Các Bài Suy Niệm Chúa Nhật 2 Mùa Chay B
Lời Chúa: St 22,1-2.9a.10-13.15-18; Rm 8,31b-34; Mc 9,2-10
MỤC LỤC
1. Tin để lên núi – Huệ Minh.
2. Muốn hạnh phúc phải vâng lời Người – ViKiNi
3. Biến đổi lòng tin – Biến đổi cuộc đời!.
4. Xin ơn biến đổi
5. Abraham..
6. Đức tin và đau khổ.
7. Vinh quang.
8. Đau khổ.
9. Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P.
10. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành.
11. Đây là Con Ta yêu dấu.
12. Biến hình – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.
13. Sống thân mật với Chúa.
14. Nhìn vào mặt tốt – Lm. Ignatiô Trần Ngà.
15. Từ Tabor đến Golgotha – Thiên Phúc.
16. Đức tin trong đau khổ.
17. Chữ tình? – Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa.
18. Hãy tỏ mình là hình ảnh Chúa.
19. Thế giới nào là ảo?.
20. Thôi đừng đầy đọa nhau.
21. Tuân phục.
22. Chúa Nhật 2 Mùa Chay.
23. Đức Tin cột trói chúng ta.
24. Con yêu dấu – Lm. Vũ Đình Tường.
25. Ngộ ra – Lm. Vũ Đình Tường.
26. Suy niệm của AM Trần Bình An.
27. Một thoáng Thiên Đàng.
28. Hạnh phúc thiên đàng.
29. Sống trọn ơn gọi của mình.
30. Thay đổi – Lm. Vũ Đình Tường.
31. Thập Giá – Vinh Quang.
32. Đức Giêsu- bảo chứng tình yêu.
33. Thiên Chúa trên hết
34. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
35. Ánh sáng của đức tin.
36. Y phục Người trở nên rực rỡ.
37. Ai hiểu được chữ tình?.
38. Thử thách trong cuộc sống.
39. Crux est lux – thập giá là vinh quang!.
40. Người đã phó nộp Ngài vì hết thảy chúng ta.
41. Đức Giêsu biến hình vinh quang.
42. Cuối đường hầm hay trên đỉnh núi?.
43. Tìm vinh quang Thiên Chúa ở đâu?.
44. Đức Giêsu hiển dung.
45. Con đường Chúa và tôi đi.
46. Lên núi cầu nguyện.
47. Chúa Nhật 2 Mùa Chay.
48. Suy niệm của Đức Ông James M. Reinert.
49. Chúa Nhật 2 Mùa Chay.
50. Hãy lắng nghe – Rolland Dionne.
51. Được biến đổi hình dạng.
52. Điều quan trọng là biết nghe Chúa Giêsu.
53. Hai khuôn mặt một tình yêu.
54. Suy niệm của Noel Quesson.
55. Vinh quang thập giá.
56. Tabor với Đức Giêsu.
57. Đức tin và đau khổ.
58. Từ cõi chết sống lại nghĩa là gì?.
59. Suy niệm của ‘Tin Vui Xuân Lộc’.
60. Chúa biến hình.
61. Sống với Chúa.
62. Biến hình.
63. Giây phút tột đỉnh.
64. Trên đỉnh Taborê.
65. Từ Tabor đến Golgotha – Thiên Phúc.
66. Biến hình.
67. Thiên Chúa về phía ……
68. Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
69. Đệ tam nhãn – Lm. Vincent Travers.
70. Suy Niệm của JKN..
71. Tình yêu tận hiến.
72. Sự hy sinh của Isaac.
73. Suy Niệm của Lm. Nguyễn Văn Phan.
74. Suy niệm của Lm. Jude Siciliano.
75. Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux.
76. Chú giải của Noel Quesson.
77. Chú giải của Fiches Dominicales.
78. Gợi ý suy niệm của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
79. Đức Giêsu biến đổi hình dạng.
80. Chú giải của William Barclay.
81. Hãy nghe lời Người
1. Tin để lên núi – Huệ Minh
Có thể nói câu chuyện về việc Abraham sát tế người con yêu của mình là một câu chuyện hấp dẫn. Không chỉ hấp dẫn mà còn gây cho người đọc cảm giác sợ hãi, hồi hộp.
Ta vừa nghe sách Sáng Thế kể lại câu chuyện lâm li đầy bi đát ấy.
Để thử lòng tin của Abraham, Đức Chúa bảo Abraham rằng ông hãy đem Isaac, đứa con một yêu dấu của ông, và đi đến đất Moria, ở đó ông sẽ dâng nó làm của lễ toàn thiêu trên núi Đức Chúa sẽ chỉ cho ông.
Nghe lời Đức Chúa, ông đã làm những gì Đức Chúa đã dặn.
Thế là hai cha con lên đường. Chuyện gì đến sẽ đến. Đến nơi Đức Chúa đã chỉ, Abraham làm một bàn thờ và chất củi lên, rồi trói Isaac lại, đặt lên bàn thờ trên đống củi. Đau lòng lắm nhưng Abaraham vẫn phải làm đó là giơ tay lấy sao sát tế con của mình để dâng cho Đức Chúa. Thế nhưng, ngay trong giây phút cay nghiệt đó, Đức Chúa đã nói với ông rằng “Ðừng giết con trẻ và đừng động đến nó, vì giờ đây ta biết ngươi kính sợ Chúa, đến nỗi không từ chối dâng đứa con duy nhất cho Ta”.
Bỗng lúc ấy, Abraham ngước mắt lên, thấy sau lưng mình có con cừu đực đang mắc sừng trong bụi cây, Abraham liền bắt nó và tế lễ thay cho con của ông.
Và rồi, thiên thần Chúa gọi Abraham và nói rằng: “Chúa phán: Ta thề rằng: vì ngươi đã làm điều đó, ngươi không từ chối dâng đứa con duy nhất của ngươi cho Ta, nên Ta chúc phúc cho ngươi, Ta cho ngươi sinh sản con cái đông đúc như sao trên trời, như cát bãi biển; miêu duệ ngươi sẽ chiếm cửa thành của quân địch, và mọi dân tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc nơi miêu duệ ngươi, vì ngươi đã vâng lời Ta”.
Trên núi này, núi Moria là núi của niềm tin. Chính nơi đây, Abraham đã bày tỏ niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa là Cha của ông.
Núi trong Thánh Kinh, ta thường thấy để biểu thị cho sự gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người. Ta thường thấy ông Môsê lên núi để gặp Thiên Chúa, nghe lời Thiên Chúa. Không những thế, núi chính là nơi để con người dâng lên Thiên Chúa của lễ hiến tế như trong trường hợp Abraham hiến tế đứa con yêu của mình. Bàn tiệc hiến tế thường được đặt trên núi. Của lễ toàn thiêu được đặt trên bàn thờ trên núi để hiến tế cho Thiên Chúa.
Núi mà Abraham sát tế con của mình cũng chính là hình ảnh bàn thờ thập tự mà Chúa Giêsu hiến thân mình cho Chúa Cha. Trên núi Sọ, Chúa Giêsu đã hiến dâng lên Thiên Chúa của lễ toàn thiêu chính là cuộc đời của Ngài.
Ngày hôm nay, ta được thấy Chúa Giêsu vén mở cho các môn đệ thân tín được thấy vinh quang của Ngài ở trên núi cao. Chính ở trên núi cao ấy, Chúa Giêsu đã cho các môn đệ thấy được vinh quang mà Thiên Chúa Cha trao ban cho Ngài.
Và rồi khi xuống núi, Chúa Giêsu căn dặn các ông không nói cho ai biết vinh quang mà Thiên Chúa Cha ban cho Ngài. Ta thấy, chính các môn đệ khi đó cũng chưa hiểu được vinh quang ấy và cũng tự hỏi nhau “Từ trong cõi chết sống lại nghĩa là gì?”. Chỉ đến khi đón nhận vinh quang Phục Sinh của Chúa Giêsu thì khi ấy các ông mới hiểu và mới tin.
Thật sự để có niềm tin vào Chúa Phục Sinh như các môn đệ hay hoàn toàn tin tưởng phó thác cuộc đời mình vào tay Chúa như Abraham không phải là chuyện giản đơn. Ngày nay, khi ta đọc lại, ta nghe như thế ta thường hay nghĩ rằng chuyện nhỏ! Thế nhưng, thật sự chuyện không nhỏ chút nào khi ta phải đối diện với những thử thách trong cuộc đời nhất là những thử thách đòi hỏi ta phải từ bỏ một cách triệt để.
Để có một niềm tin như Abraham không phải là chuyện dễ. Nhìn lại cuộc đời ta, đôi khi Chúa gửi đến cho ta những thử thách nho nhỏ không đáng gì một chút so với những thử thách bi đát như Abraham nhưng liệu rằng ta đáp trả như thế nào?
Có một anh bạn hớt tóc thân quen. Hỏi thăm thì mới ba mươi ngoài nhưng anh có 4 cháu! Cuộc sống cơm áo gạo tiền của anh quả thật là chật vật, quả thật là khó khăn. Thế nhưng, khi nhìn đến nhiều mảng đời xung quanh còn có những mảng đời còn vất vả hơn anh nhiều. Khi chia sẻ điều đó, anh vui vẻ nói rằng anh chẳng bao giờ phàn nàn với Chúa cả bởi lẽ Chúa đã thương ban cho anh rất nhiều.
Nói thì dễ nhưng để cảm được tình yêu thương mà Thiên Chúa trao ban trên cuộc đời này không phải là chuyện dễ. Cũng dễ hiểu bởi lẽ ai ai cũng muốn cho cuộc đời mình sung sướng, may mắn và luôn đạt được những ước mơ của mình.
Cũng chẳng có gì để khó hiểu. Ngay cả các môn đệ ngày xưa cũng thế. Được chiêm ngưỡng vinh quang tận mắt, được sống với cái vinh quang đó nhưng rồi khi xuống núi, khi trở về với đời thường các ông cũng đã không tin, không cảm nhận một thầy Chí Thánh đang sống bên đời. Chỉ đến khi Thầy Phục Sinh thì lòng các ông mới bừng cháy ngọn lửa của niềm tin.
Và như thế, để có niềm tin vào Chúa Phục Sinh, có niềm tin vào Thiên Chúa trong đời ta, không có phương cách nào tốt hơn đó chính là đời sống cầu nguyện cũng như tín thác và từ bỏ. Như các môn đệ lên núi, như Abraham lên núi thì càng nhẹ hành trang thì mới có thể lên núi được. Và, của lễ hiến tế không gì tốt hơn đó chính là bản thân ta, cuộc đời ta như chính Isaac.
Nhìn lên núi Thánh, xin Chúa thêm ơn đức tin cho ta để ngày mỗi ngày giúp ta luôn hướng về núi Thánh và can đảm từ bỏ mọi sự bám víu ở đời để ta bước theo Chúa lên trên bàn thờ thập tự và dâng chính bản thân ta là của lễ dâng lên Thiên Chúa Cha.
2. Muốn hạnh phúc phải vâng lời Người – ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
“Lạy Thầy, chúng con ở đây sướng quá, chúng con xin dựng ba nhà, một cho Thầy, một cho Môisen, và một cho Êlia”. Đây là tâm sự của Phêrô lúc được hưởng hạnh phúc Chúa biến hình rực rỡ vinh quang, một hạnh phúc thiên đàng vừa hé mở. Phêrô đã thuật lại rất sống động tâm sự này cho các tín hữu đang chịu thử thách cam go vì đạo, và được Marcô, con tinh thần của Phêrô viết lại.
Thánh Phêrô đã quả quyết có hạnh phúc đời đời để cho mọi người tin tưởng vững vàng sống theo lời Chúa, sẵn sàng hy sinh vì đức tin, họ sẽ được vinh quang nước trời. Một thứ hạnh phúc làm ngây ngất mãi mãi. Một thứ hạnh phúc sáng láng rực rỡ toát ra từ chính con người của Đức Giêsu, chứ không phải thứ ánh sáng bên ngoài bao phủ Người. Ánh sáng đó là chính ánh sáng Ngôi Lời Thiên Chúa. Gioan đã được cùng với Phêrô hưởng ánh sáng rực rỡ này nên khi mở đầu sách Tin mừng thứ bốn, Gioan đã viết: “Ngôi Lời là sự sáng đích thực, sáng soi cho mọi người” (Ga 1,9).
Trong lễ dâng Đức Giêsu vào đền thờ, tiên tri Simêon đã nhìn thấy “Người là ánh sáng muôn dân, là vinh quang của dân Chúa” (Lc 2,32). Chính Đức Giêsu đã tuyên bố: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai tin Tôi sẽ không ở trong tăm tối” (Ga 12,46). Nhất là khi “Người sống lại sáng chói rực rỡ khiến quân dữ ngã lăn bất tỉnh” (Mt 28,3-4). Do đó, trong kinh Tin Kính chúng ta tuyên xưng: “Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, Ánh sáng bởi Ánh sáng”. Và trong kinh cầu chúng ta tung hô: “Chúa Giêsu là mặt trời soi đường công chính”.
Ánh sáng đó làm cho những người công chính như Môisen, Êlia được vinh phúc tràn ngập đời đời, còn người phàm đã biết theo Chúa như Phêrô, Giacôbê, Gioan cũng được ngây ngất chút đỉnh rồi lịm đi vì chưa đủ sức chứa đựng ánh sáng huy hoàng của nước trời, còn kẻ dữ phải khiếp sợ chết xỉu đi.
Từ hạnh phúc biến hình núi Tabor, Đức Giêsu dẫn đưa các môn đệ vượt qua đau khổ núi Sọ để đến hạnh phúc vinh quang phục sinh muôn đời.
Hôm nay Giáo hội là mẹ nhân lành theo gương Chúa Giêsu, cũng muốn dẫn đưa con cái mình là chúng ta từ hạnh phúc núi Tabor vượt qua biển khổ trần gian đến hạnh phúc vinh quang phục sinh bất diệt.
Không một thứ hạnh phúc thế gian nào sánh được. Hạnh phúc thế gian luôn luôn chất chứa đắng cay, đau khổ như ma túy, rượu chè, cờ bạc, trai gái. Khi chưa được thì thèm khát, khi mắc vào thì chán ngán, thất vọng, càng sa bẫy, càng bị kìm kẹp trong đau khổ tuyệt vọng.
Thí dụ: Tôi biết có anh chị đậu cao học (Master), quen nhau, yêu nhau nồng nàn suốt hai năm trời. Lễ cưới chi phí đến 20.000 đô. Họ hàng bạn bè, ai cũng mừng cho đôi uyên ương hạnh phúc. Nhưng chỉ được một tuần, giận nhau, bỏ nhau, đoạn tuyệt. Cha mẹ khuyên can cực lòng đến sinh bệnh, con cũng chẳng nghe.
Đấy là những hạnh phúc của thế gian.
Còn hạnh phúc của Thiên Chúa ban thì chưa thấy một đấng thánh nào chán cả. Phêrô được hưởng rồi, đã ra sức cố gắng nghe lời Con Yêu Dấu đến nỗi phải hy sinh chịu đóng đanh chết trên thập giá, vẫn luôn luôn “sướng quá”. Phaolô khi té ngựa được thấy ánh sáng rực rỡ của Đức Giêsu, dù mắt mù đi, ông đã bỏ đạo Biệt phái, đạo tổ tiên mà ông đã hăng say học hỏi từ nhỏ và cuồng nhiệt chống đối, bắt bớ kẻ phản đạo đó, để trở về với ánh sáng Đức Kitô, làm tông đồ của Đức Giêsu, một tông đồ vĩ đại nhất, nhiệt thành truyền đạo Ánh sáng nhất, chịu nhiều cực hình đau khổ nhất. Biết bao nhiêu các thánh tử đạo chỉ được thấy ánh sáng đức tin, đã coi cực hình thân xác nhẹ như lông hồng.
Muốn được hạnh phúc như các ngài, ta phải đến với ánh sáng Đức Kitô, nghe lời Con yêu dấu Chúa Cha: “Đây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người”.
Abraham đã triệt để nghe lời Người, đến nỗi sẵn sàng sát tế con mình để tỏ lòng trung thành kính mến Thiên Chúa. Thiên Chúa đã hài lòng về tinh thần nghe lời Người của Abraham hơn là của lễ sát tế con ông. Vì: “Ta muốn lòng nhân từ, chứ đâu cần tế lễ” (Mt 9,13). Và nhờ đó “mọi dân trên mặt đất sẽ được chúc phúc, chính bởi vì ngươi đã vâng lời Ta”.
Môisen đã nghe lời Người, dù kinh hoàng run sợ nghĩ đến phải trở về đối diện với vua Pharaon đang lùng bắt ông. Dù phải cực khổ vào sinh ra tử suốt bốn mươi năm trong sa mạc để dẫn đưa dân về đất Hứa.
Êlia đã nghe lời Người dù biết mình phải lao vào lưỡi gươm trả thù của hoàng hậu Giêzabel, để cứu thoát dân khỏi nô lệ tà thần. Và hàng triệu, hàng tỷ người đã nghe lời Con yêu dấu của Chúa Cha, vì biết rằng: “Thiên Chúa bênh đỡ ta, ban tất cả cho chúng ta, chí như chính Con mình, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc cho Con mình phải chết vì hết thảy chúng ta”, để “Con Người từ cõi chết sống lại” “sẽ cho chúng ta được sống lại vinh phúc với Người” (Rm 8,31-34).
Lạy Chúa, xin cho con lắng nghe lời Con yêu dấu Ngài, dù phải nhục nhã ê chề. Xin cho con trung kiên giữ trọn lời Người, dù phải chịu sát tế với Người, con vẫn một lòng thưa như tổ phụ Abraham: “Dạ con đây”.
3. Biến đổi lòng tin – Biến đổi cuộc đời!
(Suy niệm của Lm. Anmai, C.Ss.R.)
Ông bà ta vẫn thường nói “Ở trong chăn mới biết chăn có rận!” hay là “Đèn nhà ai nấy rạng”. Những câu nói ấy như muốn nói rằng khi và chỉ khi ở trong hoàn cảnh thì mới hiểu được chứ còn ở ngoài không thể nào hiểu được. Người ta cũng thường nói “có đau bệnh mới thương người ốm!”. Cũng như ý ở trên, ông bà ta muốn nói rằng khi mình đối diện với thực tại, đối diện với hoàn cảnh bi đát của cuộc đời người ta mới biết chứ còn chưa đối diện thì không thể nào biết được.
Nhớ lại thầy già trong nhà Dòng. Những ngày cuối đời, Thầy phải đối diện với những cơn đau đớn vật vã do chứng bệnh ung thư mang lại. Khi đến thăm Thầy, thầy thỏ thẻ với tôi: “Bây giờ có ai đến an ủi đi chăng nữa thì cũng không thể nào hiểu được cơn đau của tôi!”. Và cứ như vậy, Thầy cố gắng chịu đựng, dâng những cơn đau của thể xác lên cho Chúa như của lễ cuối đời của Thầy vậy. Câu nói của Thầy già làm tôi nhớ mãi. Chỉ có ai đau bệnh mới biết nỗi đau là gì chứ còn chỉ đến thăm, chỉ đến an ủi thì cũng chẳng thể nào hiểu được cơn đau đang hành hạ bệnh nhân.
Và rồi, một linh mục đàn anh cũng ra đi với căn bệnh ung thư quái ác. Những ngày cuối đời, cũng vào thăm anh nhưng tôi chỉ lặng lẽ nhìn anh chứ không dám nói gì vì có nói gì thì nói cũng chẳng thể nào xoa dịu được nỗi đau của anh. Đôi khi lời an ủi, lời nói nó trở thành phản cảm khi người bệnh vì lẽ chúng ta không hiểu, không mang tâm trạng đau đớn là gì. Phải có sự hy sinh và đặc biệt là có lòng tin con người mới có thể chịu đựng, vượt qua những cơn đau đớn mà thể xác bị hành do đau bệnh.
Mới đây, chiều mùng 1 Tết. Nhận được cuộc điện thoại của một Sơ báo tin một Sơ thân quen vừa được Chúa gọi về sáng mùng 1. Kể lại hành trình chuyển Sơ kia từ thành phố về Buôn Ma Thuột, Sơ bên kia điện thoại nhấn đi nhấn lại chuyện phải đấu tranh với ma quỷ trong những giờ phút cuối đời của bệnh nhân. Những cơn đau đớn hoành hành, những cơn vật vã do chứng bệnh ung thư đôi khi làm nhụt chí bệnh nhân, làm cho bệnh nhân nản lòng trông cậy. Sơ nói với tôi rằng, lúc ấy phải đọc kinh, cầu nguyện để giành giật lại với sức lôi kéo của ma quỷ.
Nhớ đến giờ khắc cuối cùng của Mẹ tôi cũng thế! Bà bị bệnh ung thư! Trước khi mời cha đến xức dầu, Mẹ cứ quay mặt vô tường không thèm nhìn ai, nói chuyện với ai dù lúc đó Mẹ rất tỉnh táo. Kể từ lúc lãnh bí tích xức dầu và được người đọc kin phó linh hồn, bỗng dưng bà quay ra nhìn mọi người lần cuối và vẻ mặt thanh thản hơn trước đó! Thế đấy! Giờ phút cuối, giờ phút chuẩn bị ra đi của con người, giờ phút phải đối diện với cái chết thật là căng thẳng. Chính giờ phút ấy con người phải đối diện với lòng tin vào Đấng Cứu Độ mà bao nhiêu lâu nay họ theo. Chính giờ phút ấy là giờ phút quyết định ơn cứu độ của con người và con người phải dứt khoát trước giờ phút ấy.
Câu chuyện về Abraham sát tế cục cưng của mình là Isaac chúng ta đã nghe quá nhiều lần. Nhiều đến độ chỉ cần nghe “Lời Chúa trong sách sáng thế…” rồi “Người gọi ông: “Áp-ra-ham!” Ông thưa: “Dạ, con đây!”. Cứ nghe như vậy là chúng ta biết về trình thuật về việc Thiên Chúa thử lòng tin của ông. Phải nói là Thiên Chúa quá cay nghiệt khi bắt Abraham đáp trả lòng tin bằng việc sát tế đứa con yêu của mình. Thử hỏi mỗi người chúng ta khi phải từ bỏ vật chất, từ bỏ một chút lợi lộc nào đó chúng ta chưa dám bỏ chứ huống hồ gì là đứa con độc nhất vô nhị của mình. Nghe nhiều, đọc nhiều thấy chẳng có gì cả vì chúng ta biết trước kết cục của câu chuyện là Abraham đã sẵn sàng sát tế con mình nhưng Thiên Chúa đã ra tay ngừng lại như đoạn sách mà chúng ta vừa nghe.
Biết câu chuyện, biết trình thuật, biết kết quả có lẽ không hay lắm khi ta phải đối diện với thử thách to lớn như Abraham. Nói thì ai nói cũng được và nói thì dễ nhưng làm thì quả là quá khó khăn, quá xa vời. Thử đặt mình vào hoàn cảnh thật của Abraham chúng ta sẽ thấy căng thẳng đến chừng nào khi đáp trả lời mời gọi của Chúa. Lòng tin lúc đó được thử thách một cách hết sức căng thẳng. Thử hỏi chúng ta có một đứa con duy nhất chúng ta có dám sát tế để dâng cho Chúa không ? Trường hợp Abraham còn bi đát hơn khi ông và bà Sara vợ ông đã quá thời sinh nở. Có đứa con cầu con tự vậy mà Chúa lại bảo phải hiến dâng! Thật là cay nghiệt, thật là bi đát.
Sau khi thử thách lòng tin, Thiên Chúa đã ban cho ông ân huệ đúng như lời Thiên Chúa hứa là cho ông trở thành cha của nhiều dân tộc, là cha của dòng dõi những kẻ tin. Abraham đã được Thiên Chúa đổi tên và từ đó, cuộc đời của ông được ơn nghĩa với Thiên Chúa và ơn của Chúa ở với ông cho đến suốt đời.
