế sứ mạng của người môn đệ Chúa là sống yêu thương, là làm cho mọi người sống yêu thương. Khi mọi người biết yêu thương nhau như Chúa yêu thương ta, Nước Trời đã hiện diện.

Hôm nay mừng lễ Chúa Giêsu về trời, ta hiểu rằng định mệnh của chúng ta thật cao quí vì không kết thúc ở trần gian mà còn tiếp tục trên Nước Trời. Ta hiểu rằng Trời và Đất không cách xa đối lập nhau, nhưng Nước Trời phải được xây dựng ngay từ bây giờ trên mặt đất và Trái Đất Chúa ban cho để ta xây dựng thành Nước Trời. Ta hiểu rằng sứ mạng của ta phải nối tiếp sứ mạng của Chúa Giêsu, sống yêu thương và làm cho mọi người sống trong yêu thương. Khi ta hoàn thành sứ mạng như Chúa Giêsu ta sẽ được chung phần hạnh phúc với Chúa.

Lạy Chúa xin nâng lòng con lên khao khát những sự trên trời. Amen.

 

 

 

 

 

10. Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy

 

Một người đàn ông khi còn sống chuyên môn làm nghề quảng cáo, đến lúc chết ông ta xuống gặp Diêm Vương. Diêm Vương ân cần hỏi: “Muốn ở thiên đàng hay hỏa ngục”.

Người đàn ông ngập ngừng đáp: “Chưa thấy thiên đàng hay hỏa ngục như thế nào thì làm sao mà chọn”.

Diêm Vương bèn dẫn ông ta đến một nơi và chỉ cho thấy cảnh thiên đàng: đó là một nơi mát mẻ, yên lặng, người người đi đi lại lại, nói chuyện nhẹ nhàng, chơi cờ thanh thản…

Đoạn dẫn đến một nơi gọi là hỏa ngục thì thấy vui nhộn hơn, có những đám ăn nhậu với đủ thứ thức ăn và rượu ngon, có cả văn nghệ với điệu nhạc xập xình, có các cô đào trẻ đẹp múa hát…

Sau khi đã nhìn thấy hai nơi rồi, ông ta mau mắn trả lời: “Ở thiên đàng buồn quá, tôi thích chọn hỏa ngục vui hơn”.

Thế là Diêm Vương sai hai thằng quỉ ném ông ta vào hỏa ngục. Vừa đến nơi ông ta la hoảng lên vì nóng quá, chả có văn nghệ, chả có ăn nhậu gì cả, mà chỉ thấy toàn lũ quỉ đen, nham nhở đang hành hạ các tội nhân. Ông ta sững sờ quay lại hỏi Diêm Vương:

“Thế hỏa ngục lúc nãy Ngài cho tôi thấy nó ở đâu?”.

Diêm Vương khoái chí cười ha hả đáp: “Ngu ơi là ngu, quảng cáo mà con!”.

Đời là thế đấy! đúng là “sinh ư tử nghiệp” “sống sao thác vậy”.

Nói một cách rõ ràng hơn thì người đàn ông trong câu chuyện đã bị “gậy ông đập lưng ông” vì khi còn sống ông ta đã dùng mánh khóe, xảo thuật để quảng cáo đánh lừa người khác làm lợi cho mình. Đến khi chết đi, ông ta vẫn mang dòng máu tham lam, ham lợi nên đã bị Diêm Vương cao tay hơn dùng chính lối quảng cáo đánh lừa ông ta.

Kính thưa ông bà anh chị em, có lẽ đây cũng là lối sống của nhiều người trong chúng ta hôm nay. Hơn bao giờ hết, người thời nay với lối sống xô bồ, đua tốc độ với thời gian, lấy vật chất làm động lực sống, coi hưởng thụ khoái lạc làm mục tiêu hành động nên đã sử dụng môn quảng cáo như là một tuyệt chiêu để tranh sống và sinh tồn ở đời. Do đó, người ta đua nhau tổ chức cuộc sống mình đặt trên cơ sở lấy ngắn hạn thay cho dài hạn, lấy lợi trước mắt quên tác hại sâu xa, lấy bên ngoài quan trọng hơn bên trong, lấy xác hơn hồn. Tất cả những sai lầm nguy hiểm trên đương nhiên ai cũng biết, nhưng người ta vẫn cứ sống, vẫn cứ coi thường.

Hôm nay cũng như bao lần khác, chúng ta cùng nhau mừng lễ Chúa lên trời.

Và mỗi lần như thế chắc chắn Chúa vẫn kêu mời mỗi người chúng ta hãy suy nghĩ và đặt lại hướng đi cho cuộc đời của mình. Hay nói cách khác Chúa muốn chúng ta, nhân cơ hội kỷ niệm biến cố Ngài về trời, sáng suốt nhận ra được đâu là mục đích chính của đời sống tại dương thế. Thế mà không hiểu tại sao mọi người chúng ta hình như cứ mải mê cố tình coi nhẹ sự sống đời sau. [1]

Sở dĩ có tình trạng mê lầm mất phương hướng này một phần do những nguỵ biện trong cuộc sống:

nào là “có thực mới vực được đạo”,

nào là sống đạo cốt tại tâm,

nào là phải lo đủ thứ bổn phận trách nhiệm trong gia đình ngoài xã hội,

nào là phải liên tục đương đầu để giải quyết biết bao công việc khó khăn.

Tất cả những thứ đó đã mê hoặc, ru ngủ chúng ta đến nỗi chúng ta cho việc lơ là phần thiêng đạo đức, bỏ bê việc lành, dễ dãi với những yếu đuối sa ngã, khô khan nguội lạnh đôi chút đều không có gì phải ân hận, nuối tiếc cả.

Ngoài ra còn do ảnh hưởng bên ngoài đầu độc. Chẳng hạn, thời nay hầu như ai cũng lấy lợi nhuận, hưởng thụ làm mục tiêu của cuộc sống, trong khi kẻ nào chủ trương ăn ngay ở lành, ăn chay đền tội thì người ta cho là khờ dại. Thêm vào đó, nhiều chủ thuyết cổ võ lối sống tự do phóng khoáng, phi đạo đức luân lý, đả kích tôn giáo khiến đức tin của một số người lung lay và hoài nghi những chân lý trong đạo.

Đặc biệt ma quỉ đâu chịu ngồi yên, chúng dùng mưu mô xảo quyệt, lợi dụng tối đa mọi hoàn cảnh để ra sức dụ dỗ con người nghi ngờ Chúa, quên đời sau.

Cuộc sống hiện tại của chúng ta là như thế đó, nên ngày lễ hôm nay, Chúa muốn nhắn nhủ mỗi người chúng ta: cuộc sống trên trần thế này không làm thỏa mãn chúng ta và trần gian này chỉ là nơi tạm bợ, chưa phải là nơi ở vĩnh viễn của con người. Quê hương đích thực của chúng ta ở trên trời. Hiểu như thế chúng ta mới thấy được cuộc sống trần gian này chỉ là một giai đọan, một sự chuyển tiếp dẫn chúng ta về quê trời, nơi Chúa Giêsu đã về trước để chuẩn bị cho chúng ta. Amen.

[1] Sưu tầm

 

 

 

 

 

11. Một khởi đầu mới - Đức Cha Giuse Vũ Văn Thiên

 

Một thời đại mới đã khai mở, đó là thời của các chứng nhân, cũng là thời của Giáo Hội. Qua các ông, mọi người nhận ra Đức Giêsu đang sống và đang hiện diện trong các cộng đoàn Đức tin.

Khi nói đến lễ Chúa Giêsu lên trời hay lễ Thăng Thiên, chúng ta thường chỉ nghĩ đó là thời điểm kết thúc sứ mạng cứu chuộc của Chúa Giêsu. Phụng vụ hôm nay, nhất là bài Tin Mừng, lại quy hướng chúng ta về với một khởi đầu mới, trong lạc quan và hy vọng. Không phải vô cớ mà cả ba bài Tin Mừng cho chu kỳ ba năm A, B, C đều là những đoạn kết của các Tin Mừng nhất lãm. Đây là những kết “mở”, dẫn chúng ta sang một khởi đầu mới.

Trước hết, đó là khởi đầu của sứ mạng truyền giáo được Chúa Giêsu uỷ thác cho các môn đệ. Sứ mạng này có điểm xuất phát là Giêrusalem, là thành thánh và là trung tâm của Do Thái giáo. Sứ điệp mà các môn đệ được trao phó là lời kêu gọi sám hối. Chúng ta hãy nhớ lại, đây cũng là nội dung lời rao giảng đầu tiên khi Chúa Giêsu khởi sự loan báo Tin Mừng: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng!”. Có điều khác biệt là bây giờ Chúa Giêsu không còn hiện diện hữu hình nữa, mà Người hiện diện qua các chứng nhân. “Chính anh em là chứng nhân về những điều này”. Một thời đại mới đã khai mở, đó là thời của các chứng nhân, cũng là thời của Giáo Hội. Qua các ông, mọi người nhận ra Đức Giêsu đang sống và đang hiện diện trong các cộng đoàn Đức tin.

Tuy Chúa Giêsu không hiện diện thể lý giữa các môn đệ, Người lại hứa ban cho các ông “quyền năng từ trời cao ban xuống”. Quyền năng này là Chúa Thánh Thần. Vậy, đây là khởi đầu của một thời đại mà Thiên Chúa tuôn đổ Thần Khí của Ngài trên mọi tạo vật, để hướng dẫn và thánh hoá mọi xác phàm, nhất là những môn đệ. Điều này đã được thực hiện vào ngày lễ Ngũ Tuần, khi các môn đệ đang cầu nguyện xung quanh Đức Maria, Mẹ của Chúa Giêsu. “Quyền năng từ trời cao” đã biến đổi các ông, ban cho các ông sức mạnh và nghị lực, nhờ đó, các ông không còn sợ hãi, mạnh dạn mở tung các cửa và can đảm rao giảng về Chúa Giêsu phục sinh.

Được trang bị bằng sức mạnh của Chúa Thánh Thần, các ông đã lên đường. Đây là cuộc chia tay với Thày, đồng thời cũng là khởi đầu một cuộc lên đường mới. Tác giả Tin Mừng Luca diễn tả: “Các ông trở lại Giêrusalem, lòng đầy hoan hỉ, và hằng ở trong Đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa”. Sứ điệp mà các ông lãnh nhận để rao giảng phát xuất từ Giêrusalem, nơi có Thiên Chúa hiện diện theo quan niệm của người Do Thái. Từ nơi này, ánh sáng Lời Chúa lên đường cùng với các ông, với tư cách là nhân chứng của Đấng Phục sinh, để chiếu toả đến tận cùng thế giới. Lời căn dặn của Chúa được ghi trong sách Tông đồ Công vụ còn cho thấy “không gian” của sứ vụ tông đồ rất rộng lớn bao la: “Anh em sẽ là chứng nhân của Thày tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samaria và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8).

Tác giả sách Công vụ Tông đồ, cũng là Thánh Luca, là một nhân chứng mắt thấy tai nghe, giờ phút chia tay giữa Chúa Giêsu và các môn đệ. Sau những lời căn dặn, Chúa Giêsu đã lìa họ mà về trời cao. Tác giả dùng chữ “được cất lên”, cùng với chi tiết đám mây bao phủ. Trong truyền thống Cựu ước, đám mây là yếu tố diễn tả các cuộc “thần hiện” của Đức Giavê (x. Xh 13,21-22); của Con Người (x. Dn7,13). Đức Giêsu, mặc dù vắng bóng, vẫn luôn luôn hiện diện trong Giáo Hội. Như vậy, cuộc “lại đến” của Chúa được các sứ thần áo trắng diễn tả, không phải là một cuộc trở lại, nhưng đúng hơn, là sự tỏ mình lần cuối để minh chứng sự hiện diện ấy.

Xem ra có mấy vị trong số các tông đồ vẫn còn quan niệm lệnh lạc về sứ vụ thiên sai của Đức Giêsu. Vì vậy mà họ hỏi Chúa: “Thưa Thày, có phải bây giờ là lúc Thày khôi phục vương quốc Israen không?”. Xưa cũng như nay, độc giả không khỏi ngỡ ngàng trước câu hỏi đó. Thế mới thấy rằng để canh tân tư duy và quan niệm của con người không phải là điều dễ dàng. Bốn mươi ngày sau biến cố Phục sinh, các ông đã nhiều lần gặp Chúa, mà quan niệm về Đấng Thiên sai của các ông vẫn chưa thay đổi. Trước sự tăm tối của lòng trí con người, tác giả Thư Do Thái khích lệ chúng ta “Hãy tiến lại gần Thiên Chúa với một lòng chân thành và một đức tin trọn vẹn, vì trong lòng thì đã được tẩy sạch mọi vết nhơ của lương tâm, còn ngoài xác thì đã được tắm rửa bằng nước tinh tuyền. Chúng ta hãy tiếp tục tuyên xưng niềm hy vọng của chúng ta cách vững vàng, vì Đấng đã hứa là Đấng trung tín” (Bài đọc II).

Mười ngày sau lễ Thăng Thiên, Mùa Phục sinh sẽ khép lai. Như đã nói ở trên, Lễ Thăng Thiên không phải hồi kết thúc nhưng là một khởi đầu mới cho sứ mạng làm chứng nhân cho Chúa của mỗi chúng ta, với tư cách là tín hữu. “Không ai cho người khác cái mình không có”, chúng ta chỉ có thể trở thành chứng nhân can đảm của Chúa Giêsu, một khi chúng ta vững niềm xác tín nơi Người, nhận ra sự hiện diện của Người trong đời sống chúng ta. Lễ Thăng Thiên cũng nhắc cho chúng ta, quê hương đích thật của chúng ta là trên trời. Chúa Giêsu đã đi trước để dọn chỗ cho chúng ta. Tin yêu và gắn bó với Người ở đời này, chắc chắn chúng ta sẽ được hưởng hạnh phúc với Người ở đời sau.

Hãy cùng nhau lên đường trong hân hoan hy vọng, vì Chúa Phục sinh ở cùng với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế!

 

 

 

 

 

12. Hộ chiếu Nước Trời – Thiên Phúc

(Trích “Như Thầy Đã Yêu”)

 

Chuyện kể rằng: có một bà lão qua đời, suốt cuộc sống bà chẳng làm được việc thiện nào. Vì thế, Satan chộp lấy bà ném vào biển lửa. Nhưng thiên thần bản mệnh của bà không chịu thua. Ngài suy nghĩ một lúc lâu và nói: “Lạy Chúa, có một lần bà đã đào một củ hành nhỏ trong vườn cho người ăn xin”.

Chúa nói: “Được, vậy con hãy lấy củ hành nhỏ tương tự, thả xuống biển lửa và kéo bà lên bằng củ hành nhỏ đó. Nếu con thành công, bà ấy sẽ được cứu”.

Thiên thần cẩn thận kéo bà lên. Nhưng khi những người khác thấy bà bắt đầu đi lên, họ liền bám theo bà. Bà vội vàng đá tung họ ra và la lên: “Chỉ có tôi là được cứu bằng củ hành này, nó thuộc về tôi chứ đâu có thuộc về các người”.

Lúc đó, củ hành bị tách ra và bà rơi trở lại biển lửa. Thiên Thần quay mặt đi khóc cho số phận của một con người quá ích kỷ.

***

Chúa về trời và Người muốn cho các con cái cũng được lên trời với Người. Vì Người đã cầu xin Cha: “Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con” (Ga 17,24).

Nhưng muốn được lên trời cũng phải có hộ chiếu của Nước Trời. Hộ chiếu đó chính là Tình Yêu Thương. Trước khi về trời, Đức Giêsu đã truyền cho các môn đệ: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa thánh Thần, dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28,18-20a). Mọi điều Thầy truyền chỉ tóm lại có một điều là “Mến Chúa yêu người”. Vì thế, tình yêu thương chính là thước đo, là điều kiện, là bảo đảm cho người tín hữu được lên trời với Chúa.

Chúng ta tưởng trời ở thật xa nhưng thực ra lại rất gần. Đức Giêsu nói: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20b). Ở đâu có Chúa là ở đấy có thiên đàng, vậy trời há không ở trong lòng chúng ta đấy ư? Trời ở ngay trong trái tim chúng ta, những trái tim đầy ắp yêu thương, ngập tràn Thiên Chúa. Trời ở ngay trong thế giới này, nếu đó là một thế giới yêu thương và hòa bình, chia sẻ và tha thứ cho nhau.

Chúng ta tưởng mình chỉ được lên trời sau cuộc sống này, nhưng thực ra thì chúng ta đang vui hưởng hạnh phúc Nước Trời. Hạnh phúc Nước Trời là khi chúng ta không màng lợi danh lạc thú, cũng chẳng ngần ngại trước đau khổ và nỗi chết. Nhưng luôn biết chia sẻ cho anh em, xả thân phục vụ hết mọi người. Vì phục vụ là tên gọi của tình yêu.

***

Lạy Chúa, con đường về trời là con đường yêu thương. Xin chỉ cho chúng con biết đường về trời bằng cách sống hiến thân, phục vụ và trao ban.

Xin đừng để những truân chuyên nơi cuộc sống này làm chúng con quên mất trời cao. Xin đừng để những quyến rũ của trần gian cản lối chúng con về trời.

Ước gì qua cuộc sống chúng con mọi người sẽ nhận ra con đường về trời. Amen.

 

 

 

 

 

13. Lễ Chúa Thăng Thiên - Lm. Giuse Nguyễn Bá Trung

 

Hôm nay, toàn thể cộng đoàn Dân Chúa cử hành đại lễ Chúa Giêsu Thăng Thiên hay còn gọi là Chúa Giêsu lên trời. Mầu nhiệm này đã được Dân Chúa ngay từ đầu tuyên xưng trong kinh Tin Kính: “Ngày thứ ba Người sống lại như lời Thánh Kinh. Người lên trời, ngự bên hữu Đức Chúa Cha”.

Chúa Giêsu “được đưa lên trời” đó là một lối nói của Kinh Thánh nhằm diễn tả việc Chúa Phục Sinh từ giã trần gian để về cùng Thiên Chúa Cha. Ngài từ Cha mà đến và nay lại trở về với Cha. “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống” (Ga 3,13). Vì thế, nếu ta cho rằng về trời theo quan niệm địa lý bình dân như trời cao đất thấp, thì ta có thể nghĩ rằng việc Chúa về trời là ở xa loài người. Quan niệm về trời xa như vậy là rối đạo, là lạc giáo, không khác gì sự ngớ ngẩn của một phi hành gia không gian, anh Youri Gagarine của Liên Xô, sau chuyến du hành vũ trụ, bay về mặt đất, đã ngông nghênh tuyên bố rằng: “Tôi đã bay ngang dọc khắp không gian nhưng chẳng gặp một ông Chúa nào trên đó cả”. Với một quan niệm và niềm tin mơ hồ lệch lạc như thế, chắc chắn không phải chỉ với vài khoảnh khắc trong không gian anh ta không gặp được Thiên Chúa mà nếu anh ta cứ cố chấp và kiêu căng, có lẽ đời đời Thiên Chúa sẽ “ngàn trùng xa cách”.

Như vậy, lễ Chúa Thăng Thiên hay Chúa lên trời không phải là một cuộc tiễn đưa Chúa Giêsu đi vào một phương trời xa lạ và cắt đứt tương quan với Ngài. Nhưng Chúa lên trời được hiểu là chấm dứt sự hiện diện hữu hình của Ngài tại trần thế, Ngài không còn hiện diện bằng xương bằng thịt trước mắt chúng ta nữa. Chúng ta không còn có thể thấy, đụng chạm, nghe Ngài bằng giác quan tự nhiên. Chúa bắt đầu một sự hiện diện “ẩn khuất”, nghĩa là Chúa vẫn có mặt đó mà chúng ta không thấy được. Chúng ta vẫn có thể gặp gỡ Ngài bằng giác quan siêu nhiên của lòng tin. Ngài vẫn ở giữa chúng ta, trong những nơi mà Ngài đã dạy chúng ta biết để nhận ra Ngài. Chẳng hạn: Chúa hiện diện trong Lời Ngài, trong Bí Tích Thánh Thể, trong những anh chị em sống chung quanh, trong những người nghèo hèn, khốn khổ, bị bách hại đau thương, trong mỗi người chúng ta khi chúng ta họp nhau dâng lời cầu nguyện và tiến dâng hy tế: “Ở đâu có hai ba người họp lại vì Danh Ta thì có Ta ở giữa họ”…Và lát nữa đây, trên bàn thờ này, nhờ Ngài lên trời, mà chúng ta được hân hoan đón nhận Mình Thánh Ngài như lương thực trường sinh nuôi dưỡng chúng ta trên cuộc hành hương về quê trời vĩnh cửu.

Kính thưa cộng đoàn phụng vụ!

Sự kiện Chúa Giêsu lên trời mà phụng vụ Giáo Hội kính nhớ hôm nay có ý nghĩa sâu xa, Chúa Giêsu về ngự bên hữu Thiên Chúa Cha, sau khi đã hoàn tất sứ vụ cứu chuộc mà Chúa Cha đã trao phó, nhưng sự cứu độ của Chúa Giêsu vẫn còn được tiếp tục qua Giáo Hội khi Ngài ra lệnh cho các Tông đồ: “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con” (Mt 28,19-20). Mệnh lệnh này Chúa cũng trao cho mỗi người chúng ta là những người đã lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, để chúng ta trở nên chứng nhân cho Chúa Giêsu tại trần gian này.

Mừng lễ Chúa lên trời hôm nay, Chúa cũng nhắc cho chúng ta nhớ rằng: “Quê hương chúng ta ở trên trời…Anh em hãy tìm kiếm những sự trên trời”. Và như lời kinh tiền tụng hôm nay cũng nói: “Người đã lên trời trước, để chúng ta là những chi thể của Người vững một niềm tin tưởng cũng sẽ được lên theo”. Quê trời là đích điểm của người kitô hữu. Quê trời là niềm hy vọng cho những ai biết dấn thân xây dựng Nước Trời ngay ở trần gian này. Vì thế, những hy sinh ở đời này, dù có chịu nhiều mất mát, thiệt thòi đi nữa vẫn không thể nào so sánh được cuộc sống trên quê trời.

Trong tờ báo Công Giáo và Dân Tộc, số 1505 có đăng tải thắc mắc của một em bé 10 tuổi, tên là Thu Minh, em hỏi: “Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II mới qua đời có được lên thiên đàng không?”. Với câu hỏi ấy, hôm nay em Thu Minh có lẽ đã tìm được câu trả lời. Vì để tỏ lòng biết ơn Đức Giáo Hoàng về những công lao to lớn trong việc phục vụ cho Giáo Hội hoàn vũ, vào ngày 27.04.2014 vừa rồi, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã cử hành lễ phong hiển thánh cho Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII và Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, nhân dịp kỷ niệm ngày lễ Lòng Chúa Thương Xót. Như chúng ta đã biết, việc ai được lên thiên đàng, đó là quyền Thiên Chúa xét đoán. Chúng ta tin Thiên Chúa như một người Cha, giàu lòng thương xót và luôn giúp chúng ta sống tốt. Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II chắc chắn đã sống tốt: ngài hoạt động cho hòa bình thế giới, ngài đã đi thăm những người nghèo khổ, ngài đã bênh vực những người yếu hèn, ngài đã hòa giải những tôn giáo không cùng ý tưởng, ngài đã đem Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô đến cho mọi người trên toàn cầu. Nén bạc mà Thiên Chúa giao cho ngài đã được sinh lợi gấp trăm, gấp ngàn lần. Một cuộc sống như vậy thế nào cũng được Thiên Chúa dành cho một chỗ trên thiên đàng, và chắc chắn Thánh Gioan Phaolô II sẽ được gặp lại Chúa và tất cả những người thân thương của ngài. Tin vào lòng thương xót của Chúa, chúng ta tin chắc giờ này Thánh Gioan Phaolô II rất hạnh phúc vì được ở gần Chúa Giêsu và Mẹ Maria.

Cũng trong tâm tình đó, Chúa Giêsu lên trời là chuẩn bị chỗ cho chúng ta ở trên thiên đàng, để khi chúng ta từ giã cõi đời này cũng được các thiên thần Chúa rước đưa về thiên đàng. Muốn được vậy, chúng ta cần phải yêu mến những sự trên trời bằng cách chu toàn thật tốt bổn phận ki tô hữu ở trần gian. Chu toàn thật tốt bổn phận ở trần gian là góp phần xây dựng Nước Trời. Một khi chu toàn tốt bổn phận ở trần gian như vậy đó là dọn chỗ ở trên thiên đàng. Trần gian không phải là nơi ta chọn để bám víu luôn mãi. Nhưng trần gian là cơ hội để ta đạt tới hạnh phúc trên thiên đàng.

Ước gì, xin Chúa giúp cho mỗi người chúng ta biết chu toàn bổn phận hằng ngày để mai sau được về trời với Chúa. Amen.

 

 

 

 

 

14. Bài chia sẻ của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

LỄ CHÚA GIÊSU THĂNG THIÊN

Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã chia sẻ:

“Chúng ta được qui tụ quanh bàn thờ Chúa để cử hành việc Chúa lên trời. Chúng ta đã nghe được Lời Chúa: “Các con sẽ nhận lấy sức mạnh của Chúa Thánh Thần, Đấng sẽ ngự xuống trên các con và các con sẽ là những chứng nhân của Thầy cho đến tận cùng trái đất”.

Từ hai ngàn năm qua, những lời này của Chúa Phục Sinh thôi thúc Giáo Hội tiến ra khơi, tiến vào trong lịch sử của con người. Những lời này làm cho Giáo Hội trở nên một người luôn đồng hành với tất cả mọi thế hệ, làm cho Giáo Hội trở nên như men, làm dậy nên những hạt văn hoá trên thế giới. Hôm nay, chúng ta nghe lại những lời trên để với sức mạnh được canh tân, chúng ta đón nhận mệnh lệnh của Chúa “Hãy ra khơi”, mệnh lệnh mà Chúa đã nói với thánh Phêrô. Đây là một mệnh lệnh và tôi đã muốn làm vang dội lại trong Giáo Hội qua bức tông thư khởi đầu Ngàn Năm Mới. Và đây là mệnh lệnh mặc lấy một ý nghĩa sâu xa hơn theo ánh sáng của ngày lễ trọng Chúa Thăng Thiên. “Hãy ra khơi” ra nơi mà Giáo Hội cần tiến đến, không phải chỉ là một sự dấn thân truyền giáo mạnh mẽ nhưng nhất là và còn là một sự dấn thân mạnh mẽ sống chiêm niệm.

Như những tông đồ, những kẻ đã được chứng kiến biến cố Chúa lên trời, chúng ta cũng được mời gọi hãy hướng cái nhìn lên dung mạo của Chúa Kitô được hiển vinh trong vinh quang Thiên Chúa Cha. Chắc chắn rằng nhìn ngắm trời cao không có nghĩa là quên đi trần gian này. Và nếu rủi gặp phải cám dỗ, chúng ta chỉ cần lắng nghe lại lời hai người mặc áo trắng của đoạn Phúc Âm hôm nay nói rằng: “Tại sao các ông còn nhìn trời?”

Việc cầu nguyện chiêm niệm Kitô không làm cho chúng ta tránh khỏi việc dấn thân vào trong lịch sử. “Trời”, nơi Chúa Giêsu tiến vào không phải là một sự xa vắng nhưng như là một màn che khuất và là nơi lưu giữ một sự hiện diện. Đó là sự hiện diện của Chúa, một sự hiện diện không bao giờ bỏ rơi chúng ta cho đến khi Chúa trở lại trong vinh quang. Trong khi đó, thời giờ chúng ta sinh sống đây là thời giờ rất đòi hỏi. Đòi hỏi chúng ta phải làm chứng bởi vì nhân danh Chúa Kitô, sự ăn năn hối cải và sự tha thứ tội lỗi phải được rao giảng cho tất cả mọi dân nước. Và chính để làm sống lại ý thức này mà tôi đã muốn triệu tập hội nghị Hồng Y đặc biệt được bế mạc hôm nay (thứ Năm 24.05.2001). Các vị Hồng Y, từ các nơi trên thế giới mà tôi xin kính chào với lòng mộ mến huynh đệ. Các ngài trong những ngày qua đã hội họp với tôi để bàn về một vài đề tài trong số những đề tài nổi bật nhất của công việc rao giảng Phúc Âm và làm chứng Kitô trong thế giới hôm nay, vào khởi đầu Ngàn Năm Mới. Đây, đối với chúng tôi, là giây phút sống hiệp thông, trong đó chúng tôi cảm nghiệm được một phần nào của niềm vui đã tràn ngập tâm hồn các tông đồ ngày xưa, sau khi Chúa Phục Sinh chúc lành cho các ngài và tách rời ra khỏi các ngài để lên trời. Thật vậy, thánh Luca đã ghi lại rằng: “Sau khi bái lạy tôn thờ Chúa, các tông đồ trở lại Giêrusalem với niềm vui lớn lao và các ngài luôn ở trong đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa.”

Và tiếp sau trong bài giảng, Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã khai triển thêm bản chất cũng như sinh hoạt truyền giáo của Giáo Hội, và cuộc hội Hồng Y cũng được Đức cố Giáo Hoàng đặt trong viễn tượng này: “Thực hiện sự hiệp thông và hiệp nhất trong Giáo Hội, để Giáo Hội có thể rao giảng Phúc Âm Chúa một cách đáng tin hơn cho mọi anh chị em.”

Trong thánh lễ Chúa Thăng Thiên và trong giây phút này, Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã cho chúng ta biết ý nghĩa của biến cố quan trọng này: Không phải Chúa lên trời để bỏ chúng ta, mà Ngài bước sang một sự hiện diện mới với chúng ta trong Chúa Thánh Thần. Ngài luôn ở cùng chúng ta luôn mãi cho đến tận cùng. Và Ngài muốn mỗi người chúng ta mở rộng tâm hồn đón nhận hồng ân Thánh Thần của Ngài để làm chứng cho Ngài trong môi trường chúng ta sinh sống.

Từ Chúa Nhật này cho tới Chúa Nhật Chúa Thánh Thần hiện xuống, chúng ta hãy dành thời giờ để nhìn lại cuộc sống của mình, mở rộng tâm hồn đón nhận Chúa Thánh Thần và sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần để làm chứng cho Chúa đến mức độ nào rồi. “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận cùng và các con sẽ làm chứng cho Thầy khắp nơi trên mặt đất này”.

Xin Chúa gìn giữ chúng ta vững mạnh trong đức tin để chúng ta có thể làm chứng cho Chúa mọi nơi mọi lúc.

 

 

 

 

 

15. Về Trời – Lm. Giuse Trần Việt Hùng

 

Mừng lễ Chúa Lên Trời, Về Trời hay Thăng Thiên, ý nghĩa là Chúa Giêsu Kitô đã được cất nhắc lên và không còn xuất hiện hiển nhiên với các tông đồ nữa. Theo kiểu nói bình dân có hình tượng đi lên, đi xuống và ngự bên phải, bên trái, để mọi người dễ hiểu. Chúa Kitô đã hoàn tất sứ mệnh tại thế: Sau cuộc thương khó, Người đã tỏ cho các ông thấy, Người vẫn sống, với nhiều bằng chứng, Người đã hiện ra với các ông trong khoảng bốn mươi ngày và đàm đạo về Nước Thiên Chúa (Tđcv 1,3). Chúa Giêsu đã xuống trần gian sinh sống trong khoảng thời gian ba mươi ba năm. Chúa ra rao giảng Tin mừng Cứu độ, chịu khổ hình thập giá, chết và sống lại. Sau khi sống lại, Chúa lưu lại trần gian một khoảng thời gian ngắn để dạy dỗ, an ủi và sai phái các tông đồ đi ra làm nhân chứng tin mừng. Rồi Chúa lên nơi đã ở trước và ngự bên hữu Đức Chúa Cha. Trí khôn của chúng ta chỉ có thể hiểu được các sự kiện gắn liền với thời gian và không gian. Đôi khi chúng ta thắc mắc, lên trời là lên nơi nào và ở đâu? Xa hay gần. Bầu trời thì bao la như không cùng.

Thánh Luca, tác giả sách Tông Đồ Công Vụ làm sáng tỏ một chút: Nói xong, Người được cất lên trước mắt các ông và một đám mây bao phủ người khuất mắt các ông (Tđcv 1,9). Chúa Giêsu được cất lên, mây che phủ và khuất mắt các tông đồ. Từ nay, Chúa Giêsu Phục Sinh sẽ hiện diện với các tông đồ theo thể thức khác. Chúa không còn hiện ra cách nhãn tiền để đàm đạo, dậy dỗ hoặc ăn uống với các ông như trước nữa. Chúa sẽ hiện diện linh thiêng qua các việc cử hành phụng vụ, các Bí tích và hiện diện nơi cộng đoàn dân Chúa. Chúng ta hiểu chương trình cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện với lịch sử của một dân tộc được chọn lựa. Có khởi đầu, diễn tiến và sẽ thành tựu trong thời gian và không gian. Các sự kiện lịch sử về ơn cứu độ được in ghi rất cụ thể và gắn kết với một dòng dõi, nơi một đất nước xứ sở và dưới thời một vua chúa, quan quyền.

Sứ mệnh cứu thế của Chúa Kitô đã được chuẩn bị rất lâu dài qua cả ngàn năm. Thiên Chúa Cha đã tuyển chọn một người, một gia đình sinh xôi nẩy nở thành một bộ lạc và rồi trở thành một dân tộc để chuẩn bị đón Đấng Cứu Thế. Các tiên tri đã loan báo và hướng dẫn dân chúng về Đấng Xức Dầu sẽ xuất hiện để ban ơn cứu độ giải thoát. Khi thời gian đã mãn, Thiên Chúa đã thực hiện kế hoặch của Người qua Đức Kitô. Ngài là trung gian của vũ trụ vạn vật. Đây là một biểu tỏ tình yêu của Thiên Chúa. Tình yêu cao siêu và linh thiêng đi vào cụ thể nơi lòng người. Một Thiên Chúa tốt lành vô cùng hạ thân làm người, gồm thiên tính và nhân tính. Chúa Giêsu đã trải nghiệm một cuộc đời như mỗi người chúng ta. Đức Kitô đã mạc khải cho chúng ta về tất cả mầu nhiệm cao siêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa vô hình và vô biên đã mạc khải mầu nhiệm Nước Trời trong cách thế và ngôn ngữ giới hạn của con người qua niềm tin tôn giáo, văn hóa, tổ chức xã hội và ý thức hệ chính trị… Chúa Kitô đã gặp gỡ con người xác phàm đầy sự yếu đuối, u mê và lầm lạc. Chúa Kitô đã phải đối xử một cách rất kiên nhẫn và nhân từ trong việc truyền rao chân lý Nước Trời.

Mầu nhiệm Nước Trời đã được gieo trồng trong thửa đất của tâm hồn con người. Tâm trí của con người không dễ dàng đón nhận những sự cao siêu trên trời vượt quá tầm trí hiểu. Chúa Giêsu đã thường lấy những hình ảnh cụ thể, thí dụ, tỉ dụ, dụ ngôn và ngụ ngôn để khải mở tâm trí con người để dẫn tới nguồn Chân, Thiện, Mỹ. Đức Kitô dùng khoảng thời gian rất ngắn để hoàn thành tất cả những lời đã được các tiên tri loan báo: Công việc mà Chúa đã thực hiện trong Đức Kitô, tức là làm cho Ngài từ cõi chết sống lại, và đặt Ngài ngự bên hữu mình trên trời (Eph 1,20). Chúng ta học biết Đức Kitô là con người lịch sử. Có nơi sinh và có chỗ từ trần. Ngài đã khai mở Nước Trời ban ơn cứu độ cho toàn dân. Ngài vẫn tiếp tục hiện diện với Giáo Hội dưới nhiều cách thế để ban ơn cứu độ. Đức Kitô không bị đóng khung hay giới hạn vào một niềm tin đặc thù nào, nhưng ban ơn cứu độ phổ quát cho mọi người. Ai tin vào Ngài, sẽ tìm thấy ơn cứu độ.

Khi Chúa Kitô hoàn tất sứ mệnh trên trần gian, Chúa Cha đã trao mọi quyền năng trên trời dưới đất, để mọi sự qui phục dưới chân Ngài: Chúa Giêsu tiến lại và nói với các ông rằng: Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy (Mt 28,18). Chúng ta tin nhận Chúa Kitô là nguyên thủy và là cùng đích. Thật khó hiểu, chúng ta rơi vào giữa sự huyền nhiệm đời đời và cụ thể thực nghiệm, giữa thần thiêng và vật chất, giữa vô hạn và giới hạn. Chúng ta không thể đong đo tính đếm con đường tâm linh. Với niềm tin vào Chúa Kitô là trung gian, thân phận con người mỏng dòn được cất nhắc lên làm con Chúa và được hứa ban sự sống trường sinh. Con người có chiều sâu ước muốn đời sống tâm linh vô hạn. Ngưỡng vọng một cuộc sống vĩnh cửu. Linh hồn hiện hữu thiêng liêng không bị tiêu diệt.

Chúa Giêsu mong muốn Tin mừng cứu độ được tiếp tục truyền rao đến muôn thế hệ. Ngài đã trao phó sứ mệnh này cho các tông đồ và những người kế vị: Vậy các con hãy đi giảng dậy muôn dân, là phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần (My 28,19). Chúa sai các tông đồ ra đi rao giảng và làm phép rửa nhân danh Ba Ngôi Thiên Chúa. Sau khi nhận lãnh ơn Chúa Thánh Thần vào ngày Lễ Ngũ Tuần, các tông đồ đã ra đi tản mát mỗi người một nơi để làm nhân chứng cho Chúa Kitô. Các ngài đã can đảm và không còn nhút nhát sợ sệt như trước nữa. Các ngài ra đi khắp vùng loan tin mừng cứu độ và mời gọi nhiều người trở về cùng Chúa. Các ngài đã nhiệt tâm rao giảng và dám dùng sự sống sự chết của mình để làm nhân chứng cho lời sự thật. Nhớ rằng, trước kia các tông đồ chỉ là những người chài lưới, ít học và dân giã. Nhưng với ơn biến đổi của Chúa Thánh Thần tác động, các tông đồ đã hiên ngang chu toàn sứ mệnh mà Chúa Kitô đã ủy thác.

Chúa Giêsu về trời ngự bên hữu Thiên Chúa Cha. Thánh Phaolô dùng ngôn ngữ và cách hiểu biết của loài người để diễn tả: Chúa khiến mọi sự qui phục dưới chân Ngài và tôn Ngài làm đầu toàn thể Hội Thánh là thân thể Ngài (Eph 1,22). Chúa Kitô về trời là Ngài lên nơi đã ở trước. Ngài thuộc về thiên giới, còn chúng ta thuộc về hạ giới. Ngài không xuống trần để cai quản mà để phục vụ con người. Ngài hạ thân để chia sẻ tình yêu vô điều kiện. Ngài đã hiến mạng sống và yêu thương chúng ta đến cùng. Cách đơn giản, Chúa Giêsu muốn cứu chuộc chúng ta khỏi quyền lực ma quỉ, sự dữ và tối tăm. Ngài muốn chúng ta cùng được chung hưởng hạnh phúc muôn đời trong Nước Ngài.

Chúng ta được tự do chấp nhận hay chối từ lời mời gọi của Chúa. Nếu thật tâm tìm kiếm và đi theo lối bước của Chúa, chúng ta cần lắng nghe và thực hành lời Chúa trong đời sống mình. Một ý tưởng minh họa: Khi du khách đi du lịch đến một đất nước khác, việc đầu tiên mà du khách phải làm là đổi tiền của mình thành tiền lưu hành tại nước đó. Tiền của chúng ta trên thế gian này chẳng có giá trị gì trên nước trời, nếu nó không đổi thành tiền của nước Trời, đó chính là các việc lành phúc đức có giá trị. Đây là ý nghĩa lời Chúa nói với chàng thanh niên giầu có: Hãy bán gia sản và bố thí cho kẻ nghèo để mua Nước Trời.

Lạy Chúa, Chúa về trời nhưng Chúa vẫn còn luôn hiện diện giữa chúng con. Chúa không bỏ chúng con mồ côi. Chúa đi là để chuẩn bị chỗ cho chúng con và sẽ trở lại đón chúng con. Chúng con xin cảm tạ Chúa đến muôn ngàn đời.

 

 

 

 

 

16. Hành trình về Trời

 

Lễ Thăng Thiên không chỉ là lễ kính mừng Chúa Giêsu lên trời mà còn là dịp tái khẳng định tín điều mà chúng ta vẫn tuyên xưng: “Ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại, LÊN TRỜI ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng”. Nếu Đức Kitô không sống lại, niềm tin của chúng ta vô ích, và chúng ta chỉ là những người hoang tưởng, nhưng Ngài đã thực sự sống lại và lên trời.

Chúa Giêsu lên trời là để minh chứng và xác định lời hứa Ngài đã nói trước: “Thầy đi dọn chỗ cho anh em thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14:3). Đối với phàm nhân chúng ta, chắc chắn không còn niềm hạnh phúc nào lớn lao hơn nữa!

Thật là kỳ diệu, Thiên Chúa mà hóa thành Con Người, Con Người mà là Thiên Chúa, vừa hữu hình vừa vô hình. Chắc chắn chẳng một thần linh nào như vậy. Chỉ có Thiên Chúa của chúng ta như vậy mà thôi, độc nhất vô nhị. Thánh Phaolô đã nói: “Phải công nhận rằng: mầu nhiệm của đạo thánh thật là cao cả, đó là: Đức Kitô xuất hiện trong thân phận người phàm, được Chúa Thánh Thần chứng thực là công chính; Người được các thiên thần chiêm ngưỡng, và được loan truyền giữa muôn dân; Người được cả hoàn cầu tin kính, được siêu thăng cõi trời vinh hiển” (1 Tm 3:16).

Người ta chỉ nói LÊN trời, TỚI trời, hoặc VÀO trời, vì người ta không xuất phát từ trời. Nhưng Chúa Giêsu nói VỀ trời, vì Ngài xuất phát từ Trời, từ Chúa Cha: “Nếu anh em yêu mến Thầy thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đi về cùng Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy” (Ga 14:28). Người ta chỉ có thể VỀ nơi mà mình đã từng ở, còn nơi mình chưa ở thì không thể dùng động từ VỀ. Thế mà chúng ta cũng được Ngài cho phép VỀ trời với Ngài, dù chúng ta không xuất phát từ trời, chỉ là bụi tro xuất phát từ đất. Thật kỳ diệu quá đỗi!

Thánh Luca viết trong sách Công Vụ: “Thưa ngài Thê-ô-phi-lô, trong quyển thứ nhất, tôi đã tường thuật tất cả những việc Đức Giêsu làm và những điều Người dạy, kể từ đầu cho tới ngàyNgười được rước lên trời. Trước ngày ấy, Người đã dạy bảo các Tông Đồ mà Người đã tuyển chọn nhờ Thánh Thần. Người lại còn dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các ông thấy là Người vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình: trong bốn mươi ngày, Người đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa. Một hôm, đang khi dùng bữa với các Tông Đồ, Đức Giêsu truyền cho các ông không được rời khỏi Giêrusalem, nhưng phải ở lại mà chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa, điều mà anh em đã nghe Thầy nói tới, đó là: ông Gioan thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em thì trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần” (Cv 1:1-5). Chúa Giêsu về trời, nhưng rồi Ngài lại gởi Chúa Thánh Thần đến với chúng ta, đồng hành và hoạt động với chúng ta mọi nơi, mọi lúc.

Tư tưởng loài người không cao hơn mặt đất, tầm nhìn không vượt qua cái bóng của mình, thế nên khi nghe Đức Giêsu nói vậy, những người đang tụ họp ở đó tưởng rằng Ngài sắp sửa khôi phục vương quốc Ít-ra-en. Nhưng Ngài đáp: “Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1:7-8). Nói xong, Ngài được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Ngài, khiến các ông không còn thấy Ngài nữa. Họ ngơ ngẩn nhìn nhau rồi nhìn theo hút Ngài, chẳng hiểu thế là thế nào.

Đang lúc các ông còn đăm đăm nhìn lên trời phía Ngài đi, bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh và nói: “Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời” (Cv 1:11). Lời giải thích này cho chúng ta biết chắc rằng Chúa Giêsu sẽ đến thế gian lần thứ hai vào một lúc nào đó, bất kỳ thời điểm nào mà chúng ta không thể biết được, thậm chí có thể là ngày mai hoặc hôm nay. Vì thế mà ai cũng phải sẵn sàng và tỉnh thức. Không chỉ vậy, với mỗi người còn là cái chết, vì tử thần có thể đến bất cứ lúc nào, không ai có thể ngờ được!

Cuộc đời Kitô hữu là cuộc lữ hành trần gian, là hành trình đức tin, là hành trình về trời. Đức Kitô đã về trời trước, đó là bảo chứng cho chúng ta. Tác giả Thánh Vịnh mời gọi: “Vỗ tay đi nào, muôn dân hỡi! Mừng Thiên Chúa, hãy cất tiếng hò reo! Vì Đức Chúa là Đấng Tối Cao, Đấng khả uý, là Vua Cả thống trị khắp địa cầu” (Tv 47:2-3).

Niềm vui quá lớn, nỗi mừng khôn tả. Nhưng chúng ta hữu hạn, chỉ biết thể hiện bằng tất cả khả năng phàm nhân: “Thiên Chúa ngự lên, rộn rã tiếng hò reo, Chúa ngự lên, vang dội tiếng tù và. Hãy đàn ca, đàn ca lên mừng Thiên Chúa, đàn ca lên nào, đàn ca nữa kính Vua ta! Thiên Chúa là Vua toàn cõi địa cầu, hãy dâng Người khúc đàn ca tuyệt mỹ. Thiên Chúa là Vua thống trị chư dân, Thiên Chúa ngự trên toà uy linh cao cả” (Tv 47:6-9). Thiên Chúa không đòi hỏi quá sức chúng ta, Ngài chỉ muốn chúng ta chân thành với khả năng riêng của mỗi người.

Thánh Phaolô cho biết: “Tôi cầu xin Chúa Cha vinh hiển là Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ban cho anh em thần khí khôn ngoan để mặc khải cho anh em nhận biết Người. Xin Người soi lòng mở trí cho anh em thấy rõ, đâu là niềm hy vọng anh em đã nhận được, nhờ ơn Người kêu gọi, đâu là gia nghiệp vinh quang phong phú anh em được chia sẻ cùng dân thánh, đâu là quyền lực vô cùng lớn lao Người đã thi thố cho chúng ta là những tín hữu” (Ep 1:17-19a). Nhận biết Thiên Chúa là niềm hạnh phúc lớn lao, nhận biết Ý Ngài và vui mừng làm theo là niềm hạnh phúc lớn lao hơn. Quả thật, chấp nhận và làm theo Ý Chúa là điều không dễ chút nào, vì chúng ta thường chỉ muốn “được như ý” mà thôi!

Thánh Phaolô giải thích: “Đó chính là sức mạnh toàn năng đầy hiệu lực, mà Người đã biểu dương nơi Đức Kitô, khi làm cho Đức Kitô trỗi dậy từ cõi chết, và đặt ngự bên hữu Người trên trời. Như vậy, Người đã tôn Đức Kitô lên trên mọi quyền lực thần thiêng, trên mọi tước vị có thể có được, không những trong thế giới hiện tại, mà cả trong thế giới tương lai. Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Kitô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội Thánh; mà Hội Thánh là thân thể Đức Kitô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn” (Ep 1:19b-23). Đức Kitô được Chúa Cha trao ban mọi thứ, nhưng Ngài không giữ riêng cho Ngài, mà Ngài lại muốn chia sẻ với chúng ta, làm cho chúng ta được viên mãn với Ngài, dù chúng ta không chỉ là phàm nhân mà còn là những tội nhân hoàn toàn bất xứng.

Niềm hạnh phúc như điệp khúc cứ lặp đi lặp lại trong cuộc đời chúng ta, trên suốt hành trình về trời. Không hạnh phúc sao được, vì chúng ta được Thiên Chúa ưu đãi quá nhiều, minh nhiên nhất là chúng ta được xóa án tử và được khôi phục cương vị làm con, đặc biệt là cũng sẽ được về trời.

Một hôm, mười một môn đệ đi tới miền Galilê, đến ngọn núi Đức Giêsu đã truyền cho các ông đến. Khi thấy Ngài, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi. Bản tính nhân loại là thế, tận mắt thấy bao phép lạ mà vẫn chưa đủ tin. Vả lại, họ cứ tưởng Đức Giêsu là chính khách, Ngài sẽ giành quyền cai trị Ít-ra-en từ bọn thực dân Rôma. Khi đó, Đức Giêsu đến gần họ và nói: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất” (Mt 28:18). Có lẽ nghe Ngài nói vậy thì họ càng cho rằng Chúa Giêsu đang làm chính trị thật, điều họ nghĩ không sai. Thế nhưng lại không phải vậy, Chúa Giêsu không bao giờ làm chính trị, và Phúc Âm cũng không là bản cương lĩnh chính trị.

Chúa Giêsu nói với họ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28:19-20a). Ngài biết Ngài sắp đến giờ về cùng Chúa Cha, nên Ngài căn dặn kỹ lưỡng. Ngài về trời nên Ngài bảo chúng ta vào đời làm chứng nhân về Ngài. Đó vừa là một tặng phẩm vừa là một mệnh lệnh, vừa là một đặc ân vừa là một trọng trách.

Trước khi về trời, lời cuối của Chúa Giêsu trên thế gian là một lời hứa: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:20b). Lời hứa đó đã được chứng tỏ rõ ràng nhất là Bí tích Thánh Thể, một phép lạ vĩ đại vẫn xảy ra hằng ngày ở khắp nơi trên thế giới. Biết rõ chúng ta yếu đuối nên Chúa Giêsu rất “tội nghiệp” chúng ta, Ngài cũng đã hứa: “Thầy sẽ không để anh em mồ côi” (Ga 14:8). Và lời hứa đó lại được thực hiện ngay lập tức: Ngài về trời rồi gởi Đấng Bảo Trợ đến ở với chúng ta (Ga 14:16). Thánh Thể và Thánh Thần luôn đồng hành với chúng ta trên suốt Hành Trình Về Trời.

Cái gì cũng có “mở” và “kết”. Cũng vậy, Hành Trình Về Trời được khởi đầu từ điểm SINH và kết thúc ở điểm TỬ. Hành trình đó có thể là “con đường” dài hoặc ngắn, không ai biết; “con đường” đó cũng có thể rộng hoặc hẹp, nhưng ai chọn đường hẹp thì tốt hơn đường rộng, càng thênh thang càng “dễ chết”, có thể “chết yểu”, “chết” trước kỳ hạn, “chết” ngay khi mình đang sống. Chết như vậy thì thật là nguy hiểm! Vì thế, chính Chúa Giêsu đã khuyên những ai thực sự muốn được trường sinh vĩnh phúc: “Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy” (Mt 7:13-14). Không chỉ đơn giản như vậy, người ta còn phải “chiến đấu để qua được cửa hẹp” (Lc 13:24). Rất “ngược đời”, nhưng phải dám “ngược” như vậy thì mới mong “xuôi” về vĩnh cửu.

Thánh nữ Faustina so sánh: “Như bệnh tật được đo bằng nhiệt kế, sốt cao cho chúng ta biết là bệnh nặng, đời sống tâm linh cũng vậy, đau khổ là nhiệt kế đo tình yêu Chúa trong linh hồn” (Nhật Ký, số 774). Đây là điều rất khó đối với bản chất phàm nhân, nhưng người ta có thể chấp nhận nếu cố gắng hiểu theo cách hiểu của Chúa và nhìn theo cách nhìn của Chúa.

Lạy Thiên Chúa, Con Chúa về trời là dấu bảo đảm về sự sống vĩnh hằng mà chúng con đang cố gắng chiến đấu để đạt được. Xin mau ban Chúa Thánh Thần để đổi mới chúng con, làm cho chúng con can đảm làm chứng về Chúa Ba Ngôi. Xin giúp chúng con đủ sức vượt qua chính mình để xứng đáng lãnh nhận những gì Ngài đã hứa ban. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô Phục Sinh, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.

 

 

 

 

 

17. Lần gặp gỡ cuối cùng

(Trích dẫn từ tập sách “Giải Nghĩa Lời Chúa” – của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)

 

1. Lần Gặp Gỡ Cuối Cùng

Cả bốn sách Tin Mừng đều thuật lại nhiều lần Chúa Phục sinh hiện ra với các môn đệ. Nhưng chỉ hai thánh sử Marcô và Luca có những lời kết thúc mọi lần gặp gỡ ấy. Marcô viết: sống lại lúc tảng sáng, ngày thứ nhất trong tuần, trước tiên Ngài hiện ra cho Maria Magđala… Sau đó Ngài tỏ mình ra cho hai người trong nhóm họ ở trên đàng… Sau cùng Ngài đến với chính nhóm Mười Một đang khi họ dùng bữa… Và sau khi đã nói cùng họ xong, Chúa Giêsu được nhắc về trời và lên ngự bên hữu Thiên Chúa (16,9-19).

Marcô cho ta có cảm tưởng mọi lần Chúa Phục sinh hiện đến đều xảy ra vào ngày thứ nhất trong tuần và Người đã lên trời cũng trong chính ngày ấy. Như vậy rõ ràng Marcô không đồng ý với Luca trong bài sách Công vụ hôm nay, vì tác giả này viết: Chúa Giêsu chỉ về trời 40 ngày sau khi sống lại và đã hiện ra nhiều lần với các môn đệ.

Nhưng chính Luca cũng lại mâu thuẫn với mình nữa. Trong sách Công vụ thì ngài viết như thế, còn trong sách Tin Mừng thì ngài lại viết hầu giống như Marcô. Ngài cũng thuật rằng: Ngày thứ nhất trong tuần Chúa Phục sinh tỏ mình ra cho hai môn đệ đi Emmau vào lúc sau khi ngày đã xế chiều. Ngay giờ đó họ đã chỗi dậy trở về Giêrusalem và gặp thấy các bạn đang sum họp cùng nhau… Họ đang còn nói thì Ngài đã đứng giữa họ… Rồi Ngài dẫn họ đến tận Bêthania: đoạn giơ tay, Ngài chúc lành cho họ. Và xảy ra là đang khi Ngài chúc lành cho họ, thì Ngài tách lìa họ và được nhắc lên trời (24,13-51).

Luca có thể quên những điều ngài vừa viết khi soạn sách Công vụ các Tông đồ không? Và ngài có ý gì khi khẳng định việc Chúa Lên Trời khác nhau như vậy?

Ðọc kỹ các sách Kinh thánh, chúng ta có thể thấy rằng, trong sách Tin Mừng, Luca đã theo Marcô. Và cả hai đều muốn tô đẹp ngày Chúa nhật Phục sinh. Ðối với cả hai, đó là ngày Chúa sống lại hiện ra với các môn đệ. Chắc chắn các ngài đã không muốn thuật lại hết mọi lần Chúa hiện ra. Các ngài đã lựa chọn kể lại một vài lần hiện ra đặc sắc. Và câu các ngài viết để thuật lại việc Chúa Lên trời thực ra nhằm mục đích kết thúc mọi lần Chúa sống lại hiện ra hơn là muốn khẳng định Chúa đã lên trời trong chính ngày Chúa nhật Phục sinh.

Nhất là trong Tin Mừng Luca, chúng ta thấy hai môn đệ đã phải trở về Giêrusalem vào lúc tối. Ðến nơi, họ gặp các Tông đồ, rồi được Chúa hiện ra chung cho mọi người và sau đó tất cả được Người dẫn đến Bêthania để chứng kiến việc Người lên trời. Như vậy, Người lên trời vào lúc đêm tối ư?

Không, lối hành văn của hai bản Tin Mừng Marcô và Luca trên đây không ghi lại lịch sử theo chi tiết thời gian. Hai tác giả muốn loan truyền Tin Mừng cứu độ: Ðức Kitô đã sống lại ngày thứ nhất trong tuần; Người đã hiện ra dạy dỗ các môn đệ nhiều lần; và lần cuối cùng Người đã cho họ thấy Người lên trời. Còn “lần cuối cùng” này xảy ra vào ngày nào, lúc nào, thì không tác giả nào muốn xác định theo lịch sử thời gian. Hai thánh Marcô và Luca, “bề ngoài” có vẻ như muốn quả quyết là vào cuối ngày thứ nhất trong tuần, nhưng thật sự như chúng ta đã thấy, cả hai chỉ muốn dùng việc lên trời để kết thúc mọi lần hiện ra; và các lần hiện ra này lại được xếp cả vào ngày thứ nhất trong tuần để tô điểm cho ngày Chúa sống lại. Ta có thể nói hai bản văn Tin Mừng Marcô và Luca là hai bài thần học về ngày Chúa Nhật: đó là ngày Chúa sống lại hiện đến với các môn đệ. Ðồng thời cũng là những bài thần học về mầu nhiệm Chúa Phục sinh. Mầu nhiệm này bao gồm việc Người sống lại, hiện ra với các môn đệ và lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa.

Theo Luca, chúng ta có thể nghĩ Chúa sống lại như mặt trời lúc rạng đông và Người về trời như vừng ô lúc lặn; còn cả ngày, thì ánh sáng Người chiếu soi cho các môn đệ. Luca kể chuyện Chúa đã liên tiếp hiện ra trong một ngày. Nếu chúng ta gom mọi lần hiện ra đó vào một và coi như chỉ là những diện khác nhau của việc Chúa sống lại tỏ mình ra cho các môn đệ, thì khi Người hiện đến họ biết Người đã sống lại và lúc Người biến đi họ biết Người đã về trời. Không vậy thì phải hỏi Người ở đâu? Nhưng họ đã không hỏi vì đã tin quyền năng Thiên Chúa đã phục sinh Ðức Giêsu từ nơi kẻ chết, thì mặc nhiên họ đã nhận ra rằng Người đã được nhắc lên trong vinh quang Thiên Chúa. Hai người trong nhóm họ đã viết lại việc Người lên trời cách hữu hình chẳng qua để muốn nói rằng từ nay Chúa sống lại không hiện ra nữa.

Nhưng tại sao Luca trong sách Công vụ lại nói đến con số 40 ngày như là thời gian để Chúa Phục sinh hiện ra dạy dỗ các môn đệ? Có thể lần hiện ra cuối cùng đã xảy ra vào ngày thứ 40 sau khi Chúa sống lại. Nhưng có thể hơn là Luca có một ẩy ý gì đây khi nêu ra con số này.

Chúng ta biết Môsê đã ở trên núi 40 ngày; dân được chọn đã đi trong sa mạc 40 năm; Êlya đã đến núi Horeb 40 ngày và nhất là chính Ðức Kitô đã chay tịnh 40 ngày trong sa mạc. Con số 40 ngày trở thành biểu tượng thời gian kết hợp với Thiên Chúa và được Thiên Chúa dạy dỗ. Có lẽ Luca muốn nói lên hạnh phúc và địa vị ưu việt của các Tông đồ. Các ngài là những người được Chúa sống lại hiện đến dạy dỗ trong 40 ngày. Như vậy các ngài đã có giáo lý đầy đủ của Chúa phục sinh và chúng ta phải kính nể, tin yêu giáo lý ấy.

Bởi vì chính đoạn sách Công vụ các Tông đồ hôm nay không có ý trình bày việc Chúa lên trời, đó là những lời mở đầu cho cả một cuốn sách. Tác giả nói đến nhiều ý tưởng mà tựu trung là để chuyển từ cuộc sống trần gian của Ðức Kitô sang thời đại hoạt động của các Tông đồ. Nên vai chính trong đoạn văn này là Phêrô và các bạn ông. Họ là những người được Ngài tuyển lựa dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần, được tiếp xúc với Chúa Phục sinh trong 40 ngày là thời gian đầy đủ và lý tưởng, được Ngài dạy dỗ cặn kẽ về hoạt động tương lai và cuối cùng được thấy Ngài về trời để biết rõ nay đã đến thời đại của họ. Chính vì vậy mà bài sách Công vụ hôm nay kết thúc bằng câu: “Ðấng vừa bỏ các ông mà siêu thăng, sẽ đến cùng một thể như các ông đã thấy Ngài đi lên trời”, để hàm ý nói rằng: các ông phải đi làm việc cho đến ngày Ngài lại đến.

Như vậy chúng ta không còn lý do nào nữa để cứ nhìn lên trời mãi. Hãy đi thi hành mệnh lệnh Chúa để lại mà cả hai bài sách Công vụ lẫn bài Tin Mừng đều tường thuật.

2. Lệnh Chúa Truyền

Bài sách Công vụ cho ta thấy: suốt 40 ngày Chúa Giêsu đã hiện ra cho các môn đệ mà nói về Nước Thiên Chúa. Rồi đang lúc đồng bàn với họ, Ngài truyền cho họ chớ rời xa Giêrusalem… nhưng hãy đợi chịu lấy quyền năng của Thánh Thần… rồi sẽ là chứng tá cho Ngài đến tận cùng trái đất.

Cụ thể, các Tông đồ phải ở lại Giêrusalem chờ lãnh ơn Thánh Thần rồi ra đi làm chứng cho Chúa Giêsu. Lệnh truyền có vẻ đơn sơ, nhưng nhiều ý nghĩa và hậu quả. Sau ngày Chúa thực hiện những hành vi quyết định để cứu thế qua việc chịu chết và sống lại, Giêrusalem trở thành nơi phát xuất ơn cứu độ. Chúa Thánh Thần sẽ xuống trên các Tông đồ ở Giêrusalem để tung họ đi vào thế giới. Họ sẽ phải làm chứng về Chúa Giêsu nhưng nhờ sức mạnh của Thánh Thần. Thời đại của Giáo hội vì thế là thời đại của Chúa Thánh Thần làm việc với các Tông đồ, mà đối tượng là làm chứng cho Chúa Giêsu.

Thánh Matthêô trong bài Tin Mừng hôm nay không dùng những từ ngữ như thế, nhưng ngài cũng không nói khác Luca. Ngài đã tả Chúa sống lại hiện ra lần cuối cùng ở trên núi. Núi nào, ngài không nói rõ, dường như để chúng ta nhớ lại những lần Ðức Giêsu đã chay tịnh trên núi, đã giảng dạy trên núi và đã biến hình trên núi. Và tất cả những kỷ niệm đó đều có thể tăng thêm ý nghĩa cho việc Người đứng trên núi hôm nay với các môn đệ.

Việc Người được các Tông đồ thờ lạy và tuyên bố được Chúa Cha ban cho mọi quyền trên trời dưới đất, phải chăng không muốn gợi lại câu chuyện Satan cám dỗ Người hãy thờ lạy nó để được tất cả trời đất làm vương quốc? Và hôm nay Người đã sống lại vinh quang mà đứng trên núi, làm sao không khiến Phêrô nhớ lại hôm Người biến hình. Và nếu Người đã có lần ngồi trên núi giảng về Tám mối phúc thật, thì hôm nay Người cũng đang lệnh cho các Tông đồ: hãy ra đi làm cho mọi dân tộc trở thành môn đệ, rửa tội cho người ta nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần, và dạy dỗ họ giữ mọi lệnh truyền. Và nay, Ta ở với chúng con mọi ngày cho đến tận thế.

Thánh Matthêô đã diễn tả lệnh truyền qua nếp sống của Hội Thánh. Ngài dùng các công thức Rửa tội của Hội Thánh. Ngài nói đến sự hiện diện của Chúa ở với Hội Thánh cho đến tận thế như là bảo chứng việc Chúa phù trợ Hội Thánh nhờ Thánh Thần. Nghĩa là đối với thánh Matthêô, thời đại của Hội Thánh cũng là thời đại của các Tông đồ làm việc với sự cộng tác và nâng đỡ của Chúa Thánh Thần. Và đối tượng sinh hoạt của Hội Thánh cũng là làm cho mọi dân tộc trở thành môn đệ Chúa Giêsu qua việc rao giảng Người cho họ và rửa tội cho họ nhân Danh Ba Ngôi.

Do đó với những lời lẽ khác nhau, bài sách Công vụ và bài Tin Mừng hôm nay đều ghi lại lệnh Chúa truyền cho các môn đệ trước khi Người về trời. Họ phải đón nhận Thánh Thần và ra đi làm chứng về Chúa Giêsu để thiên hạ trở thành môn đệ Người. Lệnh truyền này được ban bố sau khi Chúa sống lại để tập họp nhóm Mười Một qua các lần hiện ra để họ tin mầu nhiệm Phục sinh và được dạy dỗ về Nước Trời.

Ngày lễ Chúa Lên Trời, Phụng vụ muốn cho chúng ta thấy nhóm Mười Một ấy đã thực sự trở thành chứng nhân của Chúa Phục sinh. Họ còn phải chờ đón ơn Thánh Thần mới có thể ra đi tuyên chứng. Nhưng việc họ đã được huấn luyện xong nói lên thời gian của Chúa Giêsu ở trần gian đã kết thúc. Người lui khỏi họ mà về trời để thời đại của Hội Thánh khởi sự. Lễ Chúa Lên Trời vì thế có ý nói lên sự kiện mới trong đời sống của Hội Thánh và của chúng ta hơn là một biến cố nữa trong cuộc đời của Chúa Giêsu. Bởi vì như lời Kinh Tin Kính chúng ta sắp đọc: chính vì chúng ta mà Người đã sinh ra làm người v.v… Và hôm nay Người về trời cũng là vì chúng ta. Nên chúng ta phải suy nghĩ về cuộc đời của mình nhân việc Người lên trời để ngày lễ hôm nay đạt được kết quả.

3. Thi Hành Lệnh Chúa

Trong 40 ngày chúng ta đã cử hành mầu nhiệm Phục sinh, chúng ta đã suy nghĩ về những lần Chúa sống lại hiện ra với các môn đệ. Và nhất là chúng ta có thể nói được như Phêrô rằng: chúng tôi là những người được chọn để ăn uống với Người sau khi Người đã sống lại, vì từ ngày đó chúng ta vẫn tham dự Thánh lễ và Tiệc Thánh. Chúng ta phải coi mình như các môn đệ 40 ngày sau khi Người Phục sinh: sẵn sàng lãnh lấy trách nhiệm tiếp nối sứ mạng của Người ở trần gian. Phải ra đi khỏi nơi Bàn tiệc này như núi thánh, để gặp mọi người và làm chứng cho họ về Nước Thiên Chúa. Việc Chúa Giêsu về trời nói lên rằng: thời đại của Hội Thánh và của chúng ta đã khởi đầu. Công cuộc cứu thế từ nay chuyển sang chúng ta.

Dĩ nhiên chúng ta không đơn độc. Còn Thánh Thần nữa. Và phải có Thánh Thần chúng ta mới thi hành được sứ vụ. Từ hôm nay Giáo hội khuyên ta hợp ý cầu xin ơn Chúa Thánh Thần. Và như cộng đoàn các môn đệ xưa, Giáo hội chờ đợi Thánh Thần với Ðức Mẹ. Nay cũng là tháng Năm, tháng hoa của Mẹ chúng ta. Con cái Mẹ hãy sốt sắng vây quanh Người để cầu xin ơn Thánh Thần xuống dồi dào trên Giáo hội và trong các tâm hồn.

Tuy nhiên, những ngày tới không phải chỉ là những ngày cầu nguyện. Phêrô và các Tông đồ đã làm việc đang khi chờ đợi ơn Thánh Thần. Các ngài chọn người thay chỗ Giuđa. Và phải là người có tư cách để làm chứng, tức là không những đã ở trong hàng ngũ môn đệ và biết Chúa Giêsu, nhưng nhất là phải tin Người đã sống lại để đem sức sống mới vào thế gian. Vì sứ mệnh của Giáo Hội tựu trung là đem vào đời sống của con người mầm mống của sự phục sinh sau này, tức là sự sống trường cửu của chính Thiên Chúa.

Sự sống này giờ đây Chúa sẽ ban thêm cho chúng ta trong Thánh lễ này để hôm nay và hằng ngày, chúng ta đem tăng cường cho sự sống của mọi người, khi chúng ta phấn đấu cho đời sống loài người mỗi ngày một đẹp hơn, tốt hơn và hạnh phúc hơn.

 

 

 

 

 

18. Thầy ở cùng anh em

 

Mấy năm trước, một giáo phái bên Mỹ, qui tụ được năm bảy chục người gì đó. Ông giáo chủ cũng là người có uy tín nên nói ra câu nào cũng được các đệ tử lắng nghe, dù ông cũng lợi dụng sự cả tin của tín đồ, để thu góp của cải của họ. Năm 2003, ông giáo chủ bảo ngày 20 tháng 12 năm này, các người ở tinh cầu mới sẽ đến vào ban đêm để rước họ đi lên ở trên tinh cầu mới đó. Sống trên tinh cầu đó được so sánh như lên thiên đàng. Các môn đồ đã tin vào lời ông giáo chủ; vào giờ đó ngày đó, ông giáo chủ và môn đồ đều tự sát để được rước lên tinh cầu mới. Ai sợ chết, đều bị ép buộc tự sát… Vài hôm sau, cảnh sát mới phát hiện, dân quanh vùng báo vì mùi hôi thối xông lên…Chúa nhật hôm nay, Hội thánh cũng nói về việc Chúa Giêsu lên trời trong vinh quang. Tuy nhiên việc lên trời này đáng hân hoan, không phải đáng kinh sợ như câu chuyện chúng ta nghe ở trên. Kính mời suy niệm…

a. Trước hết, theo bài Tin Mừng hôm nay, Matthêu tường thuật biến cố Chúa về trời cách đặc biệt: Chúa Giêsu hẹn 11 tông đồ và một số môn đệ, đến miền Bắc Galilêa, nước Do Thái, trên một ngọn núi, không rõ là ngọn núi nào… Tại đó, trước khi về trời, Chúa nói mấy lời từ biệt, dặn dò các ông với những lời nói vừa trang trọng, vừa rất thân tình, dạy các ông phải tiếp tục sứ mạng đem giáo lý và ơn cứu độ đến tận cùng thế giới. Đó chính là sứ mạng Chúa Cha đã giao phó cho Ngài; giờ đây Ngài đã hoàn tất trong vinh quang, nên Ngài phải về bên Chúa Cha. Dù vậy Chúa Giêsu cũng hứa hẹn với các ông là không bỏ các ông mồ côi. Ngài về trời để dọn chỗ cho các ông; nhưng trong khi còn ở trần gian, Ngài vẫn ở cùng các ông mọi ngày cho đến tận thế…

b. Sau đây là một vài câu hỏi suy niệm: * Tại sao nói Chúa Giêsu về trời trong vinh quang? Chúng ta phải nghĩ thế nào?

