13/08/2020
2405
Suy niệm Lễ Đức Mẹ Lên Trời_Nhiều tác giả



















 

Các Bài Suy Niệm Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời

 

MỤC LỤC

Mẹ Lên Trời – J.M.

Lịch Sử Lễ Mẹ Lên Trời – Lm Trọng Hương.

Chuyện Hồn Với Xác.

Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời

Tình Yêu Của Thiên Chúa Ba Ngôi Dành Cho Mẹ Qua Sự Kiện Mẹ Hồn Xác Lên Trời

Lạy Mẹ Là Ngôi Sao Sáng.

Suy Gẫm Về Sự Khiêm Nhường Của Đức Mẹ.

Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời

Ước Vọng Lên Trời

Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời Maria, Mẫu Gương của Mọi Kitô Hữu.

Đấng Toàn Năng Đã Làm Cho Tôi Những Sự Cao Cả.

Có Chúa Trong Cuộc Đời

Con đường về trời của người mẹ trìu mến.

Theo Mẹ ra khơi – Ngô Quang Kiệt

Linh Hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa.

Lễ Đức Mẹ Hồn Xác lên trời

Những Người Thuộc Về Chúa Kitô – Lm. Vũ Xuân Hạnh.

Theo Đức Mẹ Lên Trời – Đức Cha JB. Bùi Tuần.

Niềm Tin Tưởng.

Niềm Hy Vọng.

Vinh Quang.

Nghe Theo Mẹ.

Lễ Đức Mẹ Lên Trời – Nguyễn học Tập.

Suy niệm mầu nhiệm Mẹ Lên Trời

Lễ Đức Mẹ Hồn Xác lên Trời

Kính Đức Mẹ Hồn Xác lên trời.

Đức Maria lên trời, niềm hy vọng của chúng ta.

Lịch sử và ý nghĩa của tín điều Vô Nhiễm Nguyên Tội

Mẹ Maria, Con Người Tuyệt Diệu.

Thập Giá, Con Đường Đưa Tới Vinh Quang.

Lễ Đức Mẹ Lên Trời

Lễ Đức Mẹ Lên Trời Niềm Hy Vọng Của Chúng Ta.

Lễ Đức Mẹ lên trời – Vầng trăng tuyệt vời

Chúa nâng cao những kẻ khiêm nhường.

 

 

 

 

 

Mẹ Lên Trời – J.M

 

Đối với Đức Ma-ri-a, ngày qua đời là ngày đẹp nhất cuộc đời. Đó là cuộc hành trình hiệp hoan. Mẹ không còn dưới thế nữa. Mẹ về với Chúa Con như Đức Giê-su về với Chúa Cha.

“Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin vào Ta sẽ không phải chết bao giờ”. Đến vời Đức Ma-ri-a, chết là chiến thắng, Mẹ không bị tan biến qua lỗ hổng đen tối của hư vô, nhưng đi vào vinh quang trong cuộc sống muôn đời. Hoàn toàn hiệp thông vô cùng với Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần vì các Đấng làm nên một.

THIÊN CHÚA THỎA MÃN MỌI CƠN ĐÓI CỦA MẸ

“Ai tin vào Ta sẽ không phải khát bao giờ”. Mẹ Ma-ri-a luôn luôn nói xin vâng lời Thiên Chúa suốt cả đời ở trần thế: Thiên Chúa vui lòng làm thỏa mãn mọi ước nguyện của Mẹ cầu xin đề đáp lại sự vâng lời của Mẹ: “Tất cả những gì anh em cầu xin nhân danh Thầy, Thầy sẽ làm điều đó” (Ga 14,14) “Nếu anh em ở lại trong Thầy và lời Thầy ở lại trong anh em, thì muốn gì cứ xin, anh em sẽ được như ý”. (Ga 15,7). Chúng ta có cậy tin vào sự can thiệp của Đức Mẹ không?

TIN MỪNG

Ngày lễ Đức Mẹ Lên Trời là một Tin Mừng mà Giáo Hội loan báo cho tất cả những người nghèo khổ ngày nay: Cho những người sống khó nghèo – Cho những người lao động – Cho những người cam chịu đau khổ trong thử thách – Cho những người vui lòng vững tin vào Thiên Chúa, dù phải sống trong đêm tối.

Từ nay, là những phần tử trong gia đình Thiên Chúa, chúng ta như những đứa trẻ sắp ra đời, không thể nào kể cho xiết hạnh phúc đang đón chờ chúng ta ngày mai.

Trong cuộc đời ngắn ngủi trên trái đất, như Mẹ Ma-ri-a, chúng ta chỉ làm những việc nhỏ mọn nặng nhọc, nhưng chúng ta có thể mang lại lợi ích lớn lao cho nó nhờ vào tình yêu của chúng ta, nhờ vào tình yêu vô cùng của Đức Giê-su Ki-tô đang sống trong chúng ta. Trái đất sẽ qua đi, nhưng lời Chúa hứa không bao giờ qua đi. Chỉ có tình yêu của Ngài tồn tại mãi: “Chính tình yêu mới đáng kể thôi”. Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng đã nói thế.

J.M

 

 

 

 

 

Lịch Sử Lễ Mẹ Lên Trời – Lm Trọng Hương

 

LỊCH SỬ

Từ thuở ban đầu, các giáo đoàn tiên khởi đều tôn kính Đức Trinh Nữ Maria. Những trích đoạn trong Tân Ước minh chứng điều này; tiếp đến là những bản văn của các giáo phụ; rồi đến Công Đồng chung Êphêsô năm 431 tuyên bố “Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa”. Đã có những thánh lễ nói về giây phút chấm dứt cuộc đời trần thế của Đức Maria. Ai cũng tin cuộc chấm dứt này phải tốt đẹp. Nhưng như thế nào thì không ai dám khẳng định.

Những thánh lễ nói về việc chấm dứt cuộc đời trần thế này, như Dormitio (an giấc); Transitus (chuyển hoá); Natalis (sinh ra trên đời); Assumptio (được nâng lên)… Hình như người ta tránh né cái chết thể lý của Đức Trinh Nữ. Vấn đề này vẫn còn bỏ ngỏ cho đến ngày nay.

Thánh lễ Dormitio (an giấc) của Đức Mẹ đã được long trọng cử hành khắp đó đây trên Giáo Hội Đông Phương, nhất là sau Công Đồng chung Êphêsô 431. Hoàng đế Mauriee (582-602) xác định thánh lễ vào ngày 15 tháng 8 hằng năm, và tuyên bố đó là ngày lễ của nhà nước được nghỉ lao động. Mãi đến thế kỷ thứ 7 thánh lễ này mới du nhập vào Giáo Hội Tây Phương. Công đồng Mayence năm 813 xác định thánh lễ này trong đế quốc của Charlemagne.

Ngày 1.11.1950 Đức Piô XII long trọng tuyên bố tín điều: Đức Maria Hồn Xác Về Trời, và như thế xác nhận niềm tin Kitô giáo này đã bàn bạc trong Hội Thánh qua bao thế kỷ. (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)

A. HẠT GIỐNG…

Đức Maria được bà Êlisabét gọi là người có phúc nhất trong tất cả các phụ nữ. Qua đoạn Tin Mừng này, ta có thể thấy được một số lý do khiến Đức Mẹ diễm phúc như thế:

Vì Mẹ có đức tin vững mạnh: “Em thật có phúc vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Ngài đã nói với em”.

Vì Mẹ luôn có Chúa Giêsu trong mình

Vì Mẹ biết quan tâm mang hạnh phúc đến cho người khác

Vì Mẹ biết sống như một “người nghèo của Thiên Chúa”: “Kẻ đói nghèo Ngài ban của đầy dư, người giàu có lại đuổi về tay trắng”.

B. … NẨY MẦM.

1. Cái chết của Đức Mẹ được người ta nói tới bằng nhiều cách: Dormitio (an giấc); Transitus (chuyển hoá); Natalis (sinh ra trên đời); Assumptio (được nâng lên)… Toàn là những cách nói đẹp, bởi vì Mẹ đã sống rất đẹp.

2. Có thể ví đời người như một câu văn mà cái chết là dấu chấm câu:

Có cái chết như một dấu phẩy (,) tức tưởi không trọn vẹn;

Có cái chết như một dấu chấm than!) buồn hiu hắt;

Có cái chết như một dấu chấm hỏi (?) băn khoăn ray rứt;

Có cái chết như dấu 3 chấm (…) còn bỏ ngõ;

Và có cái chết như dấu chấm tròn (.) thật đầy đủ, trọn vẹn, tuyệt mỹ.

Cái chết của Đức Mẹ chính là đấu chấm tròn. Còn cái chết của tôi sẽ là gì?

3. Nhà vua bị bệnh nặng. Quan ngự  y lo lắng, nhưng đành bó tay. Một nhà chiêm tinh đến bảo vua chỉ khỏi bệnh khi nào được mặc chiếc áo của một người hạnh phúc nhất.

Quan quân đổ xô đi khắp nước để tìm người hạnh phúc nhất. Cuối cùng thì họ cũng tìm được một người hạnh phúc thực sự. Nhưng khổ thay, người ấy quá nghèo, chẳng có lấy một chiếc áo! (Góp nhặt)

4. Suy gẫm mầu nhiệm mân côi 5 sự mừng: “Thứ 4, Đức Chúa Trời cho Đức Bà lên trời. Ta hãy xin cho được thường cùng Đức Mẹ trên Nước Thiên Đàng”

5. “Bà Maria lên đường, vội vã đến miền núi, vào một thành thuộc chi tội Giuđa. Bà vào nhà ông Dacaria và chào hỏi bà Êlisabét” (Lc 1,39-40)

Mẹ Maria ơi! Ngày xưa Mẹ thật đơn sơ và dễ thương khi hăng hái lên đường giúp bà Êlisabét. Những bước chân nhẹ nhàng, đầy niềm vui phục vụ. Rồi ngày Mẹ lo lắng sợ hãi đem trẻ Giêsu trốn sang Ai cập. Những bước chân nặng nề, cuống cuồng vì tai họa trần gian… Và con không cảm nhận hết tâm trạng của Mẹ khi theo sau Giêsu trên đường lên núi Sọ. Nhìn những giọt máu của con mình cùng cái chết dành cho loại tử tội xấu xa, những bước chân nhục nhã, đau khổ… Thánh giá Mẹ vác quá nặng mà Mẹ vẫn vượt qua và bước tới.

Con cũng biết Tin là Bước đi. Nhưng nhiều khi con chới với, con ngã lòng, con chưa có sức bước trong sự dẫn dắt tuyệt vời của Thiên Chúa. Con chưa tin đủ.

Lạy Mẹ Maria, xin giúp con xác tín rằng những bước chân vui buồn khấp khểnh ở đời nay, từng bước đường sướng khổ gập ghềnh hôm nay sẽ làm nên lối nhỏ dẫn lên Trời nếu con bước với lòng phó thác, tin yêu. (Hosanna)

 

 

 

 

 

Cảm Nghiệm Ơn Chúa

Đức Cha Ngô Quang Kiệt

 

Nếu có ai hỏi: Làm thế nào để tiến bộ trên đờng đạo đức, thay đổi nếp sống cũ, biết dấn thân mến Chúa yêu ngời hơn? Tôi xin tha: điều quan trọng nhất khởi đầu cho một nếp sống mới là: cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa trong đời mình. Khi đã nhận biết mình được Thiên Chúa yêu thương, ta sẽ không thể làm điều gì khác hơn là mong muốn đáp lại tình yêu ấy.

Tình yêu kêu gọi tình yêu. Tình yêu đáp trả tình yêu. Chúa Thánh Thần, nguồn tình yêu của Thiên Chúa, sẽ giúp ta nhận biết tình yêu Thiên Chúa và soi sáng thúc giục ta đáp lại tình yêu ấy.

Sau khi Đức Mẹ ngoan ngoãn nói lên lời “xin vâng”, Chúa Thánh Thần xuống tràn đầy tâm hồn Đức Mẹ. Đức Mẹ mở rộng tâm hồn đón nhận và để mặc Người hớng dẫn cuộc đòi mình. Từ đây, cuộc đời Đức Mẹ hoàn toàn biến đổi. Đức Mẹ trở nên một dụng cụ ngoan ngoãn trong tay Chúa Thánh Thần, hiến dâng trọn vẹn tâm hồn và thân xác để đáp lại tình yêu vô biên của Thiên Chúa.

Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy những tác động của Chúa Thánh Thần trên Đức Mẹ:

Tác động thứ nhất: sự vội vã. Vội vã đây không phải là sự vội vàng hấp tấp. Cũng không phải là nôn nóng lo âu. Sự vội vã ở đây có nghĩa là sự nhiệt tình hăng hái. Cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa trong tâm hồn, Đức Mẹ mau mắn, tha thiết muốn đáp trả. Nếp sống của cô thôn nữ Maria đã thay đổi. Từ một thôn nữ dịu dàng, sống êm đềm trong cuộc đời bình dị, Đức Mẹ giờ đây trở nên linh hoạt, nhanh nhẹn, hăng hái đền đáp lại Tình Chúa Yêu Thương. Từ một thôn nữ vui với công việc nội trợ, khép mình trong làng xóm, Đức Mẹ đã mở cửa ra đi. Sự mở cửa ra đi làm ta nhớ tới tác động của Chúa Thánh Thần trên các Tông đồ.

Tác động thứ hai: tâm tình tạ ơn. Cảm nghiệm được tình Chúa thương yêu, lòng Đức Mẹ tràn đầy niềm cảm mến biết ơn. Niềm tri ân cảm tạ đầy ứ trong lòng chỉ chờ dịp tuôn ra thành lời. Cảm nghiệm về ơn lành vô biên của Thiên Chúa cũng là cảm nghiệm về sự thấp hèn bất xứng của mình. Hai cảm nghiệm song song đó càng nâng cao, càng đào sâu niềm tri ân cảm tạ. Cảm nghiệm ấy đã biến đổi Đức Mẹ, từ một cô gái kín đáo, âm thầm trở nên một thi sĩ, một ca sĩ lớn tiếng ca tụng Tình Yêu Thiên Chúa đối với kẻ nghèo hèn. Chúa Thánh Thần đã biến Đức Mẹ thành ngòi bút thi sĩ như lời Thánh vịnh: Tim tôi dâng ý thơ tuyệt diệu. Dệt bài ca cung tiến Đức Vua. Lưỡi tôi tựa bút rung vạn điệu. Trong tay những thi nhân anh tài. Khi nghe bà Isave chào, Đức Mẹ đã xuất khẩu tán tụng Chúa bằng bài kinh ca ngợi tuyệt diệu.

Tác động thứ ba: thái độ chia sẻ. Tình yêu Thiên Chúa bao la đã đổ vào tâm hồn Đức Mẹ tràn đầy niềm vui. Niềm vui thánh thiện và lớn lao đã thúc đẩy Đức Mẹ mau mắn lên đờng đi thăm bà Isave. Đức mẹ không đến để khoe khoang, nhưng để chia sẻ. Nhờ Đức Mẹ đến mà bà Isave và thánh Gioan Baotixita đợc chúc phúc. Đức Mẹ cũng đến để chúc mừng bà chị họ đã đợc Chúa đoái thương. Tâm hồn được Chúa chiếm hữu đã khiến Đức Mẹ trở nên quảng đại và hiệp thông, sẵn sàng chia vui sẻ buồn với những ngời chung quanh.

Tác động thứ bốn: dấn thân phục vụ. Niềm tri ân cảm tạ, niềm vui thánh thiện thực sự sẽ không dừng lại ở những bài ca trên môi miệng. Cảm nghiệm về Tình Yêu Thiên Chúa trong trái tim sẽ mau chóng chuyển sang đôi tay. Niềm tri ân cảm tạ sâu xa sẽ nhanh chóng biến thành hành động. Sự đền đáp tình yêu sẽ thúc đẩy người được yêu dấn thân phục vụ trong những việc làm cụ thể. Chính vì thế Đức Mẹ đã khôn ngần ngại ở lại phục vụ bà chị họ trong ba tháng.

Mừng lễ Đức Mẹ lên Trời một cách có ý nghĩa nhất, đó là ta hãy noi gơng Đức Mẹ: xin Chúa Thánh Thần đến tràn ngập tâm hồn ta như Người đã đến trong lòng Đức Mẹ, giúp ta cảm nghiệm được những ơn lành Chúa ban và giúp ta mau mắn đáp lại tình yêu thương đó.

Xin Đức Mẹ giúp chúng con biết ngoan ngoãn vâng theo ơn Chúa Thánh Thần soi sáng: để vội vã ra đi, để hân hoan tạ ơn, để quảng đại chia sẻ và để dấn thân phục vụ anh em. Amen.

 

 

 

 

 

Chuyện Hồn Với Xác

Don Bosco Trần Đức Quý

 

Đã từng có một thời, người ta xôn xao về chuyện Nhị Nguyên, phân tách Hồn – Xác, đến mức tranh cãi và xung đột nhau gay gắt, để lại nhiều vết thương đau đớn trong Giáo Hội.

Có lẽ hôm nay, nhân đại lễ Đức Mẹ Hồn Xác về Trời, chúng ta không cần lạm bàn triết học hay thần học dài dòng thêm về thuyết Nhị Nguyên này, nhưng hay hơn và cần thiết hơn, chính là thành tâm cúi đầu thú nhận rằng: ít hay nhiều, cuộc sống Đạo của chúng ta, cho đến bây giờ, vẫn cứ còn lấn cấn chập choạng thế nào ấy, giữa Đạo với Đời, giữa cái diễn đạt nghi thức ở bên trong Nhà Thờ và cách thế nghiệm sinh ở bên ngoài Nhà Thờ, giữa chuyện của linh hồn và thân xác, cứ như thể hai đằng chẳng có gì hỗ tương hòa nhập làm một, cứ như thể có đến hai cái Tôi, một cái dành cho Nước trên Trời, và một cái dành cho Nước dưới… Đất.

Nghĩ mà khổ! Giá cứ thẳng tuồn tuột một đường lo cho cái ăn, cái mặc, chuyện vợ chồng, chuyện con cái, làm việc và vui thú hưởng thụ như một người vô thần vô tín ngưỡng, đàng này lại chúng ta lại đã trót… làm người có Đạo, lại là Đạo độc thần nữa cơ chứ!

Cũng trong cái nhãn quan bị cận thị mù mờ ấy mà chúng ta dễ nhìn Đức Mẹ một cách lệch lạc khiếm khuyết: Mẹ là Mẹ Thiên Chúa cơ mà, chuyện Hồn Xác được rước vào Nước Trời là đương nhiên, miễn bàn! Từ tâm não ấy, người ta cảm thấy an tâm hài lòng, chỉ cần tung hô ngợi khen Mẹ bằng những bài Thánh Ca bay bổng tuyệt vời, chỉ cần suy tôn Mẹ như một bà Hoàng rất Thánh, đại Thánh, vô cùng Thánh, ở trên chín tầng mây cao thẳm, thi thoảng làm như vẫn ghé mắt rủ lòng, nhìn xuống đoàn con dân khốn khổ dưới cõi trần bi ai mà… “phát chẩn” những ơn này ơn kia. Cái não trạng này, của đáng tội, tuy hơi quá lời, không khác gì người đời hàng năm cứ đến mùa lễ hội, lại nườm nượp chạy hết đền này phủ nọ để tôn sùng, cầu cạnh xin xỏ và vay nợ bà Chúa Sứ, bà Chúa Kho, bà Chúa Liễu Hạnh…

Chắc chắn không phải là như vậy đâu nhỉ? Tín điều của Giáo Hội tuyên xưng Đức Mẹ cả Hồn lẫn Xác về Trời đâu có phải là chuyện trẻ con, mê tín dị đoan tầm phào như thế! Hồn và Xác của Mẹ đã là một, là duy nhất trong cách thế Mẹ hiện diện trọn vẹn trước Thiên Chúa và trong Thiên Chúa, đến mức được tôn vinh là Hòm Bia của Thiên Chúa, là Đền Thờ Thiên Chúa ngự, là Cửa Thiên Đàng…

Mà thôi, chúng ta chỉ cần nương dựa thật chắc vào Kinh Thánh để nhận ra nơi Mẹ có hai nhịp sống, hai mà là một: nhận đón và trao ban Tin Mừng của Thiên Chúa.

Khi nhận đón Tin Mừng, Mẹ đã nhận đón bằng cả Hồn lẫn Xác, nhờ xúc tác kỳ diệu của Chúa Thánh Thần, để Ngôi Lời được nên xương nên thịt trong dạ Mẹ kể từ ngày được truyền tin, và cứ thế mà Mẹ không ngừng thai nghén cưu mang Đức Giê-su cho Giáo Hội, cho từng người trong chúng ta, âm thầm cho cả những người chưa chịu “khẩu phục tâm phục” Đức Giê-su, cho cả những người cứng đầu cứng cổ, vẫn đang tìm cách đẩy Đức Giê-su ra khỏi đời mình!

Rồi khi trao ban Tin Mừng, Mẹ cũng đã trao ban bằng cả Xác lẫn Hồn, cũng luôn nhờ vào tác động sâu xa của Chúa Thánh Thần, để Ngôi Lời được thành Lời kêu to lên, công bố lớn tiếng lên trên thế giới, truyền đi cho đến tận cùng cõi Đất, để Tin Mừng được toàn cầu hóa (hay là toàn cầu hóa Tin Mừng?), để rồi sẽ không còn có ai trên đời này mà lại không được cơ duyên một lần nào đó nghe nói về Đức Giê-su, gặp được Đức Giê-su và được Đức Giê-su chạm đến mà chữa lành.

Hai nhịp mà là một, hòa quyện, lồng vào nhau, chan cho nhau, đổ đầy lẫn nhau như một chiếc bình thông nhau. Bởi vì nhận đón cũng chính là trao ban, nhận đón để trao ban và trao ban thì cùng lúc vẫn phải không ngừng nhận đón, để không bị vơi, không bị cạn. Mẹ là thế!

Dòng Chúa Cứu Thế được Giáo Hội chính thức ủy thác cho việc cổ súy lòng sùng mộ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp (Notre Mère du Perpétuel Secours – Our Mother of Perpetual Help). Hằng cứu giúp chứ không phải lâu lâu mới cứu giúp, hay cứu giúp theo định mức chỉ tiêu, cũng chẳng đợi con người ta xin cứu thì mới giúp, hoặc lâm vào nghịch cảnh nguy tai cần giúp mới cứu. Cứu giúp ở đây mang ý nghĩa nhận đón và trao ban. Mẹ nhận đón lấy Giê-su, nhận đón lấy Tin Mừng cũng là một trật, trao ban Tin Mừng, Tin Vui, Tin Lành, trao ban Giê-su của yêu thương, của sự sống, của hy vọng cho mọi người trong một bối cảnh thế giới luôn luôn từ khước vị tha xả kỷ và dẫy đầy những Tin Buồn, Tin Xấu, Tin Chết.

Một khi cuộc sống chúng ta, thế giới chúng ta vẫn còn đó những khủng bố, tạt acid, phá thai, những hà hiếp bóc lột bất công, những bạo hành ngược đãi đối với phụ nữ và trẻ thơ, những hất hủi đối với người tật nguyền, những người phong cùi, những người nhiễm AIDS… thì dẫu Hồn Xác Mẹ đã được lên Trời, nhưng Mẹ vẫn sẽ chẳng chịu “nghỉ hưu” mà an hưởng gia nghiệp Nước Trời vinh quang. Ngược lại, Mẹ vẫn mãi cả Xác lẫn Hồn lặn lội tất tả trên mọi nẻo đường dương thế để cứu giúp con cái của Mẹ bằng chính liệu pháp Giê-su, bằng chính thuốc “trụ sinh” Tin Mừng (“Christomycine”, “Gospelcycline” theo cách nói của cha Tiến Lộc trong trại cải tạo cách đây 20 năm).

Thế nhưng, Mẹ còn muốn gì nơi lòng chúng ta? Ở Ca-na, Mẹ bảo các người giúp việc trong tiệc cưới: “Người có bảo sao, các anh cứ làm y như thế!” Chắc là Mẹ không muốn phát chẩn cho chúng ta bằng những phép lạ mang tính biểu diễn, cũng không muốn chúng ta cứ mãi ngửa tay xin bố thí từng ân huệ, nhưng là hiệp sức cộng tác với Mẹ trong khả năng và ơn gọi của mình.

Trong xúc tác của Chúa Thánh Thần, Tin Mừng Giê-su, một khi đã được đón nhận thì có sức tỏa sáng, lan tỏa rất nhanh, rất mạnh, rất sâu, rất rộng, có sức chinh phục âm thầm mà sâu xa như trong một phản ứng hạt nhân dây chuyền. Bất cứ ai, tôi và các bạn, mỗi người và mọi người, một khi đã chịu lấy, đã nhận đón Tin Mừng thì không còn có thể khoanh tay ngồi yên, có giả điếc làm ngơ, vờ ngủ mê thì Mẹ cũng lay tỉnh và thúc giục chúng ta phải mở lòng ra mà trao ban, mà chuyển giao Tin Mừng cho những người khác nữa đang ngong ngóng chờ đợi khát khao, dù họ có ý thức điều đó hay không. Để rồi ai cũng có thể thốt lên: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả” (Lc 1,49). Gaudium et Spes, Vui Mừng và Hy Vọng là như thế đó…

Hôm Chúa Nhật 12.8, trước khi đến dâng Thánh Lễ tại nguyện đường Sainte Marie ở Hà Nội, tôi nhận được một E-Mail từ trong Nam chuyển ra, nội dung là lời cầu cứu của một gia đình nghèo ở tỉnh Đồng Nai có cháu bé bị Tim bẩm sinh đã đến hồi nguy kịch. Tiện tay tôi cầm lá thư kẹp vào trong quyển sổ soạn bài giảng. Và tôi đã mạnh dạn đọc to lá thư ấy cho cộng đoàn. Khi tan Lễ, mọi người quây lại khen tôi giảng hay quá. Bản tính tự nhiên con người khiến tôi thấy len lén một thoáng tự hãnh kiêu ngạo, nhưng ngay sau đó, tôi hiểu rằng mình đã được Chúa Thánh Thần “mượn tạm”, đã được Mẹ Hằng Cứu Giúp trưng dụng, sung công để nhận và chuyển ngay Tin Mừng của ngày hôm ấy đến cho mọi người, đích xác là cho những anh chị em đã có mặt trong Thánh Lễ ngày hôm ấy. Ngày 16.8, ngay sau khi cử hành Lễ Đức Mẹ Hồn Xác về Trời, tôi vào lại Sài-gòn, không chỉ mang theo số tiền 3.050.000 đồng mà còn là cả tấm lòng yêu thương san sẻ của những người bạn Hà Nội cho một em bé, cho một gia đình ở tít tận mền Nam. Không ai biết mặt ai, không ai đã từng quen biết ai, nhưng cũng không ai còn xa lạ nhau trong Tin Mừng Giê-su kỳ diệu.

Vậy đó, chuyện Hồn với Xác đâu có gì là tách bạch, chuyện Đạo với Đời đâu có gì là chia cách biệt phân. Mẹ về Trời nhưng không ở trên Trời xa xôi, Mẹ vẫn đang lang thang lữ hành trên cõi Đất này, vẫn đang chọn dừng chân lưu ngụ nơi mỗi tâm hồn những con cái đáng thương của Mẹ để gửi gấm và làm nở hoa Tin Mừng. Mà như vậy, đâu phải đợi đến ngày “xác phàm sẽ sống lại” để cùng với linh hồn để bay về Trời mà hạnh ngộ với Thiên Chúa và Mẹ, nhưng ngay hôm nay, đang giữa đường trần ngược xuôi tất tả, cả hồn lẫn xác chúng ta cũng đã được nếm lấy hương vị bữa tiệc Nước Trời, đã được “tạm ứng” nỗi Mừng Vui kín ẩn mà thấm thía của Tình Yêu…

Tôi tin, trong những ngày đang diễn ra Đại Hội La Vang lần này, Hồn và Xác Mẹ cũng đang chạm đến hồn và xác của nhiều con người, như đã từng chạm đến tôi, đến những anh chị em ở Sainte Marie, đến những em bé như em bé bị Tim bẩm sinh ở Đồng Nai, đến cả bạn nữa đấy.

Lm. LÊ QUANG UY, DCCT

 

 

 

 

 

Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời

(Gr 38,4-6,8-10; Tv 40,2-18; Dt 12,1-4; Lc 12,49-53)

 

 Một người Nữ, mặc áo mặt trời, chân đạp mặt trăng, đầu đội triều thiên 12 ngôi sao.

Trong ngày mừng Đức Maria Hồn Xác lên trời, Giáo Hội mượn lời thánh Gioan trong sách: 15/8-5

Trong ngày mừng Đức Maria Hồn Xác lên trời, Giáo Hội mượn lời thánh Gioan trong sách Khải Huyền để ca ngợi Mẹ: “một người Nữ, mặc áo mặt trời, chân đạp mặt trăng, đầu đội triều thiên 12 ngôi sao” (Kh 12,1).

Tín điều Đức Mẹ Hồn Xác lên trời đã được Đức Thánh Cha Piô XII tuyên bố ngày 01 tháng 11 năm 1950, trong bửu sắc “Munificentissimus Deus”, như sau: “Chúng Tôi công bố, tuyên xưng, và định tín giáo lý đã được Thiên Chúa mạc khải này: Đức Maria trọn đời đồng trinh, Mẹ Vô Nhiễm của Thiên Chúa, sau khi hoàn tất cuộc đời dương thế, đã được đưa lên trời hiển vinh cả Hồn lẫn Xác”.

Đây là một tín điều được Thiên Chúa mạc khải.

Thánh Kinh đã cung cấp các dữ kiện, các luận cứ về việc Đức Maria Hồn Xác lên trời. Từ những trang đầu Sách Sáng Thế đã nói về một cuộc chiến giữa một người nữ với Satan: “Ta sẽ đặt mối thù giữa ngươi và người đàn bà, giữa dòng giống ngươi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đạp giập đầu ngươi, và ngươi sẽ cắn vào gót nó” (St 3,15). Giáo Hội hiểu người đàn bà nói ở đây là Ðức Maria và dòng dõi là Ðức Kitô. Như vậy, lời Kinh Thánh này đã tiên báo cuộc chiến thắng của Mẹ Maria và Giáo Hội nhờ Chúa Giêsu con Mẹ. Nếu Giáo Hội nhìn nhận “Đức Maria là Hòm Bia của Chúa Kitô” thì ngôn sứ Isaia đã viết: “Ta tôn vinh chỗ Ta đặt chân” (Is 60,13); Thánh Vịnh 16 cũng ám chỉ mầu nhiệm Mẹ Hồn Xác lên trời khi nói: “Vì thế, tâm hồn tôi mừng rỡ và lòng dạ hân hoan, thân xác tôi cũng nghỉ ngơi an toàn. Vì Chúa chẳng đành bỏ mặc con trong cõi âm ty, không để kẻ hiếu trung này hư nát trong phần mộ” (Tv 16,9-10). Sách Khải Huyền trong bài đọc 1 cũng nói về hình ảnh “một người Phụ Nữ, mặc áo mặt trời, chân đạp mặt trăng và đầu đội triều thiên 12 ngôi sao” (Kh 12,1). Đó chính là người nữ chiến thắng mà sách Sáng Thế đã loan báo (St 3,15). Một luận cứ nữa chúng ta đọc thấy trong bài đọc 2 (1 Cr 15,20-27). Thánh Phaolô khẳng định: “Nếu tại một người mà nhân loại phải chết, thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại. Mọi người vì liên đới với Ađam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống”. Thử hỏi có ai “liên đới với Đức Kitô” khắng khít hơn là chính Thân Mẫu Người?. Nhìn vào cuộc đời của Ðức Mẹ, chúng ta dám khẳng định rằng: Mẹ luôn đồng hành với Ðức Giêsu từ khi nhập thể cho đến chân Thập Giá, một cách nói mạnh mẽ hơn là Mẹ đã “đồng công” với Chúa Giêsu trong công trình cứu chuộc nhân loại (x. LG 53-70). Như vậy, việc Mẹ được Thiên Chúa đưa vào hưởng vinh quang thiên quốc cả hồn lẫn xác là điều chắc chắn và không sai lầm. Thánh Đamascênô nói: “Cần thiết rằng Con Thiên Chúa, khi sinh ra, đã gìn giữ vẹn tuyền đức Trinh của Mẹ, thì phải gìn giữ Mẹ khi chết, khỏi hư hoại. Đấng đã cưu mang Đấng Tạo Hoá cần được ở trong cung điện của Thiên Chúa. Mẹ Thiên Chúa cần phải có tất cả mọi điều thuộc về Con của Mẹ và cần được mọi thụ tạo tôn vinh”.

Lễ Mẹ lên trời là một lời mời gọi đầy hy vọng

Mẹ Maria lên trời là hình ảnh vẹn toàn nhất của Giáo Hội ngày mai, là bình minh của Giáo Hội khải hoàn. Sách Giáo lý Hội Thánh xác quyêt điều này khi nói: “Việc Đức Trinh Nữ được lên trời Hồn Xác là sự thông phần cá biệt vào cuộc phục sinh của Con Mẹ, và tiên báo cuộc phục sinh của các tín hữu” (số 966). Đó cũng là điều xác quyết của Công Đồng Vaticanô II: “Trong việc Đức Maria Hồn Xác Lên trời chúng ta nhìn thấy lời hứa, những thành quả đầu tiên của hạnh phúc vinh quang của chính chúng ta…Mầu nhiệm Đức Maria Hồn Xác Lên Trời là một mầu nhiệm của và cho toàn thể Giáo Hội” (LG 65).

Để được lên trời với Mẹ, Giáo Hội phải bước vào cuộc chiến đức tin với Mẹ.

Trong ngày Lễ Đức Mẹ lên trời, qua bài đọc Sách Khải Huyền (Kh 12), Giáo Hội đã trình bày cho chúng ta một hình ảnh sống động, đầy tính cách bi đát, gian nan, nhưng cũng đầy hy vọng, mà Thiên Chúa đã mặc khải cho chúng ta. Đó là hình ảnh một Người Nữ huyền nhiệm, “đầu đội triều thiên…đang mang thai, kêu la chuyển bụng…và con rắn mãng xà gian ác đang chực sẵn để nuốt sống đứa con khi Người Nữ vừa sinh ra”. Đó phải chăng là vọng lại lời sách Sáng Thế Ký 3,15! Giáo Hội nhìn thấy nơi thị kiến này hình ảnh của Giáo Hội đang lữ hành trong gian nan của cuộc chiến đức tin. Ngày nay hơn bao giờ hết, Giáo Hội đang phải đối mặt với mọi đe dọa và thách đố đến từ mọi phía, từ trong cũng như ngoài Giáo Hội. Chúng ta chỉ cần nhớ lại những chiến dịch chống phá Giáo Hội từ các phương tiện truyền thông trong năm qua. Chúng ta chỉ cần nhớ lại những cuộc bách hại đạo vào thời các Kitô hữu tiên khởi – ở Giêrusalem, ở Rôma, và ngay trên quê hương chúng ta xưa cũng như nay. Đây không phải là một điều mới mẻ. Chúng ta biết rằng suốt dòng lịch sử của Giáo Hội, từ buổi đầu khai sinh cho tới hôm nay và còn tiếp tục trong tương lai, những đe dọa và bắt bớ những chống đối và đàn áp khốc liệt luôn gắn liền với đời sống Giáo Hội.

Qua hình ảnh được mặc khải về Người Nữ bị con rồng đe dọa, thánh Gioan đã nhìn thấy được những đe dọa, những thử thách gian nan này trước đây hai ngàn năm. Vì thế người ta nói thật đúng khi sử dụng cụm từ «Giáo Hội chiến đấu» để nói về Giáo Hội Đức Kitô tại thế. Vậy, hình ảnh «Người Nữ» trong Sách Khải Huyền đã làm cho chúng ta hiểu rằng: Một đàng, mãi cho đến ngày tận thế, Giáo Hội luôn phải đối mặt với mọi gian nguy thử thách, nhưng đàng khác, quỷ dữ và thuộc hạ gian ác của nó sẽ không thể chiến thắng hay loại bỏ được Giáo Hội. Giáo Hội sẽ chiến thắng và cuộc chiến thắng này đã được hiện thực một cách cụ thể nơi con người Mẹ Maria. Cũng như Mẹ Maria đã được rước về trời cả hồn lẫn xác, Giáo Hội chắc chắn cũng sẽ từ một «Giáo Hội chiến đấu» trở thành một «Giáo Hội chiến thắng» trong ngày tận thế.

Mừng lễ Mẹ Maria hồn xác lên Trời, chúng ta cầu xin Chúa, qua lời bầu cử của Đức Mẹ cho chúng ta cũng được lên Trời vinh hiển với Mẹ. Xin cho mỗi người luôn biết ngước nhìn lên Mẹ để có thể vượt qua biển đời thử thách, gian nan với lòng tin vào cuộc khải hoàn nhờ Chúa Kitô. Để một ngày kia chúng ta được cùng nhau chiêm ngắmMẹ: “Một người Nữ, mặc áo mặt trời, chân đạp mặt trăng, đầu đội triều thiên 12 ngôi sao”.

LM. Bruno Phạm Bá Quế

 

 

 

 

 

Tình Yêu Của Thiên Chúa Ba Ngôi Dành Cho Mẹ Qua Sự Kiện Mẹ Hồn Xác Lên Trời

Don Bosco Trần Đức Quý

 

Trong các ân sủng lớn lao mà Mẹ được Thiên Chúa ban như ân sủng làm Mẹ Thiên Chúa, ân sủng vô nhiễm nguyên tội v.v…, thì ân sủng được về trời cả hồn lẫn xác phải kể là một ân sủng hết sức đặc biệt mà Thiên Chúa dành cho Mẹ. Đặc biệt ở chỗ: Mẹ là thụ tạo duy nhất được Chúa cho về trời cả hồn lẫn xác. Ở đây, xin nhấn mạnh là: Chúa đã cho Mẹ lên trời, vì Mẹ không thể tự mình lên trời được (như một số người lầm tưởng), chính Thiên Chúa Toàn Năng đã cất nhắc Mẹ lên vì Mẹ là người hoàn toàn xứng đáng; khác với Chúa Giêsu, Ngài là con người thật, nhưng cũng là Thiên Chúa thật, nên tự thân Ngài có thể lên trời cách dễ dàng.