Cũng như những người bệnh, chúng ta khi đối diện chúng ta mới biết được căng thẳng là dường nào. Chúng ta có đáp trả lại lòng tin trong thử thách đau đớn phút cuối đời để sau đó chúng ta được hưởng phúc vinh quang với Chúa là Đấng Cứu Độ chúng ta không?
Chúng ta chúc tụng, hoan hô, ca ngợi Abraham thì cũng bằng thừa vì lẽ chuyện đã xảy ra rồi. Phải nói là Abraham liều mạng, Abraham đã bỏ ngõ cuộc đời mình, bỏ ngõ tương lai của mình vào phán quyết của Thiên Chúa. Đứng vào vị thế của Abraham chúng ta sẽ trả lời với Chúa như thế nào ? Câu trả lời ấy tuỳ thuộc vào mỗi người chúng ta, vào lòng tin của mỗi người chúng ta.
Trang Tin mừng mà chúng ta vừa nghe thánh Maccô thuật lại cho chúng ta thấy việc Chúa Giêsu tỏ mình cho các môn đệ thân tín. Trong giây phút huy hoàng của cuộc đời, các ông nói với Thầy rằng : “chúng con ở đây thật là hay!”. Thế nhưng sau cái giây phút vinh quang ấy, trở về với đời thường, lòng tin của các ông cũng rất chênh vênh, cũng rất cheo leo. Đơn giản nhất mà chúng ta thấy đó là vào giây phút nghiệt ngã nhất của cuộc đời Chúa Giêsu, giây phút mà Chúa Giêsu lên Giêrusalem để chịu đau khổ ấy thì chúng ta thấy còn được mấy môn đệ theo Chúa ? Lúc bấy giờ còn ai dám nói với Thầy Giêsu rằng “chúng con ở đây thật là hay” nữa. Chỉ còn mình Mẹ Maria và môn đệ yêu dấu là Gioan mà thôi.
Thật ra, chúng ta thấy các môn đệ được Chúa Giêsu tỏ mình và rồi các môn đệ đã một lần nữa xác tín cuộc đời của mình vào Thầy Chí Thánh. Dẫu cuộc đời có những lúc chênh vênh, có những lúc chuệch choạc như Phêrô chối Thầy nhưng cuối cùng Phêrô vẫn tin vào Thầy và được làm Đá Tảng của Hội Thánh.
Vâng! Chắc có lẽ cuộc đời của ta cũng giống như các môn đệ xưa thôi! Chúng ta vẫn đi theo Chúa, chúng ta vẫn được Chúa tỏ mình nhiều lần nhiều cách trong cuộc đời nhưng chúng ta không nhận ra chúng ta không tin để chúng ta biến đổi cuộc đời như các môn đệ xưa.
Chúng ta dừng lại đôi chút để nhìn lại cuộc đời mình. Chúa ban cho chúng ta quá nhiều ơn, Chúa đã tỏ mình cho chúng ta quá nhiều lần nhưng lòng chúng ta cứ chai lại, cứ cứng thêm.
Qua các ngôn sứ, qua sách Thánh chúng ta biết rõ rằng Đức Giêsu Kitô – Chúa chúng ta – đã đón nhận cái chết và chết nhục nhã trên thập giá để cứu độ chúng ta nhưng lòng chúng ta cứ hững hờ làm sao đó.
Một con người phải nói là cứng tin, quay lưng lại với Chúa nhưng rồi sau những biến cố của cuộc đời đã thay đổi cuộc đời, đã biến đổi lòng tin của mình. Người ấy chính là tác giả thư gửi tín hữu Rôma mà chúng ta vừa nghe đấy. Cuộc đời của Ngài có quá nhiều thử thách. Ngài sinh ra thuộc dòng dõi Bengiamin, là người Pharisêu chính hiệu, Ngài được học hành tử tế và giữ luật Do Thái một cách không ai trách khứ được như Ngài đã từng tâm sự. Ban đầu bắt Chúa đấy nhưng cuối cùng đã quay về với Chúa và quy phục trước Chúa. Trong đoạn thư ngắn hôm nay Ngài quả quyết với chúng ta: “Vậy còn phải nói gì thêm nữa? Có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta? Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta ? Ai sẽ buộc tội những người Thiên Chúa đã chọn? Chẳng lẽ Thiên Chúa, Đấng làm cho nên công chính? Ai sẽ kết án họ? Chẳng lẽ Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã chết, hơn nữa, đã sống lại, và đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta?” (Rm 8,31b-34).
Để có lòng tin vào Chúa thánh Phaolô đã trải qua biết bao nhiêu thử thách về lòng tin, về sự từ bỏ những vinh quang lợi lộc trần gian. Qua những thử thách, qua những khó khăn Thánh Phaolô đã khẳng định, đã xác quyết với mỗi người chúng ta về Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa sau những trải nghiệm của đời Ngài. Ngài đã minh định lòng tin cho chúng ta để rồi lòng tin của chúng ta có nền tảng. Không chỉ mình Thánh Phaolô mà còn nhiều vị thánh Tông đồ và các thánh khác đã tuyên xưng lòng tin của mình trước bao nghịch cảnh của cuộc đời. Sau khi được biến đổi lòng tin, cuộc đời của các Ngài đã được biến đổi và được hưởng Nhan Thánh Chúa muôn đời.
Con đường của lòng tin, con đường của sự tín thác vào Thiên Chúa không đơn giản như một số người nghĩ. Lòng tin luôn bị thử thách và luôn luôn cần được đáp trả. Như Abraham xưa, chúng ta vẫn được Thiên Chúa mời gọi lời đáp trả về lòng tin.
Thiên Chúa ngày hôm nay có thử thách chúng ta thì Ngài không thử thách khắc nghiệt như thử thách Abraham hay Phaolô. Thiên Chúa không còn đòi buộc chúng ta phải sát tế đứa con thừa tự duy nhất của chúng ta như Abraham hay là Thiên Chúa không đòi buộc chúng ta phải từ bỏ tất cả những vinh hoa phú quý của cuộc đời như Phaolô. Thiên Chúa thử thách chúng ta qua những biến cố nho nhỏ trong cuộc đời: Chúa mời gọi chúng ta từ bỏ một chút đố kỵ trong lòng chúng ta, Chúa mời gọi chúng ta bỏ một chút lòng tự cao tự đại trong ta, Chúa mời gọi chúng ta bỏ một chút tính điêu ngoa chua chát trong lòng chúng ta… Phần đáp trả chính là phần của chúng ta. Thiên Chúa luôn luôn ở lại với mỗi người chúng ta như Chúa đã từng ở với Abraham, với Phaolô.
Nguyện xin Chúa đến và ở lại với mỗi người chúng ta để chúng ta xác tín hơn lòng tin của chúng ta vào Chúa. Xin Chúa thương ban thêm lòng tin cho mỗi người chúng ta để chúng ta có thể đứng vững trước bao nhiêu sóng gió của cuộc đời.
Xin Chúa biến đổi lòng tin của chúng ta, xin Chúa biến đổi cuộc đời của chúng ta như xưa Chúa biến đổi cuộc đời Abraham, cuộc đời Thánh Phaolô và các thánh nam nữ của Thiên Chúa.
4. Xin ơn biến đổi
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Bước vào Chúa nhật thứ hai Mùa Chay, phụng vụ Giáo Hội mời gọi chúng ta chiêm ngắm biến cố Chúa Giêsu biến hình, một mầu nhiệm vĩ đại. Lịch sử cho thấy ba Tông đồ Phêrô, Gioan và Giacôbê là những tấm gương sám hối suốt Mùa Chay dẫn chúng ta tới Đại lễ Phục Sinh, khi chúng ta cử hành cuộc chiến thắng của tinh thần trên thể xác, của ơn cứu chuộc trên tội lỗi.
Thánh sử Marcô nhắc đến việc Chúa Giêsu đưa ba ông lên núi cao cầu nguyện, và đang khi cầu nguyện… bỗng có hai vị đàm đạo với Người, là Môsê và Êlia…. Một số câu hỏi được đặt ra chung quanh biến cố Chúa Biến Hình:
1. Tại sao Đức Giêsu Biến Hình?
2. Tại sao Môise và Êlia lại có mặt lúc Chúa Giêsu Biến Hình?
3. Tại sao không phải là các Tông đồ khác mà lại là Phêrô, Giacôbê và Gioan được Đức Giêsu đưa lên núi?
Tại sao Đức Giêsu Biến Hình?
Chúng ta biết, trước khi Chúa Giêsu biến hình, Người đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi chừng năm ngàn người ăn no (x. Mc 6,30-44; 8,1-10). Vẻ chưng hửng của các Tông đồ về tương lai tươi sáng, và sự mãn nguyện về vị Thiên sai của dân chúng. Khi thăm dò ý kiến chung, Đức Giêsu đã loan báo cuộc thương khó lần thứ I (x. Mc 31,33). Như thế, Người đã mạc khải cho các môn đệ biết rằng, con đường tiến về Giêrusalem sẽ đưa Người đến với đau khổ, tử nạn và cái chết đau thương trên thập giá, sau đó mới rạng ngời ánh vinh quang. Vì chưa nhận ra ý Chúa nên Phêrô muốn dựng ba lều ở trên núi sau khi chứng kiến Chúa biến hình (x. Mc 9,5). Như thế, Phêrô đã muốn biến cái tạm thời trở thành cái vĩnh cửu để khỏi phải đương đầu với khổ đau và thập giá.
Trở lại câu hỏi tại sao Đức Giêsu lại chọn Phêrô, Giacôbê và Gioan, phải chăng là vì họ hoàn hảo hơn những người khác?
Theo Thánh Gioan Kim Khẩu, Phêrô được chọn, vì Phêrô đã từng tuyên xưng Đức Giêsu là “Ðức Kitô” (x. Mc 8,29). Hơn nữa, cũng bởi Phêrô đã yêu mến Chúa Giêsu Kitô nhiều hơn, “Lạy Chúa, Chúa thông hay mọi sự, Chúa biết tôi yêu mến Chúa!” (Ga 21,17). Phần Gioan, vì đã yêu mến nhiều, nên được mệnh danh là “người môn đệ Chúa yêu” (Ga 21, 20). Còn Thánh Giacôbê, là vì phản ứng của ông đã thực hiện cùng với anh trai mình: “Chúng tôi có thể uống chén của Thầy” (Mt 20,22), ông giữ lời và đã đi đến cùng điều ông cam kết, khiến người Do Thái không chịu nổi, đã xử trảm ông.
Tại sao không phải là một tiên tri hay ngôn sứ nào khác mà lại là Môisen và Êlia?
Sứ vụ công khai của Chúa Giêsu tại Galilê đã khiến cho dân chúng đồn đoán về Người. Có kẻ cho Người là Gioan Tẩy Giả, kẻ khác cho là Êlia, Giêrêmia hay là một tiên tri (x. Mc 8,28).
Người Do Thái không ngừng buộc tội Chúa Giêsu vi phạm luật, kẻ nói phạm thượng, kẻ chiếm đoạt vinh quang, mà theo họ, vinh quang đó là của Thiên Chúa, không thuộc về Người. Trong lúc biến hình đàm đạo với Môisen và Êlia, Người khẳng định mình còn hơn cả Môisen và Êlia nữa. Môisen là người đã trao ban lề luật cho dân chúng, nên những người Do Thái không thế nói rằng vị tiên tri thánh này đã muốn chịu đau khổ vì một người vi phạm lề luật. Còn Êlia xuất hiện cùng Chúa Giêsu, Người dạy chúng ta rằng Người là Chúa của kẻ sống và kẻ chết, cả trên trời và trong địa ngục. Đó là lý do Người biến hình cùng với Êlia là người đã không chết.
Một điều rất thú vị là Môisen đã rẽ đôi nước biển để cho dân chúng đi ráo chân, Phêrô đã đi trên mặt nước, để rồi chữa lành tất cả bệnh hoạn tật nguyện cho dân chúng, xua trừ ma quỷ, đưa mọi người về với Đức Kitô. Êlia đã làm cho kẻ chết sống lại, các Tông đồ cũng đã làm cho kẻ chết được sống lại, khi nhận lãnh Chúa Thánh Thần. Đó là những lý do Chúa Giêsu chọn Môisen và Êlia hiện ra đàm đạo với mình.
Đức Giêsu biến hình để cho chúng ta được chiêm ngưỡng:
Vinh quang Ba Ngôi
Vinh quang của Thiên Chúa Ba Ngôi được biểu lộ trong biến cố Chúa biến hình. Chúa biến hình là hình ảnh loan báo trước cho biến cố Chúa Phục Sinh. Chúa mạc khải vinh quang mình cho các tông đồ với lời xác nhận của Thiên Chúa Cha: “Ðây là Con Ta Yêu Dấu!” (Mc 9,7). Trong ánh sáng vinh quang, chúng ta nhìn thấy ánh sáng; và được Chúa Thánh Thần nâng lên, chúng ta chúc tụng Thiên Chúa Ba Ngôi qua mọi muôn thế hệ.
Lắng nghe lời Đức Giêsu
Trong biến cố Chúa biến hình, chúng ta không những chiêm ngắm mầu nhiệm Thiên Chúa mỗi ngày một sâu xa hơn vừa đi từ ánh sáng này sang ánh sáng khác, mà còn được mời gọi hãy lắng nghe Lời Chúa gửi đến. Ngoài Lề Luật nơi ông Môisen và lời tiên tri nơi sứ ngôn Êlia, lời Chúa Cha còn vang lên mời gọi chúng ta “vâng nghe lời Người” (Mc 9,8).
Xin ơn biến đổi
Nhìn xem và lắng nghe, chiêm ngắm và vâng phục, là những con đường dẫn chúng ta lên Núi Thánh. Ở đó, Ba Ngôi Thiên Chúa được mạc khải trong vinh quang của Chúa Con.
Chúa biến hình, loan báo trước Mầu Nhiệm Vượt Qua, và mời gọi chúng ta mở rộng cặp mắt, con tim để nhìn thấy mầu nhiệm Ánh Sáng của Thiên Chúa hiện diện trong toàn thể lịch sử cứu rỗi. Mầu nhiệm Năm Sự Sáng, thứ Ba thì Ngắm, Đức Chúa Giêsu biến hình trên núi, ta hãy xin cho được biến đổi nhờ Chúa Thánh Thần. Như thế, nếu chúng ta muốn biến đổi thành công dân Nước Trời, phải bỏ mình vác thập giá hàng ngày mà theo Người. Có sẵng sàng vác thập giá Chúa gửi trao mới được theo Chúa là Đường là Sự Thật là Sự Sống để được hưởng vinh quang Phục sinh với Người.
Chúa biến hình vinh quang sáng láng, để chúng ta cũng biết biến đổi: biến đổi từ con người tối tăm tội lỗi nên con người tươi sáng hoàn hảo; biến đổi từ con người ích kỷ tham lam thành người sẵn sàng yêu thương hy sinh và phục vụ mọi người; biến đổi từ con người kiêu căng tự đắc thành người khiêm nhu tin tưởng và phó thác vào Chúa.
Lạy Chúa, xin thương giúp chúng con hiểu được ý nghĩa của thập giá Chúa và ban ơn cho chúng con biết sống mầu nhiệm thập giá Chúa trong cuộc đời, để được sống lại vinh quang với Ngài. Amen.
5. Abraham
Trong phần phụng vụ Lời Chúa hôm nay, có một khuôn mặt nổi bật, đáng cho chúng ta suy nghĩ đó là khuôn mặt của Abraham.
Thực vậy, vâng lệnh Thiên Chúa, ông dẫn con lên núi để sát tế dâng kính Ngài. Ông chấp nhận hy sinh cả cái viễn tượng tương lai của lời hứa, không chút thắc mắc trước đòi hỏi xem ra tự mâu thuẫn với chính mình của Thiên Chúa, Đấng đã hứa cho ông một dòng dõi đông đúc như sao trời cát biển, nhưng lại đòi ông phải hy sinh người con duy nhất, giữa lúc ông và bạn ông đã già cả không còn hy vọng sinh nở được nữa. Abraham đã biểu lộ một niềm tin yêu tuyệt đối nơi Thiên Chúa.
Quả thực, cử chỉ của Abraham chỉ có thể hiểu nổi khi chúng ta thấy được rằng nơi Abraham còn có một sự lựa chọn quan trọng hơn. Tuy nhiên, chúng ta cũng thấy điều đòi hỏi nơi Abraham mới chỉ là một thử thách của Thiên Chúa đối với ông là người được Thiên Chúa yêu thương. Cử chỉ của Abraham mới chỉ là một hình ảnh để chuẩn bị đón nhận điều Thiên Chúa thực hiện nơi chính mình Ngài. Điều Abraham đã chỉ thực hiện trong ý chí, nghĩa là chấp nhận thực hiện, nhưng trong thực tế đã không thực hiện vì không cần thiết nơi Thiên Chúa, lại đã trở thành thực tế. Đức Kitô người sẽ bị đau khổ và chết trên thập giá, chính là người con yêu dấu của Thiên Chúa. Nói cách khác, Thiên Chúa là một người Cha đã yêu thương con người đến độ không dung tha chính con mình, nhưng lại phó thác con mình vì tất cả chúng ta. Đức Kitô đã thực hiện tất cả những gì mà Abraham và Isaac ngày xưa đã tượng trưng.
Còn chúng ta ngày hôm nay thì sao? Nhìn vào đời sống đức tin, chúng ta thấy không phải lúc nào chúng ta cũng cảm thấy sốt sắng, không phải lúc nào chúng ta cũng cảm thấy được ủi an, không phải lúc nào chúng ta cũng cảm thấy Chúa thật gần gũi, trái lại nhiều khi đức tin của chúng ta cũng đã bị thử thách. Vì trung thành với lệnh truyền của Thiên Chúa mà Abraham đã xứng đáng trở thành cha của những người có đức tin. Vì vâng phục thánh ý Chúa Cha, chấp nhận cái chết trên thập giá, mà Chúa Giêsu đã đem lại cho chúng ta nguồn suối ơn cứu độ. Với chúng ta cũng thế. Giữa những gian nguy thử thách gặp phải, noi gương bắt chước Abraham, chúng ta hãy vững tin nơi tình thương của Chúa. Đồng thời noi gương bắt chước Chúa Giêsu, chúng ta dám chấp nhận những hy sinh gian khổ vì đức tin. Bây giờ không còn phải là thời dám can đảm chịu chết vì đạo, mà là thời dám can đảm sống đạo, sống niềm tin của mình. Chính nhờ những hy sinh trong cuộc sống thường ngày, mà đức tin của chúng ta sẽ trở nên kiên vững, và hơn thế nữa, chúng ta sẽ góp được cái phần nhỏ bé của chúng ta vào thập giá Đức Kitô, để nhờ đó mà chúng ta sẽ lãnh nhận được ơn Chúa cứu độ.
6. Đức tin và đau khổ
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang – Joshepus Quang Nguyễn)
Giáo Lý Hội Thánh Công giáo dạy rằng: “Tin trước hết là gắn bó bản thân con người với Thiên Chúa, đồng thời cũng là tự nguyện chấp nhận tất cả chân lý Thiên Chúa đã mặc khải: Nhờ bao gồm cả hai điều trên, đức tin Kitô giáo khác với việc tin tưởng một người phàm. Thật là chính đáng và phải đạo khi phó thác hoàn toàn cho Thiên Chúa và tin tuyệt đối điều Người dạy” (số 150). Như vậy, đức tin không phải là một mớ giáo lý mà ta đã học, cũng không phải là một sự chinh phục, mà là một ân ban nhưng không của Thiên Chúa. Nhờ ân ban ấy, con người có được một lối sống tin tưởng, phó thác và chủ động theo Chúa. Lối sống đó là soi mình dưới bóng Chúa, đặt hành vi luân thường đạo lý dưới Lời Chúa qua từng biến cố của cuộc đời. Nghĩa là biết đáp ứng bằng đức tin trong mọi tình huống bằng hành động cụ thể. Tóm lại, Đức tin như một con mắt thần hướng chúng ta đến một cách sống bình an, phó thác, nhìn đau khổ và cái chết như những phương tiện dẫn đến vinh quang.
Bài đọc 1, Sách Sáng Thế kể rằng khi gần trăm tuổi, ông Abraham được Thiên Chúa hiện ra và nói sẽ ban cho ông một người con trai. Đó là người con duy nhất của Abraham với vợ chính là Sara, lúc ấy cũng gần 90 tuổi. Sau đó, Thiên Chúa muốn thử đức tin nơi Abraham, nên phán bảo ông đem đứa con duy nhất ấy lên núi làm lễ toàn thiêu. Tất nhiên Abraham rất đau khổ, nhưng nhờ đặt trọn niềm tin vào sự chỉ dạy của Thiên Chúa, ông đã vâng lời và cầm dao giết con. Cuối cùng, Thiên Chúa đã nhận “lòng tôn kính và tin yêu” của Abraham, vì đã không tiếc một thứ gì nếu Thiên Chúa muốn, nên miễn cho ông khỏi giết con và chúc phúc cho ông. Rõ ràng đức tin của ông Abraham mạnh mẻ đến nỗi giúp ông sẵn sàng đón nhận đau khổ, vững lòng khi gặp đau khổ và chiến thắng đau khổ để đạt tới một mục đích cao đẹp hơn là đẹp lòng Chúa.
Đến bài Tin Mừng, khi thấy các môn đệ quá sợ đau khổ, không muốn chấp nhận cuộc khổ nạn của Chúa, nên Chúa đã hé mở vinh quang của nước Thiên Chúa để hun đúc cho các ông một niềm tin, một hy vọng để sống. Một đức tin mà Chúa đòi hỏi các ông phải có nếu muốn dự phần vinh quang với Ngài đó là đón lấy đau khổ, chiến đấu với đau sổ. Như thế, có thể nói, đức tin là nhân và vinh quang là quả, giúp chúng ta nhận chân giá trị mọi đau khổ trên trần gian này, để từ đó chúng ta can đảm, sáng suốt đón nhận và giải quyết mọi thử thách đến trong đời sống hàng ngày.
Chúa Giêsu nói “ngày nào cũng có cái khổ của ngày ấy” (Mt 6,34). Như vậy, đau khổ tự nó không phải là xấu, và tự nó chẳng có giá trị gì cả, nhưng cái làm cho đau khổ có giá trị, có công phúc chính là thái độ của người đau khổ: biết chấp nhận và sống với đau khổ. Vì thế, khi gặp đau khổ tinh thân thần cũng như thân xác, đừng tuyệt vọng, đừng than thân trách phận, cũng đừng để mất đức tin! Nhưng, trước hết phải sống Lời Chúa hằng ngày, nghĩa là xin vâng và thi hành Lời Chúa ở bất cứ hoàn cảnh nào hay dù đau khổ mấy đi chăng nữa. Anh chị em có công nhận với tôi rằng bệnh hoạn không phải là do Chúa phạt, càng không phải là do tội mình hay ông bà cha mẹ anh chị em mình gây ra nhưng mình bệnh hoạn như thể là một trật thông phần vào đau khổ của Chúa Giêsu một trật để quyền năng Chúa được tỏ hiện nơi ta. Qủa thế, Phúc Âm kể: “Đức Giê-su nhìn thấy một người mù từ thuở mới sinh. Các môn đệ hỏi Người: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta? ” Đức Giê-su trả lời: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh” (Ga 9,1-7).
Cho nên, ngay lúc này, Lời Chúa ban cho chúng ta sức mạnh để chịu đựng đau khổ bên cạnh đó giúp chúng ta kiên trì giữ vững đức tin để rồi đến một lúc nào đó chắc chắn chúng ta sẽ nhìn thấy những điều kỳ diệu và những điều lớn lao mà chúng ta không tưởng tượng được! Đúng như Lời Chúa trong thư Do thái quả quyết “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy” (Dt 11,1). Vì vậy, sống Lời Ngài từng giây trong đời giúp đức tin kiên cường hơn và bền đỗ hơn đồng thời phát huy tính hiệu quả của lòng tin. Cho nên, Thánh Giacôbê xác tín: “Anh em hãy tự cho mình là được chan chứa niềm vui khi gặp thử thách trăm chiều. Vì như anh em biết: đức tin có vượt qua thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn. Chớ gì anh em chứng tỏ lòng kiên nhẫn đó ra bằng những việc hoàn hảo, để anh em nên hoàn hảo, không có chi đáng trách, không thiếu sót điều gì” (Gc 1,2-4).