Thưa chính là vì Chúa Giêsu đã hoàn thành sứ mạng Chúa Cha giao phó cách tốt đẹp, về trời trong vinh quang chính là để được Chúa Cha tôn vinh…Chúa Con về trời là về cùng Chúa Cha, về bên Chúa Cha, để được Cha khen thưởng, để được tôn vinh, vì đã thực hiện trọn vẹn sứ mạng cứu chuộc Cha giao phó. Chúa Cha yêu Chúa Con hết mực, thế mà khi Chúa Con làm tròn sứ mạng Cha giao phó, chẳng lẽ Cha không vui, chẳng lẽ Cha không khen thưởng? Chúng ta thử suy nghĩ: sau khi Chúa Con hoàn tất công việc cứu chuộc cách xuất sắc, nếu Chúa Cha không khen thưởng Chúa Con, đó mới là điều lạ chứ! Vì Chúa Cha tôn vinh Chúa Con, nên Chúa Con về trời để được trao cho toàn quyền trên trời dưới đất (Mt 28, 18), vì thế Chúa mới sai các môn đệ tiếp tục công việc của Chúa…

* Khi Chúa về trời, Ngài có bỏ môn đệ mồ côi không? Chúa về trời, có nghĩa là không còn hiện diện với các môn đệ bằng thể xác vật chất nữa, không còn cùng ăn cùng ngủ, giảng dạy họ hằng ngày, nâng đỡ đời sống vui buồn sướng khổ với họ trực tiếp, như khi Chúa còn sống. Dù vậy lời Chúa nói: Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế, đây không phải là câu nói ngược. Hội thánh Chúa Giêsu thiết lập ở trần gian, trên nền tảng các tông đồ luôn vẫn có Chúa hiện diện cách thiêng liêng, qua các bí tích, nhất là qua sự hiện diện đầy ơn sũng của Chúa Thánh Thần…

Một điều khác, Chúa về trời thì có lợi cho các tông đồ (Gn 16,7): Thầy không đi, thì Thánh Thần sẽ không đến (Gn 16,7) – Thầy đi để dọn chỗ cho anh em (trong Nước Trời) (Gn 14,2) – Thầy sẽ trở lại đem anh em về với Thầy (Gn 14,3).

c. Gợi ý sống và chia sẻ: Nghe nói về Nước Trời, quê hương trên trời, ai nghe cũng thích, cũng ham muốn cả; tuy nhiên muốn được lên trời, ta có sẵn sàng sống ở dưới đất này cho đàng hoàng tử tế, để mai sau đáng được lên trên đó không? Nhất là ta có cố gắng sống đúng lời Chúa dạy không?

 

 

 

 

 

19. Biệt ly hay hội ngộ? – An Phong

 

Phúc âm hóa thế giới đang diễn tiến ra sao? Đâu là “quyền lực lớn lao Người đã thi thố” (Ep 1:19) trong công cuộc Phúc âm hóa thế giới? Những vấn đề lớn đó sẽ được giải đáp trong biến cố Chúa thăng thiên hôm nay.

LỜI HỨA.

Cuối cùng “mười một môn đệ đi tới miền Galilê, đến ngọn núi cao Đức Giêsu đã truyền cho các ông đến” (Mt 28:16) để “được cất lên ngay trước mắt các ông và được rước lên trời.” (Cv 1:9.11) Thật là ấm cúng và cảm động, mặc dù cảnh ly biệt diễn ra giữa trời. Đức Giêsu “lìa bỏ các ông” (Cv 1:11) để thoát khỏi giới hạn vật chất và hiện diện sâu xa hơn khắp vũ trụ, nhất là trong tâm hồn tín hữu. Nhờ quyền lực Thánh Linh, Đức Giêsu có thể thực hiện lời hứa “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28:20) Sự hiện diện vô cùng sâu xa và đích thực đó như một bảo đảm vững chắc cho công cuộc Phúc âm hóa nhân loại.

Bảo đảm đó có thể tìm thấy nơi quyền lực của Đức Giêsu phục sinh. Quả thực, “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất” (Mt 28:18) sau khi sống lại từ cõi chết. Chính Chúa Cha đã trao quyền bính của Nước Thiên Chúa vào tay Chúa Con. Không một quyền lực nào lớn hơn Chúa Cha để có thể lấn át được quyền bính Chúa Con. Nếu thế, tại sao phải sợ trước những thách đố cuộc đời? Tại sao chưa dấn thân vào công cuộc Phúc âm hóa? Tại sao vẫn coi việc truyền giáo như công trình cá nhân hay lệ thuộc vào chức tước, tài năng, tiền bạc? Công cuộc Phúc âm hóa hoàn toàn lệ thuộc vào một mình Đấng nắm trọn quyền bính vũ trụ mà thôi.

Sau khi đã củng cố niềm tin vào quyền bính độc nhất đó, Đức Giêsu trao sứ mệnh Phúc âm hóa cho các môn đệ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ.” (Mt 28:19) “Hãy đi” ra khỏi nhà, khỏi cái tôi ích kỷ. “Hãy đi”, chứ đừng nằm lì một chỗ mà hưởng thụ. “Hãy đi” đem Tin Mừng cứu độ đến muôn dân thuộc những nền văn hóa khác nhau. Phúc âm hóa không biên giới: “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất.” (Cv 1:8) Phải mở rộng tầm nhìn mới mong Phúc âm hóa thành công. Tự bản chất, Phúc âm hóa không thể đi đôi với kỳ thị. Không biên giới nào có thể ngăn cản bước chân người rao giảng Tin Mừng. Nói khác, Tin Mừng thúc bách người tín hữu ra đi không ngừng. Kitô hữu là lữ khách suốt đời ra đi đến với mọi người qua con đường Giêsu. Đó là một sứ mệnh cao cả, cao cả như sứ mệnh Thày Chí Thánh.

Sứ mệnh đó do chính Thiên Chúa trực tiếp trao cho tín hữu ngày lãnh bí tích thanh tẩy “nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28:19), chứ không nhân danh bất cứ người nào. Sứ mệnh Kitô hữu có một nguồn gốc vô cùng sâu xa nơi Thiên Chúa và dựa trên “sức mạnh toàn năng đầy hiệu lực, mà Người đã biểu dương nơi Đức Kitô, khi làm cho Đức Kitô trỗi dậy từ cõi chết, và đặt ngự bên hữu Người trên trời.” (Ep 1:19b-20) Chính nhờ sức mạnh đó, họ mới có thể “dạy bảo muôn dân tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.” (Mt 28:20) Sức mạnh đó đang đẩy mạnh công cuộc Phúc âm hóa thế giới, vì Kitô hữu đã “nên một với Người, nhờ được sống lại như Người” (Rm 6:5) vì họ đã “nhận được sức mạnh của Thánh Thần” (Cv 1:8) như một hồng ân “Chúa Cha đã hứa.” (Cv 1:4)

Hồng ân vô cùng cao cả đó khiến họ có thể tham gia vào việc thánh hóa tha nhân vì được chia sẻ thừa tác vụ linh mục của Đức Giêsu khi “chịu phép rửa trong Thánh Thần.” (Cv 1:5) Việc thánh hóa đạt tới cao điểm trong thánh lễ. Tham gia vào việc thờ phượng là làm cho lời Chúa nhập thể vào cộng đoàn và làm chứng cho Chúa. Nhờ đó, Kitô hữu có quyền thi hành tông vụ để tích cực xây dựng cộng đoàn Dân Chúa, theo nguồn ơn phục vụ là chính Thánh Linh Thiên Chúa đã ban cho toàn thể Giáo Hội. Sức mạnh Thánh Thần không ngừng tăng cường sự hợp tác trong cộng đoàn và làm cho Kitô hữu sống những giá trị Tin Mừng. Chính vì biết lắng nghe Thánh Linh với tâm tình cầu nguyện trong nội tâm và đời sống, Kitô hữu ngày càng có tinh thần phục vụ mạnh mẽ hơn. Càng phục vụ càng chia sẻ vương quyền với Đức Giêsu. Nhờ đó công cuộc Phúc âm hóa muôn dân càng mau hoàn thành.

CHIỀU HƯỚNG PHỤC VỤ HÔM NAY.

Quả thực, phục vụ là con đường đẹp nhất đem Tin Mừng đến cho muôn dân. Chính Đức Giêsu cũng đã xác nhận sứ mạng của mình khi nói: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người.” (Mt 20:28; Mc 9:35; Ga 13:4-15; Rm 5:6-21; Is 53:10-11) Bước theo Thầy Chí Thánh, Mẹ Têrêsa Calcutta đã hành động “như một mẫu mực Phúc âm hóa, công bố Tin Mừng bằng việc làm hơn là lời nói.” Đó là lời Đức TGM Henry Sebastian D’Souza thuộc giáo phận Calcutta công bố khi hân hoan nhắc lại thông điệp Instrumentum Laboris. Mẹ Têrêsa đặt nơi mỗi cửa nhà nguyện của Mẹ những chữ “tôi khát” Đức Giêsu. Đây chính là những chữ ngày xưa “đã gợi hứng cho mẹ rời bỏ Loreto êm ấm mà liều mạng dấn thân vào những đường phố bất ổn ở Calcutta.” Công cuộc dấn thân cho người nghèo đã đáp ứng cho cơn khát này (Zenit 21. 04. 02). Không thể giả điếc làm ngơ trước cơn gào thét rát cổ bỏng họng của các Giáo Hội Á Châu. Bao nhiêu dân cư trên lục địa mênh mông đó đang gào thét trước những cơn đói khát công lý kinh niên.

Làm giảm cơn đói khát đó, Giáo Hội sẽ hoàn thành được sứ mệnh Phúc âm hóa lục địa bao la này. Thực vậy, Đức TGM Calcutta nói tiếp: “Phúc âm hóa có thể mạnh lên nhờ chứng từ xã hội, không chỉ dưới hình thức bác ái như Mẹ Têrêsa, nhưng cũng nhờ những phương pháp phân tích quan trọng. Giáo Hội Á châu phải hành động để chống nạn mù chữ, yểm trợ quyền phụ nữ, và bảo đảm nền y tế tốt đẹp hơn.” (Zenit 21.04.02) Đó là những nẻo đường Phúc âm hóa rất thực tế.

Chính Đức Giêsu đã không ra ngoài con đường ấy khi công bố Tin Mừng cứu độ cho muôn dân. Noi gương Thày Chí Thánh, Giáo Hội đang nỗ lực xây dựng “nền văn minh tình thương” như con đường Phúc âm hóa nhân loại. Nhưng làm sao có thể hoàn thành công cuộc lớn lao đó, nếu các Giáo Hội đàn anh Âu Mỹ cứ ngủ yên trước những gào thét công lý và hòa bình của các Giáo Hội đàn em nghèo đói? Bởi thế, Đức TGM Calcutta “kêu gọi các Giáo Hội đàn anh hãy đề cao trách nhiệm của mình tại Á châu. Họ cần dấn thân vào việc kiểm soát thương mại để bảo vệ những nước yếu kém; đề cao khía cạnh nhân bản trong thương mại, và xóa bỏ hay giảm thiểu những món nợ làm cản trở bước tiến nhiều quốc gia Á Châu.” (Zenit 21.04.2002) Đó là một chiều kích lớn trong nỗ lực Phúc âm hóa nhân loại.

Mặt khác, khi xâm nhập một lục địa đa văn hóa và tôn giáo như Á Châu, Giáo Hội chắc chắn gặp nhiều chống đối từ các tôn giáo lớn như Phật giáo, Ấn Độ giáo, Hồi giáo và Do thái giáo. Đó là những thách đố lớn lao cho công cuộc Phúc âm hóa. Lớp áo Tây Phương đã che mất nét hấp dẫn Tin Mừng trước cái nhìn của các dân tộc Á Châu. “Chúng ta chỉ có thể trao cho Á Châu một sứ điệp khi các anh em Á Châu thấy những dấu chỉ Thiên Chúa hiện thân thực sự nơi con người chúng ta,” (TGM Daniel Acharuparambil: Zenit 21.04.2002) chứ không phải qua lớp áo Tây Phương xa lạ. Chỉ khi nào tìm thấy chính mình nơi Tin Mừng, người Á Châu mới đón nhận Chân lý như một sức mạnh giải thoát khỏi những cơ chế bất công dưới mọi hình thức.

 

 

 

 

 

20. Quê hương chúng ta ở trên trời – An Phong

 

Phục Sinh và Lên Trời là hai từ ngữ diễn tả một thực tại: Đức Giêsu đã chỗi dậy từ giữa những người chết và được vinh quang bên hữu Thiên Chúa Cha. Sau khi sống lại, Ngài đã Lên Trời ngự bên hữu Chúa Cha.

Cử hành lễ Chúa Giêsu lên trời tức là cử hành “Sự hiện diện theo cách thế mới” của Chúa Giêsu. Đức Giêsu về trời nhưng Ngài không bỏ rơi các môn đệ. Ngài vẫn hiện diện qua Thánh Thần, qua Bí tích Thánh Thể, qua Lời Ngài và qua biết bao tâm hồn thành tâm thiện ý sống Đức Tin giữa cuộc đời này: “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.

Người cất nhắc lên cõi trời muôn thuở, xác phàm nhân thân cát bụi yếu hèn”. Vì “quê hương chúng ta ở trên trời” (Pl 3,20) nên “anh em hãy tìm kiếm những gì trên cao” nơi Đức Giêsu cư ngụ (Cl 3,1).

Con người vốn “đầu đội trời, chân đạp đất”, con người là “nhân linh ư vạn vật”. Niềm xác tín chúng ta “từ trên cao” sẽ làm cho chúng ta trước hết lo tìm kiếm hạnh phúc vĩnh cửu. Nhưng điều đó không có nghĩa là trốn tránh trần gian này. Trái lại, chúng ta phải xây dựng một nước trời tại thế đã được khai mở cùng với sứ vụ cứu độ của Đức Giêsu; và nước trời đó đang chờ ngày nên viên mãn. “Thiên Chúa là tất cả trong mọi sự”. Đừng để mình nô lệ cho vật chất, tiền bạc, danh vọng, thành đạt, mà quên mục tiêu tối hậu của cuộc đời mình là “quê hương chúng ta ở trên trời”.

Phải chăng tôi nhận ra chúa hiện diện trong cuộc đời cùng với tôi; và tôi đang đi tìm “quê hương chúng ta ở trên trời”?

Lạy Chúa Giêsu,

Cũng như các môn đệ ngày xưa

chúng con tiếc nuối, vì:

không thấy Chúa đi lại,

không nghe thấy Chúa nói.

không thấy bàn tay Chúa can thiệp.

Chúa vắng mặt

và bao lần

chúng con than trách Chúa như bỏ rơi chúng con

trong những khó khăn của cuộc đời.

Nhưng niềm tin cho chúng con biết

Chúa vẫn đang hiện diện ở đây

trong tấm bánh nhỏ này,

trong tâm hồn của con,

và trong cuộc đời của con.

Lạy Chúa Giêsu

xin củng cố niềm tin đó nơi chúng con

để chúng con có thể nhận ra Chúa vẫn đang hiện diện

hiện diện một cách khác

trong từng bước chân của cuộc đời chúng con”.

 

 

 

 

 

21. Suy niệm của Lm. Dom. Trần Quang Hiền SDB

 

 

Câu hỏi thắc mắc mà con người ngày nay luôn phải đối diện đó là: Tôi sinh ra ở đời này để làm gì? tôi sẽ về đâu sau cái chết? chắc hẵn ai trong chúng ta cũng muốn mình được bình an, hạnh phúc, được chết lành và được phần thưởng thiên đàng sau khi chết. Nhưng ai có thể bảo đảm cho ta rằng có thiên đàng, có sự sống đời sau? Lời Chúa tuần này Chúa Nhật Lễ Chúa Thăng Thiên tường thuật lại việc Chúa Giêsu lên trời, đây là một minh chứng cho thấy rằng có thiên đàng, có sự sống đời sau. Nhưng lên trời không phải là một di chuyển từ nơi chốn này đến nơi chốn khác. Trời ở đây không phải là nơi chốn có thể đụng chạm, sờ mó được nhưng sâu xa hơn đó là một trạng thái. Chúa Giêsu lên trời có nghĩa là Ngài về cùng với Thiên Chúa Cha và Chúa Thánh Thần là nơi Ngài đã xuất phát. Trời ở đây có nghĩa là sống trong tình yêu tròn đầy của Thiên Chúa Ba Ngôi. Vì thế, việc Chúa Giêsu lên trời không phải giã từ thế giới đi vào cõi xa vắng mịt mù, nhưng Ngài đi về thế giới của Thiên Chúa Ba Ngôi, sống với Thiên Chúa Ba Ngôi.

Chúa Giêsu lên trời không có nghĩa là Ngài không còn hiện diện với chúng ta nữa, trái lại Ngài sẽ ở lại cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Để có thể lên trời như Chúa Giêsu mỗi người chúng ta cần phải hoàn thành hành trình dưới thế của mình như chính Ngài. Dù phải sống ở trần thế này với muôn ngàn thánh giá, thử thách, khó khăn… nhưng chúng ta không quên mục đích tối hậu của chúng ta đó là về quê trời, nơi ấy chúng ta sẽ sống trong tình yêu viên mãn của Chúa Ba Ngôi. Nếu như cuộc đời của người kitô hữu chúng ta thiếu đi cùng đích của đời mình là hướng về sự sống đời sau thì chắc chắn những nỗ lực, cố gắng của chúng ta sẽ trở nên vô nghĩa. Chúa Thăng Thiên cũng cố đức tin của mỗi người chúng ta vào niềm hy vọng tràn trề trong đó mỗi người chúng ta sẽ nếm cảm hạnh phúc thiên đàng sau này.

Trước khi Chúa Giêsu lên trời Ngài đã nhắn nhủ các môn đệ rằng “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thụ tạo”. Đây là lệnh truyền của Chúa Giêsu và trở thành căn tính của mỗi người kitô hữu chúng ta, đó là làm chứng nhân tin mừng phục sinh, niềm vui của Chúa Giêsu cho tất cả mọi người không phân biệt màu da, sắc tộc, tôn giáo. Mỗi người chúng ta có trách nhiệm mang Đức Kitô đến với thế giới hôm nay đang sống trong đau khổ, chiến tranh, bất an, tội lỗi…. để xoa dịu hết tất cả những vết thương của họ.

Lễ Chúa Thăng Thiên muốn nhắn gởi cho chúng ta một thông điệp nữa đó là hãy xây dựng thiên đàng tại trần thế này, khi tất cả chúng ta đều xem nhau như là anh em cùng một Cha trên trời. Khi mỗi người chúng ta biết sống từ bỏ, hy sinh và phục vụ nhau.

Người ta kể rằng: có một bác nông dân đã tình cờ nhặt được một tượng chịu nạn đã bị sứt mẻ đang nằm chơ vơ vì không có thập giá. Bác cầm tượng chịu nạn lên và đi vào trong làng. Bác đến từng nhà. Bác hỏi han từng người. Từ người già đến người trẻ. Bác nghĩ thầm rằng: “Không chừng ở đâu đây! Có ai đó đang có thập giá trơ trụi mà không có Đức Kitô nằm trên. Đức Kitô của bác không có nơi ngơi nghỉ, còn thập giá của ai đó không có Đức Kitô. Bác muốn trao Đức Kitô cho ai đang đang phải vác thập giá một mình, để nhờ Đức Kitô họ vượt qua những gian nguy của dòng đời. Bởi vì, một thập giá không có Đức Kitô là tra tấn, là hoả ngục, là thất vọng. Thế nên, bác đã cố gắng tìm đến những ai đang thất vọng vì gánh nặng hai vai, đang ui sầu vì lầm than cơ cực, bác trao gởi cho họ Đức Kitô để họ nhận ra họ đang được thông phần đau khổ với Đức Kitô. Hy vọng rằng cuộc đời họ sẽ vui hơn vì họ đang làm việc, đang đón nhận đau khổ vì Đức Kitô, nhờ đó họ cũng được chung phần vinh phúc với Chúa trên trời.

Vâng, cuộc đời chúng ta sẽ ngụp lặn trong đau khổ cùng cực nếu không có Đức Kitô hiện diện. Xin cho mỗi người chúng ta luôn biết sống và đem Đức Kitô đến với hết tất cả mọi người đang vác thập giá để họ cũng biết biến thập giá thành thánh giá như Đức Kitô, để mai sau cũng được lãnh nhận phần thưởng vinh phúc đời sau mà Chúa hứa ban cho những ai trung tín bước theo Ngài. Amen.

 

 

 

 

 

22. Khai mở trang sử mới của Giáo hội

(Suy niệm của Keith Witfield – Lm. GB. Văn Hào SDB, chuyển ngữ)

 

“Các tông đồ ra đi rao giảng khắp nơi” (Mc 16,20)

Theo Thánh Luca, biến cố Chúa về trời mang chở một ý nghĩa sâu xa, nhằm biến đổi các tông đồ và khởi sự sứ vụ rao giảng Tin mừng của toàn thể Hội Thánh. Thánh Luca thuật lại biến cố này để kết thúc Tin mừng và cũng để khởi đầu sách Tông đồ Công vụ.

Việc Chúa Thăng Thiên mang lại một âm hưởng sâu xa nơi các môn đệ. Đối diện trước biến cố này, các ông ngỡ ngàng, mắt vẫn còn đăm đăm ngước lên trời cao (Cv 1,10), và chưa thể hình dung sự việc xảy ra như thế nào. Nhưng sau đó, các ông đã hiểu. Chính xác hơn, là các tông đồ đã dần dần hiểu ra và tiến sâu vào thế giới của huyền nhiệm khi nhớ lại những lời Đức Giêsu đã căn dặn. Cuối cùng, “Các ông bái lạy Người. Các ông trở về Giêrusalem lòng đầy hân hoan và họ ở trong đền thờ, ngày đêm chúc tụng Chúa. (Lc 24,52-53).

Thoạt đầu, phản ứng của các tông đồ khiến chúng ta dễ đặt nghi vấn. Đức Giêsu vừa “rời bỏ” các ông. Sự ra đi nào cũng để lại biết bao sầu thương và nỗi nhớ. Các ông buồn, nhưng sau đó các ông lại “ngập tràn niềm vui”. Tại sao các tông đồ lại có phản ứng trái chiều mau lẹ đến thế? Chúng ta nhớ lại trong diễn từ ly biệt, ở phần cuối chương 13 của Tin mừng Gioan, Đức Giêsu báo trước là Ngài sẽ bỏ lại các ông, và tâm hồn các ông sẽ xao xuyến. Nhưng sau đó Ngài trấn an và nói về Thánh Thần, là nguyên lý chữa trị những sầu buồn và tuyệt vọng (Ga 14-17). Ngài nói với các học trò của mình đừng lo lắng, các ông sẽ không mất Ngài, những Ngài vẫn ở với các ông mọi ngày cho đến tận thế qua một dạng thức khác, nhờ Thánh Thần.

Việc Chúa về trời khơi dậy niềm vui. Các tông đồ sớm nhận ra rằng khi Đức Giêsu trở về với Chúa Cha, họ sẽ lãnh nhận được nhiều đặc phúc. Trước hết, đó là quà tặng Thánh Thần. Lời hứa về Chúa Thánh Thần sẽ được thực hiện tròn đầy. Các tông đồ nhìn xem Chúa lên trời, nhưng lòng đầy vui mừng bởi vì các ông nhớ lại lời hứa của Chúa về “Đấng sẽ đến”. Những nghi ngại và sợ hãi dần tan biến. Các tông đồ thâm tín rằng Ngài đã trỗi dậy từ cõi chết và vẫn đang sống. Qua sự phục sinh của Đức Kitô, các tông đồ trải nghiệm niềm vui và hy vọng về sự chiến thắng trước mãnh lực tử thần. Họ tín thác vào Chúa. Vì thế, sự ra đi của Đức Giêsu để trở về với Chúa Cha đem lại cho họ niềm vui. Niềm vui đó được cắt nghĩa với những lý do sau:

1. Đức Giêsu lên trời, ngự bên hữu Chúa Cha. Chính Chúa Cha đã sai Ngài đến trần gian. Ngài đã tiến nhận cái chết một cách bi thương và đã được quyền năng Chúa Cha làm cho sống lại. Cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu là bằng chứng chắc chắn về ơn cứu độ và sự tha thứ tội lỗi (Do Thái 10,22-24). Đây là căn nguyên niềm vui nơi các môn đệ cũng như nơi chúng ta.

2. Khi Chúa Giêsu về trời, Ngài đảm nhận vai trò trung gian giữa con người với Chúa Cha. Nhờ Ngài và với Ngài, chúng ta được thông dự vào thế giới thần linh cùng Chúa Cha (1Ga 2,1).

3. Khi Chúa lên trời, vương quốc vĩnh cửu của Ngài bắt đầu khai mở. Đó là vương quốc đánh bại kẻ thù là Satan và ác thần. Thánh Phêrô đã viết: “Đấng đang ngự bên hữu Thiên Chúa sau khi đã lên trời, đã bắt các thiên sứ và toàn thể thần minh phải phục quyền (1P 3,22).

4. Cuối cùng, Khi Đức Giêsu lên trời, Hội thánh được phú ban năng quyền để thực thi sứ mệnh Chúa trao phó. Khi nói về việc Đức Giêsu sống lại và lên trời, Thánh Phaolô trong thơ gửi giáo đoàn Êphêsô đã khẳng quyết: “Thiên Chúa đã đặt tất cả mọi sự dưới chân Đức Giêsu và đặt Người làm đầu toàn thể hội Thánh, mà Hội Thánh là thân thể Đức Kitô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn (Eph 1,22-23).

Đức Giêsu được đưa về trời, khai mở vương quốc bất diệt. Ngài là Vua, là Chúa tể hoàn vũ và Satan không thể làm được gì đối với vương quốc ấy. Satan cám dỗ con người để chúng ta quên đi Đức Kitô là Vua vũ trụ. Ma quỷ làm mọi cách để cắt đứt sự liên lạc giữa chúng ta với Ngài. Sách Tông đồ Công vụ thuật lại, trước khi bị ném đá đến chết, Thánh Stêphanô đã ngước mắt lên trời và thấy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Chúa Cha. Các sách tân ước đều khải thị cho chúng ta hình ảnh Đức Giêsu Đấng Cứu thế, là Vua hoàn vũ, là Vua chiến thắng, để gọi mời chúng ta tin vào Ngài.

Trước sự kiện Chúa lên trời, tâm hồn các tông đồ ngập tràn niềm vui, chứa chan niềm hy vọng và sẵn lòng rộng mở để thực thi sứ mạng mà Đức Giêsu đã chuyển giao. Đây là ba nét căn bản đã làm đổi thay các tông đồ một cách toàn diện: Niềm vui, niềm hy vọng, và việc thực thi sứ mạng rao giảng.

Chớ gì mỗi người chúng ta hôm nay, cũng như các tông đồ năm xưa, có thể trải nghiệm niềm vui và niềm hy vọng. Đồng thời, tiếp nối dấu chân của các tông đồ, chúng ta hân hoan lên đường thực thi sứ mạng cứu thế mà Chúa Giêsu đã chuyển giao cho chúng ta trước khi Ngài trở về với Chúa Cha.

 

 

 

 

 

23. Thầy ở cùng anh em mọi ngày

(Trích trong ‘Manna’ – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)

 

Suy Niệm

Nếu trời là nơi Chúa ngự thì chẳng có gì gần ta bằng trời. Trời ở quanh ta, trời ở trong ta… Trời vượt xa đất muôn trùng, nhưng nếu đất trở thành nơi Chúa ngự thì đất cũng mang dáng dấp của trời.

Thiên Chúa không phải là Đấng chỉ thích ở trên trời. Ngài thích con người, Ngài thương trái đất, nên Ngài đã sai Con Ngài làm người ở đời.

Đức Giêsu Con Thiên Chúa đã đặt chân lên trái đất. Đất chẳng xa lạ gì với Ngài, vì nhờ Ngài mà nó được tạo dựng.

Đất đã bắt đầu thành trời từ khi Con Thiên Chúa đến dựng lều ở đó. Đất vẫn luôn thuộc về trời vì Đức Giêsu luôn ở với ta cho đến tận thế.

Trời là mẫu mực của đất: Ý Cha phải được thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Chỗ nào vâng theo ý Cha, chỗ đó thành trời.

Trái tim của chúng ta cũng phải trở thành trời, phải đầy ắp yêu thương, đầy ắp Thiên Chúa.

Rốt cuộc, nhiệm vụ của người Kitô hữu là xây dựng trời cao ở ngay nơi đất thấp, là cho thấy rằng trời cao thật gần, chứ không phải là sản phẩm của hoang tưởng.

Trời cao đã gần bên, chỉ người Kitô hữu biết sống cho nhau chân tình, chia sẻ cho tha nhân tất cả những gì mình có, không bị mê hoặc bởi của cải lợi danh, không bị kéo ghì bởi những đam mê xác thịt, cũng không chùn bước trước cái chết, khổ đau.

Chúng ta phải làm chứng về thiên đàng có thực bằng cuộc sống vui tươi hạnh phúc ở đời này.

Hạnh phúc khi hy sinh, tự hiến, khi chịu thua thiệt, mất mát, lãng quên.

Hạnh phúc cả khi tưởng như không thể nào hạnh phúc được. Hạnh phúc như thế gợi mở về hạnh phúc viên mãn đời sau.

Chúng ta không thể làm chứng về thiên đàng mai hậu bằng một cuộc sống ủ rủ, buồn phiền.

Thiên đàng mai sau chớm nở từ bây giờ. Tôi chỉ được hạnh phúc sống đời sau bên Chúa, nếu tôi đã bắt đầu sống bên Chúa từ đời này.

Có một thiên đàng nho nhỏ ở trong tôi: “Ai yêu mến Thầy, Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và dựng nhà nơi người ấy” (Ga 14,24).

Tôi muốn xây những thiên đàng nho nhỏ ở quanh tôi, nơi gia đình, bè bạn; nơi phố chợ, học đường… mong có ngày cả trái đất này ngập tràn sự hiện diện của Thiên Chúa.

Gợi Ý Chia Sẻ

1. Có phi hành gia, sau khi du hành trong vũ trụ, đã quả quyết không hề có thiên đàng. Bạn nghĩ gì về nhận xét đó?

2. Theo bạn, có thể dùng lý luận để chứng minh cho người khác về sự hiện hữu của thiên đàng không? Có thể dùng cuộc sống để cho thấy thiên đàng không?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã yêu trái đất này, và đã sống trọn phận người ở đó.

Chúa đã nếm biết nỗi khổ đau và hạnh phúc, sự bị đát và cao cả của phận người.

Xin dạy chúng con biết đường lên trời, nhờ sống yêu thương đến hiến mạng cho anh em.

Khi ngước nhìn lên quê hương vĩnh cửu, chúng con thấy mình được thêm sức mạnh để xây dựng trái đất này, và chuẩn bị nó đón ngày Chúa trở lại.

Lạy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Thiên Chúa, xin cho những vất vả của cuộc sống ở đời không làm chúng con quên trời cao; và những vẻ đẹp của trần gian không ngăn bước chân con tiến về bên Chúa.

Ước gì qua cuộc sống hằng ngày của chúng con, mọi người thấy Nước Trời đang tỏ hiện.

 

 

 

 

 

24. Chúa trong cuộc sống

 

Anh chị em thân mến.

Nói đến tình bạn tri kỷ thâm giao, tôi chợt nhớ đến câu chuyện Lưu Bình và Dương Lễ. Đôi bạn tri kỷ này đã sống chết có nhau, cho dù phải trải qua những sóng gió của cuộc đời.

Lưu Bình là một chàng trai giàu có và phong lưu, trong một hoàn cảnh bất ngờ, anh gặp một chàng thư sinh nghèo khó nhưng hiếu học là Dương Lễ. Hai người kết nghĩa huynh đệ. Dương Lễ hiếu học nên đến kỳ thi anh đạt được công danh. Còn Lưu Bình vì có tiền của nhiều nên anh không chăm học, đến kỳ thi, anh đi không rồi lại trở về không. Anh cũng không buồn sầu lo lắng gì, cứ mãi lo ăn chơi. Dương lễ đau xót nhưng khuyên bạn không được. Việc gì đến rồi cũng phải đến.

Một hôm Lưu Bình đến nhà Dương Lễ xin tá túc, vì nhớ đến tình bạn tri kỷ mà hai người đã từng thề ước với nhau, đồng thời Lưu Bình còn nhớ đến những gì mà mình đã từng cưu mang nên Dương Lễ mới được như ngày hôm nay. Nhưng nào ngờ, khi vừa nhìn thấy người bạn năm xưa, Dương Lễ trở mặt không nhìn, còn nói những lời chê bai thậm tệ. Lưu Bình thất vọng bỏ đi, lòng buồn cho thế thái nhân tình. Trong lúc thất vọng, anh gặp được một người an ủi và lo lắng. Từ đó anh cố gắng học hành để đạt cho được ý nguyện, trước tiên là để trả thù cho thế thái nhân tình, kế đến là để làm lại cuộc đời. Ngày vinh quang đã đến, trời không phụ lòng người. Anh vội trở về tìm người đã giúp anh làm nên danh phận, nhưng không thấy, anh đến nhà người bạn mà anh cho là bất nhân, để tìm cách trả lại mối hận năm xưa. Nhưng lại một bất ngờ nữa, người đã từng giúp anh trong những tháng ngày gian khổ, giờ đây lại đang ở bên cạnh người mà anh cho là bất nhân. Anh chợt hiểu ra, vì lo lắng yêu thương, nên người bạn tri kỷ đã dùng khổ nhục kế và cho người vợ thân yêu nhất của mình giúp đỡ anh lập được công danh. Đôi bạn càng hiểu nhau càng thương mến nhau hơn.

Chỉ có tình yêu thương chân thành, mới có thể làm cho tình bạn cho dù ở bất cứ nơi đâu cũng có thể như là ở kề cận để lo lắng cho nhau.

Chúa Giêsu chuẩn bị mọi sự thật chu đáo trước khi Ngài rời xa các môn đệ. Ngài truyền lệnh cho các ông thi hành “các con hãy đi làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Thầy, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”, không phải chỉ có thế, Ngài còn hứa một điều hết sức quan trọng: “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. Các môn đệ không còn buồn sầu lo lắng gì nữa, mà các ông thi hành mệnh lệnh đã được trao cho. Các ông thi hành với một con tim cháy bừng lửa yêu thương, với một niềm tin vững mạnh là luôn có người mình yêu thương ở bên cạnh.

Mỗi người trong chúng ta đang sống trong tình yêu thương, mà Chúa Giêsu cũng chuẩn bị chu đáo cho chúng ta trong mọi việc và Ngài cũng hứa như các tông đồ khi xưa: “Thầy ở cùng chúng con mọi ngày cho đến tận thế”. Nhưng nhiều khi trong cuộc sống, chúng ta sống dường như không có Chúa bên cạnh, chúng ta mãi đi tìm những thú vui cho riêng mình mà để ngoài tai tất cả mọi lời nói, lời khuyên can. Những gương tốt ngay trước mắt, chúng ta cũng không cần nhìn đến. Những khi sa cơ thất thế, chúng ta quay qua phiền trách tất cả mọi người, phiền trách cả Thiên Chúa của chúng ta. Chúng ta ngỡ rằng Ngài ở tận trên trời xa xôi nên không nhìn thấy cũng không biết những gì chúng ta đã và đang làm.

Nếu chúng biết thức tỉnh như anh chàng Lưu Bình, thì cơ may vẫn còn đến với chúng ta, khi đó chúng ta đã nhận ra ơn Chúa qua những người chung quanh, qua những bàn tay giúp đỡ chúng ta, qua những lời nói chân thành, có khi còn qua những thất bại trong cuộc đời. Nếu chúng ta biết nhận ra Chúa, thì bất cứ giờ phút nào Ngài vẫn luôn ở bên chúng ta như Ngài đã hứa. Nếu chúng ta biết tuân giữ những điều Ngài truyền dạy, biết đến với mọi người để đem mọi người về làm môn đệ của Chúa, một môn đệ của Tình Yêu Thương, thì thật là hạnh phúc cho chúng ta.

Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho chúng ta được biết nhận ra Chúa trong cuộc sống hằng ngày, để biết luôn lắng nghe và vâng phục Thánh Ý Chúa.

 

 

 

 

 

25. Ái mộ những sự trên trời - Pm. Cao Huy Hoàng

 

Vừa xong giờ kinh gia đình tối thứ tư, với chuỗi hạt mân côi Năm Sự Mừng, Cu Út lớp 3, hỏi Mẹ:

– “Mẹ ơi, “ái mộ những sự trên trời” là gì thế, Mẹ”.

Mẹ vui mừng trả lời con:

– “Ái là Yêu, Mộ là mến… là yêu mến những sự trên trời đấy con à”

– “Những sự trên trời là sự gì?”

Mẹ của Cu Út lớ ngớ, không biết phải trả lời con thế nào. Mẹ nhớ ra: “Thứ hai thì gẩm: Đức Chúa Giêsu Lên Trời. Ta hãy xin cho được ái mộ những sự trên trời”. Mẹ nói:

– “Những sự trên trời là những thứ mà Chúa Giêsu Lên Trời chuẩn bị cho mình đó con à.

– “Chúa Lên Trời là lên làm sao? Chuẩn bị cho mình thứ gì?”

– “Là Chúa Giêsu về với Chúa Cha, chuẩn bị cho mình về với Chúa Cha…”

Cu Út không bằng lòng:

– “Con không hiểu gì cả. Về với Chúa Cha? Về đâu”

………..

Một em bé không cố ý làm bài kiểm tra giáo lý mẹ mình, nhưng quả thật, để trả lời cho bé hiểu về việc Chúa Giêsu Lên Trời và chuẩn bị cho chúng ta về với Chúa Cha thì không dễ dàng chút nào. Mẹ có thể hiểu được cả một cuộc đời mầu nhiệm của Chúa Giêsu với niềm tin và sự trải nghiệm trong hành trình đức tin của mình, nhưng để giải thích cho một tâm hồn non nớt thì không biết phải đi từ đâu…

Những sự ở trên trời, chỉ có người ở trên trời mới biết. Chúa Giêsu, người ở trên trời, xuống thế làm người, rao giảng cho con người trần gian biết có một cuộc sống mới, có một cuộc sống thiêng thánh, cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu… cuộc sống ấy ở trong Nước Trời, Nước Thiên Chúa. Để có thể tin được rằng: có một cuộc sống khác với cuộc sống trần gian nầy, và để có thể biết được chuyện ở trên trời, thì chỉ có con người khiêm cung chấp nhận và vâng phục mạc khải từ trời, rồi sống mạc khải ấy mới thấu hiểu được.

Chúa Lên Trời, Chúa Thăng Thiên là cách nói diễn tả hình ảnh không gian mà các Tông đồ chứng kiến “Người được cất lên Ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa. Và lúc các ông còn đăm đăm nhìn lên trời phía Người đi, thì bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh và nói: “Hỡi những người Galile, sao còn đứng nhìn trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời” (Cv 1,9-11). Thực ra, phải nói là Chúa Giêsu về với Chúa Cha, về với cuộc sống, với thế giới, nơi Ngài đã xuất phát để đi làm nhiệm vụ cứu thế… Việc “về với Cha”, Chúa Giêsu đã nói trước tới biến cố nầy với bà Maria Madalena sau khi sống lại: “Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em” (Ga 20,17). Như vậy các biến cố tử nạn, Phục sinh và về cùng Chúa Cha đã nằm trong hoạch định ngàn đời của Thiên Chúa, trong đó, Lên Trời hay lên cùng Cha là đích điểm của Mầu Nhiệm Vượt Qua: Qua tử nạn, đến Phục sinh; qua Phục sinh ở trần gian, đến việc “Về Với Thiên Chúa Cha” trong đời sống Thiên Chúa vĩnh cữu. Và không chỉ về với Cha, mà còn tham dự vào quyền năng, uy quyền của Thiên Chúa Cha trong Nước Ngài. Thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Ephêsô còn xác quyết uy quyền của Chúa Giêsu là vương quyền, là Vua Vũ Trụ: “Đến thời viên mãn, Thiên Chúa qui tụ mọi loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Kitô” (Ga 1,10), và là Vua Lịch Sử Cứu độ: “Thiên Chúa đặt tất cả mọi sự dưới chân Đức Kitô và đặt người làm đầu toàn thể Hội Thánh” (Ga 1,22).

Như thế, giải thích của người Mẹ trên đây với cậu con trai út chắc là không sai lạc giáo lý: Lên trời là về cùng Chúa Cha và ái mộ những sự ở trên trời, chính là yêu mến, khát khao cho chính mình cũng được về với Thiên Cha trong vương quốc Chúa Giêsu. Để hiểu cho thấu mầu nhiệm vượt qua nơi Chúa Giêsu, và giải thích được như thế, chắc chắn người Mẹ nầy cũng đã kết hiệp với Chúa Giêsu cách chí thiết để sống mầu nhiệm vượt qua của chính mình: Được Thiên Chúa sinh ra trong đời, vượt qua sự ràng buộc, sự nô lệ của tội lỗi nhờ ơn tái sinh nơi giếng nước rửa tội; vượt qua những rào cản là những hấp dẫn của “những sự dưới đất”đồng thời chấp nhận mất mát là tử nạn với Đức Kitô; vượt qua cuộc tử nạn hằng ngày để phục sinh tại thế nhờ cuộc sống siêu thoát và kết hiệp; và cuối cùng, chờ ngày vượt qua đời tạm nầy mà lên trời, mà về cùng Thiên Chúa Cha trong cuộc sống vĩnh cửu.

Thực tế là một thách đố to lớn đối với đời sống vượt qua của Kitô hữu công giáo, ở mọi thời, nhất là thời nầy, khi giá trị các sự ở dưới đất nầy đang nổi loạn đòi chiếm ưu thế trong đời sống các gia đình: tiện nghi vật chất thẩm định giá trị nhân bản nên phải đua đòi cho bằng chị, bằng em; người người khôn ra đang thụ hưởng những hiệu quả của một nền văn minh mà không cần nghĩ đến hậu quả thì ta dại gì mà phải khép mình trong lời mời gọi của Tin Mừng! Buổi sáng thật tĩnh lặng, may ra nếu có, thì cũng chỉ mấy phút trong giờ kinh nguyện ngắn ngủi, sau đó là chuyện cơm áo gạo tiền làm cho cả ngày đời phải loay xoay toàn chuyện dưới đất. Thiết nghĩ, Chúa Giêsu biết rõ cái căn tính phàm phu tục tử trong mỗi con người, nên Ngài đã bàn giao công cuộc cứu thế vĩ đại của Ngài cho Chúa Thánh Thần, Đấng Bảo Trợ. Tưởng là Chúa Thánh Thần không nói gì, làm gì, nhưng Ngài đang nói tất cả, kể cả đối với những người đang cố quên sự hiện diện của Ngài; Ngài đang làm tất cả, kể cả đối với những người tránh né sự hướng dẫn, chỉ đạo, hay sự can thiệp tài tình của Ngài. Ngài soi sáng cho chúng ta việc “phải làm”. Ngài không soi sáng cho chúng ta việc “thích làm”. Cho dù có đôi khi ta vẫn đọc kinh “cúi xin Chúa sáng soi” trước những công việc ta thích làm cho danh ta cả sáng, hoặc cho “những sự dưới đất” được thành công, thì Chúa Thánh thần khôn ngoan vẫn dẫn dắt chúng ta nhận ra khuôn mặt thật của sự dối trá trong lòng mình. Nhờ Ngài, mà thực tế thách đố kia không còn đáng lo ngại nữa, và đời sống tín hữu thật sự cảm nghiệm được ơn Ngài tác động-sáng soi hướng dẫn đời mình hướng về “những sự trên trời”, “ái mộ những sự trên trời”, chắc ăn hơn.

Và chỉ khi nào thực sự “ái mộ những sự ở trên trời”, thì có thể nói, chúng ta mới thực hiện nỗi lời di chúc của Chúa Giêsu: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28,18-20)

Đây không phải là lời di chúc để thừa hưởng một quyền bính, nhưng là một chuyển giao đặc nhiệm quan trọng trong chương trình của Thiên Chúa Cha: qui tụ mọi loài dưới quyền thủ lảnh của Chúa Giêsu Kitô, để mọi loài chung hưởng Tình Yêu vô biên và ơn cứu chuộc vĩ đại hơn tội lỗi con người. Nhiệm vụ đặc biệt ấy không chỉ trao ban cho các tông đồ, mà còn cho tất cả chúng ta hôm nay: Giới thiệu Chúa Giêsu Kitô cho mọi người để họ đón nhận chính Ngài qua bí tích rửa tội và dạy họ tuân giữ mọi điều răn của Ngài để được về với nguồn cội yêu thương và hạnh phúc vĩnh cửu là Thiên Chúa. “Dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” đồng nghĩa với việc anh em tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền để họ thấy mà ngợi khen Cha ở trên trời, vì gương sáng là lời giảng dạy tốt nhất. Thực vậy, thời đại nầy người ta không tin người rao giảng, người ta có thể tin người sống lời rao giảng của mình. Vì thế, đòi hỏi tinh thần thoát tục và gương sống “ái mộ những sự trên trời” đối với những chứng nhân trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Và không nên trách cứ ai, nếu họ dựa vào tiêu chuẩn “dính bén với các sự dưới đất” mà đánh giá cao thấp giá trị của người tông đồ Chúa hôm nay. Có thể nói việc “dính bén với các sự dưới đất” của một chứng nhân gây nên việc phản tác dụng truyền giáo cách nguy hiểm, vì không những làm cho người ta không tin vào cuộc sống mới trong Nước Thiên Chúa, mà còn là cái cớ để người ta tin vào cuộc sống hiện tại này hạnh phúc hơn: cứ lao mình vào những chuyện dưới đất, như người rao giảng chuyện trên trời đã lao. Ôi thật nguy hiểm và thiệt hại cho công cuộc của Chúa Giêsu nếu chúng ta không sống tinh thần của Ngài trước khi loan báo Ngài cho mọi người.

Mừng Chúa Giêsu Lên Trời, một cơ hội cho mỗi tín hữu tự kiểm lại lòng yêu mến Chúa trên hết mọi sự, tự kiểm lại lòng khát khao với cuộc sống vĩnh cửu đời sau, tự kiểm lại mức độ dính bén với các sự dưới đất, và nhất là tự kiểm lại hiệu quả làm chứng cho Chúa Giêsu, cho Nước Thiên Chúa của mình trong cuộc đời.

Mẹ Maria chắc chắn là mẫu gương “ái mộ những sự trên trời” hơn cả và loài người chúng con. Mẹ cũng là mẫu gương “chứng nhân Chúa Kitô” thật sống động vì lòng Mẹ luôn hướng về Nước của Thiên Chúa. Xin Mẹ cầu thay nguyện giúp cho chúng con sống mầu nhiệm vượt qua của đời mình, nhờ kết hiệp với cuộc vượt qua của Chúa Giêsu, noi gương Mẹ chí thánh -cho chúng con xứng đáng hưởng hạnh phúc trong Vương Quốc của Chúa Giêsu, con chí ái của Mẹ- cho cuộc sống chúng con thực sự trở nên lời rao giảng Thiên Chúa cho mọi người. Amen.

 

 

 

 

 

26. Ý nghĩa Thăng Thiên

 

5g17′ sáng ngày 19.04 vừa qua, mọi người đã chứng kiến một bước tiến mới của ngành viễn thông Việt Nam khi vệ tinh đầu tiên của Việt Nam bay vào không gian. Từ độ cao 35.768 km so với mặt đất, vệ tinh Vinasat-1 sẽ trở thành người bạn đồng hành không mệt mỏi trong suốt vòng đời 15-20 năm của nó nhằm phục vụ lợi ích cho nhân dân Việt Nam.

Hai tuần sau đó, tức là hôm nay, người Kitô hữu chúng ta cử hành thánh lễ mừng kính biến cố thăng thiên của Đức Giêsu, biến cố đánh dấu lần hiện ra cuối cùng của Đức Giêsu với các Tông đồ; để rồi từ đó trở đi, Người đồng hành cách thiêng liêng với Giáo Hội trong hành trình hướng về quê trời. Từ sự kiện thời sự vừa xảy ra, chúng ta cùng nhau suy nghĩ về biến cố thăng thiên của Đức Giêsu trong đời sống chúng ta.

Vệ tinh Vinasat-1 khi bay vào không gian, nó được định vị tại một khoảng không gian dành riêng cho nó, quỹ đạo 132 độ Đông. Còn khi nói Đức Giêsu lên trời, chúng ta phải hiểu thế nào? Có phải Người đi đến một nơi có thể định vị được trong không gian bao la nầy không? “Trời” của Kinh Thánh không nhất thiết đồng nghĩa với “trời” của con người. Khi nói Đức Giêsu lên trời không có nghĩa là Người bay lên khoảng không gian trên đầu ta. Trời là nơi Thiên Chúa ngự, mà Thiên Chúa không lệ thuộc vào thế giới vật chất như con người, nên “nơi” của Ngài không lệ thuộc không gian và thời gian, không xác định cụ thể một nơi có thể đo đạc và nhìn thấy được. Do đó, khi nói Đức Giêsu lên trời, ta không nên hiểu Người bay lên một nơi nào đó trên tầng mây xanh; trái lại, phải hiểu rằng Người về cùng Chúa Cha và Chúa Cha “tôn vinh Người lên trên mọi quyền lực thần thiêng, trên mọi tước vị có thể có được, không những trong thế giới hiện tại, mà cả trong thế giới tương lai” (Ep 1,21).

Vệ tinh Vinasat-1 sẽ phủ sóng toàn cõi Việt Nam và một số nước khác trong vùng, giúp cho việc truyền tải thông tin dễ dàng hơn. Nó sẽ là công cụ hữu dụng cho ngành viễn thông Việt Nam. Còn Đức Giêsu lên trời đem lại lợi ích gì cho con người nói chung, cách riêng là những Kitô hữu chúng ta? Đức Giêsu lên trời không có nghĩa là Người sẽ mãi mãi rời xa chúng ta. Ngược lại, Người sẽ ở gần chúng ta hơn bao giờ hết. Nếu như trong thân xác thể lý trước đây, Người chỉ hiện diện tại một nơi trong cùng một thời gian mà thôi; thì giờ đây, với thân xác phục sinh không còn lệ thuộc thời gian và không gian, Người hiện diện với mọi người và bên mỗi người để nâng đỡ, ủi an, dìu dắt tất cả đến với Chúa Cha. Không những thế, Thánh Thần của Người sẽ hoạt động mạnh mẽ để tăng sức cho con người yếu đuối có đủ khả năng tiến về quê trời. Đức Giêsu lên trời vừa là bảo chứng cho cuộc sống vinh quang thiên quốc, vừa phát sinh nguồn lực dẫn đưa con người đến sự sống đời đời.

Vệ tinh Vinasat-1 đã đi vào không gian nhưng con người phải biết cách sử dụng và khai thác đúng cách thì nó mới đem lại lợi ích cho con người. Đức Giêsu lên trời cũng sẽ chỉ là một biến cố lịch sử, chẳng có ích gì nếu chúng ta không nhận biết được ý nghĩa của sự Thăng Thiên, và sống tích cực với ý nghĩa ấy. Mỗi Kitô hữu, qua kho tàng đức tin của Giáo Hội, nhận ra rằng Đức Kitô Phục Sinh luôn hiện diện bên mình, trong đời sống mình; và mình có nhiệm vụ làm sáng lên hình ảnh Người bằng cuộc sống giữa lòng xã hội. Đồng thời, theo lệnh truyền của Đức Kitô, mỗi người cũng được mời gọi làm cho mọi người nhận biết sự hiện diện của Người bằng lời nói và bằng chính hình ảnh sống động của Đức Kitô nơi bản thân mình. Có như thế, “vùng phủ sóng” của Đức Kitô Phục Sinh mới rộng lan trong lòng thế giới và trở nên hữu hiệu cho hành trình tiến về sự sống đời đời của con người.

Mừng Đức Giêsu lên trời, chúng ta hướng lòng lên cao, chiêm ngưỡng Đức Giêsu là mẫu mực cho đời sống mình, rồi trở về cuộc sống thường nhật, ra sức bắt chước Người trong cách ăn, nết ở; để “tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20). Nhờ đó, sức sống của Đức Kitô phục sinh ở mãi trong ta và rồi lan rộng cho mọi người bên ta.

 

 

 

 

 

27. Người “Giời” – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

 

Chúng ta vẫn thường nói với nhau: “người Giời”, nghĩa là người chẳng biết những sự gì dưới đất. Một người dường như ở cõi trên chứ không phải phàm nhân. Đó là người vô tư, vô lo thật đáng bị khiển trách.

Trong cuộc thi Hoa hậu Đại Dương vừa diễn ra tối 25.05 tại Bình Thuận, thí sinh Phan Thị Thu Phương (SBD 18) đã phát biểu: “Khi biết về việc Trung Quốc đặt giàn khoan Hải Dương tại vùng biển Việt Nam mình, em cảm thấy rất là bức xúc, nó xâm phạm về lãnh thổ, về vùng kinh tế của đất nước Việt Nam mình. Em muốn người Trung Quốc hãy mở giàn khoan đó ra, và để cho đất nước Việt Nam của em ngày càng xinh đẹp hơn”.

Trước câu trả lời thiếu sự hiểu biết khi muốn người Trung Quốc mở giàn khoan để đất nước Việt Nam xinh đẹp hơn của thí sinh Thu Phương đã khiến khán giả có mặt trực tiếp xem cuộc thi không khỏi bật cười. Và câu ứng xử này của thí sinh Hoa hậu Đại Dương đã nhanh chóng lan truyền trên các trang mạng xã hội.

Nhiều người đã tỏ ra bức xúc trước sự việc đang là tâm điểm của Quốc gia, được đưa tin trên hàng trăm phương tiện truyền thông mỗi ngày mà thí sinh Hoa hậu Đại Dương lại tỏ ra kém hiểu biết. Đúng là người “Giời”!

Cuộc đời người tín hữu luôn ước ao những sự trên trời nhưng không bao giờ quên bổn phận với gia đình, với quê hương đất nước. Người tín hữu càng không thể bàng quan trước những thăng trầm của cuộc đời, trước những vận mệnh của quê hương. Cuộc đời người ky-tô phải biết dấn thân cho dân tộc khi cần tựa như thánh Gióng biết đứng lên khi đất nước lâm nguy.

Truyện xưa kể rằng: vào đời Hùng Vương thứ 6, ở làng Gióng có hai vợ chồng ông lão chăm làm ăn và có tiếng là phúc đức. Hai ông bà ao ước có một đứa con. Một hôm bà ra đồng trông thấy một vết chân to quá, liền đặt bàn chân mình lên ướm thử để xem thua kém bao nhiêu. Không ngờ về nhà bà thụ thai và mười hai tháng sau sinh một thằng bé mặt mũi rất khôi ngô. Hai vợ chồng mừng lắm. Nhưng lạ thay! Đứa trẻ cho đến khi lên ba vẫn không biết nói, biết cười, cũng chẳng biết đi, cứ đặt đâu thì nằm đấy.

Bấy giờ có giặc Ân đến xâm phạm bờ cõi nước ta. Thế giặc mạnh, nhà vua lo sợ. Bèn truyền cho sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giỏi cứu nước. Đứa bé nghe tin, bỗng dưng cất tiếng nói: “Mẹ ra mời sứ giả vào đây”. Sứ giả vào, đứa bé bảo: “Ông về tâu vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này”.

Sứ giả trình với nhà vua và được ưng thuận.

Sau hôm gặp sứ giả, chú bé lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cũng không no, áo vừa mặc xong đã căng đứt chỉ. Hai vợ chồng làm ra bao nhiêu cũng không đủ nuôi con, thành thử phải chạy nhờ bà con, hàng xóm. Bà con đều vui lòng gom góp gạo thóc nuôi chú bé, vì ai cũng mong chú giết giặc, cứu nước.

Khi giặc Ân đến. Chú bé vùng dậy, vươn vai một cái bỗng biến thành một tráng sĩ mình cao hơn trượng, oai phong lẫm liệt. Tráng sĩ bước lên vỗ vào mông ngựa. Ngựa hí dài mấy tiếng vang dội. Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm roi nhảy lên mình ngựa. Ngựa phun lửa, tráng sĩ thúc ngựa phi thẳng đến nơi có giặc, đón đầu chúng đánh giết hết lớp này đến lớp khác, giặc chết như rạ. Bỗng roi sắt gẫy. Tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre cạnh đường quật vào giặc. Giặc tan vỡ. Đám tàn quân giẫm đạp nhau chạy trốn, tráng sĩ đuổi đến chân núi Sóc. Thánh Gióng về nhà dập đầu lạy mẹ, tạ ơn công nuôi dưỡng sinh thành rồi lên đỉnh núi cởi giáp sắt bỏ lại, cả người lẫn ngựa từ từ bay về trời…

Có một người đã về Trời thực sự. Ngài từ Trời mà đến và sau khi hoàn tất sứ mạng Ngài đã trở về Trời trong vinh quang. Sự kiện Chúa Giêsu về Trời hôm nay không phải là một truyền thuyết mà là một sự kiện lịch sử. Vì Chúa Giêsu là người thật. Chính Ngài đã trải qua những thăng trầm bể dâu đời người. Ngài đã đi qua kiếp người với gió mưa, nắng bụi… Ngài thực sự là Thiên Chúa xuống trần gian để cứu chúng sinh. Qua cái chết Ngài đã đánh bại tử thần để mở cửa trời đưa con người về với Thiên Chúa. Và sau khi kết thúc cuộc đời trần thế trong việc chu toàn sứ mạng của mình, Ngài đã được đưa về Trời trước sự chứng kiến của các môn đệ, và trong sự nuối tiếc vì kẻ ở người đi nơi các môn đệ.

Hôm nay chúng ta mừng Chúa về Trời. Mừng cuộc chiến thắng khải hoàn của Chúa. Mừng Chúa đã hoàn tất cuộc đời trần thế của mình trong vâng phục thánh ý Chúa Cha và thi hành thánh ý trọn vẹn. Sứ vụ của Chúa đến trần gian giúp con người đánh bại tử thần, và mang lại quyền làm con cái Thiên Chúa cho con người. Sự kiện Chúa về Trời cũng mở ra cho chúng ta một niềm hy vọng sau những bể dâu cuộc đời chúng ta cũng có một bến bờ yên bình hạnh phúc là quê Cha trên Trời. Chúa về Trời cho chúng ta quyền hy vọng sẽ được lên trời với Chúa nếu biết đi trên con đường của Chúa. Con đường của hy sinh phục vụ. Con đường dấn thân cứu đời. Con đường sống vì lợi ích của tha nhân.

Cuộc đời của mỗi con người đều gắn với một sứ mạng phải hoàn thành, một công việc để thi hành. Đó chính là bổn phận mà Chúa đã trao cho mỗi người chúng ta khi bước vào trần thế. Xin cho chúng ta luôn biết kiên nhẫn chu toàn bổn phận Chúa trao. Xin cho chúng ta luôn theo gương Chúa Giêsu tìm kiếm và thi hành thánh ý Chúa Cha. Xin đừng vì những đam mê trần thế mà bỏ bê bổn phận của người con với Cha trên trời. Amen.

 

 

 

 

 

28. Sứ mệnh

 

Trong lá thư của cha tuyên uý Vania gởi cho cha mẹ trước khi gục ngã dưới làn mưa đạn đại để như sau: “Cha mẹ yêu dấu Thiên Chúa đã vạch chỉ cho con con đường con phải theo Ngài. Con không chắc là có thể còn sống để trở về với cha mẹ nữa, con không cảm thấy lo sợ vì có Chúa ở cùng con. Người ta cấm cản không cho con rao giảng về Chúa, và con phải trải qua nhiều khó khăn thử thách, thế nhưng con tuyên bố với họ là con sẽ không sợ, mà tiếp tục rao giảng Tin Mừng và tình yêu Chúa Kitô, bởi vì đó là điều Thánh Linh đã phán bảo con; Hôm mùng 10 tháng này, khi con rao giảng một binh sĩ đã tin Chúa”.

Qua đời sống chứng nhân của cha Viana, rao giảng là một công việc rất cần thiết và hệ trọng, một công việc phải được xuất phát từ một con tim quảng đại, nhiệt thành trong tình yêu Chúa. Để được như thế thì lời Đức Giêsu nói với các môn đệ trước khi Ngài về trời: “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần; giảng dạy cho họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho các con”, không phải là một lời nói thông thường mà như một lời trăn trối thiêng liêng, một sứ mệnh vô cùng cao quý, vô cùng to lớn và vô cùng nặng nề.

Công cuộc truyền giáo của Người, công việc rao giảng để dẫn đường chỉ lối cho mọi người về với Chúa Cha vẫn chưa hoàn tất. Còn rất nhiều người đang sống trong u mê, họ vẫn chưa nhìn thấy ánh sáng của Chúa. Cánh đồng truyền giáo còn bao la bát ngát. Đó không chỉ là sứ mạng của các tông đồ, của các giám mục, linh mục ngày nay, mà là sứ mạng của toàn thể Giáo Hội của tất cả mọi người.

Qua mọi thời, Giáo Hội vẫn tiếp tục sứ mạng đó, ngay cả trong những hoàn cảnh khó khăn nhất, những khi Giáo Hội bị bách hại dã man, các môn đệ của Chúa vẫn hiên ngang rao giảng, thực hiện sứ mạng mà Chúa Kitô đã giao phó. Giống cha Viana, họ cũng sẵn sàng hy sinh mạng sống mình vì Nước Trời, để minh chứng cho niềm tin của họ vào Đức Kitô.

Ngày lễ Chúa Lên Trời phụng vụ muốn cho chúng ta thấy nhóm mười một đã thực sự trưởng thành, và trở thành chứng nhân của Chúa Phục Sinh. Nhưng họ còn phải chờ đón ơn Thánh Thần mới có thể ra đi tuyên chứng. Vì thế, lễ Chúa Lên Trời muốn nói lên sự kiện mới trong cuộc sống của Hội Thánh và của chúng ta hơn là một biến cố trong cuộc đời của Chúa Giêsu. Chúng ta cũng được đổi mới và lãnh nhận sứ mạng truyền giáo của Đức Giêsu qua Bí Tích Thánh Tẩy. Người truyền giáo là người dám loan truyền sự hiện diện của Chúa giữa nhân loại, nghĩa là cho mọi người nhìn thấy Chúa qua đời sống chứng nhân thường ngày. Thử hỏi, Giáo Hội Việt Nam, Khi Tin Mừng mới được gieo vãi vào Việt Nam, được phát triển mạnh mẽ, rồi qua bao triều bạo Chúa bắt bớ và giết chóc nhưng vẫn phát triển mạnh mẽ. Những nhân chứng đó chính là hình ảnh Chúa Kitô hiện diện qua các thánh tử đạo. Còn ngày nay, trong một thế giới vô thần lại cần rất nhiều chứng nhân hơn nữa, cần những nhân chứng biết hy sinh đem Lời Chúa đến như dòng nước ấm rửa tan sự băng giá còn khô cứng trong lòng của họ. Nhiệm vụ này đòi hỏi mỗi người chúng ta hãy kiên trì làm chứng bằng chính đời sống của mình.

Nhu cầu được biết Tin Mừng là khát vọng của nhiều người còn chưa biết Chúa, họ vẫn còn đang mò mẫm tìm đường. Vì thế “lời trăn trối” của Đức Giêsu hôm nay cần thiết hơn bao giờ hết. Đòi hỏi mỗi người hãy cấp bách đi gieo Lời Chúa, gieo Tin Mừng trên những cách đồng xa, những nơi mà hạt giống Tin Mừng chưa được gieo vãi, vì ở đó đang đói khát Tin Mừng, đang mong được thoát khỏi cảnh nô lệ tội lỗi của ma quỷ và của sự chết. Khát vọng đó là mảnh đất tươi tốt thúc bách chúng ta mau mắn thi hành sứ mạng của Thiên Chúa.

Lạy Chúa, xin cho thế giới này ngày cáng có nhiều người trẻ dám dấn thân, phục vụ trong cánh đồng truyền giáo của Chúa. Amen.

 

 

 

 

 

29. Ước mơ về trời – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền

 

Hôm nay Chúa về trời đó là niềm vui và là niềm hy vọng cho hành trình cuộc đời chúng ta. Một hành trình không vô định nhưng có điểm tới là quê Cha trên trời. Chính Chúa Kitô đã soi lối mở đường cho chúng ta. Chính Ngài đã đi trước để dọn chỗ cho những ai tin theo Người. Từ nay u sầu sẽ gặp niềm vui. Từ nay những đau khổ đời này không làm cho con người thất vọng, nhưng ánh vinh quang Phục Sinh của Chúa đã mang lại niềm hy vọng và lạc quan cho kiếp người chúng ta.

Người ta kể rằng: có một bác nông dân đã tình cờ nhặt được một tượng chịu nạn đã bị sứt mẻ đang nằm chơ vơ vì không có thập giá. Bác cầm tượng chịu nạn lên và đi vào trong làng. Bác đến từng nhà. Bác hỏi han từng người. Từ người già đến người trẻ. Bác nghĩ thầm rằng: “Không chừng ở đâu đây! Có ai đó đang có thập giá trơ trụi mà không có Đức Kitô nằm trên. Đức Kitô của bác không có nơi ngơi nghỉ, còn thập giá của ai đó không có Đức Kitô. Bác muốn trao Đức Kitô cho ai đang đang phải vác thập giá một mình, để nhờ Đức Kitô họ vượt qua những gian nguy của dòng đời. Bởi vì, một thập giá không có Đức Kitô là tra tấn, là hoả ngục, là thất vọng. Thế nên, bác đã cố gắng tìm đến những ai đang thất vọng vì gánh nặng hai vai, đang ui sầu vì lầm than cơ cực, bác trao gởi cho họ Đức Kitô để họ nhận ra họ đang được thông phần đau khổ với Đức Kitô. Hy vọng rằng cuộc đời họ sẽ vui hơn vì họ đang làm việc, đang đón nhận đau khổ vì Đức Kitô, nhờ đó họ cũng được chung phần vinh phúc với Chúa trên trời.

Vâng, cuộc đời chúng ta sẽ ngụp lặn trong đau khổ cùng cực nếu không có Đức Kitô hiện diện. Nếu cuộc đời không có Đức Kitô thì những hy sinh, những đau khổ, những gánh nặng trong cuộc đời này sẽ là một mất mát, một nỗi đau của kiếp người. Đây cũng là tin mừng mà Đức Kitô đã và đang trao phó cho giáo hội, cho mỗi người chúng ta: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thụ tạo”. Hãy loan tin vui đến cho những ai đang gặp u sầu, đang thất vọng, đang trải qua những ngày tháng bất hạnh, khổ đau. Hãy nói cho họ biết sau đêm dài là ánh bình minh. Cuộc đời này là một hành trình đi về thiên quốc. Một con đường có thập giá. Thập giá trong bổn phận. Thập giá trong hy sinh từ bỏ những tham sân si của dòng đời. Thập giá trong những dâng hiến cuộc đời để phục vụ cho lợi ích tha nhân. Đó chính là thập giá mà chúng ta đón nhận vì Đức Kitô sẽ biến thành Thánh Giá của hồng ân cứu độ.

Người nông dân đang cố gắng mang Chúa đến cho những mảnh đời bất hạnh, là sứ vụ mà Chúa đã trao cho giáo hội và cho mỗi người chúng ta. Chúng ta hãy cùng nhau mang Đức Kitô đến muôn nẻo đường đời. Hãy mang Đức Kitô đến cho những ai đang thất vọng u sầu, đang nặng trĩu những buồn đau. Hãy mời gọi họ biết đón nhận mọi biến cố đang diễn ra trong cuộc đời mình vì Đức Kitô và trong Đức Kitô.

Hôm nay, Chúa về trời. Chúa vẫn mang theo những dấu vết của thương tích trong cuộc khổ nạn. Không có vết thương nào đắt giá cho bằng sự chết. Như thể, Chúa về trời với những chứng tích đau thương, với những chống đối mà Ngài phải gánh chịu trong cuộc sống, với cơn hấp hối nơi vườn Cây Dầu, với những đau đớn của roi đòn, lỗ đinh. Ngài đã mang theo tất cả những giai đoạn đau thương đẫm máu như dấu tích cho lời xin vâng trọn vẹn vâng theo thánh ý Chúa. Và hôm nay, Chúa Giêsu muốn các môn đệ cũng như những ai muốn đi theo Ngài phải đi con đường này để lên trời. “Anh em hãy làm chứng cho Thầy. Khởi từ Giê-rusalem cho đến tận cùng thế giới”. Làm chứng không chỉ bằng lời nói mà bằng cả cuộc sống theo gương Chúa Giêsu. Một cuộc sống luôn tìm kiếm ý Chúa và thực thi trong cuộc sống hằng ngày. Một cuộc sống yêu thương và phục vụ tha nhân để qua đó muôn dân sẽ ngợi ca Thiên Chúa. Một cuộc sống làm chứng không nhất thiết phải đổ máu, nhưng quan yếu là phải thể hiện tình yêu bằng những nghĩa cử cụ thể trong lời nói, trong việc làm: luôn bao dung, luôn kính trọng lẫn nhau, luôn bác ái và sống công bình với nhau. Một cuộc đời làm chứng không nhất thiết phải có một bản án để người đời khinh chê, ghét bỏ, nhưng chỉ cần biết hy sinh từ bỏ ý riêng của mình trong từng giây, từng phút để thánh ý Chúa luôn được thi hành trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta.