Mẹ đã được Ba Ngôi Thiên Chúa yêu thương vô cùng. Mỗi ngôi vị đều dành cho Mẹ một tình yêu hết sức tuyệt vời, mà ở đây chúng ta chỉ xét đến sự thể hiện tình yêu đó qua sự kiện Mẹ được về trời cả hồn lẫn xác.

Tại sao Chúa Cha đã thương cho Mẹ hồn xác về trời? Thưa, bởi vì chính người tỳ nữ Maria của Cha đã rất đẹp lòng Cha khi nói lên lời “xin vâng” với Cha để thánh ý của Ngài được thể hiện “dưới đất cũng như trên trời”. Ngoài ra, nhờ sự tin tưởng tuyệt đối của Mẹ vào quyền năng của Thiên Chúa nên Mẹ đã được Chúa Cha trao vào lòng Mẹ người Con yêu quý duy nhất của Ngài. Chính vì thế, Chúa Cha đã không nỡ để cho thân xác vẹn tuyền của Mẹ, người đã được Chúa Cha chọn để sinh ra chính Con Một của Ngài nơi trần thế, phải hư nát trong mồ. Maria là người không thể chịu chung số phận với những xác phàm khác được, vì chính thân xác này đã cưu mang Con Một của Cha, cũng là Ngôi Hai trong Ba Ngôi Thiên Chúa.

Còn lý do vì sao Chúa Giêsu, Thiên Chúa Ngôi Hai, lại đưa Mẹ về trời cả hồn và xác thì quả không có gì là khó hiểu. Cả một đời Mẹ cưu mang, thương yêu và chăm sóc cho Chúa Giêsu, nên không lẽ Ngài lại để cho thân xác của Mẹ Ngài tan thành bụi đất, trong khi Ngài là Thiên Chúa quyền năng và lại hết lòng hiếu thảo yêu thương Mẹ. Không những thế, Mẹ là người thấu hiểu và thông cảm được hết những đau khổ mà Chúa phải chịu trong cuộc tử nạn của Ngài, Mẹ đã hiệp thông và chia sẻ với con của Mẹ từng giây từng phút trên con đường tiến lên Núi Sọ. Vì vậy, Mẹ xứng đáng được chia phúc vinh hiển bên Chúa Kitô Phục Sinh, xứng đáng được Chúa Giêsu dành cho ân sủng đặc biệt này: ân sủng hồn xác lên trời.

Nhờ vào quyền năng của Chúa Thánh Thần, và đồng thời cũng nhờ vào sự cộng tác (thể hiện ở sự vâng phục Thiên Chúa) của Mẹ, Chúa Giêsu trở nên con người bằng xương bằng thịt giữa chúng ta. Ngài đã chịu chết trên cây thập tự, làm giá cứu chuộc cho chúng ta, làm hy lễ đền thay cho toàn thể nhân loại. Thiên Chúa không thể không rước hồn xác Mẹ về trời, bởi lẽ chính thân xác Mẹ đã sinh ra Con Một Thiên Chúa, nên không thể bị sự giới hạn của thời gian và không gian sao. Vì nếu bị sự giới hạn này quả không xứng với Ngài là Đấng vượt trên thời gian và không gian, Thiên Chúa vô thủy vô chung đầy uy quyền.

MẸ LÀ NGƯỜI XỨNG ĐÁNG LÃNH NHẬN ÂN SỦNG HỒN XÁC VỀ TRỜI.

Đối với Chúa Cha, Mẹ là một người con rất đẹp lòng Ngài. Sự vâng phục và trung tín của Mẹ đã chiếm được sự ưu ái của Chúa Cha. Suốt một đời sống xin vâng và trung thành với lời xin vâng ấy, cô “nữ tỳ Maria của Thiên Chúa” xứng đáng được Ngài ban cho phần thưởng trọng hậu.

Đối với Chúa Con, Mẹ là một người Mẹ đầy tình mẫu tử. Mẹ đã cưu mang chính Thiên Chúa Ngôi Hai trong lòng mình, đã nuôi dưỡng, chăm sóc, dạy dỗ trong suốt hơn 30 năm, để rồi đến một ngày lại xót xa thấy con mình chịu chết tủi nhục trên thập giá. Tình yêu của Mẹ dành cho Chúa Giêsu, cùng với những nỗi vất vả lo toan và đau khổ của Mẹ, chẳng lẽ lại không xứng đáng được Ngài dành cho Mẹ phúc ân vinh hiển lên trời hồn xác với Ngài?

Đối với Chúa Thánh Thần, Mẹ thật đúng là một hiền thê. Mẹ đã kết hiệp mật thiết với Chúa Thánh Thần để thực hiện hoàn hảo thánh ý của Thiên Chúa trong chương trình cứu độ của Ngài. Mẹ đã dâng hiến cả hồn xác, cả cuộc đời Mẹ cho Thiên Chúa. Mẹ đã hoàn toàn tin tưởng và phó thác vào quyền năng của Chúa Thánh Thần. Vì thế, không có ai xứng đáng hơn Mẹ để được Chúa Thánh Thần thương yêu và đón về trời cả hồn và xác.

Để kết thúc bài viết này, tôi muốn mời độc giả cùng với tôi dành vài phút suy niệm mầu nhiệm thứ 4 Năm Sự Mừng để kính dâng lên Mẹ diễm phúc của chúng ta:

Lạy Mẹ Maria, Mẹ đầy ân sủng. Thiên Chúa đã không để cho thân xác vẹn tuyền của Mẹ phải biến thành tro bụi, Ngài đã ban cho Mẹ một ơn phúc vô cùng tuyệt diệu, một ân sủng lớn lao mà chỉ mình Mẹ xứng đáng trong muôn loài thọ tạo, là được về trời cả hồn lẫn xác. Chúng con trân trọng từng lời kinh Kính Mừng trong mầu nhiệm này để tiến dâng lên Mẹ. Xin Mẹ, là Mẹ Chúa Giêsu và là Mẹ chúng con, cầu cho chúng con là những kẻ có tội. Xin Mẹ giúp chúng con sống xa đàng tội lỗi, luôn biết sống noi gương Mẹ, để vào giây phút lâm chung cuối cuộc đời, chúng con được an nghỉ trong bàn tay dịu hiền của Mẹ. Amen.

Nữ Vương hồn xác lên trời, cầu cho chúng con.

Don Bosco Trần Đức Quý

 

 

 

 

 

Lạy Mẹ Là Ngôi Sao Sáng

Lm. Nguyễn Ngọc Long

 

Bài hát bình dân quen thuộc: Lạy Mẹ là ngôi sao sáng soi lối cho con vượt biển thế gian… hầu như người tín hữu công giáo Việtnam nào cũng đã đều hát hay nghe hát trong các thánh đường vào các dịp lễ Đức Mẹ, rước kiệu Đức Mẹ, nhất là vào các ngày thứ bảy và vào tháng Hoa, tháng Mân Côi kính Đức Mẹ Maria rất nhiều lần trong đời và có người còn hát thuộc lòng được. Bài hát này là lời ca tụng và lời kêu khấn xin ơn phù hộ trợ giúp cùng Đức Mẹ thoát ra từ đáy tâm hồn đầy lòng tin tưởng, yêu mến.

Nhưng tại sao chúng ta lại ca tụng Đức Mẹ là ngôi sao sáng soi lối cho cuộc đời mình? Phải chăng Đức Mẹ Maria xuất hiện như ngôi sao Mai, sao Hôm hay chòm sao Bắc đẩu trên nền trời giữa đêm khuya để chỉ phương hướng cho người đi tầu thuyền trên biển cả, trên sông nước hay trong rừng sâu núi thẳm?

Hình ảnh những vì sao chiếu sáng lấp lánh trên nền trời trong đêm khuya là hình ảnh đẹp và thơ mộng. Chúng là tạo vật trong công trình sáng tạo vũ trụ của Thiên Chúa từ thuở tạo thiên lập địa (ST 1,16).

Đức Mẹ cũng là một tạo vật do Thiên Chúa tạo dựng, có khác chăng Đức Mẹ được Chúa chúc phúc tuyển chọn làm mẹ Chúa Giêsu. Nên ví Đức mẹ như những vì sao lấp lánh chiếu sáng cũng là điều hợp tình hợp lý.

Ánh sáng các vì sao trên nền trời trong đêm khuya không sáng tỏ như ánh sáng bóng đèn đường, nhưng chúng chỉ dẫn phương hướng Đông Tây Nam Bắc cho người đang lênh đênh trên mặt biển, trong lòng sông ngòi hay đang lầm lũi trong thung lũng rừng sâu, để khỏi bị lạc. Chúng là mốc trụ chỉ phương hướng cho phải nhắm tới khác nào một địa bàn trong đêm tối.

Nhưng khi nhìn vào Đức Me, ta có thể nhận ra điều gì?

Nhìn vào Đức Mẹ, ta nhận ra cội nguồn đời ta. Đức Mẹ Maria không là Đấng Tạo Hoá, nhưng Đức Mẹ được Thiên Chúa tạo dựng. Đức Mẹ đón nhận sự sống và những ân đức cho cuộc đời mình từ nơi Thiên Chúa. Đức Mẹ cũng được sinh ra trong một gia đình có cha mẹ anh chị em họ hàng trong một quê hương đất nước bên xứ Do Thái. Thiên Chúa đã tạo dựng và luôn đồng hành che chở gìn giữ đời Đức Mẹ.

Cũng vậy, đời ta cũng có khởi nguồn như Đức Mẹ từ Thiên Chúa, Đấng ban cho ta sự sống, ân đức, gia đình, ơn gọi và hằng đồng hành với trong cuộc sống qua mọi chặng đường đời.

Đức Mẹ là mẹ Thiên Chúa. Thiên Chúa muốn trở thành con người xuống trần gian và Ngài đã để Đức Mẹ cùng làm công việc đó. Vì Đức Mẹ đã chấp nhận ý Chúa qua lời ưng thuận: Này tôi là tôi tớ Chúa. Tôi xin vâng như lời sứ thần truyền tin! (Lc 1,38).

Thiên Chúa cũng muốn qua đời sống ta để danh Ngài, sứ điệp tình yêu được loan truyền. Ta cũng được hân hạnh như Đức mẹ cùng cộng tác vào việc đó, nếu ta bằng lòng chấp thuận thánh ý Chúa trong đời sống.

Đức Mẹ ngày xưa khi cùng đồng hành bên cạnh Chúa Giêsu, đã sống và nhìn tận mắt những dấu lạ nói lên tình yêu và quyền phép của Thiên Chúa, như phép lạ nước hoá thành rượu ở tiệc cưới xứ Cana.

Ta cũng có thể cảm nhận được tình yêu và quyền năng của Thiên Chúa như Đức Mẹ, nếu sống gần gũi với Chúa trong tình liên đới người đồng loại, nhìn dấu chỉ thời đại như sứ điệp từ Trời cao nhắn gửi và biết kính trọng thiên nhiên.

Cuộc đời Đức Mẹ đã cùng trải qua với Chúa Giêsu con đường đau khổ, con đường thành giá. Qua hình ảnh đó, ta nhận ra, cuộc đời ta cũng như Đức Mẹ phải trải qua con đường gai góc nặng nề: bệnh tật , đau khổ, những điều không may, những điều trái ý gây vướng trở khó chịu… Đó là đời sống của tạo vật.

Đức Mẹ Maria mặc dù đã được chọn làm mẹ Thiên Chúa, nhưng cũng phải bước qua ngưỡng cửa sự chết như bao tạo vật khác, để trở về với cội nguồn của đời sống bên Chúa. Và Chúa đã thưởng công Đức Mẹ, rước về trời cả hồn lẫn xác hưởng niềm vui vĩnh cửu trên thiên đàng..

Sứ điệp này là lời an ủi là niềm hy vọng cho cuộc đời con người. Chúng ta ai cũng sẽ có ngày tận cùng của đời sống. Nhưng cuộc đời không chấm dứt với cái chết. Trái lại cũng được Chúa giải thoát cứu độ và cho về hưởng hạnh phúc trên nước Chúa như Đức Mẹ.

Ngôi sao lấp lánh trên nền trời chỉ phương hướng cho người vượt biển, băng rừng trong đêm tối tìm đường tới bến bờ bình an.

Cuộc sống kết hợp với Thiên Chúa của Đức Mẹ khác chi ngôi sao soi đường dẫn lối, giúp người tin theo Chúa tìm thấy phương hướng bến bờ niềm cậy trông hy vọng trên cuộc sống lữ hành trần gian.

Lm. Nguyễn ngọc Long

 

 

 

 

 

Suy Gẫm Về Sự Khiêm Nhường Của Đức Mẹ

 

Bài nói chuyện của Đức Cha GB. Bùi Tuần với các linh mục tu sĩ giáo phận Long xuyên, nhân dịp tĩnh tâm tháng 8/2002 Nhân lễ Đức Mẹ Maria  hồn xác lên trời.

Đức Mẹ Maria là một phụ nữ rất đẹp. Đẹp vì được đầy ơn Chúa. Đẹp vì: 15/08-10

Đức Mẹ Maria là một phụ nữ rất đẹp. Đẹp vì được đầy ơn Chúa. Đẹp vì ơn vô nhiễm nguyên tội. Đẹp về chức làm mẹ Đấng Cứu thế. Đẹp vì niềm tin đơn sơ và tuyệt đối. Đẹp vì cuộc đời phục vụ tận tình với tất cả lương tâm người mẹ. Nhưng nét đẹp trùm phủ mọi nét đẹp nơi Đức Mẹ chính là đức khiêm nhường.

Khiêm nhường của Đức Mẹ thoang thoảng như một thứ hương thơm hảo hạng, thấm sâu và thấm đều vào mọi vẻ đẹp hồn xác nơi Đức Mẹ, tạo nên sức hấp dẫn phi thường.

Khiêm nhường của Đức Mẹ mặn mà như một thứ muối linh thiêng, làm tăng mọi vẻ đẹp thể xác, tâm linh và siêu nhiên nơi Đức Mẹ, tạo nên một thánh lễ sống động, và di động đẹp lòng Thiên Chúa.

Khiêm nhường của Đức Mẹ lung linh như một thứ ánh sáng dịu mát, toả ra từ mọi lời nói, từ mỗi bước đi, từ mỗi thái độ của Đức Mẹ, soi sáng dẫn đưa tâm hồn con người một cách nhẹ nhàng tế nhị.

Khiêm nhường của Đức Mẹ huyền diệu như một thứ âm nhạc, vừa dịu êm, vừa nhắc nhở, gieo Tin Mừng vào con người, tới tận những tầng lớp rất sâu của tâm linh.

Được gần gũi Đức Mẹ và dựa vào Phúc Âm, chúng ta có thể nói chung chung như thế về vẻ đẹp khiêm nhường nơi Đức Mẹ. Bây giờ chúng ta thử đi vào một vài phương diện đạo đức nơi Đức Mẹ, để lắng nghe Đức Mẹ dạy dỗ về nhân đức nền tảng này.

1/ Khiêm nhường đón nhận ơn Chúa và chính Chúa.

Điều quan trọng nhất về đạo đức là biết đón nhận các ơn Chúa. Biết đón nhận đòi hỏi một thái độ khó nghèo, mềm mại, khao khát và tỉnh thức.

Khó nghèo là như đứa nhỏ biết mình thiếu thốn, yếu hèn, mong mỏi đợi chờ được nâng đỡ về mọi mặt.

Mềm mại là như mảnh đất đã cày bừa, vun xới để hạt giống gieo vào dễ ăn rễ và phát triển.

Khao khát là như người đau bệnh mong gặp được thầy thuốc giỏi, thứ thuốc tốt, cứu mình khỏi bệnh, giúp mình bình phục.

Tỉnh thức là như trái tim yêu thương biết đọc được những tín hiệu, những dấu chỉ của người mình thương.

Với những thái độ khiêm tốn tương tự như trên, Đức Mẹ đã đón nhận các ơn Chúa. Càng đón nhận, Đức Mẹ càng xác tín rằng: Tất cả đều do Chúa ban cho nhưng không, nhờ lòng thương xót Chúa. Chứ bản thân mình không chút gì xứng đáng, không có công phúc gì để mà tự cao.

Đức Mẹ rất hiểu những chân lý đạo đức này trong Phúc Âm: “Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con” (Ga 15,16).

“Có sự gì con có mà đã không lãnh nhận. Nếu con đã lãnh nhận tất cả, thì tại sao con có thể kiêu căng, như thể con đã không lãnh nhận?” (1Cor 4,7).

Tấm lòng khiêm tốn là bàn thờ Đức Mẹ dâng mình làm lễ tế, với những tâm tình cung kính tạ ơn: “Linh hồn con ngợi khen Thiên Chúa, thần trí con hớn hở vui mừng. Vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ con, đã đoái thương nhìn đến phận hèn người nữ tỳ của Chúa” (Lc 1,46-48).

Có những ơn Đức Mẹ nhận được và Đức Mẹ đã hiểu. Nhưng có những ơn Đức Mẹ nhận được mà Đức Mẹ không hiểu (Lc 2,50). Đức Mẹ chỉ ghi nhớ và suy niệm trong lòng (Lc 2,51) với đức tin khiêm nhường phó thác.

Ấy là nói về các ơn Chúa mà Đức Mẹ đã đón nhận.

Còn khi đón nhận chính Chúa, thì Đức Mẹ cũng đã gặp những điều quá bất ngờ, không thể nào hiểu nổi. Một Chúa uy quyền cao sang, mà lại sống trong thân phận kẻ nghèo, giữa đám dân nghèo, bị phản đối, bị bắt bớ, bị kết án và bị giết. Đón nhận Chúa là đồng thời cũng đón nhận con đường Chúa chọn. Đó là con đường hẹp, con đường đi qua khổ nạn và thập giá để tới vinh quang phục sinh và cứu độ. “Ai muốn là môn đệ của Thầy hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày, mà đi theo Thầy” (Lc 9,23). Chỉ với đức tin khiêm nhường, mới đón nhận được Chúa cứu thế và con đường Ngài chọn.

Đối với chúng ta điều khó nhất không phải là đón nhận Chúa, mà là đón nhận con đường Ngài chọn và Ngài dạy ta cũng phải đi theo. Về lý thuyết, chúng ta thấy dễ chấp nhận. Nhưng trên thực tế, chúng ta hẳn sẽ thấy không dễ chút nào. Nếu không có ơn Chúa thương giúp cách riêng, trong nhiều trường hợp, chúng ta sẽ tự lừa dối mình bằng lý do nọ lý do kia để tìm cách trốn tránh thánh giá. Cũng như, nếu không có ơn Chúa thương cách riêng, trong nhiều trường hợp, chúng ta cũng sẽ tự lừa dối mình bằng nhiều lý do này nọ, để biện minh cho con đường dễ dãi, đi tìm vinh quang độc hại, uy tín phù du, chứ không qua con đường Chúa đã đi và dạy ta đi theo, để góp phần vào việc cứu độ mình và những người, những nơi, mà Chúa sai chúng ta phục vụ.

Hãy xem gương Đức Mẹ, hãy lắng nghe Đức Mẹ dạy dỗ ta về sự đón nhận các ơn Chúa và đón nhận chính Chúa. Điều kiện căn bản để đón nhận là khiêm nhường, rất khiêm nhường, hết sức khiêm nhường.

2/ Khiêm nhường để Chúa Thánh Thần hướng dẫn trên đường phục vụ.

Hạ mình xuống, nếu chỉ là việc làm lẻ loi, lúc có lúc không, thì không phải là nhân tố đã làm cho Đức Mẹ nên người khiêm nhường. Người khiêm nhường là người hạ mình thường xuyên, trong mọi lúc, ở mọi nơi. Khiêm nhường như một tình trạng luôn luôn hằng ngày. Đức Mẹ được như vậy là nhờ Chúa Thánh Thần. “Chúa Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Bà” (Lc 1,35). Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Đức Mẹ và ở lại với Đức Mẹ thường xuyên. Người hướng dẫn Đức Mẹ luôn sống lời “xin vâng”. Trong mọi hành vi lớn nhớ, từ tư tưởng, đến việc làm và lời nói, Đức Mẹ luôn thực thi thánh ý Chúa. Chính ở điểm đó, mà Đức Mẹ gắn bó với Chúa, có thực chất người mẹ Đấng cứu thế mà Chúa muốn. Như lời Chúa Giêsu quả quyết: “Phàm ai thi hành ý muốn của Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em Thầy, là mẹ Thầy” (Mt 12,50).

Một bổn phận quan trọng trong sứ mạng của Đức Mẹ là bổn phận phục vụ. Đức Mẹ đã thực hiện bổn phận phục vụ đúng thánh ý Chúa. Phục vụ đúng thánh ý Chúa là phục vụ với sự thông minh tế nhị. Bằng những việc làm đáp ứng đúng nhu cầu, vào đúng lúc, với đúng cách. Chẳng hạn việc Đức Mẹ đi thăm bà thánh Isave, và việc Đức Mẹ xin Chúa Giêsu làm phép lạ trong tiệc cưới Cana. Đó là phục vụ đúng nhu cầu, đúng lúc, đúng cách, hợp ý Chúa. Rồi chẳng hạn sự Đức Mẹ sống thầm lặng kín đáo trong suốt cuộc đời, để đồng hành với Chúa Giêsu, và giúp đỡ các tông đồ. Đó cũng chính là phục vụ đúng nhu cầu, đúng lúc, đúng cách, hợp ý Chúa.

Đi theo Đức Mẹ, những ai thường xuyên khiêm nhường dưới sự dẫn đưa của Chúa Thánh Linh, sẽ cảm nghiệm được sự thực thi ý Chúa là một lương thực hằng ngày cần thiết cho tu đức, mục vụ và truyền giáo.

Chúa Thánh Thần sẽ đổi mới con người của ta một cách sâu sắc, âm thầm theo kế hoạch cứu độ của Ngài. Để tâm hồn ta trở thành suối nguồn tuôn chảy không ngừng những tâm tình cầu nguyện, ca tụng, tạ ơn Chúa trong bình an và tin tưởng. Cho dù giữa khổ đau chồng chất và gian nan tới tấp. Trường hợp như thế, ta có thể nói như thánh Phaolô xưa: “Chúng tôi mang kho tàng này trong những chiếc bình bằng đất, để tỏ rõ sức mạnh đến từ Thiên Chúa, chứ không từ chúng tôi” (2 Cor 4,7). Đó là một nhận thức đúng sự thực. Và nhận thức đúng sự thực như thế về mình và về Chúa chính là khiêm nhường.

Sự khiêm nhường như thế rất cần trong việc phấn đấu vượt qua những thử thách.

3/ Khiêm nhường cộng tác vào kế hoạch cứu độ của Chúa nặng nhiều thử thách.

Đức Mẹ đã được danh dự cộng tác vào chương trình cứu độ của Chúa. Chương trình này không đơn giản dễ dàng. Nó đặt ra nhiều thắc mắc.

Tại sao không cứu độ chỉ bằng yêu mến, mà còn phải bằng khổ đau?

Tại sao không cứu độ chỉ bằng những việc từ thiện bác ái, nâng cao đời sống và nhân phẩm con người lên, mà còn phải bằng con đường khổ nhục dẫn tới thập giá?

Tại sao không cứu độ chỉ bằng việc rao giảng Lời Chúa, ban phát các bí tích, mà còn phải bằng cách chấp nhận thân phận hạt lúa: Phải chôn vùi vào đất, phải chịu thối đi?

Tại sao không cứu độ chỉ bằng những phép lạ, uy tín chính trị, kinh tế, xã hội, trí thức, tôn giáo, mà còn phải bằng sự từ bỏ mình, vác thập giá mình và bước theo Chúa Giêsu đi qua cửa hẹp?

Đức Mẹ đã không ảo tưởng với những câu hỏi như thế. Bởi vì Đức Mẹ đã được báo trước: “Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn Bà” (Lc 2,35). Lời tiên tri đó đã ứng nghiệm nơi Đức Mẹ bằng nhiều cách, trong nhiều giai đoạn. Đó là những thử thách, lúc công khai, lúc kín đáo âm thầm. Trong mọi trường hợp chịu lưỡi gươm đâm như thế, Đức Mẹ đã rất khiêm nhường. Khiêm nhường là thinh lặng không kêu trách. Khiêm nhường là tin cậy ơn Chúa trong thức tỉnh và cầu nguyện. Khiêm nhường là tha thứ cho những kẻ làm khổ và xúc phạm con mình. Khiêm nhường là kiên trì kính trọng những bước đi tuần tự của kế hoạch cứu độ. Thời gian đó là một hành trình dài.

Nếu Đức Mẹ đã khiêm tốn đi vào con đường thử thách đớn đau, thì các con cái Mẹ cũng phải đi theo Mẹ mình. Chúng ta được mời gọi cộng tác vào cuộc thương khó của Chúa Giêsu một cách khiêm nhường.

Cũng nên nhớ điều này. Chính những thất bại của ta, những yếu đuối của ta, những bệnh tật của ta, ngay cả những vấp ngã của ta, tất cả đều nằm trong số những thử thách. Rất nhiều khi, Chúa dùng chúng để cứu ta ra khỏi tính kiêu căng và để ta biết tìm về với Chúa một cách khiêm nhường.

Như vậy, điều quan trọng trong khi chịu thử thách, không hẳn chỉ là chịu đựng những thử thách một cách can đảm, mà là chịu đựng với tâm hồn khiêm tốn. Thiếu khiêm tốn, thì sự chịu đựng những thử thách sẽ chẳng có giá gì. Việc chia sẻ sự đau khổ của Chúa cứu thế, và việc chia sẻ sự đớn đau của Hội Thánh, và của nhân loại đòi rất nhiều khiêm tốn.

Thánh Bênađô nói: “Chúa chọn người tội lỗi ăn năn hơn người trinh nữ kiêu ngạo”. Theo hướng đó, chúng ta cũng có thể nói: Chúng ta thà chịu những thất bại đưa ta tới khiêm nhường hơn là vui với những thành công làm ta tự phụ tự đắc.

***

Hiện nay, Đức Mẹ đã được lên trời. Tại đây, Đức Mẹ đã thấy ứng nghiệm những lời Chúa phán xưa: “Ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên” (Mt 23,12). Và ngược lại, như lời Chúa nói với Capharnaum: “Và ngươi, hỡi Capharnaum, ngươi tưởng ngươi sẽ được nâng lên đến tận trời. Nhưng ngươi sẽ bị hạ xuống tới hoả ngục” (Lc 20,21).

Khi còn sống ở trần gian, Đức Mẹ đã tin những chân lý đó. Đức Mẹ đã tin và đã thực hiện những chân lý đó. Những chân lý đó thuộc loại chân lý cứu độ. Đức Mẹ như cây xanh tươi, vươn thực cao, nhờ ăn rễ sâu vào chân lý đức khiêm nhường.

Chúng ta hãy đến với Đức Mẹ, xin Đức Mẹ cầu bầu cho chúng ta. Xin Đức Mẹ giúp đỡ chúng ta trong ơn gọi sống khiêm nhường. Để chúng ta được dần dần trở thành tạo vật mới, nên giống hình ảnh Chúa Giêsu, “Đấng hiền lành và khiêm nhường” (Mt 12,29) cũng như nên giống Đức Mẹ là “nữ tỳ hèn mọn của Chúa” giàu tình yêu xót thương (Lc 1,38).

Chúng ta cầu xin với lòng xác tín: “Chúa luôn chống lại kẻ kiêu căng, nhưng ban ơn cho người khiêm tốn” (1 Pr 5,5).

Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời

Câu hỏi gợi ý:

Mẹ Ma-ri-a trở nên cao cả có phải vì Mẹ mong muốn được như  không?: 15/8-11

1. Mẹ Ma-ri-a trở nên cao cả có phải vì Mẹ mong muốn được như thế không? Mẹ có mong muốn trở nên một nhân vật vĩ đại như Mẹ đang là hiện nay không? Chúng ta có thể rút ra bài học gì cho chính chúng ta?

2. Tại sao nhiều người Ki-tô hữu lại từ bỏ những điều mà người đời phấn đấu cho bằng được để có? Ai khôn ngoan hơn ai? Chiếu theo quan điểm đức tin, sự từ bỏ ấy có thật sự đáng gọi là hy sinh không?

Suy tư gợi ý:

1. Đời của Đức Ma-ri-a có nhiều đặc biệt Cuộc đời của Đức Ma-ri-a có nhiều nét đặc biệt và nghịch lý. Đặc biệt chẳng hạn như là người nữ duy nhất trên trần gian được Thiên Chúa chọn làm Mẹ của Ngôi Hai Nhập Thể, sinh con không phải do kết hợp với người nam mà bởi quyền năng Thánh Thần, sinh con mà vẫn còn đồng trinh, làm con trẻ Gio-an, con bà Ê-li-sa-bét, nhẩy mừng khi Mẹ đến thăm, v.v… Nghịch lý là vì Mẹ sống rất đơn sơ, khiêm nhường, không mong muốn gì cao sang hay đặc biệt hơn người, mà lại trở nên cao sang và đặc biệt hơn bất cứ người nào trên trần gian này.

2. Nghịch lý ấy là nghịch lý đối với người đời, vì họ quan niệm rằng muốn đạt được những địa vị cao sang thì phải có lý tưởng thật cao vời, nghĩa là phải nhắm những địa vị cao, những mục tiêu lớn, phải quyết tâm trở nên những nhân vật vĩ đại, rồi còn phải bon chen phấn đấu với mọi người, nhất là với những đối thủ cạnh tranh với mình. Nhưng nghịch lý ấy lại là thuận lý theo cách suy nghĩ của Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa suy nghĩ và hành động khác hẳn với người đời. Trong bài Ngợi Khen, Đức Ma-ri-a đã nêu lên cách hành động của Ngài: Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người. Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng.

2. Hai cách suy nghĩ

Thực ra đó là hai cách nghĩ và hành động khác nhau, cả hai cách đều có lý, đều đúng, nhưng có lý và đúng trong hai lãnh vực khác nhau, trong hai không gian khác nhau, và trong hai loại thời gian khác nhau. Cách của người đời – không dựa vào đức tin – thì đúng trong phạm vi nhỏ hẹp của xã hội, trong đời sống vật chất, tầm thường của đời người, và trong một khoảng ngắn thời gian, chẳng hạn vài chục năm của đời người. Còn cách những người sống theo đức tin thì đúng trong phạm vi rộng lớn hơn, trong đời sống tâm linh, siêu việt, và trong thời gian rất dài, trong vĩnh cửu, có thể xuyên qua đời sống của con người, vượt qua cái chết. Cách nào cũng đúng, cũng có lý, nên cách nào cũng có những người thông minh và khôn ngoan vào bậc nhất thế giới ủng hộ, cổ võ.

Vấn đề của chúng ta là chọn cách suy nghĩ nào, cho cách nào là khôn ngoan nhất. Nếu nhắm cái lợi trước mắt và ngắn ngủi thì chúng ta nên suy nghĩ theo kiểu thế gian, không dựa trên đức tin. Còn nếu nhắm cái lợi lâu dài và hết sức to lớn – chỉ có điều bất lợi là khó thấy và không đến ngay – thì chúng ta nên suy nghĩ theo kiểu đức tin. Khi chúng ta đã suy nghĩ và chọn lựa dứt khoát thì chúng ta phải chấp nhận bỏ cái này để được cái kia: hoặc là bỏ cái nhỏ để lấy cái lớn, bỏ cái ngắn để lấy cái dài, hoặc là ngược lại, bỏ cái lớn để lấy cái nhỏ, bỏ cái dài để lấy cái ngắn. Cách suy nghĩ nào cũng đều đòi hỏi phải từ bỏ. Suy nghĩ như thế, ta cảm thấy thoải mái hơn.

Giả sử ta lựa chọn bỏ cái nhỏ để lấy cái lớn, bỏ cái ngắn để lấy cái dài, thì ta sẽ không cảm thấy việc từ bỏ ấy là một sự hy sinh. Cho rằng sự từ bỏ khôn ngoan ấy là một hy sinh thì có thể làm tâm lý chúng ta bị dồn nén, đau khổ, gây trạng thái mất quân bình về tâm lý. Xét cho cùng, sự dồn nén này quả là một dồn nén phi lý, thiếu suy nghĩ. Nếu có dùng chữ hy sinh thì đúng ra chữ đó phải dành cho những ai lựa chọn bỏ cái lớn để lấy cái nhỏ, bỏ cái dài để lấy cái ngắn, như thế thì hợp lý hơn. Chẳng hạn có ai đó cho hai người nọ hai món đồ: một món quí giá và một món rẻ tiền. Thật là phi lý khi bảo người chọn món quí giá và để lại món rẻ tiền cho người kia là đã hy sinh cái nhỏ để lấy cái lớn. Nếu nói đó là một hy sinh thì người chọn cái nhỏ và bỏ lại cái lớn không phải là đã hy sinh nhiều hơn sao?

3. Ai hy sinh hơn ai?

Có vị bề trên một tu viện nổi tiếng thánh thiện và hạnh phúc. Một tu sinh dưới quyền ngài, khi biết được sự từ bỏ ít người làm được, và thấy đời sống hết sức thánh thiện của ngài, bèn thốt lên:

– “Thưa Cha, đời sống Cha thật là tuyệt vời, Cha đã từ bỏ mọi sự giàu sang sung sướng để tìm Thiên Chúa, và để dạy cho chúng con sự khôn ngoan của Ngài”.

– “Con đã nói phản lại sự thật rồi! – Vị bề trên trả lời – Cha chỉ bỏ có vài cuộn giấy bạc và những thú vui trần tục để chinh phục một niềm phúc lạc vô biên. So với cái kho tàng tâm linh quí báu này thì đó có thật là một sự hy sinh chăng? Trái hẳn lại, chính những người thế gian đã từ bỏ và hy sinh những kho tàng tâm linh vô giá trên đường Đạo để chạy theo những của cải vật chất giả tạm vô thường. Những vị khổ tu tuy áo quần đơn sơ thô thiển, trong người không giữ riêng một đồng bạc, lại trở thành những phú ông về tâm linh. Còn những người tỷ phú kiêu hãnh lại là những kẻ đáng thương về tâm linh mà không hay biết. Đó chính là điều mâu thuẫn về sự dứt bỏ và hy sinh.

4. Vấn đề là tin hay không tin, và ai khôn ngoan hơn ai. Vì thế, trong đời sống Ki-tô hữu hiện nay, chúng ta cần xác định một lần cho rõ ràng và dứt khoát mục đích cuộc đời ta là gì, ta chọn cái lợi lớn hay cái lợi nhỏ, loại hạnh phúc ta mong muốn là loại nào: ngắn hạn hay dài hạn, đích thực hay giả tạm, tùy thuộc hoàn cảnh bên ngoài hay độc lập với mọi hoàn cảnh, v.v… Một khi đã xác định rồi thì ta chỉ cần sống theo sự lựa chọn nền tảng đó. Lúc đó ta không còn nghĩ là mình phải hy sinh cái này hay cái kia, nghĩ như thế là chỉ nghĩ đến cái ta bị mất mà không nghĩ đến cái ta sẽ được. Thánh Phao-lô nói: Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta (Rm 8,18). Nếu cái được lớn hơn cái mất thì làm sao gọi là hy sinh được? Còn nếu cái mất lớn hơn cái được thì mới đáng gọi là hy sinh, và nếu lựa chọn như thế thì thật là ngu xuẩn!

5. Chọn lựa của Mẹ Ma-ri-a

Sự khôn ngoan như thế thật đáng khâm phục, nhưng nó vẫn phảng phất mùi vị kỷ: lo cho hạnh phúc của mình, cho dù là hạnh phúc vĩnh cửu. Sự thánh thiện của Mẹ Ma-ri-a không dừng lại ở sự vị kỷ cao cả đó, mà vượt lên cao nữa, vượt khỏi những gì là vị kỷ của mình. Theo niềm tin Công giáo, Mẹ đã được Thiên Chúa giữ gìn khỏi mọi tội lỗi và khỏi vòng kiềm tỏa của tội lỗi. Vì thế, nhờ ơn Chúa và nỗ lực bản thân, Mẹ đã thắng vượt mọi hình thức ích kỷ cho dù vi tế nhất. Điều đó không có nghĩa là Mẹ không bị cám dỗ về tính vị kỷ, nhưng Mẹ luôn luôn chiến thắng. Động lực khiến Mẹ luôn luôn chiến thắng chính là tình yêu mạnh mẽ đối với Thiên Chúa và tha nhân. Mẹ yêu Thiên Chúa vì Thiên Chúa, yêu tha nhân vì tha nhân, chứ không phải vì mình. Chính vì thế, Mẹ không còn đặt nặng hạnh phúc – cho dù là vĩnh cửu – của mình, mà đặt nặng vinh quang và thánh ý của Thiên Chúa. Chính vì thế, Mẹ trở nên người đạt được hạnh phúc vĩnh cửu ở mức độ cao nhất, trọn vẹn nhất. Đúng như lời Đức Giê-su nói: Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy (Mt 16,25; x. Mc 8,35; Lc 9,24; Ga 12,25). Mẹ đã sống tinh thần câu Tin Mừng này một cách trọn hảo nhất.

Mẹ đã được Thiên Chúa thưởng vì sự chọn lựa đầy khôn ngoan và sáng suốt đó. Mẹ đã đạt được hạnh phúc đích thật và vĩnh cửu vì Mẹ đã sống phù hợp với sự chọn lựa đó suốt cả cuộc đời, trong tất cả mọi hoàn cảnh. Việc Mẹ là người duy nhất trên trần gian được về thiên đàng cả hồn lẫn xác cùng với Đức Giê-su là một ơn xứng đáng với sự lựa chọn căn bản rất tuyệt vời của Mẹ. Chúng ta hãy bắt chước Mẹ trong cách chọn lựa căn bản của chúng ta.

Cầu nguyện

Lạy Mẹ Ma-ri-a, xin cho con bắt chước Mẹ trong việc chọn lựa căn bản nhất của đời con. Xin cho con biết chọn Chúa hơn chọn bản thân con, biết chọn ý Chúa hơn ý riêng, chọn vinh quang của Chúa hơn cả hạnh phúc của con, và biết quan tâm phục vụ tha nhân vì Chúa hơn quan tâm đến chính bản thân con. Xin giúp con trở nên giống Mẹ trong sự lựa chọn ấy. Amen.

JKN

 

 

 

 

 

Ước Vọng Lên Trời

Lm. Phạm Quốc Hưng CSsR

 

“Phúc cho người, là kẻ đã tin rằng viên thành sẽ đến cho mọi điều Chúa truyền phán dạy cho người!”