Ước gì qua Lời Chúa hôm nay, chúng ta hãy dâng những khó khăn, đau khổ lên cho Chúa trong các giờ kinh lễ của chúng ta hằng ngày. Vì khi cầu nguyện chúng ta chuyển những khó khăn đau khổ ấy cho Chúa. Lập tức ta có được sự trợ giúp của Chúa, có thêm những sức mạnh siêu nhiên giúp chúng ta chịu đựng đớn đau. Cầu nguyện với Chúa trong đau khổ sẽ tạo ra một sức mạnh làm thêm ơn thánh, giúp ta tin rằng khi biết chịu đựng đau khổ vì danh Thiên Chúa, nhất định Chúa sẽ ban cho chúng ta mọi ơn lành. Vì Lời Chúa xác quyết: “Đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, hãy đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn mà giãi bày trước mặt Chúa. Và… Chúa sẽ ban cho bình an vượt lên trên hết mọi hiểu biết. Và bình an ấy sẽ điều khiển cách suy nghĩ và cảm nhận của bạn” (Pl 4,6-7). Vì vậy, dù bất cứ nguyên nhân hay bất cứ điều gì xảy ra, chúng ta phải kiên trì và kiêm tốn cầu nguyện, chắc chắn Chúa làm mọi điều tốt đẹp cho cho chúng ta (Rm 8,28). Amen.
7. Vinh quang
Cả ba Tin Mừng nhất lãm đều đặt biến cố Chúa Giêsu biến hình vào giữa hai lần loan báo trước về cuộc khổ nạn. Điều này rất quan trọng, bởi vì nó cho chúng ta hiểu rằng: Cuộc biến hình này có liên quan trực tiếp tới biến cố vượt qua và như vậy có nghĩa là vinh quang mà ba môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan được chứng kiến trên đỉnh Taborê hôm nay, báo trước vinh quang phục sinh của Ngài mai sau.
Tuy nhiên, cuộc biến hình này, mới chỉ là sự thay đổi hình dạng bên ngoài, đặc biệt là sự thay đổi màu áo, mà theo thánh Macrô, trở nên trắng tinh, không có thợ giặt nào ở trần gian giặt trắng được như vậy. Còn trong mầu nhiệm phục sinh, Đức Kitô không phải chỉ thay hình đổi dạng, mà Ngài hoàn toàn đổi mới. Thân xác phục sinh của Ngài là thân xác “có thần khí”. Bởi đó mà Ngài có thể đi qua mọi cửa nhà đóng kín, hay có thể bất thần xuất hiện trên đường Emmau, rồi ngay sau đó lại xuất hiện tại Giêrusalem. Chính với thần khí đó, mà hôm nay Đức Kitô hiện diện trong Giáo Hội, trong thế giới và trong tâm hồn mỗi người tín hữu của Ngài.
Nhưng điều đáng cho chúng ta suy niệm, đó là không một sự biến hình nào mà lại không đòi hỏi một sự trả giá. Trong Tin Mừng theo thánh Luca, Ngài đã hai lần nhắc đến quy luật này: Đức Kitô phải chịu khổ hình rồi mới vào trong vinh quang của Ngài. Ở đây, với sự kiện biến hình, Ngài cũng nói với các môn đệ: Có lời chép về Con Người rằng Ngài phải chịu nhiều đau khổ và bị khinh chê. Vậy thì đã rõ, mục đích của cuộc biến hình này chính là giáo dục đức tin cho các môn đệ. Cũng như Chúa đã báo trước cho các ông biết Ngài sẽ phải chịu đau khổ và chịu chết, thì bây giờ Ngài cũng cho các ông thấy trước vinh quang phục sinh của Ngài.
Thật vậy, khác với sự mong đợi của nhiều người và của chính các môn đệ, là Đức Kitô sẽ thiết lập một vương quốc trần gian, nối nghiệp vương đế của nhà Đavít, Ngài khẳng định rằng Nước của Ngài không thuộc về thế gian này và Ngài đến không phải để được hầu hạ, nhưng đến để hầu hạ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người. Cái chết của Ngài là một sự dâng hiến, chứ không phải là một thất bại, đó là một sự hy sinh tự nguyện, để rồi chính Ngài có quyền phục hồi lại được. Đó là lý do tại sao Ngài đã ba lần báo trước về cuộc khổ nạn và phục sinh của Ngài.
Từ đó chúng ta đi đến kết luật đó là đừng bao giờ chờ đợi một cuộc chiến thắng mà không phải trả giá, chờ đợi một sự thành công mà không đòi đổ mồ hôi, nước mắt và gian khổ. Nhưng trái lại, cũng đừng bao giờ bi quan thất vọng mỗi khi gặp phải gian nan thử thách. Chúa mời gọi chúng ta hãy vác thánh giá mình mà đi theo Ngài, nhưng không phải với bộ mặt đưa đám hay với những rên xiết thở than, nhưng với bộ mặt cương quyết rắn rỏi, với thái độ hiên ngang vì tin tưởng vào lời Ngài đã nói: Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khổ, nhưng hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian.
8. Đau khổ.
Việc Chúa Giêsu chịu đau khổ và chịu chết, hay nói một cách khác, mầu nhiệm thập giá của Ngài mãi mãi vẫn là một điều khó chấp nhận, một cớ vấp phạm cho người Do Thái, một sự điên rồi đối với dân ngoại. Chính vì thế mà Thiên Chúa đã chuẩn bị tâm hồn mọi người để có thể hiểu được phần nào mầu nhiệm ấy.
Cuộc chuẩn bị xa xôi nhất, đó là việc Thiên Chúa đòi tổ phụ Abraham sát tế người con duy nhất của mình là Isaac, để làm của lễ toàn thiêu dâng kính Ngài. Việc đòi hỏi này thật là mâu thuẫn với lời Chúa đã phán hứa với ông. Nhưng Abraham đã không thắc mắc, đã không phản đối, trái lại ông hoàn toàn tin tưởng, và thi hành đúng theo lệnh truyền của Chúa và kết quả: Ông được gọi là kẻ công chính, còn Isaac con ông thì được cứu sống, chứ chẳng bị sát tế.
Hình ảnh của Abraham là biểu tượng cho tình thương của Chúa đối với chúng ta. Thực vậy sự công bình và lòng thương yêu của Chúa đối với chúng ta đã đòi Chúa làm một việc tương tự như Abraham, đó là không dung tha con mình, nhưng phó thác con mình cho tất cả chúng ta. Ngày xưa, Isaac không bị giết, mà Abraham vẫn được kể là kẻ công chính. Còn bây giờ, Đức Kitô đã bị giết. Ngài đã chết thực sự, nhưng sau đó Ngài sống lại, ngự bên hữu Chúa Cha, hoàn tất công trình cứu độ nhân loại và đã trở thành Đấng công chính hoá loài người.
Tiếp đến là cuộc chuẩn bị gần, như chúng ta thấy qua đoạn Tin Mừng vừa nghe chính vì muốn để cho các môn đệ thân yêu giữ vững niềm tin khi thấy mình bị đau khổ và chịu chết một cách nhục nhã trên thập giá, mà Chúa Giêsu đã tỏ lộ phần nào vinh quang của Ngài trên đỉnh Tabor. Nếu lưu ý một chút, chúng ta sẽ thấy ba môn đệ được Chúa đưa lên đỉnh Tabor hôm nay cũng chính là những môn đệ mà Ngài sẽ đưa vào vườn cây dầu trong cơn hấp hối. Qua đó chúng ta thấy, mọi biến cố, dù vui hay buồn, cũng đều là những dịp Chúa gửi đến để kêu mời chúng ta tiến sâu trong tình thân với Ngài.
Do đó, hãy biết đọc các dấu chỉ thời đại, hãy biết nhìn những sự kiện xảy ra dưới ánh sáng đức tin và trong yêu mến Chúa nồng nàn. Các môn đệ lúc đầu đã không thể hiểu ngay mọi ý nghĩa của việc Chúa biến hình. Trong đời sống thường ngày cũng vậy, đứng trước những khó khăn hay dễ dàng, gian khổ hay vui mừng, được an ủi hay bị bỏ rơi, chúng ta khó mà thấu hiểu được ý nghĩa của nó, khó mà khám phá ra được tình thương và sự công bình của Chúa. Thế nhưng, chúng ta hãy kiên tâm bền chí, trong kinh nguyện và trong suy niệm Lời Chúa, trong đời sống và trong hành động, chúng ta sẽ thấy Thiên Chúa lớn hơn con tim của chúng ta. Hãy biết tìm ra thánh ý Chúa được gởi gắm qua những sự kiện hằng ngày, nhất là nơi những đau thương, gian khổ và thập giá vì đau thương là đường lên ánh sáng, gian khổ là đường về vinh quang và thập giá là đường dẫn tới phục sinh.
9. Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P.
ĐƯỜNG LỐI CỦA THIÊN CHÚA VÀ TƯ TƯỞNG CỦA CON NGƯỜI
Hôm nay, thánh sử Máccô trình thuật câu chuyện Đức Giêsu biến hình. Việc Đức Giêsu biến hình được diễn ra sau khi vị Tông đồ trưởng tuyên xưng đức tin: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Tuy nhiên, ngay sau khi ông tuyên tín như vậy, Đức Giêsu đã tiên báo cho các ông biết trước về cuộc khổ nạn mà Ngài sẽ phải chịu. Thấy vậy, Phêrô đã can ngăn kịch liệt khi nhân danh Thiên Chúa để bảo vệ Thầy mình, ông nói: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!” (Mt 16,22).
Nhưng Đức Giêsu đã quở mắng cách nặng nề khi nói ông là “Xatan”. Ngài cũng nói thêm: Tư tưởng của Phêrô là tư tưởng của loài người, không phải là tư tưởng của Thiên Chúa.
Chính vì lý do trên, mà hôm nay, Đức Giêsu đã dẫn ba môn đệ thân tín với mình lên núi Tabor và biến hình trước mắt các ông, để qua đó, dần dần Ngài mặc khải và dẫn các ông vào đường lối cũng như tư tưởng của Thiên Chúa.
1. Lý do Đức Giêsu hiển dung
Các môn đệ là những người được Đức Giêsu đích thân tuyển chọn làm trợ tá cho Ngài, để rồi mai đây chính Ngài sẽ trao phó Giáo Hội cho các ông, ngõ hầu các ông sẽ tiếp bước đường lối và tư tưởng của Thiên Chúa!
Tuy nhiên, không thể trao phó một công trình vĩ đại, quan trọng, mang tính trường tồn cho những người lơ mơ…, trao phó như thế thì chẳng khác gì “trao trứng cho ác”.
Thiếu hiểu biết và nhiều khi hiểu sai đường lối của Đức Giêsu nơi các môn đệ thật là rõ nét, vì đã có những lúc các ông phỏng chiếu một Đức Giêsu oai phong, quyền lực, chẳng khác gì các vị tướng lãnh chốn trần ai.
Thế nên, nơi các ông, nhiều lần họ đã đôi co với nhau xem ai là người lớn nhất trong Nước Trời; có những người lại còn dẫn cả mẹ mình đến để năn nỉ kỳ nèo cho được ngồi bên tả và bên hữu trong Nước mà Đức Giêsu sẽ thiết lập; rồi cụ thể như Phêrô, chỉ cách đó có 6 ngày, ông đã đại diện cho anh em để tuyên xưng hùng hồn niềm tin của mình vào Thầy Giêsu, nhưng sau đó, khi nghe thấy Đức Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn mà Ngài sẽ phải chịu, ngay lập tức, ông đã không chần trừ, mà đã khẳng khái lên tiếng can ngăn! Như vậy, các môn đệ là những người kề vai sát cánh bên Đức Giêsu, nhưng tư tưởng của các ông vẫn lè phè dưới đất, chưa vươn lên để hiểu được tâm tư của Thầy mình.
Chính vì những lý do này, nên các ông không thể chấp nhận một Vị Tôn Sư mà mình chọn làm người dẫn dắt, lại là một người thất bại qua cái chết đau thương và nhục nhã trên cây thập tự giá như một tử tội được!
Để giúp các môn đệ, nhất là ba môn đệ thân tín mà sau này chính các ông sẽ là các chứng nhân trong những chuyện đặc biệt, nên Đức Giêsu đã đưa các ông lên núi Tabor để biến hình trước mắt các ông, nhằm củng cố đức tin, ban hành sứ điệp và đưa các ông đi vào đường lối cứu chuộc của Thiên Chúa.
2. Qua đau khổ mới đến vinh quang
Câu chuyện biến hình được khởi đi từ việc Đức Giêsu dẫn ba môn đệ của mình lên núi, và đang khi Ngài cầu nguyện “rồi Người biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy (x. Mc 9,3).
Bên cạnh Ngài còn có Môsê là người đại diện cho lề luật Cựu Ước, và Elia là ngôn sứ vĩ đại nhất. Cả hai cùng hiện ra và đàm đạo với Đức Giêsu. Điều này cho thấy: toàn bộ lề luật và lời các ngôn sứ đều quy hướng về Đức Giêsu và về cuộc khổ nạn, phục sinh của Ngài như là trung tâm của công trình cứu chuộc mà Thiên Chúa sẽ thực hiện nơi Đức Giêsu!
Khi thấy diện mạo Đức Giêsu biến đổi và khung cảnh thánh thiêng, huy hoàng tuyệt đẹp như vậy, tâm hồn các ông ngây ngất và lòng các ông hân hoan quá đỗi.
Chắc chắn trong cuộc đời của các ông chưa một lần nào được hạnh phúc như vậy! Vì thế, Phêrô đã thay lời cho Gioan và Giacôbê để thưa lên với Đức Giêsu, ông nói: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia” (Mc 9,5).
Qua lời đề nghị này của Phêrô, lại một lần nữa, nơi ông toát lên tính hưởng thụ, thực dụng…! Ông muốn được ở lại trong vinh quang với Đức Giêsu mãi mãi và không chịu đối diện với thực tế mà ông và các bạn của ông sẽ còn phải tiếp tục…!!!
Thấy được điều đó, Đức Giêsu đã không để cho các ông rơi vào tình trạng bi đát của tư tưởng: “Thích sướng, ngại khổ”. Nên Ngài đã không những khước từ đề nghị của ông, mà còn mặc khải cho ông hiểu được quy luật tất yếu của Tin Mừng, đó là: “Phải qua đau khổ mới tới vinh quang.”
Sau khi cho các ông lạc vào thiên cung, cho các ông nếm trước vinh quang Thiên Quốc, Đức Giêsu đã mời gọi các ông phải xuống núi.
Xuống núi với anh em, với đồng loại, và với những công việc thường ngày.
Xuống núi để tiếp tục cuộc hành trình theo Thầy của mình. Xuống núi trong tâm tình cảm nghiệm rõ nét con đường mà Thầy đã, đang và sẽ đi, để mai đây chính mình sẽ tiếp bước.
3. Sứ điệp Lời Chúa
Trong đời sống thực tế của nhiều người nơi cộng đoàn, đã có nhiều lần chúng ta cũng mang trong mình tư tưởng của các Tông đồ khi xưa, đó là: tham sân si; tranh gành địa vị; trọng hình thức mà quên đời sống nội tâm. Nhiều khi gây chia rẽ, lên mặt dạy đời, hay luôn chọn cho mình những công việc nhàn hạ, còn việc nặng nhọc để lại cho người khác. Rồi cũng không thiếu những người theo Chúa, tin Chúa, nhưng theo và tin kiểu công dân hạng hai, tức là lúc thuận tiện thì theo và tin…, nhưng khi gian nan thử thách đến là bỏ giữa chừng và sẵn sàng đi cầu ông nọ, khấn bà kia thay Chúa.
Đôi khi chúng ta cũng có tư tưởng thực dụng như: tìm mọi cách để níu kéo Thiên Chúa về với mình. Thiên Chúa là Đấng ta được hưởng độc quyền, còn người khác, chúng ta luôn muốn Chúa phải thẳng tay để đánh phạt họ…
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy có tư tưởng của Thiên Chúa thay cho tư tưởng của loài người. Đó là: luôn đặt ý Chúa lên trên hết. Phải biết yêu thương nhau chân thành. Xây dựng tình huynh đệ, hiệp nhất và bình an. Sẵn sàng kề vai sát cánh bên nhau cả những công việc nhẹ nhàng lẫn công việc nặng nề.
Biết đón nhận những đau khổ, thử thách trong đời sống đạo với tâm tình: “Mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Thiên Chúa” (Rm 8,28). Và: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33). Sẵn sàng lột xác để biến đổi, để từ con người ích kỷ, thành bao dung; từ chỗ thực dụng thành vô vị lợi; từ chỗ chỉ biết nghĩ đến mình, thì giờ đây biết nghĩ đến người khác; từ chỗ muốn được hạnh phúc và sung sướng mà không chấp nhận đau khổ, thành một người mang trong mình tư tưởng của Thiên Chúa và đi vào đường lối của Đức Giêsu đã đi, đó là: “Qua đau khổ mới đến vinh quang”.
Muốn thực thi được những điều trên, quan trọng nhất, chúng ta phải biết lắng nghe lời Đức Giêsu, thi hành điều Ngài dạy và đi theo Ngài trên chính con đường mà Ngài đã đi khi xưa.
Lạy Chúa Giêsu, chắc chắn đã có nhiều lần chúng con như các môn đệ khi xưa, đó là: chỉ thích sung sướng, hạnh phúc mà không biết đón nhận khổ đau. Xin Chúa khai trí mở lòng chúng con, để chúng con hiểu được đường lối cũng như tư tưởng của Chúa, từ đó, biết đi theo Chúa trên chính con đường mà Ngài đã đi để được sống đời đời. Amen.
10. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Biến cố Biến hình của Đức Giêsu trên núi cao được Tin mừng Nhất lãm tường thuật lại và được đọc trong Chúa Nhật II Mùa Chay cả ba năm A,B,C. Chúa nhật II Mùa Chay, năm B, Giáo hội cho chúng ta đọc Tin mừng theo thánh Marcô. Với những gì Thánh Marcô ghi lại, chúng ta có thể rút ra một số điểm suy niệm sau đây:
Thứ nhất, biến cố biến hình giúp củng cố niềm tin nơi các Tông đồ: Thật vậy, biến cố biến hình xảy ra sau 6 ngày Đức Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn của Ngài. Trong 6 ngày đó, các Tông đồ sống trong cảnh sầu buồn vì các ông nghĩ rằng Đức Giêsu chấp nhận bước vào cuộc khổ nạn đồng nghĩa với việc thất bại và như thế thì bao nhiêu ước mơ, hoài bảo của họ sẽ tan thành mây khói, chắc chắn các ông không khỏi thất vọng về Thầy. Sầu buồn, thất vọng vì trong tâm trí các ông còn mang tư tưởng trần tục, hy vọng theo Thầy để được làm ông nọ bà kia khi Thầy công thành danh toại. Cũng vì mang tư tưởng lệch lạc như thế nên trước đó Phêrô đã can ngăn Thầy bước vào cuộc khổ nạn và bị Đức Giêsu quở trách một cách nặng nề. Về phần Đức Giêsu, cho dù bị các môn đệ phản đối, Đức Giêsu vẫn giữ lập trường của mình, vì đó là sứ mạng của Ngài được Chúa Cha trao phó. Vì thế, để thuyết phục các ông, hôm nay Ngài đưa ba môn đệ thân tín lên núi cao và biến hình trước mặt các ông. Qua biến cố này, Ngài muốn nói với các tông đồ rằng: phải qua đau khổ mới tới vinh quang, qua khổ nạn mới bước vào phục sinh vinh hiển.
Thứ hai, biến cố biến hình mời gọi các tông đồ và chúng ta “phải vâng nghe Lời Người”: Trong cuộc sống hằng ngày, vâng lời là một đức tính nhân bản. Chúng ta được dạy phải vâng lời người trên như ông bà, cha mẹ, anh chị, thầy cô… Trong đời sống đức tin, chúng ta được dạy phải vâng lời Thiên Chúa và những người thay mặt Ngài. Chúng ta cũng được mời gọi vâng lời Đức Giêsu. Bởi vì, Ngài cũng là Thiên Chúa. Ngài được Chúa Cha sai xuống trần gian để cứu độ trần gian. Qua bài Tin mừng hôm nay, Chúa Cha đã dạy chúng ta phải vâng nghe lời Đức Giêsu rằng: “Này là con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe Lời Người” (Mc 14,9). Lời của Đức Giêsu được thể trong toàn bộ cuốn Tin mừng. Vì thế, thực hành theo Tin mừng là chúng ta vâng nghe lời Đức Giêsu. Và đó cũng là cách chúng ta thể hiện lòng yêu mến Đức Giêsu. Vì, chính Đức Giêsu đã dạy: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ Lời Thầy…” (x. Ga 14,21). Lời của Đức Giêsu được thể hiện qua Giáo huấn chính thức của Hội Thánh, qua Đức Giáo Hoàng, các Đức Giám Mục. Lời của Đức Giêsu được thể hiện qua những lời dạy bảo chính thức của các vị Bề trên, qua ông bà, cha mẹ, anh chị… Vậy chúng ta hãy biết vâng nghe Lời Người. Bài đọc I cho chúng ta tấm gương vâng lời của tổ phụ Abraham. Khi Thiên Chúa đòi ông sát tế Isaac, đứa con duy nhất của mình, để dâng kính Ngài. Mặc dầu, đây là một đòi hỏi phi lý theo cái nhìn của con người và rất mâu thuẫn với lời hứa của Thiên Chúa với ông, nhưng Abraham không hề thắc mắc hay phản đối, trái lại ông hoàn toàn vâng phục thánh ý Thiên Chúa. Điều đó, cho chúng ta thấy ông luôn tin tưởng vào Thiên Chúa và vâng lời Người. Kết quả cho thấy: Isaac được cứu sống và ông Abraham được gọi là kẻ công chính. Sau khi Đức Giêsu về trời, các Tông đồ cũng đã sống chết vì Lời của Đức Giêsu. Ước mong rằng, mỗi chúng ta cũng cần có tinh thần vâng phục như tổ phụ Abraham và như các Tông đồ xưa.
Thứ ba, biến cố biến hình đem lại niềm vui cho các Tông đồ: Sau khi chứng kiến cuộc biến hình của Đức Giêsu, ba môn đệ cảm thấy hạnh phúc. Bởi vì, biến cố biến hình diễn tả trong chốc lát hạnh phúc Thiên đàng. Vì thế, các môn đệ muốn được ở mãi với Ngài trên núi để tận hưởng hạnh phúc đó. Thánh Phêrô nói với Đức Giêsu rằng: “Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm. Chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia” (Mc 9,5). Nhưng Đức Giêsu mời gọi các ông phải xuống núi, nghĩa là phải chu toàn nhiệm vụ được giao phó, phải trải qua đau khổ mới có thể được hưởng hạnh phúc trọn vẹn trên Thiên đàng. Ước mong của các tông đồ cũng là ước mong của mỗi người chúng ta hôm nay. Vì thế, trong đời sống đức tin, mỗi người chúng ta phải cố gắng để được ở với Chúa. Được ở với Chúa khi chúng ta sống trong ơn nghĩa với Ngài. Được ở với Chúa khi chúng ta cầu nguyện sốt sắng. Được ở với Chúa khi chúng ta lãnh nhận Bí tích Thánh Thể. Được ở với Chúa khi chúng ta đọc và suy gẫm Lời Chúa. Nếu chúng ta cảm nghiệm được niềm vui trong những lúc như thế tức là chúng ta đang nếm trước hạnh phúc Thiên đàng, giống như ba môn đệ cảm nghiệm hạnh phúc trên núi Tabor. Nhưng để được hưởng hạnh phúc trọn vẹn và vĩnh cửu trên Thiên đàng chúng ta cũng cần phải xuống núi, tức là phải chu toàn bổn phận của mình, phải trải qua đau khổ thì mới tới vinh quang.