Kính thưa, quý Ông Bà Anh Chị Em,

Hôm nay nhìn Chúa về trời. Các tông đồ cảm thấy lòng trào dâng niềm vui. Xa xăm nơi cuối chân trời chỉ còn vang vọng lời Thầy chí Thánh Giêsu: “Anh em hãy làm chứng nhân cho Thầy. Khởi từ Giê-rusalem cho đến tận cùng thế giới”. Xin cho mỗi người chúng ta đang khi hướng lòng về trời cao cũng biết chu toàn sứ vụ trần thế trong niềm hân hoan, ngõ hầu “Ra đi tay ôm bó lúa đi gieo – Ngày trở về miệng reo vang câu hát mừng. Xin Chúa Giêsu vinh thắng về trời giúp chúng ta luôn ước ao những sự trên trời và tìm kiếm Nước Chúa trong cuộc sống hôm nay. Amen.

 

 

 

 

 

30. Lễ Thăng Thiên – Damiano

 

Trích đoạn Tin Mừng của lễ Chúa Lên Trời hôm nay là đoạn kết thúc Tin Mừng thánh Matthêu. Khung cảnh là miền Galilê, một miền dân ngoại. Chúa Giêsu dặn các ông đến đây để gặp gỡ các ông lần cuối và căn dặn những điều cần thiết trước khi rời bỏ thế gian mà về Trời. Trong những lời nói cuối cùng nầy, có hai lời dặn rất quan trọng:

“Anh em hãy đi làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”.

“Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.

Lời dặn của Chúa Giêsu cho thấy, Nước Chúa không chỉ dành riêng cho dân Do thái mà cho cả muôn dân; cũng vì thế mà ngày đem các ông đến Galilê là miền dân ngoại.

Theo lời Chúa hôm nay thì tất cả những ai chịu phép rửa đều là môn đệ của Chúa. Và muốn trở thành môn đệ thì phải có hai đều kiện: phải chịu phép rửa nhân danh Chúa Ba Ngôi mà còn phải tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em. Điều kiện thứ nhất thì tương đối dễ vì là kitô hữu thì ai cũng được chịu phép rửa; nhưng điều kiện thứ hai thì ít ai giữ cho trọn hảo. Và người ta cứ tưởng lầm rằng hễ chịu phép rửa đã là người kitô hữu rồi, còn điều kiện thứ hai: sống lời Chúa thì thường được kể như là điều kiện phụ trội, có hay không cũng được. Theo Lời Chúa thì đó là một quan niệm hết sức sai lầm. Cả hai điều kiện điều cần thiết; và nhiều khi điều kiện thứ hai còn cần hơn cả điều kiện thứ nhất, vì có những người tuy chưa được rửa tội nhưng sống tốt lành hợp với Lời Chúa thì vẫn được cứu rỗi.

Vì thế thánh Matthêu dùng cụm từ “trở thành môn đệ” để nói lên rằng người môn đệ là người sống theo lời dạy của Thầy mình, vì đó là điều kiện để trở thành môn đệ Chúa.

Trong lời dặn thứ hai: Thầy sẽ ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế, Chúa bảo đảm cho các tông đồ cũng như cho Hội Thánh sự hiện diện hằng ngày của Chúa trong công việc rao giảng Tin Mừng khắp thế gian. Người tông đồ không cô đơn vì luôn có Chúa ở cùng. Trước mọi khó khăn và thử thách, người tông đồ ý thức về sự hiện diện của Chúa nên tâm hồn vẫn bình an, vẫn can đảm và kiên trì.

Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã giao cho các Tông Đồ và Hội Thánh tiếp tục sứ mệnh của Ngài ở thế gian. Là môn đệ của Chúa Kitô, mỗi người Kitô hữu cũng được Chúa giao cho nhiệm vụ mở mang Nước Chúa, rao giảng Tin Mừng bằng chính cuộc sống của chúng ta, một cuộc sống đầy chất Phúc Âm. Thánh Phaolô đã ý thức được nhiện vụ đó và đã kêu lên: khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng.

Lời nói cuối cùng.

Chuyện xảy ra trong một bệnh viện ở New York.

Một thanh niên được đưa lên bàn mổ. Đội ngủ phẩu thuật đã sẵn sàng, vị bác sĩ giải phẩu nói với bệnh nhân: Tôi tưởng đã đến lúc phải nói thật với em: Cái lưỡi của em bị ung thư, và để cứu sống em, chúng tôi phải cắt cái lưỡi của em. Nếu em cần nói điều gì lần cuối thì em nói đi vì sau khi mất lưỡi, em không bao giờ nói được nữa! Người thanh niên tái mặt, những bắp thịt ở môi em rung lên vì sợ hãi. Nhưng sau một phút im lặng, vẻ mặt người bệnh bổng từ từ bình tĩnh lại; cuối cùng, vân dụng tất cả sức lực còn lại, anh nhìn mọi người đứng chung quanh một lượt, rồi nhìn lên trời và thốt lên: Xin chúc tụng danh Chúa Giêsu! Đó là lời quan trọng nhất mà anh thốt ra lần cuối!

Lời nói cuối cùng của bệnh nhân nầy đã làm bừng tỉnh đức tin của tất cả những người đứng chung quanh giường bệnh. Giường bệnh cũng là nơi truyền giáo. Nhà tù cũng là nơi truyền giáo. Cuộc sống đời thường cũng là nơi truyền giáo.

 

 

 

 

 

31. Suy niệm của Lm Phêrô Trần Đình

 

Lễ Chúa Giêsu lên trời nói với chúng ta thật nhiều điều.

1. Trước tiên, con người chỉ có thể sống khi cuộc sống có ý nghĩa đối với họ. Họ phải biết sống để làm gì? Chết rồi thì đi đâu? Con đường chúng ta đang đi sẽ dẫn chúng ta đến chỗ nào.

Người ta thống kê rằng cứ mỗi ngày trên thế giới có 5000 người trẻ tự vẫn. Đó là những người có cuộc sống đầy đủ, không cần phải phấn đấu, nhưng họ tìm đến cái chết (như lái xe với tốc độ cao…) vì không biết sống để làm gì, không tìm thấy ý nghĩa cuộc sống.

Lễ Chúa lên trời dạy chúng ta rằng cuộc sống có một ý nghĩa, đường ta đi sẽ dẫn chúng ta đến đâu. Chúa Giêsu lên trời có nghĩa là về với Chúa Cha. Chúa Cha là quê hương của Đức Giêsu, là nơi Người phát xuất và cũng là nơi Người trở về. Chúa Giêsu về trời trước rồi Người sẽ trở lại đón chúng ta, để Người ở đâu chúng ta cũng sẽ ở đó.

2. Chúa lên trời không phải để xa cách chúng ta, cho bằng là để gần kề chúng ta hơn mỗi khi chúng ta kêu cầu Người. Khi còn sống ở dương gian, Chúa Giêsu bị hạn chế về mặt không gian và thời gian. Nếu Chúa ở chỗ này, thì Người không thể ở chỗ kia. Còn bây giờ khi đã lên trời, Chúa không còn bị giới hạn về mặt không gian và thời gian nữa.

3. Chúa lên trời để ngự bên hữu Chúa Cha, nghĩa là Người sẽ trở thành Đấng cầu bầu đắc lực cho chúng ta trước mặt Chúa Cha (x. Kinh tiền tụng ngày lễ).

4. Chúa lên trời để Giáo Hội trưởng thành hơn. Giờ đây, Giáo Hội sẽ tiếp tục công cuộc rao giảng của Người: “Anh em hãy đi khắp thế gian rao giảng Tin mừng cho mọi loài thụ tạo”. Thời kỳ của Giáo Hội bắt đầu từ đây.

Các môn đệ của Chúa rất ý thức điều đó. Họ đã tuân lệnh Chúa “ra đi rao giảng khắp nơi”, làm cho người ta trở thành môn đệ của Chúa, nghĩa là tin vào Chúa.

5. Chúa lên trời còn để dọn chỗ cho chúng ta như chính Người đã nói. Mỗi lần sau truyền phép chúng ta đều tuyên xưng: “Trong vinh quang mai Người sẽ đến, đón chúng con lên trời về với Chúa Cha”. Người kitô hữu ý thức rằng quê hương đích thực của chúng ta là ở với Chúa trên trời. Nhưng việc chúng ta có được vào chốn đó hay không, còn tuỳ thuộc vào cuộc sống của chúng ta hôm nay.

Để kết thúc tôi xin kể một câu chuyện. Có một bà chủ nhà kia rất mực giàu có. Bà nuôi một gia nhân để dọn dẹp nhà cửa cũng như chăm sóc vườn hoa. Người này rất chăm chỉ lao động, nhưng bà chủ ác độc la mắng anh ta đủ điều, dầu vậy anh ta vẫn phải ngậm tăm

Thế rồi bà chủ đã chết và được quỉ đưa ngay xuống địa ngục, chốn khóc lóc và nghiến răng. Quỉ chỉ cho bà một túp lều rách nát và bảo rằng đó sẽ là nơi cư ngụ của bà từ đây. Bà chẳng còn biết làm sao nữa, cho bằng răm rắp tuân lệnh.

Một thời gian sau, người nô bộc của bà cũng chết và được thiên thần rước ngay lên trời, chỉ cho anh ta một ngôi nhà sang trọng và nói đó sẽ là nơi cư ngụ vĩnh viễn của anh.

Từ đàng xa, bà chủ thấy anh và lập tức nhận ra đó là người nô bộc của mình. Bà không vui khi thấy anh này được ở trong ngôi nhà xinh xắn. Bà đề nghị đổi túp lều của mình để lấy ngôi nhà sang trọng kia, nhưng thiên thần bảo: “Không được đâu bà. Sở dĩ người kia được ở trong ngôi nhà xinh xắn sang trọng, là bởi vì từ trần gian anh ta không ngừng gởi cho chúng tôi những vật liệu quí giá. Chúng tôi chỉ có việc xây nhà từ những vật liệu anh ta gởi lên mà thôi’. Còn bà, bà chỉ gởi cho chúng tôi những vật liệu tồi tàn và ma quỉ cũng đã dùng chính những vật liệu bà đã gởi xuống, để dựng cho bà một cái chòi rách nát mà thôi”. Bà đừng ghen tị mất công. Số phận của mỗi người tuỳ thuộc khi còn sống người ta đã gởi những vật liệu nào về đời sau.

 

 

 

 

 

32. Hãy đi, vì có Thầy ở cùng! - Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

 

Có một vấn nạn không dễ gì lý giải: địa điểm Chúa lên trời thực sự ở đâu, Ga-li-lê-a hay Giê-ru-sa-lem, hai địa điểm cách nhau tới vài trăm cây số? Tác giả Luca khảng định rất rõ ràng: tại Giê-ru-sa-lem, địa điểm đó gần Bê-ta-ni-a (Lc 24,47.50; Cv 1, 4-12), trong khi Mát-thêu lại xác định: một ngọn núi miền Ga-li-lê-a (Mt 28,16). Tôi đã đặt câu hỏi này cho hướng dẫn viên chuyến hành hương Đất Thánh năm 2005, giáo sư Coffele của đại học UPS và nhận được câu trả lời: ‘truyền thống’ luôn xác định là Giê-ru-sa-lem (lúc đó chúng tôi đang viếng đền thờ Thăng Thiên, do người Hồi Giáo quản lý, có cả tảng đá in vết chân Chúa khi Ngài cất lên trời!) Điều đó cho thấy, khi Kinh Thánh đề cập tới bất cứ biến cố nào thì điều quan trọng nhất cần lưu tâm vẫn là nội dung của sứ điệp hơn là chính sự kiện. Đoạn Tin Mừng hôm nay cũng không nằm ngoài nguyên tắc đó. Về biến cố Đức Giêsu phục sinh thăng thiên thì chỉ có Lu-ca mới tường thuật cách tương đối chi tiết, trong khi các tác giả khác, hoặc không đề cập gì (Gioan, Mátthêu), hoặc chỉ thoáng qua mà thôi (Máccô).

Tin Mừng Mátthêu hôm nay, thay vì mô tả chính biến cố Chúa về trời thì chỉ đơn giản ghi lại những lời căn dặn và trăn trối đầy tâm huyết cuối cùng Chúa gửi gắm tới các môn đệ thân yêu trước khi xa rời họ vĩnh viễn.

Trong giờ phút ly biệt chấm dứt cuộc hiện diện trần thế, Đức Giêsu long trọng công bố Vương Quốc Người chính là quyền lực yêu thương của thập giá đã được vĩnh viễn xác lập và bao trùm: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất”; đồng thời Người căn dặn các môn đệ ở lại, và truyền cho họ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em”. Như vậy Thăng Thiên trước hết phải được hiểu như một mệnh lệnh ‘ra đi’ để mở rộng vương quốc Kitô. Chúa về trời là để tạo điều kiện cho các môn đệ có thể tự do lên đường. “Thầy ra đi thì có lợi cho anh em hơn” (Ga 16,7). Chúa về trời là để vương quốc tình yêu của Ngài được mở rộng tới mọi nơi, tới mọi cõi lòng. Hướng nhìn của biến cố ‘Chúa lên trời’ không phải là không gian vũ trụ vô tận, mà là đi sâu vào niềm tin bên trong tâm hồn con người. “Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn đứng nhìn trời?” (Cv 1,11) Sự hùng vĩ và huy hoàng của ‘lên trời’ không phải là một thứ ánh sáng chói lòa của tinh tú hay mây trời, nhưng là “anh em nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em… anh em là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp miền Giu-đê, Sa-ma-ri, và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8). Như vậy việc mừng ‘Chúa lên trời’ đối với các Kitô hữu sẽ đồng nghĩa với việc xác định lại niềm tin vào quyền lực tình yêu của Thầy Giêsu, và khảng định lại quyết tâm mở rộng vương quốc đó tới mọi tâm hồn và cho tới tận cùng trái đất. Do đó Thăng Thiên chính là một biến cố nội tâm sâu xa nhất, một đòi hỏi khắt khe nhất của niềm tin.

“Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”, lời trăn trối tâm huyết làm sao chính vào lúc hình bóng Thầy Giêsu lặng lẽ bị mây trời che khuất. ‘Xa mặt thì cách lòng’, thói thường vẫn thế… Đức Giêsu thì khảng định ngược lại, khi ‘các ông không còn thấy Người nữa’ thì lại là lúc Người ‘cận lòng’ và gần gũi thắm thiết với từng môn đệ hơn bao giờ hết. Thậm chí sự gần gũi thắm thiết này còn được hiện thân hóa bằng cả một nhân vật kỳ diệu được Người sai phái đến: Thần Khí – Đấng Bảo Trợ – Thần Chân lý. Các môn đệ mừng vui là phải bởi vì ‘Chúa về trời’ đâu phải là mất mát, là xa cách. Các ông được lợi, lợi rất nhiều, nhiều tới mức sung mãn nhất: họ được sở hữu Thầy Giêsu cách trọn vẹn và vĩnh viện, qua sự hiện diện phong phú tột cùng của Thánh Thần đổ tràn vào tâm hồn. “Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em…” (Ga 14,17). Câu Đức Giêsu nói với tông đồ Tô-ma: “Phúc thay những người không thấy mà tin” (Ga 20,29) đang lộ rõ nội dung cụ thể, phong phú và thâm sâu nhất của nó, có giá trị cho hết mọi thời, tới tận thời đại chúng ta hôm nay.

Mừng Chúa Thăng Thiên là như thế; không phải mừng vì Đức Kitô được vinh thăng, mà thực chất là mừng cho người môn đệ là mỗi chúng ta được cất nhắc lên cách kỳ diệu. Niềm vui đó ta có được không phải vì chăm chú nhìn lên trời, cho dầu đó là thiên đàng đi nữa, để mà mơ ước và chờ đợi, nhưng vì đi xâu vào nội tâm, nơi Thần Khí Đức Kitô Giêsu hiện diện và tác động, để nghiệm thấy tình yêu mạnh mẽ của Người, và sẵn sàng để cho tình yêu đó thúc đẩy ta lên đường công bố niềm vui phục sinh cho mọi tạo vật.

“Hãy đi vì có Thầy luôn ở cùng!”

Lạy Chúa Thăng Thiên vinh hiển, con xin được ca ngợi Chúa đã lên trời trong âm thầm lặng lẽ hơn là trong hoành tráng phô trương. Con cảm tạ Chúa đã ra đi vĩnh viễn để niềm tin con tập trung hơn vào Thần Khí đã được Người sai đến và đang ngự trị trong thâm sâu cõi lòng con. Do đó xin cho con luôn xác tín rằng: Chúa hằng ở cùng con, và sức mạnh tình yêu của Thần Khí Người luôn thôi thúc con lên đường. Amen.

 

 

 

 

 

33. Hãy đi loan báo Tin Mừng - Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

 

“Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo!”

Tôi không muốn coi đây là một lệnh truyền, vì mệnh lệnh bao giờ cũng là điều do vị bề trên truyền xuống, chứ không xuất phát từ bản thân, từ một đòi hỏi thâm sâu của cõi lòng mình. Đối với Nhóm Mười Một, vào thời điểm họ nghe câu nói này, thì có lẽ đúng là họ nghe một mệnh lệnh; đơn giản là vì họ chưa hiểu được rằng các biến cố đang dồn dập xảy ra đích thị là Tin Mừng. Thậm chí họ còn lo âu, họ sợ hãi thì đúng hơn, trong biến cố khổ hình và thập giá đã đành, mà cả trong các lần Đấng Phục Sinh hiện ra với họ; phải đợi tới khi ‘Thần Chân Lý’ đến dạy đỗ trực tiếp, họ mới vỡ lẽ ra từ đáy lòng mình về ý nghĩa đích thực của nó (Ga 14:26; 16:12-13). Chỉ khi đó, phải, chỉ lúc đó mệnh lệnh Chúa truyền trước khi về trời mới trở thành một cảm nghiệm không thể cưỡng, vì nó thôi thúc họ từ bên trong (Cv 2:4).

Đối với Kitô hữu chúng ta hôm nay thì khác hẳn: ta có nhiều thời gian để suy tư, để cử hành biến cố tử nạn và phục sinh như một Tin Mừng đích thực; ta đã được ban ‘Thần Chân Lý’ để dạy cho biết mọi sự; vì thế, nếu là Kitô hữu chân chính của ngày hôm nay, ‘hãy đi khắp tứ phương thiên hạ… loan báo Tin Mừng’ chắc hẳn sẽ không còn là một lệnh truyền từ bên ngoài nữa, mà đã phải là một thúc bách từ niềm tin thâm sâu nhất từ bên trong.

Vậy, nếu Tin Mừng là một thôi thúc từ bên trong, thì quả thực sự hiện diện hữu hình của Đức Giêsu, cho dầu đã sống lại vinh hiển, sẽ không còn là cần thiết nữa. Người có thể yên tâm về trời, và còn nên sớm về trời nữa là đàng khác, với điều kiện làm sao các môn đệ nắm bắt được cuộc sống, sự chết và phục sinh của Người đích thị là Tin Mừng, Tin Mừng cho mọi người và cho từng người; chỉ lúc đó, vâng, chỉ lúc đó, như các Tông Đồ, tôi mới có thể ‘ra đi rao giảng khắp nơi’. Như thế thì sứ điệp chính mà Lời Chúa muốn gởi tới chúng ta hôm nay lại không chỉ là tưởng nhớ tới biến cố ‘Chúa Giêsu được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa’, mà là một yêu cầu gửi tới mỗi người chúng ta làm cuộc tổng kiểm tra về những gì đã cử hành trong suốt hai tháng qua kể từ đầu Mùa Chay; đối với tôi, những cử hành này có phải thật sự là Tin Mừng hay không? Cuộc kiểm tra này càng cần thiết vì đồng thời nó làm cho ta nghiệm ra một điều nữa, đó là, trong tư cách Kitô hữu, ta cần không ngừng gia tăng ý thức về sự hiện diện của ‘Thần Chân Lý’ nơi chính mình, để sống với Người cách sâu xa hơn, và để nhờ Người và trong Người, sức mạnh Tin Mừng sẽ càng tác động tích cực trong thời gian tới của niên lịch phụng vụ (mùa Hiện Xuống).

Chính vì ý thức được Tin Mừng, với sức mạnh vô địch của nó, mà ta mới ngộ ra ‘những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin’ thực ra cũng chẳng có gì là lạ, là bất thường cho lắm: ‘trừ được quỉ’ – chẳng qua là hoàn lại sức sống tình yêu của Thiên Chúa cho nhiều tâm hồn; ‘nói được những tiếng mới lạ’ – chẳng qua là nhìn nhận Lời Thiên Chúa chính là Lời tình yêu và từ nhân, tha thứ và không hề luận phạt; ‘cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc thì cũng chẳng sao’ – sẽ là can đảm liều lĩnh gánh vác những công việc mà tự nhiên không ai thèm làm hoặc dám làm; ‘đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khỏe’ – sẽ là thể hiện bằng mọi cách lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa cho những kẻ yếu hèn nhất. Vài dấu lạ được kể ra, cho dầu có gây đôi chút ấn tượng, thì cũng chỉ là vài nét chấm phá của một nội dung vô cùng phong phú Tin Mừng chứa đựng. Tất cả các điều này, kể cả sức mạnh vô địch của Tin Mừng, mỗi chúng ta đều đang được thụ hưởng, nhờ vào ơn gọi Kitô hữu của mình. Trong Thánh Thần, ta đã đón nhận Tin Mừng Đức Kitô Giêsu, Tin Mừng ‘Thiên Chúa hết lòng yêu thương thế gian’. Và một khi đã sở đắc được niềm tin này thì dù Chúa có hiện ra hữu hình hay ẩn mình vô hình, dù có được tận mắt chứng kiến phép lạ mặt trời quay cuồng như tại Fatima năm nào hay chỉ âm thầm sống tin yêu trong tăm tối như Mẹ Tê-rê-xa Can-cút-ta… thì cũng không mấy quan trọng. Sự lạ thì vẫn là sự lạ… nhưng chỉ tác động được bên ngoài nhất thời mà thôi. Chỉ có Tin Mừng mới có sức thúc đẩy ta ‘đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo’. Mẹ Tê-rê-xa đã không ngừng loan báo Tin Mừng cho những người hấp hối cùng cực nhất của thành phố Can-cút-ta bằng phục vụ âm thầm… chỉ vì Mẹ luôn thâm tín rằng: ‘Chúa thương yêu tôi không phải vì tôi tốt lành, nhưng tôi cố gắng trở nên tốt lành hơn vì biết rằng Chúa thương yêu tôi!’

Phải, chỉ duy những ai thấu hiểu được Tin Mừng tình yêu mới có thể lên đường loan báo Tin Mừng cho muôn dân, bằng nhiều phương tiện và nhiều cách thức rất khác nhau.

Lạy Chúa, nếu trước khi về trời Chúa hứa ban cho con một điều ước, thì con sẽ ước gì đây? Con sẽ không ước được thấy Chúa đôi lúc hiện ra hữu hình, con sẽ không ước được khôn ngoan, lợi khẩu, được làm phép lạ hay gì gì khác nữa. Điều ước duy nhất của con phải là được ở lại sâu hơn trong tình thương của Chúa; được thấu hiểu sâu hơn Tin Mừng Chúa yêu thương. Xin đổ tràn Thánh Thần Tình Yêu vào tâm hồn con, để – vì thâm tín rằng mình được Thiên Chúa yêu thương – con sẽ lên đường loan truyền Tin Mừng tình yêu cho mọi người. Amen.

 

 

 

 

 

34. Bài giảng của Đức Cha Giuse Nguyễn Năng

(Lm. Phêrô Nguyễn Hồng Phúc ghi)

 

Anh chị em thân mến,

Việc Chúa Giêsu lên trời thì chắc chắn là chúng ta phải suy nghĩ “lên trời tức là đi đâu?” và trí tưởng tượng của chúng ta bắt đầu làm việc, làm việc mạnh mẽ. Chúng ta tưởng tượng Chúa Giêsu đang đứng giữa chúng ta và Ngài bay lên, đi lên, lên mãi. Chúng ta tưởng tượng một khung trời nào đó, Chúa Giêsu đang núp ở đây. Tuy nhiên, không phải như vậy. Chúng ta có đi phi thuyền bay thật xa trong vũ trụ bao la này thì chúng ta cũng không bao giờ thấy Chúa Giêsu ở trên đó.

Vậy Chúa Giêsu lên trời tức là đi đâu? Chúa Giêsu lên trời nghĩa là Chúa đi vào trong vinh quang của Chúa Cha, Chúa trở về với Chúa Cha từ nơi Chúa Cha mà đến. Chúa Giêsu vào trong trần gian này cứu chuộc chúng ta. Hôm nay công trình đã hoàn tất, Chúa Giêsu trở về với Chúa Cha, sống trong vinh quang của Chúa Cha. Thật sự, Chúa Giê su đã về với Chúa Cha ngay từ khi Chúa sống lại. Nhưng trong thời gian bốn mươi ngày qua, Chúa Giê su vẫn còn tỏ mình ra cho các tông đồ. Chúa tỏ ra cho các tông đồ thấy là Chúa đang sống. Bài đọc thứ nhất trích trong sách Tông đồ Công vụ kể cho chúng ta như vậy (Cv 1,1-11). Chúa hiện ra, Chúa chứng tỏ cho các môn đệ thấy Chúa vẫn đang sống. Đành rằng Chúa đã đi vào cuộc sống khác nhưng Chúa vẫn tỏ ra một cách cụ thể, một cách hữu hình khi mà mắt các tông đồ vẫn còn thấy được Chúa đang sống. Nhưng hôm nay, Chúa lên trời, có nghĩa là bốn mươi ngày sau khi Chúa sống lại, Chúa chấm dứt việc không tỏ ra cho các tông đồ thấy một cách cụ thể, hữu hình như trước đây nữa.

Chúa Giêsu lên trời là Chúa đi vào trong vinh quang của Chúa Cha, có nghĩa là Chúa chiến thắng tội lỗi, chiến thắng sự chết và Chúa bước vào cuộc sống mới. Cuộc sống mới này, chúng ta không thể thấy bằng mắt phàm được, chúng ta cũng không thể chạm lấy bằng đôi tay được mà chúng ta chỉ có thể nhận ra Chúa bằng đức tin. Chúa lên trời không có nghĩa là Chúa đi xa chúng ta, mà trái lại, Chúa ở gần chúng ta hơn bao giờ hết. Chúa ở giữa chúng ta. Đức Kitô Phục Sinh đã sống lại, có nghĩa là Ngài đang sống, sống giữa Hội Thánh và sống trong thế giới này. Chúa lên trời có nghĩa là Chúa không tỏ ra một cách hữu hình. Vì thế chúng ta chỉ có thể nhận ra Chúa bằng đôi mắt đức tin. Chúa lên trời nhưng Ngài không rời xa chúng ta, mà ngược lại, Chúa ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế theo như lời kết trong Tin Mừng theo thánh Matthêu: “Này đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).

Chúa Giê su lên trời là Chúa kết thúc công cuộc cứu chuộc của Chúa. Chúa đã làm phần việc của Chúa xong rồi, và bây giờ Chúa cho Giáo Hội tiếp tục làm công trình cứu độ ấy. Chúa đã hẹn gặp các tông đồ ở núi cao miền Galilê và Chúa đã căn dặn các tông đồ: “Anh em hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần, giảng dạy cho họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.” (Mt 28,19-20). Đó là sứ mạng Chúa trao cho các tông đồ, Chúa trao cho Hội Thánh. Hôm nay Chúa về trời thì Hội Thánh tiếp nối sứ mạng ấy. Trong ba mươi ba năm sống tại trần gian này thì ba năm Chúa đã rao giảng Tin Mừng, Chúa đã làm phép lạ để chứng tỏ tình thương cứu độ của Thiên Chúa. Chúa đã chữa lành bệnh tật, cho người đói ăn, cho người đau yếu được mạnh khỏe, rồi Chúa đã tha tội cho người ta. Chúa đã cử hành thánh thể để nuôi dưỡng con người. Tin Mừng cứu độ ấy, hôm nay Chúa đã hoàn tất và hôm nay Chúa trao cho chúng ta, Chúa trao cho Hội Thánh. Mỗi người trong cương vị của mình phải chu toàn trách nhiệm, sứ mạng rao giảng Tin Mừng mà Chúa đã trao cho chúng ta. “Anh em hãy giảng dạy cho muôn dân”, lời Chúa nói không phải chỉ dành cho các tông đồ, dành cho các giám mục, linh mục, tu sĩ nhưng là lời gửi đến toàn thể cộng đồng dân Chúa. Anh chị em, mọi người trong Hội Thánh đều có sứ mạng loan báo Tin Mừng để làm chứng về Chúa Giê su cho anh chị em chúng ta.

Trong những năm vừa qua, anh chị em được nghe nói đến việc tân Phúc Âm hóa hay là nói cách khác, là việc loan báo Tin Mừng mới. Loan báo Tin Mừng mới có nghĩa là gì? Không phải là rao giảng một Phúc Âm mới. Chỉ có một Phúc Âm mà thôi. Chỉ có một Đức Giê su, Con Thiên Chúa, Đấng cứu độ làm người mà thôi. Phúc Âm ấy, Chúa Giê su ấy: hôm qua, hôm nay và mãi mãi cho đến mãi muôn đời vẫn là một. Không ai được quyền thay đổi Phúc Âm ấy, không ai được quyền thay đổi đức tin. Nhưng tân Phúc Âm hóa, công cuộc Phúc Âm hóa mới ở chỗ nào? Thưa, đó là mới ở chỗ đổi phương pháp loan báo Tin Mừng, đổi cách trình bày nội dung Tin Mừng. Nội dung vẫn là một, nhưng ngôn ngữ và phương cách phải được đổi mới. Phúc Âm hóa mới còn ở chỗ phải có nhiệt tình mới, một lòng hăng say mới để đi rao giảng Tin Mừng. Những điều ấy hết sức cần thiết cho thời đại của chúng ta hôm nay.

Quả vậy, thưa anh chị em. Chúng ta phải đổi mới cách loan báo Tin Mừng, đổi mới cách dạy giáo lý của chúng ta. Có lẽ trong bao nhiêu năm chúng ta đã quen với việc dạy giáo lý bằng cách “hỏi – thưa”. Một ông quản, một bà quản hay một anh chị giáo lý viên cầm cái roi ở trong tay, rồi dạy giáo lý. Chúng ta cố gắng nhồi nhét những câu hỏi thưa cho các thế hệ trẻ. Việc học thuộc lòng rất cần thiết, chúng ta không thể bỏ được. Nhưng phải thay đổi, dùng các phương pháp sư phạm mới, dùng cách trình bày mới, dùng phương tiện mới. Ngày xưa không có ti vi, ngày nay có ti vi, người ta dùng ti vi để giảng đạo; ngày xưa không có Internet, bây giờ người ta dùng Internet để rao giảng Phúc Âm; ngày xưa không có video, bây giờ có video để giảng dạy Phúc Âm; ngày xưa người ta dùng ngôn ngữ trừu tượng để giảng dạy về Chúa Giê su, ngày nay dùng phương pháp kể chuyện để nói về Chúa Giê su… Chúng ta thấy đó là những điều hết sức quan trọng để loan báo Tin Mừng cho mọi tạo vật. Có những điều chúng ta giảng dạy trừu tượng không ai muốn nghe, nhưng nếu chúng ta dùng phim ảnh, dùng câu chuyện để nói về Chúa Giê su thì những câu chuyện ấy, những bài giảng ấy hết sức là hấp dẫn, lôi kéo người khác. Đó chính là rao giảng Tin Mừng một cách mới mẻ: Tân Phúc Âm hóa.

Tân Phúc Âm hóa còn hiện đại ở chỗ là chúng ta phải có sự nhiệt tình mới. Phải có lòng nhiệt tình, phải có sự hăng say đi rao giảng Tin Mừng. Chúa trao sứ mạng đi rao giảng và làm chứng về Chúa cho anh chị em. Nhưng thử hỏi, suốt 2000 năm qua. Công việc rao giảng Tin Mừng được tiến triển bao nhiêu? Thưa, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II, là vị mới được phong Á Thánh ngày 01.05.2011 vừa qua. Ngài đã nói: “Sau 2000 năm, công cuộc rao giảng Tin Mừng vẫn còn dừng lại, dường như ở bước khởi đầu”. Nghĩa là chưa tiến được gì hết, 2000 năm không cứu vớt được là bao nhiêu. Bởi vì sao? Bởi vì thiếu nhiệt tình, thiết sự hăng say. Thiếu nhiệt tình, thiếu sự hăng say, bởi chính chúng ta đây, những người Ki tô hữu, chúng ta chưa cảm nhận được tin vào Chúa Giê su đó là một tin vui cho chúng ta. Nhiều người Ki tô hữu tin vào Chúa Giê su nhưng mà không cảm thấy vui, không cảm thấy là Tin Mừng, không cảm thấy là hạnh phúc. Và một khi chúng ta không thấy vui, không thấy hạnh phúc thì lúc đi nấc thang đi theo Chúa, làm sao chúng ta có lửa, chúng ta có nhiệt tình để rao giảng Tin Mừng cho người khác. Chính mình không cảm thấy đó là tin vui thì mình chỉ rao giảng tin buồn, không thể rao giảng Tin Mừng về Chúa được.

Cách đây chừng hai mươi năm, anh chị em vùng Kim Sơn (tỉnh Ninh Bình) của chúng ta đổ xô đi tìm vàng. Có những người nghe nói ở chỗ nọ, chỗ kia có vàng. Một người đi kháo tin là có vàng, và đúng là có vàng, thì người đó vui mừng báo tin cho gia đình mình, cho anh em mình, cho xứ sở, lối xóm của mình. Thế là người ta từng đoàn, từng đoàn đi đào vàng. Có những người tìm được vàng, nhưng có những người thất bại. Nhưng điều quan trọng là người đầu tiên đi phát hiện thấy vàng. Người đó vui mừng về loan báo cho mọi người. Khi người ta nhận thấy tin vui, người ta không giữ được niềm vui, người ta sung sướng và muốn lôi kéo tất cả cùng đi để có một cuộc sống mới. Chính Chúa Giê su đã ví “Nước Trời cũng giống như viên ngọc quí” (x. Mt 13,44-46). Nước Trời giống như kho tàng, không phải chỉ là mỏ vàng có khi được khi không, mà là cả kho tàng ngọc quí. Những người Ki tô hữu chúng ta đây là những người đã biết được sự cao quí của Nước Trời. Chúng ta cảm nhận được tin vui, chúng ta cảm nhận được niềm vui và hạnh phúc, bởi vì chúng ta đã gặp được Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế, là Đấng đổi mới cuộc đời chúng ta. Mình cảm nhận, mình công bố, mình mong muốn cho mọi người được biết Tin Mừng cứu độ của Chúa Giêsu. Cho nên, tân Phúc Âm hóa là khơi dậy ngọn lửa nhiệt tình mới cho những người Ki tô hữu chúng ta.

Ngày hôm nay, ngày Chúa Giê su lên trời. Chúng ta dừng lại để suy ngẫm về sứ mạng của chúng ta. Chúng ta thử hỏi, chúng ta đã chu toàn sứ mạng đó được như thế nào? Ngọn lửa nhiệt tình của chúng ta, niềm vui của chúng ta khi chúng ta đi theo Chúa được bao nhiêu? Thưa, chắc còn thấp lắm. Hôm nay, khi Chúa trao phó sứ mạng cho Giáo Hội, cho các tông đồ thì Chúa cũng căn dặn: “Anh em hãy chờ đợi Chúa Thánh Thần đến trong anh em” (Cv 1,8).

Trong tuần lễ này, từ hôm nay cho đến Chúa nhật tới, chúng ta hãy khao khát, cầu nguyện xin Chúa Thánh Thần đến với Hội Thánh, đến với từng người chúng ta. Xin Chúa Thánh Thần đốt lên trong lòng chúng ta ngọn lửa nhiệt tình, đốt lên trong lòng chúng ta lòng hăng say để chúng ta rao giảng Tin Mừng cho Chúa. Chúng ta cầu nguyện xin Chúa Thánh Thần khơi dậy trong Hội Thánh một nguồn sống mới. Trong Chúa nhật tới, chúng ta sẽ mừng lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống thì trong tuần này, mỗi ngày, tất cả mọi nơi, mọi lúc, chúng ta hợp ý với toàn thể Hội Thánh xin Chúa Thánh Thần đến với chúng ta. Chúa Giê su đã về trời, sự hiện diện của Chúa qua lời của Chúa, qua Thánh Thể của Chúa, chúng ta lắng nghe sứ điệp mà Chúa Giêsu trước khi lên trời đã trối lại cho chúng ta. Chúng ta xin Chúa nâng đỡ để mỗi người trong chúng ta chu toàn sứ mạng mà Chúa đã trao cho chúng ta giữa lòng Hội Thánh. Amen.

 

 

 

 

 

35. Đất trời giao duyên

 

Tv. 115 có viết “Trời là trời của Chúa, còn đất thì Chúa cho con cái loài người.” (Tv 115,16). Như thế, trời là nơi Chúa ngự. Nhưng Thiên Chúa không chỉ ở trên trời mà Ngài còn yêu con người và thương trái đất đến nỗi Ngài đã sai Con Một của Ngài đến ở với con người. “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.” (Ga 3,16). Và từ khi Con Thiên Chúa đến đặt chân ở trái đất này và cắm lều ở đó thì Đất và Trời đã giao duyên.

Trái đất giờ đây cũng trở thành nơi Chúa ngự. Đất thấp đã mang dáng dấp của trời cao. Đây quả là mầu nhiệm của tình yêu, vượt quá sức hiểu biết của con người. Thiên Chúa “cúi xuống để nhìn xem bầu trời trái đất?” (Tv 113,6), một sự cúi mình vì yêu. Nhờ Đức Giêsu Kitô, con người nơi đất thấp đã được chạm đến trời cao và có thể bước vào trời cao. Quả là một huyền nhiệm của tình yêu! Thật chẳng có gì quá đáng khi nói: “Thiên Chúa xuống làm người để cho con người lên làm Chúa”. Trong huyền nhiệm của tình yêu thì điều đó hoàn toàn có thể hiểu được!

Thật ra, Đất thấp chẳng xa lạ gì với Đức Giêsu Kitô vì nhờ Ngài mà nó được dựng nên. Nhưng từ khi Ngài đến ở với con người thì đất đã bắt đầu thành trời và mãi mãi thuộc về trời cao. Chính Đức Giêsu Kitô đã nói: “Này đây, Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).

Tôi rất thích ngắm nhìn cảnh một đứa bé lên 2, lên 3 được cha của nó nâng nó lên và cho ngồi trên đôi vai của mình. Đứa bé thích thú và sung sướng vì cảm thấy mình cao bằng và thậm chí cao hơn cha của nó. Vì thương con của mình nên người cha cúi mình xuống để nâng nó lên. Thiên Chúa cũng hành động như thế và còn vượt xa hơn thế nhiều lần đối với con người chúng ta.

Tình yêu đã làm cho trời cao ngang bằng với đất thấp; đất trời đã giao duyên và nên một với nhau trong Đức Giêsu Kitô.

Hiểu như thế, chúng ta sẽ không còn thắc mắc hay lo buồn khi nói Chúa lên trời nữa. Chúa lên trời cũng đồng nghĩa với việc Chúa đang ở bên tôi. Có khác chăng là cách thức Ngài hiện diện với chúng ta mà thôi. Trong Đức Giêsu Kitô, trời và đất là một. Đây quả là nguồn động viện và khích lệ quá lớn đối với đời sống của người Kitô hữu chúng ta. Vì từng giây từng phút, chúng ta đang sống và đang hoạt động với Đức Giêsu Kitô.

Như vậy, nhiệm vụ xây dựng Quê hương Nước Trời của người Kitô hữu chính là công việc xây dựng quê hương trần thế này. Nếu trời là nơi Chúa ngự, là nơi chốn của tình yêu, của công lý, của hoà bình và hạnh phúc thì con người cũng phải có trách nhiệm biến trái đất này thành nơi ở của những điều thiện hảo đó. Như vậy, Nước Trời đâu còn là cái gì đó xa lạ hay là sản phẩm hoang tưởng của những con người ngây ngô như một số người vẫn nghĩ như thế.

Trời cao và đất thấp ở bên nhau khi mọi người Kitô hữu biết sống với nhau cách chân tình, biết chia sẻ cho tha nhân những gì mình có, biết chấp nhận hy sinh và phục vụ anh em mình.

Trời cao và đất thấp đã gần nhau khi con người không còn bị mê hoặc bởi những của cải lợi danh, không bị những đam mê của xác thịt kéo ghì mình lại hay không chùn bước trước những đau khổ và chết chóc trong đời thường.

Hãy làm chứng về Nước Trời và làm cho “Ý Cha được thể hiện dưới đất cũng như trên trời” bằng cuộc sống vui tươi và hạnh phúc ở đời này; hạnh phúc khi hy sinh, tự hiến, khi chịu thua thiệt, mất mát, khi chịu lãng quên… Chúng ta không thể làm chứng về thiên đàng bằng một cuộc sống u sầu buồn bã được. Thiên đàng mai sau đã chớm nở ngay trong cuộc sống hạnh phúc ở đời này.

Nhà tỉ phú Warren Buffett đã nói một câu rất chí lý: “Nếu bạn không thấy hạnh phúc là lỗi của bạn”. Sự thật là như thế. Tôi chỉ có thể được hạnh phúc sống đời sau bên Chúa nếu tôi biết bắt đầu sống hạnh phúc bên Chúa ngay từ bây giờ, ngay từ đời này.

Lạy Chúa, xin cho con biết ngước mắt nhìn lên trời cao với một tâm hồn đơn sơ và tự do của người con cái Chúa. Xin đừng để những vất vả và chán chường của cuộc sống ở đời này làm con quên mất trời cao. Xin cũng đừng để những vẻ đẹp của trần gian với những cám dỗ và quyến rũ của nó làm cản bước tiến của con trên đường về với Chúa. Ước gì qua từng ngày sống hiện tại của con đây là một phản chiếu cho mọi người thấy Nước Chúa đang tỏ. Amen.

 

 

 

 

 

36. Cùng đích cuộc đời chúng ta là Nước Trời - Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

 

Xã hội chúng ta đang sống, người ta tự xưng mình là những người vô thần, tức là không tin vào thần thánh, không tin hồn thiêng bất tử, và cũng không tin vào sự sống đời sau, cũng chính vì thế họ đã tự tạo ra một tinh trạng trống rỗng về tôn giáo, về tinh thần trong xã hội trong tâm hồn con người. Cho đến hôm nay, dường như người ta nhận ra rằng, con người không thể thiếu vắng những giá trị thiêng liêng, tôn giáo như thế, và thế là họ đã tạo nên những thứ thần linh và những thứ tôn giáo để lấp đầy khoảng trống đó trong xã hội và trong tâm hồn của nhiều người. Chính vì vậy mà trong những năm gần đây những hình thức lễ hội mang tính tôn giáo, các thứ cúng bái dân gian, kể cả những thứ tin kiêng vớ vẩn dường như đang được ủng hộ, khuyến khích trong xã hội chúng ta.

Trong khi đó niềm tin tôn giáo và đặc biệt đức tin Kitô giáo hướng chúng ta đến cùng đích của cuộc đời con người đó là hạnh phúc nước trời, cũng chính vì niềm tin và hy vọng này mà mỗi người chúng ta dù đang sống và làm việc trên trần gian này, nhưng lòng chúng ta luôn hướng về trời là quê hương thật của chúng ta.

Mừng lễ Chúa Giêsu về trời chúng ta không chỉ mừng một sự kiện đã xảy ra hoặc một cuộc chia tay, mà còn là dịp Giáo Hội nhắc cho chúng ta rằng: Chúa về trời để mở đường cho chúng ta và mời gọi chúng ta luôn yêu mến và tìm kiếm nước trời như là lẽ sống là mục đích cuộc đời. Nước trời mà hôm nay Chúa Giêsu trở về, không hẳn là một nơi chốn, cũng không phải là Ngài trở về một hành tinh xa xôi nào đó, nhưng là Ngài trở về với địa vị danh dự của một vị Thiên Chúa, trở về với tình trạng hạnh phúc cùng với triều thần thiên quốc. Sự kiện Chúa lên trời cho chúng ta nhớ rằng quê hương đích thực của chúng ta là nước trời, và cùng đích cuộc đời của mỗi người phải là tìm kiếm hạnh phúc nước trời, chính niềm hy vọng này thục đẩy và chi phối cuộc sống hiện tại của chúng ta, và làm cho chúng ta khác với những người vô thần.

Chúa Giêsu đến thế gian, Ngài đã hoàn tất việc khai sinh Giáo Hội, hoàn tất chương trình cứu chuộc nhân loại và chỉ ra cho nhân loại con đường về trời, con đường đó chính là con đường của Tin Mừng, con đường của Tám Mối Phúc, con đường của thập giá, là con đường đưa con người đến sự giải thoát và siêu thoát. Nay, Chúa Giêsu về trời, Ngài muốn trao phó cho chúng ta tiếp nối sứ mạng mà Ngài đã thực qua mệnh lệnh Chúa truyền cho các Tông đồ trong bài Tin Mừng hôm nay: Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem,… chính anh em là chứng nhân của những điều này. Như vậy, sự kiện Chúa về trời còn là để để mở ra cho Giáo hội một giai đoan mới, giai đoạn Giáo hội phải lên đường, phải ra đi, ra khỏi tình trạng co cụm sợ hãi để mạnh dạn đến với mọi người mọi dân và làm chứng về Tin Mừng của Chúa, làm chứng cho niềm hy vọng về Nước trời mai sau.

Để lại sứ vụ rao giảng cho Giáo Hội, Chúa không để Giáo hội làm việc một mình, nhưng Ngài còn hứa sẽ ban Thánh Thần là Đấng bảo Trợ, Đấng an ủi đến với các tông đồ, Ngài sẽ là Thần Sức Mạnh, là Đấng soi sáng dẫn dắt cho mọi hoạt động của Giáo Hội. Trong cuộc chia tay này, không còn là cuộc chia tay buồn bã như trong bữa tiệc ly, song Thánh Luca muốn nhấn mạnh cho thấy, các tông đồ đã hoàn toàn ý thức và tin Thày của các ông đã được tôn vinh như một vị Thiên Chúa, nên trong lúc lãnh nhận sự chúc lành từ nơi Thày, các ông đã bái lạy Người như bái lạy Thiên Chúa, sau đó các ông trở về Girusalem lòng đầy hân hoan vui mừng.

Bài đọc một hôm nay là đoạn mở đầu của sách Tông Đồ công Vụ, thuật lại sự kiện Chúa Giêsu lên trời như là sự kiện đánh dấu sự khời đầu cho sứ mạng của Giáo Hội với sự bảo trợ của Chúa Thánh Thần. Tác giả đã cho thấy sự kiện lên trời của Chúa Giêsu như là sự kiện Thiên Chúa Cha tôn vinh Con của Ngài: Ngài được cất lên trời trước mặt các tông đồ, và có đám mây che phủ khiến các ông không thấy Ngài nữa. Hình ảnh Ngài được cất lên và đám mây che phủ là hình ảnh muốn nói lên vinh quang của một vị Thiên Chúa, và kể từ đây, không phải Chúa Giêsu lìa bỏ các tông đồ, Ngài vẫn đang hiện diện qua quyền năng và Thánh Thần được ban cho các ông, chỉ có điều vì mắt các ông bị mây che phủ nên các ông có thể không thấy Ngài.

Điểm tiếp theo mà sách Tông Đồ Công Vụ muốn diễn tả, đó là trong lúc các tông đồ còn đăm đăm nhìn theo Người, thì có hai người mặc áo trắng đứng bên cạnh nói với các ông: Hỡi những người Galilea, sao còn mải đứng nhin trời? Đức Giêsu Đấng vừa lìa bỏ các ông để lên trời, cũng sẽ ngự đến như các ông đã thấy Ngài lên trời. Lời này cho thấy, chúng ta được mời gọi hướng về quê hương trên trời, lấy nước trời làm mục đích của cuộc đời, nhưng chúng ta không mãi ngước nhìn trời để rồi quên lãng bổn phận trần thế, trái lại phải trở về với cuộc sống, phải nhìn xuống đất để thấy được những thực tại trần thế và những vấn đề của nó. Trở về cuộc sông thường ngày, là trở về với những lo toan những công việc, để đương đầu với những khó khăn thử thách, và biết giải quyết mọi vấn đề trong ánh sáng của Tin Mừng, trong niềm hy vọng và đợi trông nước trời. Đồng thời chúng ta còn được mời gọi làm việc không phải chỉ cắm mặt vào công việc, hoặc chỉ tìm kiếm vất chất và thế gian, nhưng còn phải luôn ở trong tư thế sẵn sàng chờ đón ngày Chúa Giêsu sẽ trở lại.

Thưa quý OBACE, như đã nói ở trên, chúng ta khác với những người xưng mình là vô thần không có niềm tin, đối với họ cuộc sống trên trần gian này chỉ là tìm kiếm cái ăn cái mặc hoặc là thu vét cho có nhiều của cải, thỏa mãn cái bụng mà không biết chung cuộc đời mình sẽ như thế nào, và đâu là niềm hy vọng hạnh phúc đời đời. Chúng ta đang sống trên trần gian nhưng lòng chúng ta lại hướng về trời cao, chúng ta vẫn đang làm việc nhưng chúng ta không chỉ làm việc vì cơm áo gạo tiền, mà chúng ta đang làm việc trong sự trao phó của Thiên Chúa và trong sự đợi chờ ngày chúa trở lại đem chúng ta về trời với Ngài, chính vì niềm hy vọng đời chờ này, lại thúc đẩy chúng ta phải sống và làm việc một cách tích cực hơn và tốt đẹp hơn.

Trong ngắm thứ nhất mùa mừng chúng ta đọc: Thứ nhất Chúa Giêsu lên trời, ta hãy xin cho được yêu mến những sự trên trời, điều này đặt ra cho chúng ta suy nghĩ xem chúng ta có thực sư yêu mến những sự trên trời hay chúng ta yêu mến những sự dưới đất hơn những sự thuộc về trời? Chúng ta sẽ trở thành giống như người không có niềm tin khi chúng ta chỉ biết yêu mến và tìm kiếm những sự dưới đất mà bỏ qua việc tìm kiếm những giá trị thiêng liêng và tìm kiếm nước trời về cho mình và cho con cái, khi chúng ta tự mình giải quyết những khó khăn của cuộc sống mà quên sự hiện diện và nâng đỡ của Thiên Chúa. Các bậc làm cha mẹ hãy biết dành ưu tiên cho việc tim kiếm Đức Giêsu và Tin Mừng của Ngài về cho gia đình và người thân của mình, hãy chu toàn bổn phận làm vợ chồng, cha mẹ trong niềm hy vọng Chúa sẽ trở lại và đưa chúng ta về trời, đừng biến gia đình mình trở thành một gia đình mất đi niềm hy vọng ấy, cũng đừng để gia đình mình bị những mây mù của tật xấu của đam mê, lười biếng làm cho các thành viên không còn nhìn nhận ra sự hiện diện của Chúa nữa.

Nhiều người trẻ ngày hôm nay đang sống như thể không có Chúa hiện diện, và không xác định được cùng đích cuộc đời của mình là gì, không biết rồi mình sẽ đi đâu, nên nhiều người đã sống không có định hướng, sống chộp giật, sống vội, sống như thể không có đời sau, … Chúng ta là những người tin Chúa, chúng ta phải sống trong hy vọng và phải sống khác với những người ấy. Chúng ta không thể buông mình cho dòng chảy của xã hội đưa đẩy, mà trái lại chúng ta được mời gọi phải sống làm chứng, và nói cho mọi người biết về Đức Giêsu và Tin Mừng của Ngài và nói về niềm hy vọng của chúng ta cho mọi người chung quanh; Chúng ta cũng vẫn phải làm việc như mọi người, nhưng chúng ta sẽ phải sống tốt hơn và làm việc tốt hơn, vì chúng ta làm việc trong sự thúc đẩy và vì lời mời gọi của nước trời.

Giáo hội chọn ngày hôm nay là ngày Truyền thông Quốc tế, để cầu nguyện cho những người làm công tác truyền thông biết nói lên sự thật và biết bênh vực cho sự thật, biết dùng những phương tiện truyền thông để phục vụ cho nhu cầu hạnh phúc và lợi ích của cộng đồng, nhất là qua những phương tiện này, họ biết nói về Thiên Chúa quyền năng và tình yêu thương của Ngài cho mọi người.

Xin Chúa giúp chúng ta biết chuẩn bị cho nước trời mai sau bằng việc sống thật tốt, thật tròn đầy ngày hôm nay. Amen.

 

 

 

 

 

37. Bài giảng của ĐGM. Giuse Vũ Văn Thiên

 

HIỆN DIỆN – VẮNG MẶT

Sau khi kể lại việc các môn đệ trực tiếp chứng kiến Chúa Giêsu rời khỏi các ông và được đem lên trời Thánh sử Luca đã ghi lại: Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi trở lại Giêrusalem, lòng đầy hoan hỷ. Chúng ta hơi ngạc nhiên vì tâm trạng các môn đệ có vẻ mâu thuẫn trong tình huống này. Có lẽ nào khi chúng ta chia tay với những người mình quý mến mà lòng chúng ta lại được tràn đầy hoan hỷ? Câu trả lời cho tâm trạng của các môn đệ được tìm thấy nơi niềm xác tín của các ông về một Đức Kitô vừa hiện diện vừa vắng mặt trên trần thế.

Đức Giêsu “vắng mặt” nơi trần thế. Khi lên trời, Người về với Chúa Cha như chính Người đã nói. Người lìa xa các ông và từ nay Người không còn hiện diện cách thể lý như trong suốt 33 năm của cuộc đời dương thế, và trong suốt 40 ngày kể từ khi Chúa sống lại. Từ nay, Đức Giêsu vắng mặt nơi trần thế. Người đã nói với các môn đệ: “Thày đi thì tốt cho các con… Thày không bỏ các con mồ côi… Thày sẽ sai Thánh Thần đến với các con và Ngài sẽ dẫn các con đến chân lý toàn vẹn” (x.Ga 16,13).

Mặc dù Chúa Giêsu đã về trời, nhưng Người vẫn hiện diện giữa trần gian. Các nhà thần học gọi đó là một sự “Hiện diện – Vắng mặt”, có nghĩa là Chúa hiện diện mà ta không nhìn thấy, đồng thời Chúa vắng mặt nhưng Đức tin mách bảo rằng Người đang ở với chúng ta. Chính Chúa đã hứa với các môn đệ trước khi rời ra các ông: “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.

Căn cứ vào những suy luận trên đây, chúng ta hiểu được tâm trạng của các môn đệ sau khi đã được chứng kiến Chúa lên trời. Các ông vui mừng với niềm xác tín rằng Chúa đang hiện diện với các ông, mặc dù từ nay, các ông không còn được ăn uống với Người và lắng nghe những lời Người giáo huấn. Từ nay, bổn phận chính yếu của các ông là nhớ lại những lời dạy của Chúa và lên đường loan báo lời dạy ấy cho muôn dân. Mặc dù không còn được thấy Chúa bằng con mắt thể lý, các ông vẫn thấy Người bằng con mắt đức tin. Đối với chúng ta cũng vậy. Chúng ta giống như hai lữ khách trên đường Emmau, từng bước ngỡ ngàng nhận ra Chúa đang hiện diện qua những cử chỉ chia sẻ huynh đệ và nhất là qua lời cầu nguyện.

Lễ Thăng Thiên là lễ của niềm vui và hy vọng. Bởi lẽ việc Chúa lên trời cũng đã là chiến thắng của chúng ta (x. Lời nguyện nhập lễ). Trong Phụng vụ của ngày lễ hôm nay, Giáo Hội cầu nguyện xin Chúa ban cho chúng ta niềm vui, vì “chúng con là chi thể của thân thể Người, Người là Đầu đã đi trước chúng con tiến vào vinh quang nơi Chúa, và chúng con cũng đang hy vọng tiến tới đó” (Lời nguyện dâng lễ).

Tâm trạng của chúng ta khi mừng lễ Chúa lên trời cũng là tâm trạng của các môn đệ năm xưa khi các ông xuống núi. “Xuống núi” là trở về với cuộc sống thường nhật, nhưng với tinh thần được đổi mới và với niềm xác tín mới. Lời nhắc bảo của hai sứ thần mặc áo trắng đưa các môn đệ đi từ tình trạng chiêm niệm đến với thực tế. Các ông đã được thấy Chúa về trời, các ông hãy trở lại với cuộc sống cụ thể để làm chứng về những điều mắt thấy tai nghe. Từ nay, sứ mạng tông đồ của các ông không còn bó hẹp trong một không gian nhất định, nhưng mang tính hoàn vũ: “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđêa, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8).

Khi mừng lễ Chúa về trời, người Kitô hữu được mời gọi nhận ra Đức Giêsu vừa là Thiên Chúa vừa là người. Người cũng vừa hiện diện vừa vắng mặt nơi cuộc sống của chúng ta. Nói cách khác, Người diện diện một cách huyền nhiệm, vô hình, thiêng liêng để tiếp tục sẻ chia những gian truân của thân phận con người. Lễ Thăng Thiên cũng nhắc người Kitô hữu có một quan niệm quân bình về cuộc sống trần thế. Bởi lẽ là người công dân của Nước Trời, chúng ta sống giữa thế gian mà không thuộc về thế gian, đồng thời chúng ta có bổn phận phải xây dựng trần thế cho tốt đẹp và nhân ái hơn. Đối với các Kitô hữu “miền đất lạ nào cũng là quê hương, nhưng quê hương nào cũng là đất khách” (Thánh Justinô), vì quê thật của họ là Nước Trời, nơi Đức Giêsu đã dọn sẵn cho họ những chỗ ở, để họ chiêm ngưỡng vinh quang Chúa Cha trong hạnh phúc đời đời.

 

 

 

 

 

38. Lên Trời: Ước mơ cao đẹp - Lm. Bùi Quang Tuấn

 

Mới đây, trong những ngày đầu tiên của thiên niên kỷ, một chuyến du lịch đã làm sửng sốt nhiều người vì sự tốn kém khủng khiếp của nó: chuyến du lịch của Denis Tito, một nhà triệu phú Hoa Kỳ, người đã trả 20 triệu đô la cho tấm vé du lịch 6 ngày trên không gian.

Từ thuở bé, khi nhìn ngắm trời sao ban đêm, Tito mơ ước một ngày ngào đó mình sẽ được bay vào trời cao. Thế rồi lớn lên, ông đi học và trở thành kỹ sư làm việc cho NASA, cơ quan Hàng không Vũ trụ Quốc gia Hoa kỳ. Tito chuyên về thiết kế các đường bay thám hiểm Hỏa tinh và Kim tinh. Sau đó ông chuyển qua đầu tư và trở thành triệu phú.

Tuy làm triệu phú nhưng Tito vẫn không mất đi ước mơ bay vào vũ trụ, dầu rằng ông biết rõ giấc mơ ấy rất mong manh. Bởi vì hầu hết các phi hành gia đều xuất thân từ những phi công máy bay phản lực với nhiều tài năng và thể lực tốt, trong khi kích thước và trọng lượng cơ thể của ông lại rất khiêm tốn: cao 5″5 và nặng 140 cân Anh (pounds).

Nhưng khi cơ quan Hàng không Vũ trụ Nga chịu bán cho Titô một ghế du lịch giá 20 triệu, và sau bảy tháng trời huấn luyện không ngừng, giấc mơ của Tito đã thành sự thật. Ông phát biểu trước chuyến bay: “Chúng ta chỉ có một cuộc đời để sống. Tôi muốn thực hiện hết những giấc mơ lành mạnh và hợp pháp của mình.”

“Chúng ta chỉ có một cuộc đời để sống”, và trong cuộc đời đó có biết bao ước mơ được đan dệt. Nhưng thử hỏi ước mơ của tôi có lành mạnh và hợp pháp không? Các mơ ước của tôi tốt đẹp cao sang hay tầm thường hèn hạ? Chúng nâng tôi lên hay nhận chìm phá hủy?

Nói đến ước mơ là nói đến những mục tiêu chưa có trong hiện tại. Mục tiêu tuy nằm trong tương lai, nhưng lại chi phối đời sống con người từ ngày hôm nay. Khi một bạn trẻ mong rằng mai kia mình sẽ có tấm bằng cao học, trong hiện tại họ đã phải thức khuya dậy sớm, thu tích bao kiến thức cần thiết để một ngày nao chiếm được mảnh bằng như lòng ước mong. Thành ra, ước mơ hướng con người đến với tương lai, nhưng đã làm nên cung cách sống trong hiện tại.

Nhìn vào ngày mai để ngày hôm nay ta sống trọn vẹn hơn chính là lối đường khôn ngoan mà lễ Đức Giêsu Lên Trời muốn nói.

Không ít người bị quan niệm vật chất chi phối nên khi nói “Chúa Giêsu lên trời” người ta mau liên tưởng đến hình ảnh Ngài bốc mình khỏi mặt đất, bay vào một nơi nào đó trên trời cao. Điều này khiến cho có kẻ cứ lầm tưởng thiên đàng là một chốn nào đó trong không gian. Yuri Gagarin, phi hành gia đầu tiên của Nga, sau khi bay lên vào vũ trụ đã trở về tuyên bố: “Tôi nhìn khắp cùng không gian, nhưng chẳng thấy Chúa đâu. Vậy mà người có Đạo lại nói “Lạy Cha chúng con ở trên trời”.

Nghe thế, nhiều người bị lung lay niềm tin vì cứ tưởng Chúa ở trên trời cao xanh, bây giờ các khoa học gia lên trời và dùng cả viễn vọng kính tối tân tìm kiếm mà chẳng thấy ai, nên nghĩ là không có Chúa.

Có người lại lầm tưởng trên thiên đàng người ta vẫn sống như đời thường, tức cũng ăn uống ngủ nghỉ, cưới vợ, lấy chồng, sinh con đẻ cái. Thế nên mới có cảnh bè phái Sađucêô đặt vấn đề: một bà lấy bảy anh em, thế khi về trời bà ta là vợ của ai.

Nếu thiên đàng là một cõi vật chất nào đó trong không gian thì nó cũng sẽ suy tàn như bao vật chất khác. “Lên thiên đàng” không phải là bay lên trời xanh kia, song là bước khỏi thế giới hữu hình để đi vào mối liên hệ vô hình, không bị chi phối bởi thời gian, không gian, hay giác quan, song là yêu thương bao trùm tất cả.

Thế nên khi nói “Chúa Giêu lên trời” có nghĩa là Ngài đi trở về với mối liên hệ vô hình trong tình yêu tinh tuyền và trọn vẹn của Thiên Chúa.

Trên thế gian, khi yêu nhau con người phải dùng đến sự vật hữu hình để diễn tả và cảm nhận. Không ai thấy hình thù của tình yêu nên người ta phải bày tỏ qua cánh hoa, vòng tay, ánh mắt, nụ hôn… Nói yêu nhau mà không có hành động diễn tả thì chẳng ai có thể cảm nhận được. Ấy là vì con người bị giới hạn trong thế giới vật chất hữu hình. Thế nên, khi Thiên Chúa tỏ tình với nhân loại, Ngài cũng phải diễn tả qua những gì người ta thấy, sờ, nghe và cảm nhận được. Cao điểm của lời tỏ tình ấy là việc Thiên Chúa làm người để sống giữa con người.

Thế nhưng qua việc “lên trời”, Chúa Giêsu đã khẳng định rằng con người không bị thế giới vật chất hữu hình chi phối mãi. Sẽ đến một ngày người ta thoát khỏi thế giới đó, chấm dứt những liên hệ trong không gian và thời gian để đi vào mối liên hệ tinh tuyền của tình yêu.

Chắc hẳn ước mơ cao quí nhất của đời người là ước mơ hạnh phúc. Nhưng có hạnh phúc nào lại thiếu vắng tình yêu. Tình yêu càng tinh tuyền, hạnh phúc càng trọn vẹn. Tình yêu tinh tuyền và trọn vẹn nhất chỉ có trong vương quốc Thiên Chúa.

Trước khi về trời, Đức Giêsu mời gọi các môn đệ hãy tập sống tình yêu đó ngay trên thế gian. Ngài bảo các ông: “Các con hãy đi giảng dạy cho muôn dân”, “các con là chứng nhân của Thầy”. Nhưng giảng dạy và chứng nhân cho điều chi nếu không phải là Tình yêu Thiên Chúa ban cho con người. Lời giảng dạy chân thực nào cũng cần kèm theo đời sống chứng tá. Chắc chắn không mấy ai dám tin nhận lời dạy của các môn đệ khi thấy các ông bê bối xấu xa, vợ nọ con kia, đam mê vật chất, gian dối hận thù, tranh giành quyền lực đánh chí choé. Người ta có tin là vì các ông đã tập sống như lời Đức Giêsu căn dặn: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau.”

Thành ra việc mừng lễ Chúa Giêsu lên trời lại khai mở trong tôi một thái độ sống: sống trong cuộc đời nhưng phải hướng về quê trời. Sự hướng mình lên cao đó giúp tôi vược thắng những tình cảm thấp hèn của xác thịt, thế gian, vật chất hầu đi đến một tình yêu cao cả hơn. Đó là tình yêu chân lý, yêu sự sống, yêu những giá trị thiêng liêng, với khả năng nâng tôi lên cao hơn trong tình Chúa và tình người.

 

 

 

 

 

39. Ta ở với các ngươi mãi mãi

(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)

 

Chúng ta không có một chỉ dẫn nào về vị trí ngọn núi xứ Galilêa, nơi Chúa Giêsu hẹn các môn đệ. Bài tường thuật của thánh Matthêu được viết theo dàn bài thông thường của các cuộc hiện ra. Chúa Giêsu tỏ mình, Ngài đánh tan sự nghi ngờ, Ngài ban một sứ mạng cho các môn đệ. Bài Phúc Âm hôm nay bao phủ một sự phong phú ý nghĩa đặc biệt. Chúa Giêsu trao cho các môn đệ mệnh lệnh rao giảng Phúc Âm, uỷ thác cho các ông quyền làm phép rửa tội, Ngài hứa tiếp tục có mặt bên các ông. Chúa Giêsu còn hiện diện với Giáo Hội, thay mặt ở đây bởi mười một tông đồ, đặc biệt trong bí tích rửa tội và trong công cuộc truyền bá Phúc Âm.

1) Chúa Giêsu hiện diện trong phép Rửa tội.

Ta biết rằng người chịu phép rửa tội được tham dự vào mầu nhiệm hiệp thông với sự chết và sự sống lại của Chúa Giêsu. Phép rửa tội đặc biệt là bí tích của sự kết hợp vượt qua với Đức Kitô, vì phép ấy cho ta đạt tới sự sống qua khỏi sự chết. Điều ấy chỉ thành sự thật nhờ tin vào Chúa Giêsu. Chúng ta sẽ không biết gì cả về Ba Ngôi Thiên Chúa nếu không có Chúa Giêsu tỏ bày cho chúng ta. Đối với các tông đồ đã như thế, đối với chúng ta cũng như vậy. Chúa Giêsu còn hiện diện để dạy dỗ chúng ta bằng cách nào? Người hướng dẫn chúng ta đến phép rửa tội ra sao? Và sự hiện diện của Ngài tỏ ra đặc biệt gần gũi và tác động nơi linh hồn người chịu phép rửa tội như thế nào? Để trả lời những câu hỏi ấy cần viện đến sự kiện Giáo Hội và đến mầu nhiệm bên trong của đời sống Kitô hữu. Chúa Giêsu hiện diện để dạy dỗ người ta bởi Giáo Hội của Ngài. Chính Giáo Hội là điểm gặp gỡ giữa Đức Kitô và loài người và chính ở điểm gặp gỡ ấy nảy sinh đức tin. Do đó ta thấy tầm quan trọng của việc theo sát những vị có sứ mạng uỷ quyền giảng dạy trong Giáo Hội, những vị thừa kế các tông đồ. Mặt khác, qua ân sủng bí tích rửa tội, Đức Kitô tiếp tục nơi chúng ta công cuộc mặc khải Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Ngược lại, lòng sẵn sàng tuân theo Chúa Thánh Thần và đón nhận Chúa Cha giúp ta tiến tới trong việc hiểu biết Chúa Con. Đây là một cái gì sống động không thể diễn tả bằng lời nói được. Đức tin vào Chúa Giêsu Kitô cho chúng ta cảm nhận được thực tại sống động của bí tích rửa tội.

2) Đức Kitô hiện diện trong công việc truyền bá Phúc Âm.

Trước hết cần nhớ rằng, bổn phận truyền bá Phúc Âm thuộc mọi môn đệ của Đức Kitô, nghĩa là thuộc mọi người chịu phép rửa tội với những phương tiện riêng (bắt đầu bằng kinh nguyện). Chúa hiện diện nơi công việc của các tông đồ Ngài bằng hai cách chính. Trước hết Ngài hiện diện nơi công việc của người chiến sĩ Phúc Âm bằng sự hiện diện nơi chính người chiến sĩ. Như vậy có nghĩa là người chiến sĩ cần phải để tâm gặp gỡ riêng Chúa mình. Người môn đệ chỉ loan báo Đức Kitô cách hữu hiệu trong mức độ chính mình sống thân thiết bên trong và riêng biệt với Chúa. Sau đó hãy nhớ lời dạy quan trọng: nơi nào nhiều người tụ họp lại nhân danh Ta, có Ta ở giữa họ. Chúa hiện diện với các môn đệ khi họ đoàn kết. Thiếu đoàn kết giữa các Kitô hữu là nguyên do chính của việc thiếu hữu hiệu trong công việc truyền bá Phúc Âm. Đừng nói chi đến sự chia rẽ bi đát giữa các Giáo Hội. Hãy nghĩ đến mức độ chúng ta trong cách suy nghĩ, trong lời nói, trong các quyết định, trong cách hành động, chúng ta có lo lắng liên kết và hiệp nhất với các anh em tín hữu gần gũi nhất với chúng ta không? (xứ đạo, khu xóm, xưởng làm, phong trào Công Giáo Tiến Hành…). Nếu có, Đức Kitô hiện diện nơi công việc tông đồ của chúng ta.