Trong buổi lễ tại Tòa Bạch Ốc ngày 30/7/1994, Tổng thống Hoa Kỳ Willam Clinton đã tôn vinh cuộc đổ bộ lên mặt trăng tròn 25 năm (20/7/1969). Ông gọi biến cố ấy là “bước nhảy vĩ đại của nhân loại”. Các phi hành gia của phi thuyền Apollo 11 là Neil Armstrong, Edwin Aldrin và Michael Collins, những người đầu tiên đặt chân lên mặt trăng, đã được ngưỡng mộ như những người hùng của nhân loại.

Sau chuyến bay lịch sử ấy, nhiều người đã nghĩ đến việc sẽ có những cuộc du hành thường xuyên lên mặt trăng để tất cả những ai thích đều có thể mua vé lên nguyệt cầu. Nhưng dịch vụ du ngoạn nguyệt cầu đến nay vẫn chưa được thực hiện. Việc bỏ ra một món tiền lớn để đặt chân lên một vệ tinh không có sự sống và dưỡng khí rồi trở về địa cầu với ít đất đá vô hồn xem ra không đáng làm.

Dù sao, việc con người vượt ra khỏi sự hạn hẹp của địa cầu để đặt chân lên một thiên thể khác vẫn là một thành quả đáng khâm phục. Vì điều này đã nói lên một cách hùng hồn khả năng chinh phục vụ trụ của con người. Nhưng dù có vượt ra khỏi sự hạn hẹp của địa cầu khi đặt chân lên nguyệt cầu, con người vẫn chưa được thỏa mãn hoàn toàn. Vì mặt trăng hay bất cứ thiên thể nào trong thế giới vật chất này vận không phải là quê thật và chung cánh của loài người. Chỉ có Thiên Đàng hay Quê Trời mới là nơi mà mọi khao khát và trống vắng của lòng người mới được thỏa mãn và khỏa lấp hoàn toàn.

Ước mơ Thiên Đàng không phải là ước mơ hão huyền.

Việc phi thuyền Apollo 11 đổ bộ nguyệt cầu đã cho thấy ước mơ lên thăm Chị Hằng của nhân loại từ ngàn xưa đã được thực hiện. Cũng vậy, việc Đức Mẹ được Thiên Chúa đưa lên trời cả hồn xác mà Giáo Hội long trọng mừng kính vào ngày 15/08 hàng năm đã nói lên một cách hùng hồn rằng ước mơ lên trời, ước mơ Thiên Đàng, là ước mơ chính Thiên Chúa đã gieo vào nơi sâu thẳm nhất của lòng người. Ước mơ đó đã được thực hiện cách trọn vẹn nơi Mẹ Maria và cũng sẽ được thực hiện nơi mỗi người chúng ta trong ngày chung thẩm, khi thân xác chúng ta được Chúa cho sống lại như thân xác vinh hiển của Chúa Giêsu Phục Sinh.

Không như nguyệt cầu là nơi vắng bóng sự sống và dưỡng khí, Quê Trời là nơi đong đầy sự sống và tình yêu. Mẹ Maria được “lên trời” không có nghĩa là Mẹ được Chúa cất ra khỏi trái đất này để đem đến một khoảng không gian xa xôi nào đó trong vũ trụ vật thể này. Vì nếu việc Mẹ lên trời được hiểu như thế, việc “lên trời” của Mẹ chẳng đáng ta ước mong, như lời của một bản tình ca nào đó:

“Lên trời hai đứa hai nơi

Thôi em chỉ muốn làm người trần gian. “Thực ra, đặc ân Đức Mẹ được “lên trời” có nghĩa là Mẹ đã được Thiên Chúa cho tham dự vào chính sự sống của Chúa Ba Ngôi cách trọn vẹn, cả hồn cả xác. Mẹ đã được Thiên Chúa đưa ra khỏi thế giới tự nhiên hữu hạn nầy để đi vào thế giới siêu nhiên vô hạn, thế giới thần linh của chính Chúa. Trong thế giới đó, Mẹ được hiệp nhất với Chúa Ba Ngôi và tất cả tạo vật đẹp lòng Chúa trong Tình Yêu và Hạnh Phúc viên mãn của chính Chúa.

Tại sao Mẹ được phúc trọng như thế? Tin Mừng theo thánh Luca trong phụng vụ hôm nay cho ta biết Mẹ được phúc trọng vì Mẹ đã tin, tin tất cả những gì Chúa phán cùng Mẹ. Mẹ đã tin với tất cả xác hồn của Mẹ, với tất cả sự sống và tình yêu của Mẹ, Mẹ đã tin trọn vẹn nên Mẹ đã được phúc trọn vẹn.

Chúng ta cũng được Chúa mời gọi bước vào cuộc hành trình đức tin như Mẹ. Chúng ta tin rằng Chúa yêu thương ta từ đời đời. Người dựng nên ta theo giống hình ảnh Người. Người đã ban cho chúng ta chính Con Một Người là Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã sinh ra làm người để chia sẻ thân phận chúng ta, đã chết và sống lại để chuộc lại cho chúng ta địa vị làm nghĩa tử của Chúa, và đã lên trời vinh hiển để cho chúng ta hy vọng sẽ được lên trời chia sẻ vinh quang với Người.

Việc Mẹ Maria được lên trời cả hồn cả xác cho thấy Mẹ là người đầu tiên trong nhân loại đã được tận hưởng cách trọn vẹn và hoàn hảo ơn cứu độ do công nghiệp của Chúa Kitô. Đó còn là một mạc khải cho ta thấy trước phần phúc chung cánh Thiên Chúa dành sẵn cho mỗi người chúng ta.

Thực tại đức tin của ta đẹp như thế đấy!

Ta có dám tin và sống trọn vẹn với niềm tin đó không?

Có lẽ sẽ chẳng bao giờ chúng ta có cơ hội đặt chân lên mặt trăng như các phi hành gia của phi thuyền Apollo 11. Nhưng nếu chúng ta tin như Mẹ đã tin và sống như Mẹ đã sống, chắc chắn chúng ta sẽ được phúc lên trời như Mẹ đã được.

Lạy Mẹ Maria là Mẹ đầy ơn phúc của chúng con. Cùng với Mẹ chúng con cảm tạ Chúa đã ban cho Mẹ ơn được lên trời cả hồn cả xác. Trong sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa của Tình Yêu, Mẹ không ở xa chúng con nhưng lại càng gần chúng con và yêu thương chúng con hơn. Vậy xin Mẹ hãy giúp chúng con nhận biết sự hiện diện thật thân thiết của Mẹ trong cuộc đời chúng con, để chúng con hằng sống gắn bó với Mẹ trong cuộc hành trình đức tin nơi dương thế. Nhờ vậy, chúng con sẽ luôn tìm được ý nghĩa đích thực và bình an trong cuộc sống hiện tại và đầy tràn hy vọng sẽ được hưởng phúc Thiên Đàng cùng Mẹ trong cuộc sống đời đời. Amen.

Lm Phạm Quốc Hưng CSsR

 

 

 

 

 

Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời Maria,

Mẫu Gương của Mọi Kitô Hữu

 

Lc 1,39-56

Khi người đại diện của một công ty đi quảng cáo đồ cho công ty mình, thì người đó sẽ đem tất cả những món đồ tốt và có giá trị nhất để đưa ra quảng cáo. Cũng thế, khi người họa sĩ muốn quảng cao tranh của mình, thì ông cũng chọn lựa những tranh đẹp nhất để trưng bày.

Chúa Giêsu đã lựa chọn cho mình một người Mẹ tuyệt tác để thực hiện công cuộc cứu chuộc nhân loại. Đức Maria bắt đầu cộng tác trong việc cứu chuộc ngay khi bắt đầu chịu thai Đấng Cứu Thế.

Khi sứ thần truyền tin cho trinh nữ là sẽ chịu thai và trẻ sinh ra sẽ là Đấng Cứu Thế, Trinh Nữ đã trả lời với lòng đầy tin tưởng vào sự an bài của Thiên Chúa: “Tôi xin vâng như lời sứ thần truyền”. Chỉ vì tiếng “Xin Vâng” mà cuộc đời bắt đầu thay đổi.

Maria mẫu gương lòng đạo đức: Ngay khi còn thơ bé, Maria đã hết lòng tôn thờ Thiên Chúa. Maria đã giữ đúng tất cả những nghi lễ của luật Maisen. Maria luôn luôn cầu nguyện và ghi nhớ tất cả những sự việc cũng như lời tiên tri của Simeon trong lòng. Mặc dầu với bao nhiêu đau thương thử thách, Maria đặt hết niềm tin vào Thiên Chúa trong lời cầu nguyện.

Maria mẫu gương người mẹ, nội trợ: Khó khăn, đau đớn, giá lạnh khi sinh con, chạy trốn sang Ai-cập, trở về Nazarét nuôi nấng, dạy dỗ con, chu toàn bổn phận người mẹ và người vợ, Maria sống âm thầm trong 30 năm, 3 năm theo con lên đồi, xuống biển. Thật đúng là tình mẫu tử cao quý, Con đi đâu thì Mẹ đi đấy.

Maria mẫu gương tông đồ: Maria lặn lội cùng với các tông đồ theo Chúa Giêsu. Maria lại còn làm trung gian trong việc Chúa làm phép lạ tại tiệc cưới Ca-na. Maria theo chân Chúa Giêsu tới núi sọ, trong khi các tông đồ bỏ trốn, đau thương nhìn con trút hơi thở cuối cùng, tông đồ Maria đã hoàn thành nhiệm vụ của mình là đem Đấng Cứu chuộc đến cho nhân loại.

Tiếng “Xin Vâng” của Maria đã thay đổi cuộc diện thế giới. Đấng Cứu thế đến với nhân loại qua sự trung gian của một trinh nữ, một người trần đã được nâng lên làm Mẹ Thiên Chúa. Maria đã cùng cộng tác với Con mình trong việc Cứu chuộc.

Cũng tiếng “Xin Vâng” mà bao nhiêu thanh niên, thanh nữ đã hiến thân phụng sự Chúa qua các chức vụ Linh mục, Phó tế, Tu sĩ. Cuộc đời họ đổi thay để giúp cho xã hội được thay đổi và hướng về Chúa.

Tiếng “Xin Vâng” của hai bạn trẻ trước nhan Thánh Chúa để trở nên một gia đình mới, hot không còn là hai, nhưng là một. Họ thay đổi để sống phục vụ, và giúp đỡ, gây dựng một gia đình hạnh phúc trong tình yêu Chúa.

Hôm nay chúng ta mừng kính Đức Maria hồn xác lên trời. Chúng ta hãy vui mừng hoan hỷ, vì Mẹ của chúng ta đã được lên trời cả hồn lẫn xác, như thế tín điều xác loài người sống lại đã được thực hiện nơi Đức Trinh Nữ Maria. Việc Đức Mẹ lên trời là sự việc hiển nhiên, vì Chúa Giêsu đã được đùm bọc trong lòng Mẹ, sau khi Chúa lên trời thì Mẹ của Chúa cũng được Chúa đưa lên trời với Chúa.

Lạy Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ là mẩu gương trọn hảo cho chúng con noi theo, Mẹ đã vâng theo ý Chúa hoàn toàn nơi trần gian, xin Mẹ giúp chúng con biết noi gương Mẹ, biết thực hành tiếng “Xin Vâng” của mỗi người chúng con. Chúa đã nhờ Mẹ làm trung gian để đến với chúng con, nay chúng con xin phó thác cuộc đời chúng con cho Mẹ, để Mẹ làm trung gian đưa chúng con tới Chúa Giêsu con yêu dấu Mẹ.

Phó tế Vincent Trần Văn Luận

 

 

 

 

 

Đấng Toàn Năng Đã Làm Cho Tôi Những Sự Cao Cả

– Br Thomas Huy Châu, CMC

Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời

Đấng Toàn Năng Đã Làm Cho Tôi Những Sự Cao Cả

Lk 1,39-56

 

Bốn ngày đầu tháng 6/2002, cả nước Anh tưng bừng mừng kỷ niệm 50 năm đang ngai của Nữ hoàng Elizabeth. Trong dịp này hàng triệu người trên thế giới, qua TV, đã chiêm ngưỡng cảnh vinh quang huy hoàng của nữ hoàng từ ngày đầu bà được đăng ngai khi mới 25 tuổi cho đến những cuộc đón tiếp và lòng ưu ái nồng nhiệt của dân tộc Anh dành cho nữ hoàng mỗi khi bà xuất hiện trước công chúng.

Trong bài đọc thứ nhất, bằng tâm trí, chúng ta có thể chiêm ngưỡng một cảnh đăng quang huy hoàng của Nữ Vương Maria Một người Nữ mặc áo mặt trời, chân đạp mặt trăng, đầu đội triều thiên 12 ngôi sao. Cảnh tượng này thật vĩ đại huy hoàng biết bao. Quả như lời Đức Trinh Nữ Maria đã nói về chính mình trong bài Phúc Âm hôm nay: “Đấng toàn năng đã làm cho tôi những điều trọng đại” (Lc 1,49). Thế nhưng nếu so sánh, chúng ta thấy khi bài đọc một diễn tả một Maria trong cảnh huy hoàng rực rỡ lên trời thì bài Phúc âm lại diễn tả một thiếu nữ Maria nhỏ bé hành trình từ một thôn làng nghèo hèn đến thăm và giúp bà chị họ là Elizabeth đang mang thai khi tuổi đã ngả về chiều. Và trước mặt bà Elizabeth, Mẹ chỉ nhận mình là tớ nữ hèn hạ được Chúa đoái nhìn tới (x Lc 1,48). Phải chăng hai hình ảnh “đối nghịch” của Mẹ Maria trong hai bài đọc ngầm dạy chúng ta một chân lý Phúc Âm được thể hiện qua chính Chúa Kitô: “Ngài tự tiêu diệt mình, tự nhận thân phận tôi tớ… Vì thế Thiên Chúa đã tôn vinh Ngài và đặt cho Ngài một danh hiệu vượt trên các danh hiệu” (Phil 2,8-9). Và chính Chúa Kitô cũng dạy rằng: “ai hạ mình xuống sẽ đực nâng lên” (Lc 14,11). Chúa Kitô đã tự hạ và đã được tôn vinh. Mẹ Maria đã tự nhận mình là tì nữ hèn hạ và đã được Thiên Chúa tôn vinh. Chúng ta tin chắc rằng không ai có thể giống Chúa Giêsu về lòng khiêm nhường cho bằng Mẹ Maria. Vì thế, khi Chúa nói: “hãy học cùng ta vì ta hiền lành và khiêm nhường” (Mt 11,29), và khi dùng Mẹ Maria như gương mẫu khiêm nhường, Chúa Giêsu có thể cũng dạy chúng ta hãy học cùng Mẹ Maria vì Mẹ biết thế nào là khiêm nhường thực sự. Vậy chúng ta hãy tìm hiểu và noi gương lòng khiêm nhường của Mẹ trong Bài Phúc Âm hôm nay.

Các nhà tu đức thường dạy khiêm nhường là sự thật. Mẹ Maria hiểu điều đó hơn ai hết. Mẹ nhận mình là nữ tì hèn hạ, nhưng Mẹ cũng nhận mình có những ơn thật trọng đại mà ơn cao trọng nhất là được làm Mẹ Chúa Cứu Thế, và Mẹ nhận ra giá trị cao quí đó đến nỗi Mẹ đã thốt lên: “Từ nay muôn đời sẽ khen tôi có phúc” (Lc 1,48), và Mẹ đã dùng những gì Mẹ “có” để trao ban cho người khác. Mẹ đã đến với Elizabeth để trao ban sự hiện diện của Mẹ, và qua Mẹ, chính Chúa Giêsu đã hiện diện nơi gia đình bà Elizabeth, và khi Elizabeth ca tụng Mẹ là người có phúc hơn mọi người nữ, Mẹ đã không từ chối sự thật đó, nhưng Mẹ chân nhận sự thật đó với lời nói thật khiêm nhường: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những sự cao cả” (Lc 1,49).

Anh Chị Em thân mến, là thụ tạo có giới hạn, không ai trong chúng ta dám nhận mình có mọi sự hoàn hảo, nhưng chúng ta cũng không thể cho rằng chúng ta hoàn toàn “không” có gì. Khi tạo dựng chúng ta và đặt chúng ta sống trong môi trường xã hội, nơi con người phải tùy thuộc vào nhau mà sống và thăng tiến, Thiên Chúa đã ban mỗi người chúng ta những ơn cần thiết và khả năng để phát triển và trao ban hầu mang hữu ích cho tha nhân và chính mình. Vậy sự khiêm nhường thật không phải chỉ là biết nhận ra những gì mình không có, mà nó còn bao gồm sự cố gắng khám phá ra những gì mình thực sự có. Vậy muốn sống khiêm nhường thực sự hầu mưu ích cho gia đình và cộng đoàn, chúng ta hãy nhận ra những khả năng mình có do Chúa ban và dùng nó để xây dựng. Không ai có thể cho cái mình không có, cũng như nếu chúng ta không biết hay không nhận điều mình có, thì làm sao chúng ta có thể cho được. Có lần tôi đến thăm một ông lão bị bệnh liệt giường và xin ông cầu nguyện cho tôi, ông tỏ ra chán nản và nói rằng người vô ích và chỉ gây phiền toái như ông thì lời cầu của ông có ăn thua gì. Thực sự trong lúc buồn chán, ông đã không nhận ra rằng bệnh tật ông đang chịu nếu vì mến Chúa chính là một “tài năng” cầu nguyện hữu hiệu nhất của ông mà ông có thể cho tôi.

Mẹ Maria, một gương mẫu khiêm nhường tuyệt vời, đã nhận ra rằng Thiên Chúa đã làm cho Mẹ những việc cao trọng, và Mẹ đã dùng những gì Thiên Chúa ban cho Mẹ để giúp đỡ tha nhân. Noi gương khiêm nhường của Mẹ, chúng ta hãy cố gắng khám phá và nhận những gì mình có để chia sẻ và xây dựng cộng đoàn. Thiết nghĩ, đó là lòng khiêm nhường thật.

NS Trái Tim Đức Mẹ Br Thomas Huy Châu, CMC

 

 

 

 

 

Có Chúa Trong Cuộc Đời

– Br John Vũ Nghi, CMC

Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời 15/8

Có Chúa Trong Cuộc đời

Lk 1,39-56

 

Trong tác phẩm “Joshu”, Cha Joseph Girzone kể dụ ngôn về cuộc trở lại trần gian của Chúa Giêsu trong những năm cuối cùng của thế kỷ 20. Cũng như hai ngàn năm trước, giáo lý và tinh thần của Chúa đã không được con người chấp nhận, và rồi người ta đã bắt bớ và kết án Chúa. Cũng như người xưa, và còn hơn thế nữa, sống trong một thế giới vật chất, con người ngày nay dễ dính bén với tiền của, với danh vọng trần gian, và hầu như không còn để ýgì đến khía cạnh thiêng liêng của cuộc sống con người. Thế giới vật chất xem ra thật hơn và sống động hơn thế giới thiêng liêng.

Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo hội, chúng ta hân hoan mừng kính Đức Trinh nữ Maria, Mẹ chúng ta, được lên trời vinh hiển cả hồn lẫn xác. Vì đâu mà Mẹ Maria được hưởng đặc ân trọng đại này?

Vào ngày 1 tháng 11 năm 1950, Đức Thánh Cha Piô XII trong Tông huấn Munificentissimus Deus đã nói: “Sau khi hoàn tất cuộc đời dương thế, Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa, vô nhiễm và trọn đời đồng trình, đã được đưa lên hưởng vinh quang Thiên đàng cả hồn lẫn xác.” Theo Đức Thánh Cha Piô XII, một số các Thánh và các nhà thần học, nguyên do chính Mẹ được đặc ân hồn xác lên trời là do thiên chức Mẹ Thiên Chúa và đức đồng trinh trọn đời của Mẹ. Mẹ được lãnh nhận những hồng ân thật trọng đại từ nơi Chúa, nhưng Mẹ không ngừng ở đó. Mẹ đã dùng cả cuộc đời dương thế của Mẹ sống sao cho phù hợp với những đặc ân Mẹ đã được lãnh nhận. Mẹ đã sống “cuộc đời dương thế” như thế nào? Bài Phúc âm trong thánh lễ hôm nay phần nào trả lời câu hỏi đó. Trong bài ca Magnificat, Mẹ đã chúc tụng Chúa: “Linh hồn ngợi khen Chúa, và Thần trí tôi hoan hỉ trong Thiên Chúa Đấng Cứu độ tôi, vì Chúa đã đoái nhìn đến phận hèn tớ nữ của Chúa.” Và vì thế, “Từ nay muôn thế hệ sẽ khen tôi có phước.”

Cả cuộc đời Mẹ là một khúc trường ca chúc tụng và ngợi khen Thiên Chúa. Mẹ nhận ra tình thương hải hà của Thiên Chúa trong mọi biến cố của cuộc đời Mẹ, lúc vui trong ngày Giáng sinh cũng như lúc buồn trên đồi Canvê. Mẹ nhìn ra sự hiện diện của Thiên Chúa trong mọi biến cố của cuộc đời. Mẹ cũng sống một cuộc đời như chúng ta, nhưng cái nhìn của Mẹ đối với cuộc đời thì thật khác xa chúng ta. Cùng nhìn quang cảnh hoàng hôn bên bờ đại dương, một người có thể trầm trồ khen ngợi vẻ đẹp tuyệt vời của thiên nhiên; nhưng đối với những người có tâm hồn như Mẹ, họ dùng cơ hội đó để dâng lên Chúa lời chúc tụng cảm mến kỳ công sáng tạo của Thiên Chúa.

Thêm vào đó, dù đang sống trên trần gian, lòng trí của Mẹ luôn hướng về Chúa. Trên con đường dương thế, thánh ý Chúa đã trở nên kim chỉ nam hướng dẫn mọi hành vi cử chỉ trong cuộc đời Mẹ. Mẹ đã đi trọn con đường mà Chúa đã kêu gọi Mẹ. Những trang sách Phúc âm cho ta thấy Mẹ đã liên kết rất mật thiết với Con Chí Thánh của Mẹ và chia sẻ vận mệnh của Chúa Giêsu: ba mươi năm tại Nazarét, ba năm giảng đạo, và nhất là trong cuộc khổ nạn và chịu chết của Chúa Giêsu. Cuộc đời dương thế của Mẹ không phải là bước trên nhung lụa, nhưng tràn đầy những khó khăn và thử thách. Đoạn sách Khải Huyền trong thánh lễ hôm nay phần nào nói lên nhưng thử thách Mẹ phải chịu cùng với Chúa Giêsu, và cũng chỉ với ơn phù trợ đặc biệt của Thiên Chúa và sự khiêm hạ thẳm sâu mà Mẹ đã chiến thắng được thần dữ (Apo 12,1-6). Dù được nâng lên đến chức phẩm làm Mẹ Thiên Chúa, Mẹ luôn mang tâm tình của một “tớ nữ” đơn hèn. Mẹ luôn chân nhận thân phận thụ tạo của Mẹ và hoàn toàn phú thác cuộc đời Mẹ cho Thiên Chúa.

Trong thư thứ nhất gởi cho tín hữu Corintô, thánh Phaolô đã nói những ai thuộc về Chúa Kitô sẽ được cùng với Người chiến thắng sự chết và được hưởng hoa quả của ơn cứu chuộc (1 Cor 15,20-26). Vì Mẹ đã liên kết mật thiết với Chúa Kitô hơn ai hết, nên sau khi hoàn tất cõi đời, Mẹ đã được Thiên Chúa ân thưởng vinh quang cùng với Chúa trên Thiên đàng.

Phần thưởng Mẹ Maria đang được hưởng là một bảo chứng cho lời hứa của Chúa dành cho những ai sống thuộc về Chúa. Chúng ta đang sống trong một thế giới với bao bon chen, với biết bao nhu cầu của cuộc sống, nhiều khi tìm thấy lấy năm phút để nguyện cầu cũng cảm thấy khó khăn. Dầu vậy, nếu chúng ta muốn được hưởng sự bình an của Chúa trong cuộc sống hiện tại và được hưởng vinh phúc mai sau, chúng ta phải lo cho phần hồn của mình. Ước chi lời kinh Magnificat của Mẹ Maria luôn là tiếng chuông nhắc nhở chúng ta mỗi khi chúng ta quá quan tâm đến những lôi cuốn của trần gian: Chúa “dẹp tan những ai thần trí kiêu căng…lật đổ người quyền thế xuống khỏi ngai vàng… và để người giàu có trở về tay không.” Nhưng trái lại Chúa sẽ thương xót những ai kính sợ Chúa, sẽ “nâng cao những người phận nhỏ… (và sẽ) cho người đói khát đầy ơn phúc” Chúa không cấm chúng ta lo liệu cho những nhu cầu của cuộc sống. Là cha là mẹ, chúng ta phải lo cho nhu cầu vật chất của gia đình. Điều Chúa muốn nhắc nhở chúng ta là hãy trông nhìn lên gương của Mẹ Maria, dù giữa bao thăng trầm ở đời, chúng ta hãy đem Chúa vào cuộc sống: hãy để giờ tìm hiểu Lời Chúa và để Lời Chúa soi dẫn mọi suy tưởng và hành động của chúng ta, hãy biết dâng lên Chúa những tâm tình cảm mến tri ân vì những ơn lành Chúa ban, hãy tin tưởng phó thác cuộc đời mình cho Thiên Chúa. Đó là điều Chúa ước mong nơi mỗi người chúng ta.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa, Vô Nhiễm và trọn đời Đồng Trinh, xin Mẹ phù giúp chúng con để chúng con luôn biết qui hướng về Chúa trót cuộc sống của chúng con, để ngày sau chúng con được cùng với Mẹ hỷ hoan với Chúa trên quê trời. Amen. Br John Vũ Nghi, CMC

 

 

 

 

 

Con đường về trời của người mẹ trìu mến

 

Chị giáo dân ấy tên là Huyền Tâm (Helga Schmidt). Hôm ấy chị đến hàng bách hóa mua quà Giáng Sinh cho một số người, mà lòng chị không được phấn khởi. Chị đã ghi một loạt tên những người chị cần mua quà tặng; đó là những người đã nói họ không cần ai tặng quà, nhưng chị biết rõ họ sẽ bị tổn thương nếu chị không mua gì cho họ

Chị Huyền Tâm không mất nhiều giờ để chọn đồ, nhưng mất đến 20 phút chờ đến lượt trả tiền, để ra khỏi cửa tiệm! Chính ở khâu chót này, chị Huyền Tâm được dành cơ hội tặng một gói quà nhỏ mà giá trị của nó chắc không bao giờ chị quên được.

Số là có hai khách hàng nổi bật ở phía trưóc chị Huyền Tâm. Cậu con trai chừng năm tuổi, cô em gái nhỏ hơn ít là một tuổi, theo sau. Cậu bé mặc chiếc áo khoác rách rưới, đi đôi giày tennis rộng thùng thình thò ra ngoài hai ống quần gin (Jean) quá ngắn. Cậu bé ấy nắm chặt mấy đồng tiến nhàu nát trong lòng bàn tay cáu ghét. Còn cô bé với đầu bù xù một mớ tóc quăn bết lại, có gương mặt rõ ràng phản ánh sự thèm thuồng một bữa cơm tối.

Bé gái cầm trong tay một đôi dép mang trong nhà màu vàng sạch bóng. Khi khúc nhạc Giáng Sinh vang lên qua hệ thống âm thanh của cửa tiệm bách hoá, bé gái này cũng ấp úng hát theo, vẻ đầy hạnh phúc, mặc dầu lạc giọng.

Khi đến chỗ tính tiền, bé gái ấy cẩn thận đặt đôi dép lên quầy, làm như đó là một kho tàng quý báu rất đặc biệt.

Cô thư ký của tiệm xem hoá đơn và nói:

– Hết 6 đôla 9 xu.

Cậu bé liền đặt mấy tờ đô la nhàu nát lên chỗ để hàng, rồi lục lọi để kiếm thêm tiền nơi túi áo và quần. Sau cùng cậu bé chỉ có trong tay 3 đôla 12 xu, nên phải cáo lỗi cô thư ký:

– Chúng cháu xin để lại món hàng này tới khi khác, có lẽ ngày mai chúng cháu sẽ trở lại.

Nghe lời cáo lỗi đó, cô bé thất vọng khóc nức nở và nói:

– Nhưng Hài Nhi Giêsu thích những chiếc giày này.

Cậu bé liền dỗ em một mình với lời hứa:

– Em đừng khóc nữa, chúng ta sẽ trở lại mà!

Đó là lúc chị Huyền Tâm nhập cuộc một cách tự nhiên. Chị kể lại: Tôi vội đưa cho cô thư ký ba đôla. Bỗng có hai cánh tay ôm chầm lấy tôi giọng nói yếu ớt:

– Cháu cám ơn bà.

Tôi hỏi cô bé:

– Cháu nói Chúa Giêsu thích những chiếc giày này, điều đó có nghĩa gì vậy?

Cậu bé liền trả lời thay em cậu, vẻ mặt đậm nét ưu tư:

– Mẹ chúng cháu bệnh và sắp về trời. Bố nói mẹ có thể ra đi trước lễ Giáng Sinh để ở với Chúa Hài Nhi.

Cô bé liền tiếp lời trong sự phấn khởi:

– Cô giáo dậy lớp giáo lý sáng Chúa Nhật nói rằng: những con đường lên trời lấp lánh vàng như chiếc giày này. Mẹ cháu sẽ chẳng rất xinh đẹp khi bước đi trên những con đường đó bằng những chiếc giày này sao?

Mắt tôi ngập lệ khi nhìn khuôn mặt cô bé có những vệt nước mắt. Tôi gật đầu vui vẻ đồng ý:

– Đã hẳn mẹ cháu rất đẹp rồi!

Tôi hết lòng tạ ơn Chúa vì đã dùng những đứa trẻ này dạy tôi nhiều điều liên quan tới con đường về trời của người mẹ trìu mến.

Câu chuyện vừa kể giúp đặt ta vào bối cảnh của lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Mỗi năm lễ này được cử hành là nhằm giúp các Kitô hữu thấy rõ mục đích đời mình, đồng thời nhờ ơn lành và lời cầu bầu của Mẹ Maria để đạt tới đích đó như sự thành tựu cuối cùng của đời ta. Riêng với chị giáo dân Huyền Tâm, câu chuyện đã dạy chị nhiều điều liên quan tới con đường về trời của người mẹ trìu mến.

Nhưng người mẹ trìu mến nào? Trong câu chuyện, đó là mẹ của hai đứa trẻ. Người mẹ đó đang trong tình trạng gần đất xa trời. Nhưng người bố đã cắt nghĩa cho hai con ông biết mẹ chúng có thể ra đi trước lễ Giáng Sinh để ở với Chúa Hài Nhi. Mọi sự đều ra khác nhờ ánh sáng của việc lên trời để ở với Chúa Giêsu.

Trong Kinh Thánh và trong truyền thống giáo lý của Giáo Hội, sự sống đời đời trong hiệp thông với Thiên Chúa, được mô tả bằng những hình ảnh, như tiệc cưới nơi thiên quốc, sự sống, ánh sáng và bình an. Lên trời là một hình ảnh gợi ý về sự thành tựu của con người và về tình trạng hạnh phúc trọn đầy nhờ hiệp thông cách vĩnh viễn với Thiên Chúa. Đó chính là thiên đàng mà mọi Kitô hữu đều nhắm tới như mục đích đời mình.

Lên Trời để ở với Chúa Giêsu

Thiên Đàng cũng được hiểu theo giáo lý, đó là cuộc hiệp thông tròn đầy giữa chư thánh mà Đức Giêsu đã kết hợp lại và đưa về trời. Tất cả những gì Thiên Chúa đã thực hiện mà tạo thành và trong lịch sử đều trở nên suối nguồn của niềm vui bất tận do sự hy sinh lớn lao mà Chúa Giêsu dành cho mỗi người.

Giáo lý cũng dạy ta rằng: Đức Maria kết hợp với Chúa Kitô, đó là nền tảng của vai trò của Mẹ đối với Hội Thánh (964). Sự liên kết giữa Mẹ và Con trong công cuộc cứu độ được tỏ rõ từ khi Đức Maria thụ thai Chúa Kitô cách trinh khiết. Cho đến khi Chúa Kitô chết, đặc biệt trong cuộc khổ nạn.

Đức Trinh Nữ tiến bước trong cuộc lữ hành đức tin, trung thành hiệp nhất với Con cho đến bên Thập Giá, là nơi theo ý Thiên Chúa, Mẹ đã đứng ở đó. Đức Maria chịu đau khổ kinh khủng với Người Con duy nhất của mình, dự phần vào hy lễ của Con, với tâm tình của người mẹ ưng thuận hiến dâng lễ vật do lòng mình sinh ra, để cuối cùng khi hấp hối trên Thập Giá, Chúa Giêsu đã trối Mẹ làm mẹ các môn đệ: Thưa Bà, này là con Bà (Ga 19,26-27) (LG 58)

Sau khi Chúa Giêsu lên trời, Mẹ Maria đã trợ giúp Hội Thánh sơ khai bằng lời cầu nguyện của mình. Cùng với các tông đồ và vài phụ nữ, Đức Maria tha thiết cầu xin Thiên Chúa ban Chúa Thánh Thần là Đấng đã bao phủ lấy ngài trong ngày truyền tin. (LG 59)

Sau cùng, được gìn giữ tinh sạch khỏi mọi vết tội nguyên tổ, và sau khi hoàn tất cuộc đời dương thế, Đức Trinh Nữ Vô Nhiễm đã được đưa lên hưởng vinh quang trên trời cả hồn lẫn xác, và được Thiên Chúa tôn vinh làm nữ vương vũ trụ, để nên giống Con Mẹ trọn vẹn hơn, là Chúa các Chúa, Đấng đã chiến thắng tội lỗi và sự chết. Được lên trời cả hồn lẫn xác, Đức Maria tham dự cách độc đáo vào cuộc Phục Sinh của Đức Kitô và thể hiện trước sự Phục Sinh của các Kitô hữu khác (GLGHCG, 966).

Vậy bài Tin Mừng hôm nay về cuộc viếng thăm bà Isave rất thích hợp với lễ kính Đức Maria hồn xác lên trời. Đức Maria lên trời để tiếp tục công cuộc thăm viếng đối với mỗi một con người cần được cứu chuộc.

Người bố của ông Gioan Tẩy Giả đã được cho biết là con ông sẽ được đầy tràn Thánh Thần (Lc 1,15). Quả thật, Thánh Thần đã đến bao phủ Đức Maria khiến bà thụ thai Đức Giêsu, từ đó như theo ảnh hưởng giây chuyền, Thánh Thần sẽ tràn lan sang nhiều người, khởi sự với Gioan Tẩy Giả còn trong dạ mẹ, rồi đến bà Isave, sau đến ông Dacaria và ông già Simeon. Rồi đây người ta sẽ thấy Thiên Chúa Cha ra tay uy quyền nâng Đức Giêsu lên, trao cho Người Thánh Thần đã hứa, để Người đổ xuống (Cv 2,33) trên dân mới của Thiên Chúa.

Những chuyến viếng thăm không chấm dứt

Đức Maria lên trời là để tiếp tục công trình Thiên Chúa thực hiện nơi Người kể từ biến cố truyền tin đầu tiên. Nói theo cha Vương Văn Uông (René Voillaume) Thăm viếng mãi mãi sẽ là cuộc lễ của sự hy sinh trọn vẹn đã điều khiển tấm lòng Đức Maria từ lúc mẹ biết mình là mẹ Chúa Giêsu; từ nay, Mẹ bắt đầu một chuỗi vô số các cuộc viếng thăm; những chuyến viếng thăm này sẽ không chấm dứt bao lâu còn có một người sống dưới đất.

Một số câu hỏi gợi ý

1. Bạn thấy món quà nhỏ mà chị Huyền Tâm tặng hai đứa nhỏ có giá trị như thế nào so sánh với một lô những quà tặng mà chị dành cho những người đã nói với chị rằng họ không cần ai tặng quà? Bạn nghĩ gì về câu nói của cậu bé Mẹ chúng cháu bệnh và sắp về trời ? Chính bạn ước ao gì về cuối đời bạn?

2. Bạn nghĩ gì về câu nói Mẹ bắt đầu một chuỗi vô số các cuộc thăm viếng… bao lâu còn có một người sống dưới đất.?

3. Sách GLGHCG nói gì về Đức Maria Hồn Xác Lên Trời (số 966)?

Lm Augustine, S.J

 

 

 

 

 

Theo Mẹ ra khơi – Ngô Quang Kiệt

 

Hãy ra khơi! Ðó là sứ điệp Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô đệ nhị gửi đến toàn thể dân Chúa nhân dịp khởi đầu ngàn năm mới.

Hãy ra khơi ! Ðó là lời Ðức Thánh Cha nhắn gửi Giáo hội Việt Nam nhân dịp Hội đồng Giám mục Việt nam đến Rôma viếng mộ hai thánh Tông đồ Phê rô và Phao lô đầu năm nay.

Ðáp lại lời mời gọi tha thiết của Ðức Thánh Cha, Ðức Tổng Giám mục Huế, khi tổ chức đại hội Thánh Mẫu La vang lần thứ 26, đại hội đầu tiên của thiên niên kỷ mới, đã chọn chủ đề: CÙNG MẸ RA KHƠI.

Ra khơi

Ra khơi là ra chỗ nước sâu. Chỗ nước sâu có nhiều cá nhưng cũng chứa đầy hiểm nguy.

Ra khơi là từ bỏ bến bờ an toàn, từ bỏ cuộc sống tiện nghi, từ bỏ nơi thân thuộc, từ bỏ những tháng ngày nghỉ ngơi thoải mái.

Ra khơi là chấp nhận hiểm nguy, chấp nhận cuộc sống bấp bênh, thiếu thốn, chấp nhận sống chơi vơi giữa đất trời xa lạ, chấp nhận đương đầu với sóng to gió cả.

Muốn đánh được nhiều cá, phải ra khơi xa. Cũng thế muốn việc truyền giáo có kết quả, phải lên đường, xông pha, chấp nhận hi sinh gian khổ.

Noi gương Ðức Kitô

Nếu hiểu ra khơi đánh cá là lên đường tìm kiếm, đưa các linh hồn về với Chúa, thì Ðức Kitô chính là người đầu tiên ra khơi.