Thứ tư, biến cố biến hình nhắc nhở mọi người chúng ta phải biến hình mỗi ngày: Lâu nay, các môn đệ chỉ thấy Đức Giêsu với con người bình thường như những người khác. Nhưng qua cuộc biến hình, các Tông đồ đã thấy dung nhan Thiên Chúa của Đức Giêsu. Ngài không chỉ là con người bình thường nhưng Ngài chính là Thiên Chúa. Khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, chúng ta không còn là người “bình thường” nữa mà chúng ta được gọi là kitô hữu, trở nên con cái Thiên Chúa. Kitô hữu tức là có Chúa trong mình. Chúng ta có Chúa trong mình, chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa nên phải sống như Chúa đã sống. Để qua cuộc sống của chúng ta, mọi người sẽ nhìn thấy Chúa. Chúng ta phải nói được như Thánh Phaolô rằng: “Tôi sống nhưng không phải là tôi mà là Đức Kitô sống trong tôi.” (Gl 2,20). Nếu lúc nào đó bản chất Kitô hữu trong chúng ta bị biến dạng, hãy mạnh dạn biến đổi mình bằng sự sám hối và lãnh nhận bí tích Giao hòa để tiếp tục trở thành người kitô hữu đích thực.
Lạy Chúa Giêsu, xin củng cố đức tin cho chúng con như xưa Chúa đã củng cố đức tin cho các tông đồ để chúng con biết chấp nhận đau khổ trong cuộc sống, nhất là luôn biến đổi bản thân nên giống Đức Giêsu mỗi ngày. Amen.
11. Đây là Con Ta yêu dấu
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Biến cố Chúa biến hình trên núi đã trở thành một câu chuyện quen thuộc đối với chúng ta và như thế, chúng ta không còn chú trọng đến nhiều mà chỉ xem như một câu chuyện thông thường. Nhưng nó vẫn là một biến cố không thường, đối với các môn đệ và cho cả chúng ta hôm nay.
Chúa biến hình như một khúc nhạc dạo đầu của một bi kịch độc nhất vô nhị trên trần gian sắp diễn ra trên thập tự.
Chúa Giêsu chỉ chọn ba môn đệ mà thôi. Những môn đệ sau nầy sẽ chứng kiến rõ rệt nhất cuộc khổ nạn của Ngài, những trụ cột quan trọng nhất của Giáo Hội. Ngài đã sống giữa các ông như các ông. Xem ra Ngài tầm thường như mọi người trừ những khi Ngài làm phép lạ. Nhưng hôm nay, trên đỉnh núi, Ngài trở nên như một người không còn thuộc về trần thế nầy nữa. Vinh quang của Ngài rực sáng qua y phục của Ngài và có sự hiện diện của hai nhân vật là tiên tri Êlia và ông Môsê đàm đạo với Ngài. Những việc xảy ra gần như vượt xa khỏi tầm hiểu của các môn đệ, vì thế Phêrô ngây ngất vì thấy vinh quang của Thầy, vừa thấy hai nhân chứng quan trọng nhất của Cựu Ước hiện ra.
Ông xin làm ba lều cho Thầy và cho hai nhân vật kia, để ở lại với các Ngài lâu dài. Thời điểm nầy, dân Do thái đang mừng lễ Lều, nhắc lại thời cha ông của họ lưu lạc trong sa mạc, sống dưới lều tạm. Nhưng ý của Phêrô lại khác, vinh quang của Thầy làm ông choáng ngợp và mong ước cất ba lều để kéo dài những giây phút ngất ngây đó. Thánh Maccô không nói rõ là hiện tượng ánh sáng đó kéo dài bao lâu, và cuộc đàm đạo đó ngắn hay dài. Đối với Phêrô và các môn đệ, đây là một kinh nghiệm không thể quên. Sau nầy Phêrô còn nhắc lại trong thư thứ hai của ngài: “chúng tôi đã thấy tận mắt vẻ uy phong lẫm liệt của Ngài”.
Phêrô, trong thư thứ hai cũng nhắc đến lều là thân xác với ý nghĩa là chúng ta chỉ sống tạm trong thân xác mà thôi: “Tôi thiết nghĩ: bao lâu còn ở trong cái lều nầy… vì biết rằng sắp đến thời tôi phải bỏ lều nầy…” Khi viết những giòng chữ nầy, chắc thánh nhân cũng nhớ đến ngày nào đó, ông đã xin dựng ba lều cho Chúa và hai vị khách thiên quốc trên đỉnh núi. Giờ đây, ông đã hiểu bài học Chúa Giêsu đã cho ông trên đỉnh núi kia là thân xác chúng ta, dù chỉ là tro bụi, cũng tàng trữ vinh quang mà Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta, khi chúng ta dám theo Ngài lên đỉnh núi vinh quang và theo Ngài cho đến đỉnh núi thống khổ Canvê.
Thánh Phêrô cũng nói đến thị kiến trên đỉnh núi: “Chúa Giêsu đã được Thiên Chúa là Cha ban cho vinh quang danh dự, khi có tiếng từ trời phán với Người: “Đây là con yêu dấu của Ta, Ta hết lòng quí mến”. Tiếng nói đó, chính chúng tôi đã nghe thấy từ trời phán ra, khi chúng tôi ở trên núi thánh với Người. Lời chứng của Phêrô trùng hợp với lời tường thuật của thánh Maccô.
Chính Chúa Cha xác nhận Chúa Giêsu là Con Chí Ái của Người. Người Con đó, Chúa Cha đã ban cho chúng ta làm giá chuộc cho chúng ta như thánh Gioan cũng nói: “Thiên Chúa đã yêu thương trần gian đến nỗi ban Con Một cho trần gian”. Và hôm nay, Giáo Hội cũng nhắc đến ông Abraham được lệnh Chúa sát tế Isaac, đứa con duy nhất của ông. Một lệnh truyền rất khó thực hiện, nhưng Abraham đã vâng phục. Chúng ta hiểu thế nào là sự vâng phục tuyệt đối của ông. Ông dám vâng phục vì ông đã tin vô điều kiện. Nhưng mệnh lệnh đó đã kết thúc trong niềm vui. Phải chăng đây là hình ảnh của tình yêu vô biên của Thiên Chúa đối với chúng ta. Abraham dâng con một mình cho Thiên Chúa, Thiên Chúa lại trao ban cho chúng ta Con Một của Người. Hai hình ảnh quyện vào nhau để nói lên mối liên hệ thật sâu đậm giữa Thiên Chúa với chúng ta. Chúng ta hiến dâng cho Ngài cái gì quí nhất của chúng ta và ngược lại, chính Ngài lại ban cho chúng ta cái gì quí báu nhất của Ngài, là đứa con một yêu dấu của Ngài.
Chúa Giêsu được trao ban cho chúng ta, chính Chúa Cha đã xác nhận như thế: “Nầy là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người”. Ngài là lời nói duy nhất của Chúa Cha. Nghe lời Ngài chính là nghe lời Chúa Cha. Nghe lời Ngài không phải chỉ nghe bằng lỗ tai, cũng không như một tiếng nói, một âm thanh, mà là chấp nhận chính bản thân Ngài vì Ngài là Ngôi Lời Thiên Chúa, vì thế Ngài là sự sống. Tin vào Ngài sẽ được sống. Chúng ta nhận được một quà tặng hết sức quí báu là chính Con Một Thiên Chúa. Ngài đã được trao tặng để sống với chúng ta, và chính Ngài lại gánh vác tội lỗi chúng ta, mang lại cho chúng ta ơn tha thứ và hạnh phúc thiên đàng. Ngài làm người để biến trần gian nầy thành thiên quốc. Nhưng chúng ta không bước theo Ngài, không mấy người tin vào Ngài, không sống như Ngài, làm sao biến trần gian nầy thành thiên quốc được? Nhiều người có thể xem điều nầy chỉ là mơ mộng viễn vông, nhưng chỉ vì họ không thể thực hiện được. Chúng ta có dám sống như Ngài không? Dám hy sinh cái gì quí nhất là bản thân mình để phục vụ Chúa không? Abraham, xưa đã dám liều, và hôm nay cũng có những kitô hữu cũng đang liều mình cho Chúa và anh em trên khắp thế giới. Những người đó mới thực sự là Kitô hữu, là những chứng nhân can đảm cho tình yêu Chúa.
Chúa Giêsu đến trong trần gian, mang thân con người, sống như con người để biến hóa mọi sự. Ngài làm cho trần gian nầy mang một ý nghĩa. Trước tiên, “Ngài sẽ chết cho chúng ta… sẽ biến đổi thân xác hư hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Ngài”. Tất cả thực tại trần gian sẽ mang lấy ánh sáng của Ngài, sẽ được biến hình trong vinh quang như Ngài, chúng ta cũng sẽ được biến đổi như Ngài để thành con ánh sáng. Trần gian đang cần những con người mang ánh sáng vì càng ngày bóng tối của tội lỗi đang phủ lấp thế gian và con người càng lún sâu vào một cuộc sống vô nghĩa, không có ngày mai, không một ánh sáng hy vọng nào.
Hãy mang lấy ánh sáng của tình yêu, như Chúa Giêsu, Chúa chúng ta, Ngài đã đến thắp lên ngọn đèn hy vọng, chúng ta đừng để nó tắt đi.
Mùa Chay chính là lúc chúng ta nhìn về Chúa với tất cả lòng tin cậy, nhìn về tâm hồn chúng ta để hoán cải vì nhiều lúc chúng ta cũng trở thành bóng tối. Chúng ta đã được gọi từ bóng tối đến ánh sáng kỳ diệu của Chúa để thành con cái ánh sáng. Thánh Phaolô cũng nói: “Chúa Giêsu đã giải thoát chúng ta khỏi quyền lực tối tăm và đưa vào vương quốc Thánh Tử chí ái…” Ngài cũng bảo chúng ta hãy mặc lấy khí giới của ánh sáng. Đó chính là ơn gọi của Kitô hữu. Giữa một thế giới mịt mù anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên trời, thánh Phêrô cũng căn dặn như thế.
Chúng ta chỉ có một chọn lựa là theo Chúa chúng ta trên con đường Ngài đã vạch ra cho chúng ta. Phải từ bỏ những hành vi ám muội và sống thánh thiện. Muốn như thế, chỉ có một con đường:đóng đinh con người cũ vào thập giá, đi vào cuộc tử nạn với Chúa.
Nói thì nghe rất dễ, nhưng thực tế không dễ. Chúng ta vẫn thích an nhàn, sống không có vấn đề. Đặt lại vấn đề đã là khó rồi, thực hiện càng cam go hơn. Con đường nên thánh không loại trừ hy sinh và can đảm. Chúa Giêsu bước vào cuộc khổ nạn, Ngài đã run lên sợ hãi đến nỗi mướt mô hôi máu, nhưng Ngài đã đi đến cùng, vâng phục đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên thập giá. Từ bỏ những tật xấu là một điều ai cũng muốn, nhưng dám can đảm đi đến cùng là một điều không dễ. Chúng ta ngại ngùng, điều đó là điều không thể tránh. Đó là cái giá phải trả. “Xác thịt thì nặng nề”. Chúa không bảo chúng ta ngồi bóng mát ăn bát vàng, mà ngược lại dấn thân quyết liệt vào con đường hoán cải, tín thác vào tình yêu. Chỉ có tình yêu mới đủ sức vực chúng ta dậy để bước tới mỗi ngày.
Chúa Giêsu đã đi đến cùng, đã dám đối mặt với mọi đau đớn nhục hình chỉ vì ngài đã yêu Chúa Cha và Ngài đã chứng minh tình yêu của Ngài bằng sự vâng phục triệt để như thế. Chúng ta không thể nên thánh nếu không biết yêu mến Chúa và yêu mến Chúa chính là giữ lời Người. Đó là điều Chúa Cha đã dạy chúng ta. Đó cũng chính là con đường duy nhất dẫn chúng ta đến hạnh phúc Thiên đàng.
Hôm nay, trong giờ phút nầy, Chúa Giêsu có mặt bằng Tấm Bánh nhỏ, tấm bánh tình yêu. Chỉ vì yêu mà Ngài đã chấp nhận thân phận một chiếc bánh nhỏ. Và chính đó là dấu hiệu rõ rệt nhất của tình yêu vô biên của Ngài. Ngài không từ chối một điều gì để yêu mến chúng ta. Chúng ta từ chối Ngài chăng?
Trong mùa Chay thánh nầy, hãy đến với Ngài thường xuyên, ăn lấy Ngài để cùng với Ngài, trở nên ánh sáng cho trần gian như Ngài đã mong ước.
12. Biến hình – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.
Trong đời, có những giây phút mà ta mong muốn kéo dài mãi, nhưng nó lại trôi qua nhanh như làn gió thoảng. Đó là những giây phút hạnh phúc. Giây phút ấy thánh Phêrô hôm nay đã được hưởng khi nhìn ngắm dung nhan Đức Giêsu biến hình. Đức Giêsu đưa ba môn đệ thân tín theo trong cuộc biến hình để huấn luyện họ. Cuộc biến hình của Người diễn tiến qua ba giai đoạn.
Giai đoạn thứ nhất: lên núi.
Theo quan niệm của người Do thái núi cao là nơi Chúa ngự. Vì thế lên núi là đi gặp gỡ Chúa. Lên núi là một việc làm đòi nhiều cố gắng. Phải dứt bỏ khỏi những ràng buộc của cuộc sống thường ngày với những lo toan bận bịu cho bản thân, cho gia đình. Phải dành thời giờ rộng rãi cho việc leo núi. Phải phấn đấu với bản thân khi leo lên độ cao dốc dác khó đi. Nhưng lên đỉnh rồi ta sẽ thấy tâm hồn nhẹ nhàng thư thái. Đức Giêsu chỉ đưa theo ba môn đệ thân tín vì gặp gỡ với Chúa là một gặp gỡ thân tình. Chúa muốn ta đến với Chúa trong tình thân mật. Chúa muốn cùng ta thực hiện một tương giao giữa tâm hồn với tâm hồn. Chúa muốn cùng ta đối thoại riêng tư diện đối diện. Tình yêu triển nở trong thiên nhiên và trong thanh vắng. Núi cao thanh vắng là nơi chốn thuận tiện cho ta đón nhận tình yêu của Chúa và bày tỏ với Người tình yêu của ta.
Giai đoạn thứ hai: biến hình.
Trên núi cao, Đức Giêsu gặp gỡ thân mật với Chúa Cha. Bỗng chốc Người biến hình. Y phục trở nên trắng như tuyết. Khuôn mặt Người sáng láng. Thực ra, ai gặp được Chúa cũng đều biến hình. Ta hãy nhớ lại ông Môsê. Sau khi ở trên núi Sinai 40 đêm ngày tiếp xúc thân mật với Chúa, mặt ông trở nên sáng láng đến độ, khi ông xuống núi, dân chúng không dám nhìn vào. Ông phải lấy khăn che mặt, dân chúng mới dám đến gần ông. Gần đèn thì sáng. Tiếp xúc thân mật với Chúa sẽ làm thay đổi tâm hồn ta. Tình yêu của Chúa sẽ đốt nóng tâm hồn ta, xua đi sự thờ ơ nguội lạnh. Sự dịu dàng của Chúa sẽ làm cho ta bớt đi tính độc ác khắc nghiệt. Sự khiêm nhường của Chúa sẽ diệt trừ thói kiêu căng trong ta. Sự bao dung của Chúa sẽ mở rộng tâm hồn để ta biết đón nhận anh em. Sự tha thứ của Chúa đổi mới tâm hồn, rửa sạch mọi nhơ uế trong ta. Càng gần gũi Chúa, tâm hồn ta càng được thanh luyện khỏi mọi nhỏ nhen, ích kỷ. Càng yêu mến Chúa, ta càng thêm yêu mến anh em. Càng kết hiệp mật thiết với Chúa, tâm hồn ta càng nên giống Chúa hơn.
Giai đoạn ba: xuống núi.
Khi đã hưởng nếm hạnh phúc ngọt ngào ở bên Chúa rồi, ta chẳng muốn lìa xa Chúa nữa. Thánh Phêrô, trong giây phút hạnh phúc tuyệt vời, đã xin Chúa cho dựng ba lều để ở lại vĩnh viễn trên núi. Nhưng giây phút hạnh phúc thật ngắn ngủi. Đức Giêsu đưa các môn đệ trở xuống. Xuống núi để chu toàn nhiệm vụ trần gian. Nhiệm vụ ấy rất nặng nề. Đức Giêsu phải chịu đau khổ, chịu vác thánh giá, chịu đóng đinh, chịu chết rồi mới phục sinh. Thánh Phêrô cùng các tông đồ còn phải phấn đấu với những yếu đuối, sa ngã, còn phải nỗ lực vượt qua mọi khó khăn thử thách trong việc rao giảng Tin Mừng, còn phải chịu đau khổ vì Thầy chí thánh, còn phải trải qua cái chết đớn đau rồi mới tới được Núi Thánh thiên quốc như lòng mong ước.
Trong cuộc sống người tín hữu, lên núi chính là những giây phút dành cho việc cầu nguyện, tiếp xúc thân mật với Chúa. Đó là những buổi tham dự thánh lễ, đọc kinh và nhất là những giờ cầu nguyện riêng tư, những buổi tĩnh tâm lâu giờ trong thinh lặng. Để đến với Chúa và nhất là để kết hiệp với Chúa trong những giờ cầu nguyện, ta phải phấn đấu rất nhiều.
Trong thân mật, Chúa sẽ dạy bảo ta về đường lối của Chúa, sẽ uốn nắn ta theo chương trình của Người và sẽ biến đổi ta nên giống hình ảnh Người. Ta có thể cộng tác vào cuộc biến hình khi khao khát kết hiệp với Chúa, khi cố gắng thanh luyện bản thân, khi quên mình, ngoan ngoãn để mặc Chúa hướng dẫn bước đường.
Kỷ niệm ngọt ngào trong những giờ sống hạnh phúc bên Chúa sẽ là sức mạnh nâng đỡ ta trong những khó khăn gian khổ của đời sống. Núi thánh sẽ trở thành quê hương yêu dấu để tâm hồn ta luôn hướng về, dù còn phải vượt qua rất nhiều trở ngại cách ngăn. Thiên đàng thoáng thấy qua những giờ kết hiệp với Chúa sẽ là nguồn động viên giúp ta chu toàn mọi nghĩa vụ của con người. Như thế, khi đã xuống núi rồi, ta vẫn còn mong ước và sẽ trở lên núi mỗi khi có dịp.
Lạy Trái Tim Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng, xin uốn lòng con nên giống Trái Tim Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Một số bạn trẻ tiêu tốn nhiều thời giờ và tiền bạc cho sắc đẹp bên ngoài. bạn nghĩ gì về tương quan giữa vẻ đẹp bên ngoài và vẻ đẹp bên trong tâm hồn?
2- Cầu nguyện có thể làm con người ‘biến hình’. Bạn có tin điều đó không? bạn có quen ai đã biến đổi sâu xa nhờ cầu nguyện không?
3- Bạn đã có kinh nghiệm về việc sống hạnh phúc với Chúa bao giờ chưa?
4- Mùa Chay này bạn có thực sự muốn ‘biến hình’ không? Bạn sẽ làm gì để thực hiện ước nguyện đó?
13. Sống thân mật với Chúa
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu ấy là một tình yêu sáng tạo không bao giờ ngừng nghỉ. Thiên Chúa vẫn từng phút từng giây đổ tràn tình yêu của Người vào đời sống ta. Tình yêu ấy là một tình yêu tha thứ. Thiên Chúa là người Cha nhân hậu sẵn sàng tha thứ và đón nhận những đứa con hoang đàng trở về. Tình yêu ấy là một tình yêu mong đợi. Thiên Chúa mong đợi ta hiểu biết tình yêu của Người, đền đáp tình yêu của Người, đến sống thân mật với Người.
Niềm khao khát sống thân mật được tỏ bày qua việc Đức Giêsu đưa ba môn đệ thân tín lên ngọn núi cao. Chỉ chọn riêng ba người vì sự thân mật không thể có giữa đám đông. Sự thân mật chỉ có trong một nhóm nhỏ, vì sự thân mật là mối tương giao giữa tâm hồn với tâm hồn. Chúa muốn gặp gỡ riêng ta với Người, muốn có cuộc trò chuyện riêng tư với từng người. Đức Giêsu đưa họ lên núi cao. Núi cao là nơi yên tĩnh. Tình thân mật không thích những chỗ ồn ào. Tình thân mật được phát triển ngoài thiên nhiên, trong thanh vắng. Lên núi cao là bỏ lại sau lưng những phiền toái trần tục, để dành hết tâm tư, thời giờ cho cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa. Trong Cựu Ước, núi cao là nơi Chúa ngự. Lên núi cao có nghĩa là đến gặp Chúa. Trong gặp gỡ thân mật, Chúa sẽ mặc khải cho ta biết nhiều điều về Chúa và về bản thân ta.
Trước hết Chúa cho ta hiểu biết về Người. Chúa đưa ta vào đời sống thâm sâu của Người. Đó là sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa. Sự sống của Ba Ngôi là tình yêu, một tình yêu không ngừng trao tặng và không ngừng nhận lãnh. Tình yêu đó là nguồn mạch sự sống và là nguồn mạch hạnh phúc. Sự sống và hạnh phúc ấy đổ tràn vào tâm hồn những ai đến sống thân mật với Chúa. Ai đã một lần nếm cảm hạnh phúc ấy rồi, vĩnh viễn không thể tách rởi Thiên Chúa được nữa. Chính vì thế, sau khi ngắm nhìn dung nhan Đức Giêsu và sau khi nghe lời Chúa Cha nói: “Đây là Con Ta yêu dấu”, thánh Phêrô cảm nhận được niềm hạnh phúc ngập tràn đến độ muốn ở lại mãi mãi trên núi, không muốn trở xuống nữa. Chúng ta nhớ lại hai môn đệ Gioan và Anrê, sau một buổi chiều sống với Đức Giêsu đã quyết định theo làm môn đệ của Người. Thánh Phaolô sau khi được đưa lên tầng trời thứ ba đã mạnh dạn nói: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Chúa Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?… Không, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8,35-39).
Sau khi cho ta hiểu biết người, Chúa cho ta hiểu biết chương trình của Người. Chương trình của Chúa là chương trình của tình yêu. Tình yêu được minh chứng qua sự hy sinh quên mình. Chúa Cha, vì yêu thương ta, đã đành hy sinh Con Một yêu quý của Người. Tình yêu ấy được diễn tả qua hành động của Abraham mà ta nghe đọc trong bài đọc thứ nhất. Chúa Con, vì yêu thương ta, đã chấp nhận liều mạng sống như lời Người nói: “Không có tình yêu nào lớn lao bằng tình yêu người dám hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu”. Chương trình tình yêu của Chúa để cứu chuộc ta được thực hiện qua sự đau khổ và cái chết trên thập giá của Đức Giêsu.
Sau cùng, trong thân mật với Chúa, Chúa cho ta hiểu biết về bản thân mình. Gần bên Chúa quyền năng, ta thấy mình chỉ là cát bụi. Sống trong trái tim dịu dàng của Chúa, ta thấy mình quá độc ác dữ tợn. Hưởng nếm tình yêu của Chúa rồi, ta thấy mình chỉ là phường bội nghĩa vong ân. Uống vào suối nguồn sự sống của Chúa, ta khám phá ra những mầm mống chết chóc mà ta ấp ủ trong mình. Tiếp cận với nguồn ánh sáng tinh tuyền của Chúa, ta thấy mình chỉ là bóng tối nhơ uế.