 

 

 

 

 

40. Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

 

CHÚA LÊN TRỜI, TA HÃY MẾN YÊU NHỮNG SỰ TRÊN TRỜI

Hôm nay, Chúa lên Trời, chúng ta hướng tâm hồn lên với Chúa, và trông đợi Người lại đến như lời đã hứa trước khi về Trời, để Người ở đâu chúng ta cũng ở đó. Vì thế, chúng ta hãy nuôi dưỡng lòng ái mộ những sự trên Trời, để cũng được cả xác lẫn hồn về trời với Chúa. Đây là niềm vui lớn lao và tràn đầy hy vọng khi chúng ta hướng về tương lai trên hành trình dương thế. Toàn bộ ý nghĩa Chúa về Trời được các bài đọc Thánh Kinh diễn tả. Nội dung chứa đựng trong những lời sau: “Chúa Giêsu đã bắt đầu làm và giảng dạy, Người căn dặn các Tông đồ xong… “. Và sau đó “Người lên Trời” (x. Cvtđ 1,1-11).

Theo sự quan phòng trong kế hoạch đời đời của Thiên Chúa, “đã đến giờ Chúa Giêsu rời bỏ thế gian mà về cùng Đức Chúa Cha”. Lời này được lặp đi lặp lại mỗi đoạn Tin Mừng trước lễ Chúa về Trời. Chúa từ giã Đức Maria Mẹ Người và nhất là tâm sự với các môn đệ nhiều điều. Hôm nay Người bảo các ông: “Các con sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần ngự xuống trên các con, và các con sẽ nên chứng nhân cho Thầy tại Giêrusalem, trong tất cả xứ Giuđêa và Samaria, và cho đến tận cùng trái đất” (Cvtđ 1,8). Thế là nhiệm vụ từ đây được ủy thác, đến lượt mình các Tông đồ phải thi hành cách trung thành.

Đang lúc chờ đợi Chúa Thánh Thần, Món Quà do Chúa Cha ban xuống, Ngài là là sức mạnh của các Tông đồ. Chính Ngài hướng dẫn Giáo hội đi trên đường chân lý, Tin Mừng phải được rao truyền bởi quyền năng của Thiên Chúa chứ không phải do sức mạnh hay khôn ngoan của người đời. Trước khi về Trời, Chúa Giêsu “đã ra lệnh cho các ông chớ rời khỏi Giêrusalem, nhưng hãy chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa” (Cvtđ 1,4). Người nói với các ông: “các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần, giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con” (Mt 28,19). Căn cứ vào lời của Chúa Giêsu, các Tông đồ có trách nhiệm phải loan báo Tin Mừng cho thế giới, làm phép cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, nói cho thế gian biết về Nước Thiên Chúa và ơn cứu độ, nhất là phải làm chứng về Chúa Kitô” cho đến tận cùng trái đất “(Cvtđ 1,8). Giáo Hội sơ khai thấu hiểu huấn lệnh Chúa truyền, nên đã khai mở thời kỳ truyền giáo dù biết rằng thời kỳ này chỉ kết thúc vào ngày Chúa Giêsu lên trời, và trở lại.

Những lời Chúa Giêsu để lại cho Giáo hội là kho tàng vô giá. Giáo hội không những phải gìn giữ, loan báo, suy niệm mà còn sống nữa. Chúa Thánh Thần sẽ làm bén rễ sâu trong lòng Giáo hội ơn đặc sủng được sai đi. Chúa Giêsu đã và sẽ luôn sống trong Giáo hội như lời Người đã hứa: “Và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Vì thế, Giáo hội nhận ra sự cần thiết phải trung thành với kho tàng đức tin và những lời Chúa truyền dạy, đồng thời thông truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác, tới chúng ta ngày hôm nay. Lời Chúa và chỉ có Lời Chúa là nền tảng cho mọi sứ vụ, cũng như tất cả các hoạt động mục vụ của Giáo hội. Thẩm quyền của Lời Chúa là nền tảng mà Công Đồng Vatican II và Thánh Gioan XXIII đã nhấn mạnh trong bài phát biểu khai mạc: “Mối quan tâm chính của Công đồng Đại kết, là kho tàng thiêng liêng Kitô giáo phải luôn được giữ gìn và giảng dạy” (Bài phát biểu của ngày 11.10.1962). Thách thức lớn nhất của chúng ta là trung thành với giáo huấn của Chúa Giêsu.

Suy tư thứ hai về ý nghĩa Chúa Giêsu lên trời dựa trên cụm từ: “Chúa Giêsu lên Trời ngự bên hữu…”

Sau khi hạ mình xuống trong cuộc thương khó, Chúa Giêsu lên Trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha đến muốn đời. Theo lời thánh Lêo Cả, khi Vị Thủ Lãnh của chúng ta bước vào thiên đàng và ở trên đó, “vinh quang của Đầu” đã trở thành “niềm hy vọng cho thân xác” (x. Sermo Ascensione Domini). Chúa Giêsu đã vĩnh viễn bước vào thiên đàng, “Người là Đầu và là Trưởng Tử giữa đàn em đông đúc” (Rm 8,29). Vì bản tính của chúng ta là ở trong Thiên Chúa và ở trong Đức Giêsu Kitô. Nên vì loài người chúng ta (thân xác), Chúa Giêsu là (Đầu) hằng sống đến muôn thủa muôn đời hằng cầu thay nguyện giúp cho chúng ta trước mặt Chúa Cha (x. Dt 7,25). Từ tao cao vinh hiển, Người gửi cho Giáo hội một sứ điệp hy vọng và mời gọi hướng đến sự thánh thiện trên Trời nơi Người đang ngự bên hữu Thiên Chúa.

Nhờ công nghiệp và lời cầu bầu của Chúa Giêsu dâng lên Chúa Cha cho chúng ta, chúng ta có hy vọng đạt tới sự công chính và sống thánh thiện nơi Người. Giáo hội có thể gặp phải những khó khăn, việc loan báo Tin Mừng có thể bị thất bại, nhưng vì Chúa Giêsu ngự bên hữu Đức Chúa Cha, Giáo hội sẽ không bao giờ bị đánh bại. Sức mạnh của Chúa Kitô vinh hiển, Con yêu dấu của Chúa Cha hằng gìn giữ chúng ta, giúp chúng ta tận tụy và trung thành với Nước Thiên Chúa một cách quảng đại. Sự kiện lên Trời của Chúa Kitô ảnh hưởng cụ thể đến đời sống hàng ngày của chúng ta. Vì mầu nhiệm này, toàn thể Giáo hội có ơn gọi đợi chờ trong niềm hân hoan hy vọng ngày Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ chúng ta ngự đến.

Chúa Giêsu vị Thủ Lãnh của chúng ta đã chiến thắng tội lỗi và sự chết, hiển vinh về Trời, đó là niềm hy vọng của chúng ta. Người sẽ trở lại đón chúng ta đi với Người. Để được về Trời với Chúa, chúng ta hãy gia tăng lòng mộ mến những sự trên trời và tích cực làm việc vì Nước Trời.

Hướng về Mẹ Maria “Nữ Vương Thiên Đàng”, chúng ta xin Mẹ bảo vệ gìn giữ chúng ta là con cái Mẹ, biết sống và thực hành lời Chúa truyền dạy, để một ngày kia chúng ta cũng được về Trời với Chúa Giêsu. Đức Mẹ và các thánh vui hưởng tôn nhan Chúa Ba Ngôi đến muôn thủa muôn đời. Amen.

 

 

 

 

 

41. Lệnh lên đường

 

Lệnh truyền của Chúa Giêsu trước khi về Trời: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần…” (Mt 28,19) thôi thúc các Tông đồ ra đi gieo rắc Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho muôn dân. Đó chính là lệnh lên đường, mà mỗi người tín hữu, những kẻ tin vào Chúa Kitô phải thực hiện. Vì tin chính là làm chứng cho Chúa Kitô. Và nếu nhờ tin mà được rỗi, thì mọi tín hữu – không chỉ lo cho riêng mình – mà có trách nhiệm lo cho mọi người được phúc cứu độ.

Sứ mạng được giao phó cho mười một Tông đồ là: Giảng dạy để chuẫn bị cho mọi người (chứ không chỉ riêng người Do thái) lãnh nhận Phép Rửa tội, biến đổi họ trờ thành môn đệ Chúa Kitô, thành Kitô hữu và nhờ sống niềm tin vào Chúa Kitô mà được rỗi.

Kế thừa niềm tin của các Tông đồ, chúng ta cũng nhận lãnh sứ mạng lên đường, ra đi mở mang Nước Chúa, qua đời sống chứng tá của mình trong môi trường sống hằng ngày. “Ra khơi thả lưới” (x. Lc 5,4) như lời Chúa dạy!

Mỗi tín hữu cần phải ra đi khỏi chính con người của mình, để mưu cầu hạnh phúc cho người khác, mà đây lại là hạnh phúc tôi hậu của đời người: hạnh phúc đời đời. Không ai lên thiên đàng một mình, vì như thế chưa phải là tin. Đức tin mà chúng ta có được là nhờ Hội Thánh trao ban và cùng với Hội Thánh chúng ta tin và làm cho người khác cũng được tin.

Ra đi còn có nghĩa chúng ta phải vượt xa hơn khỏi những lo toan đời thường cho gia đình mình, vật chất cũng như tinh thần, để đem Chúa đến cho những người chung quanh: những người thân cận, làng xóm, những người chúng ta gặp trong mối giao tiếp nghề nghiệp của mình… bằng mối quan tâm đến nhu cầu của những anh em nghèo khổ, bấtt hạnh; bằng những lời nói khích lệ, bao dung; bằng những việc làm đầy thiện ý; bằng chính cả con người sẳn sàng cống hiến, chia sẻ cho mọi người, vì Chúa.

Cuộc ra đi nào cũng cần phải chuẫn bị hành trang, đó là sức mạnh của ơn Chúa qua việc cầu nguyện, chuyên cần lãnh các Bí tích, sống lời Chúa dạy và đích đến làm cho mọi người, qua chúng ta, đón nhận đức tin mà được rỗi. Nếu rao giảng Lời Chúa, là nói điều Chúa muốn nói chứ không phải ý của chúng ta, thì cũng vậy đời sống người Kitô hữu phải là hình ảnh sống động đầy yêu thương, nhân hậu của Chúa Kitô, được khắc sâu trong tâm hồn chúng ta, toả lan ra bên ngoài.

Có ngày gieo, thì sẽ có ngày gặt. Xin cho chúng con được góp một cánh tay vào ngày mùa sau hết trong cõi đời đời.

 

 

 

 

 

42. Ái mộ những sự trên trời - Lm Giuse Nguyễn Hữu An

 

Thủ lãnh của một bộ tộc nằm hấp hối trên giường. Ông cho gọi ba người thân cận đến và nói: Ta phải chọn một người kế tục. Các ngươi hãy leo lên đỉnh núi thiêng liêng của chúng ta và mang về đây cho bộ tộc một món quà quý giá nhất.

Người thứ nhất mang về một thỏi vàng lớn. Người thứ hai mang về một viên ngọc quý. Người thứ ba trở về tay không.

Ngạc nhiên, vị tù trưởng hỏi: món quà quý giá của ngươi đâu?

Anh điềm tỉnh trả lời: khi tôi lên tới đỉnh núi, tôi thấy ở phía bên kia một vùng đất phì nhiêu màu mỡ, tại đó dân chúng có thể có một cuộc sống sung túc tốt đẹp.

Thủ lãnh nói: Ngươi sẽ nối nghiệp ta vì ngươi đã mang về món quà quý gía nhất là một viễn tượng tương lai tốt đẹp.

Chúa Giêsu về trời mở ra một viễn tượng tương lai tốt đẹp là hạnh phúc thiên đàng. Người đi trước mở đường và dẫn chúng ta lên theo Người.

Tin Mừng thuật lại hai sự kiện song hành: Chúa Giêsu lên trời và lệnh truyền rao giảng Tin Mừng. Sự kiện Chúa Giêsu lên trời, Tin Mừng thánh Marcô ghi lại rất vắn tắt: Chúa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. Tin mừng Matthêu nói đến lệnh truyền: Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, là phép rửa cho họnhân danh Chúa Cha Chúa Con và Chúa Thánh Thần.Còn theo sách Công vụ Tông đồ, Chúa Giêsu lên trời sau khi sống lại được 40 ngày, và nơi lên trời là núi Cây dầu. Thực ra khi Chúa Giêsu sống lại, Người đã lên trời rồi theo kiểu nói của Kinh Thánh, nghĩa là Người bước vào cõi vinh quang của Chúa Cha, Người ngự bên hữu Chúa Cha, mặc lấy vinh quang và quyền năng của Chúa Cha. Trong 40 ngày sau sống lại, Chúa Giêsu hiện ra nhiều lần để dạy dỗ và cũng cố đức tin của các Tông Đồ. Giáo hội đã được thiết lập nay được cũng cố để được sai đi. Như vậy sự kiện lên trời mà phụng vụ Giáo Hội kính nhớ hôm nay có ý nghĩa sâu xa. Nó chấm dứt thời gian Chúa hiện diện giữa nhân loại bằng thân xác, chấm dứt thời gian huấn luyện các Tông Đồ. Một thời điểm có tính cách quyết định của lịch sử cứu độ là Chúa Giêsu ban những giáo huấn cuối cùng, trao những chức vụ phải thi hành trong Giáo hội, chuẩn bị cho các Tông đồ thi hành sứ mạng chứng nhân của Đấng phục sinh trong thế giới. Từ nay trở đi, Người sẽ hiện diện với chúng ta một cách vô hình. Với quyền năng của Chúa Thánh Thần, thân xác Chúa Giêsu đã được thần khí hoá và đi vào cõi vĩnh hằng của Chúa Cha. Sự hiện diện này thâm sâu hơn và hiệu năng hơn. Khi còn ở trong thân xác, Chúa Giêsu chỉ ở bên cạnh một số người thôi. Từ nay, với quyền năng Thánh Thần, Người sẽ hiện diện trong lòng con người, trong tâm hồn tất cả những ai tin vào Người. Chúa Giêsu lên trời. Điều đó dạy ta biết ngoài cõi đời này còn có một nơi chốn khác. Ngoài cuộc sống này còn có một cuộc sống khác. Ngoài những giá trị đời này còn có những giá trị khác. Trời là nơi hạnh phúc không còn khổ đau. Trời là nơi cuộc sống vĩnh viễn không bị tiêu diệt. Trời là nơi tất cả mọi giá trị đạt đến mức tuyệt đối. Trời là nơi con người trở thành thần thánh, sống chung với thần thánh. Như thế trời là niềm hy vọng của con người. Con người không còn bị trói chặt vào trần gian. Định mệnh của con người không phải chỉ là đớn đau sầu khổ. Số phận con người không phải sinh ra để rồi tàn lụi. Trời cho con người một lối thoát. Trời mở ra cho con người một chân trời hạnh phúc. Trời cho con người cơ hội triển nở đến vô biên. Trời nâng cao địa vị con người. Có trời, con người không còn bị xếp ngang hàng với loài vật. Loài vật sinh ra để tàn lụi. Con người sinh ra để triển nở, để vượt qua số phận, để đạt tới địa vị con Thiên Chúa. Có trời, con người sẽ được nâng lên ngang hàng thần thánh.

Tuy nhiên, trời không phải xây dựng trong mây trong gió, nhưng được xây dựng trong cuộc sống trần gian. Trời không phải là cõi mơ mộng viển vông, nhưng đã bắt đầu ngay trong thực tế cuộc đời hiện tại. Chính vì thế mà hai thiên thần áo trắng đã bảo các môn đệ đừng đứng nhìn trời mãi làm chi, nhưng phải trở về mà lo chu toàn nhiệm vụ. Chính vì thế mà trước khi lên trời, Chúa căn dặn các môn đệ hãy đi làm việc cho Nước Chúa. Sống và làm việc ở trần gian, đó là một nhiệm vụ phải chu toàn. Hoàn thành nhiệm vụ ở trần gian, đó là điều kiện để đạt tới hạnh phúc nước trời. Chính Chúa Giêsu cũng đã chu toàn nhiệm vụ ở trần gian rồi mới lên trời. Nhiệm vụ đó là đi gieo Tin Mừng khắp nơi. Đi đến đâu là thi ân giáng phúc đến đó. Đi đến đâu là làm cho hạt yêu thương nảy mầm lên màu xanh sự sống đến đó.

Người môn đệ của Chúa sống giữa trần gian, yêu mến trần gian, xây dựng trần gian. Vì trần gian là nơi Chúa sai ta đến làm việc. Tuy nhiên ta làm việc ở trần gian mà lòng vẫn hướng lên quê trời. Yêu mến trần gian vì nước trời. Yêu mến trần gian để biến trần gian thành nước trời. Sống giữa thế gian, chúng ta “ái mộ những sự trên trời” như lời kinh hạt: “Thứ năm thì ngắm, Đức Chúa Giêsu lên trời. Ta hãy xin cho được ái mộ những sự trên trời”. Nhưng vẻ đẹp trên trời là vẻ đẹp của tâm hồn, tình yêu Thiên Chúa và tha nhân, vẻ đẹp nghèo khó Phúc Âm, khiêm nhường, đơn sơ, thanh tịnh. Đây là vẻ đẹp và sự quyến rũ của nhân đức, một vẻ đẹp hoàn toàn khác với những vẻ đẹp và sự quyến rũ thuộc trái đất. Nhiều người đã bỏ ra hằng trăm, hàng ngàn, hàng vạn Mỹ kim để làm đẹp, để khoa trương sự giàu có và để được người khác ca tụng. Nhiều người không sợ trải qua những cuộc giải phẫu nguy hiểm, đau đớn cốt sao để thấy mình đẹp, mình hơn người là thoải mái, và hạnh phúc. Nhiều người đã sẵn sàng chấp nhận những thách đố lớn lao để chạy đua vào những chiếc ghế quyền lực. Nhưng ít ai bỏ ra một giờ, một ngày, một tuần, một tháng, hoặc một năm để lo tu sửa và chỉnh trang lại vẻ đẹp của tâm hồn.

Trên thực tế, tình yêu Thiên Chúa, tình yêu tha nhân, đức nghèo khó, đức đơn sơ, và đức trong sạch là những đòi hỏi rất cần thiết để đem lại hạnh phúc cho mỗi người, mỗi cộng đoàn, mỗi dân nước. Đó là những gì cụ thể có thể giúp con người chiếm hữu được vĩnh hằng. Rất tiếc, đó cũng là những gì mà nhiều người từ khước, bởi vì chúng không phù hợp với nhãn quan và suy tư của con người.

Giáo Hội đã thôi thúc và khuyến khích mỗi Kitô hữu hãy tìm kiếm và yêu mến những sự trên trời. Cầu xin cho được ơn ái mộ là cầu xin Thánh Linh khai mở tâm hồn và trí tuệ để chúng ta có thể nhìn, và có thể hiểu được vẻ cao quí của những giá trị tinh thần ấy. Nhận thức về thế giới tâm linh là một nhận thức ngoài tầm hiểu biết của trí tuệ tự nhiên con người. Những gì thuộc về thần linh là thần linh. Con người cần được soi dọi và khai mở bởi sức mạnh huyền nhiệm của Thánh Thần. Chỉ khi nào trí óc ta, trái tim ta được Ngài khai mở, lúc ấy ta mới nhận ra, mới hiểu thấu thế nào là sự cao xa, dài rộng của vẻ đẹp tinh thần, của những giá trị đạo đức.

Chúa về trời, không phải chỉ để dọn chỗ mà còn là mở ra một viễn tượng hạnh phúc của trời cao. “Xin cho chúng con ái mộ những sự trên trời”, để chúng con không bị chôn bám vào thế gian chóng qua và phù du này. Và để chúng con biết tìm kiếm những giá trị cao quí của tinh thần, và để chúng con yêu mến và sống với cuộc sống ấy. Vì đó là những gì mà chúng con có thể tìm kiếm, mua sắm và đem vào được nơi vĩnh hằng. Nơi mà chúng con sẽ gặp được Chúa là nguồn mạch sự sống, hoan lạc, và hạnh phúc viên mãn của chúng con. Amen.

 

 

 

 

 

43. Khát vọng lên trời! - Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

 

Vào đời Vua Hùng Vương Thứ Sáu, có nạn giặc Ân bên Tàu. Chúng cậy thế mạnh nên hay sang quấy nhiễu nước ta. Vua truyền hịch đi khắp nơi để tìm người tài giỏi giúp nước diệt giặc.

Bấy giờ ở làng Phù Đổng, có một cậu bé đã 3 tuổi mà chỉ nằm ngửa, không nói được một lời nào. Nghe sứ giả nhà vua rao hịch tìm người tài diệt giặc, cậu liền nhờ sứ giả xin với Vua, đúc cho cậu một cây roi sắt và cấp cho cậu một con ngựa bằng sắt, để cậu đi đánh đuổi ngoại xâm.

Nghe lời người hiền tài nhắn gởi, vua thuận ý.

Cậu bé liền vươn vai thành người to lớn, khỏe mạnh. Cậu đứng dậy, cầm roi sắt, nhảy lên yên ngựa, oai phong đi đánh giặc Ân.

Dẹp xong giặc, cậu phóng ngựa lên núi Sóc Sơn, rồi về trời.

Vua nghĩ là thiên thần của trời cao xuống trần cứu giúp, nên liền xây một đền thờ, gọi là đền Phù Đổng Thiên Vương, để tạ ơn và tưởng nhớ.

Câu chuyện huyền sử nói lên khát vọng của một dân tộc nhỏ bé luôn bị ngoại bang quấy nhiễu. Một tiểu quốc hiền hòa trước một đại hán bá quyền bành trướng. Vì thế mà ước mơ có được sứ thần từ trời cao đến cứu giúp. Một khát vọng ngàn đời, được tự do và độc lập, được công lý và dân chủ.

Con người mọi thời đại luôn khát khao bay lên trời. Đi dưới đất, ngược xuôi trên biển trên sông, con người luôn ước vọng, phải làm sao lên được trời cao. Vì thế, ngày 04 tháng 06 năm 1783, lần đầu tiên, hai anh em Montgolfiers, bay lên trời bằng khí cầu được 500 mét trước hàng ngàn người chứng kiến. Ngày 12 tháng 04 năm 1961, Gagarine, phi hành gia đầu tiên, bay ra khỏi tầng khí quyển của trái đất trong phi thuyền Vostok I của Liên Xô. Đến ngày 16 tháng 07 năm 1969, hai phi hành gia người Mỹ là Armstrong và Aldrin, bay lên tới mặt trăng.

Cả thế giới đã hồi hộp theo dõi những phi hành gia bay vào vũ trụ. Và chuyến bay nào rồi cũng phải trở về trái đất.

Hôm nay, Giáo hội mừng lễ Chúa Giêsu lên trời. Người trở về nhà Cha, sau khi đã hoàn tất sứ vụ Chúa Cha trao phó. Sau thời gian 33 năm xa nhà, Người hồi hương trong vinh quang phục sinh và “được đưa về trời ngự bên hữu Thiên Chúa” (Mc 16,19).

Chúa Giêsu lên trời, một cảnh tượng thật huyền diệu. Thân xác Người nhẹ bay lên cao. Tay Người ban phúc lành cho các tín hữu. Dáng Người nhỏ dần và hòa biến vào không gian vô tận.

Trên trời cao, các thiên thần và triều thần thiên quốc đang tụ họp tổ chức nghi lễ đón tiếp Đấng Cứu Thế khải hoàn. Tác giả Thánh vịnh 23 đã chiêm ngưỡng và mô tả cuộc nghinh đón đó bằng ca khúc bất hủ: “Hỡi các khải hoàn môn và các vệ binh thiên quốc, hãy cất cao đầu lên. Hỡi các cửa triều đình vĩnh cửu, hãy mở rộng ra, để Vua vinh hiển và đoàn tùy tùng tiến vào. Vua vinh hiển là ai? Thưa là Đức Giêsu uy hùng lẫm liệt, là Chúa oai phong chiến thắng. Hỡi các khải hoàn môn, hỡi các cửa triều đình vĩnh cửu hãy cất cao đầu lên, để Vua vinh hiển tiến vào, Vua vinh hiển là ai? Chính là Thiên Chúa hùng dũng uy linh”.

Đoàn tùy tùng theo Chúa về trời: đông vô kể, các thánh thời Cựu Ước, các tổ phụ, các tiên tri, các người công chính… đang hoan hỉ vui mừng đi theo Chúa. Đặc biệt có thánh cả Giuse, thánh Gioan Tiền hô, Tổ phụ Abraham, Giacop, Môisê, thánh Gióp, vua Đavid, các tiên tri, hân hoan cung nghinh Đấng Phục Sinh khải hoàn về thiên quốc.

Trên núi Cây Dầu, cả cộng đoàn môn đệ đang ngây ngất chiêm ngưỡng, tâm trí như mất hút vào không gian vô tận, lòng rộn rã hân hoan: “Hãy vỗ tay, hãy reo mừng Thiên Chúa. Hãy trổi cao kèn sáo, đàn ca lên dâng Người khúc ca tuyệt mỹ, Chúa là Vua khắp muôn dân, ngự trên tòa uy linh cao cả” (Tv 47,2-3,6-9).

Chúa về trời, một cuộc tạm biệt, chứ không ly biệt. Chia tay để rồi sẽ gặp lại nhau trong một tương quan mới.

Chúa về trời, gợi lên trong tâm hồn chúng ta một khát vọng quy hướng về Người, để rồi đối với chúng ta, không còn hạnh phúc nào lớn hơn là được ở trong Người, đón nhận sự sống sung mãn Người ban tặng.

Nhận thức được niềm hạnh phúc ấy, đời sống cầu nguyện của chúng ta sẽ có một sự thú vị ngọt ngào. Nơi thiên cung, mọi đau khổ, bệnh tật, chiến tranh, khủng bố không còn nữa. Ở đó, chỉ có thanh bình, công bằng, và hạnh phúc viên mãn, nhân phẩm và nhân vị con người hoàn toàn được phục hồi trong ánh sáng phục sinh của Chúa Kitô.

Từ nay trở đi, Chúa Kitô Phục Sinh sẽ hiện diện trong lòng con người, trong tâm hồn tất cả những ai tin vào Người.

Khi hai người yêu nhau thì luôn muốn sống bên nhau, nhưng tới một giây phút nào đó, họ cảm thấy sống bên nhau vẫn chưa đủ. Xuân Diệu đã diễn tả chân lý ấy cách sâu sắc: Hai người tình ngồi sát bên nhau, ôm lấy nhau mà vẫn còn thấy rất xa xôi. Những người yêu nhau muốn sống trong nhau, nhưng điều đó không thể xảy ra giữa loài người được vì dẫu sao thân xác của mỗi người vẫn tạo ra một ngăn cách. Điều con người không thể làm được thì Thiên Chúa đã làm. Chúa Giêsu, một khi ngự bên hữu Chúa Cha, đã hoàn toàn mặc lấy quyền năng Chúa Thánh Thần, Người đến ngự trong tâm hồn của mỗi chúng ta. Chính Người đã nói “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy và Cha Thầy sẽ yêu mến nó và chúng ta sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14,23).

Để chúng ta hiểu hơn về sự hiện diện này, Chúa đã dùng dụ ngôn cây nho và cành nho: “Thầy là cây nho, các con là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5).

Thiền sư Suzuki rất tâm đắc với huyền nhiệm này khi viết: Thiên Chúa ở trong con người và con người ở trong Thiên Chúa. Chúa là người và người là Chúa, mà Chúa vẫn là Chúa và người vẫn là người. Quả thật, đó là điều kỳ bí nhất của Tôn Giáo, một nghịch lý thâm u nhất của triết học.

Bài Tin mừng hôm nay kết thúc Phúc Âm Matthêu, nhưng thực ra là một sự khởi đầu, một sự khai mở. Đó là khai trương công cuộc truyền giáo toàn cầu. Hình thức của việc truyền giáo được chỉ định rõ ràng: Làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Thầy. Làm phép rửa cho họ. Dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy truyền cho anh em. Nhờ việc sai đi và uỷ quyền cho các Tông đồ, qua các Tông đồ, rồi đến các môn đệ, Chúa Giêsu trở thành người sống đương thời với chúng ta: “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.

Chúa đã dùng Giáo Hội như đôi tay để tiếp tục công cuộc cứu rỗi của Chúa Giêsu. Sứ mệnh của Chúa Giêsulà sứ mệnh thiêng liêng. Nhưng sứ mệnh đó phải được thể hiện bằng lời nói, bằng hành động bên ngoài. Giáo Hội thực thi sứ mệnh đó trong khung cảnh hữu hình, nhờ những phương tiện cụ thể. Nhờ những sinh hoạt hữu hình và đôi tay cụ thể của Giáo Hội mà Chúa Giêsu tiếp tục loan truyền chân lý, trao ban sự sống, dẫn đưa nhân loại về hạnh phúc vĩnh cửu.

Mỗi Kitô hữu là chi thể của Giáo Hội, thân mình mầu nhiệm Chúa Kitô. Mỗi người chúng ta cũng là những cánh tay mở rộng của Chúa Kitô, nhờ đó Người không ngừng trao ban tình thương, ơn cứu độ và hạnh phúc cho mọi người.

Chúa về trời, chúng ta vào đời làm chứng nhân của Tin Mừng Cứu Độ và loan báo Tin Vui, mai này chúng ta cũng sẽ về nhà Cha trên trời.

 

 

 

 

 

44. Nơi chân trời và mặt đất giao nhau

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

 

Có hai nhà đạo sĩ kia, một hôm đọc thấy trong một cuốn sách khảo cổ cho biết: có một nơi chân trời và mặt đất giao nhau. Hai nhà đạo sĩ bèn quyết định lên đường đi tìm cho được nơi chân trời và mặt đất giao nhau như trong sách đã cho biết. Hai ông còn thề nguyền sẽ không trở về bao lâu chưa tìm được nơi trời đất giao nhau đó. Bởi vì hai ông được biết ở nơi đó sẽ có một cánh cửa mở ra chân trời. Khi cửa mở ra, người ta sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa.

Sau một cuộc hành trình lâu dài và gian khổ, hai nhà đạo sĩ đã tìm được nơi chân trời và mặt đất giao nhau. Hai ông cũng đã mở được cánh cửa trời… Nhưng đến lúc bước vào cửa trời, hai ông hết sức bỡ ngỡ, vì hai ông gặp lại chính căn phòng quen thuộc của mình… Lúc ấy hai ông mới hiểu: con đường lên trời bắt đầu từ mặt đất này, trong đời thường, nơi mình đang sống hằng ngày.

Anh chị em thân mến, đường lên trời bắt đầu từ mặt đất này, nơi “Trời Mới Đất Mới” sẽ xuất hiện trong ngày Chúa chúng ta “trở lại cũng một cách y như Ngài đã lên trời”. Chúa lên trời không có nghĩa là Ngài ra đi. Bởi vì ra đi là để lại sự vắng mặt. Đàng này, Chúa không để chúng ta đơn độc, Ngài còn “ở lại với chúng ta mãi cho đến tận thế”.

Chúa lên trời là Chúa “khuất dạng”, không còn hiện diện bằng xương bằng thịt trước mắt chúng ta nữa, để bắt đầu một sự hiện diện ẩn khuất, nghĩa là Chúa vẫn có mặt đó mà chúng ta không thấy được. Ngài vẫn ở giữa chúng ta, trong những nơi mà Ngài đã dạy chúng ta biết để nhận ra Ngài: trong Lời Chúa, trong các bí tích, trong anh chị em, trong những người nghèo khổ… Ngài không chỉ hiện diện mà còn ở, còn cư ngụ. Một chỗ ở có ý nghĩa sâu sắc hơn một sự hiện diện: Người ta có thể hiện diện trên đường phố, còn ở thì chỉ ở trong nhà mà thôi. Thiên Chúa chỉ muốn có một chỗ ở, một ngôi nhà riêng của Ngài và ngôi nhà đó là chính chúng ta: “Ngài ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế”, Ngài ở với chúng ta như ở trong ngôi nhà của Ngài.

Khi nói “Chúa lên trời ngự bên hữu Chúa Cha” hay khi cầu nguyện: “Lạy Cha chúng con ở trên trời”, chúng ta đừng tưởng Chúa ở xa cách chúng ta. Ngài ở trên các tầng mây xanh. Không! Nếu đóng khung Chúa ở trên trời là chúng ta bắt Ngài phải di tản. Chúng ta đánh mất Ngài! Nhưng qua kiểu nói tượng hình của Kinh Thánh, chúng ta hãy hiểu việc Chúa lên trời là một cuộc thăng quan tiến chức, được thêm uy quyền, hiệu năng, và do đó được hiện diện một cách sâu đậm, thắm thiết hơn, chứ không phải một cuộc thăng thiên xét theo không gian, khiến Ngài xa lìa thế giới chúng ta.

Vì vậy, thiên sứ phải lay tỉnh các môn đệ đang mải mê nhìn lên trời: “Hỡi các ông, người Galilê, thôi đừng đứng đó mà nhìn lên trời nữa!”. Nhưng hãy đi mở mang Nước Chúa và sự hiện diện của Ngài bằng cách hoàn thành công trình đang dang dở của Ngài ở trần gian này: “Hãy đi đến với muôn dân, làm phép Rửa cho họ, nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em, để muôn dân trở nên môn đệ của Thầy”. Đó, như thế là Chúa lên trời là để khởi đầu sứ vụ của Giáo Hội: Các môn đệ phải ra đi làm chứng về sự sống lại của Chúa Giêsu, không phải chỉ ở Giêrusalem và nơi những người Do Thái mà thôi, mà còn ở khắp nơi, cho đến tận cùng trái đất và nơi tất cả dân tộc.

Anh chị em thân mến, từ ngày Chúa lên trời, sứ mạng của chúng ta là phải đi vào trần gian, trở về với thực tế, nhìn kỹ vào cuộc sống của nhân loại, của mọi người anh em trên mặt đất này, để cùng với mọi người ra sức xây dựng Nước Trời đang thành hình ngay trong trần thế này, giữa thế giới hôm nay, tuỳ theo mức độ chính thế giới này có thể hiện được tình thương, có phản ảnh được tình yêu vô biên của Thiên Chúa hay không. Đúng theo tinh thần của Tin Mừng: Nước Trời không phải chỉ là chuyện đời sau, mà còn phải là thực tế hiện tại: như hạt cải trong thửa vườn, như men trong bột, như muối cho đời: “Nước Trời ở giữa anh em”.

Như thế, thưa anh chị em, Thiên Chúa không đóng đô ở riêng một chỗ nào trong không gian, trên các tầng trời. Ngài ở bất cứ nơi nào có tình yêu thương. Nếu cứ luyến tiếc nhìn lui lại quá khứ, hãy mải mê ngước mắt lên trời, chúng ta sẽ quên rằng Thiên Chúa đang ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Thiên Chúa đang hiện diện bất cứ nơi nào có tình yêu thương nhau, đùm bọc nhau, chia sẻ cho nhau. Và chỗ nào có một cộng đoàn, một xã hội như vậy, lớn hay nhỏ, đang thành hình thì từ chỗ đó, Nước Trời đang bắt đầu hiện diện.

Trái lại, chỗ nào người ta còn giành giựt nhau, còn áp bức, khai thác, bóc lột nhau, còn coi nhau như thù nghịch, thì khỏi cần tìm địa ngục ở đâu xa hơn nữa: địa ngục đang bắt đầu từ chỗ đó. Thiên đàng hay địa ngục, chúng ta đang bắt đầu xây dựng hay đào sâu ngay từ trong cuộc sống chúng ta hôm nay.

Vậy, ngày Chúa lên trời, thay vì chỉ mải mê nhìn lên trời, thụ động trông chờ ngày Chúa trở lại, chúng ta hãy nhìn xuống mặt đất, hãy cùng nhau góp sức xây dựng con đường lên trời ngay từ mặt đất này; vì chính từ mặt đất này mà “Trời Mới Đất Mới” sẽ xuất hiện trong ngày Chúa chúng ta “trở lại cũng một cách y như Ngài đã về trời”.

Công đồng Vaticanô II đã nói: “Vẫn biết rằng quê hương vĩnh cửu của chúng ta không phải ở trần gian này và chúng ta chỉ đi qua để về quê hương trên trời, nhưng thực là sai lầm, nếu vì đó mà nghĩ rằng mình có thể xao lãng nghĩa vụ của mình ở trần gian” (Mv 43,1b). Vì thế, trông đợi “Trời Mới Đất Mới” không những không làm giảm bớt mà còn tăng thêm nơi chúng ta ý chí xây dựng trời đất hiện tại này. Bởi vì xây dựng trời đất hiện tại là xây dựng “Trời Mới Đất Mới” (MV 39,2a), là xây dựng quê hương vĩnh cửu của chúng ta vậy.

 

 

 

 

 

45. Lời Chúa – R. Veritas

(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’)

 

Nơi mục tựa ngắn của một tập sách do chính mình viết có tựa đề: “Biết Và Không Biết Về Thiên Chúa”. Tác giả Đức Hồng Y Sacrunez, một triết gia và cũng là một thần học gia nổi tiếng của thập niên 60 đã trình bày niềm xác tín của mình như sau:

“Người ta không thể nào không nói về Thiên Chúa, mọi kinh nghiệm tốt xấu, tích cực hay tiêu cực đều đưa con người đến việc đặt vấn đề về Thiên Chúa. Con người không thể loại bỏ hay quên hẳn Thiên Chúa được, con người vẫn nói về Thiên Chúa, nhưng khi nói rồi con người cảm thấy lời nói của mình về Ngài như không có ý nghĩa gì cả, lời nói đó trở thành như một sự im lặng to lớn.”

Từ nhận định trên đây Đức Hồng Y rút ra hai điểm kết luận ngắn rất quan trọng:

Thứ nhất, con người cần trân trọng quí mến những lời nói, tuy là của con người nhưng đã được Thiên Chúa sử dụng để mạc khải chính Mình cho con người.

Thứ hai, để lời nói của mình về Thiên Chúa có được chút giá trị nào đó, diễn tả thực thể Thiên Chúa thì con người cần có cảm nghiệm về Thiên Chúa.

Chúng ta ghi nhận là các Tông Đồ ngày xưa đã thực hiện hai điều căn bản này. Họ trân trọng, quí mến lời Chúa giảng dạy. Họ trung thành thông truyền, không xuyên tạc và các ngài là những kẻ có kinh nghiệm trực tiếp về Chúa trước khi ra đi rao giảng cho kẻ khác.

Chúa đã gọi các Tông Đồ để các ngài sống bên cạnh Chúa trong suốt thời gian Chúa giảng dạy, đến độ tác giả của thư thứ nhất Thánh Gioan và truyền thống cho là thánh Gioan Tông Đồ, một trong mười hai Tông Đồ đã sống bên cạnh Chúa trong suốt cuộc đời rao giảng, tác giả thư thứ nhất thánh Gioan đã viết ngay đầu thư như sau: “Những gì chúng tôi đã thấy, đã nghe, đã chạm đến về Ngôi Lời Hằng Sống, về Con Thiên Chúa, chúng tôi loan truyền lại cho anh chị em.”

Mừng Lễ Chúa Lên Trời hôm nay, chúng ta được mời gọi như các Tông Đồ ngày xưa, tiếp tục công việc của Chúa. Trước khi lên trời, Chúa đã ra lệnh cho các Tông Đồ: “Mọi quyền hành trên Trời, dưới đất, được trao ban cho Thầy, chúng con hãy ra đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Giảng dạy và tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con, và Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế.”

Người ta không thể nào không nói về Thiên Chúa. Chúng ta, những đồ đệ của Chúa không thể nào không chia sẻ về Chúa cho anh chị em, không những bằng lời nói mà còn bằng những việc làm. Nhưng để làm chứng nhân cho Chúa thì hai điều kiện căn bản mà Đức Hồng Y đã nhắc cho chúng ta là trân trọng, quí mến những lời nói của Chúa, đây là những lời mà Con Thiên Chúa Nhập Thể đã nói cho con người biết về mầu nhiệm Thiên Chúa, chúng ta cần trân trọng, quí mến Lời đó. Những Lời đó và cũng là những Lời mà Con Thiên Chúa đã chọn để mạc khải Thiên Chúa cho con người. Chúng ta cần trân trọng những Lời đó.

Điểm thứ hai, chúng ta cần sống trực tiếp có cảm nghiệm về Chúa, sống với Chúa trước để có thể làm chứng cho Chúa: “Thầy ở cùng chúng con mọi ngày cho đến tận thế.” Trân trọng tuân giữ lời rao giảng và duy trì kinh nghiệm khi gặp Chúa, sống với Chúa qua đời sống cầu nguyện, việc cử hành Bí Tích Thánh Thể và Bí Tích Thánh Thể là phương thế để Chúa hiện diện, để Chúa thực hiện điều Ngài đã quả quyết: “Thầy ở cùng chúng con mọi ngày cho đến tận thế.”

Chúng ta không nên có thái độ vắng chủ nhà gà vọc niêu tôm, kể Chúa như kẻ ra đi đã khuất mắt không còn hiện diện trên trần gian này nữa, để chúng ta được tự do gây xáo trộn, tự do phá bỏ mọi giá trị. Chúa Lên Trời là một biến cố khai mạc giai đoạn mới, giai đoạn của một sự hiện diện mới và của sự dấn thân mới của mỗi người chúng ta để làm chứng cho Chúa. Chúng ta cần sống với Chúa, lắng nghe Lời Chúa và trân trọng tuân giữ Lời Chúa để trở thành những chứng nhân của Chúa.

Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta được thực hiện điều này và cho chúng ta được trưởng thành trong đức tin. Amen.

 

 

 

 

 

46. Cùng loan Tin Mừng với Chúa Giêsu

(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm Trần Ngà)

 

Tin Mừng hôm nay cho biết ngay khi Chúa Giêsu từ biệt các môn đệ để lên trời thì đồng thời Ngài lại hứa ở cùng họ mọi ngày cho đến tận thế. Vừa lên trời xa khuất các ông lại vừa ở lại mãi với các ông, hai việc nầy xem ra mâu thuẫn. Nhưng thực ra, chẳng có mâu thuẫn gì, vì Chúa Giêsu lên trời là lúc Ngài được Thiên Chúa Cha tôn vinh, đồng thời là lúc Ngài chấm dứt sự hiện diện hữu hình trong một thân xác cụ thể để chuyển sang một hình thức hiện diện vô hình không bị giới hạn bởi thân xác, bởi không gian và thời gian. Nhờ đó, Ngài có thể hiện diện trong tâm hồn các môn đệ khắp nơi trên thế giới cho đến ngày tận thế: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.”

Nếu tôi chỉ có một quả cam và tôi muốn phát cho một ngàn người hiện diện trong nhà thờ nầy, mỗi người một quả, thì điều đó không thể thực hiện được.

Nhưng nếu tôi có một điều khôn ngoan, chẳng hạn điều tôi học được từ Chúa Giêsu: “Được lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn mình thì được ích gì” rồi tôi đem phát điều khôn ngoan đó cho cả ngàn người ngồi nơi đây, hay cho cả tỉ người trên thế giới… thì mỗi người đều có thể nhận được nguyên vẹn một điều khôn ngoan y như nhau.

Thế đó, một quả cam thì không thể ban phát cho nhiều người, mỗi người một quả được, nhưng một điều khôn ngoan, một món quà thiêng liêng thì có thể phân phát cho nhiều người và ai cũng được lãnh nhận trọn vẹn món quà đó như nhau.

Khi Chúa Giêsu lên trời, Ngài không còn hiện diện trong thân xác hữu hình nữa. Ngài không mang thân xác vật chất nên không còn bị lệ thuộc bởi không gian và thời gian, do đó Ngài có thể hiện diện trong tâm hồn mọi tín hữu và ai ai trong chúng ta cũng có Ngài hiện diện trọn vẹn trong bản thân mình. (* Tất nhiên minh hoạ nào cũng khập khiễng, không thể diễn tả mầu nhiệm về Thiên Chúa. Sự khôn ngoan thì không ngôi vị còn Chúa Giêsu thì có Ngôi Vị)

Chúa Giêsu ở với chúng ta để làm gì?

Là để cho chúng ta được tham gia vào công cuộc cứu thế của Ngài, được tiếp tục sứ mạng cao cả mà Thiên Chúa Cha đã trao cho Ngài như lời Ngài mời gọi: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em”.

Thế là từ đây, chúng ta được vinh dự cùng loan Tin Mừng với Chúa Giêsu, cùng được tham gia sứ mạng cứu độ của Chúa Giêsu, mặc dù chúng ta yếu hèn và bất xứng.

Nhưng phận người phàm hèn như chúng ta làm sao có thể đảm đương một trách nhiệm cao cả và lớn lao như thế?

Lúc mới lên bốn, tôi bắt đầu cắp sách đến trường làng để học đọc, học viết. Cô giáo đầu đời của tôi là một nữ tu. Dì phát cho tôi cuốn tập trắng, một cây bút chì và dạy tôi tập viết. Vì tôi viết ngoằn ngoèo không ra chữ nên Dì mới nắm lấy bàn tay nhỏ bé của tôi, để bàn tay bé xíu của tôi nằm gọn trong bàn tay của Dì, và cứ thế, Dì kèm cho tôi viết những nét chữ đầu đời. Nhờ thế tôi mới viết ra chữ ra câu.

Hôm nay Chúa Giêsu đang ở trong mỗi một người chúng ta như lời Ngài đã phán: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”. Ngài đang kêu mời chúng ta hợp tác với Ngài trong việc loan báo Tin Mừng. “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em”.

Nhiều người chưa hề nhận biết Tin Mừng của Chúa Giêsu. Tâm hồn họ còn là một trang giấy trắng. Chúa Giêsu muốn nắm lấy bàn tay nhỏ bé yếu đuối của chúng ta để viết lên trong lòng họ những trang Tin Mừng về lòng thương xót của Thiên Chúa Cha, về tình huynh đệ không biên giới… Chúa Giêsu muốn dùng cuộc đời chúng ta để đem lại ơn cứu độ cho nhiều người.

Chúng ta chỉ là những con người hèn mọn yếu đuối, chẳng làm nên tích sự gì. Vậy hãy để bàn tay nhỏ bé của mình nằm gọn trong lòng bàn tay Chúa. Hãy trao cuộc đời chúng ta cho Chúa sử dụng để Ngài viết nên Tin Mừng trong tâm hồn tha nhân.

Lạy Chúa Giêsu, dù chúng con bất xứng nhưng Chúa vẫn cư ngụ trong chúng con và cùng chúng con loan báo Tin Mừng. Xin cho từng người trong chúng con quảng đại hiến thân cho Chúa, cộng tác với Chúa trong sứ mạng vô cùng cao cả và tốt đẹp nầy.

 

 

 

 

 

47. Niềm hy vọng Nước Trời

 

Có người kia nhặt được trứng đại bàng, đem về cho ấp chung với trứng gà. Đại bàng con nở ra cùng với đàn gà con. Ngày ngày đại bàng con theo gà mẹ bới đất tìm sâu như một chú gà con thực thụ. Một hôm đang bới giun, đại bàng con kinh hãi khi thấy một con chim khổng lồ bay lượn trên không. Đôi cánh hùng vĩ giang rộng như cánh buồm. Đường bay lượn uy dũng mà đẹp đẽ. Nó hỏi các anh chị em gà: “Con chim gì mà ghê gớm thế nhỉ”? Gà mẹ trả lời: “Chim đại bàng đấy. Đại bàng thuộc về trời, còn chúng ta thuộc về đất. Đại bàng bay lượn trên mây, còn chúng ta chỉ biết bới đất tìm giun thôi”. Đại bàng con không hề biết nó thuộc dòng giống đại bàng. Suốt đời nó sống như loài gà, và sẽ chết như gà.

Có nhiều người nghĩ thế giới chỉ bó gọn trong trái đất và con người chỉ thuộc về mặt đất. Nhưng không phải thế. Hôm nay, Đức Giêsu lên trời là một bằng chứng cho niềm hy vọng của ta.

Việc Đức Giêsu lên trời bảo cho ta biết rằng ngoài đất còn có trời. Ngoài cõi nhân sinh nhỏ hẹp còn có cõi thần linh bao la. Ngoài cuộc sống trần gian mau qua còn có cuộc sống thiên đàng vĩnh cửu.

Đức Giêsu về trời là niềm hy vọng cho ta. Mai sau ta cũng sẽ được về trời với Người. Vì chính Người đã hứa: “Thầy đi để dọn chỗ cho anh em, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó với Thầy”.

Đức Giêsu đã liên kết ta thành một thân thể với Người. Người là đầu. Chúng ta là chi thể. Đầu tiến đến đâu thì chi thể cũng sẽ tiến đến đấy.

Đức Giêsu dạy ta biết rằng ta là con của Thiên Chúa Cha, Đấng ngự trên trời. Con sẽ được ở trong nhà cha mẹ. Chúng ta sẽ được ở nhà Cha trên trời là tự nhiên.

Tuy nhiên Đức Giêsu chỉ về trời sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ Đức Chúa Cha trao phó cho Người ở trần gian. Nhiệm vụ đó là loan báo cho mọi người biết Chúa là Cha yêu thương mọi người. Nhiệm vụ đó là làm chứng về tình yêu thương của Cha đối với mọi người.

Hôm nay, trước khi về trời, Đức Giêsu uỷ thác nhiệm vụ đó lại cho ta. Ta phải tiếp nối sứ mạng của Đức Giêsu loan Tin Mừng yêu thương cho mọi người. Đem niềm hy vọng đến cho kiếp người.

Với niềm hy vọng đó, người Kitô hữu chân đạp đất nhưng lòng vẫn hướng về trời cao. Niềm hy vọng đó giải thoát ta khỏi nô lệ vào mặt đất nhờ đã biết rõ vật chất chỉ là phương tiện sẽ mau chóng qua đi. Niềm hy vọng đó nâng cuộc sống con người lên vì từ nay ta hiểu rằng định mệnh loài người không phải như loài súc vật, nhưng ngang hàng với thần linh. Niềm hy vọng đó làm cho cuộc sống của có ý nghĩa, vì Chúa tạo dựng nên con người không phải để con người tàn lụi đi theo qui luật của vật chất mà để con người phát triển, tồn tại đến vô biên, không phải bị kết án vào những đau khổ vất vả trần gian, nhưng đã được tiền định hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trên thiên đàng. Niềm hy vọng đó cho ta thêm động lực phục vụ tha nhân tận tâm hơn vì đó chính là sứ mạng Chúa trao phó. Niềm hy vọng đó khuyến khích ta tích cực xây dựng xã hội tốt đẹp hơn, vì đó chính là điều kiện cho ta được vào Nước Trời.

Lạy Chúa, xin giúp con chu toàn nhiệm vụ ở trần gian để sau này con được về trời với Chúa. Amen.

Gợi ý chia sẻ

1) Ham hố tiền bạc, danh vọng, chức quyền, khoái lạc làm đời sống ta nặng nề, không vươn lên cõi tâm linh được. Bạn thấy mình bị nặng nề về ham mê nào?

2) Đời sống là một nỗ lực bay lên cao. Có khi nào bạn cảm thấy mình thoát khỏi những ràng buộc tầm thường để nhẹ nhàng bay lên không?

3) Đời sống là một bổn phận phải chu toàn. Bạn nghĩ gì về điều này?

 

 

 

 

 

48. Bí tích rửa tội bằng chứng tình yêu

 

Thánh Lu-y IX của nước Pháp, sinh năm 1215 và lên ngôi vua ở tuổi 11, dưới quyền nhiếp chánh của thân mẫu. Trong 40 năm, Ngài là một vị cầm quyền đầy nghị lực và rất thận trọng. Ngài sống cầu nguyện, hy sinh và hãm mình đến nỗi Voltaire, một nhà tư tưởng tự do lỗi lạc cũng đã nhận định: “Ngài kết hợp các đức tính của một vị vua với các đức tính của một vị anh hùng và của một con người”. Ông vua giống Chúa Kitô này thường ký tên “Louis de Poissy”, nghĩa là Lu-y của Poissy. Poissy là thành phố mà Ngài đã lãnh bí tích Rửa tội. Một ngày kia, Ngài đã lưu ý quan cận thần: “Ở Poissy, Ta đã lãnh nhận vinh dự cao cả nhất trong đời sống”. Quan cận thần thưa cùng Đức Vua: “Tâu bệ hạ, Ngài đã lầm lẫn, chắc là Ngài ám chỉ thành Rheims”. Nhà vua nhấn mạnh: “Ta không lầm. Đúng là ở Rheims ta đã được phong vương trên trần thế, nhưng ta được làm Kitô hữu ở Poissy, và ở đó, ta có quyền lên ngôi trên trời”.

Mọi người chúng ta đều có thể nói như thế. Vì tất cả chúng ta đã được rửa tội. Chúa nhật trước chúng ta đã thấy rằng: Mười giới răn là bằng chứng tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta. Hôm nay chúng ta muốn suy nghĩ một bằng chứng khác nữa về tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta – Bí tích Rửa tội. Vào ngày Thăng Thiên, Chúa Kitô đã ngự bên Chúa Cha trên trời. Chúng ta cố gắng sống bí tích Rửa tội, thì cũng sẽ được theo Ngài lên trời, vì bí tích Rửa tội ban cho chúng ta quyền lên trời. Bí tích này còn ban cho chúng ta nhiều phúc lành khác nữa.

Trong bí tích Rửa tội, Thiên Chúa tha thứ mọi xúc phạm đến Ngài và tha cả hình phạt vì tội. Thật là yêu thương biết bao. Bí tích rửa tội cho chúng ta được chia sẻ đời sống Thiên Chúa. Cha mẹ cho chúng ta đời sống tự nhiên. Thiên Chúa cho chúng ta sự sống siêu nhiên, chính đời sống của Ngài. Chúng ta gọi đó là ơn thánh hóa. Còn bằng chứng nào cao cả hơn nữa về tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta? Bí tích Rửa tội còn ban cho chúng ta một số khả năng tinh thần – khả năng tin tưởng, khả năng trông cậy và khả năng yêu mến. Chúng ta gọi đó là nhân đức tin cậy mến. Bí tích Rửa tội làm cho mỗi người chúng ta nên một tông đồ – là Linh mục, tôi nói cho người khác về Chúa Kitô. Công việc ấy đã không bắt đầu từ ngày tôi chịu chức. Tôi trở nên tông đồ ngày tôi lãnh bí tích Rửa tội. Tất cả các Kitô hữu được rửa tội đều là tông đồ.

Hôm nay chúng ta vui sướng vì Chúa Kitô theo phương diện thể xác – trở về nhà cha trên trời. Chúng ta là những người đã được rửa tội, cũng có thể trong vui mừng và hy vọng, mong đợi ngày lên trời, giây phút hạnh phúc khi chúng ta sẽ được ở trong nhà Thiên Chúa.

Vua thánh Lu-y đã nhận thức rõ điều này. Đó là lý do Ngài nhấn mạnh rằng: nơi Ngài, lãnh nhận bí tích rửa tội còn quan trọng hơn được phong vương. Đó là lý do chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính: “Người lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha”. Bạn hãy chú ý cầu nguyện với những lời kết thúc Kinh tin Kính: “Tôi tuyên xưng có một phép rửa để tha tội… và sự sống đời sau”.

Xin Chúa chúc lành cho các bạn.

 

 

 

 

 

49. Chúa Giêsu lên trời

 

Biến cố Chúa Giêsu về trời đã được ghi lại trong sách Tông đồ Công vụ một cách rất chi tiết và đầy đủ. Còn trong bài Tin Mừng hôm nay các tông đồ được giới thiệu như là những người được Chúa Giêsu trao phó cho nhiệm vụ gìn giữ giáo huấn của Chúa Giêsu và tiếp tục các sứ mệnh tông đồ mà Ngài uỷ thác cho.

Thật vậy, các tông đồ là những người đã được Chúa Giêsu tuyển chọn và dạy dỗ, họ là những chứng nhân tai nghe mắt thấy Chúa Giêsu Phục Sinh, được tẩy rửa trong Chúa Thánh Thần và lãnh nhận sức mạng tiếp tục rao giảng Tin Mừng cứu độ. Do đó, các tông đồ là những vị nòng cốt xây nền cho cộng đoàn mới của Chúa Giêsu là Giáo Hội, dân riêng mới của Thiên Chúa.

Tất cả sự phát triển sau này của Giáo Hội đều phải dựa trên quyền bính và tính chất xác thực của đoàn tông đồ dưới sự trợ lực của Chúa Thánh Thần. Các vị là những người chu toàn sứ mệnh đại đồng, đem Tin Mừng cứu độ tới cho mọi dân tộc và làm cho Tin Mừng cứu độ thấm nhập sâu rộng vào dòng lịch sử cho tới ngày Chúa Kitô trở lại trong vinh quang.

Để chuẩn bị cho các tông đồ đảm trách sức mạng trọng đại này, sau khi sống lại Chúa Giêsu qui tụ đoàn tông đồ bị tản mát lại và trong 40 ngày liên tiếp, Ngài đã hiện ra với các ông, để giúp các ông sống kinh nghiệm thực lại Phục Sinh, cũng như dạy dỗ họ hiểu biết bản chất nước Thiên Chúa.

Trong trình thuật Chúa lên trời của Tin Mừng thì cõi trời cao là nơi Thiên Chúa thánh thiện siêu việt ngự tới Vượt cao trên trái đất là nơi loài người tội lỗi sinh sống và xa cách vùng nằm dưới trái đất là âm ti, nơi sự dữ chết chóc và tối tăm chiếm hữu. Cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người được quan niệm như là đường dọc: Thiên Chúa từ trời xuống để đối thoại với con người, rồi sau khi kết thúc Ngài lại lên trời.

Qua kiểu diễn tả với các ý niệm không gian này, tác giả Tin Mừng muốn khẳng định và tuyên xưng lòng tin của Giáo Hội vào Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh, Đấng đã khiến con người bước vào trong sự hiệp thông với Thiên Chúa và chia sẻ thiên tính siêu việt của Ngài.

Tuy Chúa Giêsu Phục Sinh không hiện diện giữa chúng ta với thân xác phải tuân hành các luật lệ vật lý như trước nữa, nhưng Ngài hiện diện bằng sức mạnh trao ban sức sống của Thiên Chúa. Thân xác mờ đục in tằn dấu vết khổ đau của Người lôi tớ giờ đây đã được cất nhắc lên cao, được toả vinh quang trong Thiên Chúa. Chính vì thế thánh Gioan đã khẳng định: “Chúa Giêsu Kitô được cất nhắc lên cao là để tôn vinh ngay trong khi Ngài bị treo lên và chết trên Thập giá”.

Đám mây là một hình ảnh biểu tượng và ám chỉ các tần Thiên Chúa tự tỏ hiện ra như trình thuật trong sách Xuất Hành. Biến cố Chúa về trời mời gọi tín hữu đừng biến lòng tin vào Chúa Giêsu Phục Sinh thành việc chứng nhận một phép lạ cả thể, giống như phép lạ cho người chết sống lại. Nhưng phải nhận ra sự thật tuyệt diệu này qua Chúa Giêsu Kitô, Ngài là Chúa vinh quang của toàn vũ trụ, và Ngài đã cho con người từ nay được tháp nhập vào chính vinh quang của Thiên Chúa.

Câu các tông đồ hỏi liên quan đến việc thiết tập nước Israel phản ánh một thứ lòng tin nghèo nàn còn lệ thuộc vào ý niệm không gian, và việc biểu diễn ngoạn mục bề ngoài lòng tin đích thực là sức mạnh của Chúa Thánh Thần, là chứng tá can đảm và thái độ rộng mở đại đồng vượt ra ngoài mọi thứ biên giới của thế giới và tâm thức loài người.

Đây là ba nhân tố làm thành kinh nghiệm của Giáo Hội như trình thuật trong sách Tông đồ Công vụ. Chúng cụ thể hoá biến cố Phục Sinh và Lên Trời trong cuộc sống của người tín hữu, và biến chúng ta trở thành những người sống và đem Tin Mừng Phục Sinh hiện thực giữa lòng thế giới. Việc đem Tin Mừng Phục Sinh đó không phải theo kiểu cách tâm thức và các mong đợi của con người trần gian, nhưng theo tiết nhịp phương thức và kiểu cách trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.

Đây cũng là sứ điệp mà thánh Matthêu nêu bật trong trình thuật cuộc gặp gỡ của các môn đệ với Chúa Kitô Phục Sinh và biến cố này được nhắc lại trong bài Tin Mừng lễ Chúa Lên Trời hôm nay. Trình thuật này nhằm đúc kết Phúc âm, vừa diễn tả đích tới của nó.

Cho tới nay, Chúa Giêsu đã rao giảng và hoạt động để phổ biến Tin Mừng cứu độ, giờ đây Ngài trao cho các tông đồ và Giáo Hội nhiệm vụ tiếp tục sức mệnh của Ngài, bắt đầu lại Galilêa nơi Chúa Giêsu đã khai mào sứ mệnh ấy.

Cuộc gặp gỡ theo lược đồ của các trình thuật ơn gọi gồm việc giới thiệu Chúa Giêsu Kitô, sứ mệnh Ngài trao phó là lời Ngài hứa sẽ luôn luôn hiện diện trợ lực cho các môn đệ trong công tác truyền giáo.

Chúa Giêsu được giới thiệu như là Chúa của toàn thể vũ trụ, Ngài nắm trong tay mọi quyền bính. Chính Ngài trao cho các tông đồ sức mệnh rao giảng Tin Mừng, để biến mọi dân nước thành môn đệ của Ngài qua việc trao ban Bí tích Rửa Tội và giảng dạy toàn vẹn giáo lý Họ đã lãnh nhận, hầu đem mọi người về với Thiên Chúa.

Từ nay, Chúa Giêsu Phục Sinh sẽ hiện diện và trợ lực họ khắp nơi trên thế giới này, chứ không phải chỉ hạn chế trong đất Palestine mà thôi. Như thế, lễ Chúa Giêsu Lên Trời cũng là biến cố tôn vinh vận mệnh cuối cùng của con người chúng ta. Nó là bài ca chúc tụng gia nghiệp kho làng vinh quang của Chúa và định hướng đi cho lịch sử loài người. Bởi vì nó giúp chúng ta ý thức được rằng, Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh là trung tâm điểm lôi kéo và qui tụ vũ trụ cùng toàn thể nhân loại vào trong quỹ đạo của ơn cứu độ. Tư tưởng thần học này được thánh Phaolô nhắc lại trong bài thánh ca chương I gởi giáo đoàn Êphêsô, được nhắc lại nơi bài đọc II của Chúa Nhật lễ Chúa Thăng Thiên hôm nay. Thánh Phaolô viết tá thư này khoảng năm 62-63 và mở đầu với bài thánh ca chúc tụng Chúa Kitô Phục Sinh, đồng thời cho tín hữu thấy chương trình cứu độ tuyệt vời mà Thiên Chúa đã đề nghị với nhân loại khi cho Chúa Kitô sống lại, tôn vinh Người làm chủ vũ trụ và đặt mọi sự dưới chân Chúa Giêsu Kitô.

Thiên Chúa Cha cũng tôn vinh con người, đồng thời năng lực thần thiêng của Chúa Kitô Phục Sinh lôi kéo Giáo Hội tới với Ngài. Giáo Hội là thân mình của Ngài, là sự hiện diện của Ngài giữa lòng thế giới, giống như thân xác của Chúa Giêsu xưa kia khi Ngài, còn giảng dạy hoạt động và chữa lành bệnh tật Chúa con người trên mặt đất.

Trong bài thánh ca chúc tụng Chúa Kitô Phục Sinh, thánh Phaolô đã dùng các từ diễn tả sự hiểu biết và hiệp thông thân tình mà Thiên Chúa ban cho tín hữu. Chính Thiên Chúa sẽ trao ban cho chúng ta thần trí khôn ngoan và mạc khải, soi sáng tâm trí chúng ta, để chúng ta hiểu biết Ngài, nghĩa là bước vào liên hệ thân tình với Ngài và nếm hưởng mọi điều tuyệt hảo Ngài đã chuẩn bị cho chúng ta. Chính niềm tin tưởng vào vận mệnh cao quí này khiến cho tín hữu phải lạc quan hy vọng, dấn thân biến đổi thế giới và đem mọi người đến với Chúa Kitô, để Chúa Kitô là tất cả trong mọi người.

 

 

 

 

 

50. Khát vọng lên trời cao

 

Khát Vọng Lên Trời Cao hình thành nơi con người từ rất sớm. Lúc nhỏ ta thường ngước nhìn lên trời với ước mơ thật con trẻ. Ước mơ tầm thường nhưng thật lớn lao. Phải chi mình được lên trên trời để có thể nhìn thấy những gì trên trái đất. Ước vọng ấy cũng là khát vọng của bao con người. Cuộc trần nhiều khổ ải, đời sống còn lắm gian nan người ta còn mơ ước đến một cuộc sống trên cao tách biệt nơi trần thế, nơi đó con người được sống công bằng và hạnh phúc.

Con người coi trời là cõi xa xôi với nhiều điều bí nhiệm. Dù chưa rõ sinh hoạt nơi đó như thế nào nhưng con người vẫn tiếp tục ước mơ. Ước mơ một ngày tìm được lối thoát cho cuộc đời. Đói kém, đau buồn, giả dối, bất công mà con người phải đối diện hằng ngày làm cho cuộc sống thêm nặng trì, uể oải. Dù không hiểu rõ hạnh phúc trời cao là thế nào, có bền vững hay không nhưng con người vẫn tiếp tục hướng về trên cao.

Chúa về trời không phải Chúa bay lên khoảng không gian rộng lớn đang bao trùm quả đất. Trời không phải là chốn cao xanh, hay ở một nơi muôn trùng xa cách. Trời không phải là bầu khí quyển hay phần vũ trụ ở trên đầu ta. Theo cái nhìn Kitô giáo, trời là nơi Thiên Chúa ngự trị, nói có tình yêu chân thực mà con người luôn kiếm tìm. Trời có nghĩa là thế giới thuộc về Thiên Chúa. Trời là đích điểm của đời sống Kitô hữu. Hạnh phúc vĩnh cửu của con người là trở về với Thiên Chúa là Cha. Trước khi Chúa Giêsu về cùng Chúa Cha, Ngài hứa ban cho ta một chỗ trong nước Cha: “Thầy đi để dọn chỗ cho anh em, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó với Thầy”.

Mừng Lễ Thăng Thiên là mừng ngày Đức Giêsu được tôn vinh. Một con người tên Giêsu nay được hưởng vinh quang và danh dự của Thiên Chúa. Tất cả chúng ta đều hy vọng được hưởng vinh quang của Thiên Chúa, được sống bên Chúa. Chúa về trời là một khẳng định về niềm hy vọng của con người sẽ trở thành hiện thực.

Chúa Giêsu về trời không phải là một cuộc chia ly xa cách, không phải là cảnh tiễn đưa Chúa về phương trời xa lạ. Thăng thiên chỉ là sự thay đổi cách thức hiện diện. Ta không còn thấy Ngài, không còn đụng chạm tiếp xúc Ngài bằng các giác quan tự nhiên nhưng chúng ta vẫn gặp thấy Ngài trong niềm tin và lòng yêu mến. Tuy Chúa đi xa nhưng thật ra Ngài đang ở gần. Tuy Chúa vắng mặt nhưng Ngài đang hiện diện bên ta. Ngài hiện diện như Ngài nói: “Và đây Ta ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20)

Khát vọng về trời là khát vọng được lên cùng Thiên Chúa. Khát vọng ấy không phải chỉ ngước nhìn là đủ. Ngước nhìn là tâm thái của người đang khao khát, khao khát nên trọn vẹn khi con người được lên trời, cùng hưởng phúc với Chúa Giêsu. Trời không được xây dựng trên mây trên gió nhưng được xây dựng trong cuộc sống trần gian. Trời không là chốn mơ mộng viễn vong nhưng là đã bắt đầu ngay trong thực tế hiện tại. Sống và làm việc ở trần gian đó là một nhu cầu phải chu toàn. Hoàn thành nhiệm vụ nời trần thế đó là điều kiện để đạt được hạnh phúc vĩnh cửu. Đức Giêsu đã chu toàn nhiệm vụ ở trần gian rồi mới len trời. Nhiệm vụ đó là rao giảng Tin Mừng về Nước Thiên Chúa. Đến đâu Ngài thi ân giáng phúc đến đó. Đi đến đâu là gieo yêu thương đến đó. Chúa Giêsu cũng đã sai các tông đồ hãy đi và làm những điều tốt đẹp cho con người.

Lời căn dặn sau cùng của Chúa Giêsu là phương cách để con người được về cùng Thiên Chúa: Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, Giuđêa, Samaria và cho đến tận cùng trái đất. Giêrusalem là nơi các tông đồ đang ở. Giuđêa xa hơn một chút nhưng khá quen thuộc vì có nhiều đã tin Chúa. Samari tuy gần mà xa vì dân miền này biết Chúa Giêsu nhưng không có cảm tình với Ngài. Đến tận cùng thế giới là mục tiêu xa nhất và bao quát nhất.

Anh chị em thân mến, Chúa về trời và những lời Ngài dạy cho ta có cái nhìn đúng đắn hơn về trời và đất. Chúa về trời cho ta biết rằng ngoài cõi đời này còn có một nơi chốn khác; ngoài cuộc sống này còn có một cuộc sống khác. Tự bản chất, cuộc sống này không có tính cách vĩnh cửu. Dù muốn dù không thì mỗi chúng ta cũng sẽ phải từ giã nó để trở về quê trời, nơi Thiên Chúa ngự trị. Người khôn ngoan là người biết sắm sẵn và xây dựng tương lai đời minh không phải nơi trần thế nhưng ở quê trời.

Vâng nghe Lời Chúa, rao giảng lời Ngài và chu toàn trách nhiệm đời này là bước chuẩn bị tốt nhất cho một đời sống hạnh phúc vĩnh cửu mai sau.