Thật vậy, đức Kitô đã từ bỏ bến bờ quê trời hạnh phúc để dấn thân vào đại dương nhân loại trầm luân khổ ải. Người đã từ bỏ thân phận Thiên Chúa an toàn, yên ổn để nhận lấy thân phận con người đầy bất trắc, oan khiên. Người đã từ bỏ chính bản thân mình với tất cả ý riêng để hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha.

Ðức Kitô là người ra khơi can đảm. Người đã ra khơi xa, rất xa. Rất xa trong sáng kiến yêu thương, trong quên mình, trong tủi nhục. Rất xa cho đến chết và chết trên thập giá.

Nhờ ra khơi, Người đã đánh được những mẻ cá lớn, đã tìm thấy và đưa nhân loại về với Thiên Chúa.

Như Ðức Mẹ

Ðức Mẹ là người môn đệ đầu tiên lên đường theo Ðức Kitô ra khơi. Bắt đầu từ biến cố truyền tin, cuộc đời Ðức Mẹ chuyển sang một khúc quanh mới. Từ khi thưa Xin vâng, Ðức Mẹ đã để mặc Chúa dẫn đi trên hành trình rất dài và rất xa. Có thể nói cuộc đời của Mẹ là những chuyến đi không ngừng nghỉ.

Lên đường đi thăm bà chị họ Elizabeth. Lên đường đi Bêlem khai nhân hộ khẩu và sinh Chúa Giêsu. Lên đường trốn chạy sang Ai cập. Lên đền thờ dâng Chúa Giêsu. Lên đường đi Giêrusalem khi Chúa Giêsu lên 12 tuổi. Lên đường đi Cana dự tiệc cưới. Lên đường dõi theo hành trình truyền giáo của Ðức Giêsu. Lên đường theo Ðức Giêsu trong cuộc khổ nạn, cho đến tận chân thập giá.

Tất cả những chuyến đi của Ðức Mẹ đều là những chuyến ra khơi càng đi càng xa mãi. Tất cả những chuyến ra khơi của Ðức Mẹ đều là những chuyến phiêu lưu càng ngày càng khó khăn hiểm nguy đòi hỏi nhiều phấn đấu. Phấn đấu với ngoại cảnh. Phấn đấu với chính mình. Phấn đấu với ngoại cảnh thực vất vả. Nhưng phấn đấu với bản thân mới thực sự đau đớn, quyết liệt.

Như người đi biển, Ðức Maria đã ra khỏi đất liền vững chãi ổn định để đi vào biển khơi bấp bênh sóng gió. Ðã ra khỏi làng quê với nếp sinh hoạt thân thuộc để dấn bước vào phương trời xa lạ hoàn toàn theo thánh ý Thiên Chúa. Ðã ra khỏi cuộc sống êm ả của một thôn nữ bình thường để bước vào cuộc sống đầy gian nan của Mẹ Thiên Chúa. Ðã ra khỏi lợi ích riêng tư cá nhân để đi vào lợi ích chung của cả nhân loại. Ðã ra khỏi kế hoạch toan tính của người đời để đi vào kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Ðã ra khỏi chính mình để đi đến với Thiên Chúa, hiến mình để Thiên Chúa sử dụng theo thánh ý Người. Khi đứng dưới chân thập giá Ðức Mẹ đã ra khơi đến chỗ xa nhất. Xa đến dứt lìa tất cả, kể cả người Con yêu quí. Xa đến chấp nhận tất cả, kể cả những nỗi đau còn đau đớn hơn cả cái chết. Khi chứng kiến lưỡi đòng đâm vào cạnh sườn Chúa, Ðức Mẹ cũng bị lưỡi gươm tiên báo của Simeon xuyên thấu tâm can. Những giọt máu âm thầm chảy trong lòng Ðức Mẹ hoà cùng dòng máu của Ðức Kitô, khơi nguồn ơn cứu độ cho nhân loại.

Hôm nay chúng ta mừng ngày Ðức Mẹ hiện ra tại La vang. Việc mừng lễ có ý nghĩa và đẹp lòng Ðức Mẹ hơn cả là ta hãy noi gương Ðức Mẹ: RA KHƠI. Hãy ra đi. Ra đi khỏi môi trường cũ. Ra đi khỏi quan niệm cũ. Và nhất là ra đi khỏi con người cũ. Hãy theo chân Mẹ đi đến những chân trời mới, có những suy nghĩ mới, và sống cuộc sống của con người mới, con người quên mình để sống cho Thiên Chúa và cho tha nhân.

Biển khơi thế giới hôm nay đầy phong ba bão táp. Cuộc ra khơi chắc chắn sẽ rất khó khăn. Nhưng chúng ta yên tâm tin tưởng vào Mẹ Lavang. Mẹ đã đồng hành với chúng ta qua mọi chặng đường chông gai trong quá khứ. Chắc chắn Mẹ sẽ vẫn đồng hành với ta trên con thuyền ra khơi truyền giáo đầu thiên niên kỷ này. Cùng Mẹ ra khơi chắc chắn ta sẽ vượt qua mọi thử thách, gặt hái được nhiều hoa trái tốt đẹp cho Chúa và cho Giáo hội.

Lạy Mẹ Lavang, xin cầu cho chúng con.

La vang 13-8-02

Đức Cha Giuse Ngô Quang Kiệt

GM Giáo phận Lạng sơn-Cao Bằng

 

 

 

 

 

Linh Hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa

 

Mừng Kính Đức Maria hồn xác lên trời hôm nay chúng ta hãy nhìn lại cuộc đời của mình, tại sao không là cuộc đời ngợi khen Thiên Chúa?

Đặt ra câu hỏi này cho tôi, để tôi cần được thấy những điều trọng đại mà Thiên Chúa đã thực hiện cho tôi qua lịch sử dân tộc và lịch sử đời thường cá nhân của tôi.

“Chúa độ trì Israel, tôi tớ của Người”. (Lc 11,54).

Hoàn cảnh của lịch sử một dân tộc.

Với cách nhìn lịch sử của Đức Maria, cuộc đời dân tộc của Mẹ đã trở thành lời ca tụng Thiên Chúa. Đây là điều quan trọng trong cuộc sống, bởi vì cuộc sống này dù thế nào chăng nữa vẫn là một cuộc sống được thừa hưởng, thừa hưởng gia sản quý báu mà cha ông để lại, là một dân tộc được hiến thánh. Một dân tộc nhỏ bé giữa triều đại Đế quốc Roma rộng lớn, cường thịnh. Một dân tộc được hiến thánh cho Thiên Chúa giữa muôn dân được tuyển chọn từ một cụ già gần đất xa trời là Abraham mà vẫn chưa có một đứa con nối dõi tông đường. Thiên Chúa đã khởi đi từ những gì là mong manh ấy để chuẩn bị cho cho một dân riêng để thờ phượng Thiên Chúa. Giữa muôn ngàn nghịch cảnh của lịch sử, Thiên Chúa đã cho dân tộc Israel được thấy, họ là “con số còn sót lại” để thờ kính Thiên Chúa. Thiên Chúa, Người thích đi con đường nhỏ.

Tại sao một lịch sử nhỏ bé của một dân tộc Việt Nam lại không đọc thấy con đường nhỏ này. Một quốc gia nhỏ bé giữa vùng Châu Á. Một quốc gia biết tôn trọng sự sống được biểu lộ ra bằng hình thức “cầu tự” trong truyền thống dân gian. Một dân tộc đã trải qua một ngàn năm chịu đô hộ giặc Tàu, một trăm năm dưới ách giặc Tây và nhiều năm trong những thử thách của chiến tranh, mà vẫn mang trong mình gióng máu Việt. Từ lòng Âu Cơ, Thiên Chúa đã chuẩn bị cho dân tộc Việt Nam một dân được hiến thánh cho Thiên Chúa. Từ một con người rất bình thường của một gia đình nông thôn nghèo khó, Thiên Chúa đã biểu lộ quyền năng của Người nơi gia đình bà Annê Lê Thị Thành, một phụ nữ Việt Nam. Từ một lịch sử đức tin của đời thường ấy Thiên Chúa đã làm bao điều cao trọng. Máu bà đã đổ cũng như máu các Thánh Tử Đạo đã đổ, các vị là một “con số nhỏ” mà Thiên Chúa đã thực hiện Lịch sử Cứu độ của Người cho dân tộc Việt Nam. Giống như từ cung lòng héo hắt của bà Sara, Thiên Chúa đã gầy dựng một dân. Đức tin của dân tộc Việt ấy đã mọc lên từ máu Tử Đạo, kết trái đơm hoa bằng những con người tử đạo, trong đó có máu tử đạo của một người nữ. Trong giai đoạn lịch sử tử đạo này, tôi thích đọc lại hình ảnh của nhà văn H.Sienkievich trong tác phẩm “Quo vadis”, diễn tả khi Phêrô trốn ra khỏi thành Roma trở về và nhận ra:“Hoàng đế cùng tất cả các đạo quân của y cũng không thể thắng được chân lý đầy sức sống kia, cả nước mắt lẫn máu tươi đều không thể nhận chìm nổi chân lý đó, giờ đây mới là lúc chân lý bắt đầu chiến thắng. ông cũng hiểu được tại sao ông được gọi quay trở lại giữa đường trốn chạy: Chính cái thành phố của xa hoa, tội ác, truỵ lạc và bạo tàn này đã biến thành thành phố của ông, trở thành thủ đô hai lần thủ đô, từ thủ đô ấy sẽ trào tuôn ra thế giới sự ngự trị của thể xác lẫn linh hồn”. Suy nghĩ này dẫn dắt tôi đến với lịch sử dân tộc tôi hôm nay: “Cho dù có cả triệu thai nhi bị giết chết trong một năm, nơi đây vẫn còn từ những cung lòng của bao bà mẹ khác vẫn không ngừng đón nhận con cái là hồng ân Chúa ban, để sinh ra những người con cho trần thế và cho Nước Trời”. Thiên Chúa đã làm những điều kỳ diệu trong lịch sử và còn tiếp tục thực hiện trong lịch sử của nhân loại.

Với một góc nhìn ấy về sự kiện của ngày Đại Hội giới Trẻ lần thứ 17 tại Toronto, tôi tin rằng Thiên Chúa vẫn đang bày tỏ uy quyền của Người qua những con số nhỏ dám chấp nhận đang lội ngược dòng thế gian này và hình ảnh Giáo Hoàng giữa các bạn trẻ tại Toronto, giống như môn đệ Phêrô, qua dáng người bước ra pháp trường của ngày hôm ấy mà tác phẩm “Quo Vadis” diễn tả: “Vị lão ngư thường ngày vẫn nhẫn nhục còng lưng, lúc này bước thẳng người , tầm vóc hơn đám binh lính, đầy vẻ trang trọng. chưa bao giờ người ta thấy ở ông ấy ngần ấy vẻ uy nghi. ngỡ như đó là một vị quốc vương đang đi giữa dân chúng và binh lính”.

Tôi tin rằng những con người đang bênh vực cho chân lý của sự sống vẫn mang một dáng người như thế giữa ngàn trùng sự dữ, đang bước đi hiên ngang đi về phía trước.

Trong một nhãn quan lịch sử như thế, tôi đang được thừa hưởng sự sống, tôi không thể nào mà không thấy được trong mọi hoàn cảnh của ngày hôm nay lời tán tụng Thiên Chúa, mang nỗi lòng mừng vui của Đức Maria: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa…” khi lịch sử cứu độ còn đang vận hành trong những người mẹ đón nhận những đứa con là hồng ân Thiên Chúa.

“Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đã đoái thương nhìn tới”.

Ơ xứ Palestine thời Chúa Giêsu người nữ không có thế giá, thế giới của họ là gia đình và những việc nội trợ. Họ không được đi học cả việc đạo cũng như đời. Họ không được mời làm chứng tại toà án cũng như không được lên tiếng trong nghi thức phụng tự.

Đức Maria là một thiếu nữ nông thôn, mộc mạc, chất phác và nghèo như các thôn nữ miền quê khác. Cái nghèo không thể khuất phục được một tâm hồn chất đầy lời tạ ơn Thiên Chúa. Có cả ngàn lý do để tạ ơn Chúa trong cuộc đời của Đức Maria, và trong kho tàng ân sủng ấy Đức Maria đã trở thành Lời Ngợi Khen Thiên Chúa.

Hoàn cảnh của Đức Maria từ sau tiếng “Xin Vâng”, cũng không dễ dàng gì khi để cho Thiên Chúa bày tỏ quyền năng của Người. Bất lợi và nhiều đau khổ nhưng vẫn không làm người cúi đầu. Điều đặc biệt trong tư thế đón nhận mà Đức Maria đã đón nhận “tất cả là hồng ân”. Thấy được Hồng Ân mới thấy được quyền năng của Thiên Chúa và từ ấy nhận ra cuộc đời đầy ân phúc của mình.

Đã là người, ai cũng là những người nghèo khó, nghèo khó đủ mặt trong cuộc sống, nhưng được vươn cao đến vô hạn nhờ lòng yêu thương của Thiên Chúa. Tại sao không thấy được điều Đức Maria đã thấy: “Người đoái thương nhìn tới; từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc”. Đây có lẽ phải là hình ảnh của người nữ mẫu gương cho mọi người nữ đang đấu tranh cho phẩm giá của mình.

Tại sao lại có thể tự ty mặc cảm trước hồng ân của Thiên Chúa? bởi vì nhìn mà không thấy, nghe mà không hiểu, lòng trí đã trở nên lu mờ theo những tính toán ích kỷ. Đức Maria nhận ra mình là nữ tỳ của Thiên Chúa, nhưng đây là một nữ tỳ chỉ một phận nhỏ được Thiên Chúa đoái thương. Người nhận ra được Thiên Chúa đoái thương là người ngẩng cao đầu cất tiếng ngợi khen: “Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa” thay cho mặc cảm, tự ty. Lời tán dương ấy, tại sao lại không cất lên được trong cuộc sống đời thường của tôi? Bởi vì, tôi đã không dành thời gian để nhìn lại những ân sủng mà Thiên Chúa đã ban cho tôi. Nếu nhìn thấy cánh tay uy quyền của Thiên Chúa thực hiện trong thân phận đầy giới hạn và nghèo túng của tôi thì với nhãn quan ấy tôi đã khám phá ra cuộc đời “Đầy ơn phúc” của tôi.

Những lời tạ ơn trong cuộc sống vẫn cứ như chìm mất trong thái độ cầu xin, phạt tạ, đền tội của tôi. Tại sao lại cúi mặt trước Thiên Chúa? Tại sao tôi không sống đúng với tư thế của người con mà cứ sống thái độ ăn xin nơi ân phúc của Cha?

Tại sao tôi chỉ có biết xin mà chưa biết dùng ân huệ của Người trong cuộc sống của tôi? Một điều đơn giản tôi khám phá ra vì thiếu lời tạ ơn. Thiếu lời tạ ơn, cho nên, dù tôi có nhận được ân sủng từ nơi Thiên Chúa tôi vẫn là những con người chôn giấu những nén bạc. Ân sủng được trao ban là để sinh hoa kết trái và từ hoa trái ấy nên lời tạ ơn trong cuộc sống. Thiếu lời tạ ơn nên cuộc sống vẫn đầy những u mê và tính toán, ích kỷ và kiêu căng, tội ác và bóng tối. Thiếu lời tạ ơn nên cuộc sống của tôi vẫn là cuộc sống người ăn xin trong nhà Cha. Lời tạ ơn làm nên thái độ sống xứng đáng của con người. Thiên Chúa được vinh Danh nơi những con người sống và biết sống xứng đáng là một con người.

Lời tạ ơn làm nên sức năng động: Đức Maria, trong lời tán dương, tôi đã thấy Mẹ là người năng động và rất năng động trong ân sủng của Thiên Chúa. Mẹ là người không chịu khuất phục dưới những đè nặng của khó khăn: Khi biết người chị em của mình đã mang thai, Đức maia đã vội vã lên đường đi tới vùng sơn cước. Khi trở về Nazareth hai ông bà nhận ra thiếu người con là Giêsu, hai ông bà đã vội vã trở lại Giêrusalem. Khi bàn tiệc cưới hết rượu, Đức Maria đã nói với Đức Giêsu “Họ hết rượu rồi” và nói với những người giúp việc “Ngài bảo gì, cứ làm theo”. Khi nghe người ta nói về con mình mất trí, Đức Maria vội đi tìm kiếm con để rồi thấy rằng sự mất trí ấy cũng giống như Mẹ là để cuộc đời này thực hành theo Ý muốn của Chúa Cha. Khi đứng dưới chân Thập Giá, Đức Maria đã biết rằng “mọi sự đã hoàn tất”. Cuộc đời đâu thiếu những sóng gió, nhưng những sóng gió đấy lại bình an trong lời tạ ơn, như Đức Maria đã đắm chìm trong Lời tạ ơn của những ngày Phục Sinh.

Cuộc đời tôi tất nhiên là không tránh khỏi những lúc đen tối, thử thách, gian nan, nhưng điều quan trọng, tôi hãy học cùng với Đức Maria sống cuộc sống này là cuộc đời “Đầy ân Phúc” mà Đức Maria đã sống trong Lời tạ ơn: “Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa…”.

Biến cuộc đời này thành lời tạ ơn, tôi nhận thấy rằng: Ngay cả những lúc thống hối nhất, giữa những lúc mây đen bao phủ dữ dằn nhất, vẫn là những lúc để Vinh Danh Thiên Chúa được hiển trị nhất trong tâm hồn con người biết tạ ơn.

Hãy tạ ơn và hãy làm cho cuộc đời này trở thành “Đầy ân Phúc” nhất, tôi tin rằng cuộc sống con người sẽ trở thành bất tử ngay cả khi còn dưới thế và Lời Xin cho Danh Cha được hiển trị thành sự thật.

Và cuối cùng tôi vẫn tin rằng: Cả hồn và xác Mẹ lên trời là bảo đảm cho cuộc đời nỗ lực làm cho cuộc sống đầy ân sủng này sinh hoa kết trái và trở thành Lời tạ ơn Thiên Chúa trong cuộc sống của tôi.

LM Giuse Hoàng Kim Toan.

 

 

 

 

 

Lễ Đức Mẹ Hồn Xác lên trời

(Bài giảng của Cha J.R.Armogathe)

 

 Mừng lễ Ðức Mẹ hồn xác lên trời, là mừng sức sống mãnh liệt chứa đựng trong tình mẫu tử của Ðức Bà Maria, do đó cũng là lễ mừng đích thật cho các bà mẹ.

Giữa mùa hè, một ngày nghỉ lễ đuợc gắn liền với một lễ mừng tôn giáo. Ngày 15 tháng 8 là ngày chính thức người Công giáo mừng kính Ðức Mẹ hồn xác lên trời. Theo như truyền thống, Mẹ của Chúa Giêsu không chết. Ðến cuối đời, cũng như Maisen và Elia trong Cựu ước, Ðức Mẹ được rước lên trời, tiếp tục sự sống từ thế gian đến sự sống vỉnh cữu không hề chuyển tiếp.

Ðây không chỉ là một lể kính dành riêng cho Ðức Mẹ. Trong Ðạo Công Giáo mỗi lễ kính, trên thực tế là lễ kính nhớ sự Khổ nạn của Chúa Giêsu. Ngày lễ 15 tháng 8 cũng vậy, trong lễ kính Ðức Mẹ lên trời cũng bao gồm tôn kính Chúa Giêsu làm người.

Những mầu nhiệm của cuộc đời Ðức Mẹ chính là thiên chức làm mẹ. Và do đó ngươì Kitô hữu được hưởng nhờ tình mẫu tữ thâm sâu đặc biệt của Mẹ, Mẹ Chúa Giêsu.

Xác thịt một người đã cưu mang Chúa Trời trong lòng mình thì làm sao có thể hư nát được. Chức phận của người con làm cho người mẹ trở nên cao quý, vì thân xác Chúa Giêsu là do máu huyết của mẹ mình tạo nên.

Ngày lể kính Ðức Mẹ hồn xác lên trời là ngày lể mừng kính tình mẫu tử thiêng liêng. Sự kiện Ðức Mẹ hồn xác lên trời là một điều rất dễ hiểu: Maria, một người mẹ. Một người mẹ vâng theo thánh ý Thiên Chúa cùng chung với con mình cứu chuộc nhân loại. Thân xác của Mẹ đã toàn thắng sự chết vì đã cưu mang Ðấng đã sống lại từ cõi chết.

Người Kitô hữu tin tưởng khi chịu phép rửa tội thì được sáp nhập vào thân thể mầu nhiệm Chúa Kitô. Cũng như mẹ Maria, các bà mẹ khi mang con mình đến rữa tội cũng san sẽ niềm hy vọng và sự sống mới với con mình mà mình đã cưu mang. Khi ẵm con thì tình mẫu tử thiêng liêng cũng được bừng sáng lên trong lòng mình.

Chúa chỉ có một người mẹ, nhưng Chúa muốn san sẻ tình mẫu tử đó với nhân loại. Mẹ Eva mới, Maria là Mẹ của những người làm mẹ, Ðức Mẹ về Trời, mở ra cho chúng ta một con đường sống. Ðức Bà Maria thật là Mẹ Thiên Chúa, một tước hiệu và danh xưng duy nhất.

Nhưng Mẹ Maria cũng là một phụ nữ ở vùng đất Palestine. Mẹ rất gần guỉ với chúng ta trong thân phận làm người, Mẹ đã biến đổi tình mẫu tử thành một món quà thiêng liêng đến từ Trời, món quà được làm mẹ, góp phần với Thiên Chúa để ban phát sự sống.

Ngày lễ mừng Ðức Mẹ hồn xác lên Trời, cũng đích thực là ngày lễ mừng các bà mẹ!

Phó tế J.B. Huỳnh Mai Trác

 

 

 

 

 

Những Người Thuộc Về Chúa Kitô – Lm. Vũ Xuân Hạnh

 

Gọi là lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời. Nhưng sau khi nghe ba bài Kinh Thánh, bạn có để ý nhận ra Giáo Hội muốn nhấn mạnh một điều gì không? Ta cùng điểm qua các bài đọc để hiểu Giáo Hội muốn nói gì.

Bài đọc I (trích sách Khải huyền) kết thúc: “Nay sự cứu độ, quyền năng, uy quyền của Thiên Chúa, và của Đức Kitô đã được thực hiện”. Còn bài đọc II, thánh Phaolô gọi Chúa Kitô là hoa quả đầu mùa, sau đó mới đến những người thuộc về Chúa Kitô. Bài Tin Mừng lại càng rõ nét hơn. Chính Đức Maria ca ngợi Chúa rằng: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, lòng tôi hoan hỷ trong Thiên Chúa, Đấng Cứu độ tôi”.

Điểm qua ba bài đọc, bạn đã thấy gì chưa. Riêng tôi nhận ra rằng. Dù là lễ Đức Mẹ về trời, nhưng Giáo Hội lại mời gọi ta hướng về Thiên Chúa, hướng về Chúa Kitô. Vì lẽ gì vậy? Sao lại hướng về Chúa trong lễ Đức Mẹ? Vì chỉ nhờ ơn cứu độ do Chúa Kitô thực hiện, Mẹ mới được hồn xác lên trời. Chính lời nguyện đều lễ xác nhận: “Chúa đã đưa lên trời cả hồn xác Đức Maria”. Còn kinh tiền tụng trong lễ này cũng không đi ngoài nội dung ấy: “Mẹ được Thiên Chúa đưa về trời”. Những kiểu nói: “Chúa đã đưa”, “được đưa” nghĩa là gì, nếu không phải là chính ơn Thiên Chúa ban, là chính nhờ cuộc khổ nạn, phục sinh, lên trời của Chúa Kitô, Mẹ mới được đưa về trời cả hồn lẫn xác. Cũng là người như chúng ta, Mẹ không thể tự mình về trời hồn xác. bởi đó trong thánh lễ này, Giáo Hội hướng về Thiên Chúa mà tuyên xưng những hành động kỳ diệu Chúa đã thực hiện nơi Mẹ. Chính Mẹ chứ không phải Giáo Hội hay chúng ta – chính Mẹ chứ không phải ai khác, là người trước tiên tuyên xưng hành động cứu độ ấy của Thiên Chúa: “Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa, Đấng Cứu độ tôi”. Những chữ: “Đấng Cứu độ tôi”, quả thật là lời quy hướng về Thiên Chúa và ngợi khen Thiên Chúa, ngợi khen Đấng Cứu độ mình. Chỉ có Đấng Cứu độ, chỉ nhờ Đấng Cứu độ, chỉ trong Đấng Cứu độ, Mẹ mới được đưa lên trời hồn xác, vì Đấng ấy đã cứu độ Mẹ.

Lời ca ngợi quy hướng về Thiên Chúa của Đức Mẹ, còn được hỗ trợ bởi rất nhiều lời Kinh Thánh khác. Chẳng hạn lời của thánh Phaolô trong bài đọc II: “Hoa quả đầu mùa là Đức Kitô, rồi mới đến những người thuộc về Đức Kitô”. Chắc bạn đồng ý với tôi, có ai thuộc về Chúa Kitô cho bằng Đức Maria. Bởi vậy, nếu Chúa Kitô là hoa quả đầu mùa, đã về trời cả hồn và xác, thì Mẹ Maria, người thuộc về hoa quả đầu mùa ấy một cách trọn vẹn, cũng được đưa về trời hồn xác, không phải là điều gì khó hiểu.

Vậy bạn và tôi hãy khẳng định lại một lần nữa rằng, Đức Mẹ không thể tự mình về trời nếu không có Chúa. Khẳng định như vậy không hạ thấp Mẹ chúng ta. Trái lại, ta tuyên xưng đúng vị trí mà Mẹ được Chúa thưởng ban. Trong chính ngày lễ Đức Mẹ hồn xác về trời, bằng các bài Kinh Thánh, bằng các lời nguyện, bằng kinh tiền tụng, Giáo Hội hướng chúng ta về Thiên Chúa, để cùng với Mẹ mà ca ngợi Chúa rằng: “Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa, Đấng Cứu độ tôi”.

Nếu Mẹ đã ca ngợi Chúa bằng cả cuộc đời của Mẹ thế nào, thì suốt cả cuộc đời của mỗi người, của bạn và của tôi, cũng là một lời ca ngợi Thiên Chúa liên lỷ như Mẹ vậy. Dù trong hoàn cảnh nào, dù cuộc đời có thương đau như một người mang thai “kêu la chuyển bụng, và đau đớn sinh con”, hay nỗi bất hạnh, lao đao, hoặc ngay cả tai họa ập đến dữ dội như một con rồng khổng lồ đang đe dọa hãi hùng mà sách Khải huyền diễn tả, chúng ta vẫn một lòng tin tưởng tín thác đời mình cho Chúa như Mẹ. Để có được ơn vinh quang về trời, Mẹ đã sống đức tin trọn vẹn. Ngay cả khi đứng bên thập giá, nhìn con chết tức tưởi, nhục nhã, Mẹ vẫn tin, vẫn ngợi khen Thiên Chúa, Đấng Cứu độ của Mẹ. Còn ta, sống giữa biển đời, biết bao nhiêu lần gặp thử thách, biết bao nhiêu bi thương ập đến, có khi như muốn vùi lấp cuộc đời mình, những lúc như vậy, ta có còn tin Chúa không? Có đủ trông cậy để cất lên lời ca ngợi: “Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa, Đấng Cứu độ tôi” như Mẹ của mình? Câu hỏi này xin gởi đến bạn và cũng là nói với chính bản thân tôi, để tất cả tự tra vấn đức tin của mình đối với Thiên Chúa.Thánh Phaolô nói, Chúa Kitô là hoa quả đầu mùa, rồi mới đến những người thuộc về Chúa Kitô. Mẹ đã thuộc về Chúa Kitô, và chúng ta cũng thuộc về Chúa Kitô. Nếu biết sống đức tin mạnh mẽ như Mẹ, chúng ta cũng được hồn xác về trời giống như Mẹ. Những gì Chúa đã thực hiện nơi Mẹ, Người cũng sẽ thực hiện nơi mỗi người, từng người, từng người một. Mãi mãi bạn hãy cùng tôi xác tín rằng, Chúa Kitô là hoa quả đầu mùa, rồi sẽ đến lược chúng ta, là những kẻ thuộc về Chúa Kitô. Tôi chắc chắn, nếu niềm xác tín của ta đạt đến mức độ cao như Mẹ, thì cũng chắc chắn rằng cả cuộc đời ta cũng sẽ là một cuộc đời ca khen Thiên Chúa cùng Mẹ, như Mẹ và hiệp thông với Mẹ: “Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa, Đấng Cứu độ tôi”.

Lm. Vũ Xuân Hạnh

 

 

 

 

 

Theo Đức Mẹ Lên Trời – Đức Cha JB. Bùi Tuần

 

Sắp đến lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời. Lên Trời là lên thiên đàng. Mẹ Maria lên trời là một sự kiện đầy hân hoan. Sự kiện vui mừng này gợi lên trong chúng ta khát vọng chính chúng ta cũng được lên trời.

Nhưng, để theo Đức Mẹ lên trời, ta không thể tự mình lên được. Ta phải tuân theo chỉ dẫn của Mẹ. Chỉ dẫn của Mẹ rất đơn sơ: Hãy sống vâng phục thánh ý Chúa (Lc 1,18).

Thánh ý Chúa về ta là thế nào? Tôi thiết nghĩ: Trong một nơi đặt truyền giáo là ưu tiên như tại đây, thì thánh ý Chúa về ta là lời Chúa Giêsu truyền dạy các môn đệ Người, trước khi Người về trời: “Các con hãy là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem… cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8).

Lời truyền dạy đó phải được coi là rất cần hiện nay. Nó phải được áp dụng một cách sống động. Nghĩa là đối với mỗi người chúng ta, ai cũng phải làm chứng về Chúa tại nơi mình đang sống, trong những hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống mình. Làm chứng cho Chúa tại nơi mình sống phải được coi như một nhiệm vụ sống còn. Vì thế tôi thường nghĩ: “Làm chứng cho Chúa” tại đây lúc này là con đường tôi phải đi, để được lên trời với Đức Mẹ.

Với ý nghĩ đó, tôi xin phép chia sẻ vài suy tư, để xét mình, nhân dịp mừng lễ Mẹ lên trời.

Làm Chứng Cho Chúa

Làm chứng cho Chúa là làm chứng cho Chúa Giêsu. Chúa Giêsu phán: “Các con hãy là chứng nhân của Thầy” (Cv 1,8). Làm chứng cho Chúa Giêsu là làm chứng Người là Đấng Cứu thế. Người cứu độ nhân loại bằng chịu khổ hình và sống lại. Phúc Âm ghi rõ nội dung làm chứng: “Bấy giờ Người mở trí cho các môn đệ hiểu Kinh Thánh, và bảo: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại, và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính các con là chứng nhân của những điều này” (Lc 24,45-48).

Chắc chắn chúng ta có làm chứng cho Chúa Giêsu theo chứng từ trên đây. Làm chứng như thế cũng đã là việc tốt. Nhưng điều tốt hơn, mà mục vụ và truyền giáo mong muốn nơi ta, là chúng ta làm chứng Chúa Giêsu đã và đang cứu độ ta, trong chính cuộc sống cụ thể của ta, một cuộc sống có vô vàn phức tạp. Hơn nữa, ta cũng làm chứng rằng: chính ta cũng đã và đang cộng tác với Chúa Giêsu trong việc cứu độ những người xung quanh, cả đồng bào ta.

Hôm nay, nếu tôi và nhiều người khác biết sám hối, bỏ được tội lỗi, trở về đàng lành, giải quyết được nhiều vấn đề, thì chính là nhờ ơn cứu độ của Chúa, Đấng đã chịu nạn và phục sinh cho tôi và cho mọi người. Tin Mừng qui chiếu vào hiện tại, vào hôm nay, vào cuộc sống và vấn đề của chúng ta. Tôi có kinh nghiệm như vậy. Những bước đường làm chứng một cách cụ thể như thế sẽ không dễ dàng. Nhưng chúng ta sẽ thực hiện được nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần.

Với Sức Mạnh của Chúa Thánh Thần

Khi sai các tông đồ đi làm chứng, Chúa Giêsu đã hứa: “Các con sẽ nhận được sức mạnh của Chúa Thánh Thần” (Cv 1,8).

Kinh nghiệm cho tôi hiểu lời đó thế này: Chúa Giêsu cứu độ thường đến với ta qua sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Sức mạnh ấy được thể hiện nhiều cách, nhất là ơn đổi mới tâm hồn.

Chẳng hạn, trước đây có những người dễ chạy theo những thú vui hưởng thụ thế gian, thì nay họ trở thành dửng dưng với những thứ đó, để hăng say chìm đắm trong sự bình an của ơn Chúa hiện diện. Trước đây, có những tính tình rất tự phụ tự mãn, coi như đã ximăng-hoá rất vững trong chất kiêu căng, nhưng nay họ trở thành khiêm tốn nhã nhặn, từ các suy nghĩ, đến các cử chỉ thái độ và lời nói.

Các đổi mới như thế thường rất sâu xa, nhưng lại rất âm thầm. Nơi từng cá nhân, nơi cả một tập thể.

Tôi coi những đổi mới như thế là sức mạnh của Chúa Thánh Thần.

Nhiều khi, nhìn thấy những sự lạ lùng mà Chúa Thánh Thần đã và đang thực hiện tại đây trong các tâm hồn giữa những hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, tôi có cảm tưởng công việc Ngôi Lời nhập thể vẫn đang tiếp tục. Rất lặng lẽ, rất ẩn dật, nhưng Chúa Thánh Thần đang đưa ơn cứu độ vào lịch sử từng người và từng địa phương.

Chính tôi đã cảm nghiệm được sự kiện đó. Chúa hiện diện trong đời tôi, nhất là trong những giai đoạn tăm tối nhất. Người hiện diện để ủi an, để nâng đỡ, để soi sáng, để thứ tha, để chia sẻ, để cải hoá, để thanh luyện.

Từ kinh nghiệm bản thân, tôi có thể tiên đoán được sự chuyển biến tốt của lịch sử đang diễn ra âm thầm, qua những đổi mới các tâm hồn, do sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Tôi càng có lý để tin điều đó, khi nghĩ đến sự Đức Mẹ đang đồng hành với chúng ta trên đường truyền giáo.

Nhờ Mẹ Maria Cầu Bầu

Trên thánh giá, Chúa Giêsu đã trối Đức Mẹ cho thánh Gioan: “Này là mẹ con” (Ga 19,26). Tôi coi lời trối quí giá đó cũng dành cho mọi người sẽ được sai đi làm chứng cho Chúa.

Xin tạm bỏ qua lý thuyết cắt nghĩa lời đó. tôi chỉ xin dựa vào kinh nghiệm. Kinh nghiệm làm chứng điều này: Đức Mẹ giữ một địa vị rất quan trọng trong việc chúng tôi làm chứng cho Chúa.

Nhiều người biết Đức Mẹ, trước khi biết Chúa. Nhiều nơi cầu nguyện với Đức Mẹ, trước khi cầu nguyện với Chúa. Đức Mẹ là nơi ẩn náu của những ai tội lỗi, là nguồn an ủi cho những ai lo buồn. Đặc biệt, Đức Mẹ là hy vọng của những ai bé nhỏ, mọn hèn.

Riêng với những người làm chứng cho Chúa, Đức Mẹ dạy cho họ cách riêng tinh thần khiêm tốn, khó nghèo. Bởi vì, để làm chứng cho Đấng cứu thế là Đấng rất khiêm tốn, khó nghèo, người ta không thể phản chứng bằng đời sống của mình trái ngược với khó nghèo khiêm tốn.

Hơn nữa, Chúa chỉ ban ơn biết làm chứng về Chúa cho những ai có tinh thần khiêm tốn. Như lời Chúa Giêsu đã nói với Chúa Cha: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn. Vâng lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha” (Lc 10,21). Người sống bé mọn với Chúa, luôn là người sống bé mọn với Đức Mẹ và với Hội Thánh của Chúa.

***

Trên đây là một thoáng nhìn về con đường tôi theo Mẹ lên trời. Tôi thấy rõ tôi không đi một mình. Chúng tôi đi với nhau, trong tình hiệp thông và phấn đấu, luôn tìm vâng phục thánh ý Chúa, để làm chứng cho Đấng Cứu độ. Người là Tin Mừng cho mọi người. Loan báo Tin Mừng, sống Tin Mừng là con đường Mẹ đã đi để lên trời. Con cái Mẹ cũng theo Mẹ mà đi trên con đường đó, để về trời.

 

 

 

 

 

Niềm Tin Tưởng

 

Ngay từ thời Trung cổ, Giáo hội đã tin chắc Mẹ Maria được đặc ân về trời cả hồn lẫn xác, thế nhưng mãi đến năm 1950, Đức Thánh Cha Piô XII mới long trọng công bố tín điều này cho toàn thể thế giới Công giáo.

Vậy dựa vào đâu chúng ta xác quyết được điều ấy?

Qua bài đọc thứ nhất, thánh Gioan đã mô tả cho chúng ta thấy cảnh tượng huy hoàng của Đức Trinh Nữ Maria:

“Một điềm lạ xuất hiện trên không trung. Một người nữ mặc áo mặt trời, chân đạp vừng trăng và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao”.

Công đồng Vatican II đã giải thích về cảnh tượng huy hoàng ấy như sau:

– Thiên Chúa đã nâng Mẹ lên, đặt Mẹ làm Nữ Vương trời đất, bởi vì Mẹ đã liên kết mật thiết với Đức Kitô, Con của Mẹ, Đấng đã chiến thắng tội lỗi và sự chết.

Một em nhỏ 8 tuổi, được cha mẹ dẫn tới Lộ Đức, và sau khi Đức Mẹ hiện ra, em đã hỏi chị Bernadette một cách đơn sơ:

– Thưa chị, thế Đức Mẹ có đẹp hơn mặt trời hay không?

Và chị Bernadette đã trả lời:

– Đẹp hơn nhiều lắm, nhưng chị vẫn có thể nhìn vào Mẹ.

Đúng thế, Mẹ Maria đẹp hơn cả mặt trời, nhưng không chói lòa, bởi đó trong ngày hôm nay, chúng ta hãy nhìn ngắm Mẹ bằng cặp mắt đơn sơ của chúng ta, cũng như hãy tìm lấy những lời nhủ bảo mà Mẹ muốn truyền đạt cho chúng ta.