Hiểu biết những sự thực về Chúa và về bản thân, ta sẽ có một cái nhìn khác về con người và thế giới. Ta sẽ nhìn mọi người bằng ánh mắt của Thiên Chúa. Ta sẽ nhìn thế giới như thể nó đã được biến hình trong Đức Giêsu. Ta sẽ nhìn thấy tình yêu Chúa dành cho mỗi người. Mỗi người đều là kết quả của tình yêu cứu độ của Chúa. Ta cũng sẽ nhìn thấy con đường mình phải đi là con đường Thánh giá. Chính những đau khổ sẽ thanh luyện, giúp ta nên tinh tuyền để càng ngày càng gần gũi thân mật với Chúa hơn.
Lạy Chúa, xin thanh tẩy tâm hồn con. Amen.
CÂU HỎI GỢI Ý
1) Bạn đã có kinh nghiệm về sống thân mật với Chúa chưa?
2) Sống thân mật với Chúa ta sẽ hiểu biết gì?
3) Trong mùa Chay này, bạn có dành thời giờ để sống thân mật với Chúa không?
14. Nhìn vào mặt tốt – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Đời người có mặt tối và mặt sáng, có mặt tốt và mặt xấu, có mặt phải và mặt trái, có lúc phấn khởi vui tươi cũng có những lúc ủ dột ưu sầu…
Khi Chúa Giêsu tỏ cho các môn đệ biết Người phải lên Giê-ru-sa-lem để chịu khổ hình và chịu chết, các môn đệ cảm thấy rúng động tâm hồn!
Không lẽ cuộc đời của Thầy Giêsu lại kết thúc bi đát đến thế ư?
Đã bao lần họ mơ tưởng đến một tương lai huy hoàng khi được ngồi bên tả, bên hữu vua Giêsu trong vương quốc vinh hiển của Người; lẽ nào giấc mộng vàng đó lại sớm tan thành mây khói? Nếu Chúa Giêsu mà còn phải chịu số phận oan nghiệt như thế thì số phận các ông rồi sẽ ra như thế nào đây?
Không chấp nhận viễn ảnh đen tối ấy, ông Phêrô kéo riêng Chúa Giêsu ra và lên tiếng trách móc, tìm cách can gián để Người đừng đón nhận sứ mạng đau thương ấy (Mc 8,32).
Để củng cố tinh thần các môn đệ đang sa sút trước tin chẳng lành vừa loan báo, “sáu ngày sau, Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo mình. Người đưa các ông… tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy. Và ba môn đệ thấy ông Ê-li-a cùng ông Mô-sê hiện ra đàm đạo với Đức Giêsu.”
Bấy giờ tinh thần ba môn đệ hết sức phấn chấn. “Ông Phêrô thưa với Chúa Giêsu rằng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a.”
“Bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người.”
Thế là nhờ chứng kiến sự vinh hiển của Chúa Giêsu trong giờ phút vinh quang của Người trên núi cao, ít nữa có môn đệ Gioan vững bước theo Chúa Giêsu đến cùng trên đường khổ nạn.
* * *
Đời người có mặt tối và mặt sáng, có mặt tốt và mặt xấu, có mặt phải và mặt trái, có lúc phấn khởi vui tươi cũng có những lúc ủ dột ưu sầu.
Cuộc đời Chúa Giêsu cũng có mặt sáng mặt tối. Mặt tối là đêm vườn Dầu đau thương ảm đạm; mặt sáng là cuộc biến hình sáng láng trên núi cao. Nếu các môn đệ chỉ nhìn thấy mặt đen tối, mặt u ám của đêm vườn Dầu, lúc Chúa Giêsu bộc lộ nhân tính hèn yếu của mình, tỏ ra kinh khiếp hãi hùng trước cuộc khổ nạn sắp tới đến nỗi phải đổ mồ hôi máu và phải van lơn cầu khẩn với Chúa Cha xin cho khỏi uống chén đắng (Lc 22,41-44)… mà không thấy được mặt sáng của Người trên núi cao thì các ông sẽ ngã lòng thất vọng. Và biết đâu, các vị đào tẩu hết, lấy ai làm nhân chứng cho biến cố phục sinh! Lấy ai loan báo Tin Mừng cứu độ?
Vì thế, Chúa Giêsu cho các ông thấy mặt sáng của Người trước, qua việc tỏ cho các ông thấy dung mạo sáng láng vinh hiển của Người, tỏ cho họ thấy Người là “Con yêu dấu của Thiên Chúa Cha” để động viên tinh thần các ông khỏi sa sút, thất vọng trong đêm vườn Dầu sắp đến.
***
Ngôi nhà nào cũng có mặt trước mặt sau. Nếu người ta chỉ nhìn mặt sau tồi tàn của ngôi nhà mà không nhìn mặt tiền hoành tráng của nó, người ta sẽ thất vọng vì nó.
Tấm huy chương nào cũng có mặt trái mặt phải. Nếu chỉ biết mặt trái sần sùi của tấm huy chương mà không để mắt đến mặt phải vinh hạnh của nó, thì người ta sẽ xem thường nó.
Hoa hồng rất đẹp và kiêu sa nhưng cũng đầy gai. Nếu người ta chỉ chú trọng đến những gai nhọn của hoa hồng mà không để ý đến sắc hương tuyệt vời của nó thì hoa hồng chẳng còn gì hấp dẫn.
Đối với người anh em chung quanh cũng thế. Mỗi người đều có mặt sáng và mặt tối, mặt tốt và mặt xấu. Không ai hoàn toàn tốt, chẳng ai hoàn toàn xấu. Nếu chúng ta chỉ nhìn vào mặt đen tối của một con người, mà quên đi mặt sáng của họ; nhìn vào nhược điểm mà quên đi ưu điểm, thì chúng ta sẽ rất thất vọng về người đó.
Sự kiện Chúa Giêsu tỏ cho ba môn đệ thân tín cảm nhận thời khắc vinh hiển của Người trên núi cao để chuẩn bị tinh thần các ông đương đầu với thời khắc đen tối của Người trong đêm vườn Dầu và đêm khổ nạn, là bài học cho chúng ta trong tương quan với người khác.
Nhờ ngắm nhìn cụm hoa hồng rực rỡ kiêu sa và thưởng thức hương thơm dịu dàng của nó, người ta quên đi những gai nhọn đáng phàn nàn của nó.
Ước gì chúng ta cũng biết nhìn vào điểm sáng, điểm tốt, vào ưu điểm của người khác để dễ dàng cảm thông với những mặt trái, mặt xấu của họ.
Nhờ đó, chúng ta cảm thấy những người quanh dễ thương hơn; tương quan của ta với người khác được cải thiện tốt hơn và đời sống giữa chúng ta với nhau sẽ hạnh phúc hơn.
15. Từ Tabor đến Golgotha – Thiên Phúc
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Một linh mục qua nhiều năm coi xứ đã kể một câu chuyện khá dí dỏm và cũng sâu sắc như sau:
Có một đôi vợ chồng trẻ rất xinh đẹp và sống với nhau cũng rất khéo. Đúng là một cặp “trai tài gái sắc”. Có lẽ chính nét trẻ trung xinh xắn của vợ chồng đã cho họ một mùa xuân cuộc đời thật nồng cháy tình yêu và hạnh phúc.
Một ngày nọ, người vợ ăn một nửa trái táo, rồi tặng chồng phần kia. Người chồng vui vẻ đón nhận:
– Ôi nửa trái táo ân tình, công chúa của lòng anh!
Hai mươi năm sau. Cũng đôi vợ chồng ấy, cộng thêm những nét tàn tạ của thời gian. Cũng một trái táo, vợ ăn một nửa, mời chồng phần còn lại. Nhưng người chồng nhăn mặt:
– Sao lại cho nửa trái táo ăn thừa?
Tất cả nguyện trạng chỉ khác có nhan sắc. Cũng nửa trái táo dâng tặng nhưng hai mươi năm trước nhận từ tay “người đẹp” là trái táo ân tình. Hai mươi năm sau từ tay “nàng già” là trái táo ăn thừa. Nếu chỉ dựa vào nhan sắc người ta sẽ mất hết tất cả với thời gian.
***
Cuộc biến hình trên núi Tabor được xếp đặt trước việc tiên báo khổ nạn. Nếu người ta làm cho an toàn những viên thuốc đắng bằng một lớp vỏ bọc đường, thì Đức giêsu cũng hóa giải tin khổ nạn bằng cuộc biến hình rực rỡ. Bọc đường chứ không bọc thuốc ngủ. Hóa giải chứ không gây mê.
Nhưng có lẽ cuộc biến hình đã phản tác dụng: “Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm, chúng con xin dựng ba lều, một cho Thầy, một cho Moi sê và một cho Elia” (Mc 9,5). Vậy là Phêrô, Giacôbê và Gioan muốn đăng ký thường trú trên đỉnh núi Tabor. Họ đòi ngủ yên trong hào quang rực rỡ. Họ bỏ lại dưới chân núi các bạn đồng môn, các cuộc truyền giáo. Họ muốn xa rời dân chúng đang khao khát Lời Chúa.
Các ông đâu biết rằng Thầy Giêsu chỉ lên đỉnh Tabor trong chốc lát, rồi xuống núi chuẩn bị vác thập giá lên đồi Canvê. Theo Thầy không phải là lên cao hưởng thụ, nhưng là xuống thấp và leo lên thập giá với Thầy.
Cũng như ba môn đệ, đôi vợ chồng trong câu chuyện kể trên chỉ muốn dừng lại ở vẻ đẹp. Nhưng vẻ đẹp đâu tồn tại mãi, Chúa chỉ mặc “tấm áo trắng như tuyết” trong chốc lát vì niềm hy vọng Phục Sinh. Cuộc đời cần hạnh phúc chứ không phải vẻ đẹp.Vẻ đẹp là một ân huệ của trời, nhưng cũng có thể là cạm bẫy cướp đi hạnh phúc.
Giá trị đích thực chính là tình yêu, chính do tình yêu mà đôi vợ chồng mới giữ được lòng chung thủy, chính do tình yêu mà các Kitô hữu mới trở nên bóng hình xinh đẹp rực rỡ của Chúa. Chính do tình yêu mà chúng ta phải biến hình đổi dạng mỗi ngày để phản ánh vinh quang ngời sáng của Người.
Đức Kitô vinh quang của Tabor cũng chính là Đức Kitô rong ruổi trên các đường phố Palestine rao giảng, chữa bệnh và làm phép lạ.
Đức Kitô sáng láng của Tabor cũng chính là Đức Kitô thắm đẫm mồ hôi trong vườn Giếtsimani.
Đức Kitô rực rỡ của Tabor cũng chính là Đức Kitô treo trên thập giá đỉnh Golgotha.
Hai đỉnh núi Tabor và Golgotha cách nhau không xa, nhưng lại là con đường vạn lý, con đường đau khổ, con đường vượt qua: Đường tình yêu. Theo Thánh Teresa thành Lisieux: “Sống tình yêu không phải là căng lều trên đỉnh Tabor, mà là cùng với Giêsu ta trèo lên đồi Canvê”. Thánh Bernadette cầu nguyện: “Con không xin cho mình khỏi phải đau khổ, nhưng chỉ xin Người đừng bỏ con trong khổ đau”.
***
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn can đảm tiến bước trên đường đời chông gai vạn nẻo, với niềm hy vọng biến cố Phục Sinh sẽ bừng sáng. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Đức tin như một con mắt thần hướng chúng ta đến một cách sống bình an, phó thác, nhìn đau khổ và cái chết như những phương tiện dẫn đến vinh quang. Đó là chủ đề mà lời Chúa muốn nhắn nhủ chúng ta.
Chúng ta hãy lấy một thí dụ như trường hợp Áp-ra-ham trong bài đọc một. Khi gần trăm tuổi, ông được Thiên Chúa hiện ra và nói sẽ ban cho ông một người con trai. Đó là người con duy nhất của Áp-ra-ham với vợ chính là Sa-ra, lúc ấy cũng gần 90 tuổi. Điều này đã là một sự lạ lùng đối với Áp-ra-ham và Sa-ra, nhưng Thiên Chúa đã thực hiện. Sau đó, Thiên Chúa muốn thử đức tin của Áp-ra-ham, nên phán bảo ông đem đứa con duy nhất ấy lên núi làm lễ toàn thiêu. Tất nhiên Áp-ra-ham rất đau lòng, nhưng nhờ đặt trọn niềm tin vào sự chỉ dạy của Thiên Chúa, ông đã vâng lời và cầm dao giết con. Cuối cùng, Thiên Chúa đã nhận “lòng tôn kính và tin yêu” của Áp-ra-ham, vì đã không tiếc một thứ gì nếu Thiên Chúa muốn, nên miễn cho ông khỏi giết con và chúc phúc cho ông. Chúng ta thấy đức tin đã đem lại cho con người một sức sống mãnh liệt biết bao.
Hơn thế, đức tin còn giúp con người vượt thắng mọi đau khổ thể xác và tinh thần, mọi bất lực theo khả năng tự nhiên của con người và khoa học. Trở lại câu chuyện của Áp-ra-ham, chúng ta thấy chính đức tin đã trấn an mối thương tâm của người cha phải cầm dao giết con mình, làm lễ tế cho Đấng mà ông hết lòng tin tưởng.
Như vậy, đức tin giúp con người sẵn sàng đón nhận đau khổ, vững lòng khi gặp đau khổ và chiến thắng đau khổ để đạt tới một mục đích cao đẹp hơn. Cụ thể, trong bài Tin Mừng, khi thấy các môn đệ quá sợ đau khổ, không muốn chấp nhận cuộc khổ nạn của Chúa, nên Chúa đã hé mở vinh quang của Nước Thiên Chúa để hun đúc cho các ông một niềm tin, một hy vọng để sống. Một đức tin mà Chúa đòi hỏi các ông phải có nếu muốn dự phần vinh quang với Ngài. Như thế, có thể nói, đức tin là nhân và vinh quang là quả, giúp chúng ta nhận chân giá trị mọi đau khổ trên trần gian này, để từ đó chúng ta can đảm, sáng suốt đón nhận và giải quyết mọi thử thách đến trong đời sống hàng ngày.
Có một câu nói diễn đạt kinh nghiệm sống đạo, sống niềm tin trong đau khổ thật sâu xa, đó là “Khi Thiên Chúa đóng cửa chính thì Ngài mở ra cửa sổ”. Thiên Chúa đóng cửa chính là khi chúng ta gặp thử thách, đau khổ, không còn có thể nhìn thấy ánh sáng, sự hiện diện đầy quan phòng của Thiên Chúa. Đó là khi Thiên Chúa xem ra như bỏ rơi, mặc chúng ta đương đầu với thử thách, khó khăn. Lúc đó chúng ta cần nhớ rằng: Thiên Chúa, Ngài sẽ mở cửa sổ, mở ra một lối thoát, một giải đáp, một hướng đi mới cho cuộc đời chúng ta.
Chẳng hạn, Thiên Chúa đóng kín cửa chính trong cuộc đời chúng ta, khi chúng ta trải qua cơn bệnh nặng, thì Ngài lại mở ra cửa sổ, cho chúng ta gặp được bác sĩ tận tình tài giỏi để chữa bệnh. Thiên Chúa đóng kín cửa chính khi chúng ta bị mất mát, thua thiệt, nhưng Ngài mở ra cửa sổ khi Ngài cho chúng ta gặp được những tâm hồn quảng đại sẵn sàng giúp chúng ta bắt đầu lại cuộc đời. Thiên Chúa đóng cửa chính khi chúng ta bất ngờ phải mang tang người thân, thì Ngài lại mở ra cửa sổ là trong gia đình được hòa thuận lại với nhau…
Thiên Chúa đóng cửa chính nhiều lần trong cuộc đời mỗi người, nhưng đồng thời Ngài cũng mở ra những cửa sổ để hướng chúng ta đến một điều tốt đẹp hơn mà trước đó chúng ta không ngờ. Những kinh nghiệm đau thương, tiêu cực mà chúng ta gặp phải trong cuộc đời, đôi khi đó là tiếng nói của Thiên Chúa để mời gọi chúng ta bước ra khỏi một hoàn cảnh không tốt đẹp, để chuẩn bị chúng ta sẵn sàng hơn đón nhận những hồng ân mới. Nhìn lại cuộc sống, có thể mỗi người chúng ta cũng đã cảm nghiệm được những giây phút Thiên Chúa như đóng kín cửa chính, nhưng đồng thời Ngài cũng mở ra những cửa sổ, những viễn tượng mới, tốt đẹp hơn cho cuộc đời chúng ta. Vì thế, khi gặp thử thách, đau khổ, chúng ta đừng bao giờ chán nản, thất vọng, nhưng hãy tin tưởng và cầu nguyện, càng phải cầu nguyện nhiều hơn bình thường, để xin thêm đức tin và kiên nhẫn. Tin tưởng và kiên nhẫn, vì khi Thiên Chúa đóng kín cửa chính, Ngài sẽ mở ra cửa sổ.
Chúng ta vẫn thường nói: “Chạy trời không khỏi nắng”, nghĩa là ở đâu cuộc đời cũng có những khổ luỵ của nó, và ngày nào cũng có nỗi khổ của ngày ấy. Như vậy, đau khổ tự nó là một điều xấu, không ai ham, không ai muốn. Vậy đau khổ có giá trị không? Tự nó chẳng có giá trị gì cả, nhưng cái làm cho đau khổ có giá trị, có công phúc chính là thái độ của người đau khổ. Vì thế, những khi gặp đau khổ, chúng ta đừng bao giờ phàn nàn, kêu trách Chúa, cũng đừng bao giờ rủa mình, than thân trách phận, chán nản, buông xuôi, nhưng hãy tự cố gắng và hãy giúp đỡ nhau, nhất là hãy tin tưởng, cậy trông và gia tăng cầu nguyện xin Chúa trợ giúp, vì Chúa đã nói: “Hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, hãy đến với Tôi, Tôi sẽ nâng đỡ bổ sức cho”.
17. Chữ tình? – Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Tình yêu, hai tiếng thân quen mà rất khó diễn đạt. Chuyện cũng thường tình, vì nhiều thi nhân đã từng hỏi: đố ai biết chữ tình là chữ chi chi? Mùa chay là mùa đặc biệt mời gọi đoàn tín hữu hoán cải ăn năn. Ăn năn hoán cải, không nguyên chỉ vì thấy sự xấu xa của kiếp tội đòi mà còn vì cảm nhận mối tình bao la mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Thấy sự xấu xa và bi đát của thân phận tội lỗi của bản thân, để rồi quay bước trở về là điều chính đáng và hợp lý, nhưng chưa hẳn là sâu xa và lâu bền. Một sự hoán cải, trở về dựa trên niềm xác tín vào tình yêu của Thiên Chúa mới thực sự là bền vững và sâu xa hơn nhiều. Giáo lý Công giáo đề cập đến hiện thực này khi phân biệt hai hình thức ăn năn tội đó là ăn năn tội vì Chúa và ăn năn tội vì mình, nói cách khác là ăn năn tội cách trọn và ăn năn tội cách chẳng trọn. Để góp phần giúp chúng ta trở về cách trọn hảo hơn, xin được chiêm ngắm tình yêu của Thiên Chúa qua các bài đọc của Chúa Nhật II Mùa Chay B này.
Yêu mến ai thì không chỉ muốn mà còn tìm mọi cách thế để hiến dâng điều tốt nhất của mình cho người mình yêu. “Hãy đem con của ngươi, đứa con một yêu dấu của ngươi là Isaac, hãy đi đến xứ Môrigia mà dâng nó làm của lễ toàn thiêu ở đấy, trên một ngọn núi Ta sẽ chỉ cho” (St 22,2). Được hiểu như là lệnh truyền của Thiên Chúa, nhưng thật ra đó chính là tấm lòng của Abraham dành cho Đấng đã kêu gọi ông ra khỏi nơi quê cha đất tổ mà tiến về hứa địa. Dù băn khoăn, đau xót, nhưng Abraham vẫn muốn hiến dâng điều tốt nhất của mình là chính sự sống nối dài của mình, qua người con một.
Tình yêu thật diệu kỳ. Chính khi trao dâng là lúc lãnh nhận và lãnh nhận gấp trăm, gấp nghìn lần. Abraham đã không mất người con một yêu quý, mà đã trở thành cha của một đoàn con đông đảo “như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển”. Tình yêu thật diệu kỳ. Một lẽ như nhiên, vì “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1Ga 4,8). Là Đấng phải được mọi vật mọi loài tôn thờ và chúc tụng, là Đấng đáng được mọi người thần phục mến yêu và hiến dâng tất cả, thì Thiên Chúa lại trao ban tất cả cho chúng ta. Thánh Tông đồ dân ngoại đã luận lý rằng: Một khi Thiên Chúa đã ban chính Con Một cho chúng ta thì lẽ nào Người lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta? (x.Rm 8,32).
Các Tin Mừng Nhất Lãm đều tường thuật sự kiện Chúa Giêsu biến hình trên núi Tabôrê. Có Êlia và Môsê hiện ra và đàm đạo với Người. Nội dung đàm đạo là về cuộc khổ nạn mà Chúa Giêsu sắp chịu tại Giêrusalem. Và đó chính là đỉnh cao của tình yêu Thiên Chúa tặng ban cho nhân loại. Vì không có tình yêu nào cao quý cho bằng mối tình của người hiến dâng mạng sống vì người mình yêu (x.Ga 15,13). Đây không phải là một tình cảm nhất thời mang tính tự phát, nhưng là một ý đinh có từ ngàn đời qua một chương trình được chuẩn bị từ ngàn xưa, mà sự hiện diện của Môsê và Êlia, đại diện cho Lề luật và hàng Ngôn sứ là một minh chứng khả tín.
Nếu nói rằng Thiên Chúa trao ban chính Con Một, vì nhân loại bội phản, bất trung, sa ngã, phạm tội thì quả không sai. Nhưng nếu nói rằng Thiên Chúa hiến ban Con Một của Người cho nhân loại để mạc khải chính Người là Tình Yêu thì đúng hơn nhiều. “Biên giới của tình yêu là một tình yêu không biên giới”.
Thập giá Chúa mời gọi ta hoán cải. Mùa chay, mùa đặc biệt mời gọi đoàn tín hữu chiêm ngắm cuộc khổ nạn của Đấng cứu độ. Các khổ hình Chúa Kitô đã chịu và cái chết tủi nhục của người trên thập giá như một lời tố cáo tội ác của nhân loại chúng ta. Thấy được sự xấu xa của bản thân mình, hẳn nhiên ít nhiều, chúng ta cũng được thúc đẩy chê ghét tội lỗi và hoán cải ăn năn. Tuy nhiên chính tình yêu của Chúa mới làm chúng ta vươn lên, đổi mới, nên hoàn thiện và nhất là biết sống yêu thương cách quên mình.
Được chiêm ngắm dung nhan sáng láng của Thầy chí thánh, đúng hơn là nhờ được thông phần một cách nào đó “bản thể của Đấng là Tình Yêu”, thì Phêrô đã lên tiếng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê và một cho ông Êlia” (Mc 9,5). Sao chỉ có ba cái lều mà không là bốn, năm hay là sáu? Dù đang kinh hoàng và không biết phải nói gì, nhưng Phêrô đã thay hai bạn đồng môn Gioan và Giacôbê nói lên tấm lòng của mình, một tấm lòng quên mình vì người khác.
“Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9,7). Ước gì chúng ta hằng luôn ghi khắc vào tâm khảm những lời từ miệng của Đấng Cứu Độ sau đây: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 14,24). “ Vậy, nếu Thầy là Thầy và là Chúa, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13,12). “Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Môsê và lời các ngôn sứ là thế đó” (Mt 7,12).
Ai hiểu được chữ tình? Có thể nói rằng đó là những ai biết ở lại trong tình yêu Đấng Cứu Độ, đồng thời, nhờ và với tình yêu của Người, đã biết yêu thương như Người yêu thương. Thấy tội ác của mình, người ta có cơ may hối hận, ăn năn. Nhưng nghiệm thấy được tình yêu cứu độ người ta sẽ biết đổi đời và vươn lên.