 

 

 

 

 

51. Tái ngộ

 

Một người đàn ông khi còn sống chuyên môn làm nghề quảng cáo, đến lúc chết ông ta xuống gặp ngay Diêm vương. Diêm vương ân cần bèn hỏi: “Muốn ở thiên đàng hay ở hỏa ngục”. Người đàn ông ngập ngừng đáp: “Chưa thấy thiên đàng hay hỏa ngục như thế nào thì làm sao mà chọn”. Diêm vương bàn dẫn ông ta đến một nơi và chỉ cho thấy cảnh thiên đàng: đó là một nơi mát mẻ, yên lặng, người người dịu dàng đi lại, nói chuyện nhẹ nhàng, chơi cờ thanh thản… Đoạn dẫn đến một nơi gọi là hỏa ngục thì thấy vui nhộn hơn, có những đám ăn nhậu với đủ thứ thức ăn và rượu ngon, có cả văn nghệ với nhạc rập rình, có các cô đào trẻ đẹp múa hát… Sau khi đã nhìn thấy hai nơi rồi, ông ta mau mắn trả lời: “Ở thiên đàng buồn quá, tôi thích chọn hỏa ngục vui sướng hơn”. Thế là Diêm vương sai hai thằng quỉ ném ông ta vào hỏa ngục. Vừa đến nơi ông ta la hoảng lên vì nóng quá, chả có ăn nhậu, văn nghệ gì ráo trọi, mà chỉ thấy toàn lũ quỉ đen, nham nhở đang vui thích hành hạ các tội nhân. Ông ta sừng sững sờ quay lại hỏi Diêm vương: “Thế hỏa ngục lúc nãy Ngài cho tôi thấy nó ở đâu?”. Diêm vương khoái chí cười ha hả đáp: “Ngu ơi là ngu, quảng cáo mà mày!”.

Đời là thế đấy! đúng là “sinh ư tử nghiệp” “sống sao thác vậy”. Nói một cách rõ ràng hơn thì người đàn ông trong câu chuyện đã bị “gậy ông đập lưng ông” vì khi còn sống ông ta đã dùng mánh khóe, xảo thuật để quảng cáo đánh lừa người khác làm lợi cho mình. Đến khi chết đi, ông ta vẫn mang dòng máu tham lam, ham lợi đó nên đã bị Diêm vương cao tay hơn dùng chính lối quảng cáo đánh lừa ông ta là vậy. Nhưng nếu suy rộng ra thì đây cũng là một mẫu người tiêu biểu cho lối sống của nhiều người thời nay.

Hơn bao giờ hết, người thời nay với lối sống xô bồ, đua tốc độ với thời gian, lấy vật chất làm động lực sống, coi hưởng thụ khoái lạc làm mục tiêu hành động nên đã sử dụng môn quảng cáo như là một tuyệt chiêu để tranh sống và sinh tồn ở đời. Do đó, người ta đua nhau tổ chức cuộc sống mình đặt trên cơ sở lấy ngắn thay cho dài hạn, lấy lợi trước mắt quên tác hại sâu xa, lấy bên ngoài quan trọng hơn bên trong, lấy xác hơn hồn. Tất cả những sai lầm nguy hiểm trên đương nhiên ai cũng chưa biết, nhưng người ta vẫn cứ sống, vẫn cứ coi thường.

Hôm nay cũng như bao lần khác, chúng ta cùng nhau mừng lễ Chúa lên trời. Và mỗi lần như thế chắc chắn Chúa vẫn kêu mời mỗi người chúng ta hãy nghĩ và đặ lại hướng đi cuộc đời của mình cho đúng. Hay nói cách khác Chúa muốn chúng ta, nhân cơ hội kỷ niệm biến cố Ngài về trời, sáng suốt nhận ra được đâu là mục đích chính của đời sống tại dương thế. Thảm thương hay không hiểu tại sao mọi người chúng ta hình như cứ mải mê cố tình hoặc khờ khạo coi nhẹ sự sống đời đời.

Sở dĩ có tình trạng mê lầm mất phương hướng này một phần do những đòi hỏi của bân mang vẻ hợp pháp đã đánh lừa nhiều người khiến họ cứ tưởng mình sống không đến nỗi xấu xa lắm: nào là “có thực mới vực được đạo”, nào là sống đạo cốt tại tâm, nào là phải lo đủ thứ bổn phận trách nhiệm trong gia đình ngoài xã hội, nào là phải liên tục đương đầu để giải quyết biết bao công việc khó khăn. Tất cả những thứ đó có đủ mãnh lực mê hoặc, ru ngủ chúng ta đến nỗi chúng ta cho việc lơ là phần thiêng đạo đức, bỏ bê việc lành, thông cảm với những yếu đuối sa ngã, khô khan nguội lạnh đôi chút đều không có gì phải ân hận, nuối tiếc cả.

Phần khác là do ảnh hưởng bên ngoài đầu độc. Chẳng hạn, thời nay hầu như ai cũng lấy lợi nhuận, hưởng thụ làm mục tiêu sống, trong khi kẻ nào chủ trương ăn ngay ở lành, ăn chay đền tội thì người ta cho là dại khờ. Thêm vào đó, nhiều chủ thuyết cổ võ lối sống tự do phóng khoáng, phi đạo đức luân lý, đả kích tôn gió khiến đức tin của một số người đâm lung lay và hoài nghi những chân lý trong đạo. Đặc biệt ma quỉ đâu chịu ngồi yên, chúng dùng mưu mô xảo quyệt, lợi dụng tối đa mọi hoàn cảnh để ra sức dụ dỗ con người nghi ngờ Chúa, quên đời sau.

Ngay cả những giây phút cùng nhau chia sẻ lời Chúa này, có những người tự bằng lòng với cuộc sống hiện tai của mình: nghĩa là họ thỏa mãn những gì họ đang có, còn đạo đức chỉ là chuyện thứ yếu và đời đời lại quá xa vời, không quan tâm vội. Chính khi suy nghĩ như thế cũng đã dủ để minh chứng rằng nhiều người đang sống xa Nước trời.

Vậy những ai xác tín rằng quê hương đích thực của đời mình là ở trên trời cao thì trước hết và trên hết hãy qui hướng tất cả mọi sự trong cuộc sống, vận dụng mọi hoàn cảnh về nơi đó để cố gắng chiếm đoạt cho bằng được dù phải trả bất cứ giá nào. Dĩ nhiên, điều này không có nghĩa là phải chạy trốn khỏi cuộc sống khốn khổ này, trái lại phải vui tươi, can đảm chu toàn những trách nhiệm, bổ phận mà Chúa giao phó cho mỗi người với điều kiện đừng để cho bản thân, gia đình, của cải, danh lợi làm chủ, điều kiển đến độ quên hết đời sau.

 

 

 

 

 

52. Lên trời

 

Đọc lại Phúc Âm, chúng ta nhận thấy rất nhiều lần Chúa Giêsu đã tỏ lộ quyền năng và vinh quang của Ngài cho các môn đệ. Ngài nói với các ông về Nước Trời và hứa ban Chúa Thánh Thần cho các ông.

Thế nhưng, có lẽ chúng ta sẽ ngạc nhiên bởi vì đầu óc các ông hầu như hoàn toàn khép kín. Các ông chỉ biết nghĩ đến địa vị và danh vọng. Ngay cả khi Chúa Giêsu sắp sửa hoàn tất sứ mạng của mình, thế mà các ông vẫn còn đặt câu hỏi:

– Có phải bây giờ là lúc Thầy sắp khôi phục lại vương quốc Israel?

Khi Chúa Giêsu nói về Nước Trời, hay Nước Thiên Chúa, thì đầu óc lệch lạc của các ông lại hiểu là nước Do Thái, hay vương quốc Israel. Và Chúa Giêsu đã không trả lời cho câu hỏi của các ông. Thay vì thỏa mãn sự tò mò, Chúa Giêsu đã lợi dụng vào đó để hướng dẫn các ông tới một bình diện cao cả hơn.

Thực vậy, theo Ngài: Thiên Chúa là chủ tể tuyệt đối của thời gian và của tất cả những gì sẽ xảy ra. Tuy nhiên, Ngài không muốn cho con người biết trước, nhất là về những ý định đời đời của Ngài. Trong khi đó, Ngài sẽ ban Chúa Thánh Thần cho các ông, để các ông trở thành những chứng nhân trung thành của Ngài ở Giêrusalem, trên khắp xứ Palestine và cho đến tận cùng bờ cõi trái đất.

Sau khi nói những lời ấy, Chúa Giêsu đã lên trời trước cái nhìn thán phục của các ông. Thực vậy, các ông đứng đó và nhìn lên trời cho tới khi Chúa Giêsu biến mất và hai thiên thần hiện đến và nói với các ông:

– Tại sao các ông còn đứng đó mà nhìn làm chi?

Chúa Giêsu hôm nay đã về trời thế nào, thì ngày mai chính Ngài sẽ hiện đến như thế. Phải, Chúa Giêsu sẽ lại đến một lần nữa trong thế gian vào ngày sau hết, vào ngày tận cùng của trời và đất.

Từ những điều vừa trình bày, chúng ta đi tới hai nhận định sau đây:

Nhận định thứ nhất, đó là mặc dầu Chúa Giêsu đã về trời, nhưng Ngài vẫn thực sự ở bên chúng ta qua Giáo Hội và nhờ các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể. Chúng ta vẫn có thể chạy đến kêu cầu với Ngài. Ngài tuy xa mà lại gần, tuy gần mà lại xa. Tuy vắng mặt mà vẫn thực sự hiện diện trong lòng cuộc đời chúng ta.

Nhận định thứ hai, đó là rất nhiều khi chúng ta cũng giống như các môn đệ, chỉ biết cúi đầu xuống như muông chim, tranh giành nhau những quyền lợi nhỏ nhen về địa vị, về danh vọng, về tiền bạc vật chất mà sao lãng chính linh hồn của mình.

Đây là một sai lầm tệ hai, như lời Chúa Giêsu đã phán:

– Được lời lãi cả thế gian, mà mất linh hồn thì có ích lợi chi?

Bởi đó phải xác định một hướng đi cho cuộc sống, cũng như phải điều chỉnh lại bản thân của mình, bằng cách uốn nắn sửa đổi những sai lỗi, những khuyết điểm, đồng thời hãy ố gắng thực thi những hành động bác ái yêu thương để chất đầy trên đôi tay nhỏ bé những công nghiệp cần thiết.

Không phải Chúa chỉ đến với chúng ta một lần nữa trong ngày tận thế, để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Nhưng ngày hôm nay Chúa còn đến với chúng ta qua những biến cố xảy ra. Vì thế, phải tỉnh thức để nhận ra tháh ý Ngài qua những biến cố ấy để rồi cố gắng chu toàn.

Và hơn thế nữa, Ngài sẽ đến với chúng ta vào ngày cuối cùng của đời sống mỗi người. Cuộc gặp gỡ này, tuy âm thần và riêng tư, nhưng lại có một tầm mức rất quan trọng, vì nó sẽ ấn định số phận đời đời của chúng ta.

Vậy chúng ta đã làm được những gì để chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ riêng tư ấy, giữa Chúa Giêsu và cá nhân chúng ta, để rồi chúng ta sẽ được Chúa đón nhận vào quê hương Nước Trời với Ngài?

 

 

 

 

 

53. Lễ Thăng Thiên

 

Hôm nay chúng ta mừng lễ Chúa Giêsu Thăng Thiên, Chúa về trời, tức là mừng biến cố Chúa ngự về nơi Thiên Chúa Cha, sau thời gian Ngài sinh sống 33 năm với loài người chúng ta ở trần gian này trong bản tính nhân loại của Ngài. Ngài lên trời nghĩa là kiểu nói một cuộc tôn vinh Ngài, một lễ đăng quang, là một sự nâng cao lên cùng Thiên Chúa trong bản tính nhân loại của Chúa Giêsu. Vì thế, trời ở đây không phải là nơi chốn cụ thể, một không gian nào đó mà con người có thể xác định bằng những phương tiện “trần thế” của con người nhưng trời ở đây mà phúc âm muốn nói với chúng ta là một tình trạng, nơi mà con người sẽ về sau khi kết thúc cuộc hành trình trên cõi đời này.

Mừng lễ Chúa về trời hôm nay, chúng ta hãy rút ra bài học cho mình. Một là, Chúa Giêsu về trời, nhưng Ngài vẫn luôn hiện diện giữa chúng ta: “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Nghe Chúa nói như thế, chúng ta tin tưởng vào Lời hứa ấy vì Chúa là “Đấng Chân Thật, không lừa dối ai cả”. Chúa Giêsu Phục sinh đã về trời ngự bên hữu Chúa Cha, nhưng Ngài lại vẫn còn hiện diện với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Về trời chính là một cuộc chuyển tiếp từ hiện diện hữu hình sang hiện diện thiêng liêng. Kể từ đây Chúa Giêsu Phục sinh chấm dứt cách hiện diện với các môn đệ khiến cho giác quan của họ kiểm nhận được, mà hiện diện một cách thiêng liêng.

Hai là, mặc dù con người sống ở trần gian, bị chi phối bởi không gian và thời gian nhưng con người luôn hướng về trời, hướng về nơi Chúa về trời. Bởi vì rồi đây ngày mai kia, người Kitô hữu cũng phải ra đi. Và cuộc ra đi của chúng ta là về nước trời. Chúng ta cũng có một động lực thúc đẩy từ cuộc sống trần gian này, dù phải sống đầy vất vả, khổ đau nhưng chúng ta có một đích điểm là quê hương Nước Trời, quê hương hạnh phúc vĩnh cửu.

Biến cố Chúa Lên Trời vì thế đã thành niềm vui và hy vọng cho tông đồ đoàn và các tín hữu tiên khởi. Họ hy vọng vì tuy Chúa không còn hữu hình ở thế gian nhưng Lời Ngài hứa “Ta ở với các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Tin vào Lời Chúa, các Tông đồ mạnh dạn rao giảng và làm chứng cho Chúa phục sinh.

Phần chúng ta, hy vọng vào Nước Trời mai sau, chúng ta cũng phải làm tròn trách nhiệm của mình, trách nhiệm chứng nhân của người kitô hữu, được sinh ra trong bí tích rửa tội. Nhờ phép rửa, người Kitô hữu trở thành con trong Chúa Con, là anh em với nhau làm thành chi thể trong thân thể nhiệm mầu của Chúa Kitô. Vì là chi thể, mỗi người ta có nhiệm vụ làm cho cả thân thể ngày càng lớn mạnh, được sung mãn, và nhiều người biết đến, làm cho Nước Chúa được mở rộng…nghĩa là truyền giáo. Người Kitô hữu cần thông truyền cho cả thế giới và từng người trong thế giới hôm nay biết về Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chết và sống lại và tất cả những ai tin nơi Ngài sẽ nhận được sự sống đời đời. Tuy nhiên, khi nói đến truyền giáo, người ta thường nghĩ rằng đó là công việc của các nhà Thừa Sai, của các linh mục, tu sĩ, của những người ra đi đến những miền đất xa xôi nào đó, để rao giảng Tin mừng. Và như thế, là chưa đúng. Thực tế, Truyền giáo là làm cho mọi người trở thành môn đệ của Đức Kitô, là làm người ta biết Đức Kitô qua đời sống của người Kitô hữu. Như thế, việc truyền giáo không chỉ là nói về Thiên Chúa, về Đức Kitô, nhưng quan trọng hơn, đó là dẫn đưa mọi người về với Đức Kitô bằng chính đời sống làm chứng của từng người chúng ta: “Các con sẽ nên chứng nhân cho Thầy”.

Vì thế, để có thể làm chứng cho Đức Kitô, chúng ta cần có một cảm nghiệm về sự bình an và niềm vui của Chúa ở cùng. Có được như thế, chúng ta mới có thể chia sẻ kinh nghiệm này với các người khác, và dạy họ tuân giữ các giới luật của Đức Giêsu, mà thực ra chỉ tóm gọn lại trong một giới luật là tình yêu. Do đó, để việc truyền giáo thực sự trở nên hiệu quả, thì lời rao giảng cần phải đi đôi với chính đời sống chứng nhân của chúng ta. Thí dụ, cha mẹ biết chăm sóc gia đình chu đáo, đồng thời còn dành thời giờ để đến thăm viếng, an ủi, giúp đỡ, chia sẻ với những người già yếu bệnh tật, cô đơn, … và như thế, từng người chúng ta sẽ là những nhà truyền giáo đúng nghĩa nhất.

Ngày nay, Đức Giêsu vẫn đang hiện diện và ở giữa nhân loại, nơi người nghèo khó, nơi người dám sống và làm chứng cho Tin Mừng, trong các bí tích và nhất là trong bí tích Thánh Thể.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người Kitô hữu chúng con cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời mình, để chúng con dám sống và làm chứng cho Chúa. Amen.

 

 

 

 

 

54. Lễ Thăng Thiên

 

Mt 28,16-21 không nói gì tới Thăng Thiên. Vì nói xuống thế lên trời là theo cách nói bình thường. Trên trời cao dưới đất thấp (bản dịch PVCGK) là viết văn không phải là thần học. Dưới đất đối lại với trên trời. Đất là không gian vật chất, có giới hạn vào một nơi chốn cụ thể: ở đây bây giờ. Trời là chỉ sự hiện hữu khác với vật chất, thiêng liêng. Là những hữu thể hiện hữu theo cách riêng, thiêng liêng. Không nói nơi chốn mà nói hữu thể hiện hữu. Trời là Thiên Chúa. Thiên Chúa ở đâu thì ở đó là trời. Nên cũng gọi là Chúa Trời. Đất và trời không xa cách nhau như cách nghĩ thông thường. Đất là vật chất trời là thiêng liêng vô hình. Á Đông nói “Thần vô phương”: thần không ở phương nào cả mà ở khắp tứ phương. Hay “bàng lưu bất trú dạ” đi khắp mà không nghĩ đêm vì nghĩ thì dừng lại ở “quán trọ”.

Đức Giêsu chấm dứt sự hiện diện bằng thân xác vật chất chuyển sang sự hiện hữu thần linh “thần thì vô phương” không trụ ở một nơi nào mà ở khắp tứ phương.

Người vẫn sống, đang hiện diện và hoạt động bằng Thần Khí, chỉ những người nào cảm nghiệm được thì mới tin vững. Nên còn những người “hoài nghi”.

Các Phúc Âm khác có nói lên trời nhưng phải hiểu là cách nói thông thường.

CHÚ GIẢI

Mười một môn đệ: Mất Giuda.

Đi tới miền Galilê: Không thấy có thời gian nào để các ông trở về Galile.

Đức Giêsu Galilê bây giờ xem ra chỉ còn là ký ức của quá khứ. Các ông đang ở với Đức Giêsu Phục Sinh vinh quang. Các ông đang say sưa với vinh quang Phục Sinh. Nhưng tất cả những gì Đức Giêsu làm và dạy là ở Galile, gọi là Đức Giêsu Galile. Đức Giêsu Phục Sinh không dạy, không làm gì thêm. Thần Khí chỉ nhắc cho nhớ và làm cho hiểu những gì Đức Giêsu đã nói đã làm. Thần Khí cũng không thêm gì. Trở về Galile là trở về với Đức Giêsu Galile.

Đến ngọn núi mà Đức Giêsu hẹn các ông: Tất cả những gì quan trọng dều được công bố trên núi (nhắc lại việc Thiên Chúa ban lề luật cho Mose lần đầu tiên trên núi Sinai). Hoặc “đẹp thay bước chân người loan tin trên núi”.

Khi thấy Người các ông bái lạy: Cử chỉ tôn thờ chỉ dành cho Thiên Chúa. Họ tin Đức Giêsu là Thiên Chúa nên mới bái lạy.

Nhưng có mấy ông còn hoài nghi: Các ông chỉ cảm nghiệm “cá nhân” Đức Giêsu vẫn sống, đang hiện diện, đang hoạt động bằng Thần Khí của Ngươi và đang biến đổi các ông và do đó mà các ông tin. Sự cảm nghiệm cá nhân nầy khác nhau, nhiều ít ở riêng mỗi người. Người ít thì chưa tin lắm nên còn hoài nghi.

Đức Giêsu tiến đến gần, nói với các ông: Cho gần gũi. cho thân mật và cho nghe rõ điều Người nói.

Mọi quyền hành trên trời dưới đất đã được trao cho Thầy: Mạc khải việc Đức Giêsu được tôn vinh ngự bên hữu Chúa Cha được phong làm Chúa và Đấng Cứu Thế. Đức Giêsu là Thiên Chúa vì sẽ hành quyền thay thế Thiên Chúa.

Vậy anh em hãy đi: Là mệnh lênh chính thức và chính yếu của Chúa Phục Sinh và của đoạn Phúc Âm nầy. Đức Giêsu sai đi. Các bài viết về Phục Sinh đều nhằm mục đích “sai đi”.

Làm cho muôn dân trở thánh môn đệ: Nhiều hơn là rao giảng dù là rao giảng Tin Mừng. Môn đệ là những người có “nhập môn” bằng phép rửa “theo cách của thời đó” và học theo trường của thầy, sống theo giáo lý của thầy, giống Thầy.

Làm phép rửa cho họ: là nghi thức nhập môn của các môn phái thời ấy. Bắt đầu đời sống mới theo giáo thuyết của môn phái.

Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần: là công thức phép rửa của Giáo Hội. Phúc Âm được viết khi phép rửa đã có công thức hẳn hoi. Là gia nhập cộng đoàn của Thiên Chúa là Cha và Con và Thánh Thần như Giáo Hội đã tin và đã rao giảng.

Dạy họ giữ mọi điều Thầy đã truyền dạy cho anh em: Là điều kiện hoàn tất mệnh lệnh cuối cùng: Làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa, dạy họ giữ những điều thầy dạy.

Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế: Hứa sự trợ giúp. Có Chúa ở cùng thì được quyền năng Chúa phù trợ. Là câu đóng “Thầy ở cùng mọi ngày” đối lại Emmanuel mở đấu Matthêu.

KẾT

Thiên Chúa sai Lời đến thế gian trong Đức Giêsu. Hoàn thành sứ vụ Người trở về. Công việc của Người phải được tiếp tục. Người đã huấn luyện mười hai tông dồ. Người truyền mệnh lệnh “sai” các ông tiếp tục công việc của Người trước khi Người lìa các ông. Những lần Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra được kể lại dều nhằm mục đích “sai đi”, giao nhiệm vụ.

Sứ vụ được “sai đi” gồm truớc hết là “làm cho muôn dân (phổ quát) trở thành môn đệ”. Ai “tin” đón nhận lời rao giảng thì làm phép rửa cho họ “thâu nhận họ vào cộng đoàn mới, cộng đoàn của Cha và Con và Thán Thần”. Cuối cùng là “dạy” cho họ giáo lý của cộng đoàn do Đức Giêsu truyền lại để họ biết và giữ mọi điều Thầy đã truyền thì mới hoàn thành “môn đệ”.

Đó là nhiệm vụ được giao cho Giáo Hội thực hiện cho tới ngày nay. Các tông đồ, những người kế vị, những người tham gia ở nhiều cấp bậc khác nhau đã cùng nhau xây dựng Giáo Hội, nước Chúa ở trần gian. Lễ hôm nay nhắc nhở mỗi người chúng ta đừng quên vai trò của mình trong sứ vụ mà Đức Giêsu trao phó cho Giáo Hội trước khi Người chấm dứt “hiện diện hữu hình” chỉ còn hoạt động bằng Thánh Thần Bảo Trợ. Xin Thánh Thần giúp chúng ta ý thức sứ vụ “được sai đi” và hăng hái góp phần để sứ vụ của Chúa Giêsu được hoàn thành viên mãn.

 

 

 

 

 

55. Chờ đợi

 

Kinh nghiệm cho hay một phần lớn thời gian trong cuộc sống là chờ đợi. Có cái phải chờ đợi mấy phút, vài giờ, một tuần, cả tháng hay vài năm. Có khi lại phải chờ đợi cả đời người. Cuộc đời có ý nghĩa và hạnh phúc hay không tùy theo thái độ của chúng ta trong lúc chờ đợi.

Hôm nay chúng ta mừng lễ Chúa Giêsu lên trời. Đây là thời gian chờ đợi của các thánh tông đồ. Thánh Matthêu kể lại cho chúng ta biết rằng: “Khi ấy, mười một môn đệ đi về Galilêa, đến núi Chúa Giêsu đã chỉ trước”. Luca ghi lại rằng: “Và đây, chính Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống”. Và sách Công vụ Tông đồ cũng nói rằng: “Người đã ra lệnh cho các ông chớ rời khỏi Giêrusalem, nhưng hãy chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa”.

Các tông đồ chờ đợi sự xuất hiện vinh quang của Thiên Chúa được biểu lộ ra cho họ qua biến cố Chúa Giêsu lên trời. Và qua lời hứa của Chúa Giêsu, các tông đồ lại chờ đợi sự hiện xuống của Đức Chúa Thánh Thần cùng với sức mạnh của Thần Khí được ban cho các ngài.

Thánh Augustinô đã giải thích lý do tại sao chúng ta mừng lễ Chúa Giêsu lên trời như sau: “Vinh quang của Thiên Chúa chúng ta, Đức Giêsu Kitô, đã được hoàn tất bởi sự sống lại và lên trời của Ngài. Vào Chúa nhật Phục sinh, chúng ta cử hành sự sống lại; hôm nay chúng ta cử hành sự lên trời của Ngài. Cả hai lễ đều thuộc về chúng ta, vì Ngài đã sống lại để cho chúng ta một bằng chứng về sự sống lại của chính chúng ta; Ngài đã lên trời để bảo vệ chúng ta từ trên trời cao”.

Sách Giáo lý Công giáo số 661 nói rằng: “Vinh quang của sự Chúa lên trời đã gắn liền với giai đoạn của sự đi xuống của mầu nhiệm Nhập Thể. Chỉ một mình Đấng đã “bởi Chúa Cha mà ra” mới có thể “trở về với Chúa Cha”: đó là Đức Kitô. “Không một ai đã lên trời bao giờ, trừ Con Người đã từ trời xuống thế”. Với sức mạnh tự nhiên của mình, loài người không có đường nào để tới “nhà Cha”, tới sự sống và vinh phúc của Thiên Chúa. Chỉ một mình Chúa Kitô đã có thể mở đường cho con người, “để chúng ta, những chi thể của Ngài, chúng ta có hy vọng đoàn tụ với Ngài, Đầu của chúng ta và Nguyên lý của chúng ta, ở nơi mà Ngài đã đến trước chúng ta”.

Đối với người Kitô hữu, trong khi chờ đợi để được đoàn tụ với Đức Kitô thì chính thái độ và cách sống sẽ đưa chúng ta vào vương quốc Thiên Chúa, vương quốc của an bình, công chính, và hạnh phúc cho mọi người. Chúng ta phải có thái độ nào đang khi chờ đợi?

Hãy nhìn vào đời sống của các tông đồ, chúng ta sẽ học được thái độ phải có. Các ngài đã không chờ đợi ở Giêrusalem với một thái độ thụ động, tiêu cực và nhàm chán. Nhưng các ngài đã chờ đợi với niềm vui chung của toàn thể Giáo Hội, xét như thân thể của Chúa Giêsu Kitô như Luca đã diễn tả: “Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi trở lại Giêrusalem, lòng đầy hoan hỷ”.

Trước hết, các ngài đã quy tụ chung lại với nhau, thờ phượng Thiên Chúa, và cầu nguyện với lòng ước ao gặp gỡ Thiên Chúa. Các ngài và những người tín hữu tiên khởi đã tiếp tục công việc của Chúa Giêsu khởi sự qua các sinh hoạt của Giáo Hội, với đời sống cầu nguyện, cử hành các bí tích, nhất là Bí tích Thánh Thể, và đặc biệt qua đời sống bác ái yêu thương.

Thứ đến, các ngài chờ đợi trong tin tưởng và trung thành vào lời hứa của Chúa Giêsu. Tin tưởng và trung thành vào lời hứa của Thiên Chúa là tìm kiếm những dấu chỉ của Thiên Chúa ở mọi nơi trong đời sống của chúng ta. Đôi khi Thiên Chúa xuất hiện trong những hoàn cảnh và môi trường xem ra rất tức cười.

Nếu chúng ta không nhận ra những dấu chỉ của việc Thiên Chúa làm, chúng ta sẽ không bao giờ thấy. Tôi tự hỏi rằng đã có biết bao nhiêu người chăn chiên đã đi qua bụi cây rừng đang cháy trong câu chuyện của Môsê, và họ đã không nhìn thấy gì cả! Chỉ có Môsê là người tin tưởng và trung thành nên đã đón nhận được sự biểu tỏ của Thiên Chúa. Môsê đã tìm kiếm tích cực, nên mới gặp gỡ.

Chúng ta cũng có thể sẽ bỏ lỡ cơ hội gặp gỡ Thiên Chúa nếu chúng ta không tìm kiếm Ngài một cách tích cực. John Westerhoff, giảng sư của trường Duke University, trong các bài nói chuyện với sinh viên thường kể câu chuyện về một người có tên là Nostradam. Trong nhiều năm, Nostradam đã đi qua biên giới bằng con lừa kéo chiếc xe chở đầy rơm khô. Những người lính biên phòng biết rất rõ Nostradam đang buôn lậu một cái gì đó. Họ chặn ông lại và lục soát kỹ lưỡng chiếc xe chở cỏ khô. Đôi khi họ còn lấy cỏ xuống mang đi đốt, nhưng vẫn chẳng tìm thấy sự gì. Sau cùng, khi ông già yếu, phải nghỉ làm công việc buôn bán này. Họ tổ chức một buổi tiệc cho ông. Những người lính biên phòng nói với ông, “Thưa cụ Nostradam! Bây giờ cụ đã nghỉ ngơi rồi, xin cụ có thể nói với chúng tôi, cụ đã buôn lậu cái gì trong những năm qua”. Nostradam thản nhiên trả lời, “buôn những con lừa”. Điểm chính của câu chuyện là những thứ buôn lậu ở ngay trước mắt của họ, nhưng họ không nhìn thấy.

Sự hoạt động của Thiên Chúa cũng giống như vậy. Không phải là Ngài không có mặt trên trần gian, nhưng con người đã làm ngơ, quên đi tất cả các dữ kiện và dấu chỉ về sự hoạt động của Ngài.

 

 

 

 

 

56. Chờ đợi

 

Trong ngày Chúa Giêsu lên trời, sách Công vụ diễn tả: “Người được cất lên trước mắt các ông và một đám mây bao phủ Người khuất mắt các ông”. Đối với người có niềm tin, theo Cựu ước, mây biểu tượng cho sự hiện diện của Thiên Chúa giữa dân Người. Mây ám chỉ cuộc quang lâm, đến lần thứ hai của Chúa Giêsu. Nếu không có niềm tin, mây chỉ che khuất mắt con người mà thôi! Có người nói rằng tôi cần phải thấy thì tôi mới tin. Còn những người Kitô hữu, chúng ta nói rằng chúng tôi tin nên chúng tôi trông thấy. Nếu chúng ta tin tưởng và tìm kiếm những dấu chỉ của Thiên Chúa, chúng ta sẽ nhìn thấy Ngài ở mọi nơi.

Sau cùng, các ngài chờ đợi bằng đời sống chứng nhân như lệnh truyền của Chúa Giêsu đã ban cho họ: “Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất”.

Theo sự giải thích của William Barclay, người chứng nhân Kitô hữu phải có ba đặc tính căn bản. Trước hết, chứng nhân phải là một người nói rằng tôi biết đây là sự thật. Đây không phải là điều người làm chứng tự nghĩ ra, nhưng là điều người ấy biết rằng chính kinh nghiệm cá nhân của mình. Thứ đến chứng nhân đích thực không phải bằng lời nói mà bằng hành động. Sau cùng, theo tiếng Hy Lạp, chữ “martus” vừa có nghĩa là chứng nhân, vừa có nghĩa là tử đạo. Một người chứng nhân đích thực phải sẵn sàng chết cho điều mình đã làm chứng. Là một chứng nhân có nghĩa là phải trung thành bằng mọi giá.

Quả vậy, lịch sử Giáo Hội đã chứng minh điều này. Tất cả các tông đồ, trừ thánh Gioan, đã dùng chính mạng sống của mình để làm chứng cho lệnh truyền của Chúa Giêsu ban trước khi về trời: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những điều thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.

Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói: “Đời sống con người trên trái đất là một cuộc lữ hành. Con người đang trên đường lữ hành về với đấng Tuyệt Đối”. Vì là lữ hành nên luôn luôn phải chờ đợi: chờ đợi giữa quá khứ và tương lai, giữa điều không còn nữa và điều chưa xảy ra, giữa sự biệt ly của Chúa Giêsu và ngày Ngài sẽ trở lại, giữa lên trời và hiện xuống, giữa sự vắng mặt của Chúa Giêsu và sự hiện diện của Chúa Thánh Thần. Vì là lữ hành, nên “vẫn phải tiếp tục tìm kiếm nhan thánh Chúa suốt cả đời mình. Nhưng cuối cuộc hành hương đức tin, con người sẽ về tới “Nhà Cha”, và ở trong “nhà” này, có nghĩa là thấy Thiên Chúa nhãn tiền”.

 

 

 

 

 

57. Quê hương

 

Bài đọc sách Công vụ Tông đồ hôm nay cho biết: Chúa Giêsu lên trời trước mặt nhiều môn đệ vào ngày thứ 40 sau Phục sinh, tức là lần hiện ra cuối cùng với họ, và trong khoảng thời gian 40 ngày, kể từ ngày Phục sinh, Chúa Giêsu không ở liền với các môn đệ mọi giây phút, nhưng chỉ thỉnh thoảng mới hiện ra thôi. Như thế, những lúc không hiện ra với các môn đệ thì Chúa ở đâu? Thực ra, vấn đề thăng thiên của Chúa có thể ghi lại những điểm chính như sau:

Sau khi Phục sinh, Chúa Giêsu đã được tôn vinh nơi Chúa Cha ngay lập tức rồi. Nói cách khác, Chúa Giêsu Phục sinh rồi lên trời ngay để ngự bên hữu Chúa Cha. Tuy nhiên, trong quãng thời gian 40 ngày, kể từ ngày Phục sinh, Chúa đã hiện ra nhiều lần với các môn đệ, và vào lần cuối cùng, ngày thứ 40, Chúa hiện ra đàm đạo với các môn đệ, nhắn nhủ họ nhiều điều, rồi Ngài lên trời trước mắt họ. Từ đấy Ngài không còn hiện ra với họ như trước đó nữa cho tới ngày tận thế. Dẫu sao ngày lễ thăng thiên hôm nay, Giáo Hội muốn chúng ta lưu ý đến ý nghĩa của mầu nhiệm thăng thiên hơn là đến ngày giờ mầu nhiệm ấy xảy ra.

Mầu nhiệm thăng thiên nhắc nhở ít nhất hai điều: Thứ nhất, Chúa Giêsu về trời, nhưng Ngài vẫn luôn hiện diện giữa chúng ta. Là những con người tại thế, bị ảnh hưởng và chi phối bởi giác quan, chỉ quen chấp nhận những gì giác quan kiểm chứng được, nên chúng ta dễ cảm thấy rằng: ra đi là mất mát, chia lìa là đau đớn kinh khủng, là chết đi một chút. Do đấy chúng ta cũng thường nghĩ rằng: Chúa Giêsu đã về trời, thế là mọi sự mất hết rồi. Nhưng sự thật không phải thế. Chúa Giêsu Phục sinh đã lên trời ngự bên hữu Chúa Cha, nhưng Ngài lại vẫn còn hiện diện với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Thăng thiên chính là một cuộc chuyển tiếp từ hiện diện hữu hình sang hiện diện thiêng liêng. Nghĩa là từ đây Chúa Giêsu Phục sinh chấm dứt cách hiện diện với các môn đệ khiến cho giác quan của họ kiểm nhận được, mà hiện diện một cách thiêng liêng. Dấu hiệu của sự hiện diện này là Ngài ban Thánh Thần xuống trên các tông đồ. Đúng vậy, Chúa Giêsu hiện diện giữa chúng ta, trong chúng ta qua Chúa Thánh Thần. Đó cũng là ý nghĩa của câu Chúa khẳng định với các tông đồ: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.

Điểm thứ hai nhắc nhở chúng ta: Chúng ta đang sống ở trần gian, nhưng phải luôn hướng về trời. Những du khách có dịp đi du ngoạn ở miền bắc nước Tô Cách Lan, thường gặp thấy những đống đá chồng chất lên nhau. Những đống đá này hàm chứa một ý nghĩa lịch sử cho dân chúng miền đó. Đây là kỷ niệm của những người dân đã di cư đi nơi khác làm ăn. Người ta kể lại rằng: vì thiếu công ăn việc làm, dân chúng miền này phải tìm đến những nước công nghiệp như Canada, Úc hay Mỹ để tìm kế sinh nhai. Khi ra đi, họ thường nhặt một hòn đá của làng mình và đem theo cho đến khi bóng xóm làng chỉ còn một chấm mờ ở đàng sau, họ dừng lại, đặt hòn đá xuống như một kỷ niệm yêu thương cuối cùng để lại cho quê hương của họ. Rồi hằng năm, vào dịp lễ thánh Andrê, bổn mạng nước Tô Cách Lan, người dân Tô Cách Lan trên khắp thế giới thường họp nhau lại để tưởng nhớ tới quê hương mình đã cách xa, và cũng để nhớ đến họ hàng thân thuộc còn ở lại quê nhà.

Bất cứ một người dân di cư nào cũng đã gói ghém trong hành trang của mình ít nhiều tình yêu quê hương sâu đậm. Người ta tìm ra hai nguyên nhân chính yếu đã là những động lực thúc đẩy các cuộc ra đi này, đó là một đời sống nghèo nàn, cơ cực, đói khát, với những điều kiện quá khắc khổ, không công ăn việc làm, không bảo đảm tương lai. Và một hấp lực lôi cuốn từ đàng trước, đó là một đời sống no đủ, sung túc hơn, với những hứa hẹn của một tương lai tươi sáng, bảo đảm và vững chắc hơn.

Người Kitô hữu cũng có thể được ví như những người dân di cư đó. Và cuộc ra đi của chúng ta là một cuộc hành hương về nước trời. Chúng ta cũng có một động lực thúc đẩy từ cuộc sống trần gian đầy vất vả này, và một hấp lực lôi cuốn của một quê hương hạnh phúc.

Sống ở đời này, ai ai cũng có những hy vọng. Chúng ta hy vọng về nước trời như là cái đích cuối cùng ở cuối con đường trần gian. Cuộc sống hôm nay nơi trần gian phải có một mục đích. Nếu sống hết ngày này qua ngày khác, phấn đấu, lam lũ làm ăn, vất vả, cực khổ… chỉ để sống vậy thôi, chứ không biết mình sống để làm gì thì đời chúng ta thật là vô nghĩa và phi lý. Vậy chúng ta đã có mục đích sống cho đời mình chăng? Mục đích đó là mục đích nào? Thưa đó là nước trời. Vì vậy cuộc đời này là một cuộc hành hương về nước trời.

Ước gì từng hành động, từng suy nghĩ, từng gặp gỡ, từng hơi thở của chúng ta cũng đều là một đáp trả tích cực của chúng ta với lời mời gọi vào sự sống bất diệt của Chúa. Ước gì trong tất cả mọi sự, sự khôn ngoan hướng dẫn chúng ta chính là cõi phúc trường sinh mà Chúa đã hứa ban cho chúng ta. Ước gì trong từng bước lữ hành về cõi phúc ấy, chúng ta đã có thể nếm được niềm vui và hạnh phúc đích thực ngay trong cuộc sống này.

 

 

 

 

 

58. Thực hiện sứ mạng

 

Trong bài Tin mừng hôm nay, Thánh Matthêu cho chúng ta thấy rằng trước khi về trời, trước khi với Thiên Chúa Cha, Chúa Giêsu qui tụ các môn đệ tại Galilê, và tại đây, Chúa Giêsu trao cho các ông một sứ mạng, đó là, làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Chúa Giêsu, nghĩa là, làm cho muôn dân nhận biết Chúa Giêsu và tin vào Chúa Giêsu.

Là một người Kitô hữu. Chúng ta cũng là môn đệ của Chúa Giêsu từ khi lãnh bí tích rửa tội. Trong các cộâng đoàn đức tin, trong họ đạo, trong Giáo hội và nhất là giờ đây, trong ngôi thánh đường này cũng là một Galilê khác mà Chúa Giêsu qui tụ chúng ta và trao cho chúng ta sứ mạng mà Chúa đã trao cho các môn đệ ngày xưa. Vậy tôi và ông bà anh chị em thực sứ mạng này như thế nào?

Dựa vào Lời Chúa truyền dạy và dựa vào những gì các môn đệ của Chúa Giêsu thực hiện qua mọi thời đại thì chúng ta có thể tóm gọn việc thực hiện sứ mạng trong 3 chữ đó là: chữ đi, chữ làm và chữ dạy. Chúng ta có thể áp dụng một cách cụ thể và hữu hiệu 3 chữ này trong cuộc sống của chúng ta như sau:

1. Thứ nhất là chữ “đi”: đối với chúng ta ngày nay, thực hiện chữ đi này không chỉ theo phương diện thể lý hay địa lý như đi nơi này nơi khác, nước này nước khác. Nhưng trước hết là đi ra khỏi con người của mình, đi ra khỏi cái tôi của mình để mở rộng tâm hồn đón nhận người khác. Đức Hồng Y Px. Nguyễn Văn Thuận kể về một lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Ấn độ tên là Gandi như sau: Một hôm ông Gandi đến nhà thờ, nhưng những người Kitô hữu ở đó đã không cho ông vào nhà thờ bởi vì ông là người da đen, còn nhà thờ này chỉ dành riêng cho người da trắng. Ông Gandi đã bỏ về và từ đó về sau ông không đến nhà thờ nữa. Câu chuyện cho thấy rằng đến với người khác, đón nhận người khác là vượt qua những rào cản, những khác biệt về giàu nghèo, địa vị, trình độ tri thức, văn hoá, màu da sắc tộc… Đón nhận người khác là chấp nhận người khác làm phiền mình về thời giờ, sức khoẻ. Vậy để áp dụng chữ đi này trong cuộc sống, mỗi khi gặp gỡ những người chung quanh, chúng ta đến với họ bằng cái bắt tay, bằng một nụ cười, một ánh mắt thân thiện, bằng lời hỏi thăm hay sự quan tâm. Đó là chúng ta đi đến với họ.

2. Chữ thứ hai là chữ “làm”: Lời Chúa nói hãy làm phép rửa cho họ, nghĩa là, làm cho họ gia nhập đạo qua Bí tích Rửa tội. Vậy trước khi làm cho họ gia nhập đạo thì chúng ta làm cho họ có một cái nhìn thiện cảm về những người theo đạo, làm cho họ có một cái nhìn tốt đẹp đối với đạo và làm cho họ có một cái nhìn yêu mến đối với Chúa Giêsu bằng chính đời sống của chúng ta. Có 2 người bạn đồng nghiệp của nhau, một hôm cả hai nghe nói về đạo Chúa Giêsu, nhưng một người thì đã theo đạo liền, còn bạn của anh ta thì 1 năm sau mới theo đạo. Thấy vậy, anh ta mới hỏi bạn của mình tại sao như vậy. Bạn của anh ta trả lời rằng, ban đầu tôi không tin Chúa Giêsu, nhưng sau một năm tôi thấy từ khi anh theo đạo, anh đã thay đổi cuộc sống, anh đã ứng xử tốt hơn đối với người khác, cuộc sống của anh lúc nào cũng an vui. Vì thế tôi tin rằng chân lý có trong Kitô giáo nên tôi quyết định theo đạo. Rõ ràng, cuộc sống của chúng ta chính là lời giới thiệu cho người chung quanh chúng ta nhận biết Chúa Giêsu và tin vào Chúa Giêsu. Chúng ta áp dụng chữ làm này như sau: trong gia đình, chúng ta sống hoà thuận yêu thương nhau, cha mẹ sống đúng bổn phận của cha mẹ như lo cho gia đình và giáo dục con cái, con cái thì sống đúng bổn phận của mình như hiếu thảo, giúp đỡ cha mẹ. Ngoài xã hội, thì chúng ta là một người công dân tốt. Sống như thế là chúng ta giới thiệu Chúa Giêsu cho người khác.

3. Chữ thứ ba là chữ “dạy”: Chúa Giêsu nói với các môn đệ dạy cho họ những điều thầy truyền dạy cho anh em. Điều Chúa Giêsu truyền dạy cho các môn đệ chính là giới luật yêu thương: “Anh em hãy yêu thương nhau như thầy yêu thương anh em”. Trong xã hội hôm nay người ta thích nhìn thấy những gì chúng ta làm hơn là nghe những gì chúng ta nói. Vậy, để nói cho người khác về yêu thương thì không cách nào tốt cho bằng chúng ta thực hiện yêu thương đối với họ. Chúng ta đã nghe nói về mẹ Têrêsa Caculta. Mẹ Têrêsa Calculta và những người trong tu hội thực hiện yêu thương đối với người khác bằng việc đem những người bị bỏ rơi ngoài đường về tu hội chăm sóc nuôi dưỡng họ, cho họ cảm thấy họ được đối xử và được sống xứng đáng với phẩm giá của một con người. Mẹ Têrêsa Calculta đã trình bày một cách sống động về giới luật yêu thương cho mọi người trong thời đại chúng ta. Thật vậy, đời sống yêu thương của chúng ta chính là lời nói hữu hiệu về giới luật yêu thương mà Chúa Giêsu đã dạy cho chúng ta. Để thực hiện đời sống yêu thương, trong mùa phục sinh này, chúng ta hạn chế chi xài để quyên góp làm quỹ bác ái giúp cho những người đang thiếu thốn, đang gặp khó khăn chung quanh chúng ta. Sống như vậy là chúng ta nói cho người khác một cách cụ thể về giới luật yêu thương mà Chúa Giêsu đã dạy.

Mong rằng chúng ta nhớ lời Chúa truyền dạy hôm nay, nhớ sứ mạng chúa trao cho chúng ta trong thánh lễ này, để mỗi ngày sự ra đi của chúng ta, việc làm của chúng ta, đời sống yêu thương của chúng ta là một nhịp cầu đưa những người chung quanh chúng ta đến với Chúa Giêsu, nhận biết Chúa Giêsu và tin vào Chúa Giêsu. Đó cũng là chúng ta thực hiện lời mời gọi của Đức Thánh Cha trong sứ điệp ngày ngày truyền giáo 2010, Đức Thánh Cha mong đợi các tín hữu “cho thấy Đức Giêsu và làm sáng lên khuôn mặt của Đấng Cứu Chuộc nơi mọi hang cùng ngõ hẻm của trái đất này”. Amen.

 

 

 

 

 

59. Thiên đàng

 

Hôm nay chúng ta hân hoan long trọng mừng lễ Chúa Giêsu lên trời. Nhưng Chúa Giêsu lên trời có ý nghĩa gì? Trước hết, chúng ta cần xác tín kiểu nói “lên trời, xuống thế” là thế nào. Nếu hiểu “trời” là nơi Chúa ngự, còn “thế” là cõi trần của chúng ta. Và “lên, xuống” theo nghĩa kính Chúa thì đặt Chúa ở trên, còn loài người chúng ta tầm thường thì đặt ở dưới. Hiểu như vậy, thì kiểu nói “lên trời, xuống thế” chả còn đặt thành vấn đề nữa.

Nhưng điều làm cho một số người ngày nay thắc mắc là cách hiểu theo nghĩa đen: “Trời” là trời xanh, là không trung, có tinh tú, có mặt trời, mặt trăng… và đem quan niệm tiến bộ về thiên văn của thế kỷ XX, bây giờ là thế kỷ XXI, áp dụng vào những kiểu nói thời xưa, thì không đúng. Chắc chắn không thể hiểu theo nghĩa đen và đem áp dụng như thế được. Sự kiện Chúa Giêsu “bay lên khỏi đất” hoặc “bay lên trời” là để nói rằng: Chúa về nơi Ngài ở trước. Ngài không còn ở dưới trần thế như từ ngày giáng sinh đến hôm đó nữa. Ngài lên trời, đó là một cuộc tôn vinh sau khi đã hoàn tất chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa.

Như vậy, việc Chúa Giêsu lên trời là một sự kiện tất yếu của quá trình nhập thể và cứu chuộc của Ngài. Như chương trình phát triển của một hạt lúa: phải tự mục nát trong đất mới đâm mầm và tăng trưởng dần cho đến thời kỳ trổ bông, sinh hạt. Cũng vậy, Chúa Giêsu sau thời gian đi gieo lời hằng sống, thiết lập và xây dựng một nền móng đạo đức đặt căn bản trên tình thương và công bằng trong xã hội Do thái thời đó, mảnh đất thí điểm và khởi điểm. Ngài đã chịu chết, sống lại và vinh hiển về trời.

Nói rõ hơn, Chúa Giêsu Con Thiên Chúa, đã từ trời xuống trần gian này, để thực hiện chương trình cứu chuộc của Chúa Cha. Ngài đã giảng dạy, phục vụ và cống hiến cả mạng sống. Nên sau khi sống lại từ cõi chết, Ngài đã được Thiên Chúa Cha tôn vinh, đặt bên hữu Thiên Chúa, và ban cho quyền xét xử vũ trụ. Đây cũng là một câu trả lời vô cùng phấn khởi cho chúng ta, nếu chúng ta trung thành đi theo Chúa, sống theo lời Ngài, chúng ta cũng sẽ được về trời, chúng ta sẽ được Chúa Giêsu đón vào trong nhà Cha cùng với Ngài hưởng hạnh phúc vinh quang muôn đời.

Vì vậy, mầu nhiệm lên trời dạy cho chúng ta biết: Nước trời, tức là thiên đàng, có thực sự, là nơi Thiên Chúa ngự, là nơi tập họp những người con thảo của Thiên Chúa. Nhưng thiên đàng ở đâu? Ở trên không trung, trên trời, bên trên những đám mây ư? Chỉ những ai ngây thơ mới nghĩ như thế. Thiên đàng mà Chúa Giêsu đã hứa, Nước trời như Chúa đã nói, chẳng dính dáng gì tới bầu trời của những nhà du hành vũ trụ.

Trước đây, người ta kể rằng: Sau những lần đáp tên lửa vòng quanh trái đất, có những nhà du hành để thám hiểm vũ trụ, đã tuyên bố rằng: Họ chẳng thấy gì bên trên những đám mây, chẳng thấy Thiên Chúa, thiên đàng, các thánh, chẳng thấy gì hết. Thế là nhiều người ngây thơ, nông cạn tin rằng: Từ nay trở đi, niềm tin có thiên đàng sẽ hoàn toàn sụp đổ. Những điều đó có đúng không? Thưa không, con người đã lên cung trăng, sẽ đáp xuống sao hỏa, sao kim, rồi tuần tự sẽ thám hiểm thế giới các vì sao. Nhưng con người không thể và không bao giờ đến gần được thiên đàng, dù chỉ cách vài cây số thôi. Thiên đàng của Thiên Chúa ở trong chiều kích khác với thời gian và không gian của chúng ta. Thiên đàng là nơi Thiên Chúa ngự. Ngài hiện diện khắp vũ trụ. Suy đoán thiên đàng ở đâu đó, trên các hành tinh hoặc trên các thiên hà xa lắc, là làm một công việc vô ích. Thiên Chúa ở đâu, thiên đàng ở đó.

Câu chuyện sau đây minh họa cho chúng ta: Có một tu sĩ kia, sau khi đã dày công tu luyện và suy nghĩ về niềm hạnh phúc của một thiên đàng hạ giới, đã lên đường đi tìm. Ngày tháng trôi qua, vị tu sĩ đã lên đường năm mươi năm, nhưng vẫn chưa tìm ra được một nơi nào để có thể hưởng trọn hạnh phúc xứng đáng được gọi là thiên đàng. Khi đã mệt mỏi mà chưa đạt đích, vị tu sĩ này đã đi lại con đường cũ dẫn tới tu viện nơi ông đã bỏ đó để đi tìm thiên đàng hạ giới. Khi ông vào tu viện gõ cửa để xin tá túc, thì không ai trong tu viện nhận ra ông nữa. Vị tu viện trưởng bằng lòng cho ông tá túc. Ông được dẫn đến căn phòng, đó chính là căn phòng ông đã ở trước kia. Một tư tưởng bỗng lóe lên trong tâm trí của người tu sĩ già này đã trả lời cho câu hỏi mà ông đã tìm câu giải đáp mấy chục năm qua, là thiên đàng ở đâu? Thiên đàng chính là nơi bạn đang sống. Thiên đàng không tùy thuộc nơi chốn nhưng tùy thuộc ở lòng người.

Đây chính là điều Chúa Giêsu đã quả quyết: “Thiên đàng ở giữa các ngươi”. Thiên đàng hiện ra trong từng giây phút chúng ta đang sống, thiên đàng là xã hội chúng ta đang sống, nếu xã hội là nơi mà quan niệm về hạnh phúc được thực hiện và thỏa mãn. Nếu xã hội là nơi mà sự hòa bình, sự bình an, sự hiệp nhất, tình liên đới, nghĩa huynh đệ được thực hiện thật sự và đích thực.

Hoặc chúng ta có thể nói rằng: ở đâu có bác ái, yêu thương, thì thiên đàng ở đó, câu chuyện sau đây cho chúng ta hiểu rõ điều đó: Có một chàng hiệp sĩ kia. Là hiệp sĩ nhưng rất sống thô lỗ, hung bạo. Một hôm, anh đến gặp một vị thiền sư và hỏi: “Xin ngài chỉ dạy cho tôi biết thiên đàng và hỏa ngục là gì? Vị thiền sư nhìn anh ta một hồi rồi nói: “Tôi không thể dạy cho anh bất cứ điều gì. Anh là nỗi tủi nhục cho hàng ngũ hiệp sĩ. Anh hãy đi đi”. Tức giận, chàng hiệp sĩ rút gươm sát hại vị thiền sư. Nhưng vị thiền sư giơ tay cản lại và nói: “Hỏa ngục là thế đó”. Chàng hiệp sĩ dừng tay lại, anh hối hận và nhận ra bài học thực tiễn. Anh xỏ gươm vào bao và quì xuống trước mặt vị thiền sư. Anh không nói gì, chỉ cúi đầu tỏ vẻ thành tâm sám hối. Vị thiền sư đỡ anh dậy, nhìn vào đôi mắt anh và nói: “Thiên đàng là thế đó”. Quả thực, nơi nào có hận thù, chém giết, thì nơi đó là hỏa ngục. Hỏa ngục không hẳn là một nơi chốn như chúng ta thường tưởng tượng mà là một tình trạng vắng bóng yêu thương, nơi nào ích kỷ, và hận thù ngự trị, thì nơi đó là hỏa ngục; hỏa ngục không chờ đợi ở đời sau mà xuất hiện ngay trong tâm hồn mỗi người chúng ta khi nào chúng ta để cho hận thù ngự trị và điều khiển mọi suy tư và hành động của chúng ta. Nếu hận thù là hỏa ngục, thì thiên đàng chính là tình yêu. Thánh Phaolô đã nói: “Ở đâu có bác ái yêu thương thì ở đấy có Thiên Chúa”. Mà Thiên Chúa là thiên đàng. Như vậy, thiên đàng là điều con người có thể xây dựng và thụ hưởng ngay ở trần gian này. Và không có thiên đàng trần gian thì cũng không có thiên đàng đời sau, vì Thiên Chúa căn cứ vào đời sống hôm nay để thưởng phạt chúng ta.

 

 

 

 

 

60. Suy niệm của JKN

 

Câu hỏi gợi ý:

1. Phải chăng công việc cứu thế của Đức Giêsu đã chấm dứt kể từ khi Ngài từ giã các tông đồ để về trời? Nếu việc ấy còn tiếp tục thì tiếp tục thế nào, và do ai thực hiện? Người ấy có phải là bạn, là tôi không?

2. Đức Giêsu có cần ta và có mời gọi ta cộng tác với Ngài trong việc cứu thế của Ngài không? Ngài muốn ta làm gì để cộng tác với Ngài?

3. Nếu Đức Giêsu muốn yêu anh chị em ta bằng trái tim của ta, muốn phục vụ họ bằng đôi tay của ta, muốn rao truyền Tin Mừng cho họ bằng miệng lưỡi của ta, bạn có sẵn sàng cho phép Ngài không?

Suy tư gợi ý:

1. Để cứu con người, Thiên Chúa cần họ cộng tác với Ngài

Hôm lễ Giáng Sinh, chúng ta đọc bài Tin Mừng nói về việc Đức Giêsu giáng trần, bắt đầu cuộc đời làm người của Ngài. Hôm nay chúng ta đọc bài Tin Mừng nói về việc Ngài thăng thiên, kết thúc cuộc đời tại thế của Ngài. Ngài đến thế gian – vừa với tư cách một vị Thiên Chúa vô hạn và toàn năng, vừa với tư cách một con người đầy giới hạn và bất lực – để phục vụ con người, hầu trả lại cho con người thứ hạnh phúc vĩnh cửu đã bị nguyên tổ con người đã làm mất. Nhưng Ngài không thể làm chuyện này một mình được.

Khi dựng nên con người và cùng lúc ban hạnh phúc nguyên thủy cho con người (lúc ấy con người chưa có), Thiên Chúa không cần ý kiến hay sự cộng tác của con người. Nhưng khi con người đã hiện hữu, nhất là khi họ đã lạm dụng chính tự do Thiên Chúa ban để chống lại Ngài và làm mất đi hạnh phúc của mình, thì Ngài không thể tự mình chuộc lại hạnh phúc ấy cho con người mà không cần đến sự cộng tác tự nguyện của họ. Tương tự như khi sinh ra ta, cha mẹ không cần đến ta, nhưng một khi đã có ta, thì có rất điều ích lợi cho ta các ngài không thể làm một mình mà không cần ta cộng tác vào. Chẳng hạn các ngài có thể đem đồ ăn đến tận miệng ta, giúp chúng ta đủ mọi phương tiện để học hành, nhưng ta có ăn uống học hành hay không thì hoàn toàn do ta. Cha mẹ không thể ăn uống, học hành thay cho ta được. Cũng vậy, Thiên Chúa không thể cứu chuộc ta, lấy lại hạnh phúc đã mất cho ta mà không cần đến sự hợp tác của ta. Để cứu chuộc con người, Thiên Chúa đã làm tất cả những gì Ngài có thể làm được qua Đức Giêsu. Tuy nhiên, vẫn còn lại một phần rất nhỏ mà chính con người phải làm, không ai làm thay được.

Nhưng làm sao con người ý thức được điều đó để cộng tác với Ngài hầu được cứu rỗi và hạnh phúc? Đức Giêsu có làm được điều ấy không? Làm sao Ngài làm được điều ấy cho từng người trên thế giới từ thế kỷ này sang thế kỷ khác?

2. Để loan báo ơn cứu độ, phục vụ con người, Đức Giêsu mời gọi ta cộng tác tiếp tay với Ngài

Đức Giêsu đến thế gian với mục đích ở với con người, chia sẻ thân phận đầy đau khổ của họ, xoa dịu những nỗi đau, săn sóc và chữa lành mọi căn bệnh cho họ, nhất là đem lại nguồn ủi an, hạnh phúc cho họ. Ngài muốn phục vụ toàn thể con người, đem ơn cứu rỗi đến cho họ không trừ một ai. Nhưng thế giới của con người thì bao la trải dài suốt mấy chục thế kỷ, còn Ngài chỉ sống tại thế có 33 năm thật ngắn ngủi, tại đất nước Do Thái quá chật hẹp. Làm sao Ngài có thể đến với từng người, phục vụ từng người không trừ ai như Ngài mong muốn được? Ngài có phương cách của Ngài, đó là mời gọi những người theo Ngài, những môn đệ của Ngài trong mọi thế kỷ, mọi thế hệ loài người cộng tác tiếp tay cho Ngài, trong đó có bạn, có tôi, cùng bao nhiêu Kitô hữu khác. Ngài lại mời gọi và đòi hỏi sự cộng tác.

Vì thế, trước khi từ biệt các môn đệ để về với Chúa Cha, Đức Giêsu đã trăn trối cho các ông di chúc này: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở nên môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy cho họ tuân giữ những điều Thầy truyền cho anh em”. Đó không phải chỉ là lời mời gọi, mà là một lệnh truyền không chỉ cho 12 môn đệ đầu tiên của Ngài, mà cho tất cả những môn đệ thuộc tất cả những thế hệ sau, nghĩa là cho tất cả những ai theo Ngài. Vì thế, việc loan báo Tin Mừng hay phúc âm hóa môi trường mình sống, làm cho mọi người theo Đức Giêsu, thành môn đệ của Ngài, rửa tội cho họ, nhất là sống tinh thần yêu thương mà Ngài đã truyền dạy là bổn phận của mọi Kitô hữu.

3. Đức Giêsu mong được tiếp tục yêu thương và phục vụ con người qua bản thân và đôi tay của ta

Sứ mạng của Đức Giêsu thật vĩ đại, để hoàn tất sứ mạng ấy, Ngài muốn hiện diện một cách cụ thể bằng xương bằng thịt tại trần gian để sống với mọi người, chia sẻ đau khổ với mọi người thuộc mọi thời đại, mọi dân tộc, mọi quốc gia. Ngài muốn trực tiếp nói với mỗi người, phục vụ, săn sóc, an ủi, xoa dịu và chữa lành những nỗi đau, những căn bệnh của mỗi người, nhất là đem lại nguồn ủi an và hạnh phúc cho họ. Nhưng trong thực tế, Ngài chỉ sống tại trần gian một thời gian hết sức ngắn ngủi. Vì thế, để tiếp tục công việc ấy, Ngài muốn hiện diện ở trần gian một cách khác, một cách gián tiếp, qua sự hiện diện của ta. Nghĩa là Ngài muốn yêu thương mọi người bằng trái tim ta, suy nghĩ tìm ra giải pháp cho mọi vấn đề của con người bằng khối óc của ta, phục vụ mọi người bằng đôi tay của ta, đến với mọi người bằng đôi chân của ta, nói với mọi người, báo tin vui cứu độ cho mọi người bằng miệng lưỡi của ta. Ngài mong ta trở nên một dụng cụ của Ngài, tùy ý Ngài sử dụng hầu thực hiện chương trình của Ngài. Nếu Ngài đã là hiện thân của Thiên Chúa Cha giữa con người, thì Ngài cũng muốn ta là hiện thân của Ngài giữa những người sống chung quanh ta, trong gia đình ta, giữa xã hội, trong lòng thế giới. Nếu cách đây hơn 2000 năm, Ngài đã là Em-ma-nu-en, tức Thiên Chúa ở giữa loài người qua con người Đức Giêsu, thì hiện nay, Ngài cũng muốn tiếp tục làm như thế, nhưng lần này qua con người mỗi chúng ta.

4. Hãy trở nên hiện thân của Đức Giêsu ở trần gian, giữa những người sống chung quanh ta

Chúng ta có thể trở nên hiện thân của Đức Giêsu ở trần gian, miễn là chúng ta có tình yêu đối với Ngài, với mọi người, và muốn trở nên hiện thân của Ngài giữa thế giới. Để làm được điều ấy, chúng ta chỉ cần ý thức rằng mình chính là hình ảnh của Thiên Chúa, được tạo dựng giống như Thiên Chúa (St 1,26.27; 9,6; Ep 4,24), là con cái Thiên Chúa (Lc 20,36; Rm 8,14.16; Gl 3,26), và mang trong mình bản tính thần linh của Ngài (2Pr 1,4). Vì thế, ngay từ bản chất, một cách nào đó, chúng ta đã là hiện thân của Thiên Chúa rồi. Chỉ có một điều đáng tiếc là nhiều khi chúng ta chưa sống đúng với bản chất cao cả đó. Chúng ta còn sống một cách hèn hạ, nhát đảm, bần tiện, ích kỷ, chỉ vì chúng ta chưa ý thức được phẩm chất thần linh cao quí của mình. Chúng ta giống như một hoàng tử con ruột của một ông vua, nhưng vì sống trong môi trường dân giã lâu năm nên đã quên đi nguồn gốc cao quí của mình, nên sẵn sàng đem thân làm tôi tớ người khác, làm những điều không xứng hợp với phẩm giá mình.

Đức Giêsu muốn mỗi người chúng ta ý thức được phẩm chất cao cả của mình, đồng thời mời gọi ta trở nên hiện thân của Thiên Chúa, của Ngài nơi những người chung quanh chúng ta, để qua chúng ta, Ngài yêu thương họ, phục vụ họ. Chúng ta sẽ trở nên hiện thân của Thiên Chúa khi những người chung quanh cảm nghiệm được tình yêu thương của ta đối với họ, qua việc quan tâm, chăm sóc, hy sinh vì hạnh phúc của họ.

Lời mời gọi ấy, trước khi về trời, Đức Giêsu đã nói với chúng ta dưới một hình thức khác, một lệnh truyền, một sứ mạng được trao phó: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em”. Làm cho muôn dân trở thành môn đệ Chúa, cũng là giúp họ ý thức được họ là hình ảnh của Thiên Chúa, là con cái Ngài, và là anh em của nhau. Dạy bảo họ tuân giữ những điều Đức Giêsu truyền dạy chính là tìm cách làm cho họ yêu thương nhau, phục vụ nhau. Vả lại yêu thương nhau chính là nét đặc trưng nhất, là tiêu chuẩn bảo đảm nhất chứng tỏ mình là môn đệ đích thực của Đức Giêsu. Chính khi chúng ta sống như thế, sống như những hiện thân của Đức Giêsu ở giữa anh chị em ta, thì ta đã làm cho câu nói sau đây của Đức Giêsu trở thành hiện thực và cụ thể: “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”. Chúng ta hãy trở nên Giêsu hay Em-ma-nu-en ở giữa anh chị em mình!

Cầu Nguyện

Tôi thường nghe Thiên Chúa nói qua lương tâm tôi:

“Cách đây hơn 2000 năm, Cha đã rao truyền chân lý, bày tỏ tình yêu và phục vụ săn sóc cho một số rất ít người Do Thái thời ấy qua con người Giêsu, Con của Cha. Cha vẫn muốn tiếp tục làm công việc yêu thương săn sóc ấy cho tất cả mọi người không trừ ai ở trần gian này. Nhưng lần này không phải qua con người Giêsu nữa, mà qua bản thân con và nhiều người khác như con. Con có đồng ý để Cha yêu thương họ bằng trái tim con, và phục vụ họ bằng đôi tay của con không?”

 

 

 

 

 

61. Suy niệm của Huy Châu

 

THẦY Ở CÙNG CÁC CON MỌI NGÀY CHO ĐẾN TẬN THẾ

Trong cuốn Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng, ĐTC Gioan Phaolô II đã viết như sau, khi trả lời về vấn đề Hồi giáo: “Tuy Thiên Chúa trong kinh thánh Koran được gọi bằng những danh xưng tuyệt đẹp, nhưng cuối cùng Ngài cũng chỉ là một Thiên Chúa ở bên ngoài thế giới này. Ngài là một Thiên Chúq uy phong, nhưng không bao giờ là một Đấng Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta.”

Ngay chương đầu Phúc âm Matthêu, chúng ta thấy thiên thần đã loan báo cho thánh Giuse là trẻ Giêsu, khi sinh ra sẽ được gọi là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta (x. Mt 1,23). và trong đoạn cuối của Phúc âm Matthêu chúng ta nghe hôm nay, lời sau cùng Chúa nói trước khi về trời: “Thầy luôn ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Cùng với lời hứa này, Chúa truyền cho các tông đồ cũng như chúng ta ngày nay một sứ mạng: “Các con hãy đi rao giảng cho muôn dân, làm phép Rửa cho họ…” (Mt 28,19). Như vậy xem ra việc Chúa ở với chúng ta có liên quan đến nhiệm vụ rao giảng hay truyền giáo của chúng ta.

Nhìn lại lịch sử, chúng ta thấy có rất nhiều vĩ nhân như Pla-tông, A-rít-tô, Khổng Tử, hay Mẹ Têrêsa v.v., sau khi chết đi, đã để lại cho thế hệ sau những gia sản tinh thần vĩ đại khiến tên tuổi của họ còn lưu lại đến thiên thu; dầu thế các ngài đều không còn ở trên trần gian này nữa.

Trường hợp của Chúa Giêsu hoàn toàn khác: sau 33 năm sống kiếp con người với nhân loại, Chúa Giêsu không còn hiện diện với chúng ta với thân xác như một người nữa, nhưng với lời hứa: “Thầy luôn ở cùng các con mọi ngày”, Chúa bảo đảm một thực tại là Ngài đang sống động giữa và trong chúng ta.

Do đó sự kiện Chúa lên trời không phải là việc kết thúc sự hiện diện của Ngài giữa nhân loại, nhưng nói lên một sự hiện diện của Ngài một cách phổ quát và sâu thẳm hơn trong nhiệm thể của Ngài là Giáo Hội mà mỗi chúng ta là thành phần, như lời thánh Phaolô nói trong bài đọc thứ hai: “Thiên Chúa khiến mọi sự qui phục dưới chân Ngài, và tôn Ngài làm đầu toàn thể Hội thánh là thân thể Ngài, và là Đấng chu toàn mọi sự trong mọi người” (Eph 1,22-23). Hợp với Chúa Giêsu là Đầu, Giáo Hội đang cùng với Ngài tiếp tục sứ mạng cứu độ. Là thành phần của thân thể Chúa Kitô, chúng ta cũng có nhiệm vụ rao giảng ơn cứu độ với Giáo Hội tùy theo khả năng và hoàn cảnh của mình.

Một trong những cách truyền giáo hiệu nghiệm là làm chứng sự “HIỆN DIỆN” của Thiên Chúa nơi trần gian này qua đời sống Đức Tin của chúng ta, vì người Kitô Hữu có nghĩa là người có Chúa Kitô. Trong Thông Điệp Evangeli Nuntiandi (về truyền giáo) Đức Thánh Cha Phaolô VI nói: “Qua đời sống chứng nhân thầm lặng, người Kitô hữu sẽ khơi lên trong tâm trí những người chứng kiến đời sống của họ những câu hỏi đầy hấp lực: tại sao người Kitô hữu sống như thế? Điều gì hay ai đã thúc đẩy được họ sống như thế… Đời sống chứng nhân như thế quả là sự rao giảng Tin Mừng mạnh mẽ và hiệu nghiệm.”

Là một giáo dân trong cộng đoàn hay giáo xứ, chúng ta có rất nhiều cơ hội làm nhân chứng truyền giáo. Thí dụ, người ta thấy bà Tư luôn tránh nói hành nói xấu người khác; hay thấy ông Ba không nhậu nhẹt cờ bạc, mà còn dành thời giờ đi thăm bà con đau yếu trong cộng đoàn, giáo xứ; hay thấy cậu Hai luôn chăm chỉ học hành, không bè đảng du đãng v.v. và người ta biết bà Tư, ông Ba, cậu Hai có những đức tính tốt như vậy vì họ là người có đạo, là Kitô Hữu, thì quả thật họ là những người truyền giáo hiệu nghiệm.