Mẹ Maria được đưa về trời cả hồn lẫn xác, đó là một ân huệ đặc biệt Chúa dành cho Mẹ. Tất cả các thánh, dù trong sạch đến đâu chăng nữa, cũng vẫn phải chờ ngày sống lại, thân xác mới được mặc lấy ánh vinh quang. Vậy tại sao Mẹ là người duy nhất được hưởng đặc ân này?

Tôi xin thưa:

Lý do thứ nhất, vì là Mẹ Chúa Giêsu, Đức Maria luôn kết hiệp mật thiết với Chúa và sự vinh quang của Mẹ cũng chỉ là một sự tham dự vào vinh quang của Chúa. Trước khi về trời Chúa Giêsu đã nói:

– Thầy đi để dọn chỗ cho các con.

Chắc hẳn Chúa sẽ không bắt Mẹ phải chờ đợi để thực hiện lời phán hứa ấy.

Lý do thứ hai, với đặc ân Vô Nhiễm, tâm hồn và thể xác Mẹ không hề bị hoen ố bởi tội lỗi, vì thế lý đương nhiên Mẹ sẽ không phải chịu cảnh hư nát trong mồ.

Lý do thứ ba, vì Mẹ đã chia sẻ những đau khổ thập giá với Chúa, nên Mẹ cũng được chia sẻ phần vinh quang phục sinh với Ngài, như lời Mẹ đã nói:

– Đấng toàn năng đã làm cho tôi những sự trọng đại và danh Ngài là thánh.

Mặc dù bây giờ đã lên trời, nhưng Mẹ vẫn còn  gần gũi với chúng ta và luôn chăm sóc đến mỗi người chúng ta, như Công đồng Vatican II đã xác quyết:

Với lời xin vâng trong hoạt cảnh truyền tin, với những khổ đau khi đứng dưới chân thập giá, Đức Mearia đã trở nên Mẹ của chúng ta trong đời sống ơn sủng. Và bây giờ ở trên trời, Mẹ không ngừng bầu cử để chúng ta lãnh nhận được những ơn huệ cần thiết, hầu bảo đảm cho chúng ta phần rỗi linh hồn.

Với tấm lòng của một người mẹ, Đức Maria sẽ ra tay nâng đỡ và phù trợ chúng ta trong mọi cơn gian nguy thử thách của cuộc hành trình trần gian, cho đến khi chúng ta đạt tới quê hương hạnh phúc nước trời.

Trên thế giới có những nơi đã được Mẹ chọn lựa để biểu lộ tình thương của Mẹ, như Lavang, như Lộ Đức, như Fatima.

Câu chuyện dưới đây đã xảy ra tại Lộ Đức.

Có một bệnh nhân đau nặng, được đặt nằm trên một chiếc ghế bố, bên cạnh con đường mà cuộc rước kiệu sẽ đi qua. Đức Giám mục cầm mặt nhật và ghi hình thánh giá trước mỗi bệnh nhân.

Người bệnh của chúng ta có một niềm tin tưởng vào Mẹ Maria. Thế nhưng khi Thánh Thể Chúa đi qua, anh vẫn chẳng cảm thấy một chuyển biến nào. Hơi buồn và thất vọng anh đã kêu lên:

– Con sẽ mách với Mẹ Maria cho mà xem.

Vị Giám Mục nghe thấy, quay lại và một lần nữa giơ cao mặt nhật và vẽ hình thánh giá. Lập tức anh ta được khỏi bệnh.

Là Nữ Vương trời đất, Mẹ có dư khả năng, là Mẹ chúng ta Mẹ có dư tình thương. Bởi đó, hãy tin tưởng chạy đến với  Mẹ, vì như lời thánh Bênađô đã xác quyết: Kêu cầu Mẹ, chúng ta sẽ không bao giờ phải thất vọng.

 

 

 

 

 

Niềm Hy Vọng

 

Lễ Mẹ hồn xác lên trời không phải chỉ đem đến cho chúng ta niềm an ủi, mà còn thắp lên trong chúng ta niềm hy vọng tuyệt vời. Đó chính là điều Đức thánh cha Piô XII đã nhắn nhủ khi công bố tín điều này.

Anh em Tin lành có một bài hát với những lời lẽ như sau:

– Tôi chỉ muốn xây dựng sự lên trời của tôi dựa vào Đức Kitô mà thôi.

Là người Công giáo, chúng ta hoàn toàn đồng ý với những anh em Tin lành:

– Niềm hy vọng về trời của chúng ta phải được đặt nền tảng nơi Đức Kitô.

Thế nhưng, trước mặt chúng ta sự lên trời của Mẹ Maria hôm nay đã thắp lên một ánh lửa dạt dào hy vọng. Với biến cố này, một tia sáng đã chiếu tỏa trên vùng đất tăm tối của sự chết.

Mục đích cuộc hành trình dương thế của chúng ta đã được bảo đảm nơi Mẹ Maria, bởi vì Mẹ là tạo vật đầu tiên đã được bước vào chốn vinh quang.

Án phạt của  tội lỗi là sự chết. Thế nhưng với sự phục sinh của Đức Kitô và sự lên trời của Mẹ Maria, chúng ta có thể nói lên như thánh Phaolô:

– Hỡi thần chết, sự chiến thắng của ngươi ở đâu và nọc độc của ngươi ở đâu ?

Kể từ nay, cái chết không còn quyền hành gì nữa đối với chúng ta. Là người Kitô hữu, chúng ta lo lắng nhưng không sợ hãi trước cái chết. Thánh Benoit đã chết trong khi còn đang tay cầu nguyện. Thánh Phanxicô thành Assie đã gọi cái chết là người chị yêu dấu. Còn thánh Louis de Gonzague đã nói:

– Chúng ta vui mừng cất bước ra đi…

Người ta kể lại rằng: có một ông bố, đặt khẩu súng đã lên đạn của mình ở đầu giường trong lúc hấp hối và nói với các con của mình rằng:

– Các con hãy yên tâm ra đồng gặt lúa. Bao giờ các con nghe thấy một tiếng súng nổ thì các con biết rằng ba các con đã chết.

Hay như một cụ già khác đã gọi con cháu đến bên giường bệnh và giảng giải cho con cháu biết về sự quan trọng của cái chết.

Cái chết và sự lên trời của Mẹ Maria đã đem đến cho chúng ta niềm hy vọng, bởi vì dù chúng ta sẽ chết cách nào, điều đó không quan trọng, chúng ta sẽ hấp hối làm sao, điều đó cũng không quan trọng. Điều quan trọng đích thực, đó là chúng ta phải chiến thắng trong giờ sau hết.

Với ngày lễ hôm nay, chúng ta không phải chỉ nhìn về dĩ vãng bằng cách cảm tạ những hồng ân Chúa đã ban cho Mẹ, mà còn hướng tới tương lại bằng cách xác định con đường chúng ta sẽ phải đi qua.

Khi lần hạt và suy gẫm về sự ân thưởng và vinh thăng của Mẹ, một chân trời mới đầy hy vọng đã mở ra trước mắt chúng ta, bởi vì cái chết không còn làm cho chúng ta sợ hãi, trái lại nhờ nó mà chúng ta sẽ được Chúa đón nhận vào quê hương Nước trời, nhờ nó mà chúng ta được trở về nhà Cha, nhờ nó mà chúng ta được sinh ra cho cuộc sống vĩnh cửu.

Vì thế, từ chốn khổ đau này chúng ta luôn cầu khẩn Mẹ giúp chúng ta trong cuộc chiến cam go ấy.

Bên Thụy sĩ, cứ năm năm người ta lại trình diễn vở kịch  “Sân khấu thế giới” ngay trước mặt nhà thờ Đức Bà. Đời sống mỗi người là một cảnh tượng diễn ra trước mặt Thiên Chúa là Đấng thấu suốt tất cả. Mỗi người phải thủ một vai trò nào đó, nhưng sau cùng đều phải xuất hiện trước ngai tòa Thiên Chúa để được xét xử về vai trò mình đã đóng có được trọn vẹn hay không. Giữa lúc mọi người lo lắng thì Đức Maria xuất hiện. Mẹ tiến đến trước mặt Thiên Chúa, bầu cử cho họ và mời họ vào dự tiệc vĩnh cửu. Và rồi tất cả cùng hát vang:

– Xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy đến cùng Mẹ mà chẳng được nhận lời.

Với tình thương của người mẹ, Đức Maria sẵn sàng trợ giúp chúng ta với uy quyền của một bậc Nữ Vương ngài có thể thực hiện những gì chúng ta muốn.

Bởi đó, trong ngày hôm nay chúng ta hãy thân thưa với Mẹ:

Lạy Nữ Vương trời đất, xin bầu cử chúng con trước ngai tòa Chúa.

 

 

 

 

 

Vinh Quang

 

Ngày lễ Thăng thiên, chúng ta cử hành sự kiện Chúa Giêsu được tôn vinh, còn hôm nay ngày lễ Mông triệu, chúng ta cử hành sự kện Mẹ Maria được tôn vinh. Chúng ta được lãnh nhận ơn Cứu độ từ Chúa Giêsu, nhưng chúng ta được lãnh nhận Chúa Giêsu từ Mẹ Maria.

Có một câu chuyện kể về cách thức người Da Đỏ Comache đã từng cầu nguyện để cho có mưa “Lạy Thầy Linh vĩ đại, xin nói cho chúng tôi biết chúng tôi đã làm điều gì sai trái, khiến cho ngài tức giận. Xin nói cho chúng tôi biết chúng ta phải làm gì, để ngài sẽ cho mưa xuống một lần nữa, và phục hồi sự sống cho mảnh đất của chúng tôi”. Họ cứ cầu nguyện như thế trong vòng ba ngày, nhưng vẫn không hề có mưa. Trẻ con và người già bắt đầu chết.

Thế rồi những người  lớn  tuổi trên bộ lạc đi lên các ngọn đồi, để lắng nghe tiếng gió thổi, mang theo giọng nói của Thần Linh. Khi trở về, họ nói với dân chúng “Cảnh hạn hán gây ra là do tính ích kỷ của chúng ta. Từ bao năm qua , chúng ta đã lấy đi đủ thứ từ mặt đất, mà không hề trả lại gì cả. Tất cả chúng ta phải làm cuả lễ toàn thiêu, để dâng lên Thần Linh những tài sản giá trị nhất của chúng ta. Chúng ta phải rải tro trên mặt đất. Rồi mưa sẽ đến, và sự sống sẽ trở lại trên mặt đất. Rồi mưa sẽ đến, và sự sống sẽ trở lại trên địa cầu”.

Dân chúng cảm ơn Thần Linh về thông điệp đó. Nhưng khi trở về nhà, và nhìn vào những tài sản giá trị nhất của mình, họ lại lưỡng lự, và bắt đầu tìm cách thoái thác. Thay vì hy sinh những tài sản giá trị nhất, họ chỉ hy sinh một số thứ khác thay thế vào đó. Bây giờ, một cô bé tên là Miriam, có một con búp bê màu xanh, mà cô bé yêu quý trên hết mọi thứ khác. Vì là một đứa trẻ duy nhất còn sống sót, cô bé nhận ra rằng mình cũng phải hy sinh. Thế là một đêm kia, cô bé bò ra khỏi căn lều, đem theo con búp bê và một cây quy diêm, rồi đi lên đỉnh đồi. Tại đó, cô bé châm lửa đốt con búp bê. Vừa khóc, cô bé vừa nhìn con búp bê biến thành tro bụi. Sau đó, cô bé dùng bàn tay thu gom đống tro lại, và ném lên không trung. Sao cho gió sẽ rải đám tro đó lên mặt đất. Rồi cô bé lăn ra ngủ vùi ngay tại đỉnh đồi.

Sáng hôm sau khi thức dậy, cô bé nhìn khắp mặt đất, và thấy mặt đất phủ đầy những bông hoa màu xanh, khắp cả một vùng xa tít tắp mà tầm mắt của cô bé có thể thấy được. Dân chúng rất vui mừng khi nhìn thấy sự kiện xảy ra. Ngay tức khắc, họ nhận ra được điều mình phải làm. Họ cảm thấy xấu hổ vì tính ích kỉ của mình, mỗi người đều lấy số tài sản mà họ đã cất giữ rất cẩn thận, hi sinh đốt đi, và rải đám tro đó lên mặt đất. Một lần nữa, họ bắt đầu cầu nguyện với Thần Linh, và lần này Thần Linh đã nhận lời họ. Chẳng bao lâu, một cơn mưa bắt đầu chút xuống. Khi nhìn thấy sự kiện đó, họ ôm cô bé Miriam, người đã làm cho họ hổ thẹn, vì đã không làm theo yêu cầu của Thần Linh.

Câu chuyện nhỏ này giúp chúng ta hiểu được vai trò của Đức Maria, và nhận ra được tại sao Giáo hội tôn vinh ngài trong ngày hôm nay. Chính thông qua sự hy sinh Con của ngài, mà ơn tha thứ, bình an và yêu thương của Thiên Chúa đã tuôn đổ xuống trên mặt đất, và mang lại sự sống cho chúng ta, Đức Maria đóng một vai trò sống còn trong của lễ hy sinh đó.

Mẹ đã sẵn lòng đem Đức Giêsu đi vào trong thế giới này. Mẹ hết lòng yêu thương Người, và quý trọng Người vượt lên trên tất cả mọi thứ sở hữu khác. Nhưng khi công trình Cứu Độ toàn dân đòi hỏi rằng chính Đức Giêsu phải hy sinh, thì Mẹ vẫn đứng về phía Người, ngay cả mặc dù nỗi đau khổ giống như một lưỡi gươm sắc nhọn, đã đâm thâu qua trái tim Mẹ.

Hôm nay, chúng ta mừng kính ngày Mẹ được tôn vinh trên trời, có nghĩa là Mẹ được chia sẻ trọn vẹn vinh quang của Đức Kitô. Đây là một ngày dành cho niềm vui và ca ngợi. Mẹ sẽ thúc giục chúng ta phải quảng đại hơn trong việc đi theo Con của Mẹ, và trong việc hy sinh những gì chúng ta quý giá, để mang lại sự sống cho những người khác.

Đức Maria được chúc phúc vì Mẹ là mẹ của Đức Giêsu. Nhưng Mẹ còn được chúc phúc hơn vì, giống như cố bé Miriam, Mẹ đã lắng nghe và vâng phục lời của Thiên Chúa. Mẹ sẽ giúp đỡ chúng ta cũng biết vâng phục Lời Chúa, và từ đó, chúng ta được đi theo Đức Giêsu trên đường dẫn tới vinh quang.

 

 

 

 

 

Nghe Theo Mẹ

Trong một bài giảng về lễ Mẹ hồn xác lên trời, Đức thánh cha Gioan Phaolô II đã nói: khi đặt mình vào trường học của Mẹ.

“khi đặt mình vào trường học của Mẹ một cách đặc biệt, trong đó các tín hữu được mời gọi thực hiện cuộc ăn năn trở lại cách sâu xa hơn, củng cố đức tin của họ, sống chăm chú hơn, lắng nghe lời Chúa và trở nên sẵn sàng hơn để phục vụ những anh chị em của mình. Đối với tất cả những đồ đệ của Chúa Kitô, Mẹ là mẫu gưỡng tốt nhất cho đời sống Kitô, Mẹ chuẩn bị tâm hồn chúng ta đón nhận và trao Chúa Kitô cho chúng ta, giống như xưa kia Mẹ đã trao cho những người giúp việc tại tiệc vưới Cana một mệnh lệnh: “Hãy làm tất cả những gì Chúa truyền dạy”. Mẹ mời gọi chúng ta hãy ra đi đến với những ai đang cần nâng đỡ và trợ giúp của chúng ta như chính Mẹ đã lm cho người chị họ Elizabeth, như thế chúng ta lãnh nhận từ Mẹ rất thân yêu này sự thích thú của cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa và của sứ mạng xống đức ái phục vụ tha nhân”.

Đó là tâm tình của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II mong muốn cho mọi thành phần trong Giáo hội, cho tất cả những ai đang tôn kính Mẹ Maria, trong tâm tình này, mọi người hãy kết hiệp với nhau, và Đức Thánh Cha nói là mời Mẹ đến ở nhà chúng ta. Mời Mẹ đến với chúng ta để xin Mẹ giúp thực thi lời Chúa truyền dạy: “Hãy làm những gì Chúa truyền dạy”.

Trẻ em Tây Phương thường được người lớn kể cho câu chuyện thần tiên như sau:

Ngày xửa ngày xưa, có một gia đình nghèo sống bên cạnh rừng, người chồng lo việc tiều phu, người vợ lo việc nội trợ. Họ chỉ có ba người con gái, sáng sớm người chồng đi vào rừng kiếm củi, người vợ đi vào làng để mua thức ăn và cô gái nhỏ trông chừng nhà cửa.

Một buổi sáng nọ, đang nô đùa trước cửa nhà, ba cô bé nhỏ thấy một bà lão đang tiến lại gần, người đàn bà mặc áo đen, từ xa ba cô bé nhỏ cũng có thể nhận ra gương mặt xấu xí của bà. Vừa thấy bà lão đến gần, người chị hét lên:

Mụ phù thủy, mụ phù thủy.

Nghe tiếng báo động của người chị, hai cô bé nhỏ chạy vội vào nhà đóng cửa lại, còn cô lớn chạy ra phía sau nhà để thả chó ra. Lão bà dừng lại trước những tiếng gầm gừ của con  chó. Bên trong hai đứa nhỏ vẫn còn run cầm cập. Một lát sau người đàn bà xấu xí đành bỏ đi về phía rừng.

Hôm sau, sinh hoạt của gia đình tiều phu vẫn diễn ra bình thường, người cha vẫn đưa con chó vào rừng, người mẹ đem đứa con gái lớn và cả đứa kế đi ra chợ, chỉ còn lại đứa bé nhỏ nhất mới lên năm tuổi trông nhà. Vào giữa buổi trưa, khi đứa nhỏ đang chơi trước sân thì bà lão xấu xí lại xuất hiện một lần nữa. Vừa trông thấy, nó thét lên như hai đứa chị:

Mụ phù thủy, mụ phù thủy.

Và chạy nhanh vào nhà cài then cửa lại, đứng nhìn người đàn bà. Qua lỗ nhỏ của khe của, bỗng nó nhìn thấy và nhận ra một điều mà nó chưa hề thấy trước đó, người đàn bà không có vẻ gì là một mụ phù thủy cả, nó chỉ thấy một người đàn bà vẻ đau yếu và mệt lả. Đứa bé năm tuổi tự nhiên cảm thấy thương mến bà vô cùng, nó liền mở cửa và tiến đến bên bà thưa:

Thưa bà, cháu có thể giúp bà cái gì được không ạ?

Quả thật, gương mặt bà lão xấu xí kinh khủng. Khi trông thấy đứa bé kháu khỉnh bà nói:

Lão còn phải đi đường xa, lão mệt lắm, cháu có thể cho bà ly nước được không?

Nó liền chạy ra sau nhà, lấy gáo múc nước đem ra cho bà cụ uống. Bà cụ cầm lấy chiếc gáo, cảm ơn đứa bé rồi uống cạn. Bà rùng mình đứng thẳng, đứng thẳng rồi biến thành một cô công chúa xinh đẹp.

 

 

 

 

 

Lễ Đức Mẹ Lên Trời – Nguyễn học Tập

 

Tín điều Đức Mẹ hồn xác lên trời là tín điều mới nhất của Giáo Hội Công Giáo được công bố năm 1950, xác nhận truyền thống của niềm tin có từ ngàn xưa và phổ biến nơi các tín hữu công giáo.
Đoạn Phúc Âm Thánh Luca (Lc 1,39-56) mà chúng ta đọc hôm nay để mừng lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời thật ra không nói lên được mối liên quan trực tiếp giữa niềm tin Đức Mẹ được Chúa đem cả hồn lẫn xác lên trời và ý nghĩa của đoạn Phúc Âm liên hệ. Phúc Âm Thánh Luca của Thánh Lễ hôm nay chỉ nhắc lại cho chúng ta việc Đức Mẹ đến viếng thăm người chị bà con của Đức Mẹ là bà Elisabeth, nhắc lại những lời ngợi khen của Elisabeth đối với Đức Mẹ và bài ca “Ngợi Khen” (Magnificat) của Đức Mẹ dâng lên Thiên Chúa để tạ ơn Ngài về những gì Ngài đã ban cho Đức Mẹ.

Phúc Âm tường thuật lại cho chúng ta rất nhiều điều về cuộc đời Đức Giêsu, những lời giảng dạy cũng như những việc Ngài đã làm, nhưng cũng có những điều hệ trọng Phúc Âm không đề cập đến, việc Chúa Giêsu sống lại chẳng hạn, cũng như những điều liên quan đến tín điều Đức Mẹ hồn xác lên trời hôm nay chúng ta mừng lễ.

Không thuật lại không có nghĩa là không có. Không thuật lại không có nghĩa là chúng ta không thể tìm hiểu ý nghĩa đó đây tiềm ẩn trong Phúc Âm và không thuật lại cũng có thể hiểu là tầm quan trọng vượt quá nội dung hạn hẹp trong một đoạn tường thuật.

Đó là những tư tưởng chúng ta cố gắng tìm hiểu trong bài suy niệm mừng lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời hôm nay.

Nhân phẩm con người.

Mừng lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời hôm nay không những có ý nghĩa long trọng mừng ngày đại lễ để tôn vinh Đức Mẹ được Chúa ban cho nhiều hồng ân và được nhắc lên điạ vị cao cả trên trời.

Đức Mẹ thuộc dòng giống con người như chúng ta, được Chúa thưởng cả hồn lẫn xác lên trời là một niềm vinh hạnh cao cả cho Mẹ và cho giống nòi. Nhưng ý nghĩa của ngày đại lễ hôm nay không những chỉ có vậy, nếu chúng ta đặt vai trò của Đức Mẹ vào chương trình cứu rỗi và lòng thương Chúa ban cho con người địa vị cao cả con Thiên Chúa.

Con người đã được Thiên Chúa ban cho địa vị cao cả ngay từ lúc con người được dựng nên. Thánh Kinh kể lại cho chúng ta Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ trong sáu ngày và cứ mỗi lần Chúa phán là một sự vật được dựng nên. Nhưng đến lúc quyết định dựng nên con người, dường như Thiên Chúa ngừng lại để suy nghĩ:

“Ta hãy dựng con người giống hình ảnh Ta, giống như Ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất” (Gn 1,26).

Thiên Chúa là Đấng sáng suốt khôn ngoan tuyệt đỉnh, không có lý do gì phải “dừng lại suy nghĩ” khi Ngài quyết định dựng con người. Phải chăng đó là cách diễn đạt của Thánh Kinh nói lên con người là tạo vật quan trọng Thiên Chúa muốn dựng nên.

Và Ngài dựng nên con người giống hình ảnh Ngài, có trí khôn ngoan và tự do phản ảnh lại trí khôn ngoan khôn lường và tự do vô hạn của Ngài:

“Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Ngài,

Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh của Thiên Chúa,

Thiên Chúa sáng tạo người nam và người nữ” (Gn 1,27).

Nếu để ý chúng ta thấy rằng tác giả Thánh Kinh lập lại đến hai lần việc Thiên Chúa tạo dựng con người giống hành ảnh Ngài, có lẽ cho những đọc phải chú ý đến sự việc quan trọng vừa kể.

Trong cả các tạo vật được dựng nên trong vũ trụ, không có tạo vật nào cao cả hơn con người, bởi lẽ không có tạo vật nào được Thiên Chúa dựng nên “…theo hình ảnh của Thiên Chúa”: có trí khôn ngoan và tự do giống như Thiên Chúa.

Kế đến nhờ công cuộc Nhập Thể và Cứu Rỗi của Đức Giêsu, con người từ hoàn cảnh thọ tạo được nhắc lên bậc làm con Thiên Chúa:

“Lạy Cha chúng con ở trên trời…” (Mt 6,9).

Hơn nữa với chức vị là con Thiên Chúa, nhờ công nghiệp của Chúa Giêsu, con người được Thiên Chúa cho thừa hưởng gia tài của Ngài: tham dự vào bản tính thần linh của Ngài, tham dự vào đời sống Thiên Chúa mà Ngài đang sống:

“Nhờ vinh quang và sức mạnh ấy (của Đức Giêsu), Thiên Chúa đã ban tặng cho chúng ta những gì rất qúy báu và trọng đại Người đã hứa, để nhờ đó, anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa…” (2 Pt 1,4).

Hiểu được ý nghĩa cao cả đó của nhân phẩm con người: “được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, là con Thiên Chúa, và được thông phần bản tính Thiên Chúa”, chúng ta thử đặt câu hỏi: nếu không có Đức Mẹ, con người sẽ bị mất mác những gì?

Những gì liên quan đến việc Nhập Thể và Cứu Rỗi mà Đức Giêsu đem lại cho chúng ta.

Con người sẽ mất đi địa vị con Thiên Chúa và mất đi ơn “Thiên Chúa đã ban tặng cho chúng ta những gì rất qúy báu và trọng đại Người đã hứa, để nhờ đó anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa…”.

Nói cách khác, không có Đức Mẹ sẽ không có Ngôi Lời Nhập Thể và chúng ta sẽ mất đi những gì “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Jn 1,14) đem lại cho chúng ta.

Với câu trả lời:

“Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38), chương trình Cứu Rỗi của Thiên Chúa, lòng nhân ái thứ tha của Thiên Chúa, đồ án đưa con người từ hàng thọ tạo lên địa vị con Thiên Chúa và lòng quảng đại của Thiên Chúa ban cho con người tham dự vào bản tính thần linh của mình bắt đầu được thực hiện:
“Thánh Thần sẽ ngự trên bà và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc 1,35).

Nhà thần học Karl Rahner, trong bộ sách thần học của ông, ” Mysterium Salutis”, đã viết:

“Thiên Chúa làm người để con người được trở nên Thiên Chúa”, để con người trở thành con Thiên Chúa trong ý nghĩa chúng ta vừa nói.

Với sự đồng thuận cộng tác của Đức Mẹ vào công cuộc Nhập Thể Cứu Rổi của Đức Giêsu, cả giòng giống của Đức Mẹ, giòng giống nhân loại của chúng ta đã trở thành giòng giống của Thiên Chúa, chúng ta là con Thiên Chúa, có quyền được tham dự vào đời sống của Thiên Chúa.

Những suy nghĩ trên có gì quá đáng không?

Chúng ta có thể đặt vấn nạn: nếu Thiên Chúa không chọn Mẹ Maria làm Mẹ của Đấng Cứu Thế, Ngài có thể chọn một phụ nữ khác, việc gì chúng ta phải tôn vinh tột bực Đức Mẹ?

Thiên Chúa toàn năng có thể chọn một phụ nữ khác, nhưng người phụ nữ khác đó phải được Thiên Chúa tiên liệu cho các đặc ân mà Ngài đã tiên liệu cho Đức Mẹ để thích hợp với chức vụ Mẹ Đấng Cứu Thế, đặc ân Vô Nhiểm Nguyên Tội mà Ngài đã dành cho Đức Mẹ, từ lúc bà Thánh Anna thụ thai Mẹ và những đặc ân khác như khiêm nhường, thành tính, vâng nghe và nhẫn nhục hy sinh…

Kế đến đặt vấn nạn vừa kể chúng ta không làm gì hơn là đem vấn đề, nhiệm vụ và vinh dự khoán cho một phụ nữ khác điều mà chúng ta đang suy niệm và tôn vinh cho Đức Mẹ ngày hôm nay. Chúng ta không đưa ra giải pháp gì khác hơn.

Đức Mẹ hồn xác lên trời khởi đầu cho thế hệ nhân loại

Chúng ta hân hoan mừng trọng thể lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời hôm nay, không những chúng ta vui mừng và tôn vinh hồng ân và vinh dự Thiên Chúa ban cho Đức Mẹ, vì Mẹ đã đóng nhiệm vụ then chốt trong việc Nhập Thể Cứu Rỗi của Chúa Giêsu.

Chúng ta vui mừng vì từ đây dòng giống nhân loại của chúng ta cũng sẽ vào Nước trời cả hồn lẫn xác như Đức Mẹ.

Với câu trả lời:

“Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38), Đức Giêsu bắt đầu mặc lấy bản tính nhân loại của chúng ta. Bản tính nhân loại của chúng ta tiếp xúc với bản tính Thiên Chúa và được Thiên Chúa thánh hóa. Chúng ta, cả hồn lẫn xác, trở nên con Thiên Chúa và trở nên kẻ thừa kế gia tài của những người con Thiên Chúa, tham dự vào bản tính thần linh của Chúa. Trước tương lai rực rỡ Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy “ăn ở xứng đáng”, hãy “trở nên trọn hảo”, cả hồn lẫn xác, để xứng đáng với địa vị mới và đời sống mới của người con Thiên Chúa, xứng đáng tham dự vào đời sống thần linh của Chúa:

“Vậy anh em hãy nên trọn hảo, như Cha anh em trên trời là Đấng trọn hảo” (Mt 5,48).

Mừng lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời hôm nay là chúng ta phấn khởi vui mừng cho định mệnh huy hoàng của dòng giống nhân loại chúng ta: chúng ta cũng sẽ được vào Nước Trời cả hồn lẫn xác như Đức Mẹ, nếu chúng ta cố gắng trở nên trọn hảo như Chúa Giêsu dặn.

Chúng ta đã được Đức Giêsu cứu rỗi khỏi sự chết của tôi lỗi, thể xác chúng ta được Đức Giêsu thánh hoá khi Ngài mặc lấy thân xác như chúng ta trong lòng Đức Mẹ.

Đức Giêsu sống lại với thể xác của Ngài như lúc sanh tiền:

“Rồi người bảo ông Tôma: Đăt ngón tay vào đây và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy.Đứng cứng lòng nữa nhưng hãy tin” (Jn 20,27).

“Nhưng Người nói: Sao lai hoảng hốt? Sao lòng anh em còn ngờ vực? Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây? Nói xong Người đưa tay chân cho môn đệ xem” (Lc 24, 38-40).

Và rồi Đức Giêsu lên trời với cả thân xác nhân loại của chúng ta:

“Và đang khi chúc lành thì người rời khỏi các ông và được đem lên trời. Bấy giờ các ông bái lại Người, rồi trở lại Giêrusalem lòng đầy hoan hỷ…” (Lc 24,51-52).

Đức Giêsu lên trời với bản tính nhân loại chúng ta, Đức Mẹ lên trời cả hồn lẫn xác của dòng giống nhân loại chúng ta.Nhờ Đức Giêsu và với sự cộng tác của Mẹ Maria, chúng ta cũng sẽ vào Nước Trời hạnh phúc với Chúa bằng cả con người trọn vẹn của chúng ta: cả hồn lẫn xác.

Thể xác của người Kitô hữu.

Cả nền triết lý, thần học và cách dạy giáo lý cũng như đời sống đạo đức Ki Tô giáo trong quá khứ chịu ảnh hưởng nặng nề của quan niệm triết học hy-lạp, nhất là quan niệm triết học của Platon, cho rằng linh hồn chúng ta bị giam hãm trong thân xác như tù ngục, bị thân xác làm nguyên cớ và cơ hội cho mọi cám dỗ và hư mất.

Từ đó quan niệm đề cao linh hồn và tìm mọi hy sinh, ăn chay đánh tội, sống khổ hạnh, ngược đãi thân xác, kiềm hãm thân xác, bắt thân xác hoàn toàn tuỳ thuộc linh hồn kẻo phải hư mất là những phương thức “sống đạo” trong quá khứ.

Song song với việc kiềm chế, ngược đãi thân xác là quan niệm xem thế giới vật chất và những gì thuộc về vật chất, cả những phương thức tổ chức cuộc sống trần gian, chính trị, kinh tế, xã hội cũng là những đối tượng cần xa lánh hoặc không liên hệ gì với đời sống “đạo đức” và “nguy hại” cho “đời sống đạo đức”. Do đó sống đạo đức, sống cuộc sống Kitô hữu là hy sinh, nhẫn nhục, khổ hạnh chịu đựng những bất công của đời nầy “hầu ngày sau được hưởng phước đời đời”:

“Giám Mục có thể trở thành thức tác viên của niềm hy vọng bằng việc lắng nghe những gì con người ước vọng, bằng việc hướng những hy vọng của họ về Thiên Chúa”.

Đó là lời tuyên bố của một Đấng Bậc công giáo cách đây không lâu trong chiều hướng vừa kể.

Bên cạnh quan niệm sống hy sinh, sống khổ hạnh, ăn chay đánh tội, hành hạ thân xác theo ảnh hưởng triết học của Platon là quan niệm đề cao tột đỉnh thân xác: “Bấp thịt trước đã” (Châm ngôn của một võ đường và luyện thể dục ở Sàigòn thập niên ’50-60). Người ta chăm sóc thân xác từ thể thao, võ thuật đến giải phẩu thẫm mỹ, nhổ lông, cắt móng tay, nâng sống mũi, cắt mỡ bụng, khoét mí mắt, từ đầu đến chân, kem, son phấn và dầu thơm không kể siết. Người ta không ngần ngại khuyến khích phá thai để mua lấy thai nhi làm nguyên liệu biến chế mỹ phẩm, thoa bóp cho da mặt được mịn màng!

Lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời hôm nay, ngoài ra là ngày lễ trọng đại để chúng ta mừng kính Đức Mẹ, cũng là dịp để chúng ta có dịp suy nghĩ đến thân xác chúng ta trong quan niệm Kitô giáo.

Đức Mẹ hồn xác lên trời, linh hồn và cả thân xác chúng ta cũng sẽ lên trời với Mẹ.

Nếu Thiên Chúa dựng nên vũ trụ, và Ngài hài lòng nhìn lại công trình tạo dựng của Ngài:

“…và Thiên Chúa thấy đó là điều tốt đẹp” (Gn 1,9.12.18.21.25), thì thân thể chúng ta, có thể nói là một công trình tạo dựng tuyệt tác. Bởi lẽ không những Ngài tạo dựng nên “tốt đẹp”, Ngài còn thổi hơi thở của Ngài vào cơ thể đó của để chúng ta được sống động:

“Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi đất nặn ra con ngưòi, thổi sinh khí vào lỗ mũi và con người trở nên một sinh vật sống động” (Gn 2,7).

Con người đó, cả thân xác và linh hồn, được Thiên Chúa dựng nên “giống hình ảnh Ngài” (Gn 1,27).

Chính dưới hình thể con người “được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa” đó mà Ngôi Lời Nhập Thể trở thành người như chúng ta.

Mặc lấy thân thể con người như chúng ta, Đức Giêsu muốn dạy chúng ta về giá trị của thân thể mà Thiên Chúa ban cho chúng ta.

Thân thể chúng ta quan trọng trong việc dự phần vào ơn Cứu Chuộc cho chúng ta và cho người khác.

Sứ mạng của Đức Giêsu được Chúa Cha ủy thác và sai đi để rao giảng Nước Trời, tình thương của Thiên Chúa và ơn Cứu Độ. Nhưng trong Nước Trời có con người trọn vẹn, cả hồn lẫn xác. Nên Đức Giêsu đã không ngừng nghỉ làm phép lạ để đáp ứng lại các nhu cầu thân xác của con người, ngoài ra nhu cầu được nghe giảng dạy về Tin Mừng.

Cuộc đời Đức Giêsu là cả cuộc đời biến nước thành rượu (Jn 2,1-12), hóa bánh và cá ra nhiều cho dân chúng được ăn uống no đầy (Mt 14,13-21), chữa trị cho kẻ đui được thấy, kẻ hủi được khỏi, kẻ điếc được nghe, người chết được sống lại, kẻ nghèo được nghe giảng Tin Mừng ( Mt 11, 4-16).

Nếu thân xác chúng ta không có một giá trị nào, thì Đức Giêsu đã không làm bao nhiêu phép lạ để chữa trị, Ngài không mặc lấy thân xác loài người như chúng ta và sẽ không sống lại với thân xác của Ngài bị giết chết trên Thánh Giá.

Nếu thân xác chúng ta không phải là công trình tuyệt hảo được Thiên Chúa dựng nên , thì Đức Giêsu đã không lập bí tích Thánh Thể để nuôi nấng và thánh hóa con người chúng ta, cả hồn lẫn xác (Mt 26,26-29).

Nói rằng thân xác chúng ta chỉ là tù ngục , hư mất, là tạo vật khốn nạn, làm cớ cho chúng ta hư mất, là cách nói không đúng quan niệm Ki Tô giáo.

Đức Giêsu mặc lấy thân xác loài người của chúng ta. Ngài giải thoát thân xác chúng ta khỏi nô lệ của cái chết của tội lỗi, thánh hóa thân xác chúng ta qua công trình cứu độ của Ngài. Người Kitô hữu, cả xác lẫn hồn, được thanh tẩy qua phép rửa, được nuôi dưỡng bằng các phép bí tích, hợp nhất với Đức Giêsu như là phần thân thể của Ngài trên thiên đàng:

“Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Giêsu sao?” (1 Cor 6,15).

Và thân xác được tràn đầy ân phúc của người Ki Tô hữu là đến thờ của Chúa Thánh Thần:

“Hay anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần sao?” (1 Cor 6,19).

Thân xác của chúng ta là phần thân thể của Chúa Giêsu, là đền thờ của Chúa Thánh Thần.

Thân xác đó, một ngày kia sẽ hợp nhất với thân thể Đức Giêsu và cùng sống với Mẹ Maria trên trời.

Như vậy, thân xác chúng ta là một phần con người toàn vẹn của chúng ta trong chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa.

Và mỗi người chúng ta qua phép rửa, chúng ta đã nhận lãnh sứ mạng ủy thác và sai đi của các môn đệ.

Thân xác chúng ta là phương tiện không thể thiếu để chúng ta tiếp xúc và tiếp tục đem tình thương và mang sứ mạng cứu rỗi đến cho anh em.

Muốn thực hiện những điều đó, sự cứu rỗi của chúng ta và của anh em, chúng ta phải biết chăm sóc để có được thân thể khoẻ mạnh:

“Mens sana in corpore sano” (Tâm hồn khỏe mạnh, trong một thân thể tráng kiện), nói như người Latinh.

Việc có được thân thể tráng kiện để tạo được tâm hồn lành mạnh đòi buộc không những cá nhân, mà tổ chức quốc gia, xã hội cũng phải tiên liệu để mọi người có được những điều kiện và hoàn cảnh thích hợp để thực hiện.