18. Hãy tỏ mình là hình ảnh Chúa
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Người xưa có câu: “chọn mặt gửi vàng”. Nghĩa là để tin tưởng một ai cũng cần xem mặt, xem hoàn cảnh, gia cảnh người đó để đánh giá về họ có đáng tin hay không? Thế mà, vẫn sai lầm. Vẫn chọn sai người. Vì “Sông sâu còn có kẻ dò – Lòng người nham hiểm ai đo cho cùng”.
Vâng, lòng người nham hiểm hơn núi sông, biết người còn khó hơn dự đoán thời tiết. Thời tiết còn có xuân hạ thu đông và sáng – trưa – chiều – tối, còn con người, giữa mảng tối và sáng thật khó phân biệt. Thời tiết còn có hiện tượng bên ngoài để suy đoán những điều sẽ xảy ra, còn lòng người vẫn cò thể đóng kịch đến mức độ “nói vậy mà không phải vậy”. Có ai đó nói không ngoa rằng: con người là một diễn viên tài ba nhất, vì họ có thể đóng kịch để lừa dối nhau suốt cả đời mà vẫn không bại lộ. Thực vậy, có người bên ngoài ôn hậu hiền lành, trong lòng lại kiêu căng ngạo mạn, không có việc gì lợi mà không dám làm; có người bộ dạng như quân tử, thực ra là tiểu nhân; Có người bên ngoài nhu mì, nhưng nội tâm cương trực; Có người xem có vẻ kiên trinh, thực tế lại nhút nhát. Điều này cho thấy con người thật phức tạp, khó mà biệt được thực hư một người.
Có lẽ mỗi người trong chúng ta đều nghe biết về Chí Phèo trong truyện của Nam Cao. Chí Phèo là đứa con hoang, được mô tả là một người dị dạng, một tên lưu manh, nát rượu chuyên rạch mặt ăn vạ và sẵn sàng sinh sự với mọi người. Chí Phèo là kẻ trên không sợ Trời, dưới không sợ người. Người ta tránh Chí Phèo hơn tránh ôn dịch. Chí Phèo đem lòng yêu Thị Nở. Thị Nở là một cô gái xuất thân từ một nhà có mả hủi, tuổi đời ngoài 30, dở hơi, nghèo và rất xấu. Xấu ma chê quỷ hờn. Xấu đến nỗi người ta tránh thị như tránh một con vật rất ghê tởm.
Ấy vậy mà cả hai con người ấy vẫn nhận ra bản chất tốt đẹp của nhau. Thị Nở thấy Chí Phèo là một người hiền lành. Hiền như đất. Vẫn thường cho Thị xin lửa và có lần con cho Thị xin rượu về bóp chân. Ngược lại, Chí Phèo cũng thấy Thị Nở là một người có duyên. Thị Nở đã biết nấu cháo hành nóng cho Chí Phèo ăn, giúp cho Chí Phèo tỉnh cơn say và làm sống lại nơi Chí Phèo ý thức về sự lương thiện của bản thân mình.
Cuộc sống con người luôn phức tạp. Phức tạp đến nỗi khó lòng đánh giá nhau từ bên ngoài. Thực tế, vẫn có những người thân phận chẳng ra gì như Chí Phèo và Thị Nở, bị coi là cặn bã và thậm chí là quái thai của xã hội. Thế nhưng, ngay cả nơi những con người ấy bản chất tốt đẹp mà Thiên Chúa đã trao ban cho họ vẫn không hư đi, khả năng nhận ra những điều tốt đẹp nơi người khác của họ cũng không mất đi. Vì thế, không gì có thể khiến chúng ta tuyệt vọng về con người. Con người vốn là hình ảnh của Thiên Chúa. Là tinh hoa của trời đất. Là chóp đỉnh của quá trình sáng tạo vũ trụ và vạn vật. Con người dù tội lỗi mấy đi chăng nữa, cũng không thể xoá nhoà hình ảnh của Thiên Chúa nơi mình. Con người dù tha hoá mấy đi chăng nữa, cũng không thể huỷ hoại bản chất tốt đẹp của mình. Con người dù có bị dục vọng thống trị mấy đi chăng nữa, cũng vẫn không ngừng toả sáng bản chất của mình là “nhân linh ư vạn vật”.
Vâng, con ngừơi chúng ta được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa. Không ai xấu, vì khi tạo dựng, Thiên Chúa thấy mọi sự đều tốt đẹp. Bản tính giống hình ảnh Thiên Chúa vẫn còn nơi con người đó. Họ làm việc xấu chứ con người họ vẫn cao qúy, vẫn mang phẩm giá làm người, thế nên ta vẫn phải yêu thương và tôn trọng. Hãy yêu thương để giúp họ phục hồi phẩm gia cao đẹp của con người mà bấy lâu nay họ bị phủ lấp bằng tội lỗi và đam mê. Bên cạnh đó, có những người có thể rất xấu về diện mạo nhưng tâm hồn họ lại thanh cao. Họ có thể là những con người có “duyện lặn vào trong” dầu rằng bên ngoài chẳng có gì hay ho.
Như thế điều quan yếu là hãy biết nhận ra điều tốt nơi nhau. Cho dù họ có xấu đến đâu, mình vẫn có thể tìm ra điều tốt nơi họ. Hơn nữa, nhân vô thập toàn. Ai trong chúng ta mà không bị tội lỗi, tật xấu, đam mê mù quáng làm mất đi hình ảnh đẹp trong lòng anh em hay trước mắt mọi người. Mỗi người chúng ta đều cần người khác đánh giá tốt về mình thì chính chúng ta cũng hãy nói tốt và nghĩ tốt với tha nhân.
Khi Chúa hiển dung trong bản tính Thiên Chúa để củng cố niềm tin nơi các tông đồ. Ngài cũng nhắc nhở chúng ta cũng phải biết tỏ ra phẩm giá cao quý nơi mỗi người chúng ta là hình ảnh Thiên Chúa qua cách đối như con cái sự sáng để tạo niềm tin nơi nhau. Đồng thời cũng phải biết tôn trọng nhau vì đều được tạo dựng giống hình ảnh Người. Chúa Giêsu Ngài hoà nhập vào đời nhưng Ngài không đồng hoá mình như bao tội nhân. Ngài đã trở nên giống như con người ngoại trừ tội lỗi. Con người chúng ta không thể đồng hoá mình với con vật như thuyết Duy Vật đã nói, để rồi sống theo bản năng, chiều theo tính xác thịt nhưng luôn biết chế ngự tính xác thịt nơi bản năng con người. Chúa hiển dung là lời mời gọi chúng ta hãy toả sáng hình ảnh của Chúa trong đời sống của mình khi thống trị tật xấu và đam mê. Hãy chế ngự tính hư nết xấu trong con người cùa mình. Hãy để hình ảnh Chúa tỏ hiện nơi chúng ta qua đời sống thanh sạch, công bằng, bác ái và yêu thương. Con người không thể là con vật thuần tuý vì con người không chỉ có thể xác mà còn có hồn thiêng bất tử, nên không thể chiều theo thể xác mà đánh mất linh hồn, hay tự huỷ trong những đam mê tội lỗi. Con người phải hơn con vật khi biết chế ngự tính hư nết xấu, làm theo lẽ phải và hướng về sự thiện.
Ước gì hình ảnh Chúa đừng đánh mất nơi chúng ta. Ước gì hình ảnh Chúa luôn tỏ hiện qua đời sống thanh cao, luôn biết sống theo công lý và tình thương. Xin cho mỗi người chúng ta luôn biết gìn giữ phẩm giá cao đẹp của mình là hình ảnh Thiên Chúa. Xin đừng để những đam mê mù quáng làm hoen ố hình ảnh tốt đẹp ấy nơi mỗi người chúng ta.
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Hôm nay người ta nói nhiều về thế giới ảo. Thế giới của mạng Internet. Thế giới dấu mặt. Thế giới mà con người chỉ biết nhau trong những ảo ảnh wedcam hay do photoshop tạo ra. Thế giới mà người ta có thể đánh lừa nhau qua những phần mềm thông minh. Ở nơi đây chúng ta gặp thấy rất nhiều con người sống hai mặt. Ở trong thế giới ảo họ tha hồ tâng bấc về mình. Họ tha hồ vẽ ra khuôn mặt đáng thương của mình. Ở thế giới ảo rất khác xa với thế giới thật mà họ đang sống. Thế nên, rất nhiều người vỡ mộng. Rất nhiều người bị lừa. Rất nhiều người oan gia vì quá tin người.
Thế giới ảo và thế giới thật khác nhau. Con người ảo và con người thật cũng khác nhau. Nhưng phải chăng chỉ có ở thế giới mạng mới sống ảo, còn cuộc sống hiện thực thì chân thực? Khó mà có câu trả lời chính xác, vì “Sông sâu còn có kẻ dò – Lòng người nham hiểm trùng khơi khôn dò”. Thế giới thật vẫn còn đó những người sống ảo. Họ cố gắng che đậy sự thật về mình. Họ sống hai mặt như đồng tiền hai mặt không bao giờ giống nhau. Thế giới thiện – ác. Chân thật-giả dối. Cuộc sống luôn có hai mặt. Con người lại là một diễn viên tài giỏi luôn che đậy những sự thật thầm kín bên trong.
Cuộc sống vốn thật thật giả giả khó phân biệt. Sự thật là thế. Nhưng người sống ảo sẽ không bao giờ hạnh phúc. Lương tâm luôn làm họ buồn bã, lo âu, sợ hãi. Chỉ có “sự thật mới giải thoát chúng ta”. Sống thật mới đem lại niềm vui nội tâm cho tâm hồn. Sống thiếu chân thật chỉ dày vò chúng ta trong bể khổ trần gian.
Cuộc sống của Chúa Giê-su dưới mắt người đời thì hoàn toàn là một người phàm. Vì Ngài đã trở nên giống như con người ngoại trừ tội lỗi. Thế nhưng, Ngài luôn sống thật khi tỏ ra mình là Thiên Chúa. Ngài luôn tỏ mình là người nhưng còn mang bản tính Thiên Chúa. Ngài đã làm nhiều phép lạ phi thường để tỏ mình có quyền năng của Thiên Chúa. Ngài phục sinh kẻ chết. Ngài đe sóng gió biển cả phải im lặng. Đó là những việc ngoài khả năng của con người. Đó là việc của Thiên Chúa mới có thể thắng vượt sự dữ.
Hôm nay trên núi Tabor, Chúa còn tỏ rõ nét hơn về dung nhan của Ngài là Thiên Chúa. Một Thiên Chúa thánh thiện vô cùng. Một Thiên Chúa quyền năng. Một Thiên Chúa uy nguy đến độ các môn đệ say xưa chiêm ngắm Người. Phê-rô đã bộc trực nói lên suy nghĩ của mình. Ông ao ước được chiêm ngắm dung nhan Thầy như lúc này mãi mãi. Ông bảo rằng: “Ở đây thì tốt quá, xin cho con làm 3 lều, một cho Thầy, một cho Mô-sê và một cho Ê-li-a”. Phúc âm bảo rằng, ông nói nhưng chẳng biết tại sao mình nói, vì ông quá ngất ngây trước dung nhan hiển linh của Thầy.
Cuộc sống người ky-tô hữu cũng đẹp biết bao khi chúng ta sống thật với căn tính của mình. Căn tính của người ky-tô hữu là yêu thương. Yêu thương không ngăn cách với mọi hạng người. Yêu thương không xa lánh bất kỳ ai, kể cả kẻ thù. Yêu thương để hòa nhập với mọi khổ đau, bất hạnh của anh em để cảm thông, liên đới và sẻ chia. Đó là cách sống mà Chúa bảo: “Người ta cứ dấu này nhận biết các con là môn đệ Thầy là hãy yêu thương nhau”.
Xin cho chúng ta luôn biết sống chân thật trước mặt Chúa và tha nhân. Sự chân thật giúp chúng ta sống đúng với căn tính của mình. Sự chân thật sẽ mang lại niềm vui và hạnh phúc cho chúng ta. Amen.
***
Qua hiện tượng đáng buồn của người Việt trong cái tết nguyên đán. Xin được chia sẻ thêm về hiện tương này với ước mong mang lời Chúa canh tân cách sống của con người hôm nay theo chủ để Lễ Chúa Hiển Dung.
Hình ảnh bất thường của người Việt
Một mùa xuân nữa đã qua đi. Mùa xuân qua đi thường để lại một lưu luyến nhớ xuân, một niềm vui trọn vẹn ngày xuân. Nhưng mùa xuân này để lại cho chúng ta một nỗi buồn về con người, về tình người đã mất, về phẩm chất người dân Việt hiền lành nay đang đánh mất.
Theo báo cáo của bộ Y tế cho biết, trong dịp Tết Nguyên đán vừa qua, đã có hơn 6.000 người phải vào viện do đánh nhau, và đã có 15 người tử vong. Chuyện lạ là năm nay mới có thêm tổng kết về nhập viện do đánh nhau. Đây thực sự là tai họa, vì do chính con người chủ động gây ra cho anh em mình. Nó là một báo động đỏ về tình trạng bạo lực leo thang trong xã hội. Ngay trong những ngày tết, là những ngày mà lẽ ra, người Việt mình phải cư xử với nhau một cách hài hòa nhất, thân thiện nhất. Ngày tết, gặp nhau là chúc vạn sự lành, trăm điều tốt đẹp trong năm mới. Nhiều mắc mớ, trắc trở, mâu thuẫn trong năm cũ cũng được mọi người chủ động dẹp bỏ, gác sang bên trong ba ngày tết. Nhưng xem ra điều này đã không còn đối với một bộ phận không nhỏ người Việt Nam.
Trước thực trạng trên, có người đã viết trên facebook: “Việt Nam phải vui Tết cách khác, không thể vui Tết mà chết, bị thương nhiều, kẹt xe, bị móc túi… nhiều như thế này. Xã hội bị tổn thất lớn về nhân lực, bị tổn thương về tâm lý và bệnh viện quá vất vả về những thương tật không đáng có”.
Bạo lực là xấu. Nhưng vì sao nó lại xảy ra quá nhiều trong ba ngày tết – thời gian dành cho sự tốt đẹp và an lành? Đó là điều chúng ta, từ người dân tới các cơ quan công quyền, cần suy nghĩ một cách nghiêm túc về những “hiện tượng lạ” ấy.
Đạo đức xã hội hôm nay đang ở mức đáng báo động. Báo động bởi những hành vi bạo lực về tinh thần, thể xác, tình dục cứ nhan nhản trên đường phố, trước cổng trường và trong từng gia đình. Chỉ cần một ánh mắt ngó thấy ghét, một câu nói nghe không lọt tai, một vụ va quệt nhỏ…, là người ta đã có thể rần rần kéo nhau đi chém giết, cướp đi sinh mạng của người khác dễ dàng như lấy một món đồ trong túi. Cha mẹ hành hạ con như kẻ thù; trò đánh thầy; Thầy lạm dụng trò, bảo mẫu tra tấn con trẻ, dán băng keo bịt mồm cho đến chết; đồng môn đồng lớp hở chút là lấy dao đâm…
Dường như con người hôm nay đang đối xử với nhau quá hung hãn, và tình người, lòng nhân ái đã trở thành một thứ hàng hiếm giữa thời buổi này? Những bài giáo dục công dân ở đâu hết rồi? Con người có còn nhớ mình là “hoạ ảnh của Thiên Chúa” hay đã quên đi căn tính thực của mình?
Nếu con người biết nhìn nhận mình là hình ảnh của Thiên Chúa và mọi người là anh em với nhau, sẽ có những cách hành xử tốt với nhau hơn. Nếu con người nhận ra hình ảnh Chúa nơi tha nhân, chắc chắn sẽ không đối xử tàn bạo với nhau. Nhưng tiếc thay, nhiều người chỉ nghĩ mình là con vật nên lao đầu vào cắn xé đồng loại, hành hạ đồng loại của mình và sẵn sàng làm đủ trò để loại trừ đồng loại.
Hôm nay, lễ Chúa Hiển Dung nghĩa là Chúa tỏ hiện đúng dung nhan thật của Ngài. Một dung nhan thánh thiện rạng ngời mà bấy lâu nay nhân tính đã che phủ thiên tính của Ngài. Một dung nhan tinh tuyền của một vì Thiên Chúa là Thánh, ngàn trùng chí thánh đến nỗi cả ba môn đệ đều ngây ngất vì được chiêm ngắm dung nhan thật của Thầy Giêsu. Ba môn đệ đã cúi mình kính phục trước dung nhan thật của Chúa Giêsu. Đó chính là sứ điệp mà mùa chay đang mời gọi chúng ta: hãy tỏ hiện dung nhan thật của chúng ta là hình ảnh của Thiên Chúa ra trong lời nói và việc làm của mình. Hãy thể hiện sự thánh thiện của hình ảnh Thiên Chúa nơi chính mình để anh em được chiêm ngưỡng. Hãy biểu lộ lối sống tinh tuyền, chân thật của phẩm giá làm ngừơi để anh em được hạnh phúc khi sống với chúng ta.
Mùa chay là mùa mời gọi chúng ta hãy tìm lại hình ảnh ban đầu của tạo dựng. Hãy gạn đục khơi trong để hình ảnh của Chúa được tỏ hiện ra nơi bản thân của chúng ta. Hãy tìm lại hình ảnh tinh tuyền ban đầu của mình, một hình ảnh chưa bị lòng ham muốn danh lợi thú làm hoen ố, mới thấy phẩm giá cao đẹp của con người thật cao qúy hơn muôn loài. Có ý thức được sự cao qúy nơi phẩm giá làm người mới biết trân trọng và gìn giữ cho mình và cho anh em.
Xin Chúa giúp chúng ta can đảm tẩy rửa những bợn nhơ tội lỗi làm hoen ố lương tri, và xin Chúa thêm ơn trợ giúp để chúng ta luôn gìn giữ nét đẹp nơi phẩm giá làm người của mình và của tha nhân. Và xin cho chúng ta biết sống đúng bản chất của hình ảnh Thiên Chúa là tình yêu và biết sống cho tình yêu. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: Ngày xưa thỏ và sư tử sống gần nhau, nhưng sư tử rất kiêu ngạo, vẫn cho mình là to khoẻ nên xem thường loài thỏ. Sư tử thường mắng thỏ và doạ nạt thỏ suốt ngày. Thỏ tức mình không chịu nổi mới nghĩ ra cách báo thù.
Một lần kia nó nói với sư tử rằng:
– Thưa ông anh, em vừa gặp một thằng to lớn và trông giống anh lắm. Nó bảo em rằng: “Trên đời này nó chưa sợ ai, và cũng chưa ai dám đối mặt với nó”. Thằng cha này không coi ai ra gì cả!
Sư tử tức giận và bảo rằng: “Thế mày có nhắc đến tên tao không?”
– Thỏ trả lời: Sao lại không? Em vừa nhắc đến tên anh thì nó lồng lộng lên và bảo rằng anh chỉ đáng đàn em nó thôi.
Sư tử càng tức điên người lên và hỏi: Nó ở đâu? dẫn tao đến ngay.
Thỏ liền dẫn sư tử ra sau núi, và chỉ một cái giếng ở đàng xa và bảo: Đấy, nó ở trong đó đấy!
Sư tử đi lại gần giếng vẻ mặt căm tức nhìn xuống đáy giếng. Quả thực, nó trông thấy ngay một tên, với cặp mắt giận dữ đang trừng trừng nhìn nó. Sư tử rống lên một tiếng, tên kia cũng rống lên một tiếng. Sư tử xù lông cổ lên tên kia cũng xù lông cổ lên. Sư tử nhe nanh múa vuốt đe doạ, tên kia cũng hăm dọa lại. Sư tử căm tức đến tột độ dồn hết sức mình nhảy phốc xuống giếng để cho thằng khốn nạn kia một trận. Thế là, con sư tử ngạo mạn tự huỷ diệt đời mình dưới giếng sâu…
Thất bại của sư tử là không nhận ra mình nên đã lao vào cắn xé chính hình ảnh của mình. Sư tử chỉ muốn nhất. Sư tử chỉ muốn làm bá chủ nên sẵn sàng loại trừ tất cả các đối thủ có nguy cơ nguy hại đến vị trí số 1 của mình.
Con người là hình ảnh Thiên Chúa, nhưng đáng tiếc là nhiều người đã không nhận ra điều đó. Họ không nhận ra hình ảnh mình nơi tha nhân để có thể yêu mến tha nhân như chính mình. Họ đòi được tôn vinh, được bá chủ nên sẵn sàng cắn xé chính đồng loại của mình.
Đạo đức xã hội hôm nay đang ở mức đáng báo động. Báo động bởi những hành vi bạo lực về tinh thần, thể xác, tình dục cứ nhan nhản trên đường phố, trước cổng trường và trong từng gia đình. Chỉ cần một ánh mắt ngó thấy ghét, một câu nói nghe không lọt tai, một vụ va quệt nhỏ…, là người ta đã có thể rần rần kéo nhau đi chém giết, cướp đi sinh mạng của người khác dễ dàng như lấy một món đồ trong túi. Cha mẹ hành hạ con như kẻ thù; trò đánh thầy; Thầy lạm dụng trò, bảo mẫu tra tấn con trẻ, dán băng keo bịt mồm cho đến chết; đồng môn đồng lớp hở chút là lấy dao đâm… Thậm chí trong hai tháng vừa qua có đến 3 vụ vào tận bệnh viện Thống Nhất để thanh toán cả những người đang nằm cấp cứu!
Dường như con người hôm nay đang đối xử với nhau quá hung hãn, và tình người, lòng nhân ái đã trở thành một thứ hàng hiếm giữa thời buổi này? Những bài giáo dục công dân ở đâu hết rồi? Con người có còn nhớ mình là “hoạ ảnh của Thiên Chúa” hay đã quên đi căn tính thực của mình?
Nếu con người của mọi thời đại biết nhìn nhận mình là hình ảnh của Thiên Chúa và mọi người là anh em với nhau, sẽ có những cách hành xử tốt với nhau hơn. Nếu con người nhận ra hình ảnh Chúa nơi tha nhân, chắc chắn sẽ không đối xử tàn bạo với nhau. Nhưng tiếc thay, nhiều người chỉ muốn làm chúa sơn lâm nên lao đầu vào cắn xé đồng loại, hành hạ đồng loại của mình và sẵn sàng làm đủ trò để loại trừ đồng loại.
Hôm nay, Chúa hiển dung nghĩa là Chúa tỏ hiện đúng dung nhan thật của Ngài. Một dung nhan thánh thiện rạng ngời mà bấy lâu nay nhân tính đã che phủ thiên tính của Ngài. Một dung nhan tinh tuyền của một vì Thiên Chúa là Thánh, ngàn trùng chí thánh đến nỗi cả ba môn đệ đều ngây ngất vì được chiêm ngắm dung nhan thật của Thầy Giêsu. Ba môn đệ đã cúi mình kính phục trước dung nhan thật của Chúa Giêsu. Đó chính là sứ điệp mà mùa chay đang mời gọi chúng ta: hãy tỏ hiện dung nhan thật của chúng ta là hình ảnh của Thiên Chúa ra trong lời nói và việc làm của mình. Hãy thể hiện sự thánh thiện của hình ảnh Thiên Chúa nơi chính mình để anh em được chiêm ngưỡng. Hãy biểu lộ lối sống tinh tuyền, chân thật của phẩm giá làm ngừơi để anh em được hạnh phúc khi sống với chúng ta.
Mùa chay là mùa mời gọi chúng ta hãy tìm lại hình ảnh ban đầu của tạo dựng. Hãy gạn đục khơi trong để hình ảnh của Chúa luôn tỏ hiện ra nơi bản thân của chúng ta. Hãy tìm lại hình ảnh tinh tuyền ban đầu của mình, một hình ảnh chưa bị lòng ham muốn danh lợi thú làm hoen ố, mới thấy phẩm giá cao đẹp của con người thật cao qúy hơn muôn loài. Có ý thức được sự cao qúy nơi phẩm giá làm người mới biết trân trọng và gìn giữ cho mình và cho anh em. Phẩm giá con người cao qúy hơn mọi danh lợi thú trần gian, thế nên đừng bao giờ vì một chút bổng lộc trần gian, một chút vui sướng mau qua mà đánh mất phẩm giá của mình và làm tổn thương đến phẩm giá của tha nhân.