Ngày nay Chúa Giêsu vẫn là Đấng Emmanuel, Ngài đang ở giữa nhân loại, tuy phần nhiều chưa nhận ra Ngài. Mỗi nguời Kitô Hữu chúng ta tự hỏi: Chúa đang ở với tôi và trong tôi, tôi phải làm gì hay sống như thế nào để những người chưa tin Chúa nhận ra và tin theo Ngài.

“Các con hãy đi giảng dậy muôn dân. Ban phép rửa nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Khuyến dậy họ tuân giữ những điều Thầy đã dậy các con. Và Thầy ở với các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:18-20) là lời cuối cùng tại thế của Chúa Kitô. Chúa trao trọng trách và buộc các tông đồ và các tín hữu phải thi hành. Chúa về trời, nhưng sứ mệnh giảng dậy vẫn liên tục và bổn phận truyền giáo không bao giờ được ngừng.

Thân xác Chúa nhẹ bay lên cao. Tay Ngài ban phúc lành cho các tín hữu. Dáng Ngài nhỏ dần và hòa biến vào không gian vô tận. Một lớp mây vô tình đóng cửa trời và vĩnh viễn phân cách Chúa với nhân gian. Các tông đồ ngây ngất nhìn trời và tâm trí các ngài như mất hút vào không gian vô định. Các ông chỉ ra khỏi cơn ngất trí khi hai thiên sứ đến thức tỉnh và đưa các ông trở về với một thực tại không mấy sáng sủa. Cô đơn, lo sợ, và hoang mang đã gom các tông đồ vào phòng kín. Cầu nguyện và chờ đợi Chúa Thánh Linh là việc làm duy nhất lúc này của các ông.

Chúa đi thật rồi! Còn đâu những giây phút thân ái! những tháng ngày dong duổi truyền giáo đó đây! những hãnh diện khi Biệt Phái im miệng! Những hân hoan trước các phép lạ! và những ngỡ ngàng trước các lời thánh! Tất cả đã thành dĩ vãng của một ngày xưa tuyệt vời ấy và kết nên một nuối tiếc khôn nguôi! Lời Ngài không được ghi chép đã là một mất mát vô vàn nghiêm trọng. Nhưng đây là ý định của Chúa Kitô, vì Lời Ngài không thể vô hồn, cô đọng và cứng ngắc trên giấy trắng mực đen. Trái lại Lời Ngài phải đi vào tâm hồn, thấm nhuyễn lòng người và trở nên linh động, trong sáng, uyển chuyển và là nguồn sống của mỗi tín hữu.

Lời Ngài phải phong phú phát triển theo trình độ hiểu biết, mức độ chiêm niệm, phản tỉnh và đức tin của mỗi người. Chúa Kitô vì thế đã dùng một hình thức khác biệt và lạ đời là Thánh Linh để Lời Ngài được ghi tâm khắc cốt và luôn là chân lý, là đường, là ánh sáng, là muối ướp của tín hữu. “Ta đã dậy các con tất cả. Nhưng Đấng Phù Trợ, Thần Khí từ Chúa Cha sai đến, sẽ dậy các con mọi điều, và sẽ gợi nhớ những gì Ta đã chỉ dậy các con. Ta ban bình an cho các con… Chớ để tâm hồn xao xuyến và đừng sợ hãi” (Jn 14,25-27).

Biến cố Chúa Lên Trời vì thế đã thành niềm vui và hy vọng cho tông đồ đoàn và các tín hữu tiên khởi. Họ vui vì từng chi tiết Chúa tiên báo đã thực hiện đầy đủ. Họ hy vọng vì tuy Chúa không còn hữu hình ở thế gian nhưng Lời Ngài cam kết “Ta ở với các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20) đang thực hiện. Tin vào Lời Chúa, các Tông đồ trở nên mạnh mẽ và kiên nhẫn chờ đợi một phép lạ mới: Chúa Thánh Linh.

Với Chúa Thánh Linh, mỗi tín hữu sẽ trở thành một Phúc Âm sống động, tinh tuyền và trong sáng. Với Chúa Thánh Linh, mỗi tín hữu sẽ mạnh dạn sống điều họ tin và loan truyền tin mừng họ sống. Với Chúa Thánh Linh, Giáo Hội và thế giới sẽ song hành bước vào một trật tự mới. Trời tái mở trên không trung trong một giải xanh vô tận. Chúa Kitô hiển trị nơi mỗi tâm hồn, trong các gia đình và trên toàn thế giới. “Chúa về trời, chúng ta vào đời” làm chứng nhân của tin mừng cứu độ và loan báo ngày mai chúng ta cũng sẽ về trời.

 

 

 

 

 

62. Lên trời: ước mơ cao đẹp – Lm. Bùi Quang Tuấn

 

Mới đây, trong những ngày đầu tiên của thiên niên kỷ, một chuyến du lịch đã làm sửng sốt nhiều người vì sự tốn kém khủng khiếp của nó: chuyến du lịch của Denis Tito, một nhà triệu phú Hoa Kỳ, người đã trả 20 triệu đô la cho tấm vé du lịch 6 ngày trên không gian.

Từ thuở bé, khi nhìn ngắm trời sao ban đêm, Tito mơ ước một ngày ngào đó mình sẽ được bay vào trời cao. Thế rồi lớn lên, ông đi học và trở thành kỹ sư làm việc cho NASA, cơ quan Hàng không Vũ trụ Quốc gia Hoa kỳ. Tito chuyên về thiết kế các đường bay thám hiểm Hỏa tinh và Kim tinh. Sau đó ông chuyển qua đầu tư và trở thành triệu phú.

Tuy làm triệu phú nhưng Tito vẫn không mất đi ước mơ bay vào vũ trụ, dầu rằng ông biết rõ giấc mơ ấy rất mong manh. Bởi vì hầu hết các phi hành gia đều xuất thân từ những phi công máy bay phản lực với nhiều tài năng và thể lực tốt, trong khi kích thước và trọng lượng cơ thể của ông lại rất khiêm tốn: cao 5″5 và nặng 140 cân Anh (pounds).

Nhưng khi cơ quan Hàng không Vũ trụ Nga chịu bán cho Titô một ghế du lịch giá 20 triệu, và sau bảy tháng trời huấn luyện không ngừng, giấc mơ của Tito đã thành sự thật. Ông phát biểu trước chuyến bay: “Chúng ta chỉ có một cuộc đời để sống. Tôi muốn thực hiện hết những giấc mơ lành mạnh và hợp pháp của mình.”

“Chúng ta chỉ có một cuộc đời để sống”, và trong cuộc đời đó có biết bao ước mơ được đan dệt. Nhưng thử hỏi ước mơ của tôi có lành mạnh và hợp pháp không? Các mơ ước của tôi tốt đẹp cao sang hay tầm thường hèn hạ? Chúng nâng tôi lên hay nhận chìm phá hủy?

Nói đến ước mơ là nói đến những mục tiêu chưa có trong hiện tại. Mục tiêu tuy nằm trong tương lai, nhưng lại chi phối đời sống con người từ ngày hôm nay. Khi một bạn trẻ mong rằng mai kia mình sẽ có tấm bằng cao học, trong hiện tại họ đã phải thức khuya dậy sớm, thu tích bao kiến thức cần thiết để một ngày nao chiếm được mảnh bằng như lòng ước mong. Thành ra, ước mơ hướng con người đến với tương lai, nhưng đã làm nên cung cách sống trong hiện tại.

Nhìn vào ngày mai để ngày hôm nay ta sống trọn vẹn hơn chính là lối đường khôn ngoan mà lễ Đức Giêsu Lên Trời muốn nói.

Không ít người bị quan niệm vật chất chi phối nên khi nói “Chúa Giêsu lên trời” người ta mau liên tưởng đến hình ảnh Ngài bốc mình khỏi mặt đất, bay vào một nơi nào đó trên trời cao. Điều này khiến cho có kẻ cứ lầm tưởng thiên đàng là một chốn nào đó trong không gian. Yuri Gagarin, phi hành gia đầu tiên của Nga, sau khi bay lên vào vũ trụ đã trở về tuyên bố: “Tôi nhìn khắp cùng không gian, nhưng chẳng thấy Chúa đâu. Vậy mà người có Đạo lại nói “Lạy Cha chúng con ở trên trời””.

Nghe thế, nhiều người bị lung lay niềm tin vì cứ tưởng Chúa ở trên trời cao xanh, bây giờ các khoa học gia lên trời và dùng cả viễn vọng kính tối tân tìm kiếm mà chẳng thấy ai, nên nghĩ là không có Chúa.

Có người lại lầm tưởng trên thiên đàng người ta vẫn sống như đời thường, tức cũng ăn uống ngủ nghỉ, cưới vợ, lấy chồng, sinh con đẻ cái. Thế nên mới có cảnh bè phái Sađucêô đặt vấn đề: một bà lấy bảy anh em, thế khi về trời bà ta là vợ của ai.

Nếu thiên đàng là một cõi vật chất nào đó trong không gian thì nó cũng sẽ suy tàn như bao vật chất khác. “Lên thiên đàng” không phải là bay lên trời xanh kia, song là bước khỏi thế giới hữu hình để đi vào mối liên hệ vô hình, không bị chi phối bởi thời gian, không gian, hay giác quan, song là yêu thương bao trùm tất cả.

Thế nên khi nói “Chúa Giêu lên trời” có nghĩa là Ngài đi trở về với mối liên hệ vô hình trong tình yêu tinh tuyền và trọn vẹn của Thiên Chúa.

Trên thế gian, khi yêu nhau con người phải dùng đến sự vật hữu hình để diễn tả và cảm nhận. Không ai thấy hình thù của tình yêu nên người ta phải bày tỏ qua cánh hoa, vòng tay, ánh mắt, nụ hôn… Nói yêu nhau mà không có hành động diễn tả thì chẳng ai có thể cảm nhận được. Ấy là vì con người bị giới hạn trong thế giới vật chất hữu hình. Thế nên, khi Thiên Chúa tỏ tình với nhân loại, Ngài cũng phải diễn tả qua những gì người ta thấy, sờ, nghe và cảm nhận được. Cao điểm của lời tỏ tình ấy là việc Thiên Chúa làm người để sống giữa con người.

Thế nhưng qua việc “lên trời”, Chúa Giêsu đã khẳng định rằng con người không bị thế giới vật chất hữu hình chi phối mãi. Sẽ đến một ngày người ta thoát khỏi thế giới đó, chấm dứt những liên hệ trong không gian và thời gian để đi vào mối liên hệ tinh tuyền của tình yêu.

Chắc hẳn ước mơ cao quí nhất của đời người là ước mơ hạnh phúc. Nhưng có hạnh phúc nào lại thiếu vắng tình yêu. Tình yêu càng tinh tuyền, hạnh phúc càng trọn vẹn. Tình yêu tinh tuyền và trọn vẹn nhất chỉ có trong vương quốc Thiên Chúa.

Trước khi về trời, Đức Giêsu mời gọi các môn đệ hãy tập sống tình yêu đó ngay trên thế gian. Ngài bảo các ông: “Các con hãy đi giảng dạy cho muôn dân”, “các con là chứng nhân của Thầy”. Nhưng giảng dạy và chứng nhân cho điều chi nếu không phải là Tình yêu Thiên Chúa ban cho con người. Lời giảng dạy chân thực nào cũng cần kèm theo đời sống chứng tá. Chắc chắn không mấy ai dám tin nhận lời dạy của các môn đệ khi thấy các ông bê bối xấu xa, vợ nọ con kia, đam mê vật chất, gian dối hận thù, tranh giành quyền lực đánh chí choé. Người ta có tin là vì các ông đã tập sống như lời Đức Giêsu căn dặn: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau.”

Thành ra việc mừng lễ Chúa Giêsu lên trời lại khai mở trong tôi một thái độ sống: sống trong cuộc đời nhưng phải hướng về quê trời. Sự hướng mình lên cao đó giúp tôi vược thắng những tình cảm thấp hèn của xác thịt, thế gian, vật chất hầu đi đến một tình yêu cao cả hơn. Đó là tình yêu chân lý, yêu sự sống, yêu những giá trị thiêng liêng, với khả năng nâng tôi lên cao hơn trong tình Chúa và tình người.

 

 

 

 

 

63. Sứ mạng truyền giáo

 

Ngày 15.11.1998, linh mục Luchiano Benedicti thuộc hội Giáo Hoàng truyền giáo đã được các phiến quân Hồi giáo ở mạn nam Phi Luật Tân trả tự do sau đúng sáu mươi tám ngày bị bắt làm con tin. Trong một cuộc phỏng vấn liền sau đó, linh mục này cho báo chí biết ngài sẽ trở lại chính nơi mình đã bị bắt cóc. Ngài khẳng định rằng: “Sứ mệnh của tôi chưa hoàn tất” (Chu Văn, Truyện Tử Tế, tập 3, Làm chứng cho tình yêu, trang 15).

Khi nói đến “Sứ mạng của tôi chưa hoàn tất”, Cha Lucchiano muốn nói đến sứ mạng làm chứng cho mọi người về tình yêu của Đức Giêsu, một tình yêu dám “chết vì người mình yêu”. Sứ mạng này không phải do tự ý Cha Luchiano muốn làm hay thích làm, nhưng là do chính Đức Giêsu trước khi về trời đã trao cho cha Luchiano, và không chỉ cho cha Luchiano mà còn cho từng người chúng ta, cho tôi và quý ông bà anh chị em khi Ngài phán “Các con hãy đi giảng dạy cho muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần, giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con”.

1. Truyền giáo, bản chất của người Kitô hữu:

Sứ mệnh này đã được trao cho từng người chúng ta vào ngày chúng ta lãnh nhận phép Rửa. Nhờ phép rửa, mỗi người chúng ta trở thành một chi thể trong Nhiệm Thể có Chúa Kitô là Đầu như lời thánh Phaolô trong bài đọc hai “Chúa khiến mọi sự quy phục dưới chân Ngài, và tôn Ngài làm Đầu toàn thể Hội Thánh là thân thể Ngài”. Vì là chi thể, mỗi người chúng ta có nhiệm vụ đóng góp phần của mình để làm cho cả thân thể ngày càng lớn lên và được sung mãn, nghĩa là làm cho Nước Chúa ngày càng được mở rộng, hay nói một cách khác, mỗi người chúng ta đều có nhiệm vụ truyền giáo. Truyền giáo là một bổn phận đòi buộc của mọi tín hữu, của những người tin vào Đức Kitô, Đấng đã chết và phục sinh để cứu độ chúng ta. Vì thế, Công đồng Vatican II trong Sắc lệnh về truyền giáo số 2 viết: “Tự bản tính, Giáo Hội lữ hành phải truyền giáo”. Khi nói tự bản tính, Công đồng muốn nhấn mạnh với từng người chúng ta rằng, nếu không truyền giáo, thì không còn là Giáo Hội, mà Giáo Hội là do từng người chúng ta, do quý ông bà anh chị em và tôi làm nên. Do đó, nếu chúng ta không truyền giáo, thì chúng ta không còn lý do tồn tại, không phải là một Kitô hữu đúng nghĩa nữa.

Chính vì muốn nhấn mạnh đến sứ mạng truyền giáo này của Giáo Hội, mà sau khi Phục Sinh, Đức Giêsu đã hẹn gặp các Tông đồ, không phải tại Giêrusalem, thủ đô và là thành thánh của người Do Thái, nhưng trên một ngọn núi tại xứ Galilê, một miền đất vẫn được coi là biểu trưng của dân ngoại (x. Mt 4,12-23). Nếu như trước đây, Ngài đã sai các môn đệ chỉ đi rao giảng cho những chiên lạc nhà Israel (x. Mt 10,5-6), thì giờ đây, sau khi Phục Sinh, cũng từ nơi miền đất Galilê ấy, và cũng từ chính Đức Giêsu, và cũng một lệnh lên đường ấy, nhưng được mở rộng hơn, không còn giới hạn: “Các con sẽ nên chứng nhân cho Thầy tại Giêusalem, trong tất cả xứ Giuđêa và Samaria, và cho đến tận cùng trái đất”.

Lệnh truyền giáo được mở rộng vì giờ đây Đức Giêsu ấy sau khi từ cõi chết sống lại, đã được Thiên Chúa “đặt Ngài ngự bên hữu mình trên trời, vượt trên mọi cấp trật, các lãnh thần, quyền thần, dũng thần, và quản thần, vượt trên mọi danh hiệu được xưng hô cả đời này lẫn đời sau. Chúa đã khiến mọi sự quy phục Người”. Vâng, chính với quyền năng ấy mà Ngài sai các môn đệ và từng người chúng ta lên đường đến với muôn dân.

Như thế, đoạn Tin mừng theo thánh Matthêu mà chúng ta vừa nghe, nhìn bên ngoài là một đoạn kết thúc, nhưng thực ra, nó chưa kết thúc, nhưng là một đoạn khởi đầu. Khởi đầu một giai đoạn mới trong đời sống Giáo Hội, giai đoạn sống và loan truyền niềm tin vào Đấng Phục Sinh. Và cũng trong tinh thần đó, Giáo Hội đã chọn ngày lễ Thăng Thiên hôm nay làm ngày “Truyền Thông Thế Giới”. Chúng ta cần thông truyền cho cả thế giới và từng người trong thế giới hôm nay biết về Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chết và sống lại và tất cả những ai tin nơi Ngài sẽ nhận được sự sống đời đời.

2. Việc truyền giáo trong thế giới hôm nay:

Khi nói đến truyền giáo, chúng ta thường nghĩ đến công việc của các nhà Thừa Sai, của các linh mục, tu sĩ, của những người ra đi đến những miền đất xa xôi nào đó, để rao giảng Tin mừng. Và như thế, vô tình, chúng ta đã tách bổn phận truyền giáo ra khỏi đời sống hàng ngày của chúng ta.

Suy nghĩ như thế là chưa đủ. Truyền giáo, trước hết, là bổn phận của từng người chúng ta và đối tượng của việc truyền giáo vừa là những người chưa tin, nhưng cũng lại là chính chúng ta.

Truyền giáo là làm cho mọi người trở thành môn đệ của Đức Kitô, làm cho Tin mừng của Đức Kitô thấm nhập vào cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Như thế, việc truyền giáo không chỉ là nói về Thiên Chúa, về Đức Kitô, nhưng quan trọng hơn, đó là dẫn đưa mọi người về với Đức Kitô bằng chính đời sống chứng tá của từng người chúng ta. Đó là điều mà chính Đấng Phục Sinh trước khi về Trời đã căn dặn các tông đồ và cũng là với tôi và quý ông bà anh chị em: “Các con sẽ nên chứng nhân cho Thầy”.

Tuy nhiên, để có thể làm chứng cho Đức Kitô, và làm cho mọi người trở thành môn đệ của Ngài, tôi thiết nghĩ, từng người chúng ta, tôi và quý ông bà anh chị em cần có những cảm nghiệm riêng tư của mình về Đức Kitô, cần nhận ra được tình yêu của Đức Kitô đang bao phủ cuộc đời mình, cần có một xác tín về sự quan phòng của Ngài trong cuộc đời chúng ta. Chúng ta cần có một cảm nghiệm về sự bình an và niềm vui của một người đang có Chúa ở cùng. Có được như thế, chúng ta mới có thể chia sẻ kinh nghiệm này với các người khác, và dạy họ tuân giữ các giới luật của Đức Giêsu, mà thực ra chỉ tóm gọn lại trong một giới luật là tình yêu. Khi nói về việc rao giảng Tin mừng trong thế giới hôm nay, thì chúng ta không thể không nhắc đến Đức Cố Giáo Hoàng Gioan – Phaolô II. Với một đức tin chân thật và một cuộc sống luôn gắn bó với Chúa trong lời cầu nguyện, Đức Thánh Cha đã không ngần ngại khi phải lên tiếng xin lỗi về những lỗi lầm của Giáo Hội trong quá khứ, nhưng cũng thật kiên quyết khi phải lên tiếng để bảo vệ các chân lý của Thiên Chúa. Ngay khi nghe tin Đức Thánh Cha vừa qua đời, Thủ Tướng nước Anh, Tony Blair đã phát biểu: “Ngay cả nếu bạn không phải Công Giáo, hay không phải là Kitô hữu, thậm chí không có chút niềm tin nào, điều mà người ta có thể thấy nơi Đức Giáo Hoàng Gioan – Phaolô II là một đức tin chân thật và sâu sắc về tinh thần, một tấm gương sáng chói cho thấy đức tin là gì”.

Như thế, để việc truyền giáo trong thế giới hôm nay thực sự trở nên sống động và hiệu quả, thì lời rao giảng của chuùng ta cần phải đi đôi với chính đời sống chứng nhân của chúng ta. Thí dụ, cùng sống trong cùng một khu xóm, nhưng nếu mọi người thấy quý ông không nhậu nhẹt say sưa, không cờ bạc, không la vợ, đánh con, nhưng biết chăm sóc gia đình chu đáo, đồng thời còn dành thời giờ để đến thăm nom, an ủi, giúp đỡ, chia sẻ với những người già yếu bệnh tật, cô đơn; hay thấy quý bà không ngồi lê đôi mách, nói hành nói xấu, nhưng biết lo lắng tần tảo, yêu thương chồng con, vui vẻ với làng xóm; hay thấy các bạn trẻ trong giáo xứ sống lành mạnh, biết kính trên nhường dưới, không đua đòi, không ăn nói tục tằn, nhưng chăm chỉ học hành, sẵn sàng giúp đỡ cha mẹ, nhiệt thành với công việc chung … thì hẳn những người xung quanh phải đặt câu hỏi: Tại sao chúng ta sống được như vậy ở giữa đời? Và khi đi tìm câu trả lời, họ sẽ tìm đến được với Đức Kitô, Đấng đã dạy chúng ta sống như vậy, thì đó quả là một lời rao giảng hiệu nghiệm nhất, và từng người chúng ta sẽ là những nhà truyền giáo đúng nghĩa nhất.

Ngày nay, Đức Giêsu vẫn là Đấng Emmanuel, Ngài vẫn đang hiện diện và ở giữa nhân loại, nhất là trong bí tích Thánh Thể. Chớ gì nhờ việc hiệp lễ, mỗi người chúng ta thực sự cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời chúng ta, để đến lượt chúng ta sống và làm cho những người chưa tin Chúa, nhận ra và tin theo Ngài. Amen.

 

 

 

 

 

64. Chứng nhân

 

Báo “Le Figaro” đã đăng tải cuộc phỏng vấn của tổng thống Nga Putin. Trong đó có câu hỏi như sau:

– Có lần ông cho biết là đã đến cầu nguyện tại mộ Chúa Giêsu ở Giêrusalem, trong tay cầm thánh giá. Nhưng ông lại là cựu sĩ quan của tình báo KGB. Ông nghĩ thế nào về sự trái ngược đó?

Ông trả lời:

– Cuộc sống được tạo nên bằng những điều trái ngược. Khi không còn những điều trái ngược thì đó là cái chết. Nước Nga không phải là một quốc gia giả tạo mà nó có một lịch sử lâu đời. Thời kỳ còn là nước Liên Xô, đã có nhiều ý đồ làm thay đổi truyền thống, nhưng vẫn không sao tách nước Nga khỏi những giá trị văn hóa của dân tộc. Nền văn hóa đó, cũng giống như cây cỏ mọc trên các đại lộ của thành phố, xuyên thủng nhựa đường để tồn tại.

Mẹ tôi là một phụ nữ theo đạo, mặc dù đi lễ nhà thờ không phải là không nguy hiểm thời Liên Xô trước đây. Mẹ tôi đã bí mật làm lễ rửa tội cho tôi tại nhà thờ. Vậy tại sao các ông lại có vẻ ngạc nhiên khi tôi cầm thánh giá cầu nguyện tại mộ Chúa Giêsu?

Trước khi về trời, Đức Giêsu đã trao cho các tông đồ sứ mạng cao cả: “Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thày đã truyền cho anh em”. Người muốn chúng ta làm chứng nhân cho Người đến tận cùng trái đất, rao giảng danh người đến tận thế.

Tổng thông Nga Putin quả là một chứng nhân anh dũng. Ông đã công khai tuyên xưng mình có đạo, tin đạo và sống theo đạo. Ông đã công bố trước báo chí: “Tôi tự hào là một người tín hữu… Niềm tin của tôi cho tôi thêm tinh thần và sự bình an trong tâm hồn”.

Khi Chúa về trời thì cũng là lúc các Tông đồ phải ra đi. Các Ngài đi tuyên xưng niềm tin, tin vào Đấng đã chết nhưng nay đã phục sinh, đã chiến thắng tử thần và nay đang được tôn vinh. Người từ Cha mà đến và lại trở về với Cha.

Khi Chúa về trời thì cũng là lúc các Tông đồ phải xuống núi. Đi xây dựng một thế giới đầy tình yêu thương, huynh đệ, công bằng, văn minh; xứng với trời mới đất mới mà Chúa Con đã cứu chuộc để hiến dâng lên Cha.

Thật là vinh dự cho chúng ta được tiếp nối các Tông đồ đi rao giảng Lời Chúa, và làm chứng nhân cho Người. Nhưng đó cũng là một thách đố nặng nề, vì còn 80% cư dân trên hành tinh này chưa đón nhận Tin mừng.

Đã qua hơn 2000 năm, nhưng dường như sứ điệp Phục sinh còn quá nhiều người chưa biết tới! Phải chăng chúng ta quên rằng Chúa về trời nhưng Người vẫn hiện diện rất sống động giữa chúng ta. Muốn rao giảng Đức Kitô cho thế giới, trước hết chúng ta phải đưa Người vào chính cuộc sống của mình; sau đó, lời rao giảng về Người mới có sức chinh phục các tâm hồn. Albert Peyriguere đã viết: “Có nhiều tông đồ nói về Đức Kitô, nhưng Người lại muốn có những tông đồ quyết sống vì Người”.

Con người thời nay thích nghe các chứng nhân hơn là các bậc thầy, cũng như họ xác tín vào điều đã trông thấy tận mắt hơn là chỉ được đọc lướt qua. Họ không thích chúng ta chỉ làm chứng bằng lời nói, nhưng là bằng chính cuộc sống xả thân, phục vụ và yêu thương. Babin đã nói một câu đầy sắc bén: “Người ta chỉ có thể tin vào Đức Kitô, khi họ tin vào tình yêu của những kẻ loan báo Người”.

 

 

 

 

 

65. Đời thường

 

Hôm nay chúng ta mừng lễ Chúa Giêsu về trời, tức là mừng biến cố Chúa ngự về thiên đàng cùng với Thiên Chúa Cha, sau thời gian Ngài sinh sống với chúng ta ở trần gian này trong bản tính nhân loại của Ngài. Đối với những người chỉ có óc phê bình thực nghiệm thì đây là một biến cố hoang đường, một câu chuyện giả tưởng, một hình ảnh ngây ngô của một thời đại mà trái đất được coi là một mặt phẳng rộng lớn, giới hạn ở bốn chung quanh mà Thiên Chúa đã đặt trên nền tảng vững chắc giữa đại dương bao la, còn bầu trời là một vòm cao ngất, bên trên được cấu tạo bằng vật chất cứng như xi măng cốt sắt. Mặt trời, mặt trăng là những vật thể sáng di chuyển dưới vòm trời như đen soi sáng mặt đất, còn các vì sao chỉ là những cửa sổ của bầu trời sáng láng bên trên, qua các cửa sổ đó, các thiên thần có thể trông xem nhìn ngắm trần gian.

Vì óc phê bình thực nghiệm, một phi hành gia vô thần trong những năm đầu tiên con người thử nghiệm bay vào vũ trụ, sau khi bay quanh quỹ đạo của trái đất và trở về an toàn, anh ta đã tuyên bố như sau: “Tôi đã bay lên trời, nhưng tôi đã không gặp Chúa cũng không thấy thiên đàng đâu cả”.

Tạ ơn Chúa, Nước Trời không thuộc về vũ trụ vật chất này, chứ nếu Nước Trời chiếm một chỗ nào đó trong không gian này, có lẽ Thiên Chúa và các triều thần thánh của Người phải nghĩ đến chuyện di cư tị nạn, bởi vì con người với chương trình chiến tranh hành tinh chắc chắn sẽ đem đạn súng đến dày xéo quê hương của Đấng Tối cao.

Để diễn tả biến cố Chúa Giêsu về trời, các Phúc âm ghi lại rất đơn sơ. Như thế có nghĩa là một sự nâng cao lên cùng Thiên Chúa trong bản tính nhân loại của Chúa Giêsu để con người thấy rằng đó là mẫu mực để ngày kia sẽ về cùng Thiên Chúa như vậy.

Thật thế, với sự Nhập Thể Chúa Giêsu là gương mẫu là lý tưởng của đời sống con người, để từ nay Thiên Chúa Chúa yêu thương loài người điều Ngài quí mến nơi Con Một của Ngài. Chính nhờ đời sống của Chúa Giêsu nơi trần gian mà đời sống con người chúng ta được thánh hóa. Nhờ sự chết và sự Phục sinh của Chúa Giêsu, chúng ta hy vọng được sống đời đời sau khi con người rời bỏ cuộc sống trần thế này. Nhờ sự lên trời của Chúa Giêsu, con người tìm thấy cửa thiên đàng mở rộng. Chính vì niềm tin đó mà Giáo Hội trong kinh Tiền tụng I của lễ Thăng Thiên tuyên xưng rằng: “Ngài lên trời không phải để lìa xa chúng ta là những kẻ yếu đuối nhưng vì là Đầu và là Thủ Lãnh của chúng ta, nên Người lên trước để chúng ta là những chi thể của Ngài vẫn một lòng tin tưởng cũng sẽ được lên theo”.

Để theo Đức Kitô, Đấng đã về cùng Thiên Chúa Cha, chúng ta phải bắt đầu ngay từ bây giờ trong đời sống này là biến đổi con người chúng ta nên giống Chúa Giêsu. Chúng ta phải chuẩn bị cho sự lên trời của mình không phải chỉ bằng cách đứng nhìn về trời như những người Galilêa xưa, mà phải bằng cách ôm lấy đời sống của mình như Chúa đã an bài cho đến hơi thở cuối cùng trong Chúa.

Người ta kể lại rằng, khi xưa có hai vị khách nọ đọc được trong thủ bản cổ một đoạn sách chép như sau: “Ở thế gian này có một nơi mà trời và đất gặp nhau”. Hai vị nghĩ rằng: Có lẽ chân trời là chỗ ở phía trước kia và nếu mình tìm gặp được thì chỉ cần gõ cửa là có thể vào được Nước Trời nhà của Thiên Chúa. Và ý tưởng đó đã thúc đẩy hai vị ra đi tìm cửa thiên đàng. Cuối cùng hai vị tìm được cánh cửa mình mong muốn ước ao đó. Vô cùng phấn khởi, hai vị gõ mạnh vào cửa, cánh cửa mở ra, hai vị bước vào và vô cùng bỡ ngỡ, hai vị nhận ra chính đây là nhà của mình. Sau những phút ngỡ ngàng, hai vị hiểu ra ngay rằng, nơi trời và đất gặp nhau chính là nơi mình đang sống, nơi đó tình thương Chúa bao trùm lấy cuộc đòi mình, ơn Chúa tuôn đổ dồi dào trên đời sống mình. Nơi đó sức thánh hóa và công nghiệp của Chúa Cứu Thế đang trào dâng trong lòng mình như nhựa cây cuồn cuộn trong thân cây để giúp mình càng ngày càng xứng đáng như công dân Nước Trời hơn.

Vậy mừng lễ Chúa Giêsu Thăng Thiên hôm nay, chúng ta không cần nhìn đâu xa trên trời, không cần tìm một niềm tin xa xôi để khám phá ra sự hiện diện của Thiên Chúa. Chính hằng ngày chúng ta chu toàn bổn phận Chúa trao phó cho mình đó là nơi gặp gỡ giữa trời và đất, là nơi con người gặp Chúa và Chúa đang nắm tay hướng dẫn mình đi. Và Đức Kitô sống lại về trời không phải trở thành Đấng đứng ở ngoài trái đất, là cửa Nước Trời. Cho nên mừng lễ Chúa Giêsu Thăng Thiên hôm nay không phải chúng ta giã biệt Ngài mà chính là chúng ta mừng Ngài là Đấng Cứu Thế đã hoàn tất công cuộc cứu chuộc để con người trông vào đời sống của Ngài mà cố gắng rập khuôn đời sống của mình.

Vì thế, biến cố Chúa Giêsu về trời không phải là một kết thúc mà là bắt đầu một cuộc sống mới. Các tông đồ bắt đầu rao giảng khắp mọi nơi, và con người bắt đầu cải tà qui chánh trở về con đường Chúa Giêsu đã đi và dạy chúng ta cùng đi để hưởng nhờ ơn cứu chuộc. Hôm nay chúng ta cùng cầu nguyện cho nhau biết sống cuộc sống hằng ngày của chúng ta theo thánh ý Chúa cách trọn vẹn.

 

 

 

 

 

66. Chứng nhân Nước Trời

 

Có rất nhiều người lầm tưởng thiên đàng là một khoảng không gian nào đó trên cao kia. Sự lầm tưởng này đã làm phát sinh nhiều hậu quả không hay: người có đạo thì bị lung lay bối rối khi có một vài khoa học gia nói rằng: Chẳng thấy Chúa đâu trên kia cả; người không có đạo thì nghĩ: Có lẽ nước trời là một thế giới nằm đâu đó trong không gian, với những sinh hoạt na ná giống như trần gian này. Thế nên đã có câu chuyện khôi hài do một cha thừa sai kể lại: Sau một tuần giảng đại phúc thật sốt sắng tại một vùng đất nọ, các cha khuyên nhủ được một ông cụ ngoại đạo gia nhập đoàn chiên Chúa. Thấy cụ bà chưa có dấu hiệu nào khả quan, nên các cha tích cực khuyên bảo: “Ông đã theo đạo rồi, bà cũng nên theo đi thôi, để sau khi chết còn lên thiên đàng gặp lại nhau nữa chứ.” Nghe thế cụ bà hốt hoảng trả lời, “Không được đâu, suốt đời ổng đã hành hạ tui đủ thứ. Mai mốt trên thiên đàng còn phải gặp lại mặt ổng nữa thì tui chết mất.”

Thiên đàng sẽ chỉ là một con số “không”, chẳng có chút gì hấp dẫn nếu như nơi đó không có hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc chính là hoa trái của yêu thương, mà yêu thương thì phát xuất từ con tim, nghĩa là từ bên trong. Bên trong chứ không phải bên ngoài hay bên trên kia.

Nước trời không ở bên ngoài hay bên trên, cũng không phải là một nơi nào đó trong không gian. Nước trời phải được hiểu như là một thực tại phía trong: trong lòng tôi, trong nơi tôi đang cư ngụ hay làm việc, và trong tầm với của gia đình.

Cho nên nói Chúa Giêsu lên trời cũng chính là nói Chúa Giêsu đi vào trong đời ta, nhà ta, lòng ta, gia đình ta. Có như thế thì lời “Ta sẽ ở cùng các ngươi mọi ngày cho đến tận thế” mới đong đầy ý nghĩa của nó. Chứ nếu như Ngài lên trời cao xanh hay Ngài ở nơi thế giới ngoài kia thì làm sao hiểu là Ngài đang ở cùng chúng ta được. Và vì Chúa Giêsu đã đi sâu vào đời ta, nhà ta, nên Ngài đã truyền cho chúng ta phải làm chứng cho sự hiện diện của Ngài.

Chứng tá cho Đức Giêsu là làm sao vẽ được dung mạo của Ngài ngay trên cuộc sống của mình, làm sao cho người khác cảm nhận được sự hiện diện của Ngài ngay trong môi trường mình đang sinh hoạt, diễn tả được hình ảnh của Nước Trời đang ở giữa và ở trong chúng ta.

Có nhà hoạ sĩ kia cứ mãi mơ ước trong đời mình sẽ vẽ được một bức tranh đẹp nhất thế giới. Nhưng anh ta không biết phải vẽ thứ gì để bức tranh sẽ có được hình ảnh, màu sắc, và nội dung sâu đậm đáng trở thành bức tranh tuyệt vời nhất trần gian.

Chàng đã tìm hỏi với một linh mục về điều gì đẹp và ý nghĩa nhất. Vị linh mục trả lời ngay: “Niềm tin. Niềm tin là số một, niềm tin sẽ nâng cao giá trị con người. Niềm tin sẽ chữa lành và biến đổi mọi sự nên tuyệt vời.”

Chàng hoạ sĩ cũng đặt câu hỏi tương tự với một cô gái đang bước lên xe hoa về nhà chồng. Cô gái trả lời: “Trên thế gian này không có gì đẹp bằng tình yêu. Tình yêu là hơi thở, là sức sống, là hạnh phúc, là tất cả. Tình yêu biến cay đắng thành ngọt ngào, đưa tiếng cười vào nơi than khóc, đổi nghèo hèn tầm thường thành phú quí cao sang. Tình yêu thật tuyệt vời.”

Cuối cùng người hoạ sĩ gặp một anh thương binh vừa trở về từ tiền phương. Anh lính đã trả lời: “Hoà bình là điều đẹp nhất trần gian. Ở đâu có chiến tranh, ở đó có đổ nát, bất hạnh, khổ đau. Ở đâu có hoà bình, ở đó có cái đẹp.”

Ba câu nói của ba con người – vị linh mục, cô gái sắp lấy chồng và anh thương binh trẻ – đã làm cho người hoạ sĩ phân vân: không biết phải làm thế nào để trên bức tranh của mình có thể diễn tả cùng một lúc niềm tin, tình yêu, và hoà bình.

Đang suy nghĩ anh về đến nhà lúc nào không hay. Mấy đứa con anh ùa ra đón bố. Anh nhận thấy niềm tin trong ánh mắt của các con. Anh cũng cảm được tình yêu trong chiếc hôn chân thành của người vợ. Niềm tin của con cái và tình yêu của người vợ làm cho tâm hồn anh ta ấm áp và an bình lạ thường. Thế rồi một ý tưởng chợt loé lên trong đầu. Anh vội ngồi xuống khởi công vẽ tranh, và sau khi hoàn thành tác phẩm đẹp nhất thế gian, anh đã đặt tên cho nó: “Mái Ấm Gia Đình.”

Mái ấm gia đình chính là hình ảnh xinh đẹp và sống động nhất mà người ta có thể vẽ được về Nước Trời hay Thiên đàng ngay trên thế gian này. Mái ấm gia đình cũng sẽ là lời chứng tá hùng hồn nhất cho sự hiện diện của Đức Giêsu giữa dương gian.

Bạn chưa cần phải đi đâu xa để làm chứng tá về niềm tin; bạn cũng chưa thể đi đến mút cùng trái đất để giảng về tình yêu và an bình của trời cao. Nhưng bạn có thể làm chứng tá cho Đức Giêsu ngay trong gia đình của mình.

Trước mỗi hành động, lời nói, giao tế, cư xử, hãy tự hỏi: tôi có làm mất niềm tin nơi người bạn đời hay nơi con cái của tôi không? Tôi đang xây dựng tình thương và an bình hay đang sống phản chứng trước mặt con cái và bạn đời? Tôi có đang cố gắng vẽ lên chân dung của Thiên Chúa qua việc hy sinh để kiến tạo một mái ấm gia đình không?

Những dòng chữ sau đây rất đáng cho bạn và tôi tâm niệm để ý thức hơn khi vẽ lên cho đời những “mái ấm”:

“Mái ấm là môi trường và là thánh đường đầu tiên cho tuổi thơ học thế nào là điều ngay, thế nào là điều thiện, thế nào là lòng tử tế.

Đó là nơi tuổi thơ tìm về để được an ủi vỗ về mỗi khi đau khổ, bệnh tật.

Đó là nơi chia sẻ niềm vui và xoa dịu buồn phiền.

Đó là nơi cha mẹ được kính trọng và yêu thương…

Đó là nơi mà những món ăn đơn sơ cũng trở thành cao lương mỹ vị, bởi vì là giá của mồ hôi nước mắt.

Đó là nơi mà tiền bạc không quí bằng tình yêu.

Và đó là nơi mà ngay cả nước sôi cũng reo lên niềm hạnh phúc.

Mái ấm gia đình. Đó là nơi được Thiên Chúa chúc phúc.”

Ước gì Lễ Chúa Giêsu Lên Trời nhắc chúng ta về một Nước Trời tại thế–mái ấm gia đình–để sau Lễ Lên Trời này, bạn và tôi cũng sẽ theo bước chân của các môn đệ, lên đường làm chứng tá cho Đức Kitô, chứng tá ngay trong gia đình, chứng tá bằng việc xây dựng một mái ấm. Dù rằng cuộc đời của chứng nhân nào cũng không tránh khỏi đổ mồ hôi hay đổ máu, không tránh khỏi những hiểm nguy như chiên đi giữa sói rừng, không tránh khỏi khốn khổ như một người tôi tớ, nhưng đó là giá cần trả để có được một bức tranh tuyệt đẹp của niềm tin, yêu thương, và an bình hạnh phúc.

 

 

 

 

 

67. Hộ chiếu

 

Chuyện kể rằng: có một bà lão qua đời, suốt cuộc sống bà chẳng làm được việc thiện nào. Vì thế, Satan chộp lấy bà ném vào biển lửa. Nhưng thiên thần bản mệnh của bà không chịu thua. Ngài suy nghĩ một lúc lâu và nói: “Lạy Chúa, có một lần bà đã đào một củ hành nhỏ trong vườn cho người ăn xin”.

Chúa nói: “Được, vậy con hãy lấy củ hành nhỏ tương tự, thả xuống biển lửa và kéo bà lên bằng củ hành nhỏ đó. Nếu con thành công, bà ấy sẽ được cứu”.

Thiên thần cẩn thận kéo bà lên. Nhưng khi những người khác thấy bà bắt đầu đi lên, họ liền bám theo bà. Bà vội vàng đá tung họ ra và la lên: “Chỉ có tôi là được cứu bằng củ hành này, nó thuộc về tôi chứ đâu có thuộc về các người”.

Lúc đó, củ hành bị tách ra và bà rơi trở lại biển lửa. Thiên thần quay mặt đi khóc cho số phận của một con người quá ích kỷ.

Chúa về trời và Người muốn cho các con cái cũng được lên trời với Người. Vì Người đã cầu xin Cha: “Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con”.

Nhưng muốn được lên trời cũng phải có hộ chiếu của nước trời. Hộ chiếu đó chính là tình yêu thương. Trước khi về trời, Đức Giêsu đã truyền cho các môn đệ: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em”. Mọi điều Thầy truyền chỉ tóm lại có một điều là “Mến Chúa yêu người”. Vì thế, tình yêu thương chính là thước đo, là điều kiện, là bảo đảm cho người tín hữu được lên trời với Chúa.

Chúng ta tưởng trời ở thật xa nhưng thực ra lại rất gần. Đức Giêsu nói: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”. Ở đâu có Chúa là ở đấy có thiên đàng, vậy trời há không ở trong lòng chúng ta đấy ư? Trời ở ngay trong trái tim chúng ta, những trái tim đầy ắp yêu thương, ngập tràn Thiên Chúa. Trời ở ngay trong thế giới này, nếu đó là một thế giới yêu thương và hòa bình, chia sẻ và tha thứ cho nhau.

Chúng ta tưởng mình chỉ được lên trời sau cuộc sống này, nhưng thực ra thì chúng ta đang vui hưởng hạnh phúc nước trời. Hạnh phúc nước trời là khi chúng ta không màng lợi danh lạc thú, cũng chẳng ngại ngần trước khổ đau và nỗi chết. Nhưng luôn biết chia sẻ cho anh em, xả thân phục vụ hết mọi người. Vì phục vụ là tên gọi của tình yêu.

Lạy Chúa, con đường về trời là con đường yêu thương. Xin chỉ cho chúng con biết đường về trời bằng cách sống hiến thân, phục vụ và trao ban. Xin đừng để những truân chuyên nơi cuộc sống này làm chúng con quên mất trời cao. Xin đừng để những quyến rũ của trần gian cản lối chúng con về trời. Ước gì qua cuộc sống chúng con mọi người sẽ nhận ra con đường về trời.

 

 

 

 

 

68. Hãy làm trở thành môn đệ

(Giải thích bản văn Tin Mừng Mt 28,16-20 của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)

 

Giải thích

Đoạn 28,16-20 là cao điểm của chương 28, bàn về sự sống lại của Chúa Giêsu. Thiên sứ đã cho các phụ nữ thấy mồ trống, và loan báo sự sống lại của Chúa Giêsu. Đồng thời thiên sứ còn bảo họ đi loan báo tin nầy cho các môn đệ của Người, và nói cho họ biết cuộc hẹn tại Galilêa (28,1-7). Trên đường về, Chúa Giêsu đã hiện ra cho các phụ nữ và tái xác nhận cuộc gặp gỡ với các môn đệ của Người (28,8-10). Đoạn đang bàn đây nói đến cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và các môn đệ của Người tại Galilêa, và Người ban cho họ một sứ mạng. Có thể phân chia đoạn thành hai phần: – Tường thuật việc các môn đệ đến gặp Chúa Giêsu (28,16-18a); – Lời Chúa Giêsu ngỏ với các môn đệ (28, 18b-20).

Các môn đệ đến gặp Chúa Giêsu (28,16-18a)

Đoạn nầy mô tả chủ yếu hành động của các môn đệ. Theo lời nhắn bảo của Chúa Giêsu qua các phụ nữ, các ông đến Galilêa (c. 16). “Nhóm mười một môn đệ” làm chúng ta nghĩ đến “nhóm mười hai môn đệ” (10,1; 11,1). Họ được Chúa tuyển chọn và được gần gũi với Người. Người giáo huấn họ riêng về việc truyền giáo (10,1-11,1) và cho họ tham dự bữa Tiệc ly (26,20). Họ không còn là nhóm mười hai nữa, mà là mười một, do thiếu Giuđa Iscariốt (26,14.47). Galilêa là nơi Chúa Giêsu chỉ định để gặp họ (28,10). Người đã quyết định và nói trước điều nầy với (26,32). Từ thời điểm ở vườn Cây Dầu cho đến lúc ấy, các môn đệ đã không thấy Chúa Giêsu. Họ đi cả nhóm lên Galilêa lần nầy vì hy vọng được thấy lại Người.

Về lại Galilêa gặp Chúa Giêsu phục sinh gợi cho các môn đệ nhớ lại tất cả những hoạt động Chúa Giêsu đã thực hiện tại đó. Họ đã luôn bên cạnh Người trước khi Người lên Giêrusalem (4,12-16,20). Họ vừa là môn đệ, vừa là những chứng nhân về lời giảng dạy và các việc Người làm. Khi thấy lại Chúa Giêsu trong vinh quang phục sinh, chắc chắn họ nhớ lại tất cả những điều Người đã nói về cuộc khổ nạn, cái chết và sự sống lại của Người (16,21; 17,22tt; 20,17-19); do đó họ có thêm kinh nghiệm về Chúa Giêsu trong giai đoạn khổ nạn phục sinh mà họ đã từng phản đối và chạy trốn (x. 16,22tt; 20,20-23). Vậy trước khi được sai đi, họ đã là những người có kinh nghiệm trọn vẹn và đầy đủ về Chúa Giêsu.

Chi tiết “trên một ngọn núi”, eis to horos, được thêm vào ở câu nầy so với những lời Chúa Giêsu nói qua các phụ nữ. Chúa Giêsu đã khởi đầu sứ vụ bằng bài giảng ở trên núi (5,1), và các môn đệ đã có mặt tại đó. Tiếp theo là các hoạt động khác của Người, và luôn luôn tại “một ngọn núi” ở Galilêa (x. 8,1; 14,23; 15,29; 28,16). Bây giờ, lúc Người sắp kết thúc thời gian tại thế và chuẩn bị về với Chúa Cha, Người gọi các môn đệ của Người lên núi tại Galilêa nầy để chuyển giao sứ mạng cho họ. Như thế, họ được đặt trong tương quan mật thiết với Người. Ơn gọi và sứ mạng của họ đều phát xuất từ ý muốn của Người.

Thấy Chúa Giêsu, các môn đệ phục lạy Người. Cử chỉ nầy ám chỉ là nhận biết Người chính là Đức Giêsu, và Người đã sống lại từ cõi chết. Theo sau hành vi nầy là “họ nghi ngờ” (c. 17b). Mathêô đã không nói họ nghi ngờ điều gì, mà chỉ ghi nhận sự kiện. Theo ngữ pháp “oi de” có thể chỉ “một số” trong các môn đệ, và cũng có thể hiểu là “họ”, chỉ các môn đệ (x. 2,5; 4,20, 22; 14,17, 33; 15,34; 16,7, 14; 20,5, 31; 21,25; 22,19; 26,15; 26,67; 27,4. 21. 23; 28,15). Động từ “distazò”, “nghi ngờ”, xem ra đối nghịch với việc phục lạy, vì việc nầy hàm ý là các môn đệ đã tin và nhận biết Chúa Giêsu sống lại. Động từ distazò chỉ xuất hiện hai lần trong Tân ước và cả hai nằm trong tin mừng Matthêô (14,31; 28,17). Thì aorist của động từ cho biết động từ hàm ý một hành động qua mau trong quá khứ, chứ không kéo dài như một tình trạng. Phêrô bị trách “nghi ngờ” vì ông đã không có đủ một thái độ tin tưởng thích đáng với điều ông đang làm. Các môn đệ cũng thế. Họ nghi ngờ vì chưa có thể đồng hoá ngay niềm tin vào Chúa Giêsu sống lại. Sự kiện xảy ra quá nhanh chóng vượt quá suy tưởng của họ. Như thế, ý nghĩa của động từ không liên quan trực tiếp đến lòng tin như động từ “apisteò”, “không có niềm tin” (Mc 16,11; Lc 24,11). Nó chỉ một sự không chắc chắn chóng qua về một biến cố xảy ra với họ mà trước đó họ không thể nghĩ tới. “Thờ lạy” và “nghi ngờ” vẫn có thể đi đôi với nhau, dù thứ tự có thay đổi (14,31.33 và 28,17), khi mà con người vẫn còn “ít lòng tin” (14,31). Chính trong tình trạng nầy mà Chúa Giêsu có những lời khuyến dụ ngỏ với họ trong những câu tiếp theo sau (cc.18-20).

Lời Chúa Giêsu ngỏ với các môn đệ (28,18b-20)

Lời nầy gồm: mạc khải quyền hành của Người (c. 18), lệnh truyền làm mọi người thành môn đệ (c. 19a) và lời hứa ở với họ luôn mãi (20b).

Mạc khải quyền hành của Chúa Giêsu (c. 18b). Động từ “cho” ở thể thụ động ám chỉ Thiên Chúa là tác nhân. Thì aorist chỉ một sự kiện đã xảy ra; chứ không phải là một lời hứa. “Tất cả quyền hành” bao hàm trọn vẹn mọi sự trên trời dưới đất. Matthêô thuật lại một số quyền hành Người đã thực thi: giảng dạy (7,29; 21,23), tha tội (9,6), xua trừ ma qủy (10,1). Người luôn nhận Chúa Cha là nguồn xuất phát mọi quyền hành của Người (11,25; 28,18; so sánh với 4,9), và Người nhận lãnh quyền năng ấy với tư cách là Con (x. 21,37). Dân chúng cũng nhận biết điều nầy nơi Chúa Gisêu và họ ca ngợi Thiên Chúa (9,8).

Thâu nạp môn đệ (c. 19a). “Oun”, “vậy”, nối kết câu nầy với câu đi trước, và xem việc làm cho các môn đệ biết quyền năng của Người là nền tảng để Người sai các môn đệ đi. Mệnh lệnh manthèteusate, “hãy làm cho trở thành môn đệ”, có động từ ở thể phân từ aorist đi trước là “đi”, và theo sau là hai động từ ở thể phân từ hiện tại “rửa tội” và “dạy dỗ”. Việc chính là đi thâu nạp môn đệ. Điều nầy giả thiết là phải ra đi, và rửa tội và giảng dạy cho người môn đệ mới gia nhập. “Làm cho trở thành môn đệ” có gốc là “môn đệ”. “Môn đệ” (mathètès) đối lại là “thầy” (didaskalos). Thầy là người dạy (didaskein), môn đệ là người học (manthanò). Tương quan trước tiên giữa thầy và môn đệ là dạy và học. Thầy đi trước dẫn đường (x. 26,23; 28,7), và môn đệ đi theo (x. 4,20.22; 8,23; 19,27.28). Môn đệ còn được đồng hóa với số phận của thầy mình (10,24).

Chúa Giêsu là “Thầy” duy nhất. Khi đi thâu nạp môn đệ, nhóm mười một không làm điều nầy cho họ, mà cho Chúa Giêsu. “Làm cho trở thành môn đệ” là làm cho người khác trở thành người môn đệ của Chúa Giêsu như họ đang là. Đồng thời thông truyền lại cho người khác tất cả kinh nghiệm họ đã có về Người, để những người ấy cũng có một tương quan nhân vị và mật thiết như họ đang có với Người. Như thế công việc nầy vẫn còn là hiện tại. Là ngoại động từ, manthèteusate có đối tượng là panta ta ethnè “tất cả mọi dân tộc” (x. 27,57 như nội động từ). Khác với việc giới hạn trước đây, việc rao giảng chỉ dành cho dân Israel (10,24). “Ethnè”, “dân tộc”, chỉ các dân tộc ngoài Israel (x. 4,15; 6,32; 10,5-6; 15,24; 20,19). Panta được thêm vào ta ethnè để chỉ tính cách phổ quát và toàn vẹn; và chắc chắn là không loại trừ dân tộc Israel (x. Lc 24,47). Chúa Giêsu sống lại làm cho mọi lời tiên báo về việc dân ngoại được nghe lời rao giảng được thực hiện (21,43; 24,14). Hơn nữa, vì đã nhận lãnh mọi quyền năng trên trời dưới đất, quyền năng ấy phải được thể hiện khắp nơi, chứ không chỉ còn trong giới hạn dân Israel.

Sự sống lại của Chúa Giêsu đánh dấu sự chấm dứt thời gian tại thế của Người; đồng thời khai mở sứ vụ mới cho các tông đồ. Sứ vụ của họ là tiếp nối và mở rộng sứ vụ của Người đến mọi dân tộc để mọi người có thể trở nên môn đệ của Người.

 

 

 

 

 

69. Sứ mạng phổ quát – Lm PX. Vũ Phan Long, OFM

 

1.- Ngữ cảnh

Ở đây, chúng ta chỉ đề cập đến ngữ cảnh trực tiếp, đó là mộ trống với hai sứ điệp, một tích cực, một tiêu cực:

a) Sứ điệp tích cực

Sứ điệp tích cực được gửi đến trong hai thì:

– bởi sứ thần khi ngài giao phó cho các phụ nữ hai sứ mạng là làm chứng về sự Phục Sinh của Đức Giêsu và loan báo cho các môn đệ lệnh triệu tập của Đức Giêsu (28,1-8). Đây là kinh nghiệm tiêu cực về sự Phục Sinh.

– bởi chính Đức Giêsu Phục Sinh (28,9-10): Người cho các phụ nữ sống một kinh nghiệm thực hữu về sự Phục Sinh của Người và giao cho họ cùng một sứ mạng, là triệu tập các môn đệ về Galilê.

Đoạn văn Mt 28,16-20 cho hiểu rằng các phụ nữ đã chu toàn hai sứ mạng được giao: khi quy tụ về quả núi đã được chỉ định tại Galilê, các môn đệ chứng tỏ các ông đã tin vào chứng tá của các phụ nữ liên hệ đến cuộc Phục Sinh để cũng có thể tin vào lệnh triệu tập được các bà chuyển cho.

b) Sứ điệp tiêu cực

Sứ điệp tiêu cực là truyện sai lạc về Đức Giêsu, được toán lính tung ra theo trò bịp bợm của các thủ lãnh Do-thái.

Đoạn văn này nêu bật sự tương phản (c. 16: de) giữa các thủ lãnh Do-thái và toán lính một bên, và bên kia, là Đức Giêsu và các môn đệ Người, giữa sứ điệp do người Do-thái tung ra và thực tế; vậy đoạn văn này chính là một lời phi bác tin đồn thất thiệt đã được phổ biến. Đối với người Do-thái, Đức Giêsu là một xác chết, còn các môn đệ Người là những tên trộm cắp và dối trá; trong thực tế, Đức Giêsu đã chiến thắng cái chết, đã sống lại, được ban cho toàn quyền của Thiên Chúa và đảm bảo bằng sự hiện diện đầy uy lực của Người; các môn đệ Người không tìm cách đánh cắp thi hài, nhưng đã đi về Galilê, đi xa ngôi mộ, để gặp Đức Giêsu Phục Sinh. Tin Mừng sẽ đi đến với “mọi dân tộc”, chứ không như tin đồn thất thiệt kia, chỉ được loan truyền “giữa người Do-thái” mà thôi. Giáo huấn phổ quát (didaskontes) mà các môn đệ của Đức Giêsu, vị Tôn Sư tuyệt đối (didaskalos, 23,8), sẽ cống hiến cho mọi dân tộc sẽ hoàn toàn vượt xa những gì toán lính phổ biến, vì họ đã làm theo lời “các thượng tế dạy” (edidachthêsan, 28,15). Các môn đệ sẽ được che chở và nâng đỡ “cho đến tận thế”, không phải bởi một quyền bính nhân loại như quyền bính của các thượng tế, nhưng bởi uy quyền của Đấng Phục Sinh, Chúa tể vũ hoàn.

2.- Bố cục

Bản văn có thể chia thành hai phần:

1) Cuộc diện kiến của Nhóm Mười Một với Đức Giêsu (28,16-17);

2) Các lời nói của Đức Giêsu (28,18-20):

a) Mạc khải về quyền năng (18),

b) Lệnh truyền giáo (19-20a),

c) Hứa hiện diện hỗ trợ (20b).

3.- Vài điểm chú giải

– Về phần mười một môn đệ (16): Ở đầu c. 16 này, có tiêu từ de (“và”, “rồi”; “nhưng”; “về phần”) hẳn là để nêu lên sự tương phản giữa báo cáo sai lạc của toán lính với sự thật về cuộc hiện ra của Đức Giêsu với mười một môn đệ.

– Mười một môn đệ (16): Trong Mt, Đức Giêsu có một nhóm các “môn đệ” (mathêtês: Mt 73 lần, Mc 46 lần, Lc 37 lần, Ga 78 lần. Có 65 trong Mt ở số phức) luôn luôn được xác định bằng quán từ (article) hoi (x. 5,1; 8,21; 9,10; 12,1; 13,10; 14,15; 15,2; 16,5; 28,7). Điều này khẳng định rằng họ được biết rõ trong tư cách đó và họ không phải là nhóm “bảy mươi hai” của Lc (vả lại, Lc không gán cho nhóm “bảy mươi hai” cái tên “môn đệ”, mà là “bảy mươi hai người khác”, x. Lc 10,1). Các ông là những người sống hiệp thông với Thầy mình (“einai meta” [“ở với”]), tháp tùng Thầy trong sứ vụ của Người (9,19), cùng làm việc với Người để phục vụ các đám đông (9,36-37), được nêu ra làm gương cho các đám đông và được giới thiệu như là gia đình đích thực của Đức Giêsu (12,46-50). Mt xác định rằng các ông là “mười hai môn đệ” (10,1; 11,1; hay là “Nhóm Mười Hai”: 20,17; 26,20; ở c. 10,2, các ông cũng được gọi là “mười hai tông đồ” cùng với tên của các ông).

Con số “mười một” nhắc đến sự vắng mặt thê thảm của Giuđa, “một trong Nhóm Mười Hai” (26,14.47; x. 10,2.4): sự hư hỏng đã xảy ra ngay trong nhóm, tức là đây không phải là một nhóm toàn vẹn; với lại, tất cả các ông khác đều đã té ngã (x. hoi mathêtai: 26,56b; Phêrô: 26,69-75). Nhưng sứ điệp mà Đức Giêsu ban cho các ông nhờ trung gian các phụ nữ đã là một dấu cho thấy Người tha thứ và hòa giải; Người gọi các ông là “anh em của Thầy” (28,10). Bây giờ, cuộc hành trình của các ông tiến về với Đức Giêsu và sự hiện diện của các ông tại nơi Người đã chỉ định là một dấu chứng tỏ các ông đón nhận sự tha thứ và hòa giải.

– ngọn núi (16): To oros (danh từ với quán từ) khẳng định rằng chính là trên một quả núi mà Đức Giêsu và các môn đệ đã biết, nhưng không cung cấp một xác định nào khác.

– Bái lạy (17): Mt chỉ dùng động từ proskyneô (Mt 13 lần; Mc 2 lần; Lc 2 lần) cho những ai đã nhìn nhận phẩm giá của Đức Giêsu và diễn tả sự nhìn nhận đó ra bằng hành vi này (x. các hiền sĩ: 2,2.8.11; người phong cùi: 8,2; ông trưởng hội đường: 9,18; các môn đệ trên thuyền: 14,33; bà Canaan: 15,25; mẹ các con ông Dêbêđê: 20,20; các phụ nữ tại mồ: 28,9).

Nhưng có mấy ông lại hoài nghi (17): Trong Tân Ước, động từ distazein chỉ xuất hiện ở 14,31 (Phêrô đi trên mặt nước) và ở đây. Động từ này nhắc đến những gì Tin Mừng đã nói biết bao lần về phẩm chất của đức tin của các môn đệ: ở 6,30; 8,26-27; 14,31; 16,8; 17,20 (x. câu 17). Mt là tác giả duy nhất ghi nhận “đức tin lớn (megalê hê pistis)” của bà Canaan (15,28). Cùng với đề tài đức tin, Mt trình bày đề tài sự hiểu biết (synienai) và không hiểu biết: ở 15,16; x. 16,12; 17,13.

Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất (18): Động từ edothê ở thì aorist thái bị động trần thuật (passive indicative): Thì aorist nhắm đến một sự kiện đã hoàn tất, chứ không phải là một lời hứa hay một niềm hy vọng; hẳn là ta có thể nghĩ đến một quan hệ mặc nhiên với sự phục sinh. Thái bị động đây là một thái bị động thay tên minh nhiên của Thiên Chúa. Hơn nữa, cách thức khẳng định cách tuyệt đối như thế gợi ý rằng Thiên Chúa là tác giả (so sánh c. 18b với 11,25).

Đề tài exousia cũng là một đề tài quan trọng của Mt (9 lần: 7,29; 8,9; 9,6; 9,8; 10,1; 21,23; 21,24; 21,27; 28,18). Từ ngữ có nghĩa là “quyền hành”, “uy quyền”, “quyền lợi”, “khả năng”, là những đặc tính của giáo huấn và cách hành động của Đức Giêsu: phân đoạn 5,1–7,29 (Bài Giảng trên núi) giới thiệu Đức Giêsu như là “Đấng Mêsia có uy quyền trong lời nói” (x. 7,28), còn phân đoạn 8,1–9,38 giới thiệu Người như là “Đấng Mêsia có uy quyền trong hành động” (x. 11,2) (Đức Giêsu khẳng định rằng Người có exousia này: 9,6; dân chúng: 7,29; viên sĩ quan: 8,9; khi thấy người bại liệt được chữa lành, dân chúng tôn vinh Thiên Chúa: 9,8; Đức Giêsu nói về quyền của Người và từ chối cho biết nguồn gốc của quyền ấy: 21,24.27). Câu 28,18 là như tổng hợp về đề tài này và là một câu trả lời cho nhà chức trách tôn giáo: Đức Giêsu không phải là một người mất trí hay một kẻ tiếm quyền; Người đã nhận được quyền bính này trọn vẹn, trên toàn vũ trụ, từ Thiên Chúa (chứ không phải từ tay ma quỉ, x. 9,34). Ở đây, điều được khẳng định là quyền (exousia) đã được Thiên Chúa ban.

hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ (19): Trong các Tin Mừng, động từ mathêteuein chỉ được sử dụng ở Mt (13,52; 27,57; 28,19) với hai nghĩa: 1) nghĩa nội động (intransitive): trở thành môn đệ (13,52; 27,57); 2) nghĩa ngoại động (transitive): làm thành môn đệ; làm cho ai thành môn đệ (28,19; x. Cv 14,21). Đây không phải là chỉ trình bày, cống hiến sứ điệp, loan báo Tin Mừng, nhưng là kiến tạo một quan hệ chặt chẽ và riêng tư. Kiểu mẫu của quan hệ này chính là quan hệ của Đức Giêsu lịch sử với các môn đệ đã được Người kêu gọi (môn đệ đi theo [akolouthein, x. 4,20.22; 8,23; 19,27.28], Thầy đi trước [proagein, x. 26,32; 28,7]).

nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần (19): Công thức “nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần” một công thức phép rửa. Qua công thức này, ta găp thực tại chúng ta có trong các Tin Mừng Nhất Lãm: đó là quan hệ chặt chẽ giữa đời sống và công trình của Đức Giêsu với Cha Người trong Chúa Thánh Thần. Cựu Ước biết đến vị Thiên Chúa tạo thành trời đất, đây là vị Thiên Chúa mà họ đến trình diện trong tư cách là các thọ tạo hoàn toàn khác với Ngài và không có quyền đi vào đối thoại với Ngài. Đức Giêsu loan báo vị Thiên Chúa có một người đối thoại trong bình diện thần linh. Chúa Con ở trước mặt Chúa Cha, và hai Đấng được liên kết với nhau, biết nhau, hiểu nhau và yêu thương nhau trọn vẹn và hoàn hảo nhờ Chúa Thánh Thần. Bí tích Rửa tội nhận chìm chúng ta vào trong vùng quyền lực của vị Thiên Chúa này.

– Này đây Thầy (20): Mt chuộng thức mệnh lệnh idou này. Nên ghi nhận là công thức long trọng idou egơ luôn luôn có quan hệ với ý tưởng sứ mạng: 10,16; 23,34 et 28,20.

– Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế (20): Khi nói minh nhiên pasas tas hêmeras (tất cả các ngày), Đức Giêsu khẳng định Người sẽ ở thường trực và trọn vẹn với các môn đệ. Heôs tês synteleias tou aiônos (cho đến tận thế) có nghĩa mục tiêu, nơi đến: nhắm đến tận thế. Từ ngữ synteleia (hoàn tất; kết cục) luôn được sử dụng với aiôn có nghĩa là “thời gian hiện tại”, “tình trạng hiện nay của tạo thành” (x. 13,22; 12,31). Synteleia tou aiônos có nghĩa là “khi kết thúc thời gian của thế giới này”. Người ta chờ đợi một kết thúc thời gian này với việc Đức Giêsu ngự đến (x. 24,3).

4.- Ý nghĩa của bản văn

* Cuộc diện kiến của Nhóm Mười Một với Đức Giêsu (16-17)

Phần thứ nhất kể lại các hành vi của các môn đệ trong quá khứ (aorist) (đi tới, c. 16; bái lạy, c. 17; hoài nghi, c. 17). Bản văn cũng ghi nhận một hành vi của Đức Giêsu, “đã truyền” (etaxato, c. 16), nhưng chắc chắn đây là một hành vi Đức Giêsu đã làm trước các hoạt động của các môn đệ được kể lại trong đoạn văn này; hành vi này lại chỉ là một mệnh lệnh, một hành vi nói. Ngược lại, trong các bản văn khác về hiện ra, Đức Giêsu hành động cùng nhịp với những người có mặt, chẳng hạn, ở Mt 28,9, Đức Giêsu đến gặp (hypêntêsen) các bà. Phải chờ đến c. 18 để gặp được một hành vi của Đức Giêsu, nhưng cả hành vi này cũng chỉ là một hành vi nói (elalêsen).

Các nhân vật chính của phần thứ nhất là hoi hendêka mathêtai, “mười một môn đệ”. Con số này nhắc đến sự phản bội của cả nhóm. Nhưng sứ điệp mà Đức Giêsu ban cho các ông nhờ trung gian các phụ nữ đã là một dấu cho thấy Người tha thứ và hòa giải; Người gọi các ông là “anh em của Thầy” (28,10). Bây giờ, cuộc hành trình của các ông tiến về với Đức Giêsu và sự hiện diện của các ông tại nơi Người đã chỉ định là một dấu chứng tỏ các ông đón nhận sự tha thứ và hòa giải. Các môn đệ tiến về một nơi đã được Đức Giêsu xác định trước và theo thông tin của các phụ nữ (lệnh của sứ thần (28,7) và lệnh của Đức Giêsu ban cho các phụ nữ).

Trong Mt, ta không thấy có một lệnh minh nhiên của Đức Giêsu là đi đến một ngọn núi được xác định, nhưng có những chi tiết liên hệ đến Galilê. Tất cả các chi tiết này, khi được đặt vào trong bối cảnh là cuộc Thương Khó và Phục Sinh, thì giống như những tia chớp hy vọng được ban cho các môn đệ (tại núi Ô-liu, Đức Giêsu đã nói đến Galilê: 26,32; tại mộ, vị thiên thần đã nhắc đến Galilê: 28,7; Đức Giêsu xác nhận sứ điệp: 28,10). Chuyến đi đưa các ông về nơi Đức Giêsu đã chỉ định cho thấy rằng họ vừa thi hành lệnh Đức Giêsu truyền, họ vừa ý thức rằng họ đang được trở vào trong tình bằng hữu với Người, tình bằng hữu mà Người đã mời họ đến khi gọi họ là “anh em của Thầy” (28,10).

Như thế, câu truyện sẽ kết thúc ngay tại nơi mà sứ vụ của Đức Giêsu đã bắt đầu: tại “Galilê, miền đất của dân ngoại”, đã xuất hiện ánh sáng có sức thắng vượt bóng tối của tử thần (4,15-16) và giúp cho có thể bắt đầu việc rao giảng cho muôn dân (28,19). Ở đây tầm quan trọng của Galilê đặc biệt có tính thần học: Đấng Phục Sinh gặp lại các môn đệ Người tại nơi chính của hoạt động trần thế Người (nhất là theo Mc và Mt); điều này giả thiết có một sự tiếp nối giữa Đức Giêsu trần thế và Đức Kitô Phục Sinh, một sự tiếp nối mà c. 20a sẽ nêu bật minh nhiên (“[bằng cách] dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em”). Do chính sự kiện này, Người xác nhận việc loan báo đầu tiên của Người, hoặc đơn giản hơn, xác nhận trọn vẹn sứ mạng của Người và giới thiệu sứ mạng ấy như mẫu mực cho các môn đệ.