Ý thức hệ, chế độ cách hành xử, thói ăn nếp ở ràng buộc, đàn áp các quyền tự do của con người cũng như không cung cấp thỏa đáng cho con người có được những điều kiện vật chất, tinh thần và trí thức để con người có phương tiện phát triển hoàn hảo con người của mình là những ý thức hệ, chế độ , cách hành xử sẽ không thể được người Kitô hữu chấp nhận.

Là những ý thức hệ, chế độ, cách thức hành xử ngược lại với niềm tin Kitô giáo.

Sứ mạng của người Kitô hữu truyền bá Phúc Âm, theo gương Chúa Giêsu, không phải chỉ rao giảng hạn hẹp bằng lời nói, mà bằng cả hành động để tạo điều kiện cho con người toàn vẹn cả xác lẩn hồn được phát triển hoàn hảo con người của mình.

Đức Mẹ hồn xác lên trời, chúng ta và cả anh em chúng ta cũng sẽ lên trời với Mẹ bằng con người trọn vẹn và hoàn hảo của mình, cả thể xác lẫn linh hồn.

 

 

 

 

 

Suy niệm mầu nhiệm Mẹ Lên Trời

 

Đức Trinh Nữ Maria đã lên trời cả hồn lẫn xác. Thời đại chúng ta có vinh dự và niềm vui được nghe công bố chân lý này, qua miệng Đức Giáo Hoàng Piô XII ngày 1-11-1950, với tông hiến “Thiên Chúa vô cùng đại lượng” (Munificentissimus Deus). Nụ hoa tin kính trong dân Chúa từ thế kỷ VI, bày tỏ qua lễ “Đức Mẹ an nghỉ”, đã trở nên đóa hoa tín điều “Đức Mẹ hồn xác lên trời” vào giữa thế kỷ thứ XX.

Vậy là sau khi có một nam nhân thuộc dòng dõi nhân loại, một người anh em đã lên trời với thân xác phục sinh vinh hiển trong tư cách Thiên Chúa, nay chúng ta lại có một phụ nữ từ giữa nhân loại, một người chị em cũng lên trời với xác hồn được gìn giữ nguyên vẹn trong tư cách Mẹ Thiên Chúa.

Vậy là muôn hồng ân quý trọng Trời Cao đã đổ xuống trên một người phàm, cô thiếu nữ Maria làng Nadarét, này đây sinh hoa kết quả cách tuyệt diệu. Hồng ân vạn thuở là chức làm Mẹ Thiên Chúa, hồng ân đầu đời là tình trạng vô nhiễm nguyên tội, hồng ân trọn kiếp là nếp sống đồng trinh, hết thảy đã được Đức Maria đón nhận, phát huy với tất cả tự do và cộng tác của ý chí mình. Những hồng ân đó giờ đây kết nên ân huệ siêu tuyệt, vĩnh viễn là Mẹ được đưa lên thiên cung hồn xác ngay khi xác lìa hồn. “Hỡi con người đầy ân sủng, được biệt đãi, Đức Chúa đã ở cùng bà! Mừng vui lên đi, vì nay bà ở mãi cùng Đức Chúa, được muôn thế hệ mãi ngợi khen là diễm phúc, bởi lẽ Đấng Toàn Năng đã làm cho bà biết bao điều cao cả”.

Quả thế, Đức Maria là công trình sáng tạo lớn lao nhất của Thiên Chúa, là tác phẩm tuyệt mỹ nhất của Người, của bàn tay và trái tim Người. Người đã từng thiếu một bà mẹ, và đã tạo dựng bà mẹ đó, sau khi đã tạo dựng biết bao bà mẹ cho biết bao đứa con trong gia đình nhân loại. Thiên Chúa đã làm nên Mẹ của Người trước khi Mẹ của Người làm nên Người, bởi lẽ Người đã muốn thực sự làm một con người như bất cứ ai trên trần gian trong kế hoạch nhập thể. Thiên Chúa đã dựng nên Mẹ của Người với một linh hồn tuyệt đối trong sạch và đầy ân sủng, với một ý chí kiên trì và trọn vẹn “xin vâng” cho tới giây phút cuối cùng, với một thân xác đồng trinh và tỏa chiếu ánh sáng rực rỡ đến độ trên trần gian, Người đã không hề biết chán khi nhìn ngắm và ca ngợi thân mẫu. Mẹ của Thiên Chúa đẹp đến nỗi, dù bỏ lại những huy hoàng của thiên quốc, Người đã không cảm thấy chán nản và thất vọng khi ở bên thân mẫu. Người đã biết thế nào là được các thiên sứ tay đỡ tay nâng, nhưng Người đã cảm thấy thua xa đôi tay êm ái dịu hiền của thân mẫu. Người đã hiểu rõ sự thần phục của thần thánh trên trời, nhưng Người thấy thái độ lắng nghe, suy nghĩ, tuân hành lời Người vẫn là tuyệt diệu ở nơi thân mẫu. Như Thiên Chúa đã là “Cha” với tất cả ý nghĩa của từ “Cha”, như Ngôi Lời đã là “Con” với tất cả ý nghĩa của từ “Con”, thì Đức Maria đã là “Mẹ” với tất cả ý nghĩa của từ “Mẹ”.

Nhưng từ khi trở về trời, vị Thiên Chúa nhập thể đã thiếu mẹ, và Đức Maria cũng đã thiếu Con. Mẹ Con đã ngóng trông nhau vò võ. Nay thì Con đã gặp lại Mẹ với hồn, với xác, trực tiếp, trọn vẹn. Thiên Chúa không thể làm khác. Có như thế mới hợp lý hợp tình. Đôi tay đã chạm đến Thiên Chúa không thể cứng đờ. Đôi mắt đã chiêm ngưỡng Thiên Chúa không thể khép kín. Đôi môi đã hôn hít Thiên Chúa không thể bất động. Xác thân tinh tuyền đã cho Thiên Chúa một thân xác tốt đẹp không thể hư thối, trộn lẫn vào đất. Người không thể để Mẹ mình chịu số phận cuối đời như bất cứ phàm nhân nào khác. Điều đó chỉ gây khổ tâm cho Người, khó chấp nhận nổi. Vả lại, có gì ngăn cản Người kết hợp với Mẹ trọn vẹn chứ, một bà mẹ suốt đời đã không một giây phút lụy phục ma quỷ cả trên thể xác lẫn trong tâm hồn. Đúng như lời thánh Gioan Đa-mát đã nói: “Đấng đã bảo toàn được nguyên vẹn đức đồng trinh của mình khi sinh con hẳn cũng giữ gìn được cho thân xác mình khỏi mọi hư hoại khi lìa đời. Đấng đã bồng ẵm Tạo Hóa trong tay mình như bồng ẵm một bé thơ phải được cư ngụ trong nhà Thiên Chúa. Đấng được Chúa Cha nhận làm hiền thê hẳn phải được ở trong loan phòng thiên quốc. Đấng đã ngắm nhìn Con mình trên thập giá và chịu lưỡi gươm đau đớn đâm thâu tâm hồn, lưỡi gươm đã tránh được lúc sinh Con, hẳn phải được ngắm nhìn người Con ấy đang ngự bên hữu Chúa Cha. Đấng làm Mẹ Thiên Chúa phải được những gì thuộc về Con mình và phải được mọi thụ tạo tôn kính như Thân Mẫu Thiên Chúa và như Nữ tỳ của Người”. Nếu thân xác của Đức Trinh Nữ Maria không bị hư hoại và được đưa về trời, thì điều đó chẳng những xứng hợp với chức vị Mẹ Thiên Chúa, mà còn xứng hợp với thân xác đồng trinh rất thánh của Ngài nữa. Thân xác đồng trinh của Mẹ hoàn toàn thánh thiện, hoàn toàn thanh khiết và đích thực là nơi Thiên Chúa ngự. Do đó, thân xác ấy không thể tan thành bụi đất. Nhưng vì là thân xác con người, nên phải được biến đổi mới có thể đạt tới cuộc sống tuyệt vời bất hoại. Tuy nhiên, vẫn chính thân xác ấy nay sống động, vinh hiển rạng ngời, toàn vẹn và được thông chia sự sống hoàn hảo.

Vả lại, vị Thiên Chúa nhập thể phục sinh, Con Đức Trinh Nữ, Chủ tể vạn vật, đã làm thế cũng vì anh em nhân loại của Người. Để họ có một bà mẹ trên trời, một bà mẹ thật, một bà mẹ từ nơi họ, đủ cả xác hồn, một bà mẹ mạnh thế, vì cũng là Mẹ của Chúa tể vũ trụ.

Xong rồi, Đức Maria đã ở cùng Thiên Chúa ngay từ giây phút nhắm mắt. Mẹ đã gặp lại Con và Con đã gặp lại Mẹ, xác lẫn hồn. Cả hai bên nhau, muôn đời vĩnh cửu. Đây làm một mầu nhiệm chói ngời vẻ đẹp. Và rốt cục loài người đã biết được điều ấy, đã chính thức công nhận điều ấy. Kể từ thời dân Kitô giáo linh cảm mầu nhiệm tình hiếu tử và nghĩa huynh đệ của Đức Giêsu Ngôi Lời Thiên Chúa, thì việc đánh giá cao, đánh giá đủ các hồng ân của Mẹ Người trong thời đại này làm chính Người vui thỏa.

Giờ đây, nhân loại hãy biết khai thác điều ấy. Trên trời họ có một người mẹ hằng chú mục theo dõi họ, với đôi mắt thịt của bà. Trên trời họ có một người mẹ hằng toàn tâm yêu thương họ, với trái tim thịt của bà. Và người mẹ ấy cũng là Mẹ Thiên Chúa, hằng nhìn Thiên Chúa với cùng đôi mắt, hằng yêu Thiên Chúa với cùng trái tim. Nếu láu cá, nhân loại sẽ lợi dụng điều ấy, vì họ biết rằng Thiên Chúa sẽ không thể từ chối Đức Maria điều gì cả.  Sao có thể từ chối được, đấy là Thân Mẫu của Người mà! Người đã muốn có Mẹ và Người đã chẳng bao giờ phàn nàn hối tiếc chuyện đó. Nhân loại hãy vững lòng cầu xin với Đức Maria vì “Ngài là Mẹ Thiên Chúa để có tất cả, và là mẹ nhân loại để cho tất cả”, như thánh Bênađô đã dạy.

Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con, Cha thật đáng chúc tụng trong các thánh của Cha. Cha đặc biệt đáng chúc tụng trong kẻ đã được Giáo Hội mọi thời xưng là Đấng Toàn Thánh, Đức Trinh Nữ Maria, người phụ nữ đã được Cha cất nhắc lên trời hôm nay. Cha đã cho Mẹ trở thành khởi đầu và hình ảnh của Hội Thánh viên mãn, trở thành niềm an ủi và nỗi hy vọng tràn trề cho dân thánh chúng con trong cuộc lữ hành trần thế. Cha đã không muốn Mẹ chịu cảnh hư nát trong mồ, vì Mẹ đã sinh hạ Con Cha yêu quý, Đấng ban sự sống cho mọi loài sinh linh. Cha đã đặt Mẹ làm Nữ vương sáng ngời rực rỡ bên hữu Con của Cha và Con của Mẹ là Đức Vua bất tử muôn đời. Lạy Cha, chúng con xin cảm tạ Cha muôn vàn, vì thành quả của đời Mẹ cũng sẽ là thành quả của đời chúng con, phần thưởng Cha ban cho Mẹ cũng là phần thưởng Cha hứa dành cho chúng con, hiện tại Mẹ vui hưởng cũng là tương lai chúng con mong chờ. Xin cho chúng con sống thanh luyện dần mỗi ngày, hầu khi đến trước tòa Cha, chẳng còn cản trở nào khiến chúng con không thể kết hợp với Cha vĩnh viễn.

Lạy Đức Trinh Nữ Maria, xin giúp chúng con trở thành thần dân xứng đáng của Chúa Kitô Vua vũ trụ, của Mẹ là Nữ vương trời đất, thần dân của một Vương quốc tình yêu đã được dựng xây ngay tại thế này. Nay được tôn vinh vượt các thần thánh trên trời, xin Mẹ cầu bầu cùng Thiên Chúa cho chúng con, cho toàn thể nhân loại, cho tới khi mọi gia đình các dân tộc đều hân hoan đoàn tụ trong an bình và hòa thuận, hợp thành một dân duy nhất của Thiên Chúa, hầu tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi đến muôn đời. Amen.

 

 

 

 

 

Lễ Đức Mẹ Hồn Xác lên Trời

 

Nói về Maria, viết về Mẹ, muôn đời sẽ không có ngôn từ nào hay chữ nào có thể diễn tả cho hết được những đặc ân và những nhân đức cao quí, tuyệt vời Thiên Chúa đã dành cho Đức Trinh Nữ Maria. Chỉ với đức tin, sống trong lòng tin nhân loại mới nghiệm ra quả thực Mẹ Maria đã có một vai trò đặc biệt và hết sức quan trọng trong lịch sử cứu rỗi nhân loại! Mẹ đã được tuyển chọn giữa muôn người nữ để đón nhận trong cung lòng trinh khiết Con Thiên Chúa làm người. Mừng lễ Đức Mẹ lên trời hôm nay, nhân loại sẽ được chiêm ngắm hình ảnh đẹp nhất của Mẹ Maria, vẹn tuyền, trinh trong đang hưởng phúc bên ngai tòa Thiên Chúa trên nước trời.

LỜI XIN VÂNG CỦA MẸ ĐÃ BIẾN ĐỔI HOÀN TOÀN CON NGƯỜI MẸ:

Mẹ Maria trong giây phút thinh lặng nhưng hoàn toàn bỡ ngỡ, kinh ngạc trước lời truyền tin của sứ thần Gabrien. Đây là giờ của lời hứa mà các tổ phụ và ngôn sứ trông chờ. Mẹ ngạc nhiên, bối rối, lo âu trước một sứ điệp hết sức quan trọng, một tin vui to lớn mà bất cứ người thiếu nữ nào lúc đó cũng muốn có được: “Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng tối cao” (Lc 1,31-32). Lời của sứ thần Thiên Chúa như một tiếng sét làm cho Maria, người nữ tử Sion hết sức run sợ, nhưng sứ thần Gabrien liền trấn an:” Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa” (Lc 1,30). Lời loan báo Tin Mừng này ứng nghiệm lời các ngôn sứ nói trước còn hơn những điều họ dám nghĩ và Thiên Thần cắt nghĩa, lý giải việc đó sẽ được thực hiện, xẩy ra như thế nào: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng tối cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc 1,35). Maria trong biến cố này đã hoàn toàn phó thác và tin tưởng vào Thiên Chúa. Maria với tâm hồn rất đơn sơ, thành thực và tế nhị đã thưa với sứ thần Thiên Chúa: “Việc ấy sẽ xẩy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng” (Lc 1,34). Thiên Thần liền giải thích cho Maria như trên, nên dù mới được cắt nghĩa, mới được Thiên Thần lý giải cùng với trường hợp của bà Isave, người chị họ của Maria đã mang thai 6 tháng, người được coi là son sẻ và dù chưa hiểu các tường tận, nhưng với lòng tin tuyệt vời, Maria đã nhanh nhảu thưa với Thiên Thần: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi theo lời sứ thần nói” (Lc 1,38). Lời thưa xin vâng của Maria đã làm đảo lộn tất cả và ta có thể nói không sai nếu không có lời xin vâng của mẹ Maria với đức tin sắt đá nhân loại mãi mãi vẫn chìm ngập trong tội lỗi, trong đớn đau và trong bóng tối. Chính lời thưa xin vâng trọn vẹn của Mẹ Maria trong lòng tin và tín thác của Mẹ đã làm cho Ngôi Lời thành xác phàm và cư ngụ giữa nhân loại để cứu thoát mọi người khỏi sự dữ: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1,14). Mẹ Maria quả thực đã được Thiên Chúa tuyển chọn giữa con cái loài người để Maria đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa nơi thân xác của Người, mà còn đón nhận ơn cứu độ nơi chính tâm hồn của Người. Mẹ Maria đã là người nữ đầu tiên trong hàng ngũ loài người đón nhận trọn vẹn ơn cứu độ của Thiên Chúa.

TUYÊN XƯNG ĐỨC MARIA HỒN XÁC LÊN TRỜI:

Vì được chọn giữa muôn người trong con cái loài người ở thế gian này, Thiên Chúa đã dành cho Mẹ Maria những đặc ân cao quí nhất mà không người nào trong con cái loài người được đón nhận. Đặc ân vô nhiễm nguyên tội, làm Mẹ Thiên Chúa và hồn xác lên trời là những hồng ân quí giá nhất Thiên Chúa dành cho Mẹ. Tuyên xưng Mẹ Maria hồn xác lên trời là nhìn nhận Mẹ đã hưởng trọn vẹn ơn cứu độ của Thiên Chúa khi Mẹ nắm giữ vai trò quan trọng nhất trong việc Mẹ thực hiện ơn cứu độ của Thiên Chúa trong lịch sử nhân loại. Mẹ Maria thực sự là một con Người trong hàng ngũ con người trong nhân loại đã lắng nghe, đón nhận và thực thi lời Chúa để trở thành con người được cứu độ. Thiên Chúa đã dành cho Maria những đặc ân lớn lao trong đó có ân huệ: “hồn xác lên trời”, với đặc ân này không phải vì Maria đã cưu mang và hạ sinh Con Thiên Chúa, nhưng vì Mẹ đã nghe và thực hiện lời Chúa, nghĩa là trở thành một con người giữa nhân loại được cứu độ trọn vẹn. Như thế, những ân huệ đặc biệt mà Thiên Chúa dành cho Đức Trinh Nữ Maria, cũng là những ân sủng Thiên Chúa dành cho mỗi người chúng ta. Với đặc ân linh hồn và xác lên trời, ta hãy nghe Đức Thánh Cha Piô XII tuyên bố tín điều vô ngộ này: “Chúng Tôi công bố, tuyên xưng và định tín giáo lý đã được Thiên Chúa mạc khải này: Đức Maria trọn đời đồng trinh, Mẹ vô nhiễm của Thiên Chúa, sau khi hoàn tất cuộc đời dương thế, đã được đưa lên trời hiển vinh cả hồn lẫn xác” (Munificentissimus Deus, Đức Giáo Hoàng Piô XII tuyên bố ngày 01 tháng 11 năm 1950).

Lạy Chúa, Chúa đã đoái thương nhìn đến tôi tớ khiêm nhượng của Chúa là Đức Trinh Nữ Maria, và ban ân huệ tuyệt vời là cho Người làm Mẹ của Con Một Chúa nhập thể, và hôm nay còn ân thưởng cho Người vinh phúc vô song. Phần chúng con đã được Chúa thương cứu chuộc, xin Chúa nhận lời Đức Trinh Nữ cầu thay nguyện giúp, cho chúng con cũng được hưởng vinh quang trên trời” (Lời nguyện nhập lễ, lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời).

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

 

 

 

 

 

Kính Đức Mẹ Hồn Xác lên trời.

 

Giữa lòng mùa hè, ngày 15 tháng 8, giáo dân hân hoan chào đón ngày lễ Đức Mẹ Hồn Xác lên trời. Đây là một truyền thống được nhìn nhận như một tín điều.

Các sách Phúc Âm không nói nhiều về Đức Mẹ. Được tạo dựng tinh tuyền và trong trắng cho nên thân xác Đức Mẹ không thể bị hư nát qua sự chết. Theo như truyền thống của Giáo Hội qua nhiều thế kỷ, đã đưa đẩy Giáo Hội xác nhận việc Đức Mẹ Hồn xác lên trời như một tín điều vào năm 1950.

Đức Mẹ Hồn xác lên trời là một xác tín. Sự sống lại của Chúa Giêsu đem lại cho chúng ta nguồn hy vọng sống lại. Noi gương Đức Mẹ, chúng ta nhận được những ân sủng của Thiên Chúa trong cuộc sống, nguồn ân sủng này nâng cao những kẻ thấp hèn và hạ thấp những kẻ cao sang quyền quý.

“Chúng tôi quả quyết, Chúng tôi tuyên xưng và chúng tôi định nghĩa như một tín điều vì đã được Thiên Chúa mặc khải là Đức Vô nhiễm nguyên tội, Mẹ của Thiên Chúa, Đức Nữ Đồng Trinh Maria, sau khi hoàn tất cuộc sống ở trần thế, hồn xác đã được đưa về trời.” Đó là lời của Đức Giáo Hoàng Pius XII đã long trọng tuyên bố vào ngày 1 tháng 11 năm 1950 trong Hiến chế Munificentissimus Deus.

Đây là một biến cố lịch sử bắt nguồn từ truyền thống lâu đời của Giáo Hội Công giáo. Không ai biết rõ ngày giờ cuối cùng của Đức Mẹ ở trần thế như thế nào, chỉ có một đoạn văn ngắn trong một bài viết vào thế kỷ thứ V tả lại cảnh các thánh tông đồ cầu kinh quanh xác Đức Mẹ và hồn xác Đức Mẹ đã được Chúa Giêsu Kitô đến hướng dẫn về trời.

Từ những thế kỷ đầu tiên, người Kitô hữu có cảm tưởng là Đức Mẹ Chúa Trời, được bảo toàn mọi tội lỗi thì không thể nào hư nát qua sự chết. Một ý thức được các Giáo phụ đào sâu nhất là thánh Jean Damascène. Từ thế kỷ thứ VI, lễ này đã được tôn kính trong Giáo Hội Đông phương, sau đó thì được Hoàng đế Maurice ấn định vào ngày 15 tháng 8. Lễ kính được tổ chức tại Roma dưới triều đại Đức Giáo Hoàng Théodore. Việc sùng kính lan tràn khắp Âu châu cho đến năm 813 thì Công đồng Mayence nhìn nhận.

Sau khi Đức Pius IX tuyên bố tín điều về Đức Mẹ Vô nhiễm nguyên tội thi2 việc sùng kính Đức Mẹ trong thế kỷ XIX được phổ biến rộng rãi, nên có nhiều bản thỉnh nguyện được gởi đến Roma xin xác nhận việc Đức Mẹ Hồn Xác lên trời.

Từ năm 1854 đến năm 1945, có đến 8 triệu đơn trong đó có đến 1332 đơn của các Giám Mục (80%), 83,000 đơn của linh mục, và các nam nữ tu sĩ.

Trước những ước nguyện chính đáng, Đức Giáo Hoàng Pius XII trong Tông thư Deiparae Virginis đòi hỏi tất cả các Giám mục bày tỏ ý kiến, hơn 90% các Giám mục đều đồng thuận.

Sau đó có nhiều cuộc rước long trọng và chờ đợi Đức Giáo Hoàng dùng quyền vô ngộ của đấng kế vị thánh Phêrô mà lọng trọng tuyên bố tín điều về Đức Mẹ Hồn Xác lên trời. Trong các lễ long trọng có cuộc lễ rất cảm động do Đức Pius XII chủ trì làm phép đội mũ triều thiên cho bức tượng Đức Nữ Đồng Trinh nơi hang đá Thánh Phêrô tại Roma.

Phó Tế J.B. Huỳnh Mai Trác

 

 

 

 

 

Đức Maria lên trời, niềm hy vọng của chúng ta

 

Hôm nay, toàn thể Giáo hội long trọng mừng Lễ Đức Maria vinh hiển hồn xác về trời. Từ sau tín điều Đức Maria hồn xác lên trời được Đức giáo hoàng Piô XII định tín ngày 1.11.1950, niềm vui mừng và hy vọng hướng về tương lai, hướng về cuộc sống mai sau của tất cả chúng ta lại có thêm cơ sở để tin tưởng và phó thác trong tình yêu Thiên Chúa. Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta khám phá vì sao Đức Maria lại được Thiên Chúa ưu tuyển và ban muôn đặc ân tuyệt vời như thế.

Bước chân vội vã lên đường của Đức Maria đến miền sơn cước Giêrusalem – có lẽ là miền Ain Carim hiện nay, cách Giêrusalem khoảng 6 km về phía tây- thăm người chị họ không chỉ nhằm loan báo mầu nhiệm Nhập thể của Con Thiên Chúa hay chỉ hát lên bài ca cảm tạ tri ân Thiên Chúa (bài ca Magnificat), nhưng đó còn là hình ảnh gợi nhớ điều mà Ngôn sứ Isaia loan báo ngày xưa về Đấng Thiên Sai sẽ đến. Thật vậy, trong bối cảnh thời đại Isaia, lúc Batư tiến đánh Babylon, Ngôn sứ Isaia cũng như nhiều người Dothái lưu đày khác đang ở Babylon. Chính trong hoàn cảnh ấy, ông ước mơ làm sao có thể chạy về Giêrusalem để báo tin rằng Thiên Chúa sắp giải phóng dân Người. Ong đã nhảy lên vui sướng và reo vang: “Đẹp thay trên đồi núi, bước chân người loan báo Tin mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ” (Is 52,7). Như thế, hình ảnh Đức Maria với sự hiện diện của Ngôi Hai Thiên Chúa mà Mẹ đang cưu mang, băng ngàn để loan báo tin vui cũng chính là hình ảnh mà khi xưa Isaia đã loan báo. Hơn thế nữa, đó còn là hình ảnh của Giáo hội “ra khơi” (Duc in altum) mang Chúa đến cho muôn dân.

Nhìn từ bên ngoài, chúng ta chỉ thấy được sự kiện hai bà mẹ gặp nhau, vui vẻ hàn huyên; thế nhưng, thực chất lại là sự gặp gỡ của hai hài nhi. Bằng chứng là với lời chào thăm của Đức Maria, hài nhi Gioan – mà đúng theo nguyên ngữ Hylạp- là đã “nhảy cẫng lên”, “nhảy tung lên” vui sướng. Như thế, hài nhi Gioan ngay từ khi còn trong lòng mẹ đã tiên báo về Đấng Cứu thế – Đấng mà mình sẽ là tiền hô sau này. Có điều chúng ta thấy, điều tiên báo đó không thực hiện bằng lời nói mà bằng ngôn ngữ của thân xác.

Bà Elisabét – qua Thánh Thần- đọc được ý nghĩa mà người con trong lòng bà “nhảy cẫng” lên cũng như ý nghĩa của cuộc gặp gỡ với Mẹ Thiên Chúa, bà đã thốt lên lời tụng ca ca ngợi Mẹ Maria như là người phụ nữ có phúc hơn hết mọi phụ nữ. Chúng ta thấy, lời tụng ca của bà Elisabét trước hết chịu ảnh hưởng của ca vịnh Debora trong Cựu ước. Đây là ca vịnh dùng để tụng ca bà Giaên, vợ ông Kheve người Kêni. Chúng ta biết, khi thủ lãnh Canaan là Xixơra chạy trốn vì thua trận, ông chạy vào lều bà Giaên. Bà đã dùng cọc để đóng vào tai Xixơra giết chết kẻ thù. Nhờ đó, bà được ca ngợi là người phụ nữ trổi vượt hơn muôn ngàn phụ nữ (x. Tl 5,24).

Mười thế kỷ sau, dân Thiên Chúa cũng hát bài ca đó để ca ngợi bà Giuđitha. Đứng trước tình cảnh bi đát mà dân Thiên Chúa sắp phải chịu là trao tất cả dân chúng và thành thánh vào tay quân Atsua, bà Giuđitha – một phụ nữ đạo đức và kính sợ Thiên Chúa- đã sẵn sàng ra đi vào hang ổ của kẻ thù. Với nhan sắc tuyệt mỹ, bà đã lọt vào doanh trại của quân Atsua và sau đó được gặp tướng Atsua là Hôlôphécnê để rồi dùng mưu chặt đầu tướng giặc mang vinh quang cho dân Israel. Bởi đó, Giuđitha cũng được ngợi ca là người phụ nữ được Thiên Chúa chúc phúc hơn mọi người phụ nữ (x. Gđt 8-13)

Như thế, khi bà Elisabét ca ngợi Đức Maria là người “được chúc phúc hơn hết mọi người phụ nữ”, thánh Luca muốn ám chỉ việc Thiên Chúa thực hiện công trình cứu chuộc của Người nơi Mẹ. Nơi Mẹ, không chỉ thay thế bà Giaên, bà Giuđitha mà Mẹ còn vượt xa họ về mọi phương diện, đặc biệt là vì dòng dõi Mẹ sẽ là dòng dõi “đạp nát đầu con rắn” vốn được xem là kẻ thù của dân Thiên Chúa (x. St 3,15).

Việc bà Elisabét được Thánh Thần soi sáng để nhận ra Đức Maria là “thân mẫu Thiên Chúa” không chỉ là nền tảng kinh thánh để đi đến tín điều Mẹ Thiên Chúa (Theolokos) vốn được công đồng Ephêxô tuyên tín vào ngày 22.6.431, mà theo Luca, đó còn là mối liên hệ giữa Đức Maria với Hòm bia Thiên Chúa. Thật vậy, nhìn vào trình thuật Truyền tin và Thăm viếng, chúng ta thấy có một sự tương đồng cách nào đó giữa Mẹ với Hòm bia Giao ước thời Vua Đavít. Nếu như trước kia, Hòm bia Giao ước luôn được đám mây che phủ thì nay Đức Maria được “Thánh Thần rợp bóng” khi cưu mang Con Thiên Chúa; ngày xưa Vua Đavít nhảy mừng khi gặp Hòm bia thì nay, chính Gioan cũng nhảy lên vui sướng khi gặp Mẹ viếng thăm; Hòm bia Giao ước được rước lên Giêsusalem để muôn dân chiêm ngưỡng và thờ lạy thì nay Đức Maria cũng băng rừng vượt suối để lên miền núi Giêrusalem để gia đình Dacaria tán tụng Thiên Chúa; và cuối cùng, ngày xưa, Hòm bia Giáo ước đã ở lại nhà của ông Ôvết Êđôm 3 tháng thì nay, Đức Maria cũng đã ở lại nhà ông Dacaria 3 tháng để phục vụ cho bà Elisabét (x. 2Sm 6,9-11).

Đức Maria là niềm tin và là mẫu gương cho hết mọi người chúng ta. Hành trình đức tin của Mẹ cũng chính là hành trình đức tin của chúng ta. Chúng ta học hỏi nơi Mẹ để có thể trở nên người có niềm tin vững vàng. Qua Mẹ, chúng ta sẽ tìm gặp được Thiên Chúa, sẽ được thấy Chúa Giêsu – người con yêu dấu của Mẹ. Nói như thánh Grignon de Monfort: “Nếu chúng ta kêu đến danh thánh Maria, thì tiếng vọng trả lời chúng ta sẽ là Đức Giêsu”. Thánh Don Bosco còn mạnh bạo hơn khi quả quyết với con cái của người về niềm tin tưởng phó thác trong tình yêu của Mẹ: “Hãy đến với Đức Maria, các con sẽ thấy phép lạ là gì”.

Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb

 

 

 

 

 

Lịch sử và ý nghĩa của tín điều Vô Nhiễm Nguyên Tội

VietCatholic News (23/07/2004)

Phỏng vấn Cha Jesús Castellano Cervera

 

ROMA, 18/7/2004 (Zenit) – Tín điều Vô nhiễm Nguyên tội, được công bố cách đây 150 năm, nay lại tỏ cho thấy tính chất sâu sắc của diễn ngữ “đầy ân sủng”, vị cố vấn của Bộ Giáo lý Đức tin phát biểu.

Cha Jesús Castellano Cervera, dòng Cát-minh đi chân không, một chuyên viên về Thánh mẫu học, suy tư về nguồn gốc và ý nghĩa của tín điều này trong cuộc phỏng vấn với Thông tấn xã Zenit. Tháng tới Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II sẽ hành hương Lộ Đức, nước Pháp, nơi Đức Trinh nữ hiện ra vào năm 1858 và đã xác nhận chân lý về sự thụ thai vô nhiễm nguyên tội của Người.

Hỏi: Lịch sử và ý nghĩa của tín điều này là gì?

Cha Castellano Cervera: Đó là một lịch sử dài và phức tạp, khởi đi từ nhận thức về mầu nhiệm Đức Maria trong mối tương quan ưu tuyển của Người với Thiên Chúa và với mầu nhiệm cứu độ mà Người đã được thông phần ngay từ buổi đầu sự hiện hữu của Người, như là người được đầy ân sủng và tình yêu của Thiên Chúa.

Hỏi: Xin cha giải thích nhận thức đó đã phát triển từ đầu như thế nào?

Cha Castellano Cervera: Nhận thức như thế đã được phát triển trước tiên ở mức độ niềm tin của dân Chúa, hiểu rằng sự thụ thai của Đức Maria như là một thời điểm ân sủng; trước hết khởi đầu với các sách Phúc âm ngoài quy điển kể về hồng ân của cuộc hôn nhân giữa cha mẹ Người là Thánh Gioakim và Thánh Anna. Từ câu chuyện này đã nảy sinh ra lễ Thụ thai Đức Maria trong lòng Bà Anna ở phụng vụ Byzantine, được cử hành từ thế kỷ thứ tám vào ngày 09 tháng 12.

Lễ này được du nhập vào Tây phương khoảng thế kỷ thứ 10, và minh nhiên cử hành lễ Đức Maria được thụ thai không mắc tội tổ tông. Lễ này vào năm 1476 được Đức Giáo hoàng Xít-tô IV ghi vào lịch chung toàn cầu, với một công thức rất đẹp đẽ, nhưng đáng buồn thay sau đó đã bị giáng xuống thành một lễ nhớ thường “Đức Maria được thụ thai” trong Sách Lễ năm 1570.

Lòng đạo đức bình dân và cử hành phụng vụ làm nổ ra một cuộc tranh luận lớn giữa các nhà thần học có những khuynh hướng đối lập nhau. Một bên là các nhà thần học bênh vực sự thụ thai chẳng hề mắc tội tổ tông của Đức Maria, và bên kia là những người từ chối điều đó để khẳng định rằng Đức Maria cũng đã phải hưởng nhờ công ơn cứu chuộc của Chúa Kitô.

Thần học gia Duns Scotus (1266-1308) cho một chìa khóa thần học để hiểu mầu nhiệm này, khi khẳng định rằng Đức Maria đã được gìn giữ khỏi tội nguyên tổ có liên quan với công nghiệp của Chúa Kitô.

Cảm thức của các tín hữu, phụng vụ và thần học, cuối cùng đón nhận minh định của huấn quyền Giáo Hội, sau những hoàn cảnh này khác đã đi đến việc định tín tín điều Thụ thai Vô nhiễm Nguyên tội, được Đức Piô IX công bố vào 08/12/1854, với Tông sắc “Ineffabilis Deus”.

Hỏi: Đâu là những lý do đưa đến việc định tín tín điều này?

Cha Castellano Cervera: Trước hết, có một sự hiểu biết sâu sắc hơn về những sự kiện mặc khải trong Kinh Thánh và trong Truyền Thống của Giáo Hội, nền tảng của mọi định tín, với sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, Đấng dẫn dắt Giáo Hội tiến tới sự thật toàn vẹn.

Một cách đặc biệt, diễn ngữ “đầy ân sủng” đã và đang được tái khám phá trong sự sâu sắc của nó, những lời mà thiên sứ đã ngỏ với Đức Maria lúc truyền tin như là một mặc khải về tình trạng của Người trước Thiên Chúa Ba Ngôi từ lúc bắt đầu hiện hữu, và như là Người đã được Thiên Chúa sắp đặt từ đời đời trong chương trình của Ngài: “Người là Đấng đầy tràn ân sủng Thiên Chúa và luôn luôn như vậy”.

Dưới ánh sáng của từ chủ chốt này, người ta cũng nhìn thấy tất cả thực tại của Đức Maria như là người cộng tác với Đức Kitô trong công trình Cứu chuộc. Đức Trinh nữ, một người được kêu gọi để cộng tác trong sứ mạng làm Mẹ của Đấng Cứu Chuộc, đã không bao giờ, ngay cả trong một giây lát, ở bên ngoài ân sủng của Thiên Chúa trong cuộc chiến thắng của Ngài trên tội lỗi và sự chết.

Tuy nhiên, ngoài phương diện tiêu cực này – sự vắng bóng của tội nguyên tổ – Đức Maria còn được giới thiệu ngay từ giây phút đầu tiên Người hiện hữu như là ái nữ của Chúa Cha, Mẹ của Chúa Con – Đấng Cứu chuộc, nhà tạm của Chúa Thánh Thần, Đấng Toàn Thánh, được Chúa Thánh Thần hoạch định và tạo thành một tạo vật mới, được Thiên Chúa rất mực sủng ái.

Đấy là tất cả nhận thức trọn vẹn của tín điều này, như đã được diễn tả rõ ràng trong hiến chế “Lumen Gentium” và trong kinh Tiền tụng đẹp đẽ hiện nay của lễ trọng Vô Nhiễm Nguyên Tội, ca ngợi Người là Mẹ của Con Chiên tinh tuyền, là khởi nguyên và là hình ảnh của Giáo Hội, Hiền Thê không một vết nhăn, không một bợn nhơ.

Như thế, rõ ràng Đức Maria là một ngoại lệ của tội nguyên tổ, và ở nơi Người nguyên vẹn kế hoạch từ đầu của Thiên Chúa và là vận mạng tương lai của Giáo Hội, một Giáo Hội được mời gọi để mãi mãi trở nên “thánh thiện và vô tì tích trong tình yêu”.

Như Max Thurian (đồng sáng lập viên Taizé, chú thích người dịch) đã quả quyết, sự thụ thai vô nhiễm có nghĩa là nơi Đức Maria mọi sự đều là ân sủng ngay từ đầu và Người là bằng chứng rằng mọi sự bắt nguồn từ Thiên Chúa. Và rằng Đức Maria đáp trả lại ân sủng của Thiên Chúa với sự tự do tuyệt đối của một tình yêu không nhiễm vương tội lỗi.

Hỏi: Đức Thánh Cha sẽ du hành đến Lộ Đức. Đâu là ý nghĩa của chuyến đi này?

Cha Castellano Cervera: Lộ Đức là nơi Đức Maria, trong cuộc hiện ra với Bernadette vào năm 1858, đã xác nhận chân lý về ơn vô nhiễm nguyên tội của Người mà đã được Huấn quyền công bố. Từ buổi đầu, Lộ Đức đã trở thành nơi cuốn hút quần chúng, được bao bọc bởi một sự hiện diện đặc biệt của mầu nhiệm và tình mẫu tử thiêng liêng của Đức Maria Vô Nhiễm như là phương thuốc cứu chữa bệnh tật thân xác và linh hồn.