Xin Chúa giúp chúng ta can đảm tẩy rửa những bợn nhơ tội lỗi làm hoen ố lương tri, và xin Chúa thêm ơn trợ giúp để chúng ta luôn gìn giữ nét đẹp nơi phẩm giá làm người của mình và của tha nhân. Amen.
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Tuân phục là vâng lời, còn gọi là thanh tuân. Vâng lời là nhân đức quan trọng: “Vâng phục thì tốt hơn là dâng hy lễ” (1 S 15:22). Vâng lời là một trong ba (hoặc bốn, hoặc năm, tùy dòng) lời khấn của các tu sĩ: Vâng lời, khó nghèo, khiết tịnh (thanh tuân, thanh bần, thanh tịnh). Con cái phải biết vâng lời cha mẹ, người nhỏ phải biết vâng lời người lớn, nhân viên phải biết vâng lời giám đốc,… Nếu không vâng lời thì mọi thứ sẽ đảo lộn. Tất nhiên vâng lời phải theo nghĩa tích cực, không thể vâng lời khi người trên dạy làm điều sai trái hoặc độc đoán.
VÂNG LỜI TUYỆT ĐỐI
Trình thuật St 22:1-2.9-13.15-18 kể chuyện về đức vâng lời của tổ phụ Ápraham.
Sau nhiều chuyện, Thiên Chúa lại thử lòng ông Ápraham. Người gọi ông: “Ápraham!”. Ông thưa: “Dạ, con đây!”. Người phán: “Hãy đem con của ngươi, đứa con một yêu dấu của ngươi là Ixaác, hãy đi đến xứ Môrigia mà dâng nó làm lễ toàn thiêu ở đấy, trên một ngọn núi Ta sẽ chỉ cho”.
Ông Ápraham chỉ có một đứa con trai yêu dấu, mà theo tục lệ Do Thái, “anh Hai” rất quan trọng vì là con thừa tự và có quyền trưởng nam, thế mà Chúa lại bảo dâng đứa con đó làm lễ toàn thiêu. Căng quá! Thế nhưng ông Ápraham không hề so đo, không hề thắc mắc, không hề nghi ngờ, không hề tiếc, mà ông còn mau mắn tuân phục lời Chúa dạy.
Tới nơi Thiên Chúa đã chỉ, ông Ápraham dựng bàn thờ tại đó, xếp củi lên, trói Ixaác con ông lại, và đặt lên bàn thờ, trên đống củi. Rồi ông Ápraham đưa tay ra cầm lấy dao để sát tế con mình. Gay cấn quá! Nhưng sứ thần của Đức Chúa từ trời gọi ông: “Ápraham! Ápraham!”. Ông thưa: “Dạ, con đây!”. Người nói: “Đừng giơ tay hại đứa trẻ, đừng làm gì nó! Bây giờ Ta biết ngươi là kẻ kính sợ Thiên Chúa: đối với Ta, con của ngươi, con một của ngươi, ngươi cũng chẳng tiếc!”.
Thật tuyệt vời! Ông Ápraham ngước mắt lên nhìn, ông thấy phía sau có con cừu đực bị mắc sừng trong bụi cây. Ông Ápraham liền đi bắt con cừu ấy mà dâng làm lễ toàn thiêu thay cho con mình. Sứ thần của Đức Chúa từ trời gọi ông Ápraham một lần nữa và nói: “Đây là sấm ngôn của Đức Chúa, Ta lấy chính danh Ta mà thề: Bởi vì ngươi đã làm điều đó, đã không tiếc con của ngươi, con một của ngươi, nên Ta sẽ thi ân giáng phúc cho ngươi, sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên đông, nên nhiều như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển. Mọi dân tộc trên mặt đất sẽ cầu chúc cho nhau được phúc như dòng dõi ngươi, chính vì ngươi đã vâng lời Ta”.
Càng tin tưởng thì người ta càng có thể mau mắn vâng lời. Tác giả Thánh vịnh bộc bạch: “Tôi đã tin cả khi mình đã nói: “Ôi nhục nhã ê chề!” (Tv 116:10). Bị nhục nhã ê chề mà còn tin ư? Thật khó quá! Thật thế, thường thì chúng ta chỉ tạ ơn Chúa khi mình được ơn này, ơn nọ, vì thấy “hợp ý mình”, còn nếu “trái ý mình” thì chắc hẳn chúng ta không muốn tạ ơn Chúa, cho vậy là “phi lý”, thậm chí có người còn có thể trách Chúa! Tuy nhiên, nếu suy cho thấu đáo, chúng ta sẽ khả dĩ chân nhận tất cả đều là Hồng ân Thiên Chúa, vì “thân này là tôi tớ Ngài, con của nữ tỳ Ngài, xiềng xích trói buộc con, Ngài đã tháo cởi” (Tv 116:16). Do đó, chúng ta càng phải biết “dâng lễ tạ ơn, và kêu cầu thánh danh Đức Chúa” (Tv 116:17). Vâng lời và tạ ơn Chúa không chỉ là bổn phận mà còn là niềm hãnh diện và hạnh phúc của chúng ta.
Trong Rm 8:31-34, thánh Phaolô đặt ra một loạt câu hỏi: “Vậy còn phải nói gì thêm nữa? Có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta? Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta? Ai sẽ buộc tội những người Thiên Chúa đã chọn? Chẳng lẽ Thiên Chúa, Đấng làm cho nên công chính? Ai sẽ kết án họ? Chẳng lẽ Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chết, hơn nữa, đã sống lại, và đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta?”.
Những câu hỏi đó lại chính là những câu trả lời rạch ròi và chính xác. Đúng là không phải nói gì thêm!
HẠNH PHÚC MIÊN MAN
Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo tới một ngọn núi cao. Bỗng nhiên Ngài biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Y phục Ngài mặc trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy. Các ông còn thấy có ông Êlia và ông Môsê hiện ra đàm đạo với Đức Giêsu. Các ông được thấy “hiện tượng lạ” không chỉ là người “may mắn” mà còn là người có trọng trách nặng nề hơn. Tặng phẩm nào cũng gắn liền với trách nhiệm nào đó, như tục ngữ Việt Nam nói: “Cây càng cao, gió càng rung”.
Ông Phêrô thấy vậy, quá phấn khởi, nên ông thưa với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia” (Mc 9:5). Vừa kinh hoàng vừa hạnh phúc tột đỉnh vì được “nếm thử” vinh quang Thiên đàng, ông Phêrô không còn nhớ đến hai anh bạn bên cạnh và quên cả chính mình, chỉ muốn dựng lều cho Chúa Giêsu, cho ông Môsê và ông Êlia mà thôi.
Bỗng có đám mây bao phủ các ông, và có tiếng nói vọng ra: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9:7). Chính Thiên Chúa truyền dạy chúng ta vâng lời Đức Kitô, vì Ngài vừa là Con “cưng” của Chúa Cha vừa tuyệt đối vâng lời. Điều đó chứng tỏ Thiên Chúa rất quý trọng đức vâng lời.
Các ông chợt nhìn quanh thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi. Hẳn là các ông còn dư âm niềm hạnh phúc ấy và chắc là tiếc những giây phút kia lắm. Ở trên núi xuống, Đức Giêsu truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại. Các ông tuân lệnh đó nên giữ bí mật riêng, nhưng vẫn bàn hỏi nhau xem câu “từ cõi chết sống lại” nghĩa là gì. Con người thật yếu đuối, vừa thấy nhãn tiền vinh quang Nước Trời mà vẫn chưa đủ lòng tin!
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết sống khiêm nhường và vâng lời, đồng thời xin thêm đức Tin, đức Cậy và đức Mến cho chúng con, để chúng con làm đẹp lòng Chúa là vui lòng tha nhân. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô, Thánh Tử Yêu Dấu của Cha, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
Thưa Quý ông bà anh chị em! Năm nào cũng vậy, cứ đúng vào ngày Chúa nhật thứ hai Mùa chay, là Giáo hội cho chúng ta đọc lại câu chuyện Đức Giêsu biến hình trên núi Ta-bor. Sự kiện này xảy ra sau khi Đức Giêsu tiết lộ cho các môn đệ của mình biết về chương trình mà Đấng Kitô con Thiên Chúa, sẽ phải thực hiện để mang lại ơn cứu rỗi cho tất cả mọi người. Sự kiện ấy được Thánh Marcô thuật lại như thế này: Cũng như mọi khi, Đức Giêsu vẫn thường lên núi cầu nguyện. Thế nhưng lần này, Người đem theo ba đồ đệ thân tín nhất của mình, đó là Phêrô, Gioan và Giacôbê. Đang khi cầu nguyện thì dung mạo của Người biến đổi khác thường: Khuôn mặt sáng chói như mặt trời, áo Người trở nên trắng như tuyết, trắng đến độ mà không có một thợ giặt nào trên trần gian này có thể làm được như thế. Đồng thời, bên cạnh Người còn có hai nhân vật nổi tiếng thời Cựu ước là Môisen và Elia. Hai vị này cũng sáng láng vinh hiển giống như vậy. Phêrô và hai môn đệ kia nhìn thấy cảnh tượng này thì lấy làm vui mừng sung sướng: “Lạy Thầy! Nếu chúng con được ở mãi tại nơi này thì tốt quá”. Thế nhưng Đức Giêsu đã bác bỏ lời đề nghị ấy; Bởi vì Người còn phải trở xuống núi để hoàn tất con đường mà Người đã khởi sự từ lúc nhập thể đi vào cuộc đời này.
Vấn đề được đặt ra ở đây là tại sao Chúa Giêsu muốn thực hiện cuộc hiển dung có thể nói là đầy ngoạn mục như thế trước mặt các môn đệ của mình? Đọc lại những đoạn Phúc âm trước đó, chúng ta sẽ nhìn thấy dược hai lý do này. Trước hết là không chỉ riêng gì mười hai môn đệ, mà hầu hết những người Do thái lúc bấy giờ, đều không nhận ra, hay đúng hơn là không muốn nhận ra Đức Giêsu là Con thiên Chúa, là Thiên Chúa thật; Mặc dù họ đã nghe không biết là bao nhiêu những điều hay lẽ phải, đã chứng kiến rất nhiều những phép lạ mà Người đã làm. Chính vì thế mà hôm nay đây, qua sự kiện này, Chúa muốn cho họ, ít ra là những môn đệ của mình, nhìn thấy được sự thật về Người. Người chính là Thiên Chúa thật, đang muốn đưa tay cứu vớt mọi người, chứ không phải là Elia, Giêrêmia hay bất kỳ một vị tiên tri nào khác.
Lý do thứ hai là qua sự kiện này, chúa muốn củng cố niềm tin cho các đồ đệ của mình. Theo Chúa bấy lâu nay, dường như các ông muốn mình đạt được một cái gì đó để làm rạng rỡ gia đình dòng họ. Chính vì thế mà liền sau khi Đức Giêsu tiên báo về cuộc khổ nạn mà Người sắp phải chịu, thì Phêrô như thể là thay mặt cho anh em nhóm mười hai của mình, ngăn cản Chúa Giêsu. Các ông hoàn toàn không muốn Thầy của mình phải bước vào con đường đó; Bởi vì đó là con đường của đau khổ, con đường của thất bại. Và nếu như Chúa Giêsu thất bại, thì cũng có nghĩa là những ước mơ, những hy vọng của họ bị tiêu tan. Hiểu được tâm trạng đó, Chúa Giêsu mang họ lên núi, tỏ cho họ thấy một chút vinh quang để cho họ hiểu được rằng: Muốn đạt tới vinh quang, thì phải đi trên con đường thập giá. Muốn có được hạnh phúc, thì phải bước qua con đường của sự đau khổ. Không muốn bước trên con đường thập giá, ngại ngùng đi trên đường đau khổ, thì Chúa Giêsu đã nói trước: “không thể làm môn đệ Ta được”.
Thưa anh chị em! Sống trong kiếp làm người, ai ai cũng đã từng có những niềm vui, có những hạnh phúc bất ngờ; Nhưng rồi cũng không thiếu vắng những nỗi buồn đau xót, những gian nan khổ cực, những điều mà mình phải đón nhận bằng cay đắng xót xa, bằng tủi buồn nhục nhã. Nói khác đi là đau khổ gắn liền với thân phận của con người, nên người ta mới có câu: “Hữu sinh hữu khổ” là như thế. Chúa Giêsu đến trần gian này không phải là để cất đi những đau khổ đó. Và cũng vậy, việc chúng ta sống làm con cái Chúa, cũng chẳng phải là để miễn chuẩn cho mình thoát khỏi những vất vã nhọc nhằn trong cuộc sống hiện tại. Nếu như năm xưa, Chúa đã khích lệ Phêrô và các môn đệ của mình, hãy mạnh dạn bước trên con thập giá để trở thành nhân chứng phúc âm cho Người, thì hôm nay, Người cũng mở ra cho chúng ta một niềm tin vững mạnh, một niềm hy vọng sâu sắc khi chúng ta phải đối diện với những nghịch cảnh, với những gian nan trắc trở trong cuộc sống đời thường. Nghĩa là chúng ta cũng sẽ được vinh hiển sáng láng giống như Chúa khi mình sẵn sàng vác lấy thập giá của cuộc đời mình mà trung thành bước theo Chúa trong đời sống đạo hàng ngày.
Tất cả chúng ta đều biết rằng: Đau khổ tự nó là một điều xấu và không có giá trị gì cả. Tuy nhiên, điều làm cho những đau khổ trở thành ích lợi cho mình chính là cách thức mà chúng ta xử lý nó. Chúng ta chối bỏ trốn tránh nó, nó sẽ trở nên chua chát nặng nề hơn. Còn ngược lại, chúng ta đối diện với nó như thể nó là một phận của đời sống mình, thì nó sẽ trở nên nhẹ nhàng và làm cho mình khiêm tốn và khôn ngoan hơn. Ước mong rằng: Mỗi Thánh lễ mà chúng ta tham dự, đều thật sự là một cuộc lên núi với Chúa, để nhờ đó mà chúng ta có đủ sức mạnh sống trọn vẹn cuộc đời Kitô hữu của mình. Chúng ta nên nhớ rằng: Mỗi người một thập giá và mỗi ngày một thập giá, nhưng không có một thập giá nào nặng hơn đôi vai của chúng ta; Đó là điều mà Chúa đã trả lời với Phaolô khi ngài than vãn về những khốn khó trong cuộc đời của mình: “Ơn Ta đủ cho con”. Và thưa anh chị em! Sẵn lòng đón nhận những đắng cay khổ nhọc trong cuộc đời như là một thập giá riêng của mình, đó chính là một trong những phương cách hữu hiệu để chúng ta sống tinh thần của Mùa chay thánh này.
(Peter Feldmeier – Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
Này là Con Ta yêu dấu, hãy nghe lời Người (Mc 9,7)
Các bài đọc Lời Chúa hôm nay dường như có vẻ thách đố chúng ta. Bài đọc thứ nhất kể lại câu truyện Chúa nói với Abraham hãy đem Isaac con của ông lên núi để sát tế. Abraham đã tuân theo chỉ lệnh của Chúa. Isaac chẳng nghi ngờ gì, đã cùng với cha bắt đầu cuộc hành trình. Hai cha con đi suốt ba ngày đường trèo lên núi cao. Đến nơi, Abraham cột trói Isaac lại, và đang dự định giết con để tế lễ. Khi ông toan tính làm như thế, một sứ thần đã hiện ra và cầm giữ tay ông lại. Thần sứ nói với ông rằng Thiên Chúa rất hài lòng vì ông đã vâng lời Ngài: “Vì ngươi đã vâng phục Ta, không tiếc đứa con trai thừa tự duy nhất mà ngươi rất quý mến, nên Ta sẽ chúc lành cho ngươi và hứa cho dòng giống ngươi trở nên đông đúc.”
Chúng ta phải đọc câu truyện trên đây dưới lăng kính truyền thống Do Thái giáo và cả truyền thống Kitô giáo. Có nhiều cách cắt nghĩa khác nhau, nhưng những diễn giải dường như vẫn chưa lột tả được trọn vẹn ý nghĩa sâu xa của bản văn. Một số nhà chú giải sánh ví Thiên Chúa như một vị thần chuyên thử thách. Họ còn đặt vấn đề xa hơn, liệu Thiên Chúa còn thử thách Abraham đến mức độ nào, khi truyền lệnh cho ông cầm dao giết đứa con ruột của mình? Một số khác lại đọc thoáng qua câu truyện và tự hỏi: Tại sao Thiên Chúa lại ra một lệnh truyền quái ác và nghịch thường như vậy, vì người Do Thái không bao giờ được phép giết con mình để tế thần, không giống như các dân ngoại vẫn thường làm. Triết gia Kieerkegard lại có một cái nhìn khác khi ông kết luận “Đức tin nếu chỉ khởi phát từ một ý thức thuần mang tính luân lý với sự vâng lời tối mặt, thì đó chỉ là đức tin mù quáng và xuẩn ngốc”. Cả ba nhận định trên đây đều phiếm diện và không thấu triệt tường tận câu truyện mà Kinh thánh trình bày. Cách lý giải thứ nhất chỉ phác vẽ Thiên Chúa như một Đấng cao ngạo ở tít trên cao, thích thử thách con người, đến mức độ cách hành xử của Ngài giống hệt một cuộc tra tấn hay khủng bố. Về cách giải thích thứ hai, chúng ta cũng thấy không hơp lý chút nào. Câu truyện quả thực không hề muốn nêu lên sự tương phản giữa đức tin và luân lý. Tôi cũng muốn nói rằng, chúng ta đừng xem đức tin như một thái độ mù quáng và ngốc ngếch, vì đức tin và lý trí không hề đối kháng hay loại trừ nhau. Abraham đã không mù quáng khi thực thi điều Chúa muốn như nhiều người lầm tưởng. Ngày nay, nếu có ai ra lệnh cho chúng ta là phải dùng dao giết con, thì chắc chắn chúng ta sẽ gọi cảnh sát ngay lập tức. Thiên Chúa của chúng ta không độc ác như thế đâu.
Thế thì câu truyện trên muốn nói cho chúng ta điều gì? Chúng ta hãy đan nối với truyền thống Do Thái giáo để hiểu nội dung một cách sâu xa hơn. Vấn đề ở đây không phải là Abraham có ý định sát tế Isaac, nhưng ông chỉ muốn tuân hành ý Chúa cách triệt để. Ông cột trói Isaac và hiến dâng cho Chúa, không hề tiếc nuối và giữ lại cho mình. Đây là một thái độ vâng phục trọn vẹn trong đức tin. Qua hình tượng Isaac, tổ phụ Abraham đã trói buộc mình và dòng dõi của mình vào chính Thiên Chúa và vào lời hứa của Ngài. Hành động này không phải là nhằm giải quyết công việc trước mắt, cụ thể là việc giết đứa con đặt lên bàn để tế lễ. Nhưng động thái của tổ phụ Abraham mang chiều kích linh thánh, một hành vi biểu tỏ đức tin, và dẫn đưa đến một chân trời rộng mở hơn, đó là chân trời của lời hứa.
Bài học ở đây, là khi chúng ta biểu tỏ đức tin, chúng ta cột trói mình (như Abraham cột trói Isaac) vào với Thiên Chúa, tự nguyện “trao nộp”chính chúng ta trong bàn tay của Thiên Chúa, thì đáp lại, Thiên Chúa cũng sẽ trói buộc Ngài trong giao ước với chúng ta, và Ngài sẽ hiến trao tất cả cho chúng ta, vì Thiên Chúa luôn trung thành với giao ước mà Ngài đã cam kết.
Đây là sự cột trói song phương, giữa chúng ta và Thiên Chúa.
Trong bài đọc thứ hai, thánh Phaolô cũng gợi mở cho chúng ta am tường về sự trói buộc lưỡng chiều này. Thánh nhân viết “ Nếu Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn có thể chống lại được chúng ta” (Rm 8, 31b). Tiếp nối suy tư này, Thánh Phaolô tiếp tục đưa dẫn chúng ta đến một bản hòa điệu song đối với những câu hỏi và những thách đố được gợi ra. Ngài viết: “Vì tôi thâm tín rằng, dù sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai hoặc bất cứ sức mạnh nào,… không có gì có thể tách tôi ra khỏi lòng yêu mến của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta (Rm 8,38-39). Đây là hình mẫu sự cột trói thâm sâu giữa chúng ta và tình yêu Thiên Chúa.
Bài Tin mừng hôm nay dẫn mời chúng ta thông dự vào cuộc biến hình của Đức Giêsu. Ở trên núi cao, ba môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan đã mục kích vinh quang của Đức Giêsu khi Ngài đàm đạo với Môisê và Elia. Hai vị ấy là biểu thị cho lề luật và các ngôn sứ, như được nhắc đến trong lời kinh tổng nguyện của phụng vụ hôm nay. Tuy nhiên cả hai vị này đều có liên hệ đến những biến cố rất ý nghĩa trong cựu ước. Môise và Êlia đều đã tiếp cận trực tiếp Đức Chúa Giavê trên núi Sinai (Xh 24,1,19). Đồng thời, cả hai ông đều gợi nhắc về Đấng Messia, Đấng sẽ đến cứu chuộc dân người. Êlia được đặc cách để tiên báo về đấng Messia và ông cũng chính là người dọn tâm hồn cho dân chúng trước khi ngày của Đức Chúa khởi sự (Mal 3,23). Còn ông Môisê, vào thời của Chúa Giêsu, người ta vẫn có truyền thống xem ông, giống như vai trò của Êlia, người đã đạt đến sự viên toàn của sự đợi chờ Đấng Mesia ở trên nước trời. Vì thế, giây phút Chúa biến hình trên núi Tabor, cũng mang chở một chiều kích cánh chung, và tiên báo sự viên thành giao ước mà Chúa đã ký kết trên núi Sinai năm xưa.
Ba môn đệ đã nghe tiếng Chúa Cha từ trong đám mây “Đây là con yêu dấu của ta, hãy nghe lời Người”. Cả ba ông đã chứng kiến giây phút viên toàn của lịch sử, lúc Đức Giêsu vén mở vinh quang chiến thắng của Ngài. Đó là những khoảnh khắc các ông được thông dự trước vào sự tròn đầy của sự thực hiện lời Thiên Chúa hứa. Nhưng liền ngay sau đó, các ông phải trở về đối mặt với cuộc sống đời thường. Từ trên núi xuống, chỉ còn lại duy nhất một mình Đức Giêsu, một Thiên Chúa làm người, một Thiên Chúa đang sống kiếp tăm tối của thân phận con người như chúng ta, và vinh quang chói ngời trên núi Tabor vẫn còn đang bị che dấu. Trong cuộc hành trình đức tin của chúng ta hôm nay, chúng ta cũng phải cột trói và hiến dâng bản thân, để trao dâng cho Đức Giêsu, Đấng là Thiên Chúa nhưng mang trên vai những bầm dập và khổ đau trong phận người. Chúng ta cột trói vào Ngài, hiến dâng cho Ngài, có nghĩa là chúng ta phải cùng với Ngài đi lên Giêrusalem để được sát tế. Hơn nữa, như thánh Phaolô gợi nhắc, chúng ta phải cột trói vào Ngài giữa những cay đắng và bi thương trong cuộc sống hiện sinh hôm nay. Chúng ta diễn tả động thái đức tin, bằng cách trói buộc vào Đức Giêsu, bởi vì chính Ngài cũng đã tự trói buộc vào thân phận con người của chúng ta, đã tự nguyện tiến nhận cái chết để cho chúng ta được ơn giải cứu.
Cuộc biến hình của Đức Giêsu trên đỉnh núi Tabor vén mở để cho chúng ta cảm thấu được uy quyền, hiểu biết về sứ mạng và nhận ra bản tính đích thực của Đấng là Thiên Chúa – Người, là chính Đức Giêsu. Cuộc hành trình đức tin của chúng ta cũng sẽ khởi đầu và kết thúc cùng với Ngài, bởi vì trong cuộc lữ hành đó, chúng ta sẽ mãi mãi gắn kết và buộc trói chúng ta vào với Ngài.