Lời Đức Giêsu nói với các phụ nữ (28,10), “họ phải đi đến Galilê”, là một mệnh lệnh, còn “họ sẽ được thấy Thầy ở đó” là một lời hứa. Vậy bản văn của chúng ta là sự hoàn tất mệnh lệnh ấy và sự thực hiện lời hứa ấy.

“Ngọn núi” không phải là một nơi mà người ta hẳn là có thể xác định theo địa lý; đây là nơi tiêu biểu cho mạc khải (5,1: “Bài Giảng trên núi”; 15,29: mạc khải của Đấng cứu thế, Đấng nuôi dưỡng dân Người như Môsê xưa kia trong hoang địa; 28,16: “ngọn núi” xuất hiện lần thứ ba, để cũng nêu bật tầm quan trọng của mạc khải như thế).

Sự kiện các môn đệ “thấy” Đức Giêsu được kín đáo giới thiệu bằng một vị tính từ (participle), lệ thuộc động từ chính: “các ông bái lạy”. Việc “thấy Đức Giêsu” chỉ được nhắc đến ngắn ngủi ở đây, khác với các bài tường thuật khác về hiện ra, nhưng nó chẳng còn giá trị gì khi nói về niềm tin Phục Sinh. Sự kiện quan trọng đối với Mt là “các ông bái lạy” (prosekynêsan), đây là cách tôn kính mang tính tôn giáo và thậm chí phụng vụ. Thái độ này diễn tả trước những gì sẽ được lời tuyên bố ở c. 18b loan báo về quyền của Đức Giêsu. “Nhưng có mấy ông lại hoài nghi” (c. 17). Ở đây, nỗi ngờ vực đã xảy đến idontes, “khi thấy Người” như là Đấng Phục Sinh. Chúng ta phải ngạc nhiên khi thấy phát sinh nỗi ngờ vực, nghĩa là một tình trạng ngần ngại, lưỡng lự, trong bối cảnh lại quá đậm đặc và tiêu biểu này. Phản ứng này xuất hiện nhiều lần trong các bài tường thuật khác về hiện ra. Nỗi hoài nghi được thắng vượt mỗi lần một cách: Đấng Phục Sinh xin các ông cho ăn (Lc 24,41tt); Đức Giêsu hiện ra một lần nữa với các môn đệ lúc đầu không tin (Mc 16,14tt); Tôma có thể chạm tới các vết thương của Đức Giêsu (Ga 20,24-29). Ta không thấy có gì tương tự ở đây cả. Có lẽ sự hoài nghi này liên hệ đến một thời đại muộn màng hơn: cộng đoàn hôm nay không còn thấy Đức Giêsu bằng mắt thịt nữa, họ có thể rơi vào hoài nghi; họ phải thắng vượt khó khăn này nhờ dựa vào lời của Đấng Phục Sinh. Các lời nói của Đức Kitô Phục Sinh và sự vâng phục của các môn đệ với lời Người là cách thế duy nhất giúp vượt qua nỗi hoài nghi.

– Các lời nói của Đức Giêsu (18-20)

Đứng trước đức tin xen lẫn hoài nghi của các môn đệ, lời Đức Giêsu nói cung cấp câu trả lời. Đấng Phục Sinh không trách các ông về sự bất trung hoặc về nỗi hoài nghi; thậm chí Người cũng không xua tan nỗi hoài nghi bằng một cử chỉ hoặc một chứng từ bổ sung. Người đến gần các ông và nói. Người từ xa đến với những người là các môn đệ Người, vâng phục Người và đang cung kính bái lạy Người. Chỉ mình Người có thể vượt qua khoảng cách bằng cách đi đến với các ông. Proserchomai là một động từ được Mt ưa chuộng (Mt 52x; Mc 5x; Lc 10x; Ga 1x), nhưng chỉ có hai lần ông diễn tả một hành vi chủ động của Đức Giêsu (ở đây và ở 17,6-7: hai đoạn riêng của Mt): trong trường hợp này, Đức Giêsu đến gần là để nâng đỡ những người đang hoài nghi hoặc đang sợ.

Vấn đề ở đây là một lời nói, vấn đề ở đây là nghe chứ không phải là thấy. Chính lời nói của Đức Giêsu tạo được sự trấn an diễn tả ra bằng hành vi đến gần: Người tự tỏ mình ra trong lời Người nói như là Đấng được đặt để trong quyền bính và nói với uy quyền. Trong tư cách đó, Người hiện diện trong thời gian của thế giới, trong Giáo Hội cho đến tận thế.

Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất (18b). Được đặt ở đầu bài diễn từ, mạc khải này đỡ nâng các khẳng định tiếp sau: lệnh truyền và lời hứa. Đức Giêsu khẳng định quan hệ của Người với Thiên Chúa và vị trí hiện nay của Người: chính Thiên Chúa, Cha của Đức Giêsu (so sánh với 9,6.8; 11,27 và Đn 7,14), đã ban cho Người tất cả các quyền hành trên trời dưới đất.

Theo lời rao giảng tiên khởi (kêrygma) của các tông đồ, do Phục Sinh, Người đã được đặt làm Đức Chúa (Kyrios) trên vũ trụ và làm Thẩm phán vào lúc tận thế. Trong thực tế, bản văn không nói cho biết là Người đã được Chúa Cha đặt để như thế khi nào, nhưng nhấn mạnh rằng quyền lực tối thượng này của Đấng Phục Sinh là vô biên (pasa) tự nó trong sự viên mãn và trong cường độ của nó: trong không gian, Đấng Phục Sinh hiển trị trên vũ hoàn (trời và đất), như trong Cựu Ước, Thiên Chúa được nhìn nhận là Chúa tể trời đất, nghĩa là Đấng Tạo hóa và Bảo toàn tất cả vũ trụ; và trong thời gian, Người hiển trị bây giờ và cho đến tận thế.

Bây giờ, trong tư cách là Đấng đại diện toàn quyền của Thiên Chúa, Đức Giêsu là Đấng mạc khải cánh chung cho biết ý muốn của Thiên Chúa và là Đấng thực hiện dự phóng cứu độ của Ngài. Các môn đệ có thể hoàn toàn chắc chắn rằng họ được ban cho quyền này.

Từ oun, “vậy”, gợi ý là lệnh truyền này là hậu quả của tuyên bố về quyền vũ hoàn của Đức Giêsu, là sứ mạng của Nhóm Mười Một phát xuất từ quyền bính của Đức Kitô. Tuy nhiên, lệnh truyền được ban cho toàn nhóm, điều này cho thấy rằng bổn phận truyền giáo là một nhiệm vụ của toàn thể cộng đoàn chứ không của một vài cá nhân. Uy quyền (c. 18) và sự hiện diện của Đức Giêsu (c. 20) sẽ cho các ông đủ tư cách và uy tín mà chu toàn bổn phận này.

Khi đi rao giảng, các môn đệ không chỉ trình bày, chỉ cống hiến sứ điệp, loan báo Tin Mừng (keryssein), nhưng là kiến tạo một cộng đoàn có quan hệ chặt chẽ và riêng tư. Tương quan của các môn đệ với Đức Giêsu là kiểu mẫu cho sự hiệp thông với Người mà mọi dân tộc đang được đưa dẫn tới. Kể từ nay, kiểu mẫu này là chuẩn mực cho mọi ki-tô hữu: “môn đệ” có thể nói là định nghĩa ngắn nhất của ki-tô hữu. Được giao sứ mạng “làm ra các môn đệ”, Nhóm Mười Một đang hiện diện ở đây sẽ có thể rút ra từ đó biết bao hệ luận: một đàng, kinh nghiệm sống với Đức Giêsu phải luôn luôn là điểm qui chiếu cho họ trong hoạt động; đàng khác, tư cách môn đệ không phải là của riêng thuộc về những bạn đồng hành lịch sử của Đức Giêsu trần thế, trái lại đây là tư cách mà kể từ nay mỗi người được mời gọi đi vào. Tất cả đều được mời gọi trở thành “môn đệ Đức Giêsu”, vị Thầy duy nhất (x. 23,8.10).

Chiều hướng phổ quát đã được báo trước trong lời nhắc đến Abraham (1,1), trong truyện các đạo sĩ (2,1-12), vị sĩ quan Caphácnaum (8,5-13), bà Canaan (15,21-28), viên sĩ quan canh giữ Đức Giêsu trên đồi Sọ (27,54). Đi đến với các dân tộc đã là chọn lựa của Đức Giêsu, cho dù trong diễn từ truyền giáo (ch. 10), Người đã truyền các môn đệ là chỉ đi đến với các chiên lạc Israel thôi. Tính phổ quát truyền giáo này còn được báo trước ở 24,4 và 26,13, và bây giờ được khẳng định như là ý muốn chính xác của Đức Giêsu. Điều bị cấm trước đây ở 10,5 (anh em đừng đi tới vùng các dân ngoại) bây giờ được khuyến cáo thi hành (hãy làm cho muôn dân trở thành môn đệ): như đại đa số các lần xuất hiện, từ ethnç trong Mt có nghĩa chữ là Dân ngoại, lệnh này chỉ liên hệ đến Dân ngoại. Nhưng nếu Israel không còn là đối tượng của một sứ mạng đặc biệt, điều này không có nghĩa là Israel bị loại ra khỏi chân trời Phục Sinh. Rất có thể vào thời của cộng đoàn Mt, đã có một sự đoạn tuyệt giữa Giáo Hội và Hội đường; nhưng người Do-thái tiếp tục là một thực tại của cộng đoàn Mt. Nếu Israel bị kết án, mỗi người Do-thái vẫn có thể đến với cộng đoàn các môn đệ. Sẽ xuất hiện một cộng đoàn phổ quát trong đó mỗi người có một quan hệ trực tiếp và thân tình vừa với Đức Giêsu vừa với những người khác. Hoạt động của các môn đệ là một sự tiếp nối hoạt động của Đức Giêsu (4,23; 9,35; 11,1).

Để làm cho muôn dân thành môn đệ, hai việc các môn đệ phải làm là “làm phép rửa” nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi và “giảng dạy”. Căn tính mới của Thiên Chúa là căn tính Cha, Con và Thánh Thần, mà người môn đệ bắt đầu quan hệ với qua bí tích thánh tẩy. Lệnh truyền giảng dạy đã được đặt vào cuối Tin Mừng, có thể là vì Mt coi nhiệm vụ giảng dạy như là nhiệm vụ cao nhất trong Hội Thánh. Nhóm Mười Một không được phép mở trường, nhưng tiếp tục học ở “trường” Đức Giêsu: các ông phải giảng dạy, như chính Đức Giêsu đã giảng dạy. Cho dù các ông đã nhận lãnh bổn phận giảng dạy, các ông sẽ phải mãi mãi duy trì chân tính môn đệ, bằng cách nhìn nhận và chấp nhận uy quyền của Đức Giêsu, bằng cách bây giờ tin vào Đức Giêsu như tin vào chính Thiên Chúa.

Đề tài giảng dạy đã có sẵn: các lệnh truyền của Đức Giêsu. Tin Mừng Mt chứa biết bao lời giảng dạy của Đức Giêsu (trong năm diễn từ), nhưng nhất là giáo huấn của Bài giảng trên núi đáng được xét đến. Trong lệnh truyền giáo, Đấng Phục Sinh đã nói với các môn đệ là “dạy bảo họ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (c. 20). Câu này chắc chắn qui về tất cả mọi lời nhắn nhủ, tất cả giáo huấn của Đức Giêsu trong TM Mt, nhưng đặc biệt qui về các lời nhắn nhủ trong Bài Giảng trên núi bởi vì Bài Giảng này chứa phần lớn những gì Đức Giêsu đã dạy các môn đệ và có một giọng thôi thúc người ta thực hiện các lời nhắn nhủ này (x. 7,13-27).

Tuy nhiên, Đấng nói đây không còn là vị Thầy trần thế nữa, nhưng là Đức Chúa Phục Sinh, “Đấng đã được ban cho toàn quyền trên trời dưới đất”. Bây giờ, với uy quyền của Đấng là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta” trong mức viên mãn của sự Phục Sinh, Đức-Giêsu-đang-sống lấy lại giáo huấn của Bài Giảng trên núi và nhắc lại cho các thế hệ tương lai.

Mục tiêu không còn phải là chu toàn Lề Luật hoặc các Ngôn sứ, nhưng tuân giữ “tất cả những gì Thầy đã truyền cho anh em”. Như thế, chính Đức Giêsu đặt mình vào vị trí của “Lề Luật hoặc các Ngôn sứ” (x. ngay ở 5,21-48 với các công thức “Anh em đã nghe [Luật] dạy người xưa. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết”), Người là Đấng lập pháp tối cao, diễn tả trọn vẹn ý muốn của Thiên Chúa. Thái độ này khi đó và lệnh truyền hiện nay gửi trở lại với các công thức khác nhau của Cựu Ước trong đó chính Yhwh truyền lệnh cho dân Ngài là tuân giữ điều răn của Ngài (x. 2 Sb 33,8; Xh 34,32; Đnl 4,2; 12,14). Bây giờ Đức Giêsu thay thế Yhwh khi khẳng định ý muốn của Người. Và chắc chắn ý muốn thần linh này được tập trung nơi điều răn yêu thương, đỉnh cao và sự hoàn tất của Kinh Thánh (“Lề Luật hoặc các Ngôn sứ”: x. 22,40).

Tuy nhiên, hẳn là ta có thể nới rộng ý nghĩa của “tất cả những gì Thầy đã truyền cho anh em” cho cả bốn bài diễn từ khác, bởi vì tác giả đã xác định rằng chúng cũng là những “chỉ thị. dụ ngôn. những điều” của Đức Giêsu (x. công thức kết luận mỗi bài diễn từ: 11,1; 13,53; 19,1; 26,1; x. 7,28-29). Vấn đề ở đây là các giáo huấn của Thầy về các điều kiện và bản chất của đời sống đích thực của người môn đệ và về nẻo đường thánh ý chân thực của Thiên Chúa, “nẻo đường công chính” (21,32).

Khi nói “tất cả những gì Thầy đã truyền cho anh em”, Đức Giêsu xác định giáo huấn của Người là như một lệnh truyền, như một đòi hỏi cấp bách (trong một ngữ cảnh tương tự, Mc nói đến “tin mừng”: 13,10; 14,9; Lc thì nói đến “hoán cải và tha thứ tội lỗi”: 24,47). Đấng Phục Sinh biến lời của Đức Giêsu trần thế thành chuẩn mực cho Hội Thánh mọi thời và “cho đến tận thế”. Sứ điệp của Đấng Phục Sinh được coi là đồng nhất với sứ điệp của Đức Giêsu trần thế.

Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế (20b). Egô meth’ hymôn eimi. Giới từ meta + thuộc cách có nghĩa là “với” nhằm diễn tả sự hiệp thông, sự hiệp nhất (cơ bản là riêng tư cá nhân), sự cộng tác, khi đó là tương quan của Đức Giêsu với những người khác: Đặc biệt 28,20 đáp lại khởi đầu Tin Mừng, khi mà Đức Giêsu được giới thiệu lúc chào đời như là Đấng mà “người ta sẽ gọi tên là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta” (1,23). Ở đây chúng ta có một thể đóng khung rất lớn bung mở ra chiều kích vũ hoàn của bản thân Đức Giêsu trên toàn thể lịch sử nhân loại, đồng thời vẫn nêu bật sự bám rễ của Người về phương diện xác thịt trong thời gian và không gian. Thực tại Emmanuel này được diễn tả xuyên qua toàn thể Tin Mừng: Vào lúc chào đời của Đức Giêsu (1,23); trong khi hoạt động, Người hiện diện giữa nhóm môn đệ (9,15; 26,18.20.36.38.40; x. “Đức Giêsu dẹp yên biển động”, 8,23-27; egô eimi, 14,27); những lần Người tiếp xúc với người tội lỗi (9,11) và qua cái chết ban ơn cứu chuộc (26,28; x. 1,21; 17,17 so với Mc 9,19). Mt 28,20 hẳn là câu trả lời chung cuộc cho câu hỏi ấy. Bây giờ Người hứa ở với họ mãi mãi.

Trong Cựu Ước, bằng những thuật ngữ tương tự Ta sẽ ở với các ngươi mãi mãi, Yhwh thường đảm bảo với một tín hữu, một ngôn sứ, một thủ lãnh, toàn dân, nhất là trong bối cảnh một cuộc sai phái, là Người sẽ hiện diện, nghĩa là giúp đỡ tận tình, với lòng từ bi thương xót, để cứu độ. Đấng Kyrios ban cho các môn đệ cũng một đảm bảo như Yhwh đã ban cho dân Ngài trong Cựu Ước. Người không thế chỗ cho các môn đệ, nhưng sẽ hiện diện với họ để nâng đỡ họ bằng sức mạnh, không do các đức tính hay các thành tích của các môn đệ, nhưng do sự trung tín hữu hiệu của Đấng đã đưa các lời hứa trong Kinh Thánh đến chỗ hoàn tất. Khi nói “tất cả các ngày”, Đức Giêsu khẳng định Người sẽ ở thường trực và trọn vẹn với các môn đệ, và nhắm đến tận thế, “lúc kết thúc thời gian của thế giới này”.

+ Kết luận

Trên núi Galilê (28,16; x. 5,1), Đức Giêsu Phục Sinh, đại diện toàn quyền của Thiên Chúa, tỏ mình ra như là Đấng mạc khải tối hậu của Thiên Chúa và Đấng lập pháp vĩnh viễn, nay cử các môn đệ đi đến với mọi dân tộc. Trong Cựu Ước, núi Sinai xuất hiện ra như là quả núi của mạc khải và của Giao ước, trên đó Thiên Chúa tự tỏ mình ra và thông ban các điều răn của Ngài (Xh 19,1–24,11). Từ Sinai, dân Israel bắt đầu cuộc hành trình tiến về Đất hứa; trên núi Galilê, Đức Giêsu đích thân, trong tư cách Đấng Phục Sinh, tức đã đi vào trong đời sống Thiên Chúa, cho thấy đâu là mục tiêu của mỗi người trong “tất cả các dân tộc”.

Các lời kết thúc của Đức Giêsu đã đón nhận lấy các nội dung chính của TM Mt về sứ vụ không biên giới của các môn đệ. Điều này còn cho thấy một lần nữa chiều hướng tổng hợp hướng về sứ vụ phổ quát như là nét tiêu biểu của Tin Mừng này.

5.- Gợi ý suy niệm

5.1. Nhóm môn đệ có một vết thương, gây ra do sự phản bội và sự biến mất của Giuđa. Họ không còn là mười hai, là là mười một. Vết thương này nhắc nhớ rằng tất cả đã bất trung với Đức Giêsu. Khi Người bắt đầu chuyến đi vào Thương Khó, các ông đã cắt đứt việc đi theo Người hoặc bằng cách chạy trốn (26,56) hoặc bằng cách giữ khoảng cách trong ba lần chối (26,69-75). Tuy nhiên, Đức Giêsu đã chữa lành vết đứt này. Người không gọi những môn đệ mới, nhưng gọi chính những người đã thất bại trong thử thách Khổ Nạn. Khi các môn đệ đến nơi hẹn, Đức Giêsu không hề thốt ra một lời trách móc, mà lại còn giao sứ vụ, là sứ vụ của chính Người.

5.2. Nhận biết và hoài nghi là hai thái độ có thể đi với nhau, như lời xin của cha đứa bé trong Tin Mừng Máccô: “Tôi tin! Nhưng xin Thầy giúp lòng tin yếu kém của tôi” (Mc 9,24). Do đó, cần phải nhìn lại tất cả hoạt động công khai của Đức Giêsu dưới ánh sáng của biến cố Phục Sinh. Bây giờ Đức Giêsu mạc khải cho các môn đệ biết Người có toàn quyền, Người là Chúa tể không giới hạn, do quyền Chúa Cha ban cho Người. Người đã gọi các ông, các ông đã đi theo Người, đã nghe lời Người giảng dạy; Người đã chết trên thập giá, nhưng nay Người đang sống trước mắt các ông và là Chúa tể tuyệt đối, các ông hãy tin trọn vẹn vào Người.

a. Các môn đệ của Đức Giêsu phải ra đi để làm cho muôn dân “trở thành môn đệ” Người, chứ không phải trở thành môn đệ của chính mình. Các môn đệ mới sẽ cùng các ông bước theo Đức Giêsu, nghĩa là liên kết với Đức Giêsu, hiệp thông cuộc sống với Người, chấp nhận Người chỉ cho mình lộ trình phải theo, xác định hình thái và chiều hướng sống, ký thác trọn vẹn nơi Người.

b. Những người được nhận lời hứa hiện diện thường trực cho đến tận thế, không chỉ là các môn đệ ở trên núi Galilê ấy mà thôi. Chân trời mở rất rộng: Đấng Kyrios không hiện diện giữa dân Người như trong mầu nhiệm nội tại và trong thực tại thần bí của Người, nhưng đúng ra, tại mọi thời và trong mọi tình huống, Người ở bên cạnh dân để trợ giúp và an ủi họ, để khích lệ và kêu gọi họ, và Người luôn luôn tháp tùng hoạt động của các sứ giả Người. Mt không nhắc đến Thăng thiên để không đưa Đức Giêsu đi xa cộng đoàn của Người: Người tháp tùng họ trong cuộc hành hương trần thế “cho đến tận thế”.

 

 

 

 

 

70. Chú giải của Noel Quession

 

Từ “Thăng Thiên” có thể mang một sắc thái xấu đối với các Kitô hữu, nếu chúng ta để cho trí tươởg tượng biểu thị một cách vật lý điều mà thực ra là một mầu nhiệm vô cùng của đức tin. Bản văn của Mátthêu khác với bản văn của Luca, không nói với chúng ta về sự thăng thiên (lên trời) nhưng về sự hiện diện mới thánh sử mời gọi chúng ta không nên cử hành ngày này như “sự ra đi của một người thân yêu mà người ta đưa ra phi trường trước khi phi cơ cất cánh”. Vậy chúng ta hãy quên đi mọi sự tưởng tượng của chúng ta và lắng nghe Đức Giêsu: Không nói về sự ra đi, Người nói về sự hiện diện khắp mọi nơi! “Thầy ở cùng anh em mọi ngày…” Vậy chúng ta hãy lắng nghe trang cuối cùng của Tin Mừng Thánh Mátthêu. Đó là bảng tỏm tắt bài tường thuật tất cả các từ ngữ đều chuyện tái ý Đó. Chúng ta hãy suy niệm về tất cả các từ ấy

Mười một môn đệ.

Họ gồm có “mười một” và chỉ mười một thôi! Rất ít đối với một trách nhiệm tỏ lớn mười một chứ không phải mười hai, như chúng ta đã quen từ lúc bắt đầu Tin Mừng. Quả thực, đây là một Giáo Hội rất nghèo nàn ... một nhóm quá nhỏ, bị cắt cụt bởi vì một người trong số họ đã bỏ ngũ. Không phải chỉ hôm nay mới có những người bỏ rơi đồng đội.

“Mười một môn đệ” ... Mátthêu gọi họ là “môn đệ” thay vì là “tông đồ” điều Đó là có dụng ý. Ở đây, họ không ở vị trí của những người được giao cho một quyền bính đặc biệt. Hoàn toàn đơn giản, môn đệ là điều kiện chung của mọi người đi theo Đức Giêsu, là bạn hữu của Người. Môn đệ ư? Bạn, tôi chúng ta…Bạn có phải là một môn đệ không? Bạn hãy nhớ rằng Giuđa đã làm lỡ một cuộc hẹn gặp.

Đi tới miền Galilê…

Nhấn mạnh trên địa điểm hẹn gặp này là điều có ý nghĩa đối với Mátthêu; thánh sử đã không ngần ngại cho địa điểm ấy là nơi xảy ra sự xuất hiện chính thức, để tôn cao giá trị của miền Galilê… và không nói đến những lần hiện ra ở Giêrusalem trong các tường thuật Tin Mừng khác.

Galilê! Nơi hẹn gặp đã được Đức Giêsu chỉ định sau bữa ăn cuối cùng: “Sau khi chỗi dậy, Thầy sẽ đến Galilê trước anh em” (Mt 26,32). Ở ngôi mộ trống, thiên thần đã nhắc lại cuộc hẹn gặp: “Các bà hãy mau về nói với các môn đệ Người rằng Người đi Galilê trước các ông và ở Đó các ông sẽ được thấy Người” (Mt 28,7). Galilê! Miền đất mà Mátthêu đã chú ý mang lại ý nghĩa tượng trưng ngay từ đầu sứ vụ của Đức Giêsu trong tỉnh Đó khi dẫn lời ngôn sứ: Hỡi Galilê, miền đất của dân ngoại… những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi! (Mt 4,15; Isaia 8,23–9,l)

Galilê! Tỉnh xanh tươi và ngọt ngào: Xứ sở của sự sống! Galilê! Tỉnh của nhiều sắc dân trộn lẫn, xứ sở mà các người thanh khiết ở Giêrusalem khinh bỉ, xứ sở mở ra cho những xứ sở khác, cho những dân ngoại đây là miền đất của sự tiếp xúc, nơi hòa trộn niềm tin với sự vô tín.

Galilê! Miền đất cội rễ của con người Giêsu Nadarét: Người trở nên một thân thể với xứ sở này; người là một người Galilê; có giọng nói của người miền Bắc, “Từ Nadarét, làm sao có cái gì hay được?” (Gioan l,46) đối với chúng ta, Đó là một lời mời gọi chớ nên mơ tưởng đến một chỗ nào khác: Ờ, phải chi tôi có một tổ ấm khác!

Phải chi tôi học trong một trường học khác! Phải chi các đồng nghiệp tôi thế này, thế khác; giáo xứ tôi thế nọ, thế kia! Đức Giêsu hẹn gặp bạn trong miền Galilê của chính bạn.

…Đến ngần núi Đức Giêsu đã truyền cho các ông đến.

Trong toàn bộ Kinh Thánh, núi là nơi tượng trưng cho sự gặp gỡ với Thiên Chúa và cho sự mạc khải của Thiên Chúa. Ở trên cao, người ta nhìn xa… xa hơn như khi ở trong cánh đồng! Ở trên cao, người ta hít thở khoáng đãng hơn..., trong lành hơn sự ô nhiễm của các thành phố! Ở trên cao, người ta cô quạnh hơn… và có nhiều khả năng hơn để lắng nghe tiếng nói của sự im lặng, thường bị nhận chìm bởi những mớ lộn xộn của sự nhiều lời trống rỗng! Núi Xi-nai nơi con người gặp gỡ Thiên Chúa duy nhất lần đầu tiên. Núi các mối Phúc Thật (Mt 5,1). Núi của sự biến hình (Mt 17,1). Núi chữa bệnh (Mt 15,29). Núi cầu nguyện (Mt 14,23). Núi hóa bánh ra nhiều (Mt 15,32) làm thế nào mà sự sống lại không được biểu lộ trên núi chứ? (Mt 28,16).

Còn bạn? Phải chăng bạn có những cuộc hẹn gặp trên núi nơi mà Đức Giêsu ra lệnh cho bạn đến gặp Người?

Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi.

Bái lạy. Hoài nghi. Hai từ này bề ngoài hoàn toàn đối lập nhau, nhưng Mátthêu tập họp chúng trong cùng một câu. Vâng, cũng trên nhọn núi ấy, có chỗ cho thực tại đáng sợ ấy: Sự hoài nghi bái lạy là sự chiến thắng trên hoài nghi. Đức tin là một hành động tự đo, rất khác với những điều hiển nhiên buộc phải chấp nhận của bình diện khoa học. Tin Mừng rất khiêm tốn, không có gì là bực dọc và hứng khởi vô lý mọi tường thuật các lần xuất hiện sau khi sống lại đều có một nét chung: Đức Giêsu sống lại không “hiển nhiên” … người ta ngần ngại thừa nhận điều Đó.

Bạn đang tìm kiếm và hoài nghi, vậy bạn hãy thử bái lạy, thờ phụng Người.

Đức Giêsu đến gần, nói với các ông.

Tôi chiêm ngắm hành động này trong nội tâm trong một trường hợp duy nhất khác, Mátthêu ghi nhận động tác tiếp cận ấy mà Đức Giêsu đã thực hiện. Đó là lúc Người biến hình. Khoảng cách của Thiên Chúa đối với con người rất lớn đến nỗi: Thiên Chúa cần phải đến với chúng ta một cách chủ quan, chúng ta không có khả năng tin tưởng. Sự khởi xướng thuộc về Thiên Chúa. Còn phần chúng ta, chúng ta có tự do đáp lại hành động tiếp cận của Người bằng sự thờ lạy.

Trong tường thuật Phục Sinh của Mátthêu, chúng ta nhận thấy sự kín đáo tột độ: Không có chi tiết cụ thể nào…Đức Giêsu chỉ đến gần và nói! Toàn bộ Tin Mừng của Mátthêu có đặc tính nhấn mạnh trên những bài giảng văn Đức Giêsu: Đức Kitô của Mátthêu là một Đức Kitô thuyết giảng năm bài giảng lớn đã tạo thành nhịp điệu sự tường thuật của Mátthêu. Vậy, đây là lời tôn vinh và kết luận: những lời sau cùng của Người.

“Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất…”

Công thức này khẳng định sự bình đẳng của Đức Giêsu với Thiên Chúa. Thật vậy, trong toàn bộ Cựu ước, chỉ Thiên Chúa mới là “Chúa của trời đất” … vũ trụ hữu hình và vô hình.

Công thức này, không mô tả sự Thăng Thiên bằng những từ ngữ cụ thể nhưng đòi hỏi phải có sự việc Đức Giêsu lên trời từ nay thống trị toàn thể vũ trụ. Dĩ nhiên, vấn đề không phải là tìm kiếm Đức Giêsu giữa những vì tinh tú, trong “bầu trời đầy sao”.

Công thức nêu lên ý niệm về toàn thể: Không có gì nằm ngoài quyền của Thiên Chúa. Từ nay, Đức Giêsu sống lại là Chúa Thượng của mọi tạo vật!

Khi đọc lời chúc tụng trên bánh và rượu, Người nói “này là mình Thầy, này là máu Thầy”, Người chỉ mang lại cho chúng ta “dấu chỉ” về hiệu quả của quyền chủ tể của người trên mọi phần của vũ trụ… và do Đó trên mỗi người chúng ta và chúng ta thật sự trở thành nhiệm thể của Người.

Và Thánh Phaolô trong bài đọc I của ngày hôm nay, cũng khẳng định quyền chủ tể ấy: Đó chính là sức mạnh toàn năng đầy hiệu lực mà Người đã biểu dương nơi Đức Kitô, khi làm cho Đức kitô chỗi dậy từ cõi chết, và đặt ngự bên hữu Người trên trời. Như vậy, Người đã tôn Đức Kitô lên trên mọi quyền lực thần thiêng, trên mọi tước vị có thể có được không những trong thế giới hiện tại mà cả trong thế giới tương lai. Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Kitô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội Thánh; mà Hội Thánh là thân thể Đức Kitô!” (Ep 1,20-23). Phải, chúng ta là thân thể Đức Kitô! Vì thế mà Phaolô phải nói rằng “Thiên Chúa đã cho chúng ta cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Kitô Giêsu trên cõi trời (Ep 2,5-6).

Phụng vụ của chúng ta không chỉ cử hành các kỷ niệm của quá khứ các lễ mừng trọn năm: Phụng vụ làm cho chúng ta tham dự trước những điều kỳ diệu của thời Thế Mạt, Phaolô biết rất rõ ràng những người mà ngài viết cho họ chưa ngự trị trên cõi trời. Bị bầm giập bởi thử thách, họ biết mình phải chết tuy nhiên sự “thăng thiên của chính họ đã được tham dự trước, trong Đức tin vào Đức Kitô”.

Điều Đó chẳng phải cho chúng ta tất cả cách sống và cách cử hành phụng vụ sao?

“Vậy anh em hãy đi và làm cho MUÔN dân trở thành môn đệ…”

Sau TOÀN quyền mà Đức Giêsu đã được trao ban, giờ đây toàn thể trường hoạt động của Đức Kitô qua thân thể Người tức là các môn đệ được nêu lên trước kia trên núi cám dỗ, Đức Giêsu đã từ chối nhận của xa tan “tất cả các nước thế gian và vinh hoa lợi lộc của các nước ấy” (Mt 4,8-10). Giờ đây, lúc có vẻ sắp ra đi, Đức Giêsu táo bạo ấy đã nhắm đến toàn thể vũ trụ trong cuộc chinh phục một cách hòa bình, qua mười một con người ấy muôn dân, mọi quốc gia mọi con người? Đức Giêsu đang nhìn từ tầm nhìn cao cả nhất.

Làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần…”

Một công việc vĩ đại, nhấn chìm nhân loại vào một không gian mới: Ba Ngôi Thiên Chúa… Ba Ngôi là tình yêu liên ngôi vị tinh tuyền và trong suốt nhất mà chỉ Ba Ngôi mới có… để cho dù nhiều tất cả chỉ là một. Đó cũng chính là giấc mơ của mọi tình yêu.

“Dạy bảo họ tuân giữ MỌI điều Thầy đã truyền cho anh em…”

Vậy thì, đấy là toàn bộ hành động của con người phải được đặt dưới quyền chủ tể của Đấng Phục Sinh trước hết, làm môn đệ của Đức Giêsu không phải là một thái độ trí thức việc dạy giáo lý cũng vậy, trước tiên không phải là truyền thông những khái niệm, nhưng là tập luyện một cách sống bao gồm mọi khía cạnh của đời sống.

“Và đây Thầy ở cùng anh em MỌI ngày cho đến tận thế”

Sự hiện diện của Đức Giêsu Phục Sinh, không chỉ tràn ngập mọi nơi trên trần thế mà còn bao trùm toàn bộ thời gian! Sứ thần khi truyền tin cho Thánh Giuse lúc Tin Mừng bắt đầu đã nói: “Người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuen nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1,23). Mọi Tin Mừng của Mátthêu do đó đều bao hàm trong tư tưởng ấy.

Một lời mời gọi phi thường: Nếu Thiên Chúa hiện diện mọi ngày, mọi lúc… nếu chúng ta có thể nói rằng chính chúng ta cũng hiện diện và ở cùng Thiên Chúa? Thi hào Tagore nói rằng “ước gì đời sống của con như một cây sáo trúc, để Ngài có thể làm đầy bằng âm nhạc”.

Mỗi ngày hôm nay, mỗi giây phút của đời tôi có thể trở nên rực sáng bởi tình bầu bạn ấy của Đức Giêsu! Ôi, Lạy Chúa Giêsu…

 

 

 

 

 

71. Chú giải của Fiches Dominicales.

 

“VÀ ĐÂY, THẦY Ở CÙNG ANH EM MỌI NGÀY CHO ĐẾN TẬN THẾ”

1. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI

1.2. Kết thúc mà lại khởi đầu

Phụng vụ bài đọc năm A về lễ Thăng Thiên mời gọi ta suy niệm những câu cuối cùng của Phúc Âm thứ nhất. Đoạn văn kết thúc Phúc Âm Matthêu này đặc biệt gợi nhớ đến hai chương đầu của Phúc Âm.

– Thực vậy, khi viết “Phúc Âm về thời niên thiếu”, thánh Matthêu muốn mời gọi ta coi việc Đức Giêsu giáng sinh tại Belem, thành vua Đavít là ứng nghiệm lời tiên tri về một Đấng “Emmanuel”: Đấng “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta” (Is 7), còn các Đạo sĩ đến từ phương Đông tiêu biểu cho những người tiên phong của Dân Ngoại đang đi đến niềm tin vào Đức Kitô: “Họ THẤY Hài Nhi với thân mẫu là bà Maria, liền SẤP MÌNH THỜ LẠY NGƯỜI”.

– Ở đoạn kết thúc, rõ ràng là thánh sử, đã lấy lại cũng những lời lẽ trên để thuật lại cuộc gặp gỡ lần cuối cùng của Đấng Phục Sinh với các môn đệ của Người ở Galilê: “Khi THẤY Người, các ông SẤP MÌNH THỜ LẠY Người”. Rồi Đức Giêsu trao cho các ông sứ mệnh đến với “MUÔN DÂN” và long trọng tuyên bố rằng: “THẦY Ở CÙNG CÁC CON” mọi ngày cho đến tận thế”.

1.3. Radermakers chú giải: “Ở đây chúng ta thấy con người Đức Giêsu dầu mang dấu vết của một con người được sinh ra ở một thời điểm và sinh sống ở một nơi chốn nhất định, vẫn có cả một sự bao trùm lớn lao, trải rộng đến mọi chiều kích của toàn thể lịch sử nhân loại” (“Au fie de l’Evangile selon saint Mathieu, Viện Nghiên cứu Thần học, Bruxelles, 1974, trang 362).

a. Khi hồi kết thúc loan báo một khởi sự mới

Sau Phục sinh, Đức Giêsu hẹn gặp lại các môn đệ Người, không phải ở Giêrusalem, thủ đô và là thành thánh như trong Phúc Âm Luca, mà là ở “Galilê” miền đất vẫn bị mọi người nhìn bằng nửa con mắt, là “nơi qui tụ dân” là biểu tượng của thế giới ngoại giáo (Mt 4,12-23).

Giáo Hội… phải rời bỏ Giêrusalem mà về mặt địa lý cho tới lúc ấy vẫn được coi là trung tâm đức tin, nơi có Thiên Chúa hiện diện, để đi tới miền vốn được coi là “Galilê của dân ngoại”. Một Giáo Hội được định nghĩa ngay là một “Giáo Hội vì mọi người”: đó chính là sứ mệnh của Giáo Hội, điều mà không bao lâu sau Đức Giêsu sẽ nói rõ ràng” (Cahiers – Evangiles” số 9, trang 6).

Nơi Đức Giêsu truyền cho các môn đệ đi tới, là một “ngọn núi” vốn là nơi rất thích hợp cho việc Chúa mạc khải. Một lần nữa ở dân cũng như trải dài suốt Phúc Âm của Ngài, thánh Matthêu đều trình bày Đức Giêsu như một Môsê mới ban Luật của Người cho dân tộc mới của Thiên Chúa.

Cl. Tassin chú giải: “Như trong một cuốn phim, người ta lần lượt thấy xuất hiện những ngọn núi: núi quỷ cám dỗ khi chỉ cho Đức Giêsu xem thấy các nước trần gian, núi Bát Phúc, nơi Thầy công bố hiến chương Nước Trời, và Núi Hiển Dung nơi vinh quang Con Người được tỏ hiện; nổi bật hơn cả vẫn là cảnh âm u tịch mịch của núi Nê-bô, nơi Môsê phải nói lời giã biệt trước khi dân tiến vào Đất Hứa” (“Phúc Âm thánh Matthêu, NXB. Centurion, trang 303).

– Khi thấy Đức Giêsu, các môn đệ liền “sấp mình thờ lạy Người” trong một cử chỉ vừa tôn kính theo đạo giáo, mà cũng có tính cách phụng thờ, y như các đạo sĩ đã làm khi thấy hài nhi với thân mẫu là bà Maria (2,2.8.11); cũng như các môn đệ đã bày tỏ khi ở trong thuyền lúc sóng to gió cả, và đó cũng là cử chỉ của người phụ nữ xứ Canaan vậy (15,25).

Nhưng lòng tôn thờ của các ông còn vương vấn “sự hoài nghi”, mối hoài nghi này, theo như J. Radermakers nhận xét chí lý, chính là người bạn đồng hành không thể tách biệt của một lòng tin đang lần bước”.

Đấng tỏ mình ra cho các môn đệ (“Đức Giêsu đến gần”), Đấng mà các ông sấp mình thờ lạy ấy, chính là Đức Chúa hiển vinh. Một khi đã được vinh thăng, được trao ban quyền tối cao xét xử toàn cầu (“Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất”) thì giờ đây Người có lý khi sai các môn đệ của mình đi khắp thế giới để làm cho vương quyền ấy được thực hiện.

Những lời Người ban bố cho họ đánh dấu sự khai trương một giai đoạn mới trong sứ mệnh của Người, sứ mệnh mà từ này trở đi Người sẽ vẫn tiếp tục nhờ Giáo Hội.

+ “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ”. Suốt thời gian thừa hành sứ vụ công khai, Đức Giêsu đã phải tự ý giới hạn hoạt động của Người đối với “các chiên lạc của nhà Israel”. Từ nay những biên giới ngăn cách do không gian và thời gian đều bị bãi bỏ vì Người có thể thực thi trọn vẹn sứ mệnh Người Tôi Tớ của Thiên Chúa đúng như Matthêu đã loan báo, khi mượn lời sấm của Isaia 42,1-4: “Và môn dân sẽ đặt niềm hy vọng nơi danh Người” (Mt 12,18-21). Dân ngoại có mặt ngay từ buổi đầu của Phúc Âm thì cuối cùng vẫn thấy mình là những con người được Tin Mừng nhắm tới. Đức Giêsu trao phó cho Giáo Hội Người sứ mệnh truyền giáo khắp hoàn cầu này.

Cl. Tassin còn muốn lưu ý ta rằng: “Điểm nhấn mạnh không ở tại động từ “Đi” hay ở tại sứ mệnh chinh phục địa lý, mà cốt ở việc mở ra cho hết mọi nhóm người không phân biệt một ai. Bởi lẽ Đức Giêsu đã được “trao toàn quyền” thì mọi người đều phải thần phục quyền bính của Người. Đối với Matthêu, truyền giáo là gì? Thưa là: những môn đệ làm cho những người khác trở thành môn đệ; là những người nam cũng như nữ cảm nghiệm sâu sắc rằng giáo huấn của Đức Giêsu biến đổi chính cuộc đời của họ, họ chia sẻ kinh nghiệm này với các người khác, dạy bảo cho những người ấy tuân giữ mọi giới luật của Đức Giêsu mà thực ra chỉ tóm gọn lại trong một luật là tình yêu” (O.C., trang 304).

+ “Làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Truyền giáo không phải là tuyên truyền một ý thức hệ, dù là cao siêu tuyệt vời, mà là chủ trương không ngừng xây dựng một cộng đồng: cộng đồng của những con người nhờ chịu phép rửa mà muốn sống gắn bó mật thiết với nhau bởi cùng thuộc về một Thiên Chúa là “Cha, Con và Thánh Thần”.

+ “Dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em”. Truyền giáo không thể chỉ thu gọn lại trong việc kêu gọi người ta trở lại rồi bỏ mặc đấy. Giáo Hội sẽ phải giúp đỡ những tân tòng ngày qua ngày sống hoà nhập với cuộc đời mới mà họ đã bước vào.

b. Radermakers đưa ra nhận xét sau: “Chính Phúc Âm nhìn toàn bộ là một giáo huấn về cuộc sống, được hiểu như dấu chỉ của bí tích trong phép rửa tội và được triển khai cách hài hoà trong cuộc sống đời thường; đời sống luân lý trong cộng đồng Kitô hữu chẳng qua là sống Tin Mừng bằng việc làm cụ thể” (O.C., trang 365).

+ “Và đây Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”. Đây là lời tuyên bố cuối cùng và cũng là điểm cao nhất của lời Chúa phán vì là lời hứa bảo đảm một sự hiện diện tích cực và hữu hiệu vô bờ bến. Cuối Phúc Âm của mình, thánh Matthêu mới cao rao rằng lời thiên thần hứa với Giuse đã hoàn toàn ứng nghiệm nơi Đức Giêsu: “Người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”.

1.4. Potin kết luận: “Đức Giêsu không xa lìa Giáo Hội của Người. Mặc dầu ta không trông thấy Người, Người vẫn hiện diện ở mọi nơi mà Giáo Hội sẽ lan rộng tới, cho đến tận thế. Theo thánh Matthêu, Đức Giêsu không biến mất lên trời. Nhưng lời nói cuối cùng của Người cũng là câu sau chót của Phúc Âm, hứa rằng: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”. Vả lại trước đây há chăng Người đã chẳng tuyên bố: “Ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ” (Mt 18,20). Đấng Phục Sinh không ở lại trên núi Galilê, Người đi theo các tông đồ của Người trên mọi nẻo đường trần gian” (“Jésus, l’histoire vraie” NXB Centurion, 1994, trang 516).

2. BÀI ĐỌC THÊM:

2.1. “Bài kết thúc Phúc Âm thánh Matthêu thực ra là một sự khởi đầu, một sự khai mở (Đức Cha L. Daloz, trong “Le Règne de Dieu s’est approché”).

“Bài kết thúc Phúc Âm thánh Matthêu thực ra là một sự khởi đầu, một màn khai mở: đó là khai trương công cuộc truyền giáo toàn cầu. Phải suy niệm, và nhìn ngắm mới thấy rõ việc truyền giáo là con tim đang đập trong lồng ngực Giáo Hội có tác dụng kích thích Giáo Hội. Nhờ việc sai đi và uỷ quyền cho các tông đồ, và qua các ông, cho chung tất cả mọi môn đệ, Đức Giêsu thành người sống đương thời với chúng ta: Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế… Việc gặp gỡ Mười Một Tông đồ là điều có liên hệ chặt chẽ với mầu nhiệm Phục sinh. Trước khi đi vào cuộc khổ nạn Người đã báo trước: Sau khi sống lại, Thầy sẽ đến Galilê trước anh em. Sau khi Phục sinh, Người nói lại sứ điệp ấy với các phụ nữ đứng bên mồ và triệu tập các môn đệ: “Các bà hãy về báo cho anh em Thầy để họ đến Galilê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó”. Vì nhờ mầu nhiệm Phục sinh của Đức Kitô, sự phục sinh nhân loại mới có thể được thực hiện. Khi sai các môn đệ… Đức Giêsu phục sinh là cội nguồn của việc truyền giáo. Quyền năng Thiên Chúa đã cho Người sống lại trở nên quyền năng cứu độ cho mọi dân tộc. Chúng ta nhận biết quyền năng ấy, và chỉ có lòng tin mới tiếp nhận được thôi (cũng như 11 tông đồ) các ông gặp Đức Giêsu trên núi, là nơi vốn xảy ra những cuộc hiển linh của Chúa, như ở núi Sinai hay ở núi Hiển Dung. Thái độ của các tông đồ lúc ấy diễn tả lòng tin của ta: tôn thờ mà lại do dự: khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi. Cảnh tượng thật long trọng, giống như một cuộc hành lễ, chứ không còn là buổi gặp gỡ thân tình như những lần hiện ra trước đây. Là vì lần gặp gỡ này xác định nền tảng, hình thức và chân trời cho sứ mệnh truyền giáo vậy.

Nền tảng ấy là quyền hành mà Đức Giêsu nhận được: Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Không phải là quyền của kẻ có sức mạnh trong tay và thống trị, mà là ách êm ái và gánh nhẹ nhàng. Không phải là quyền chiếm đoạt như Tên Cám dỗ đã đề nghị cho Người. Nhưng là quyền của tình yêu không để bị khuất phục. Đó là sức mạnh của sự phục sinh được khơi nguồn trong Đức Giêsu và nhờ Người sức mạnh ấy làm thay đổi cả thế giới. Những nỗ lực truyền giáo, tinh thần can đảm để không ngừng thực thi sứ mệnh, tất cả đều nhờ sức mạnh ấy mà tìm được chỗ dựa bảo đảm. Sức mạnh này không phải do ta khôn ngoan, tài khéo, tận tuỵ mà có được… anh em hãy đi! Đó là một lệnh truyền. Từ buổi đầu cho đến nay, lệnh sai đi này vẫn vang lên không ngừng, vẫn luôn luôn gợi ra những sáng kiến mới lạ, những cuộc lên đường mới, một đà tiến mới tới miền xa xăm hay rất gần mà chúng ta đều mắt thấy tai nghe qua suốt dòng lịch sử.

Bởi lẽ chân trời truyền giáo là tất cả mọi quốc gia, và hạn kỳ là cho đến tận thế. Việc truyền giáo chẳng bao giờ cùng về mặt địa lý cũng như về lịch sử. Ta tham gia vào công việc này ngay ở nơi ta đang ở và thời đại ta đang sống. Mỗi người lãnh phần trách nhiệm của mình, nhưng mỗi người không phải chịu trách nhiệm về tất cả. Quan tâm thôi, không đủ; mà phải hành động. Mỗi người chúng ta được sai đến ở nơi mình đang ở; ta không thể chỉ là người hưởng ơn cứu độ, mà cũng còn là dụng cụ Chúa dùng để ơn cứu độ của Đức Giêsu Kitô đạt tới những kẻ khác, những người ta đang sống với, những người ta được sai đến với họ ở cận kề bên ta hay ở xa ta. Nhiệt tình do Đức Giêsu phục sinh ban cho vẫn có trong con tim của mọi cuộc đời Kitô hữu. Đời sống này trở nên suy nhược khi bóp nghẹt nhiệt tình này bằng lối sống vị kỷ, khép kín. Cần phải biết sống chia sẻ để khởi xơ cứng và chết. Cũng vậy, Giáo Hội không thể ở thể tĩnh. Giáo Hội được sai đi…

Hình thức việc truyền giáo cũng được chỉ rõ ràng: Làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ, nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, và dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em. Chúng ta nhận thấy có ba mặt: loan báo Tin Mừng để khơi dậy được những con người môn đệ, tham dự vào mầu nhiệm Phục sinh bằng việc lãnh nhận phép Rửa và các bí tích, sống đời sống mới bằng cách thi hành các điều Chúa truyền. Truyền giáo là tất cả như thế đó. Không có ba yếu tố này, công việc ấy không đầy đủ, và chẳng một yếu tố nào trong ba làm nên được công chuyện bởi lẽ “một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao”. Quả thực, đây là một thách đố đặt ra cho Giáo Hội, vì rằng mọi dân tộc đều có quyền chia sẻ mầu nhiệm Phục sinh, đón nhận ơn cứu độ của Đức Giêsu để được biến đổi và trở nên mới. Như thế các dân tộc ấy cũng hội nhập vào mầu nhiệm sự sống Thiên Chúa: “Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Qua việc truyền giáo của các tông đồ, Đức Giêsu vẫn theo đuổi công việc Người đã khởi sự trong mầu nhiệm Phục sinh của Người; Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế. Ta còn sợ hãi gì nữa, một khi có Đức Giêsu phục sinh đang ở cùng chúng ta.

2.2. “Là dịp để ta canh tân lại quyết định làm môn đệ trung thành của Đức Kitô” “Célébrer” (Nguyện san của Trung tâm Quốc gia về Mục vụ Phụng vụ) số 258 trang 42.

“Thiên Chúa vẫn luôn luôn là Emmanuel”, vẫn là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”. Việc Người-lên-trời không hẳn là một sự lìa bỏ. Phải học hỏi để nhận ra điều này dầu không trông thấy Người như các môn đệ đã thấy xưa. Chúa lên trời nhắc nhở ta sống thân phận của một người tin và yêu: tin rằng Người vẫn đang có mặt, và thực hành yêu thương để làm cho Người được hiện diện. Lễ này phải là dịp để ta canh tân lại quyết định trở thành những môn đệ trung tín của Đức Kitô: những môn đệ vững tâm vì Người vẫn có mặt bên ta “mọi ngày”, những môn đệ sẵn sàng đáp lại tiếng gọi sai đi truyền giáo cho “muôn dân” của thời đại hôm nay”.

2.3. “Emmanuel, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta” Rader-makers chú giải thêm cho bài viết ở trên.

Đức Giêsu Nagiarét xuất thân.

Từ miền Galilê của chư dân,

Đất thuộc Zabulon và Néptali

Người là ánh sáng bừng lên

Soi cho dân ngồi trong tăm tối;

Người là Quý Tử chí ái

Của Ngôi Thánh Phụ muôn đời quang vinh.

Để tha tội lỗi môn dân

Người đành hiến máu để làm Giao ước;

Người đã chỗi dậy ngày thứ ba

Làm cho muôn dân trở thành môn đệ.

Người là Emmanuel vẫn luôn có mặt,

Người còn đi trước các anh em

Đến những Galilê của mọi miền trái đất.

 

 

 

 

 

72. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt

 

HIỆN RA TẠI GALILÊ VÀ BAN SỨ MỆNH PHỔ QUÁT

GIẢI THÍCH BẢN VĂN

11 tông đồ: Ta biết Đức Giêsu có tất cả 12 tông đồ. Nhưng trong biến cố thụ nạn, Giuđa đã hư mất và sau đó đã tự vẫn; các tông đồ kia thì chạy trốn tán loạn. Bây giờ, trước lúc về trời, Đức Giêsu đã tập họp số còn lại được 11 người. Họ là hình ảnh của Giáo Hội. Giáo Hội là những người được Chúa tập họp lại, đúng ý nghĩa của chữ Hy Lạp Ekklêsia.

Xứ Galilêa: Địa điểm tập họp sao không phải là Giêrusalem, nơi từ trước tới giờ vẫn được coi là trung tâm của niềm tin? mà lại là Galilêa là vùng có nhiều người lương? Hẳn là Đức Giêsu có chủ ý: Giáo Hội theo quan điểm của Matthêu phải là Giáo Hội truyền giáo, Giáo Hội của thế giới.

Lên núi: Matthêu không quan tâm đến vị trí địa dư chính xác cho bằng quan tâm đến ý nghĩa thần học của vị trí ấy. Vì thế đừng mất công tìm hiểu xem “núi” này là núi gì. Ngày xưa Môisen đã gặp Thiên Chúa trên núi; rồi Êlia cũng đi tìm gặp Thiên Chúa trên núi; Đức Giêsu cũng biến hình trên núi; Hiến Chương Nước Trời cũng được Đức Giêsu công bố trên núi. Các dữ kiện Thánh Kinh trên cho thấy “núi” là nơi Thiên Chúa công bố luật. Vậy cũng như ngày xưa Thiên Chúa gặp Môisen “trên núi” để ban Luật cho dân Israel, thì nay Đức Giêsu cũng hẹn gặp 11 tông đồ trên núi để ban Luật mới cho Giáo Hội, Israel mới.

Thờ lạy: Chỉ một mình Thiên Chúa là Đấng đáng thờ lạy (xem Mt 4,10 trích Đnl 6,13). Vậy khi các tông đồ thờ lạy Đức Giêsu phục sinh thì có nghĩa là các ông nhìn nhận Ngài là Thiên Chúa.

Vẫn còn nghi nan: Giáo Hội mà Đức Giêsu tập họp tuy là Giáo Hội đã tin Ngài là Thiên Chúa nên đã “thờ lạy” Ngài, nhưng đức tin vẫn còn yếu kém, vẫn là “những kẻ hèn tin” (xem 6,30; 8,26; 14,31; 16,18).

Đức Giêsu lại gần: Nếu dịch thật đúng, phải là “Đức Giêsu đến với họ”. Nếu như Matthêu cố tình dùng động từ “đến” thì ngụ ý của Matthêu là Đức Giêsu thực hiện đúng tước hiệu mà Cựu Ước vẫn gán cho Đấng Messia, “Đấng đang đến” (Celui qui vient) (xem Đaniel 7,13; Tv 118,26; Mt 21,9; 23,39). Trước tòa án xét xử Ngài, chính Đức Giêsu đã xưng mình bằng tước hiệu đó (Mt 26, 54).

Được mọi quyền: Trong Đaniel 7,14 “Con Người” (Đấng Messia) sẽ được Thiên Chúa ban cho mọi quyền. Như vậy, ở đây Đức Giêsu tự giới thiệu mình chính là Con Người Messia.

Vậy các con hãy đi: Đức Giêsu sai các tông đồ (Giáo Hội) đi truyền giáo. Nên chú ý rằng ở chương 10, Đức Giêsu cũng đã sai như thế, nhưng các ông chưa đi, khi đó chính Chúa Giêsu đi và các ông đi theo. Bây giờ lúc Đức Giêsu sắp về trời rồi, thì chính thức tới lúc Giáo Hội phải ra đi truyền giáo.

Ở khắp muôn dân: Tính đại đồng của Giáo Hội. So sánh với 10,5 (“Đừng vào nhà lương dân...”), ta thấy câu nói này khó mà tưởng tượng nổi ngay buổi bình minh của Phục sinh. Sách Tông đồ Công vụ cho thấy các tông đồ đã tốn hàng chục năm trời mới mở được chân trời hướng về phía lương dân, và mãi 20 năm sau, công đồng Giêrusalem mới quyết định hướng truyền giáo ấy. Cho nên câu nói này không phải là câu nói của Đức Giêsu lúc ấy, mà đúng hơn là câu nói của Đức Giêsu sống trong Giáo Hội sau công đồng Giêrusalem (TđCv 15,5-12).

Thanh tẩy họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần: Giáo đoàn Matthêu đã có một nề nếp phụng vụ đàng hoàng với phép Rửa nhân danh Ba Ngôi. Lúc ban đầu người ta chỉ biết làm phép rửa nhân danh Đức Giêsu. Các thư của Phaolô cũng cho thấy những bước dò tìm chậm chạp của niềm tin vào Ba Ngôi.

Dạy bảo người ta: Matthêu tỏ ra quan tâm đến “mục vụ trí năng”: phải hiểu những gì mình tin (Mt 18,15-18), cho nên Matthêu nhấn mạnh lời Đức Giêsu dặn Giáo Hội phải “dạy bảo”.

Thầy ở với các con: Chỗ dựa và nơi an toàn duy nhất của Giáo Hội là Đức Giêsu. Ở đây Ngài tự xưng mình là Emmanuel. Lưu ý: khi hiện ra cho Giuse, Thiên sứ đã bảo tên đứa con của Maria sẽ là Emmanuel, vậy mà khi đứa trẻ ấy sinh ra thì Giuse lại đặt tên là… Giêsu! Bây giờ Đức Giêsu đã phục sinh mới thực là Emmanuel, Ngài đã sống lại rồi và sẽ mãi mãi ở với Giáo Hội “hết mọi ngày tới khi tận thế”.

CHÚ GIẢI CHI TIẾT

“Đi Galilê”: Ở đây tầm quan trọng của Galilê có tính cách thần học: Đấng Phục sinh gặp lại các môn đồ mình tại địa điểm hoạt động chủ yếu của Người trên trần gian (nhất là theo Matthêu và Marcô); điều đó giả thiết có sự liên tục giữa Chúa Kitô tại thế với Chúa Kitô phục sinh, sự liên tục mà câu 20a nhấn mạnh cách minh nhiên (“dạy họ giữ những gì Thầy đã truyền cho các con”). Cuộc Phục sinh ban cho lời vị Thầy xứ Galilê một uy quyền vô song; thay vì làm các môn đồ quên lời Chúa Giêsu Nagiaret để thế bằng thứ kinh nghiệm cao hơn về một cách thức hiện diện mới, cuộc Phục sinh thúc họ tuân giữ những gì Người đã truyền cho. Nếu thánh sử đã chẳng có ý niệm về mối tương quan giữa Chúa Giêsu-giảng dạy với Chúa Kitô-phục sinh ấy, có lẽ ông đã không mất công thu thập vào tác phẩm của mình tất cả những lời Chúa Giêsu mà ông đã “giữ” lại cho giáo đoàn của ông. Tóm lại, ở đây Matthêu muốn nhấn mạnh sự đồng nhất giữa “Chúa Giêsu của lịch sử” và “Chúa Giêsu của niềm tin”.

“Mọi quyền năng đã được ban cho Ta”: Công thức này rõ ràng ám chỉ đến những gì nói về Con Người trong Đanien 7,14: “Vương quốc, vinh dự đã được ban cho Người, và mọi dân nước, ngôn ngữ sẽ phục vụ Người”. Chúa Giêsu hoàn tất lời Người đã hứa trước Công nghị (26,64): “Từ đây các ngươi sẽ thấy Con Người ngồi bên hữu Quyền năng”. Đấng đã ban một uy quyền như thế cho Chúa Giêsu, đương nhiên phải là Chúa Cha (“đã được ban”: thể thụ động chỉ hoạt động Thiên Chúa: passif divin).

“Dạy họ tuân giữ”: dịch sát chữ; “dạy dỗ họ” (didaschontes). Sự nghiệp của Chúa Giêsu đã được Matthêu trình bày như một việc dạy dỗ, giảng thuyết, chữa lành bệnh tật (4,23 và 9,35). Chúa Gỉêsu đã truyền cho các môn đồ chữa lành bệnh tật trong 10, 1.8 và rao giảng trong 10,7; lệnh dạy dỗ được để dành cho đến cuối Tin Mừng, có lẽ vì Matthêu nghĩ rằng phận vụ dạy dỗ là quan trọng nhất trong Giáo Hội.

“Những gì Thầy đã truyền cho các con”: Mấy chữ này phát xuất trực tiếp từ Cựu Ước (Xh 7,2; 29,35; Đnl 1,41; 4,2…); chúng tương ứng với thành ngữ của Gioan: “giữ lệnh truyền của Người” (Ga 14,15; 15,10; 1 Ga 3,22tt…). Trong Matthêu, từ “giảng dạy” mang một màu sắc luân lý; không phải là dạy dỗ những bí mật kỳ diệu của một thứ kiến thức bí truyền như người Essêni, cũng chẳng phải là dạy người ta lý luận đúng về sự vật và về chính mình, nhưng tiên vàn là rao giảng, loan truyền, làm cho người ta nhận biết Chúa Kitô và lời Người giải thích thánh ý Chúa Cha. Sứ mệnh Kitô hữu do đó không nhắm mục đích cho người ta “biết” (một sự hiểu biết thuần lý) một Chúa Kitô hoàn toàn thiêng liêng, nhưng là một Chúa Kitô như ta thấy trong Tin Mừng, một Chúa Kitô đang mời gọi mọi người “nghe theo” lời Người giải thích luật Thiên Chúa.

“Thầy ở với các con”: Đoạn kết của Tin Mừng đối đáp lại phần mở. Nơi phần mở, Chúa Giêsu được trình bày như là Đấng có tên là Emmanuel, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta (1,23) từ lúc mới sinh. Đúng là một lối đóng khung vĩ đại, phô bày tất cả chiều kích phổ quát của con người Chúa Giêsu trên toàn lịch sử nhãn loại, đồng thời đánh dấu việc Người nhập thể vào thời gian và không gian.

KẾT LUẬN

Công cuộc vĩ đại: mang ánh sáng đến cho mọi dân nước không thể là công cuộc của con người. Tin Mừng, mỗi lần đề cập đến sự yếu tin của các sứ đồ đã cho thấy họ bất lực đến chừng nào. Nhưng trong công cuộc trên, các môn đồ không bị bỏ rơi một mình với các phương tiện yếu đuối của riêng họ. Chính Chúa đỡ nâng, cứu giúp họ: “Thầy ở với các con mọi ngày cho đến tận thế”. Cái nhìn nhắm rất xa, đến những thế kỷ tương lai của một lịch sử dài đang bắt đầu. Chân trời nằm nơi cái biên giới mà thời hiện tại sẽ được thay bằng một thời mới. Thời cánh chung trước khi tái giáng cách hữu hình ‘để phán xét’, Con Người sẽ ở với môn đồ mình để nâng đỡ hoạt động của họ. Người đang hiện diện và hoạt động giữa họ cách thiêng liêng, chẳng những khi họ tụ họp quanh bàn tiệc, tưởng niệm cái chết của Người, và ăn uống thần lương, nhưng luôn mãi và khắp nơi. Cộng đoàn cứu độ mới không chỉ tuyên xưng Chúa trong khắp vũ trụ, song chính Chúa đang hiện diện giữa cộng đoàn.

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1) Ngay từ đầu bài Tin Mừng hôm nay ta nghe nói đến 11 môn đồ chứ không phải 12 như thường lệ. Như vậy ta thấy ngay trong ngày Thăng Thiên, lúc Chúa Giêsu xuất hiện nơi chóp đỉnh vinh quang của Người và lúc các môn đồ nhận lãnh ủy nhiệm trọng đại nhất, cái hạt nhân đầu tiên của Giáo Hội vẫn mang trong mình thương tích gây nên do sự bội phản của Giuđa. Sẽ luôn như thế, cho đến tận cùng thời gian. Dù thánh thiện đến đâu, Giáo Hội cũng là một dân tội lỗi, là Hôn Thê đầy tì vết mà Phu Quân chỉ sẽ làm cho hoàn toàn thanh khiết trong ngày thế mạt (Kh 19, 7-8; 21,2).

2) Chúa Giêsu muốn gặp các môn đồ mình tại Galilê để cho họ thấy: dù đã trở nên Chúa vinh quang, Người vẫn là Giêsu Nagiaret mà họ đã thân quen. Chúa Giêsu luôn như thế, chỉ tình trạng của Người thay đổi thôi. Không có hai Giêsu: Giêsu thợ mộc (Mc 6,3) và Chúa Kitô hiển vinh đã lên trời. Chỉ có một Chúa Giêsu, Giêsu Kitô, Giêsu-Kitô nhân-thần. Vận mạng chúng ta giống vận mạng của Chúa Giêsu, Đầu chúng ta. Chúng ta cũng chỉ có một cuộc sống gồm hai tình trạng: tình trạng trần thế và tình trạng vinh hiển mai sau. Cái thống nhất hai tình trạng thành một chính là tình yêu. Trên trời, chúng ta vẫn tiếp tục làm điều chúng ta đã tập lúc còn tại thế là Yêu. Và nếu ngay bây giờ, trong Galilê thường nhật của chúng ta, chúng ta đã là môn đồ của Chúa Giêsu-thợ mộc, thì sau này chúng ta mới có thể hy vọng được thống trị với Chúa Kitô vinh hiển.

3) Đấng lên trời luôn luôn là chính Đấng đến với chúng ta, gặp chúng ta trong cuộc sống Kitô hữu của mọi ngày. Sở dĩ Người đã lên trời cách hữu hình và thôi tỏ mình cho các môn đồ trong hình hài thể xác, là để từ đây luôn hiện diện từng giây phút cách vô hình với họ. Nhờ trở nên thân xác vinh hiển, Chúa Giêsu không còn bị giới hạn vào một điểm không gian và thời gian. Từ đây Người có thể gặp chúng ta, tất cả và mỗi người, bất cứ giờ nào, nơi đâu. Nhờ Phục sinh và Thăng thiên, Chúa Giêsu hiện diện như vậy với mọi người trong lịch sử nhân loại. Chúng ta chỉ cần lợi dụng sự hiện diện vô hình nhưng thực sự ấy của Chúa Giêsu để sống với Người trong mọi giây phút đời ta: Và Người vẫn đến với ta, dù ta hoài nghi, dù ta chểnh mảng phục vụ Người; dù ta tội lỗi đến đâu, Người biết ta vẫn có thiện chí trong đáy tâm hồn, vẫn ao ước phụng sự Người, vẫn muốn sám hối đổi đời. Dù ta bất tín bất trung, người vẫn mời gọi ta trở nên sứ giả Tin Mừng trong môi trường sống.

4) “Hãy thâu nạp môn đồ khắp muôn dân”: Không phải chỉ có vấn đề học giáo lý như học bản cửu chương, phương pháp gia chánh hay cách sử dụng máy móc… Điều chủ yếu là đi vào trong mối tương giao thân mật và cá nhân với Chúa Kitô, là thực sự trở nên môn đồ, anh em (28, 10), bạn hữu của Người (Ga 15, 15). Và con đường tốt nhất để đi vào tình thân ái ấy với Chúa Giêsu là bắt chước Người, là trở nên như Người: hoàn toàn tận hiến cho Chúa Cha và nhân loại, là yêu mến. Chính lúc yêu mến mà ta hoàn tất điều Chúa Giêsu truyền dạy, vì tất cả giáo huấn của Người chỉ thu gọn vào điểm này: “Giới luật của Thầy là các con hãy yêu thương nhau” (Ga 13, 14).

 

 

 

 

 

73. Bài chia sẻ của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II

(Trích trong Mỗi Ngày Một Tin Vui)

 

LỄ CHÚA GIÊSU THĂNG THIÊN

Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã chia sẻ:

“Chúng ta được qui tụ quanh bàn thờ Chúa để cử hành việc Chúa lên trời. Chúng ta đã nghe được Lời Chúa: “Các con sẽ nhận lấy sức mạnh của Chúa Thánh Thần, Đấng sẽ ngự xuống trên các con và các con sẽ là những chứng nhân của Thầy cho đến tận cùng trái đất”.

Từ hai ngàn năm qua, những lời này của Chúa Phục Sinh thôi thúc Giáo Hội tiến ra khơi, tiến vào trong lịch sử của con người. Những lời này làm cho Giáo Hội trở nên một người luôn đồng hành với tất cả mọi thế hệ, làm cho Giáo Hội trở nên như men, làm dậy nên những hạt văn hoá trên thế giới. Hôm nay, chúng ta nghe lại những lời trên để với sức mạnh được canh tân, chúng ta đón nhận mệnh lệnh của Chúa “Hãy ra khơi”, mệnh lệnh mà Chúa đã nói với thánh Phêrô. Đây là một mệnh lệnh và tôi đã muốn làm vang dội lại trong Giáo Hội qua bức tông thư khởi đầu Ngàn Năm Mới. Và đây là mệnh lệnh mặc lấy một ý nghĩa sâu xa hơn theo ánh sáng của ngày lễ trọng Chúa Thăng Thiên. “Hãy ra khơi” ra nơi mà Giáo Hội cần tiến đến, không phải chỉ là một sự dấn thân truyền giáo mạnh mẽ nhưng nhất là và còn là một sự dấn thân mạnh mẽ sống chiêm niệm.

Như những tông đồ, những kẻ đã được chứng kiến biến cố Chúa lên trời, chúng ta cũng được mời gọi hãy hướng cái nhìn lên dung mạo của Chúa Kitô được hiển vinh trong vinh quang Thiên Chúa Cha. Chắc chắn rằng nhìn ngắm trời cao không có nghĩa là quên đi trần gian này. Và nếu rủi gặp phải cám dỗ, chúng ta chỉ cần lắng nghe lại lời hai người mặc áo trắng của đoạn Phúc Âm hôm nay nói rằng: “Tại sao các ông còn nhìn trời?”