Đấy là một nơi chữa bệnh theo ý nghĩa đẹp nhất của từ này, đó là nơi Đức Maria tiếp tục thực thi sự che chở của Người và chức năng từ mẫu đặc trưng của Mẹ vì lợi ích của các người em của Chúa Kitô, đang đau yếu thân xác và tinh thần, bởi vì tội lỗi dẫn đưa vào thế giới này bệnh tật và sự chết, yếu đau thể lý và luân lý.

Bằng sự hiện diện của mình, Đức Giáo hoàng nhấn mạnh những khía cạnh trên; ngài đến cử hành lễ mừng 150 năm định tín tín điều Vô Nhiễm Nguyên Tội tại nơi mà điều xác quyết đặc biệt đã được chính Đức Trinh nữ Maria chấp thuận, và như một người hành hương, ngài mang trong con người ngài yếu đuối của thế giới này và khẩn nài sự hiện diện thiêng liêng của Đức Maria chữa lành những thương tích của xã hội chúng ta, một xã hội đang cần Tin mừng của niềm hy vọng.

Hỏi: Đức Maria là sự biểu lộ lòng từ ái của Thiên Chúa đối với nhân loại. Chẳng phải vì lý do này mà Người đã hiện ra ở Lộ Đức sao? Và Người có tiếp tục làm Trạng sư của chúng ta không?

Cha Castellano Cervera: Sự hiện diện từ mẫu của Đức Maria luôn đồng hành với đời sống của Giáo Hội và của mỗi một tín hữu; và quan trọng hơn nữa, mỗi một người đã được Chúa Kitô trao phó cho Mẹ Người bên Thánh giá.

Tuy nhiên, sự hiện diện này trong những hoàn cảnh đặc biệt trở nên một “cuộc hiển linh” – một sự biểu lộ long trọng và hữu hình – trong trường hợp này chứng tỏ rằng sự Thụ thai Vô nhiễm là một mầu nhiệm đức tin và cứu độ, một sự biểu lộ tình yêu của Thiên Chúa chiến thắng tội lỗi và sự chết, và là một dấu chỉ hy vọng cho mọi người.

Biết bao người đến Lộ Đức đã kinh nghiệm được chữa lành những bệnh tật của thân xác và tinh thần, phần đông những hiện tượng “thần khí – bệnh lý học” (pneuma-pathologies) này của loài người chúng ta, là những bằng chứng của sự hiện diện đặc biệt của Đức Maria, Người kêu gọi ăn năn thống hối và sống một đời sống mới, nguồn mạch của sự hòa giải với Thiên Chúa và với anh em.

Đức Maria, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần, là Trạng sư của chúng ta, như chúng ta khẩn cầu Người trong kinh “Salve Regina” (Lạy Nữ Vương) “Bà là Chúa Bàu chúng con”, Người vẫn luôn là người cầu nguyện cho cho chúng ta, là người che chở chúng ta khỏi sự dữ và Quỷ Dữ, nhưng Người cũng gợi hứng chúng ta và khích lệ chúng ta sống trong Chúa Kitô.

Lm. Gheg. Văn Ngọc Anh

 

 

 

 

 

Mẹ Maria, Con Người Tuyệt Diệu

 

Với muôn vàn tước hiệu, Giáo Hội dành cho Đức Mẹ, thiết tưởng danh hiệu nào cũng giá trị, cao quí và trong sáng. Mẹ Ma-ri-a, tên nghe dịu dàng, êm nhẹ. Nói về Mẹ, viết về Mẹ, người Ki-tô hữu hay nói cách thân mật, gần gũi hơn: con của Mẹ sẽ không thể nào diễn tả nổi về người Mẹ quá tuyệt vời của mình. Mỗi người sống nơi dương thế đều có Mẹ, có Cha. Tuy nhiên, Mẹ Ma-ri-a là Mẹ Chúa Giê-su và là Mẹ của mỗi người chúng ta lại cao cả hơn biết bao người Mẹ trần gian, người Mẹ xác thịt. Mẹ quá cao cả, quá diệu kỳ: ngôn ngữ và ngòi viết của con người không thể nào diễn tả nổi.

Người Kinh chúng ta gọi Ma-ri-a là Mẹ, người Dân Tộc Kơho gọi Mẹ của mình cách rất thân thương: “Mời”, “Me” (Mẹ). Họ gọi Cha là “Bàp”. Cái ngôn ngữ xem ra dân dã, núi rừng ấy lại nói lên rất nhiều điều. Ma-ri-a được Thiên Chúa thương tuyển chọn làm Mẹ của Chúa Giê-su và Mẹ của nhân loại, Mẹ của mỗi người. Mẹ đã được đặc ân vô nhiễm nguyên tội, ơn trinh thai và hồn xác lên Trời. Đứng trước hồng ân vô cùng cao quý ấy, con người chúng ta suy nghĩ và cảm nhận được những gì? Riêng anh chị em Dân Tộc cảm nghiệm như thế nào về đặc ân hồn xác lên Trời của Mẹ Ma-ri-a?

 

 

 

 

 

MẸ MA-RI-A, CON NGƯỜI TUYỆT VỜI

 

Được sinh ra trong một mái ấm, có Mẹ có Cha, con người dù muốn dù không vẫn vô cùng hạnh phúc. Do đó, thật bất hạnh khi người nào đó sớm mất Mẹ, mất Cha. Chúa Giê-su khi tới trần gian, Ngài không đi một con đường nào khác, con đường bất thường, kỳ dị, Ngài đã chọn có Mẹ, có Cha. Đọc lại Giáo Lý và Kinh Thánh, nhân loại sẽ không khỏi ngạc nhiên về sự diệu kỳ của Thiên Chúa. Đường của Thiên Chúa vô cùng nhiệm lạ: nhân loại phản bội, Thiên Chúa vẫn yêu thương con người hết sức thẳm sâu, vì không bỏ rơi con người, Thiên Chúa đã sai Con của Người đến thế gian trong cung lòng Đức Trinh Nữ Ma-ri-a bởi quyền nặng Chúa Thánh Thần. Như thế, con đường của Thiên Chúa sai Con của Người đến thế giới là con đường hết sức bình thường, hết sức hòa đồng với nhân loại. Mẹ Ma-ri-a đã đản sinh Chúa Giê-su nơi hang đá Bê-lem. Ma-ri-a quả thực là con người tuyệt vời. Mẹ không những đẹp tâm hồn mà còn đẹp cả thể xác. Thiên Chúa đã tuyển chọn Mẹ giữa muôn vàn người nữ. Ma-ri-a đã được Thiên Chúa yêu thương, tuyển lựa từ muôn thuở.

Chính vì thế, Thiên Chúa đã dành cho Mẹ Ma-ri-a những đặc ân vô cùng cao quý mà không một người nữ nào trên trần gian đã có được. Đặc ân làm Mẹ Thiên Chúa và đã làm Mẹ Thiên Chúa, Ma-ri-a phải có những điều kiện, những đức tính, những ân huệ mà bất cứ người nào trên trần gian cũng không có thể có được. Ma-ri-a đã được ơn trong trắng, vô tì tích, không tội lỗi ngay trong lòng bà Thánh An-na. Thiên Chúa đã bao bọc Người, đã làm cho đời của Mẹ, đã làm cho con người của Mẹ hoàn toàn trinh trong. Với lời xin vâng nhận làm Mẹ Chúa Giê-su theo ý Thiên Chúa, Mẹ Ma-ri-a đã làm đẹp lòng Ngài và do đó, Thiên Chúa đã dành cho Mẹ mọi đặc ân quí giá. Ơn hồn xác về Trời là ân huệ vô cùng lớn lao Thiên Chúa đã dành và thưởng công cho Đức Mẹ. Mẹ Ma-ri-a thật là người nữ tuyệt diệu, một người nữ hoàn toàn đẹp lòng Thiên Chúa. Mẹ đã về Trời cả hồn lẫn xác để sống luôn bên cạnh Chúa. Ơn ấy quả thực đã làm cho mọi Ki-tô hữu đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác. Do đó, con của Mẹ ở khắp nơi chỉ có thể cùng với Mẹ ca ngợi, tôn vinh, cảm tạ Thiên Chúa: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn” (Lc 1,49).

Anh chị em Dân Tộc khi biết Chúa, khi đã theo Chúa và đã nhận lãnh Bí Tích Thánh Tẩy, họ biết Thiên Chúa, gọi Ngài là “Bàp Yàng”. Và vì sống theo chế độ mẫu hệ, người Dân Tộc rất yêu mến, tôn kính các người mẹ: biết Mẹ Ma-ri-a là Mẹ sinh ra Chúa Giê-su, người Kơho rất sùng kính Mẹ Ma-ri-a, họ gọi Mẹ Ma-ri-a là “Me Marie” (Có lẽ phát xuất từ tiếng Pháp “Mère Marie” do các cha Thừa Sai người Pháp đến truyền giáo ở vùng này trước đây chăng?) hay “Mời Yàng Giê-su” (Mẹ của Chúa Giê-su). Người Kơho luôn dành cho Mời Yàng Giê-su những tâm tình rất đặc biệt, họ kêu tên Mẹ Ma-ri-a trong mọi biến cố vui, buồn của cuộc đời, họ lần chuỗi Mai Khôi (răc nòng Me Ma-ri-a) và kiếm hoa dại, hoa rừng cung tiến Đức Mẹ trong nhà, nơi Nhà Thờ, Nhà Nguyện.

ƠN HỒN XÁC LÊN TRỜI CỦA MẸ GIÚP CON NGƯỜI HIỂU MẸ VÀ YÊU MẾN MẸ MA-RI-A NHIỀU HƠN:

Mẹ Ma-ri-a luôn hiểu biết giới hạn của kiếp sống con người mình. Mẹ đã tin tưởng và hoàn toàn phó thác vào Thiên Chúa. Mẹ là người nữ đầu tiên, là E-và mới đã vựợt qua ranh giới của sự chết, ranh giới của kiếp người phù du để trở thành trường sinh bất tử.

Chính khi chấp nhận lời xin vâng làm Mẹ Thiên Chúa, Ma-ri-a đã hoàn toàn phó thác con người mình vào bàn tay yêu thương của Thiên Chúa. Mẹ Ma-ri-a đã hoàn toàn đi vào chương trình yêu thương của Thiên Chúa, đã hết lòng bám chặt vào Thiên Chúa, nhờ đó, Mẹ Ma-ri-a đã được cất nhắc cả hồn lẫn xác về Trời vì Mẹ tín thác vào Thiên Chúa, Đấng mà Người tin có thể làm được mọi sự. Càng hiểu Mẹ, nhân loại và mọi người càng yêu mến Mẹ và tôn vinh Mẹ. Bởi vì, Mẹ Ma-ri-a luôn là ánh sáng dẫn đường cho nhân loại để con người nhận ra ánh sáng mà tiến tới.

Tôi còn nhớ rất rõ, một hôm vào buổi sáng, tôi ghé vào nhà một người Dân Tộc Kơho, trên bàn thờ đặt ở nóc tủ, tôi thấy có tượng chịu nạn, tượng Thánh Giu-se và một ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp. Tôi hỏi chủ nhà, người Kơho có yêu mến Mẹ Ma-ri-a không? Chủ nhà là một người Dân Tộc có thế giá, có trình độ, ông trả lời tôi: ”Thưa cha, người Dân Tộc chúng con mến người nữ lắm vì chúng con theo mẫu hệ. Người Mẹ luôn ở gần con cái. Mẹ ẵm bồng và đeo con trên lưng. Do đó, đối với chúng con, Mẹ Ma-ri-a là người chúng con tôn kính, mến yêu”.

Sau đó, tôi ngồi dùng nước với ông và cùng gia đình ông cầu nguyện trước bàn thờ. Tôi làm dấu Thánh Giá và đọc ba Kinh Kính Mừng. Còn ông sau đó đã cất to lời cầu nguyện: ”Lạy Chúa là Cha chúng con, Chúa đã sai con Chúa là Đức Giê-su Ki-tô xuống trần gian để sống với, sống cho, sống vì chúng con. Chúa Giê-su đã có một người Mẹ là Ma-ri-a và người Cha là Thánh Giu-se. Mẹ Ma-ri-a yêu thương Chúa Giê-su và cũng yêu thương chúng con. Chúng con gọi Mẹ Ma-ri-a là Me Marie, là Mời Yàng Giê-su. Xin Me Marie đeo từng người chúng con trên lưng như ”mời” của chúng con đã từng đeo chúng con trên lưng của ”mời” lúc chúng con còn nhỏ. Amen”.

Lời cầu nguyện tự phát thật đơn sơ, nhưng đầy tình người, Mẹ Ma-ri-a đã yêu thương Chúa Giê-su, chắc chắn Mẹ cũng yêu thương từng người chúng con. Người Kơho đã cảm nghiệm tình thương dạt dào của Mẹ Ma-ri-a. Vì thế, họ tỏ lòng rất tôn kính đối với Mẹ Ma-ri-a như mẹ ruột sinh ra họ. Người Kơho và người tín hữu Việt Nam có lòng sùng kính Đức Trinh Nữ Ma-ri-a một cách sâu xa. Mẹ được Thiên Chúa đưa cả hồn lẫn xác về Trời. Đặc ân ấy cũng đang mời gọi mỗi người chúng con sẵn sàng đón nhận.

Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã đưa lên trời cả hồn xác Đức Ma-ri-a là trinh nữ vô nhiễm và là thánh mẫu của Con Chúa. Xin cho chúng con hằng biết hướng lòng về phúc lộc Quê Trời để mai sau được cùng thánh mẫu chung hưởng vinh quang (Lời nguyện nhập lễ, Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời).

Lm. NGUYỄN HƯNG LỢI, DCCT, Giáo Điểm Fyan

 

 

 

 

 

Thập Giá, Con Đường Đưa Tới Vinh Quang

 

Hôm nay, hiệp cùng toàn thể Giáo Hội, cộng đoàn chúng ta họp nhau nơi đây, mừng kính trọng thể lễ Mẹ Ma-ri-a được đặc ân về trời cả hồn lẫn xác. Đây là đặc ân có một không hai mà Thiên Chúa đã ban cho Mẹ Ma-ri-a. Được lên Trời cả hồn và xác, được vào hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trong Nước Thiên Chúa cũng là ước mơ của tất cả mỗi người chúng ta, những người con của Mẹ Ma-ri-a.

Muốn được như Mẹ, chắc chắn chúng ta phải đi theo con đường mà Mẹ đã đi. Và con đường đó chính là con đường thập giá mà Đức Giê-su, Con của Mẹ đã đi, vì đây là con đường duy nhất như lời Ngài đã khẳng định: “Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, không ai có thể đến với Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6).

Vì thế, mừng Lễ Mẹ cũng là lúc chúng ta chiêm ngắm lại con đường thập giá của Đức Ki-tô, một con đường xem ra thất bại trước mắt người đời, nhưng lại là con đường đưa tới sự sống bất diệt và sung mãn cho tất cả những ai tin như lời Thánh Phao-lô trong bài đọc hai: “Đức Ki-tô đã từ cõi chết sống lại, là hoa quả đầu mùa của những kẻ yên giấc” (1 Cr 15,20; x. 1 Cr 1,18.23–25).

Con đường thập giá của Đức Ki-tô, không gì khác hơn là con đường của lòng tin tưởng, vâng phục và khiêm hạ trong tâm tình của người con đối với Cha. Thánh Phao-lô đã viết trong thư gởi cộng đoàn Phi-líp như sau: “Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.” (Pl 2,8).

Thế đó, vì yêu mến, Đức Giê-su đã vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá. Với việc vâng phục này, Đức Giê-su đã thể hiện sự bỏ mình và sự khiêm hạ thẳm sâu khi “không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế.” (Pl 2,6–7). Chính nhờ đó mà Ngài đã được Chúa Cha tôn vinh để “khi vừa nghe Danh Thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: Đức Giê-su Ki-tô là Chúa.” (Pl 2,10–11).

Như thế, khi đi trọn con đường thập giá và từ cõi chết sống lại, Đức Kitô đã trở nên “hoa quả đầu mùa của những kẻ yên giấc” (1 Cr 15, 20). Từ đây, sự chết không còn làm chủ được Ngài nữa, vì kẻ thù cuối cùng sẽ bị Ngài tiêu diệt chính là sự chết (x. 1 Cr 15,26). Đồng thời, với sự phục sinh của mình, Đức Ki-tô đã ban sự sống mới cho tất cả những ai tin vào Ngài, những kẻ đã cùng chết với Ngài, như lời Thánh Phao-lô: “Hoa quả đầu mùa là Đức Ki-tô, đoạn đến những kẻ thuộc về Đức Ki-tô, những kẻ đã tin Người xuống thế” (1 Cr 15,23).

Và ai xứng đáng gọi là “thuộc về Đức Ki-tô” nếu không phải là Mẹ Ma-ri-a, người đã cưu mang và sinh ra Chúa Giê-su về phần xác, và cũng đã theo Đức Kitô trọn vẹn cho đến tận chân thập giá? Do đó, Mẹ Ma-ri-a chính là người đầu tiên được hưởng cách sung mãn Ơn Cứu Độ của Chúa Giêsu, vì Mẹ đã hoàn toàn thuộc về Chúa ngay khi còn sống ở đời này.

Thật vậy, suốt cuộc đời của mình, Mẹ Ma-ri-a đã không làm gì theo ý riêng mình, Mẹ đã hoàn toàn sống phó thác, tin tưởng vào Thiên Chúa và đó chính là mối phúc của Mẹ, như lời khen ngợi của bà Ê-li-sa-bét đối với Mẹ: “Phúc cho bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng bà sẽ được thực hiện” (Lc 1,45). Điều đó cho thấy, Mẹ Ma-ri-a đã mở đầu cuộc hành trình theo chân Con Mẹ để về quê Trời bằng đức tin của mình. Một Đức Tin thật sự và chân thành. Một Đức Tin mạnh mẽ không nghi ngờ. Mẹ tin, cho dù trước mắt Mẹ vẫn còn đó những trở ngại chưa được giải quyết.

Đó là Đức Tin của lời thưa “Xin vâng” ngày sứ thần truyền tin. Chính lời “xin vâng” này đã thể hiện một sự tín thác sâu xa của Mẹ nơi tình yêu của Thiên Chúa. Chính niềm tin đó đã thúc đẩy Mẹ vội vã đến với bà Elisabeth, người được Chúa cho thụ thai trong lúc tuổi già. Và Mẹ vẫn tiếp tục tin cho dù trước mắt Mẹ không còn gì để tin khi nhìn thấy Con Mẹ bị treo trên thập giá.

Theo bước chân Con yêu dấu của mình, Mẹ Ma-ri-a cũng đã sống đời khiêm nhường thẳm sâu. Một sự khiêm nhường thật sự chứ không phải chỉ trên môi miệng với những lời “không dám đâu!”

Tin Mừng thuật lại, khi được bà Ê-li-sa-bét khen ngợi: “Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ”, Mẹ Ma-ri-a đã không từ chối, nhưng còn cất lên bài ca Magnificat để ca ngợi Thiên Chúa. Mẹ nhận mình là “phận hèn, tớ nữ của Thiên Chúa”, nhưng cũng đồng thời xác định: “Từ nay muôn thế hệ sẽ khen rằng tôi có phước”. Như thế, sự khiêm nhường thật sự chính là nhận ra những hồng ân Chúa ban cho mình và sống xứng đáng với những hồng ân đó.

Tuy nhiên, trong thân phận của một con người, hành trình đức tin của Mẹ Ma-ri-a cũng không thiếu những đắng cay, chua xót. Đó là nỗi đắng cay của một người vợ khi bị chồng hiểu lầm; là nỗi xót xa như đứt từng khúc ruột khi người con yêu dấu bị người ta hành hạ vu oan và giết chết trên thập giá. Hay nói theo cách nói của sách Khải Huyền, đó là nỗi đau của người phụ nữ “đang mang thai, kêu la chuyển bụng và đau đớn sinh con” (Kh 12,2).

Nhưng cũng giống như Con Mẹ đã được Thiên Chúa tôn vinh sau khi chấm dứt cuộc đời trần thế với cuộc Phục Sinh vinh hiển, Mẹ Ma-ri-a sau khi kết thúc cuộc sống trần thế này, cũng đã được Thiên Chúa ban thưởng xứng đáng như lời Đức Pi-ô 12 trong Tông Hiến “Munificentissimus Deus” (Thiên Chúa rất rộng lượng) đề ngày 1.11.1950 đã nói: “Đức Ma-ri-a Vô Nhiễm, Mẹ Thiên Chúa, trọn đời đồng trinh, sau khi chấm dứt dòng đời dưới thế, đã được cất về vinh quang trên Trời cả hồn lẫn xác”. Mẹ đã nhận được vinh quang xứng đáng như lời mô tả của sách Khải Huyền: “Một người nữ mặc áo mặt trời, chân đạp mặt trăng, đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao” (Kh 12, 1).

Họp nhau mừng Lễ Mẹ hôm nay, mỗi người chúng ta hãy noi gương Mẹ, hãy sống Đức Tin như Mẹ đã sống. Một niềm tin thật sự vào Thiên Chúa và được thể hiện cách cụ thể trong cuộc sống phó thác và bác ái hàng ngày. Niềm tin đó không hệ tại ở việc tổ chức một buổi lễ thật rầm rộ với những cuộc rước tưng bừng và ăn uống linh đình, nhưng là một tấm lòng nội tâm ở bên trong. Chúng ta hãy đến với Mẹ, học nơi Mẹ đời sống gắn bó mật thiết với Chúa qua các biến cố vui buồn hàng ngày trong cuộc sống, và sẵn sàng đón nhận thập giá mà Chúa gởi đến cho từng người chúng ta với tâm tình yêu mến.

Cùng với Mẹ, chúng ta hãy đến với Chúa để được kết hợp với Chúa, được tâm sự với Chúa, hay đơn giản hơn chỉ là để “nhìn ngắm Chúa và để Chúa nhìn mình” trong tâm tình của một người con trong vòng tay yêu thương của cha mẹ. Chúng ta hãy đến với Chúa vì tình yêu của chính chúng ta đối với Chúa chứ không phải vì để được người khác khen là đạo đức.

Giờ đây, ý thức thân phận yếu đuối, mỏng dòn, mỗi người chúng ta hãy cầm lòng, cầm trí và dọn lòng thật sốt sắng để được rước Chúa vào lòng. Nhờ đó, chúng ta đủ sức đáp lại lời mời gọi của Đức Giê-su: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo Thầy”. (Mt 16,24). Ngõ hầu, vào ngày sau hết tất cả chúng ta cùng được đoàn tụ với Mẹ trên quê Trời.

Lm. TRẦN THANH SƠN, Giáo Phận Xuân Lộc

 

 

 

 

 

Lễ Đức Mẹ Lên Trời

 

Đã từ lâu Hội thánh vẫn tin và mừng lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời. Vấn đề Đức Mẹ hồn xác lên trời còn bỏ ngỏ cho các nhà thần học tranh luận vì Kinh thánh không nói rõ về vấn đề này.  Tin hay không tin, tùy mỗi người, nhưng từ ngày 1.11.1950 Đức Giáo hoàng Piô XII tuyên bố thành tín điều thì không còn tranh luận nữa. Mọi người đều phải tin và hôm nay chúng ta hợp cùng toàn thể Giáo hội long trọng mừng lễ Đức Mẹ linh hồn và xác lên trời:

Nữ vương đến tuổi đầy ơn phúc

Thánh Tử Thiên thần đều xuống rước

Hồn xác lên trời rất tốt lành

Hưởng muôn muôn phúc ai hay được.

(Vãn Mân côi)

I. CHUNG QUANH VIỆC ĐỨC MẸ LÊN TRỜI.

Tại Giêrusalem ngày nay, bên sườn núi cây dầu, có một ngôi mộ, được lồng vào bên trong một ngôi Thánh đường.  Đó là ngôi mộ của Đức Mẹ.

Nhưng ngôi mộ ấy không có xác.

Thánh Gioan Damascenô, trong bài giảng về Lễ Đức Mẹ linh hồn và xác lên trời năm xưa tại Giêrusalem có kể rằng: Năm 451 nhân dịp giáo chủ Juvenal, tổng giám mục thành Giêrusalem, đến viếng thăm thủ đô Constantinople, thì hoàng đế Marcien, trong cuộc triều yết, có nói với giáo chủ: “Ta nghe rằng tại Giêrusalem có ngôi thánh đường lớn nhất của Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, nằm gần vườn Giệtsêmani, trong đó có ngôi mộ táng xác của Đức Mẹ. Vậy ta muốn rằng xác thánh ấy được đem về thủ đô, để Ngài phù hộ cho đế quốc”.

Giáo chủ Juvenal trả lời: “Thật chúng tôi có ngôi mộ của Đức Mẹ, nhưng ngôi mộ ấy trống không từ đời các thánh Tông đồ”.

Ngôi mộ ấy trống không, vì Đức Mẹ sau khi qua đời đã được Chúa rước linh hồn và xác lên trời. Đó là lễ mà chúng ta long trọng mừng ngày hôm nay.

Lm.Hồng Phúc.

Suy niệm Lời Chúa, năm A, tr 167)

Các sách Phúc âm không nói gì đến việc Đức Mẹ lên trời, Hội thánh dựa theo Thánh truyền và lòng sùng kính của giáo dân qua bao thế kỷ mà xác tín về điều đó.  Theo Thánh truyền, sau khi Chúa Giêsu về trời, Đức Mẹ còn ở lại yên ủi và giúp đỡ các Tông đồ. Sau lễ Hiện xuống, tuy đã chia tay nhau đến các nơi giảng đạo, song các Tông đồ cũng thường có liên lạc với Đức Mẹ, và Đức Mẹ chia vui sẻ buồn với các ông, nhất là hằng cầu nguyện cho.

Lúc Đức Mẹ lên 64 tuổi (có người cho là 72 tuổi), Đức Mẹ được Chúa cho biết ngày hội ngộ với Con trên thiên đàng đã gần đến, thì  Ngài đã cho thánh Gioan biết và nhắn cho các Tông đồ trở về. Nhận được tin, các Tông đồ vội vàng trở về Giêrusalem, và được gặp Đức Mẹ trước khi thở hơi cuối cùng, duy chỉ có ông Tôma chậm chạp không về kịp.

Tắt hơi đoạn, phòng để xác Đức Mẹ liền sáng và có mùi thơm tho lạ. Sau ba ngày kính viếng, các Tông đồ và bổn đạo Giêrusalem tẩm liệm và đưa táng trong một phần mộ khoét trong đá ở trong vườn Cây dầu.

Ông Tôma về muộn, muốn xem mặt Đức Mẹ lần cuối cùng, nể ông, các Tông đồ và giáo hữu đi ra phần mộ. Đến nơi, chỉ ngửi thấy phảng phất mùi hoa huệ thơm tho. Và khi mở hòn đá che huyệt ra thì không thấy xác Đức Mẹ đâu cả.

Giáo hội tin rằng Đức Mẹ đã được Thiên Chúa rước về Thiên đàng cả hồn cả xác.  Nên từ thế kỷ thứ 6 Giáo hội đã mừng lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời ngày 15 thánh 8 hàng năm và còn giữ mãi đến ngày nay. Trong suốt 20 thế kỷ, vấn đề Đức Mẹ hồn xác lên trời đã bỏ ngỏ cho các nhà thần học tranh luận.  Đến ngày 1.11.1950 Đức Giáo hoàng Piô XII với tông huấn Munificentissimus Deus mới định tín việc Đức Mẹ hồn xác lên trời: “Sau khi hoàn tất cuộc đời dương thế, Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa, vô nhiễm và trọn đời đồng trinh, đã được đưa lên  hưởng vinh quang Thiên đàng cả hồn lẫn xác”.

II. MỘT HỒNG ÂN CAO QÚI TUYỆT VỜI.

Được lên trời là một hồng ân Chúa ban cho chúng ta vì ta không có quyền đòi hỏi.  Được lên trời cả hồn cả xác như Đức Maria thì cả là một hồng ân vô tiền khoáng hậu.  Là loài người, chúng ta làm gì thường cũng có đủ lý do, phương chi là Thiên Chúa. Chúng ta chỉ có thể tìm hiểu để suy nghĩ về lý do  mà Chúa ban cho Đức Mẹ được hồng ân cao qúi tuyệt vời này, nhưng không bao giờ chúng ta có thể hiểu thấu được lý do hành động của Chúa. Chúng ta chỉ có thể nói rằng Chúa ban cho ai là do lòng thương xót của Chúa.

Trong kinh “Ngợi khen” Đức Maria đã nói lên tâm tình đó: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, vì Chúa đã đoái nhìn phận hèn tớ nữ… vì Đấng toàn năng đã làm cho tôi những điều trọng đại”.

 Theo Đức Giáo hoàng Piô XII, một số các thánh và các nhà thần học cho rằng nguyên do chính của việc Đức Mẹ được  đặc ân hồn xác lên trời là do thiên chức làm Mẹ Thiên Chúa và Đức đồng trinh trọn đời của Mẹ. Mẹ được lãnh nhận những hồng ân  thật trọng đại từ nơi Chúa, nhưng Mẹ không ngừng ở đó. Mẹ đã dùng cả cuộc đời dương thế của Mẹ sống sao cho phù hợp với những đặc ân Mẹ được lãnh nhận.

Theo Thánh Kinh ai cũng phải công nhận rằng: Đức Mẹ đã sinh ra Chúa Giêsu là Chúa Cứu thế (Lc 2,6.11) Chúa Cứu thế là chính Con Thiên Chúa và cũng là chính Thiên Chúa (Lc 1,35). Vậy để chọn Đức Maria làm Mẹ sinh ra mình, Thiên Chúa đã phải làm một phép lạ cho đến nay phải kể là duy nhất, là làm cho Đức Mẹ thụ thai sinh Con mà còn đồng trinh, thì tại sao Thiên Chúa lại không đưa linh hồn và xác Đức Mẹ  lên trời để một đàng xứng hợp với tình mẫu tử, đàng khác thưởng công cho Đấng đã sinh ra mình, mà đều răn thứ 4 chính Thiên Chúa đã ban hành là phải thảo kính cha mẹ (Đnl 5,16; Mt 19,19).

Thánh Gioan Damascenô hạch hỏi một mình:”Đức Mẹ đồng trinh không vướng vít chút chi bụi trần dưới đất, cớ sao lại trả Người về đất”?  Thánh nhân còn quả quyết: “Đức Mẹ chẳng chết như người thế gian, nhưng đã chết vì áp lực tình yêu – chết để về gặp gỡ Con cực thánh Người đang mong đợi”. Vậy nếu Đức Mẹ không lên trời, thì cuộc mong đợi ấy còn có nghĩa lý gì? (Lm Nguyễn Duy Tôn,  Phụ trương Lời Chúa, t 1, tr 59-60)

Ngoài ra Đức Maria còn có nhiều nhân đức khác làm cho Thiên Chúa được vui lòng:

1. Nhân đức Khiêm nhường:

Mẹ Maria luôn coi mình là con người nhỏ bé trước mặt Chúa, không dám nhận những đặc ân của Thiên Chúa ban. Khi sứ thần báo tin cho biết  là Thiên Chúa muốn chọn Mẹ làm Mẹ Đấng Cứu thế, Mẹ đã từ chối không dám nhận. Nhưng sau khi hiểu biết được thánh ý của Thiên Chúa thì Mẹ đã thưa: “Này tôi là tớ nữ của Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền”.  Tuy biết mình đã là Mẹ Đức Giêsu, Mẹ Thiên Chúa, một chức vị lớn lao tuyệt vời, mà Ngài luôn kín đáo, không hé mở cho ai biết điều đó để cho mình được đón rước, cung phụng, chiều chuộng, kính nể… mà cứ âm thầm và đành để cho mình và Chúa Giêsu phải thiếu thốn, khinh dể, bị gạt ra ngoài.

2. Tin tưởng phó thác cho Chúa.

Ngài còn là người biết tin tưởng phó thác cho Chúa một cách trọn vẹn.  Một cô gái đẹp chưa về nhà chồng mà đã có bầu, tự nhiên người chồng tương lai phát chán, và tụi thanh niên làm sao chẳng chế nhạo và có thể bị ném đá nữa.  Song Đức Mẹ chẳng nói ra, cũng không làm gì để ngăn ngừa sự dữ và tiếng tăm, cứ bình tĩnh, thản nhiên, phó thác mọi sự cho Chúa. Ở trong hoàn cảnh thế này mới biết Đức Mẹ nhân đức dường nào.

3. Hiền lành nhịn nhục.

Ngài cũng rất hiền lành và nhịn nhục. Khi Chúa Giêsu Con Mẹ bị người ta khinh bỉ,  hành hạ, Ngài không có nói gì hay là có thái độ nào như trách móc người thành Bêlem không cho trọ, chửi vua Hêrôđê toan giết Con, trách móc và nguyền rủa bọn quân dữ đánh đòn, đội mũ gai và đóng đinh Chúa.  Chắc chắn Ngài đau buồn khôn xiết kể, nhưng không có một cử chỉ nào nóng nảy, giận dữ hay nói năng quá lời như người ta bình thương.

 Bài đọc 1 trong thánh lễ hôm nay, thánh Gioan tông đồ đã nhìn thấy cảnh huy hoàng của một phụ nữ mặc áo mặt trời, chân đạp mặt trăng, trên đầu có 12 ngôi sao sáng. Người phụ nữ ấy là ai? Theo các thánh Giáo phụ và lòng tin của Giáo hội, người đó chính là Đức Maria được Chúa đưa về trời.

Thánh Phaolô trong bài đọc 2 lại nói lên cho chúng ta môt lý do nữa: Chúa Giêsu đã từ cõi chết sống lại là hoa quả đầu mùa. Đức Mẹ là người đầu tiên và xứng đáng nhất để được ơn cứu rỗi, thì Đức Mẹ cũng là người đầu tiên được hưởng sự vinh quang sống lại ấy.

III. ƯỚC MƠ CỦA CHÚNG TA.

Con người có khuynh hướng luôn vươn lên, vươn lên mãi, vươn tới chân, thiện, mỹ vì con người chưa bao giờ được thỏa mãn với những ước vọng đó

Trước đây văn sĩ Jules Verne đã tưởng tượng ra những chiếc tầu bay trong vũ trụ đến những hành tinh xa lạ, làm cho trẻ con thích thú vô cùng. Với khoa học tân tiến ngày nay, những cảnh tưởng tượng như xa thực tế của Jules Verne đã được thực hiện.  Ngày 20.07.1969 phi thuyền Apollo 11 với phi hành gia Neil Armstrong, Edwin Aldrin và Michael Collins đã đặt chân lên mặt trăng. Một bước nhảy vọt trong chương trình thám hiểm vũ trụ.

Sau chuyến bay lịch sử ấy, nhiều người đã nghĩ đến việc có những cuộc du hành thường xuyên lên mặt trăng. Nhưng dịch vụ du ngoạn nguyệt cầu đến nay vẫn chưa được thực hiện. Việc bỏ ra một món tiền lớn để được đặt chân lên một vệ tinh không có sự sống và dưỡng khí rồi trở về địa cầu với ít đất đá vô hồn xem ra không đáng làm.

 Nếu sau này người ta có thể thực hiện được những chuyền du ngoạn nguyệt cầu thường xuyên đi nữa, con người vẫn chưa được thỏa mãn hoàn toàn.  Vì mặt trăng hay bất cứ thiên thể nào trong thế giới vật chất này vẫn không phải là quê thật và chung cục của loài người. Chỉ có Thiên đàng hay Quê Trời mới là nơi  mà mọi khát vọng và trống vắng của lòng người mới được thỏa mãn hoàn toàn.

 Khát vọng của con người là muốn vươn lên tới Chân Thiện Mỹ tuyệt đối, hay nói theo kiểu chúng ta là Hạnh phúc Thiên đàng.  Nhưng có Thiên đàng thật không và ước mơ thiên đàng là chân thực  hay chỉ là ước mơ hão huyền? Thưa, việc Đức Mẹ được Thiên Chúa đưa lên trời cả hồn xác mà Giáo hội long trọng mừng vào ngày 15 tháng 8 hàng năm đã nói lên một cách hùng hồn rằng ước mơ lên trời, ước mơ thiên đàng, là ước mơ chính Thiên Chúa đã gieo vào nơi thâm sâu nhất của lòng người. Ước mơ đó đã được thực hiện cách trọn vẹn nơi Đức Maria và cũng sẽ được thực hiện nơi mỗi người chúng ta trong ngày chung thẩm, khi thân xác chúng ta  được Chúa cho sống lại như thân xác vinh hiển của Chúa Giêsu phục sinh.

Chúng ta chỉ biết là có Thiên đàng, nơi quê hương vĩnh phúc của chúng ta: “Tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau” (Kinh Tin kính), nhưng chúng ta không biết hạnh phúc thiên đàng thế nào, đến ngay việc thánh Phaolô đã được nâng đến tầng trời thứ chín mà cũng không có thể tả được.

Không như nguyệt cầu là nơi vắng bóng sự sống, Quê Trời là nơi đong đầy sự sống và tình yêu. Mẹ Maria được “lên trời” không có nghĩa là Mẹ được Chúa cất ra cho khỏi trái đất này để đem đến một khoảng không gian xa xôi  nào đó trong vũ trụ vật thể này. Vì nếu việc Đức Mẹ lên trời được hiểu như thế thì việc lên trời của Đức Mẹ chẳng đáng ta ước mong, như lời của một bài tình ca nào đó:

Lên trời hai đứa hai nơi

Thôi em chỉ muốn làm người trần gian.

Có người hiểu thiên đàng hoàn toàn theo nghĩa vật chất, họ sẵn sàng ôm bom tự sát để rồi được lên thiên đàng, vì theo họ, thiên đàng là nơi có nhà cao cửca rộng, có vợ đẹp con khôn, có nhiều mỹ nữ kiều diễm và có đủ mọi thứ làm cho mình được sung sướng. Nhưng chúng ta phải có cái nhìn cao hơn: đặc ân Đức Mẹ được “lên trời” có nghĩa là Mẹ đã được Thiên Chúa cho tham dự vào chính sự sống của Chúa Ba Ngôi cách trọn vẹn, cả hồn cả xác.  Mẹ được Thiên Chúa đưa ra khỏi thế gian tự nhiên hữu hạn này để đi vào thế giới siêu nhiên vô hạn, thế giới thần linh của chính Chúa. Trong thế giới đó Mẹ được hiệp nhất với Chúa Ba Ngôi và tất cả tạo vật đẹp lòng Chúa trong Tình yêu và Hạnh phúc viên mãn của chính Chúa.