Việc cầu nguyện chiêm niệm Kitô không làm cho chúng ta tránh khỏi việc dấn thân vào trong lịch sử. “Trời”, nơi Chúa Giêsu tiến vào không phải là một sự xa vắng nhưng như là một màn che khuất và là nơi lưu giữ một sự hiện diện. Đó là sự hiện diện của Chúa, một sự hiện diện không bao giờ bỏ rơi chúng ta cho đến khi Chúa trở lại trong vinh quang. Trong khi đó, thời giờ chúng ta sinh sống đây là thời giờ rất đòi hỏi. Đòi hỏi chúng ta phải làm chứng bởi vì nhân danh Chúa Kitô, sự ăn năn hối cải và sự tha thứ tội lỗi phải được rao giảng cho tất cả mọi dân nước. Và chính để làm sống lại ý thức này mà tôi đã muốn triệu tập hội nghị Hồng Y đặc biệt được bế mạc hôm nay (thứ Năm 24. 05. 2001). Các vị Hồng Y, từ các nơi trên thế giới mà tôi xin kính chào với lòng mộ mến huynh đệ. Các ngài trong những ngày qua đã hội họp với tôi để bàn về một vài đề tài trong số những đề tài nổi bật nhất của công việc rao giảng Phúc Âm và làm chứng Kitô trong thế giới hôm nay, vào khởi đầu Ngàn Năm Mới. Đây, đối với chúng tôi, là giây phút sống hiệp thông, trong đó chúng tôi cảm nghiệm được một phần nào của niềm vui đã tràn ngập tâm hồn các tông đồ ngày xưa, sau khi Chúa Phục Sinh chúc lành cho các ngài và tách rời ra khỏi các ngài để lên trời. Thật vậy, thánh Luca đã ghi lại rằng: “Sau khi bái lạy tôn thờ Chúa, các tông đồ trở lại Giêrusalem với niềm vui lớn lao và các ngài luôn ở trong đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa.”

Và tiếp sau trong bài giảng, Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã khai triển thêm bản chất cũng như sinh hoạt truyền giáo của Giáo Hội, và cuộc hội Hồng Y cũng được Đức cố Giáo Hoàng đặt trong viễn tượng này: “Thực hiện sự hiệp thông và hiệp nhất trong Giáo Hội, để Giáo Hội có thể rao giảng Phúc Âm Chúa một cách đáng tin hơn cho mọi anh chị em.”

Trong thánh lễ Chúa Thăng Thiên và trong giây phút này, Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã cho chúng ta biết ý nghĩa của biến cố quan trọng này: Không phải Chúa lên trời để bỏ chúng ta, mà Ngài bước sang một sự hiện diện mới với chúng ta trong Chúa Thánh Thần. Ngài luôn ở cùng chúng ta luôn mãi cho đến tận cùng. Và Ngài muốn mỗi người chúng ta mở rộng tâm hồn đón nhận hồng ân Thánh Thần của Ngài để làm chứng cho Ngài trong môi trường chúng ta sinh sống.

Từ Chúa Nhật này cho tới Chúa Nhật Chúa Thánh Thần hiện xuống, chúng ta hãy dành thời giờ để nhìn lại cuộc sống của mình, mở rộng tâm hồn đón nhận Chúa Thánh Thần và sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần để làm chứng cho Chúa đến mức độ nào rồi. “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận cùng và các con sẽ làm chứng cho Thầy khắp nơi trên mặt đất này”.

Xin Chúa gìn giữ chúng ta vững mạnh trong đức tin để chúng ta có thể làm chứng cho Chúa mọi nơi mọi lúc.

 

 

 

 

 

74. Sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội - Jos. Vinc. Ngọc Biển

 

Xưa cũng như nay, Giáo Hội luôn quan tâm đến sứ mạng truyền giáo, bởi xác định đây là bản chất của Giáo Hội. Mất yếu tố này, chúng ta mất đi căn tính, hay nói đúng hơn, không phải là người Công Giáo đúng nghĩa, bởi lẽ đã là người Công Giáo, thì việc truyền giáo là của chúng ta, thuộc về chúng ta, vì thế, không lẽ gì chúng ta thờ ơ với sứ vụ này được!

Sứ mạng này được khởi đi từ Thiên Chúa Cha khi sai Con Một của mình xuống trần gian để loan báo về Nước Trời cho muôn dân và cứu độ nhân loại; bắt nguồn từ lệnh tryuền của Đức Giêsu cho các môn đệ trước khi về trời: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28,19-20); lệnh truyền đó đã được tiếp diễn trong suốt dọc dài lịch sử từ thời các Tông đồ cho đến ngày nay và mãi về sau.

1. Đức Giêsu ra đi, các Tông đồ, môn đệ tiếp bước

Lúc sinh thời, đã có lần Đức Giêsu mặc khải: “… tôi từ nơi Người mà đến và chính Người đã sai tôi” (Ga 7,29); khi sắp chia tay các Tông đồ để đi chịu chết chuộc tội thiên hạ, thấy các ông buồn bã vì sắp phải chia ly, kẻ đi người ở, Ngài đã củng cố niềm tin của họ: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy” (Ga 14,1); Ngài căn dặn và an ủi thêm: “Trong nhà Cha của Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy sẽ trở lại và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14,2-3); Sau khi sống lại, Đức Giêsu đã báo trước giây phút Ngài sẽ về cùng Cha của Ngài, Ngài nói: “Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em” (Ga 20,17).

Qua lời dạy của Đức Giêsu, nhất là biến cố về trời của Ngài, Đức Giêsu mặc khải mà chúng ta biết, chúng ta có một nơi ở khác, nơi ở đó là một nơi tràn đầy hạnh phúc vì được diện kiến Thiên Chúa. Niềm tin này cũng được thánh Phaolô nói nhắc đến: “Còn chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta” (Pl 3,20). Còn gì hạnh phúc cho bằng, khi Nước Trời là cùng đích của ta, nơi đó, chúng ta sẽ được sung mãn nguồn tình yêu, và không bao giờ sợ mất nữa, nơi mà: “trộm cướp không thể lấy mất và mối mọt không thể gặm nhấm”.

Cuối cùng, Đức Giêsu đã được cất lên trời trước mắt các ông, để như lời Ngài đã nói: “Thầy đi dọn chỗ cho anh em”.

Tuy nhiên, Đức Giêsu đã để lại cho các Tông đồ, môn đệ lệnh truyền của Ngài, để các ông ra đi loan báo và làm chứng nhân cho Ngài đến tận cùng trái đất, hầu mọi người sẽ được lên nơi mà Đức Giêsu đã mặc khải: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28,19-20).

Như vậy, sau khi Đức Giêsu về trời, các Tông đồ và môn đệ đã xuống núi để ra đi thi hành lệnh truyền đó của Đức Giêsu, bắt đầu từ Giêrusalem và đến tận cùng trái đất…

2. Truyền giáo là bản chất của chúng ta

Nếu trước kia, Đức Giêsu truyền lệnh cho các Tông đồ và môn đệ lên đường loan báo Tin Mừng cứu độ, thì hôm nay, cũng cùng lệnh truyền đó, Ngài trao phó cho mỗi chúng ta sứ mệnh loan báo Tin Mừng cho muôn dân.

Câu nói nổi tiếng của Thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi giáo đoàn Côrintô cũng phải là nỗi thao thức của tất cả chúng ta: “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (1Cr 9,16); và, lệnh truyền của Đức Giêsu năm xưa: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16,15), vẫn mãi là một lời mời gọi, luôn thôi thúc, mang tính mầu nhiệm và cấp thiết cho Giáo Hội cũng như mọi thành phần, qua mọi thời, mọi nơi.

Vì thế, ở bất cứ nơi đâu, ngoài việc cầu nguyện cho công cuộc truyền giáo, mỗi người phải thể hiện vai trò ngôn sứ mà mình đã lãnh nhận ngày chịu Phép Thánh Tẩy bằng và qua hành động. Trong nhiều cách thế, có lẽ là trở nên những chứng nhân của những lời loan báo là điều quan trọng và có tính khả tín.

Cách thức này đã được Đức Thánh Cha Phaolô VI nói đến trong Thông điệp “Evangelii Nuntiandi”, ngài nói: “Người thời nay sẵn sàng nghe những chứng nhân hơn là thầy dạy và người ta có nghe theo thầy dạy là vì thầy dạy cũng là chứng nhân” (Thông điệp “Evangelii Nuntiandi” số 41).

Thật vậy, truyền giáo và làm chứng chẳng khác gì như hai mặt trên một bàn tay, nên không thể nói rằng: tôi chỉ nói, loan báo về Chúa còn việc tôi sống là chuyện khác!

Trong thế giới ngày nay, con người dần mất đi cảm thức về tâm linh, từ đó như một hệ quả, họ sống trong sự thất vọng, bởi khám phá ra trong cuộc sống có nhiều điều không thỏa lấp được nỗi khát vọng thâm sâu trong tâm hồn của con người. Vì thế, là người kitô hữu trong thế giới hôm nay, chúng ta phải là những chứng nhân của niềm hy vọng, khi mang trong mình tràn đầy cảm nghiệm về Thiên Chúa. Thánh Phêrô cũng đã nói đến vai trò chứng nhân của niềm hy vọng, ngài nói: “Hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của anh em” (1Pr 3,15).

Ngoài ra, làm chứng cho Chúa trong một xã hội đang dần mất đi tinh thần liên đới, trách nhiệm với nhau, là một tiêu điểm trong xã hội hôm nay mà chúng ta phải quan tâm, bởi lẽ, con người ngày nay họ luôn bị vô cảm, dửng dưng và ích kỷ, không muốn liên lụy đến bản thân. Thực trạng cho thấy: “không thiếu những cái đầu lớn, nhưng bên cạnh đó lại quá nhiều trái tim nhỏ”; hay “không thiếu gì cái đầu nóng, nhưng lại có trái tim lạnh”. Là kitô hữu, chúng ta được mời gọi dấn thân trong môi trường đang trở nên xa lạ đối với cuộc sống con người. Khi tiến bước và trở nên chứng nhân như thế, mỗi chúng ta trở nên một hình ảnh của Đức Giêsu hiền hòa, nhân hậu, bao dung, liên đới và sẵn sàng tha thứ cho mọi người. Làm được như thế, ấy là lúc chúng ta: “ngửi thấy mùi chiên”.

Lạy Chúa Giêsu, lệnh truyền của Chúa khi xưa cho các Tông đồ, môn đệ cũng chính là lệnh truyền cho mỗi chúng con ngày hôm nay. Xin Chúa ban cho chúng con ý thức được điều đó và sẵn sàng ra đi loan báo Tin Mừng tình thương. Tin Mừng cứu độ đến cho hết mọi người. Amen.

 

 

 

 

 

75. Làm chứng cho Chúa hôm nay - Lm. Đan Vinh

 

1. HỌC LỜI CHÚA

1.1. Ý CHÍNH:

Sau khi sống lại, Chúa Giêsu đã hiện ra nhiều lần để chứng minh cho các môn đệ thấy Người đã thực sự từ cõi chết sống lại. Nhưng lần này trước khi về trời, Đức Giêsu hiện ra lần cuối với Nhóm Mười Một trên một ngọn núi tại miền Ga-li-lê. Người không chứng minh Người đã sống lại như các lần trước, nhưng trao sứ mạng rao giảng Tin Mừng phổ quát cho Hội Thánh qua Nhóm Mười Một môn đệ như sau: “Hãy đi thâu nạp môn đồ khắp muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Người cũng truyền cho các ông tiếp tục dạy cho các tín hữu phải tuân giữ các huấn luyện của Người và hứa sẽ ở cùng các ông mọi ngày cho đến tận thế.

1.2. CHÚ THÍCH:

– C 16-17: + Mười một môn đệ: Nhóm Mười Hai lúc này đã bị mất Giu-đa phản bội, nên chỉ còn mười một người (x. Mt 10,1-4; 27,5). + Đi tới miền Ga-li-lê: Vâng lời dạy của thiên thần nhắn cho các môn đệ qua hai phụ nữ và sau đó Chúa Phục Sinh cũng nhắc lại lệnh truyền này khi hiện ra với hai bà này vào sáng sớm Ngày Thứ Nhất trong tuần (x. Mt 28,7.10). Ga-li-lê là trung tâm truyền giáo của Đức Giêsu trong thời gian Người đi rao giảng Tin Mừng Nước Trời. + Đến ngọn núi: Tin Mừng không xác định là núi nào. Còn sách Công Vụ Tông Đồ cho biết là núi Ô-liu (x. Cv 1,12). Núi tượng trưng nơi Thiên Chúa mặc khải cho các ngôn sứ thời Cựu Ước (x. Xh 3,1-5; 19,20; 1 V 19,8-14). Trong Tin Mừng Mát-thêu, nhiều lần Đức Giêsu cũng mặc khải những điều quan trọng trên núi. Chẳng hạn: Công bố Tám Mối Phúc Thật trên một quả núi (x. Mt 5,1), biến hình trước mặt ba môn đệ trên núi cao (x. Mt 17,1); ra lệnh cho các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng cho mọi dân tộc trên một ngọn núi (x. Mt 28,16). (17) + Khi thấy Người, các ông bái lạy: Các môn đệ thấy Chúa Giêsu Phục Sinh và biểu lộ niềm tin bằng việc sấp mình bái lạy Người. Hành động này tương tự như các đạo sĩ đã sấp mình bái lạy Hài Nhi Cứu Thế (x. Mt 2,2.8.11); Người phong cùi bái lạy xin Đức Giêsu chữa lành (x. Mt 14,33); Người đàn bà xứ Ca-na-an bái lạy xin Đức Giêsu chữa cho con gái bà khỏi bị quỷ ám (x. Mt 15,25). + Có mấy ông lại hoài nghi: Nói đến có môn đệ còn hoài nghi sau khi các ông đã bái lạy Chúa xem ra bất nhất và khó hiểu. Thực ra, lúc này khi từ giã Chúa Giêsu sắp về trời thì mọi môn đệ đều đã tin, và không ai còn hoài nghi gì nữa. Nhưng các trình thuật Tin Mừng hiện ra khác đều nói đến sự nghi ngờ, và đều được Người đánh tan sự nghi ngờ ấy. Riêng Tin mừng Mátthêu ghi nhận sự kiện môn đệ hoài nghi vào thời điểm này và cũng đã được Chúa Giêsu đánh tan khi cho các ông biết Người đã được Thiên Chúa trao toàn quyền trên trời dưới đất (x. Mt 28,18). Theo một số tác giả thì sự hoài nghi ở đây nhắm đến sự hoài nghi của cộng đoàn nói chung, vì từ đây các tín hữu sẽ không còn thấy Chúa Phục Sinh hiện ra nữa. Sự hoài nghi này sẽ được Lời Chúa đánh tan. Do đó, các tín hữu cần dựa vào Lời Chúa để củng cố đức tin hầu được chúc phúc như Chúa Phục Sinh đã nói với Tô-ma: “Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20,29).

– C 18-19: + Đức Giêsu đến gần: Đến gần là hành động ưu ái đặc biệt, lấp đầy khoảng cách giữa thiên quốc và trần gian mà chỉ Đức Giêsu Phục Sinh mới làm được. + Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất: Lúc khởi đầu việc rao giảng Tin Mừng, Đức Giêsu đã từ chối nhận quyền do ma quỷ hứa ban cho Người trên mọi nước thế gian (x. Mt 4,8-10), thì giờ đây, sau khi đã vâng phục thánh ý Chúa Cha để đi con đường “Qua đau khổ vào vinh quang”, Người đã được Chúa Cha ban mọi quyền năng trên trời dưới đất, để ứng nghiệm lời tuyên sấm trong sách Đa-ni-en về Con Người: “Người được ban tặng quyền bính, vinh dự, vương triều. Tất cả các dân các nước và các tiếng nói đều phải phụng sự Người” (Đn 7,14), và quyền bính của Người còn bao trùm cả trời đất (x. Cv 13,33). + Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ: Các môn đệ đại diện Hội Thánh nhận bài sai của Chúa Giêsu để đi chinh phục thế giới. Từ nay Hội Thánh phải nhân danh Chúa Giêsu mà làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Người, trước tiên là những người Do thái (x. Mt 10,5-6; 15,24), rồi đến mọi dân trên thế giới (x. Mt 8,11; 21,41). + Làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần: Làm cho người ta trở thành môn đệ Chúa Ki-tô gồm cả việc rao giảng Tin Mừng. Để chu toàn việc này, các môn đệ phải cho họ lãnh nhận phép rửa nhân danh Chúa Ba Ngôi, nghĩa là đặt người dự tòng trong tương quan với Ba Ngôi Thiên Chúa là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.

– C 20: + Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền: Việc đào tạo người ta nên môn đệ Chúa phải được tiếp tục sau phép rửa qua lời giảng dạy, cho tới khi Hội thánh đạt tới sự viên mãn của Đức Ki-tô (x. Ep 1,23). Vì thế các Tông đồ phải hướng dẫn muôn dân tuân giữ các giới răn của Chúa. Dân của Giao Ước Mới phải sống theo Luật Mới do Chúa Giêsu công bố mà các Tông đồ phải truyền đạt. + Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế: Chúa Ki-tô Phục Sinh hứa sẽ hiện diện mãi trong Hội Thánh để hỗ trợ, giúp Hội Thánh chu toàn sứ mạng rao giảng Tin Mừng cho đến tận thế. Vì Người chính là Em-ma-nu-en, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (x. Mt 1,23).

1.3. CÂU HỎI:

1) Tại sao chỉ còn Mười Một môn đệ có mặt khi Chúa lên trời? 2) Tại sao các môn đệ lại họp mặt tại miền Ga-li-lê? 3) Chúa lên trời trên núi nào? 4) Tại sao các môn đệ bái lạy Đức Giêsu khi Người xuất hiện? 5) Tại sao Tin Mừng nhắc đến thái độ hoài nghi của các môn đệ vào lúc này? 6) Tại sao trước khi lên trời Chúa Giêsu tuyên bố mình được trao toàn quyền trên trời dưới đất?

HỎI 7) Mệnh lệnh thâu nạp môn đồ khắp muôn dân cũng như công thức rửa tội nhân danh Chúa Ba Ngôi chính xác đến mức độ nào, đang khi sách Công Vụ Tông Đồ lại cho biết Hội Thánh sơ khai dùng công thức rửa tội “nhân danh Chúa Giêsu” (x. Cv 2,38; 10,48)?

ĐÁP 7): Thực ra, mệnh lệnh rao giảng Tin Mừng cho mọi dân tộc và việc nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần trong đoạn Tin Mừng Mát-thêu nói trên bắt nguồn tư Chúa Giêsu. Tuy nhiên việc mở rộng sứ mạng rao giảng Tin Mừng cho mọi dân tộc đã dần dần được sáng tỏ do tác động của Chúa Thánh Thần (x. Cv 11,15-18). Sau một thời gian sống và rao giảng Tin Mừng, Hội Thánh do kinh nghiệm thực tế đã dần dần hiểu biết trọn vẹn lệnh truyền của Chúa Giêsu và đưa công thức rửa tội nhân danh Ba Ngôi là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần vào phụng vụ phép rửa. Đến khi biên soạn Tin Mừng thứ nhất (khoảng thập niên 80-90), Mát-thêu được Thánh Thần linh hứng, đã đưa mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi vào lệnh truyền rửa tội của Chúa Giêsu cho các môn đệ trước khi lên trời (x. Mt 28,19).

2. SỐNG LỜI CHÚA

2.1. LỜI CHÚA: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,18b-20).

2.2. CÂU CHUYỆN:

1) Dùng lời nói để làm chứng cho Chúa:

June là một bé gái 5 tuổi có khuôn mặt đẹp như thiên thần và rất lanh lợi. Cha mẹ em đều là nhà giáo có lòng đạo đức. Mẹ thường đem em đi theo mỗi khi bà có việc phải đi ra ngoài. Một hôm, hai mẹ con dắt nhau vào trong bưu điện thành phố. Đang lúc bà mẹ lo gửi thư bảo đảm cho một người thân, thì bé June chạy chơi loanh quanh gần đó quan sát người ta làm việc. Bấy giờ một ông lão ngồi gần đó thấy bé gái kháu khỉnh dễ thương, liền bắt chuyện làm quen như sau: “Này cháu bé. Cháu có mái tóc đẹp lắm! Mà tại sao mái tóc của cháu lại đẹp đến thế nhỉ?” Cô bé liền vui vẻ trả lời: “Thưa ông, mẹ cháu dạy rằng: Chính Thiên Chúa đã ban mọi sự tốt đẹp cho cháu và cháu phải biết tạ ơn Người nhiều lắm đó!” Nói xong em nhìn thẳng vào mặt ông lão, nhoẻn một nụ cười thật dễ thương và hỏi: “Thế ông đã được Chúa ban cho điều gì tốt đẹp chưa? Ông có đươc Chúa ban ơn cứu độ không?”. Ông lão kinh ngạc và xúc động trước câu hỏi đơn sơ của cô bé. Ông ngẩn người suy nghĩ giây lát về tình trạng của mình rồi đáp: “Chưa đâu, cháu ạ”. Em bé liền nói: “Thế thì ông phải cầu xin Chúa ban ngay đi. Rồi Chúa sẽ cho ông trở thành con của Chúa, và ông sẽ được Chúa biến đổi nên một người mới rất xinh đẹp đó!” Nói xong, bé vội chạy về phía mẹ đang vẫy gọi ở lối đi bên kia. Ít tuần sau, ông lão tìm đến một nhà thờ xin học giáo lý dự tòng. Về sau ông cho biết: chính câu nói đơn sơ của cô bé hôm ấy đã đánh động tâm hồn vốn chai lì của ông, và luôn ám ảnh khiến ông không thể quên được. Cuối cùng ông đã quyết định phải theo đạo để được trở nên con của Thiên Chúa và được biến đổi nên tốt đẹp như em đã nói.

Câu nói của một bé gái tuy đơn sơ nhưng đã có sức mạnh khiến một người già cứng lòng phải suy nghĩ và quay trở về với Chúa. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có dám biểu lộ đức tin trước mặt người khác không? Có dám nói về Chúa cho những người chưa nhận biết Chúa để họ tin Chúa và đi theo làm môn đệ Người hay không?

2) Lúc cấp bách cần truyền đạt đức tin cách cụ thể:

Trong tác phẩm “Hương rượu mới”, tác giả thuật lại về giờ phút cuối cùng của cha mình như sau: Bấy giờ cha tôi đang hấp hối trên giường bệnh. Trong khi tôi chỉ biết ngồi nhìn cha với tâm trạng chán nản thất vọng, thì một nữ tu Công giáo với dáng người nhỏ nhắn đã bước vào phòng. Chị đi vòng qua bên kia giường cha tôi đang nằm, cầm lấy tay ông đưa lên vỗ nhè nhẹ. Sau đó chị hỏi: “Bác có nghe cháu nói không?” Ông cụ gật đầu. Đoạn chị nói với ông: “Trước đây bác đã tin Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế chưa?” Ông cụ lắc đầu. Chị nữ tu liền nói: “Bây giờ bác có muốn tin Chúa không?” Ông cụ đáp: “Dạ có”. Thế là chị yêu cầu ông lặp lại theo mình: “Lạy Chúa Giêsu, con tin nhận Chúa là Đấng Cứu Thế của con. Xin Chúa ban cho con được làm môn đệ Chúa và được ơn tái sinh làm con Thiên Chúa trên trời. Lạy Chúa Giêsu, xin đón nhận linh hồn con”. Ông cụ lặp lại theo từng câu và sau đó từ từ nhắm mắt qua đời.

2.3. SUY NIỆM:

1) Thế nào là làm chứng cho Chúa?

Làm chứng cho Chúa là giới thiệu Đức Giêsu cho người khác. Muốn giới thiệu Đức Giêsu thì trước hết là phải làm cho đức tin nơi mình được lớn lên nhờ năng tham dự các buổi hiệp sống Tin Mừng với cộng đoàn hằng tuần, năng đến nhà thờ dự thánh lễ và rước lễ sốt sắng để được kết hiệp với Chúa, năng cầu nguyện bằng lời nguyện tắt…

Mỗi tín hữu đã chịu phép Thêm Sức đều đón nhận được ơn Chúa Thánh Thần để nên trưởng thành về đức tin và chu toàn sứ mạng làm chứng cho Chúa Giêsu theo lệnh Chúa truyền trước khi về trời: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28,19). Cụ thể chúng ta cần loan báo Tin Mừng cho những người chưa biết Chúa, bắt đầu từ những người thân như: chồng vợ, con cái, cha mẹ, anh chị em… Rồi đến những người cùng xóm ngõ, bạn bè, đồng nghiệp … Sau cùng là mọi người nhất là những người bất hạnh, các bệnh nhân, đồng bào dân tộc vùng sâu vùng xa…

2) Phương cách truyền giảng Tin Mừng của Đức Giêsu:

Khi ra giảng đạo, Đức Giêsu đã nhận sứ mạng Thiên Sai từ nơi Chúa Cha khi được Chúa Cha giới thiệu là “Con yêu dấu luôn làm đẹp lòng Cha” (x. Mt 3,17) và truyền dạy các môn đệ “Hãy vâng nghe lời Người” (x. Mt 17,5).

Người đã thực thi sứ mạng Thiên Sai ấy nhờ kết hiệp với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần: Được Thần Khí dẫn vào hoang địa để chịu ma quỷ cám dỗ (x. Mt 4,1); Nêu gương cầu nguyện trước khi chọn mười hai Tông đồ (x. Lc 6,12-16). Hằng ngày đi cầu nguyện với Chúa Cha ngay từ sáng tinh sương (x. Mc 1,35).

Người nêu gương khó nghèo “Con Người không có chỗ dựa đầu” (Mt 8,20), ăn ở “hiền hậu và khiêm nhường” (x. Mt 11,29), nêu gương hầu hạ rửa chân môn đệ trước khi dạy bài học yêu thương phục vụ lẫn nhau (x. Ga 13,12-15), và chỉ thị cho các môn đệ cách ứng xử khiêm tôn yêu thương phục vụ khi sai các ông đi thực tập truyền giáo (x. Mt 10,5-42).

Người giảng dạy Tin Mừng trong các hội đường Do thái (x. Mt 13,54), giữa cánh rừng vắng (x. Mt 14,13), ở ven biển hồ (x. Mt 13,1), vừa đi đường vừa giảng như tại Giê-ri-cô (x. Lc 19,1-6), giảng trong bữa tiệc (x. Lc 5,29-32). Người giảng trong các thành thị làng mạc trên đường lên Giê-ru-sa-lem (x. Lc 13,22), và tại Đền thờ Giê-ru-sa-lem (x. Ga 10,22-30) …

Người trình bày giáo lý bằng những ví dụ cụ thể thường ngày là các dụ ngôn để diễn tả các mầu nhiệm cao siêu về Nước Trời (x. Mt 13,3-52). Người giảng dạy như Đấng có thẩm quyền (x. Mt 7,29).

Người rao giảng Tin Mừng Nước Trời kèm theo việc làm phép lạ cứu nhân độ thế như: xua trừ ma quỷ và chữa lành các bệnh hoạn tật nguyện trong dân (x. Mc 1,21-22.32-34), quan tâm đáp ứng nhu cầu tinh thần và thể xác của dân chúng và đòi môn đệ cộng tác vào phép lạ nhân bánh ra nhiều (x. Mt 14,15-18).

Nhờ rao giảng theo phương cách bác ái cụ thể như vậy mà Đức Giêsu đã được dân chúng tin theo rất đông, thể hiện ra khi Người khải hoàn vào Giê-ru-sa-lem (x. Mt 21,10-11).

3) Phương cách hữu hiệu làm chứng cho Chúa hôm nay:

Ngày nay để làm chứng cho Chúa cách hữu hiệu, mỗi tín hữu cũng cần học tập phương cách truyền giáo của Đức Giêsu. Cụ thể làm những việc như sau:

– Cầu nguyện để xin ơn trợ giúp: Muốn làm chứng cho Chúa cách hữu hiệu trước hết phải cầu nguyện như lời Đức Giêsu dạy: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về” (Lc 10,2). Phải cầu nguyện xin ơn Chúa giúp vì đây là việc làm vượt khả năng tự nhiên giới hạn của chúng ta, như lời Chúa Giêsu đã nói trong diễn từ giã biệt: “Vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5).

– Nêu gương sống tốt lành thánh thiện: chúng ta còn phải tỏa hương thơm nhân đức, có thái độ ứng xử hiền hòa nhẫn nhịn chịu đựng tha nhân, biết quên mình để nghĩ đến người khác, khiêm tốn phục vụ người nghèo như phục vụ chính Chúa Giêsu. Nhất là các vị chủ chăn cần ý thức mình là hiện thân của Đức Giêsu trước mặt lương dân, nên cần noi gương hiền hậu bao dung và khiêm tôn phục vụ khi làm các thủ tục về hôn phối giữa tín hữu đạo gốc với tân tòng hay phép chuẩn khác đạo, hoặc trong thánh lễ có người lương tham dự… Chính thái độ bao dung nhân hậu và thánh thiện thanh thoát của các vị mục tử sẽ gây ấn tượng tốt và giúp người lương hiểu đúng về đạo công giáo và dễ tin theo Chúa sau này.

– Quảng bá văn hóa đức tin công giáo: Làm chứng cho Chúa bằng phương tiện truyền thông xã hội như lập nhiều website Công Giáo nội dung phong phú và có uy tín, xuất bản các sách truyện tranh Kinh thánh, truyện các thánh, sách hộ giáo nghắn gọn dễ hiểu để giải tỏa các thắc mắc về đức tin, luân lý công giáo… Trao tặng các cỗ tràng hạt kèm theo sách hướng dẫn lần hạt Mân côi kèm theo Lời Chúa và lời cầu trước mỗi mầu nhiệm Vui Sáng Thương Mừng khi lầm hạt mân côi…

– Chủ động đi bước trước đến với tha nhân: Mỗi người cần làm chứng cho Chúa bằng việc chủ động mỉm cười làm quen với người mới gặp, lắng nghe những người đau khố tâm sự hoàn cảnh để cảm thông và khôn ngoan đáp ứng theo khả năng giới hạn của mình… Chọn một người chưa biết Chúa, một gia đình lương mình quen biết để cầu nguyện cho họ …

– Lời rao giảng phải đi đôi với việc bác ái cụ thể: Ngoài việc làm chứng cho Chúa bằng việc trình bày về Chúa, Hội thánh ngày nay còn chú trọng làm việc bác ái cụ thể như: Cứu trợ thiên tai lũ lụt, mở cô nhi viện, nhà nuôi người già, giúp người khuyết tật, mở lớp học tình thương, mở các đợt khám bệnh và phát thuốc miễn phí cho người nghèo vùng sâu vùng xa, mở bữa ăn miễn phí cho người hành khất hay quán cơm phục vụ giá rẻ cho người lao động v.v… Ngoài ra về mặt xã hội, Hội Thánh cũng khuyến khích các tín hữu tích cực tham gia làm công tác xã hội với các người thiện chí như: Dọn vệ sinh môi trường, phòng chống dịch bệnh, hiến máu nhân đạo để cứu người bị tai nạn, góp phần đẩy lùi và loại trừ các tệ nạn xã hội như cờ bạc, hút chích sì-ke, đĩ điếm, say xỉn ra khỏi khu vực…

TÓM LẠI: Nhờ các việc bác ái cụ thể được thực hiện trong sự khiêm tốn yêu thương vô vụ lợi, mà Tin Mừng Nước Trời sẽ tỏa sáng, giúp cho nhiều anh em lương dân nhận biết chúng ta thực là môn đẹ Chúa Giêsu và tôn vinh Thiên Chúa Cha chúng ta ở trên trời như lời Đức Giêsu: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).

2.4. THẢO LUẬN: 1) Theo bạn, các công tác bác ái từ thiện noi gương Đức Giêsu như: chia sẻ cơm áo gạo tiền cho những người nghèo đói bệnh tật… có hữu hiệu trong xã hội hiện nay không? Tai sao? 2) Bạn có kinh nghiệm nào để giới thiêu Chúa cách hữu hiệu cho người bên cạnh trong một chuyến đi xa, hay một bệnh nhân nằm chung phòng tại bệnh viện …?

2.5. NGUYỆN CẦU:

– Lạy Chúa Giêsu. Hôm nay cùng với Hội Thánh, chúng con mừng lễ Chúa về trời. Trời đích thực là quê hương của chúng con, là nơi chúng con luôn hướng về. Tuy nhiên, trong bài Sách Thánh hôm nay, thiên thần lại nói với các môn đệ: “Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời” (Cv 1,11). Qua đó, Chúa muốn dạy rằng: điều quan trọng nhất các ông phải làm bây giờ là tiếp tục công trình cứu độ của Chúa Giêsu, bằng việc loan Tin Mừng “bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất”. Làm chứng trước hết bằng sự rao giảng Tin Mừng Nước Trời với ơn trợ giúp của Chúa Thánh Thần. Nhưng chúng con cũng có thể làm chứng bằng những hành động bác ái yêu thương, bằng sự khiêm nhường phục vụ, bằng việc quảng đại cho đi, bằng việc hy sinh bản thân vì lòng mến Chúa và yêu tha nhân… Xin giúp chúng con chu tòan sứ mạng ấy trong cuộc sống đời thường của chúng con.

– Lạy Chúa. Chúng con thường hay cho tằng: “Tôi phải lo cái ăn cái mặc cho bản thân và gia đình tôi trước đã! Tôi không có khả năng trình bày về Chúa cho người khác! Tôi không có thì giờ …” Đang khi Chúa dạy chúng con: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33). Vậy xin Chúa giúp chúng con hôm nay đừng quá lo cơm áo vật chất cho bản thân hay gia đình, nhưng phải biết lo việc của Chúa và phó thác mọi sự trong tay Chúa quan phòng. Xin Chúa giúp chúng con biết làm lợi gấp năm gấp mười nén vàng đức tin mà Chúa đã ban cho chúng con, để nhờ đó chúng con hy vọng sẽ được Chúa thương xét xử khoan dung và nói với chúng con: “Hỡi người đầy tớ tài giỏi và trung thành! Hãy vào hưởng niềm vui của chủ anh!” (Mt 25,21).

X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.

 

 

 

 

 

76. Sứ mạng rao giảng Tin Mừng - Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng OP

 

Có những cuốn sách khi khép lại, chính là lúc mở ra: mở ra cho suy tư, mở ra cho trách nhiệm, mở ra cho hành động. Sách Tin Mừng là cuốn sách như thế, theo ý nghĩa trọn vẹn nhất. Nếu Tin Mừng khép lại cuộc đời Chúa Giêsu, thì đồng thời lại mở ra cho một trang sử mới. Nếu biến cố Thăng Thiên khép lại cuộc đời tại thế của Chúa Giêsu, thì đồng thời lại mở ra cho một mệnh lệnh mới phải được thực thi, một trách nhiệm mới phải được hoàn thành, một hiện diện mới phải được đón nhận. Chính trong sự đan kết đó mà phụng vụ lời Chúa hôm nay vừa mời gọi chúng ta suy niệm mầu nhiệm Thăng Thiên, lại vừa đòi hỏi chúng ta đào sâu trách nhiệm truyền giáo, trach nhiệm rao giảng Tin Mừng, trách nhiệm tông đồ trong đời người Kitô hữu. Đó là hai điều chúng ta tìm hiểu sau đây.

Trước hết, về mầu nhiệm Thăng Thiên, tức là mầu nhiệm Chúa Giêsu lên trời. Trong bốn sách Tin Mừng, chỉ có hai sách nói đến việc Chúa Giêsu lên trời, đó là Tin Mừng Máccô và Tin Mừng Luca. Thánh Máccô nói rất vắn tắt, chỉ nói Chúa Giêsu lên trời và ngự bên hữu Chúa Cha, chứ không nói Chúa lên trời ở đâu và sau khi sống lại được bao lâu. Còn thánh Luca, đọc Tin Mừng của ngài chúng ta có cảm tưởng Chúa Giêsu lên trời ngay ngày Chúa sống lại và ở gần Bê-ta-ni-a. Nhưng theo sách Công vụ Tông đồ, cũng của thánh Luca, thì Chúa Giêsu lên trời sau khi sống lại được bốn mươi ngày, và chỗ Chúa lên trời là núi cây dầu. Còn Tin Mừng thánh Mat-thêu chúng ta nghe đọc hôm nay chỉ kể lại việc Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ trên một ngọn núi Chúa đã truyền cho các ông đến và truyền lệnh cho các ông đi rao giảng cho muôn dân mà không nói gì đến việc lên trời.

Chúa Giêsu lên trời là một điều chắc chắn. Đây là một mầu nhiệm, một tín điều chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính: “Ngày thứ ba Người sống lại như lời Thánh Kinh, Người lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha”. Vậy ý nghĩa của mầu nhiệm này thế nào? Việc Chúa Giêsu lên trời là một sự kiện tất yếu của quá trình nhập thể và cứu chuộc của Ngài. Nghĩa là Ngài là con Thiên Chúa, từ trời xuống trần gian để thực hiện chương trình cứu chuộc của Chúa Cha. Ngài đã giảng dạy, phục vụ và cống hiến cả mạng sống, nên sau khi sống lại từ cõi chết, Ngài đã được Thiên Chúa Cha tôn vinh, được đặt bên hữu Thiên Chúa và ban cho quyền xét xử vũ trụ. Chúa Giêsu lên trời là một câu trả lời vô cùng phấn khởi cho chúng ta, nếu chúng ta trung thành tin theo Chúa, chúng ta cũng sẽ được về trời, chúng ta sẽ được Chúa Giêsu đón vào trong nhà Cha, để cùng với Ngài hưởng hạnh phúc vinh quang muôn đời.

Tuy nhiên, để đạt được Nước Trời đòi hỏi chúng ta phải trả giá. Cũng như không có thành công nào hay hạnh phúc nào ở đời này mà lại đạt được quá dễ dàng, thì hạnh phúc Nước Trời lại càng khó hơn biết bao, đòi hỏi chúng ta phải kiên trì và cố gắng về mọi phương diện. Những ngày sống lữ thứ trần gian là để đi vào Nước Trời, chúng ta phải cố công đi cho tới đích, không bao giờ được bỏ cuộc, không trẽ ngang, không đi lui, phải đi tới mãi. Đường vào Nước Trời thiên nan vạn nan, chứ không phải dễ dàng ra vào như đi chợ hay đi bát phố. Kinh Thánh nói: “Người ta phải dùng sức mạnh sấn sả mà đi vào, đi vào con đường hẹp, phải ra đi trong nức nở, mới trở về trong hân hoan”. Cũng thế, ai cũng biết bài học “nước chảy đá mòn”, “kiến tha lâu đầy tổ, “có công mài sắt có ngày nên kim”, “có khó mới có miếng ăn”, thì trên phạm vi siêu nhiên cũng vậy, Chúa dạy: “Ai bền đỗ đến cùng mới được cứu rỗi”, vì Nước Trời đòi hỏi rất nhiều cố gắng, rất nhiều công lao khó nhọc.

Nhưng làm sao người ta có thể biết Chúa, tin theo Chúa, sống theo những lời Chúa giảng dạy, để rồi cũng được về trời với Chúa? Chính vì thắc mắc đó mà trước khi về trời, Chúa Giêsu đã ra chỉ thị cho các môn đệ của Ngài. Ngài đã sai các ông ra đi trên vạn nẻo đường thế giới, ban cho các ông nhiều quyền năng để rao giảng Tin Mừng và đem ơn cứu độ đến cho mọi người. Chính nhờ các tông đồ đầu tiên ấy, rồi các tông đồ khác, lại các tông đồ khác nữa kế tiếp nhau trung thành thi hành sứ mạng rao giảng Tin Mừng ấy mà người ta biết Chúa, tin theo Chúa, được cứu rỗi và rồi sẽ được về trời.

Nói khác đi, Chúa Giêsu đã dùng Giáo Hội như đôi tay để tiếp tục công cuộc cứu chuộc của Ngài, nghĩa là Giáo Hội như một nối dài của Chúa Giêsu. Cách đây hai ngàn năm, Chúa Giêsu đã đi lại, đã giảng dạy, đã làm nhiều điều tốt đẹp. Ngày nay, Ngài cũng muốn cho các hoạt động của Ngài được tiếp tục qua Giáo Hội. Sứ mệnh của Chúa Giêsu là một sứ mệnh thiêng liêng, nhưng sứ mệnh đó cần phải được thể hiện bằng lời nói, bằng hành động bên ngoài. Vì thế, không có gì đáng ngạc nhiên khi trao phó sứ mạng đó cho Giáo Hội, Chúa Giêsu muốn nó được thực thi trong một khung cảnh hữu hình, nhờ những phương tiện cụ thể. Chính nhờ những sinh hoạt hữu hình và đôi tay cụ thể của Giáo Hội mà Chúa Giêsu tiếp tục loan truyền chân lý, trao ban sự sống và dẫn đưa nhân loại về hạnh phúc vĩnh cửu.

chi thể của Giáo Hội, thân mình mầu nhiệm Chúa Kitô, mỗi người Kitô hữu là cánh tay rộng mở của Chúa Kitô, nhờ đó Ngài không ngừng giãi tỏa ánh sáng, trao tặng tình thương, ơn cứu độ và hạnh phúc cho mọi người. Để được như thế, cách tốt nhất là chúng ta hãy sống tốt, với mọi người trong gia đình, với xóm ngõ, với bạn bè, trong nơi làm việc và với những người chung quanh, bất cứ lương hay giáo. Sống tốt có nghĩa là sống cởi mở, sống hòa đồng, sống vui tươi, sống bác ái, sống chan hòa tình yêu thương với mọi người.

Tóm lại, lễ Chúa Giêsu lên trời hôm nay nhắc nhở chúng ta: Chúa đã lên trời, chúng ta cũng sẽ về trời, đó là cùng đích của hạnh phúc đời người. Vì thế, chúng ta hãy sống cho thật tốt, thật tròn đầy những bổn phận hàng ngày để đạt được hạnh phúc ấy. Đồng thời, ngày lễ hôm nay cũng mời gọi chúng ta hãy ra đi vào thế giới, vào môi trường mình đang sống, để làm chứng cho Chúa, để giới thiệu Chúa cho anh em bằng chính đời sống tốt đẹp của chúng ta.

 

 

 

 

 

77. Quê hương đích thực - Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng

 

Bài đọc sách Công Vụ Tông Đồ hôm nay cho biết: Chúa Giêsu lên trời trước mặt nhiều môm đệ vào ngày thứ 40 sau phục sinh, tức là lần hiện ra cuối cùng với họ, và trong khoảng thời gian 40 ngày, kể từ ngày phục sinh, Chúa Giêsu không ở liền với các môn đệ mọi giây phút, nhưng chỉ thỉnh thoảng mới hiện ra thôi. Như thế, những lúc không hiện ra với các môn đệ thì Chúa ở đâu? Thực ra, vấn đề thăng thiên của Chúa có thể ghi lại những điểm chính như sau:

Sau khi phục sinh, Chúa Giêsu đã được tôn vinh nơi Chúa Cha ngay lập tức rồi. Nói cách khác, Chúa Giêsu phục sinh rồi lên trời ngay để ngự bên hữu Chúa Cha. Tuy nhiên, trong quãng thời gian 40 ngày, kể từ ngày phục sinh, Chúa đã hiện ra nhiều lần với các môn đệ, và vào lần cuối cùng, ngày thứ 40, Chúa hiện ra đàm đạo với các môn đệ, nhắn nhủ họ nhiều điều, rồi Ngài lên trời trước mắt họ. Từ đấy Ngài không còn hiện ra với họ như trước đó nữa cho tới ngày tận thế. Dầu sao ngày lễ Thăng Thiên hôm nay, Giáo Hội muốn chúng ta lưu ý đến ý nghĩa của mầu nhiệm Thăng Thiêng hơn là đến ngày giờ mầu nhiệm ấy xảy ra.

Mầu nhiệm Thăng Thiên nhắc nhở ít nhất hai điều: Thứ nhất, Chúa Giêsu về trời, nhưng ngài vẫn luôn hiện diện giữa chúng ta. Là những con người tại thế, bị ảnh hưởng và chi phối bởi giác quan, chỉ quen chấp nhận những gì giác quan kiểm chứng được, nên chúng ta dễ cảm thấy rằng: ra đi là mất mát, chia lìa là đau đớn kinh khủng, là chết đi một chút. Do đấy chúng ta cũng thường nghĩ rằng: Chúa Giêsu đã về trời, thế là mọi sự hết mất rồi. Nhưng sự thật không phải thế. Chúa Giêsu Phục Sinh đã lên trời ngự bên hữu Chúa Cha, nhưng Ngài lại vẫn còn hiện diện với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Thăng Thiên chính là một cuộc chuyển tiếp từ hiện diện hữu hình sang hiện diện thiêng liêng. Nghĩa là từ đây Chúa Giêsu phục sinh chấm dứt cách hiện diện với các môn đệ khiến cho giác quan của họ kiểm nhận được, màhiện diện một cách thiêng liêng. Dấu hiệu của sự hiện diện này là Ngài ban Thánh Thần xuống trên các tông đồ. Đúng vậy, Chúa Giêsu hiện diện giữa chúng ta, trong chúng ta qua Chúa Thánh Thần. Đó cũng là ý nghĩa của câu Chúa khẳng định với các tông đồ: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.

Điều thứ hai nhắc nhở chúng ta: Chúng ta đang sống ở trần gian, nhưng phải luôn hướng về trời. Những du khách có dịp đi du ngoạn ở miền bắc nước Tô Cách Lan, thường gặp thấy những đống đá chồng chất lên nhau. Những đống đá này hàm chứa một ý nghĩa lịch sử cho dân chúng miền đó. Đây là kỷ niệm của những người dân đã di cư đi nơi khác làm ăn. Người ta kể lại rằng: vì thiếu công ăn việc làm, dân chúng miền này phải tìm đến những nước công nghiệp như Canada, Uc hay Mỹ để tìm kế sinh nhai. Khi ra đi, họ thường nhặt một hòn đá của làng mình và đem theo cho đến khi bóng xóm làng chỉ còn là một chấm mờ ở đàng sau, họ dừng lại, đặt hòn đá xuống như một kỷ niệm yêu thương cuối cùng để lại cho quê hương của họ. Rồi hằng năm, vào dịp lễ thánh An-rê, bổn mạng nước Tô Cách Lan, người dân Tô Cách Lan trên khắp thế giới thường họp nhau lại để tưởng nhớ tới quê hương mình đã cách xa, và cũng để nhớ đến họ hàng thân thuộc còn ở lại quê nhà.

Bất cứ một người dân di cư nào cũng đã gói ghém trong hành trang của mình ít nhiều tình yêu quê hương sâu đậm. Người ta tìm ra hai nguyên nhân chính yếu đã là những động lực thúc đẩy các cuộc ra đi này, đó là một đời sống nghèo nàn, cơ cực, đói khát, với những điều kiện quá khắc khổ, không công ăn việc làm, không bảo đảm tương lai. Và một hấp lực lôi cuốn từ đàng trước, đó là một đời sống no đủ, sung túc hơn, với những hứa hẹn của một tương lai tươi sáng, bảo đảm và vững chắc hơn.

Người Kitô hữu cũng có thể được ví như những người dân di cư đó. Và cuộc ra đi của chúng ta là một cuộc hành hương về nước trời. Chúng ta cũng có một động lực thúc đẩy từ cuộc sống trần gian đầy vất vả này, và một hấp lực lôi cuốn của một quê hương hạnh phúc.

Sống ở đời này, ai ai cũng có những hy vọng. Chúng ta hy vọng về nước trời như là cái đích cuối cùng ở cuối con đường trần gian. Cuộc sống hôm nay nơi trần gian phải có một mục đích. Nếu sống hết ngày này qua ngày khác, phấn đấu lam lũ làm ăn, vất vả, cực khổ…chỉ để sống vậy thôi, chứ không biết mình sống để làm gì thì đời chúng ta thật là vô nghĩa và phi lý. Vậy chúng ta đã có mục đích sống cho đời mình chăng? Mục đích đó là mục đích nào? Thưa đó là nước trời. Vì vậy cuộc đời này là một cuộc hành hương về nước trời.

Ước gì từng hành động, từng suy nghĩ, từng gặp gỡ, từng hơi thở của chúng ta cũng đều là một đáp trả tích cực của chúng ta với lời mời gọi vào sự sống bất diệt của Chúa. Ước gì trong tất cả mọi sự, sự khôn ngoan hướng dẫn chúng ta chính là cõi phúc trường sinh mà Chúa đã hứa ban cho chúng ta. Ước gì trong từng bước lữ hành về cõi phúc ấy, chúng ta đã có thể nếm được niềm vui và hạnh phúc đích thực ngay trong cuộc sống này.

 

 

 

 

 

78. Ra đi trong lời hứa – G. Nguyễn Cao Luật

 

Một sự hiện diện mới

Ở phần đầu sách Tin Mừng, thánh Mátthêu đã nhắc lại lời ngôn sứ Isaia để loan báo sự xuất hiện của người con thuộc dòng họ Đavít, Đấng được gọi là “Emmanuen”, có nghĩa là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”. Tất cả các phần sau của Tin Mừng Mátthêu đều nhắc đến sự hiện diện này, một sự hiện diện mà người ta có thể cảm thấy, sờ thấy, nhìn thấy…

Nhưng đã đến lúc chấm dứt sự hiện diện này, không phải là tan biến đi, nhưng là mang một hình thức mới còn sâu xa, còn mãnh liệt và cụ thể hơn sự hiện diện trước kia: “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.

Thế nào là sự hiện diện đích thực? Khi nào thì sự sống của một hữu thể khác thấm nhập vào một người đến nỗi cả hai biến thành một? Theo một ngôn ngữ khác với thánh Gio-an, thánh Mát-thêu làm nỗ bùng những sự kiện hữu hình để dẫn đưa độc giả vào một cái nhìn khác về thực tại.

Đức Giêsu hẹn gặp các môn đệ tại một ngọn núi ở miền Ga-li-lê. Theo tác giả sách Tin Mừng thứ nhất, Ga-li-lê là vùng đất của dân ngoại, là điểm tiếp xúc của những biên giới. Đây là miền đất biểu tượng cho thế giới ngoại đạo, đồng thời cũng tiêu biểu cho việc rao giảng Tin Mừng. Chính tại đây, giữa lòng nhân loại mà các môn đệ – cũng như người Kitô hữu sau này – khám phá ra ý nghĩa sự hiện diện của Đức Giêsu.

Đàng khác, sau cuộc gặp gỡ cuối cùng này, Đức Giêsu không còn xuất hiện hữu hình với các môn đệ nữa. Nhưng sự hiện diện vô hình của Người đạt tới chiều sâu và chiều rộng mà thân xác của Người nơi trần gian không cho phép đạt tới. Nhờ Thần Khí, sự hiện diện này không chỉ giới hạn ở đây ở đó, vào những cách thức thông thường, nhưng được mở rộng đến mọi nơi và theo nhiều cách thức khác nhau. Đức Giêsu sẽ mãi mãi ở cùng con người qua lời của Người, qua các bí tích, qua người thân cận, và nhất là qua sứ vụ tông đồ.

Quả thế, Đức Giêsu được Chúa Cha phục sinh và tôn vinh, đặt làm Chúa vũ trụ và làm nguồn mạch thông ban sự sống, được đặt ngự bên hữu Chúa Cha, tức là trong một tình trạng hoàn toàn mới. Qua nhân tính được Thần Khí điều động, Đức Giêsu hiện diện và hoạt động trong Giáo Hội, trong thế giới, nơi mỗi người, qua mọi thời đại, như nguyên nhân cứu rỗi duy nhất. Sự thăng thiên của Đức Giêsu đưa Người ra khỏi một góc trời, khuất khỏi tầm mắt của một nhóm người để làm cho Người có mặt và hoạt động trên khắp thế giới và nơi mọi con người. Đó là cuộc ra đi cần thiết và hữu hiệu như Đức Giêsu đã báo trước. Cuộc ra đi làm cho Đức Giêsu trở nên rộng lớn hơn, cũng như cộng đoàn các môn đệ thêm rộng lớn. Rộng lớn như vũ trụ, như vương quyền của Đức Giêsu.

Vì thế, ngay từ bây giờ, không phải là lúc đứng một chôỵ mà đăm đăm nhìn lên bầu trời, nhưng là lúc phải lên đường, phải trở thành chứng nhân về Đấng Phục Sinh, phải loan báo cho mọi người, phải trở nên kẻ cộng tác với Người để mở rộng vương quốc.

Cuộc ra đi mở đầu

Trong tường thuật về thăng thiên, thay vì dừng lại ở những chi tiết, dù rất đơn giản, về cuộc ra đi thể lý của Đức Giêsu, các độc giả sách Tin Mừng nên nhấn mạnh về ý nghĩa cuộc ra đi của Đức Giêsu cũng như về sứ mệnh Đức Giêsu trao lại cho các môn đệ.

Cuộc ra đi của Đức Giêsu thật bất ngờ. Như một tia sáng vụt qua bầu trời, lần hiện ra cuối cùng của Đức Giêsu là chứng cớ, đúng hơn là dấu khả giác về việc Người đi vào luôn mãi trong vinh quang của Chúa Cha, tức là trở vế với điểm xuất phát của Người. Nhưng Người không trở lại nơi đó một mình. Người lôi kéo theo cả nhân loại, mặc dù còn trong hy vọng, nhưng là một niềm hy vọng có thực, không phải là ảo tưởng.

Và điều quan trọng hơn, đó là trước khi biến đi, Đức Giêsu đã đặt các tông đồ làm những người “tiếp nối” công việc cứu độ của Người trong thế giới. Để thực hiện sự liên tục này, Người đã sai Thần Khí của Người đến trên các ông. Sự tuôn đỗ Thần Khí một cách viên mãn ấy sẽ được mô tả vào ngày lễ Ngũ Tuần. Thần Khí biến nhóm môn đệ nhỏ nhoi này thành Giáo Hội của Đức Kitô với sứ mạng làm chứng về sự phục sinh của Người cho toàn thế giới. Như trên một cây cầu mà móng cắm sâu vào dòng sông, đối với các môn đệ, kể từ nay các môn đệ sẽ phải rời bỏ bờ sông quen thuộc với những lần hiện diện thân thương để đi đến những miền đất còn xa lạ. Tại những miền đất đó, chính Thánh Thần của Đấng Phục Sinh sẽ nắm lấy các ông và hướng dẫn các ông.

Đó quả là một kinh nghiệm lớn mà dần dần các môn đệ sẽ hiểu ra. Nhưng ngay lúc này, khi chứng kiến việc Đức Giêsu biến đi, các ông vẫn tràn ngập niềm vui “trở về Giê-ru-sa-lem, lòng đầy hoan hỷ”.

Do đó, với tư cách là cộng đoàn kế tục cộng đoàn tông đồ, Giáo Hội và mỗi Kitô hữu sẽ luôn kiểm điểm đời sống của mình xem có phù hợp với sứ mạng đã lãnh nhận từ Đức Giêsu. Theo đúng lời bảo của Đức Giêsu, Giáo Hội sẽ phải trung thành thực hiện sứ mạng này trong suốt chiều dài của lịch sử, cho đến ngày Người trở lại, với niềm tin chắc chắn vào sự hiện diện đầy năng động của Vị Thủ Lãnh, Đấng luôn gìn giữ và hướng dẫn Giáo Hội qua ân sủng Thần Khí.

Như vậy, cuộc ra đi của Đức Giêsu là khởi đầu cho những cuộc ra đi khác, bắt đầu là các tông đồ, sau đó là Giáo Hội cho đến ngày tận thế.

Chúa chúng ta ở đâu?

Đối với chúng ta ngày nay, một câu hỏi vẫn thường được đặt ra: “Đức Giêsu, Chúa của bạn, đang ở đâu?” Câu hỏi này càng trở nên gay gắt hơn trong những hoàn cảnh bi đát và buồn phiền, đến nỗi ngay cả những người bình tĩnh nhất cũng cảm thấy lúng túng.

Quả thất, trước một câu hỏi như vậy, những câu trả lời chúng ta đã nghe khi học giáo lý thời nhỏ không làm chúng ta thoả mãn. Đức Giêsu không chỉ ngự “trên trời” hay “khắp mọi nơi”, và cũng không phải chỉ “ở trong tâm hồn những em bé ngoan ngoãn”.

Đối với chúng ta cũng như với các môn đệ, niềm xác tín duy nhất chính là Đức Giêsu ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế.

Nếu chúng ta tin vào lời hứa đó, để rồi trong mọi hoàn cảnh, giữa những thăng trầm của cuộc sống, chúng ta vẫn sẵn sàng quả quyết: “Vâng, Đức Kitô đang sống, Người ở đây, mặc dù tôi không thấy Người, cũng chẳng biết Người như thế nào””, thì câu hỏi chẳng còn ý nghĩa gì.

Bởi vì, vấn đề ở đây không phải là “biết” Chúa ở đâu, nhưng là “thấy” Chúa ở đâu. Cũng không phải là học một câu trả lời, nhưng là hướng cái nhìn của chúng ta để nhận ra Đức Kitô ở bất cứ nơi nào có sự sống, bất cứ nơi nào sự sống đang phát triển.

Như thế, Đức Giêsu không có mặt trong những nơi sự chết đang hoành hành. Và ngược lại, ở bất cứ nơi nào có sự sống, chúng ta có cơ may được nghe thấy tiếng của Người, được nhìn thấy Người đang bước đi trên những nẻo đường đầy hy vọng.

Do đó, chúng ta không chỉ bằng lòng với việc quả quyết: “Đức Kitô đang ở đây”, nhưng còn phải mở to đôi mắt, phải lắng tai để nhận ra Người.

Và chúng ta cũng nhận ra rằng ở đâu có Tình Yêu làm sức mạnh cho đời sống, ở đó có Chúa ngự trị, và tại đó chúng ta sẽ gặp Người.

Hơn nữa, chúng ta sẽ không buồn phiền vì sự vắng mặt của Đức Giêsu, trái lại chúng ta hân hoan làm chứng về Người. Bởi vì từ cuộc ra đi của Người, chính chúng ta cũng được mời gọi ra đi trên những nẻo đường khác nhau, trong ân huệ Thần Khí, để công bố về lời quả quyết “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”.

 

 

 

 

 

79. Hành trình về Trời - Trầm Thiên Thu

 

Lễ Thăng Thiên không chỉ là lễ kính mừng Chúa Giêsu lên trời mà còn là dịp tái khẳng định tín điều mà chúng ta vẫn tuyên xưng: “Ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại, LÊN TRỜI ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng”. Nếu Đức Kitô không sống lại, niềm tin của chúng ta vô ích, và chúng ta chỉ là những người hoang tưởng, nhưng Ngài đã thực sự sống lại và lên trời.

Chúa Giêsu lên trời là để minh chứng và xác định lời hứa Ngài đã nói trước: “Thầy đi dọn chỗ cho anh em thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14:3). Đối với phàm nhân chúng ta, chắc chắn không còn niềm hạnh phúc nào lớn lao hơn nữa!

Thật là kỳ diệu, Thiên Chúa mà hóa thành Con Người, Con Người mà là Thiên Chúa, vừa hữu hình vừa vô hình. Chắc chắn chẳng một thần linh nào như vậy. Chỉ có Thiên Chúa của chúng ta như vậy mà thôi, độc nhất vô nhị. Thánh Phaolô đã nói: “Phải công nhận rằng: mầu nhiệm của đạo thánh thật là cao cả, đó là: Đức Kitô xuất hiện trong thân phận người phàm, được Chúa Thánh Thần chứng thực là công chính; Người được các thiên thần chiêm ngưỡng, và được loan truyền giữa muôn dân; Người được cả hoàn cầu tin kính, được siêu thăng cõi trời vinh hiển” (1 Tm 3:16).

Người ta chỉ nói LÊN trời, TỚI trời, hoặc VÀO trời, vì người ta không xuất phát từ trời. Nhưng Chúa Giêsu nói VỀ trời, vì Ngài xuất phát từ Trời, từ Chúa Cha: “Nếu anh em yêu mến Thầy thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đi về cùng Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy” (Ga 14:28). Người ta chỉ có thể VỀ nơi mà mình đã từng ở, còn nơi mình chưa ở thì không thể dùng động từ VỀ. Thế mà chúng ta cũng được Ngài cho phép VỀ trời với Ngài, dù chúng ta không xuất phát từ trời, chỉ là bụi tro xuất phát từ đất. Thật kỳ diệu quá đỗi!

Thánh Luca viết trong sách Công Vụ: “Thưa ngài Thê-ô-phi-lô, trong quyển thứ nhất, tôi đã tường thuật tất cả những việc Đức Giêsu làm và những điều Người dạy, kể từ đầu cho tới ngày Người được rước lên trời. Trước ngày ấy, Người đã dạy bảo các Tông Đồ mà Người đã tuyển chọn nhờ Thánh Thần. Người lại còn dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các ông thấy là Người vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình: trong bốn mươi ngày, Người đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa. Một hôm, đang khi dùng bữa với các Tông Đồ, Đức Giêsu truyền cho các ông không được rời khỏi Giêrusalem, nhưng phải ở lại mà chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa, điều mà anh em đã nghe Thầy nói tới, đó là: ông Gioan thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em thì trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần” (Cv 1:1-5). Chúa Giêsu về trời, nhưng rồi Ngài lại gởi Chúa Thánh Thần đến với chúng ta, đồng hành và hoạt động với chúng ta mọi nơi, mọi lúc.

Tư tưởng loài người không cao hơn mặt đất, tầm nhìn không vượt qua cái bóng của mình, thế nên khi nghe Đức Giêsu nói vậy, những người đang tụ họp ở đó tưởng rằng Ngài sắp sửa khôi phục vương quốc Ít-ra-en. Nhưng Ngài đáp: “Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1:7-8). Nói xong, Ngài được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Ngài, khiến các ông không còn thấy Ngài nữa. Họ ngơ ngẩn nhìn nhau rồi nhìn theo hút Ngài, chẳng hiểu thế là thế nào.

Đang lúc các ông còn đăm đăm nhìn lên trời phía Ngài đi, bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh và nói: “Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời” (Cv 1:11). Lời giải thích này cho chúng ta biết chắc rằng Chúa Giêsu sẽ đến thế gian lần thứ hai vào một lúc nào đó, bất kỳ thời điểm nào mà chúng ta không thể biết được, thậm chí có thể là ngày mai hoặc hôm nay. Vì thế mà ai cũng phải sẵn sàng và tỉnh thức. Không chỉ vậy, với mỗi người còn là cái chết, vì tử thần có thể đến bất cứ lúc nào, không ai có thể ngờ được!

Cuộc đời Kitô hữu là cuộc lữ hành trần gian, là hành trình đức tin, là hành trình về trời. Đức Kitô đã về trời trước, đó là bảo chứng cho chúng ta. Tác giả Thánh Vịnh mời gọi: “Vỗ tay đi nào, muôn dân hỡi! Mừng Thiên Chúa, hãy cất tiếng hò reo! Vì Đức Chúa là Đấng Tối Cao, Đấng khả uý, là Vua Cả thống trị khắp địa cầu” (Tv 47:2-3).

Niềm vui quá lớn, nỗi mừng khôn tả. Nhưng chúng ta hữu hạn, chỉ biết thể hiện bằng tất cả khả năng phàm nhân: “Thiên Chúa ngự lên, rộn rã tiếng hò reo, Chúa ngự lên, vang dội tiếng tù và. Hãy đàn ca, đàn ca lên mừng Thiên Chúa, đàn ca lên nào, đàn ca nữa kính Vua ta! Thiên Chúa là Vua toàn cõi địa cầu, hãy dâng Người khúc đàn ca tuyệt mỹ. Thiên Chúa là Vua thống trị chư dân, Thiên Chúa ngự trên toà uy linh cao cả” (Tv 47:6-9). Thiên Chúa không đòi hỏi quá sức chúng ta, Ngài chỉ muốn chúng ta chân thành với khả năng riêng của mỗi người.

Thánh Phaolô cho biết: “Tôi cầu xin Chúa Cha vinh hiển là Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ban cho anh em thần khí khôn ngoan để mặc khải cho anh em nhận biết Người. Xin Người soi lòng mở trí cho anh em thấy rõ, đâu là niềm hy vọng anh em đã nhận được, nhờ ơn Người kêu gọi, đâu là gia nghiệp vinh quang phong phú anh em được chia sẻ cùng dân thánh, đâu là quyền lực vô cùng lớn lao Người đã thi thố cho chúng ta là những tín hữu” (Ep 1:17-19a). Nhận biết Thiên Chúa là niềm hạnh phúc lớn lao, nhận biết Ý Ngài và vui mừng làm theo là niềm hạnh phúc lớn lao hơn. Quả thật, chấp nhận và làm theo Ý Chúa là điều không dễ chút nào, vì chúng ta thường chỉ muốn “được như ý” mà thôi!

Thánh Phaolô giải thích: “Đó chính là sức mạnh toàn năng đầy hiệu lực, mà Người đã biểu dương nơi Đức Kitô, khi làm cho Đức Kitô trỗi dậy từ cõi chết, và đặt ngự bên hữu Người trên trời. Như vậy, Người đã tôn Đức Kitô lên trên mọi quyền lực thần thiêng, trên mọi tước vị có thể có được, không những trong thế giới hiện tại, mà cả trong thế giới tương lai. Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Kitô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội Thánh; mà Hội Thánh là thân thể Đức Kitô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn” (Ep 1:19b-23). Đức Kitô được Chúa Cha trao ban mọi thứ, nhưng Ngài không giữ riêng cho Ngài, mà Ngài lại muốn chia sẻ với chúng ta, làm cho chúng ta được viên mãn với Ngài, dù chúng ta không chỉ là phàm nhân mà còn là những tội nhân hoàn toàn bất xứng.

Niềm hạnh phúc như điệp khúc cứ lặp đi lặp lại trong cuộc đời chúng ta, trên suốt hành trình về trời. Không hạnh phúc sao được, vì chúng ta được Thiên Chúa ưu đãi quá nhiều, minh nhiên nhất là chúng ta được xóa án tử và được khôi phục cương vị làm con, đặc biệt là cũng sẽ được về trời.

Một hôm, mười một môn đệ đi tới miền Galilê, đến ngọn núi Đức Giêsu đã truyền cho các ông đến. Khi thấy Ngài, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi. Bản tính nhân loại là thế, tận mắt thấy bao phép lạ mà vẫn chưa đủ tin. Vả lại, họ cứ tưởng Đức Giêsu là chính khách, Ngài sẽ giành quyền cai trị Ít-ra-en từ bọn thực dân Rôma. Khi đó, Đức Giêsu đến gần họ và nói: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất” (Mt 28:18). Có lẽ nghe Ngài nói vậy thì họ càng cho rằng Chúa Giêsu đang làm chính trị thật, điều họ nghĩ không sai. Thế nhưng lại không phải vậy, Chúa Giêsu không bao giờ làm chính trị, và Phúc Âm cũng không là bản cương lĩnh chính trị.

Chúa Giêsu nói với họ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28:19-20a). Ngài biết Ngài sắp đến giờ về cùng Chúa Cha, nên Ngài căn dặn kỹ lưỡng. Ngài về trời nên Ngài bảo chúng ta vào đời làm chứng nhân về Ngài. Đó vừa là một tặng phẩm vừa là một mệnh lệnh, vừa là một đặc ân vừa là một trọng trách.

Trước khi về trời, lời cuối của Chúa Giêsu trên thế gian là một lời hứa: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:20b). Lời hứa đó đã được chứng tỏ rõ ràng nhất là Bí tích Thánh Thể, một phép lạ vĩ đại vẫn xảy ra hằng ngày ở khắp nơi trên thế giới. Biết rõ chúng ta yếu đuối nên Chúa Giêsu rất “tội nghiệp” chúng ta, Ngài cũng đã hứa: “Thầy sẽ không để anh em mồ côi” (Ga 14:8). Và lời hứa đó lại được thực hiện ngay lập tức: Ngài về trời rồi gởi Đấng Bảo Trợ đến ở với chúng ta (Ga 14:16). Thánh Thể và Thánh Thần luôn đồng hành với chúng ta trên suốt Hành Trình Về Trời.

Cái gì cũng có “mở” và “kết”. Cũng vậy, Hành Trình Về Trời được khởi đầu từ điểm SINH và kết thúc ở điểm TỬ. Hành trình đó có thể là “con đường” dài hoặc ngắn, không ai biết; “con đường” đó cũng có thể rộng hoặc hẹp, nhưng ai chọn đường hẹp thì tốt hơn đường rộng, càng thênh thang càng “dễ chết”, có thể “chết yểu”, “chết” trước kỳ hạn, “chết” ngay khi mình đang sống. Chết như vậy thì thật là nguy hiểm! Vì thế, chính Chúa Giêsu đã khuyên những ai thực sự muốn được trường sinh vĩnh phúc: “Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy” (Mt 7:13-14). Không chỉ đơn giản như vậy, người ta còn phải “chiến đấu để qua được cửa hẹp” (Lc 13:24). Rất “ngược đời”, nhưng phải dám “ngược” như vậy thì mới mong “xuôi” về vĩnh cửu.

Thánh nữ Faustina so sánh: “Như bệnh tật được đo bằng nhiệt kế, sốt cao cho chúng ta biết là bệnh nặng, đời sống tâm linh cũng vậy, đau khổ là nhiệt kế đo tình yêu Chúa trong linh hồn” (Nhật Ký, số 774). Đây là điều rất khó đối với bản chất phàm nhân, nhưng người ta có thể chấp nhận nếu cố gắng hiểu theo cách hiểu của Chúa và nhìn theo cách nhìn của Chúa.

Lạy Thiên Chúa, Con Chúa về trời là dấu bảo đảm về sự sống vĩnh hằng mà chúng con đang cố gắng chiến đấu để đạt được. Xin mau ban Chúa Thánh Thần để đổi mới chúng con, làm cho chúng con can đảm làm chứng về Chúa Ba Ngôi. Xin giúp chúng con đủ sức vượt qua chính mình để xứng đáng lãnh nhận những gì Ngài đã hứa ban. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô Phục Sinh, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.