(Viết theo LM Phạm quốc Hưng)

Mẹ chúng ta đã được Thiên Chúa đưa về trời cả hồn cả xác, đó là niềm hy vọng của chúng ta. Nếu ngày xưa Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Thầy đi dọn chỗ cho các con và sẽ trở lại đón nhận các con, để Thầy ở đâu các con cũng ở đó với Thầy” (Ga 14,2). Đó là lời Chúa phán với các môn đệ khi Ngài về trời, thì nay cũng là lời Đức Mẹ hứa với mỗi người chúng ta khi Ngài về trời.

Muốn được về trời cùng Mẹ, chúng ta cũng phải học đòi bắt chước Mẹ mà sống một đời lành thánh, trong sạch xác hồn để sau này cũng có cái chết tốt đẹm như Ngài.  Ta có thể ví đời người như một câu văn mà cái chết là dấu chấm hết tròn đầy:

Có cái chết như một dấu phẩy (‘) tức tưởi không trọn vẹn.

Có cái chết như một dấu chấm than (!) buồn hiu hắt.

Có cái chết như một dấu chấm hỏi (?) băn khoăn ray rứt.

Có cái chết như dấu 3 chấm (…) còn bỏ ngỏ.

Và có cái chết như dấu chấm tròn (.) thật đầy đủ, trọn vẹn, tuyệt mỹ.

Cái chết của Đức Mẹ chính là dấu chấm tròn. Còn cái chết của chúng ta sẽ là gì?

(Lm Carôlô, Lễ trọng và lễ đặc biệt, tr  89)

 KẾT LUẬN

Hôm nay chúng ta họp nhau mừng lễ để cảm tạ Chúa vì đã cho Mẹ chúng ta được hồn xác về trời, một hồng ân lớn lao chưa từng có và sẽ không bao giờ có. Đức Mẹ linh hồn và xác lên trời là một niềm hân hoan, một nguồn hy vọng cho chúng ta. Mẹ lên trời, một ngày kia chúng ta cũng về trời. Chúng ta phải ăn ở làm sao để một ngày kia cũng được như Mẹ. Mẹ ở đâu, con ở đó, Mẹ nơi nào, con ở nơi ấy. Cuộc sống trần gian phải là con đường  đưa con người chúng ta về Thiên đàng.

Vì thế, trên ngôi mộ của Đức Mẹ ở Giêrusalem ngày nay du khách còn đọc được mấy dòng thi văn do một văn sĩ và điêu khắc thời Trung cổ để lại như sau:

Đây là thung lũng Josaphat,

Nơi con đường về Thiên cung xuất phát

Maria trong sạch được chôn cất nơi đây,

Nhưng cũng từ đây được đưa về trời.

Mẹ là nguồn hy vọng kẻ tù đầy,

Là đường hướng dẫn kẻ lòng ngay,

Là Ánh sáng, là Mẹ chúng con. Amen.

Ngày nay Đức Mẹ lên trời,

Ngày mai đến lượt mỗi người chúng ta.

 Lm Giuse Đinh lập Liễm

Giáo xứ Kim phát

Đà lạt

9-8-2005

 

 

 

 

 

Lễ Đức Mẹ Lên Trời Niềm Hy Vọng Của Chúng Ta

Lm. Giuse Đinh Lập Liễm

 

Hôm nay chúng ta hân hoan  mừng lễ Đức Trinh nữ Maria hồn xác lên trời.  Chúng ta chúc tụng những: 15/8-48

Hôm nay chúng ta hân hoan  mừng lễ Đức Trinh nữ Maria hồn xác lên trời.  Chúng ta chúc tụng những kỳ công mà Thiên Chúa đã thực hiện nơi Mẹ: ngay từ giây phút đầu tiên, Mẹ đã ấp ủ giữ gìn, không vương chút tội truyền, xứng đáng với danh hiệu Mẹ Thiên Chúa. Và khi cuộc sống ở trần gian này chấm dứt, Mẹ đã được đem về trời cả hồn lẫn xác để hưởng vinh quang bất diệt.

Truyện: Cuộc rước đặc biệt

Trong một vài thành phố nhỏ chung quang Roma, vào ngày lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời, người ta có một tục lệ rất dễ thương.  Dân làng kiệu tượng Đức Mẹ theo đường phố chính, tượng trưng việc Đức Mẹ Maria đang trên đường về trời.  Từ hướng đối diện cũng trên đường phố chính đó, một đoàn rước kiệu khác kiệu tượng Chúa Giêsu đang tiến đến gặp Đức Mẹ.

Hai đoàn rước được tính toán sẽ gặp nhau dưới một khung vòm đầy cành lá và hoa tươi rực rỡ.  Hai bức tượng cúi chào nhau 3 lần, rồi người ta kiệu hai bức tượng đi song song vào nhà thờ cử hành Thánh lễ, giống như Chúa Giêsu đang đón Đức Mẹ vào thiên quốc.

Nghi thức đơn giản, ngây thơ, dễ thương nhưng nó diễn tả một cách ấn tượng sâu sắc chân lý cao cả và vinh quang mà Giáo hội cử hành hôm nay: mừng kính Đức Maria được Chúa đưa lên trời cả hồn cả xác.

I. MỘT ĐẶC ÂN VÔ TIỀN KHOÁNG HẬU

1. Thánh Kinh nói gì về đặc ân này?

Dĩ nhiên, Thánh Kinh không minh nhiên nói về việc Đức Mẹ lên trời cả hồn xác, nhưng cũng nói một cách mặc nhiên.  Chúng ta thấy ngay ở đầu lịch sử nhân loại: sau khi tổ tông phạm tội, Thiên Chúa đã nguyền rủa con rắn và nói tiên tri: “Ta sẽ đặt mối thù giữa mày và người nữ, Người Nữ sẽ đạp giập đầu mày”(St 3,15).

Người Nữ ấy là ai nếu không phải là Mẹ Đấng Cứu Thế, cộng tác trong việc cải tạo loài người, cũng như Evà cộng tác cùng Adong phá hoại nhân loại. Hợp với Ngôi Hai bao giờ Mẹ cũng thắng ma quỉ, không chịu hàng phục chúng trong một giây phút… Nếu Chúa Cứu Thế đã chịu chết, sống lại và lên trời hồn xác thì lẽ gì Mẹ lại không được sống lại và lên trời hồn xác như Chúa Cứu Thế? Cho nên hồn xác Mẹ phải được lên trời như Chúa thì mới hợp lý!

Chúng ta có một trích đoạn trong sách Diễm ca: “Kìa bà nào xuất hiện như rạng đông, diễm kiều như vầng nguyệt, lộng lẫy tựa thái dương, oai hùng như đạo binh chỉnh tề hàng ngũ” (Dc 6,10).

Hoặc một đoạn khác trong sách Khải huyền:”Có một điềm lớn xuất hiện trên trời: một Phụ nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp vầng trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao” (Kh 12,1).Người phụ nữ ấy là ai?  Giáo hội tin rằng đó là Đức Maria, sau khi qua đời, Chúa cho lên trời cả hồn lẫn xác.

2. Thánh Truyền nói gì về đặc ân ấy ?

Thánh truyền là những điều thật sự đã xẩy ra, nhưng không ghi chép vào sách, mà chỉ truyền khẩu  qua đời nọ sang đời kia.

Theo Thánh truyền thì Đức Mẹ đã được lễ thượng thọ , đến 72 tuổi hoặc 80 tuổi, và Ngài đã chết vì già hơn là vì bệnh. Các thánh Giáo phụ còn nói Ngài chết vì áp lực tình yêu, nghĩa là vì Ngài yêu mến Chúa Giêsu và Chúa Giêsu yêu mến Ngài hết sức nên Ngài ngất đi để về với con Ngài.

Cũng theo Thánh truyền thì sau khi Đức Mẹ tắt thở, các Tông đồ được tin đã tề tựu  về Giêrusalem cả, trừ ông Tôma về muộn.

Vì về trễ nên ông Tôma xin các Tông đồ mở quan tài ra để ông được nhìn thấy mặt Đức Mẹ lần sau cùng.  Nhưng lạ thay, khi mở quan tài ra, thì chỉ thấy khăn liệm với mùi thơm lan tỏa ngạt ngào, đồng thời còn nghe tiếng các thiên thần hát vang trên không trung, nên các ông đều tin Đức Mẹ đã lên trời cả hồn cả xác.

Và từ đấy tin đồn đó đã lan tràn ra khắp nơi, nên từ thế kỷ thứ VI Giáo hội đã mừng lễ Mông triệu vào ngày 15 tháng 8 và còn giữ mãi đến ngày nay.

3. Giáo hội nói gì về đặc ân ấy?

Suốt  20 thế kỷ, vấn đề Đức Mẹ hồn xác lên trời còn bỏ ngỏ để các nhà thần học nghiên cứu và tranh luận. Cũng có nhà thần học đưa ra các lý lẽ để bác bỏ việc Đức Mẹ lên trời cả hồn xác.

Trong suốt thời gian đó, có nhiều thỉnh nguyện thư từ khắp nơi trên thế giới gửi về Roma xin Đức Giáo hoàng tuyên bố tin điều Đức Mẹ được Chúa cho cả hồn lẫn xác lên trời.

Sau khi đã hỏi ý kiến tất cả các Giám mục trên thế giới và hầu hết các vị đó đều đồng thuận, nên ngày 01/11/1950, Đức Giáo hoàng Piô XII đã long trọng tuyên bố tín điều Đức Maria hồn xác lên trời tại quảng trường thánh Phêrô ở Roma trước toàn thể Hồng y, Giám mục, linh mục, giáodân… Ngài nói: “Để danh Chúa được cả  sáng và thành kính tôn vinh Đức Mẹ đầy ơn phúc.  Ta dùng quyền Thiên Chúa ban, quyền hai vị Tông đồ Phêrô và Phaolô, quyền riêng trong chức vụ Giáo hoàng mà công bố phán quyết: Đức Maria hồn xác lên trời là một tín điều”. Từ đó trong kinh cầu Đức Bà có thêm câu:Nữ vương linh hồn và xác lên trời, cầu cho chúng con.

Đó là tín điều đã được Đức Giáo hoàng Piô XII long trọng công bố.  Giáo hội chỉ nhằm tới điều chính yếu: Đức Maria được vinh quang với cả con người toàn diện. Giáo hội không muốn nói tới những điều phụ thuộc  như Đức Maria lên trời bằng cách nào, nhưng chỉ muốn nói đến Đức Maria là con người đầu tiên được hưởng ơn cứu độ trọn vẹn mà Đức Giêsu đem đến cho nhân loại.

II. NIỀM HY VỌNG CỦA CHÚNG TA.

Lý do Đức Mẹ được vinh quang ấy.

Theo suy tư thần học, tín điều Đức Mẹ lên trời cả hồn xác dựa trên nên tảng Kitô học. Theo đó,  chúng ta nhìn Đức Mẹ trong tương quan với Đức Kitô. Những đặc ân của Mẹ là kết quả cụ thể của ơn cứu độ mà Đức Kitô mang đến cho Mẹ và nhân loại như được nói đến trong bài đọc 2.  Mẹ được vinh hiển là nhờ công nghiệp của Chúa Kitô, Con của Mẹ. Việc Đức trinh Nữ được lên trời hồn xác là sự thông phần cá biệt vào cuộc phục sinh của Con Mẹ, và tiên báo cuộc phục sinh của các tín hữu (GLCG số 966). Chính Chúa Giêsu đã sống lại và lên trời cả hồn cả xác. Mẹ cũng được Chúa Giêsu ban tặng cho khỏi hư nát.

Đức Maria đã gắn bó cuộc sống mình với Đấng Cứu Thế bằng mối dây liên kết chặt chẽ, không thể chia lìa được.  Liên kết khi Đấng Cứu Thế xuống trần, khi giảng dạy, khi chịu nạn chịu chết, sống lại… và hôm nay Đức Mẹ lên trời cả hồn cả xác với Chúa Giêsu trong vinh quang hạnh phúc.

Ngoài ra, Mẹ Maria là Đấng vô nhiễm nguyên tội, là Đấng trọn đời đồng trinh, lẽ nào lại chẳng được gìn giữ khỏi hư nát trong ngày lìa thế. Mẹ đã cung cấp chất liệu cho thân xác Ngôi Hai xuống thế làm người, thì khi Ngôi Hai được tôn vinh lại nỡ để thân mẫu mình bị chôn vùi vì hư hoại sao?  Mẹ đã cộng tác với Con của Mẹ  để cứu chuộc loài người, nên Mẹ phải là người  được hưởng ơn cứu chuộc  trước bất cứ ai.

Nói cách khác, Mẹ thuộc trọn về Chúa Kitô, nên Mẹ cũng chia sẻ trọn vẹn vinh quang trong thành quả ơn cứu độ: “Mọi người đều phải chết với Adong thế nào thì mọi người  cũng sẽ được tái sinh như vậy. Nhưng ai nấy theo thứ tự mình. Hoa quả đầu mùa là Đức Kitô, đoạn đến những kẻ thuộc về Chúa Kitô”, mà Đức Mẹ là người thuộc về Đức Kitô trọn vẹn nhất, nên Mẹ phải là người đầu tiên trong thứ tự loài người sẽ được phục sinh.

Mẹ Maria được cao sang vượt trên mọi thần thánh là vì Ngài là Mẹ Thiên Chúa.  Chúng ta có thể suy ra rằng Thiên Chúa ban cho Mẹ được quyền cao chức trọng như vậy theo nguyên tắc thần học: “operatio sequitur esse”: việc làm tùy theo ở người làm.  Người làm càng có uy tín thì việc làm càng có giá trị. Ví dụ: Kiệu Minh Thánh cho ngươi đau yếu, người có đạo quỳ xuống thờ lạy, song không được nói đến và ghi nhớ, nhưng khi vua Giuse nước Áo gặp kiệu Minh thánh, xuống ngựa, quỳ xuống thờ lạy, thì người ta chỉ trỏ, rồi cạy lấy hòn gạch trên phố, nơi vua vừa quì, đem về làm vật kỷ niệm, đoạn làm cái bia có chữ: “Nơi này vua Giuse quỳ gối, khi gặp linh mục kiệu Minh thánh cho bệnh nhân”.

Các thánh cũng làm, Đức Mẹ cũng làm, song việc của Đức Mẹ có giá trị riêng, đặc biệt hơn tất cả những việc giống như vậy, song do địa vị khác: operatio sequitur esse.

Ngày nay trong kinh cầu Đức Bà, Hội thánh đã tung hô thêm một tước vị mới:”Nữ vương hồn xác lên trời, cầu cho chúng con”:

Chúa Cả Ba Ngôi thưởng Nữ vương

Ngự trên thần thánh nước thiên đường.

Ban quyền xem sóc loài người thế

Làm Mẹ cầu bầu để Chúa thương.

(Vãn Mân Côi)

Lễ Đức Mẹ lên trời liên quan chặt chẽ đến chúng ta. Những gì Thiên Chúa đã thực hiện nơi Mẹ, thì Ngài cũng sẽ thực hiện cho mọi người chúng ta. Bởi vì, Mẹ lên trời là hình ảnh và khởi thủy của Giáo hội về ơn cứu chuộc của Thiên Chúa cho mọi người chúng ta.  Mẹ chiếu sáng như dấu chỉ lòng trông cậy vững vàng và niềm an ủi cho dân Chúa đang lữ hành (L.G số 69). Tất cả chúng ta rồi cũng sẽ được Thiên Chúa cứu độ như Mẹ trong ngày sau hết. Nếu chúng ta yêu mến Mẹ, noi gương Mẹ, sống nhờ Mẹ và cho Mẹ

2. Noi gương Đức Mẹ.

Đức Mẹ lên trời là nguồn hy vọng của chúng ta. Mẹ lên trời không phải để xa cách, nhưng hơn bao giờ hết, trong hạnh phúc tuyệt vời, Mẹ trở nên gần gũi với mọi thành viên trong gia đình nhân loại. Nhìn vào Mẹ, chúng ta nhận ra vận  mệnh đời sống của mình. Tương lai không còn là điều đáng lo lắng, nhưng phải trở nên điều quan tâm xây dựng.  Mẹ như người đi trước cho chúng ta theo sau. Mẹ bước vào vinh quang thiên quốc, chúng ta cũng sẽ được bước vào nếu như cuộc sống này trở thành những ngày chuẩn bị

Đức Mẹ đã làm gì để có thể được tôn vinh như vậy ?  Thưa, Mẹ đã cộng tác với công trình cứu chuộc của Chúa.  Mẹ đã  miệt mài loan báo tình thương của Ngài.

Thánh Luca kể với chúng ta về một cuộc “lên đường” của Mẹ. Mẹ lên đường sau khi nhận lãnh sứ điệp từ trời. Mẹ lên đường cách vội vã để kể lại cho gia đình người chị họ là bà Elizabeth biết những điều kỳ diệu Thiên Chúa đã thực hiện nơi Mẹ. Có thể nói, suốt cuộc đời của Mẹ là một cuộc “lên đường”, luôn sẵn sàng và chu đáo, không so đo tính toán.

Bài ca tôn vinh  mà Mẹ cảm hứng cất lên tại nhà bà Elizabeth chính là điều Mẹ vẫn tâm niệm. Mẹ đã hòa cuộc đời mình vào niềm mong đợi của Israel.  Mẹ đã cùng với cả dân tộc vui mừng trước biến cố Ngôi Lời nhập thể. Đây không còn là một biến cố dành riêng cho Mẹ, nhưng dành cho cả nhân loại, vì ơn cứu độ của Thiên Chúa được gửi đến cho mọi người và mọi tạo vật.

Chính từ thái độ sẵn sàng lên đường của Đức Mẹ, mà hôm nay, Thiên Chúa đã dùng quyền năng của Ngài mà mời Mẹ tham dự một cuộc “lên đường” khác: Mẹ tiến vào thiên quốc trong tiếng reo vui của các thiên thần, cùng với cả nhân loại tung hô, với cả vũ trụ làm đồ trang sức.

Tuy vậy, cuộc đời của Mẹ không phải lúc nào cũng được êm ả an bình.  Hình ảnh người Phụ nữ trong sách Khải huyền bị Con Mãng xà đe dọa và khủng bố  cho ta thấy một Đức Maria phải đối diện với những thử thách, nhưng Mẹ luôn kiên vững và phó thác, ngay cả giờ phút thương đau dưới chân thập giá. Vâng, đó cũng là hình ảnh  cuộc đời mỗi người tín hữu chúng ta, cần phải noi gương Mẹ mà vươn lên mỗi ngày để trung tín với Chúa trong ơn gọi nên thánh.

3. Hãy hân hoan mừng lễ Mẹ.

Chúng ta là con cái Mẹ Maria, tại sao chúng ta không vui mừng khi Mẹ mình được một hồng phúc lớn lao như vậy !  Chỉ có những đứa con bất hiếu mới không vui mừng khi thấy Mẹ mình được vinh phúc như thế.

Hằng năm đến ngày rằm tháng bảy âm lịch, các chùa đều tổ chức lễ Vu Lan để các Phật tử đến cúng dường, cầu nguyện cho các vong linh được siêu sanh tịnh độ,  và cầu cho cha mẹ có được đời sống an lành phước lộc.  Đại Lễ Va Lan là dịp các Phật tử nhớ ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ.  Trong ngày này, nhớ ơn mẹ, ở Nhật có tục lệ cài hoa hồng trên áo. Người nào còn mẹ được cài lên áo hoa hồng đỏ, người nào không còn mẹ thì cài hoa hồng trắng. Một vị thiền sư Việt nam đi du học ở Nhật thấy tập quán này hay và có ý nghĩa, nên du nhập tập quán này vào Việt nam.  Bài hát quen thuộc và phong trào “Bông hồng cài áo” được Phật tử hưởng ứng và phổ biến rộng rãi từ đó.

Hôm nay,  không có ai trong chúng ta phải cài hoa hồng trắng vì Chúa đã ban cho chúng ta một người Mẹ, một người Mẹ tuyệt vời vượt trên mọi thần thánh trên trời, là Mẹ của Thiên Chúa và là Mẹ của chúng ta, hằng luôn săn sóc đến mọi người chúng ta.

Mẹ của chúng ta rất có thần thế nơi Thiên Chúa, Ngài có thể cầu bầu cho chúng ta trước mặt Chúa một cách hữu hiệu như thánh Bênađô nói: “Xưa nay chưa có ai đến kêu cầu cùng Mẹ mà không được nhận lời”. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta hãy chạy đến cùng Mẹ Maria để được cứu giúp.

Truyện: Tướng Coriolan và người mẹ

Sau khi cứu được thành Roma, Coriolan lại bị đồng hương trục xuất khỏi thành và bị lưu đầy. Quá tức giận, ông sang đầu thú với phe địch và đem quân về vây thành Roma, quyết tâm trả thù bằng cách giết sạch mọi người và san bình địa.

Chính lúc đó, mẹ ông cùng với nhiều mệnh phụ quỳ gối dưới chân ông khẩn cầu ông tha cho thành Roma.  Không thể cưỡng lại được những giọt nước mắt của người mẹ thân yêu, ông đã xiêu lòng và nói với bà:”Mẹ đã tước hết võ khí của con rồi. Mẹ đã thắng con và thành Roma đã được tha”.

Nếu một lời van xin của một bà mẹ trần gian trước đứa con hung ác mà còn có hiệu quả như vậy thì huống chi  là lời cầu khẩn của Mẹ trên trời trước Người Con yêu quí vô cùng nhân từ của mình là Chúa Giêsu Kitô sẽ còn mạnh thế hơn biết bao.

Lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời hôm nay đem lại cho chúng ta  niềm vui và hy vọng. Bởi lẽ, Đức Mẹ là thành phần nhân loại. Mẹ là một con người, mang nơi mình một thân xác như chúng ta, sống giữa cuộc đời trần thế như chúng ta, mà Mẹ đã được thưởng công và tôn vinh. Nếu chúng ta cố gắng sống như Mẹ, yêu mến và vâng phục như Mẹ, chúng ta cũng sẽ được về trời để cùng Mẹ, với các thánh và toàn thể tạo vật tôn vinh Thiên Chúa đền muôn đời. Hãy vui lên, hãy vui lên mà ca hát rằng:

Ngày nay Đức Mẹ lên trời

Ngày mai đến lượt mỗi người chúng ta.

 

 

 

 

 

Lễ Đức Mẹ lên trời – Vầng trăng tuyệt vời

 

Mẹ Maria được đưa về trời là khuôn mẫu cho niềm hy vọng.

Ngày 1-11-1950, đúng vào dịp lễ Các Thánh Nam Nữ, Đức Thánh Cha Piô XII long trọng tuyên bố tín điều Đức Maria Hồn Xác Lên Trời: “Thánh Mẫu Thiên Chúa là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội, Đức Maria Trọn Đời Đồng Trinh, sau khi sống trọn cuộc đời trần thế, đã được triệu hồi cả hồn và xác vào trong vinh quang thiên quốc”. Kể từ lời tuyên bố trong thánh lễ tuyên tín long trọng hôm ấy, mầu nhiệm Đức Maria được Thiên Chúa đưa về trời cả hồn và xác, trở thành chân lý đức tin cho toàn thể Giáo hội.

Chỉ trong một lời tuyên tín ngắn gọn và quan trọng để tuyên bố một tín điều, Đức Thánh Cha Piô XII đã liệt kê cùng lúc đầy đủ bốn đặc ân vô cùng cao cả, ngoài Đức Maria không ai có được. Đó cũng là bốn chân lý tuyệt đối của lòng tin thuộc về đời sống và nhân đức của Đức Maria mà mỗi người Kitô hữu phải tin:

1.  Đức Maria làm Mẹ Thiên Chúa.

2.  Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, Mẹ không hề mắc tội tổ tông truyền từ ngay khi thành thai trong lòng mẹ.

3.  Đức Maria Đồng Trinh Trọn Đời, dù mang thai và sinh con, Mẹ vẫn trinh khiết vẹn toàn.

4.  Đức Maria Hồn Xác Lên Trời, Mẹ được Chúa triệu hồi cả hồn và xác vào trong vinh quang thiên quốc, sống trong hạnh phúc vĩnh cửu.

Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo từ số 963-975, kể ra 5 lý chứng rất mạnh mẽ và xác thực minh chứng việc Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời:

1. Vì Đức Maria là Mẹ Chúa Kitô: Thánh Kinh diễn tả rõ ràng Đức Maria hiệp thông chặt chẽ với Chúa Giêsu trong nhiệm cuộc cứu chuộc, và luôn chia sẻ số phận với Con. Vậy xét theo thiên chức làm Mẹ, đương nhiên đòi hỏi phải có việc Mẹ và Con hòa hợp sum vầy với nhau, vì cả hai đã yêu mến nhau tha thiết, cho nên chắc chắn Chúa Kitô vì lòng hiếu thảo, đã ban cho Mẹ mình được hồn xác về trời sau khi ly trần, là điều hợp tình hợp lý.

 2. Vì Đức Maria Trọn Đời Trinh Khiết: Thiên Chúa đã làm cho Đức Maria chịu thai, sinh con mà vẫn trinh nguyên, thì sau khi Mẹ qua đời, Ngài đã gìn giữ thân xác Đức Mẹ khỏi hư nát, và sau khi đem Mẹ về trời, Ngài đã làm cho xác Mẹ nên vinh hiển. Nên thánh Đamascênô tiến sĩ quả quyết: Vì Đức Mẹ đã được sinh con mà vẫn trinh nguyên, thì cần thiết là sau khi qua đời, xác Đức Mẹ cũng phải được bảo tồn nguyên vẹn. 

3. Vì Đức Mẹ luôn hợp tác với Chúa Kitô: ngay từ thế kỷ II, các Giáo Phụ đã trình bày Đức Mẹ như là một Evà mới hợp tác chặt chẽ với Adam mới là Chúa Kitô để chiến thắng satan. Vì thế, cũng như Chúa Kitô sống lại vinh hiển là việc thiết yếu và là dấu chiến thắng cuối cùng, thì Đức Mẹ đã cùng Con chiến đấu cũng phải được cùng Con chiến thắng, nghĩa là Thân Xác Đồng Trinh của Đức Mẹ cũng phải được Lên Trời Vinh Hiển.

4. Vì Đức Mẹ Đầy Ơn Phúc: các thánh tiến sĩ đã coi việc Đức Mẹ Hồn Xác về Trời như là bổ túc cho việc Đức Mẹ được Đầy Ơn Phúc. Như lời cha Ađômêô quả quyết: Thân xác Đức Mẹ không hề bị hư nát vì đã kết hợp với linh hồn và đã được đầy ơn.

5. Vì Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội: theo lời xác quyết của Đức Thánh Cha Piô XII, thân xác con người bị chết và bị tan rã ra tro đất là do hậu quả tội Nguyên Tổ. Đức Maria không hề mắc tội Nguyên Tổ, cũng không hề có tội riêng, cho nên đương nhiên và rất hợp lý là Đức Maria được Hồn Xác Về Trời”.

Mẹ đầy ơn phúc, được Thiên Chúa yêu thương gìn giữ từ thuở đời đời bằng đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội. Mẹ được Thiên Chúa giữ gìn cho đến muôn đời bằng đặc ân Mông Triệu tuyệt diệu hơn mọi người trần.

Quyền năng và tình yêu Chúa tràn đầy trên Mẹ làm cho Mẹ được khỏi tội tổ tông và được đầy ơn ơn sủng ngay từ trong lòng mẹ. Quyền năng và tình yêu Chúa bao phủ suốt cả đời Mẹ trên từng ý nghĩ, từng tình cảm, từng mỗi hành động, từng mỗi bước đi… khiến cho tâm hồn Mẹ luôn hướng về Chúa mà tạ ơn và ngợi khen liên lỉ. Quyền năng và tình yêu Chúa đong đầy trọn vẹn nhất trong khoảnh khắc lịch sử, Mẹ lên trời cả hồn cả xác. Đặc ân cao trọng này chính là triều thiên sáng chói bao phủ lên Mẹ, vốn đã được “Thánh Thần ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao rợp bóng trên bà” (Lc 1,35).

Ngày lễ hôm nay với sắc thái vui tươi với những lời ngợi khen và chúc tụng Đức Trinh Nữ lên trời hiển vinh. Từ đây Đức Mẹ nắm giữ vai trò quan trọng nhất là Nữ Vương trời đất. Từ nay, Đức Mẹ đảm nhận một địa vị cao cả nhất và cũng thật gần bên Thiên Chúa. Kể từ nay, Đức Mẹ trổi vượt trên mọi tạo vật với địa vị làm Mẹ Thiên Chúa và làm Mẹ nhân loại.

Mẹ được Lên Trời Hồn Xác là do đặc ân Chúa ban cho Mẹ và đồng thời cũng là do cuộc sống thánh thiện của Mẹ hằng luôn hợp tác với ơn Chúa. Mẹ là người diễm phúc nhất trong mọi người nữ. Mẹ có tên gọi đẹp nhất là “Đấng đầy ơn phúc”“Thiên Chúa ở cùng bà”. Mẹ được hết mọi đời khen là diễm phúc chính vì “Đấng toàn năng đã làm cho Mẹ biết bao điều cao cả”. Điều cao cả nhất là làm Mẹ Chúa Cứu Thế. Mẹ là cây sinh quả phúc và nhờ quả phúc ấy mà Mẹ được biết đến và được ca tụng. Mẹ là cây trường sinh mang quả đầu mùa mà Thiên Chúa đã trồng trong vườn địa đàng mới hầu đem lại sự sống đời đời cho mọi thế hệ loài người. Chính vì thế mà Thiên Chúa muốn cho cây mang quả trường sinh ấy được nhân lên trong vườn địa đàng mà Người muốn mở rộng diện tích tới tận cùng trái đất.

Giáo hội cùng hiệp ý chung lời với Mẹ ngợi khen tạ ơn Thiên Chúa: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới, từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc”.

Đó là những lời tán tụng ngợi ca Thiên Chúa phát xuất từ sâu thẳm lòng Mẹ trong ngày thăm viếng người chị họ Isave.

Những lời ngợi ca đó nói lên tất cả tâm hồn của Mẹ. Đó là toát lược cả cuộc đời Mẹ, cả chương trình sống của Mẹ, là con đường tu đức của Mẹ: mãi mãi là người nữ tỳ khiêm tốn, luôn phó thác hoàn toàn trong tay Chúa toàn năng và nhân hậu, hằng dâng lời ngợi khen tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh cuộc sống.

Những lời ca ngợi Magnificat nói lên hết ý nghĩa và tâm tình của Mẹ đối với Thiên Chúa toàn năng và yêu thương.

Mẹ cảm thấy thân phận tôi tớ hèn mọn nầy lại được cất nhắc cao trọng trong giây phút lên trời: “Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới, từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc”.

Mẹ cảm nghiệm được quyền năng và tình yêu vô biên của Chúa trong giây phút Chúa hiển dương Mẹ về trời: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả…Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người”.

Ngày lễ hôm nay, Giáo hội mừng kính một tạo vật đầu tiên, Mẹ Maria đã được khải hoàn và bước vào quê hương thiên quốc. Thánh Kinh ca tụng Mẹ: “Kìa bà nào xuất hiện như rạng đông, diễm kiều như vầng nguyệt, lộng lẫy tựa thái dương, oai hùng như đạo binh chỉnh tề hàng ngũ” (Dc 6,10); “Có một điềm lớn xuất hiện trên trời: một Phụ nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp vầng trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao” (Kh 12,1)…

Mẹ “Như một vầng trăng tuyệt vời, muôn ngàn tia sáng lung linh chốn thiên cung”. Mẹ là người đi đầu cho ta được tiếp bước. Mẹ như người đi trước cho ta được theo sau. Mẹ là người đi mau cho ta được níu kéo dắt dìu.Mẹ được đưa về trời là tiền đề cho lòng tin người tín hữu: nếu sống như Mẹ, họ cũng sẽ được về trời với Mẹ. Mẹ được đưa về trời là khuôn mẫu cho niềm hy vọng: yêu trung thành hôm nay sẽ được dẫn tới bến bờ yêu thương tinh ròng vĩnh phúc. “Mẹ Lên Trời là hình ảnh và khởi thủy của Giáo hội về ơn cứu chuộc của Thiên Chúa cho mọi người chúng ta.  Mẹ chiếu sáng như dấu chỉ lòng trông cậy vững vàng và niềm an ủi cho dân Chúa đang lữ hành” (LG số 69).

“Cuộc Lên Trời của Đức Trinh Nữ rất thánh là sự tham dự độc nhất vô nhị vào sự Phục sinh của Con mình và là việc thể hiện trước sự phục sinh của các Kitô hữu khác” (GLCG, số 966). Mẹ Lên Trời, trong hạnh phúc tuyệt vời, Mẹ trở nên gần gũi với mọi thành viên trong gia đình nhân loại. “Trong Hội Thánh, Đức Trinh Nữ diễm phúc được kêu cầu bằng các tước hiệu là Trạng Sư, Đấng Cứu Giúp, Đấng Phù Hộ, Đấng Trung Gian” (GLCG, số 969).Trong cuộc hành hương nội tâm hay lữ hành nơi dương thế, chúng ta tin rằng, có Mẹ Maria luôn cầu bầu che chở; với niềm hy vọng sẽ được về trời với Mẹ, chúng ta nhìn lên Mẹ như mẫu gương của lòng cậy trông, tin yêu phó thác nơi lòng thương xót Chúa.

Hôm nay mừng Mẹ Lên Trời.

Ngày mai đến lượt mỗi người chúng ta.

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

 

 

 

 

 

Chúa nâng cao những kẻ khiêm nhường

Lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời – Chúa nâng cao những kẻ khiêm nhường (Lc 1, 39-56)

 

Mẹ sống khiêm tốn nên Mẹ được Thiên Chúa tôn lên.

Một bài học quan trọng liên quan đến việc đối nhân xử thế mà Chúa Giê-su thường nhắc nhở chúng ta, đó là đừng tự cao tự đại, đừng kiêu căng tự phụ nhưng phải biết sống khiêm tốn với mọi người. Bài học đó được Chúa Giê-su tóm gọn như sau: “Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 14,11; 18,14; Mt 23,12.20.26).

Bài học nầy lại càng sáng tỏ hơn qua lời tán tụng của Mẹ dâng lên Thiên Chúa khi Mẹ đến thăm Bà Ê-li-da-bét.

Đây là bài “Ngợi Khen” (Magnificat) nhằm tôn vinh Thiên Chúa với nội dung được tóm gọn trong câu: “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.”

Trước hết, bài ca diễn tả ý tưởng: “ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống” qua những câu sau đây:

Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh,

dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.

Chúa hạ bệ những ai quyền thế…” (Lc 1,51-52)

Tiếp theo, bài ca nói về việc “ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”:

 “Chúa nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.

Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư,

người giàu có, lại đuổi về tay trắng” (Lc 1,48.52-53)

Và Mẹ Maria đã đem chính bản thân mình như một bằng chứng hùng hồn và cụ thể để minh chứng cho mọi người thấy chính Thiên Chúa đã đoái thương thân phận tôi tớ thấp hèn của Mẹ và đã nâng Mẹ lên cao:

Phận nữ tỳ hèn mọn,

Người đoái thương nhìn tới;

từ nay, hết mọi đời

sẽ khen tôi diễm phúc.”

 Quy luật cuộc đời là thế: Tháp cao thì dễ nghiêng, cây cao thì dễ ngả, người tự cao thì dễ bị hạ xuống chỗ thấp hèn.

 Trong khu rừng có hàng triệu cây lớn nhỏ, non già đủ cỡ; thế nhưng cây càng cao thì càng bị gió lay, càng dễ bị sét đánh, càng dễ bị bão tố làm gãy cành hay bật gốc. Trong khi đó, những cây nhỏ bé mềm mại thường được an toàn trước phong ba bão táp.

Trong xã hội con người cũng thế, những người kiêu căng ngạo mạn thì hay bị người đời chê ghét và tìm cách hạ bệ; còn những người khiêm tốn thì dễ được người đời mến thương.

Trong một giờ huấn đức cách đây đã lâu, có lần Đức Cố Hồng Y Phan-xi-cô Xa-vi-e Nguyễn Văn Thuận nói với anh em trong lớp chúng tôi rằng: “Khi người ta thấy mình đứng ở địa vị cao thì họ muốn hạ bệ mình xuống; khi người ta thấy mình nằm xuống sát đất thì họ muốn nâng mình đứng lên.”

Thế nên, để tránh cho những cây cao không đổ ngả, người ta phải liệu cho chúng đâm rễ thật sâu hay phải chặt bớt ngọn; muốn cho những toà nhà cao tầng không nghiêng, đổ… người ta phải liệu xây dựng phần móng thật sâu. Tương tự như thế, người có địa vị hay tài năng trổi vượt người khác, cần phải “đâm rễ sâu” bằng nếp sống khiêm nhường. Có như thế mới được tồn tại lâu bền.

Cuộc đời của Mẹ Maria là bằng chứng đầy thuyết phục cho quy luật nầy: Mẹ sống khiêm tốn nên Mẹ được Thiên Chúa tôn lên:

“Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn đến, từ nay hết mọi thời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng toàn năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, Danh Người thật chí thánh chí tôn.”

 Hôm nay, bài “Ngợi Khen” của Mẹ Maria đề ra cho chúng ta hai chọn lựa:

Thứ nhất:

Muốn được Thiên Chúa và mọi người thương mến, thì hãy làm như người trồng cây kinh nghiệm, chặt bớt những ngọn cây cao, kích thích cho chúng đâm rễ sâu vào lòng đất; hoặc làm như người thợ xây lành nghề, khi thi công những ngôi nhà cao tầng, biết đóng móng thật sâu vào lòng đất… Nói chung, là biết sống khiêm tốn với mọi người.

Thứ hai:

Muốn bị người đời ghét bỏ và xa lánh, thì cứ việc sống như cây cao không đâm rễ sâu, như nhà cao tầng mà chẳng có móng sâu, nghĩa là cứ tự cao tự đại mà chẳng biết khiêm tốn hạ mình.

Lạy Chúa Giê-su,

Cuộc đời khiêm hạ của Chúa và Mẹ Maria là hai mẫu gương khiêm nhường rất đáng khâm phục. Xin Chúa giúp chúng con noi gương Chúa và Mẹ sống thật khiêm nhường để được hạnh phúc đời nầy và được hưởng vinh phúc với Chúa và Mẹ trên quê trời mai sau. Amen.

Linh Mục Inhaxiô Trần Ngà