24. Con yêu dấu – Lm. Vũ Đình Tường
Mỗi lần Chúa Cha nhắc đến tình yêu Cha Con dành nhau ta thấy tình yêu đó luôn thể hiện không phải bằng ngôn từ không mà luôn kèm theo sứ mạng của Tin Mừng. Sứ mạng đó được thể hiện qua hành động cụ thể. Sứ mạng Chúa Con tự nguyện lãnh nhận ngay sau khi Đức Kitô lãnh nhận phép thanh tẩy từ Joan đó là công khai rao giảng về nước trời.
Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con
Liền sau đó Đức Kitô tiến vào hoang địa và ở đó bốn mươi ngày ăn chay, cầu nguyện chuẩn bị cho chương trình rao giảng công khai về nước Thiên Chúa đã đến gần.
Ngày biến hình trên núi thánh có sự hiện diện của ba tông đồ Phêrô, Giacobê và Gioan. Cả ba đều chứng kiến cuộc đàm thoại giữa Đức Kitô và tổ phụ Môisen và tiên tri Elia. Cuộc đàm thoại bị gián đoạn khi các ông nghe tiếng Chúa Cha vang vọng như tiếng sấm phán
Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Ngài
Các tông đồ được chiêm ngắm ít nhiều về cuộc sống tương lai và các ông vui mừng muốn ở lại trên núi thánh nhưng Đức Kitô có chương trình Ngài cần thực hiện nên Thầy trò xuống núi. Sự hiện hữu của các tổ phụ trên núi thánh xác nhận một niềm tin. Niềm tin đó chính là có sự sống đời sau. Đối với nhân loại các tổ phụ đã chết nhiều năm trước, mộ các ngài còn nằm kia nhưng sao các ngài đang sống, hiện diện trên núi thánh xác nhận các ngài đang an vui sống gần Chúa. Nhắc đến tổ phụ Môisen là nhắc đến hành trình bốn mươi năm, vượt sa mạc dẫn dân Chúa chọn về Đất Hứa. Môisen dưới sự hướng dẫn, bảo bọc của Thiên Chúa đã vượt qua ngàn trùng gian khổ, dẫn dân Chúa chọn vượt Biển Đỏ, giải thoát họ khỏi ách nô lệ của Pharaô tiến vào Đất Hứa. Tiên Tri Elia cũng có sứ mạng vất vả không kém. Elia đặt trọn niềm tin vào lời Chúa làm tròn sứ mạng trong lo âu, sợ hãi cho sự sống còn của chính ông. Vua Ahab làm vua vùng phía bắc xứ Israel từ 874-853 BC. Ông nghe lời vợ là Jezebel thờ tà thần Baal. Thiên Chúa sai tiên tri Elia báo cho vua biết nếu không thống hối ông và toàn dân sẽ bị phạt. Vua Ahab đã không thống hối còn tìm các giết Elia. Nhà tiên tri phải trốn nơi hoang địa và Thiên Chúa cứu ông khỏi tai hoạ và giúp ông hoàn thành điều Thiên Chúa sai phán. (Muốn biết thêm chi tiết mời đọc số một, Sách các Vua chương 17-22).
Tiếng phán ra của Chúa Cha từ trong đám mây là bằng chứng rõ ràng khác cho thấy Thiên Chúa hằng sống luôn đồng hành với Đức Kitô. Những sáng sớm Đức Kitô tìm nơi thanh vắng cầu nguyện chính là Ngài đàm đạo cùng Chúa Cha.
Sứ mạng xuống núi của Đức Kitô là mang lại ơn cứu độ cho nhân loại. Một sứ mạng đầy đau thương, nhiều nước mắt và cuối cùng là chết trong cô đơn, trên thập giá, nơi đồi vắng. Một kiểu hoang địa mà khi nghe đến ai cũng cảm thấy chân tay run rẩy, toàn thân rùng rợn. Đức Kitô đi trọn con đường đó và sau ba ngày chôn trong mộ Ngài sống lại vinh quang.
Sau khi Đức Kitô sống lại từ cõi chết người ta mới nhận ra sức mạnh vô song và vinh quang ngàn trùng của Thiên Chúa. Sức mạnh đó mạnh hơn sự chết và vinh quang đó sáng tỏ hơn mặt trời chiếu sáng. Điều này cho thấy có sự liên kết giữa biến hình và sự sống trường sinh. Để có sự sống trường sinh cần có biến hình. Để được biến hình lại cần hoàn thành sứ mạng trao phó. Để hoàn thành sứ mạng trao phó cần đặt trọn niềm tin vào Đức Kitô. Đặt trọn niềm tin vào Đức Kitô sẽ được vinh thăng sống muôn đời kề cận vinh quang Thiên Chúa, nhận cùng lời Chúa phán trên núi thánh.
Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Ngài.
25. Ngộ ra – Lm. Vũ Đình Tường
Ngộ ra là nhận thức bất ngờ biết được của sự vật đã từng coi qua, nhìnlại, xem đi, xem lại rất cẩn trọng hay của đoạn văn từng nghiền ngẫm nhiều lần, rồi bất thần nhận biết điều hay, ý tốt, hiện ra trong tâm trí làm cho tâm hồn hứng khởi, tâm trí vui, rạo rực điều vừa cảm nhận được. Ngộ ra là nguồn hứng khởi cho tâm trí, giúp tâm trí giầu mạnh, mở ra một chân trời mới, cánh cửa mới cho tâm hồn.
Đối với Kitô hữu ngộ ra điều mới mẻ về đức tin là một bước tiến nhảy vọt trong linh đạo, dẫn đến yêu mến Chúa nhiều hơn và phục vụ tha nhân tích cực và hăng say hơn. Ngộ ra thoả mãn điều con tim khao khát, mong đợi. Ngộ ra gây hứng khởi cho tâm hồn, làm cho tinh thần sảng khoái, sức mạnh nội tâm nhảy vọt. Ngộ ra điều mới mẻ về tình yêu Chúa, điều này không chỉ có lợi cho đức tin mà còn làm cho ta nhận ra giá trị thực và rõ hơn mục đích của cuộc lữ hành trần thế. Ngộ ra còn xác tín điều quan trọng khác là Thiên Chúa hiện thực và hiện diện trong cuộc lữ hành của ta. Ngộ ra còn thay đổi nhận thức về Thiên Chúa. Hình ảnh Thiên Chúa yêu thương, giầu bác ái, chậm phê bình và hay tha thứ là hình ảnh Thiên Chúa ta tôn thờ. Ngộ ra còn giúp nhận biết đau khổ trần thế, bệnh tật, già nua không phải do Chúa dựng nên nhưng đó là một phần của tiến trình sống. Cây cối, thú vật và mọi sinh vật khác đều trải qua chương trình lột xác để trưởng thành hơn. Riêng con người thì đó là tiến hoá để trở nên tốt hơn trước khi tiến vào cuộc sống vĩnh cửu.
Ba tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo Đức Kitô đã lâu. Các ngài chưa bao giờ nhận biết vinh quang thực của Đức Kitô mãi cho đến khi được chính mắt nhìn thấy trên núi thánh. Chính kinh nghiệm trên tỏ cho các ông biết rõ hơn về Đức Kitô, Đấng các ông đang tin theo. Con mắt đức tin mở ra, tâm trí các ông rộng mở, tinh thần cao vút và con tim nhảy mừng vì được diện kiến vinh quang Thiên Chúa. Trong giây phút mừng vui tột cùng các ông không biết nói gì. Phúc âm thuật lại lưỡi các ông hầu như co cứng, không phát lên lời.
Các ông không biết phải nói gì vì các ông kinh hoàng Mc 9,6
Đứng trước cảnh huy hoàng, rực rỡ của Thiên Chúa, ngôn ngữ loài người bế tắc, ngôn ngữ trần gian chỉ đủ để diễn tả niềm vui trần thế mà không thể diễn ta nổi niềm vui đến từ trời cao. Nhớ lại ngày Chúa Giáng Sinh các thiên thần cũng không diễn tả niềm vui bừng lên như ánh sáng ban mai bằng lời nói nhưng cất tiếng hát vang vọng không trung để diễn tả niềm vui. Các tông đồ dù cảm thấy vui mừng nhưng không biết làm cách nào diễn tả nguồn vui trào dâng trong tâm hồn. Các ông không hát nhưng cúi gục mặt thầm thán phục và kinh hãi trước hào quang vượt quá sức nhìn của mắt thường. Tai các ông còn nghe được tiếng đối đáp của các tổ phụ và rồi Đức Kitô đã khuyến khích các ông. Khi tỉnh lại các ông nhận ra Đức Kitô còn các vị khác đã biến khỏi mắt các ông. Kinh nghiệm trên núi thánh bồi bổ đức tin các ông tin tưởng bước theo Đức Kitô. Đức tin trở nên vững vàng hơn, dấn thân tích cực hơn và hy sinh trọn vẹn hơn. Kinh nghiệm trên núi thánh ban cho các ông con mắt mới, quả tim mới, tâm hồn mới và cuộc sống mới. Cuộc sống đơn sơ nhưng đầy bình an, hy vọng. Điều các ông nghe được trên núi thánh
Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Ngài Mc 9,7
Đây chính là điều Chúa Cha mời gọi Kitô hữu trung thành đi theo Đức Kitô, theo Con yêu dấu Thiên Chúa để nhận tình yêu Chúa Cha dành cho. Trên đường xuống núi Đức Kitô dặn các tông đồ dấu kín những gì đã chứng kiến. Các ông ấp ủ điều đó trong lòng. Miệng không nói ra nhưng tâm hồn khắc ghi những gì đã chứng kiến và trong cuộc sống rao giảng Tin Mừng tâm trí các ông luôn quay lại khúc phim núi thánh. Dù đã nhìn thấy, nghe được nhưng các ông vẫn chưa hiểu rõ í nghĩa câu
Sống lại từ cõi chết có nghĩa gì Mc 9,11
Mãi cho đến khi Đức Kitô sống lại từ cõi chết hai tông đồ trên đường Emaus đã chẳng xác nhận điều đó là gì khi các ông miệng nói ra:
Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao? (Luca 24,32)
26. Suy niệm của AM Trần Bình An
Cùng đăng sơn, cùng hạ sơn
Chúa Nhật 14.04.1985, Lễ Lòng Chúa Xót Thương, Lm. Jose Maniyangat đi dâng Thánh Lễ tại một nhà thờ thuộc điểm truyền giáo ở phía Bắc Kerala và bị một tai nạn chí tử. Ngài thuật lại sau này: Tôi đang lái xe gắn máy, thì bị đâm đầu vào một chiếc xe jeep do một người đàn ông say khướt sau một lễ hội Ấn giáo, điều khiển. Tôi được đưa gấp vào bệnh viện cách đó khoảng 35 dặm. Trên đường đi, linh hồn tôi lìa khỏi xác và tôi đã cảm nghiệm cái chết. Tức khắc, tôi gặp Thiên Thần Hộ Thủ của tôi. Tôi nhìn thấy thân thể mình và những người đến mang tôi vào bệnh viện. Tôi nghe họ khóc và cầu nguyện cho tôi. Vào lúc ấy thiên thần của tôi nói với tôi: ”Ta đến đem người vào thiên đàng, Chúa Giêsu muốn gặp người và nói chuyện với người”. Thiên thần cũng cho biết rằng dọc đường Ngài muốn chỉ cho tôi thấy Hoả Ngục và Luyện Ngục…
Kế đó, thiên thần của tôi hộ tống tôi tới Thiên Đàng đi qua một hầm màu trắng lớn sáng chói loà. Tôi chưa bao giờ cảm nghiệm được sự an bình và niềm vui như thế nầy trong đời. Thiên Đàng lập tức mở ra và tôi nghe tiếng nhạc mê ly nhất mà tôi chưa từng được nghe trước đây. Các thiên thần ca hát và ngợi khen Thiên Chúa. Tôi nhìn thấy tất cả các thánh, đặc biệt là Mẹ Maria và Thánh Giuse,và rất nhiều giám mục và linh mục thánh thiện đang lấp lánh sáng như những vì sao. Và khi tôi xuất hiện trước Người, thì Chúa Giêsu nói với tôi: ”Ta muốn con về lại thế gian. Trong cuộc sống lần thứ hai của con, con sẽ nói bằng một ngôn ngữ nước ngoài. Mọi thứ đều có thể xảy đến cho con với ân sủng Ta ban..”. Sau những lời nầy, Đức Maria nói với tôi: ”Hãy làm bất cứ điều gì Người nói với con. Mẹ sẽ giúp con trong các thừa tác vụ của con.” Lời nói không thể diễn tả hết vẻ đẹp của Thiên Đàng. Ở đó chúng ta tìm thấy được an bình và hạnh phúc nhiều dường nào, vượt qúa một triệu lần trí tưởng tượng của chúng ta. Chúa Giêsu đẹp đẽ vượt xa hơn bất cứ hình ảnh nào có thể mô tả. Dung nhan Người rạng ngời và toả sáng và rực rỡ hơn ngàn vạn mặt trời đang mọc. Những bức hoạ chúng ta nhìn thấy trên thế giới chỉ là cái bóng vẻ lộng lẫy uy phong của Người. Đức Mẹ ở bên Chúa Giêsu, Mẹ rất tươi đẹp và rạng rỡ. Không một hình ảnh nào chúng ta gặp trên thế gian có thể sánh với vẻ đẹp thực sự của Mẹ. Thiên Đàng là nhà thực sự của chúng ta; tất cả chúng ta được kêu gọi phải đạt tới Thiên Đàng và được vui hưởng Thiên Chúa muôn đời. Sau đó, tôi cùng với Thiên Thần trở về thế gian… (Jn. M. Vũ Sơn Bảo dịch theo Ingodscompany)
Cảm nhận ngây ngất về Thiên Đàng của Lm Jose Maniyangat có lẽ tương đồng với niềm hân hoan, hạnh phúc của các Thánh Phêrô, Giacôbê và Gioan, khi được chiêm ngưỡng Chúa Giêsu biến hình trên núi Tabor. Các ngài đã được Người mời gọi cùng lên núi, để được mặc khải về Ngôi Lời, Con Thiên Chúa. Rồi, lại cùng theo Người xuống núi, tiếp tục sứ mạng Đi Gieo và làm chứng nhân.
Đăng sơn
Xưa, ông Môsê lên núi Sinai để cầu nguyện và nhận lãnh 10 Điều Răn trên núi Sinai. Còn ngôn sứ Êlia trong tâm trạng chán nản, mệt mỏi vì bị binh lính của hòang hậu Idaven truy sát, đã nỗ lực vượt sa mạc trong 40 đêm ngày, leo lên núi Khôrép để được Thiên Chúa an ủi, ban sức mạnh lấy lại niềm tin, tiếp tục hăng say thi hành sứ vụ. Hôm nay, Đức Giêsu dẫn ba môn đệ lên núi. Các ngài được vinh dự diện kiến Người, hội ngộ cùng ông Môsê và ngôn sứ Êlia, đại diện cho Lề luật và Ngôn sứ. Các ông ngây ngất trước ánh sáng Ngôi Lời chan hòa vinh hiển, cùng ao ước và khao khát được mãi mãi hạnh phúc sống bên Thiên Chúa Tình Yêu.
Đăng sơn là lên núi là từ bỏ mọi sự, xác thịt, của cải, ham muốn, chỉ duy nhất chọn Chúa mà thôi. Bỏ mọi sự, kể cả những vấn vương tình cảm thân bằng quyến thuộc, cũng như từ bỏ chính bản ngã tham sân si. Dấn thân leo lên núi Chúa có nghĩa chấp nhận gian lao thử thách, nguy hiểm, chịu khinh khi, thù ghét, bắt bớ, hành hạ, tù đầy và tử vong.
“Ai trong anh em, không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ Tôi được” (Lc 14,33). Đức Giêsu còn đòi hỏi từ bỏ quyết liệt, từ người thân đến chính bản thân mình. “Ai đến với Tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ Tôi được” (Lc 14,26). Hơn thế, Đức Giêsu còn thêm điều kiện chấp nhận những khó khăn cơ cực khi theo Người.“Ai không vác thập giá mình mà đi theo Tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14,27)
Khi xa lánh, dứt bỏ bụi trần, nâng hồn lên với Chúa, thì tâm hồn người Kitô hữu được hưởng niềm hoan lạc vô song, tuyệt vời. Vì thế, các tâm hồn các thánh luôn được nếm trải những giờ phút xuất thần, tràn ngập niềm vui, hạnh phúc bên Chúa.
Chẳng phải lúc nào ai cũng có thể leo 1 000 bậc thang lên đỉnh núi Tao Phùng ở Vũng Tàu, để chiêm ngưỡng tượng Chúa Kitô Vua, hoặc hiếm khi được leo 220 bậc thang lên tượng Chúa Cứu Thế ở Rio De Janeiro, Brasil, để được hạnh ngộ với Người. Nhưng hằng ngày, ai cũng có thể lên núi với Người qua sám hối, ăn chay và cầu nguyện, qua tĩnh tâm, kinh hạt, suy gẫm và nhất là qua Lời Chúa và Thánh Thể.
“Hãy sống bên Chúa, và con sẽ nên thánh. Thiên Đàng không gì khác là Thiên Chúa hiện diện.” (Đường Hy Vọng, số 242)
Hạ sơn
“Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người.” (Mc 9,7) Thiên Chúa mặc khải cho các môn đệ, cho mọi tín hữu Đức Giêsu chính là Đấng Cứu Thế, phải tin cậy và vâng phục Người để được cứu rỗi.
Đức Giêsu dẫn ba môn đệ tâm huyết lên núi, Người biến hình rồi lại dẫn xuống núi nhập thế. Tin Mừng thánh Luca thuật lại: “Hôm sau, khi Đức Giêsu và ba môn để ở trên núi xuống, có đám người đông đảo tới đón Người” (Lc 9,37). Đăng sơn là chiều kích đầu tiên hướng lên trời với Thiên Chúa, hạ sơn chiều kích thứ hai hướng đến, thương yệu, phục vụ tha nhân, kể cả kẻ thù.
Hạ sơn là hạ mình xuống trước mặt tha nhân. Trở nên người phục vụ tình nguyện, noi gương Người. “Con Người cũng không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và ban mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người.” (Mc 10,45) Điều đầu tiên, Đức Giêsu mong đợi nơi những ai theo Người, là một tấm lòng đơn sơ, khiêm nhường, vâng phục và yêu thương.
Hạ sơn cũng là từ bỏ con người cũ, nặng tính xác thịt, vị kỷ, kiêu căng, tham lam, háo danh háo của, để mặc lấy con người mới, xả kỷ vị tha, canh tân, sống theo Tin Mừng.
“Phải canh tân bao lâu? Phải luôn luôn khởi sự lại. Phải luôn luôn tu chỉnh thêm. Con đừng an nghỉ, bao lâu hôm nay con chưa tiến hơn hôm qua một bước trong sự hiệp nhất với Chúa. Con phải đinh ninh rằng: dừng lại là khởi sự thụt lùi xuống dốc, khởi sự thoái hóa.” (Đường Hy Vọng, 640 & 641)
Lạy Chúa Giêsu, kính xin Chúa biến đổi cuộc đời chúng con, từ tình trạng hư thân mất nết, chiều theo tính xác thịt và thế gian, mà hướng lòng lên cùng Chúa, biết sám hối, canh tân theo Tin Mừng, để được Chúa thương xót, cứu rỗi.
Lạy Mẹ Maria, xin mẹ giúp chúng con hướng lòng về tha nhân, trở nên kẻ phục vụ trong tin yêu, cũng như nhìn thấy Chúa Giêsu trong mọi người, để mến yêu và phục vụ tha nhân. Amen.
(Suy niệm của AM Trần Bình An)
Ngày xưa ông Mô sê đã hai lần lên núi Sinai mây phủ trắng xóa, suốt 40 đêm ngày mỗi lần, để được Đức Chúa ban Giao ước (Xh 24,15-18 & Xh 34,1-28).
Sau này, khi ngôn sứ Elia tế lễ Đức Chúa thành công, đánh bại 450 tư tế thần Baal, liền bị hoàng hậu Jezabel cho người truy sát. Trên đường chạy trốn, vì quá mệt mỏi, ông than thở với Chúa: “Lạy Đức Chúa, đủ rồi! Bây giờ xin Chúa lấy mạng sống con đi vì con chẳng hơn gì cha ông của con” (1V 19,4). Ông nằm vật ra, chờ chết. Nhưng thiên sứ của Đức Chúa đã nuôi dưỡng ông, rồi chỉ ông đi 40 đêm ngày, đến núi Khô rép để gặp Đức Chúa.
Đến thời Tân Ước, trên núi Tabor, Chúa Giêsu hiển dung trước mặt ba môn đệ, Phêrô, Gioan và Giacôbê. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng. (Mt 17,2) Và kìa, có hai nhận vật đàm đạo với Người, đó là ông Elia và ông Mô sê. Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem. (Lc 9,30-31). Bấy giờ ông Phêrô thưa với Đức Giê su rằng” Thưa Thầy chúng con ở đây thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Elia.” Thật ra ông không biết phải nói gì, vì các ông kinh hoàng. (Mc 9,5-6)
Như thế, các ông Mô sê, Elia, và ba môn đệ đã được diễm phúc cảm nhận Thiên Chúa vinh hiển, tựa gần như được chạm đến cõi Thiên Đàng. Nơi mà ông Mô sê phải lấy khăn che mặt, không dám nhìn trực diện Đức Chúa, nơi mà ngôn sứ Elia phải lấy áo choàng che mặt trước Đức Chúa, và nơi các môn đệ kinh hoàng, không biết phải nói gì trước nhan thánh Chúa Giêsu vô cùng sáng lạn.
Các Thánh nhân sau này cũng có vị được chạm đến ngưỡng cửa Thiên Đàng, qua những lúc xuất thần. Như Thánh nữ Faustina tiết lộ thị kiến: “Hôm nay trong thần trí tôi được ở trên Thiên Đàng và nhìn thấy những điều mỹ diệu, cũng như hạnh phúc tuyết vời đang chờ đợi chúng ta sau khi qua đời… Giờ đây, tôi hiểu được câu nói của Thánh Phaolô tông đồ: “Mắt chưa từng thấy, tai chưa từng nghe và lòng chưa từng nghiệm được những gì Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những kẻ yêu mến Ngài.” (NK 777 -80)
Như thế, Thiên Chúa đã phần nào tiết lộ nguồn hạnh phúc vô biên trên cõi Thiên Đàng, dành cho những linh hồn nào được Ngài đón nhận mai sau. Những linh hồn đã chiến thắng ngoạn mục cả ba kẻ thù: thế gian, thân xác và ma quỷ, để sống mật thiết trong tình yêu cứu độ của Chúa Cứu Thế.
Lạy Chúa Giêsu xin giúp con biết hối cải, hy sinh, dốc lòng theo Chúa, để được hưởng phúc trường sinh trên Thiên Đàng.
Lạy Mẹ từ bi nhân hậu, xin dẫn dắt con về đường ngay nẻo chính, xin giúp con tu thân, tích đức, xứng đáng hưởng Thánh Nhan Chúa muôn đời. Amen.
(Suy niệm của Lm. Minh Vận, CRM)
Một nhà đại phú hộ người Pháp, suốt đời chỉ lo hưởng thụ mọi vinh hoa phú quí, dinh thự nguy nga đồ sộ, đầy tớ tấp nập, ra vào hầu hạ, yến tiệc xa hoa với mọi lạc thú trần gian… Rồi bỗng nhiên, một hôm ông ngã bệnh nặng, hết bác sĩ này đến danh y khác được mời đến điều trị bệnh tật cho ông với lời hứa, nếu cứu ông khỏi chết sẽ được hậu tạ, dầu phải chấp nhận bất cứ điều kiện nào… Nhưng sau khi chẩn mạch, khám nghiệm và gắng sức chữa chạy, tất cả các bác sĩ, danh y đều bó tay vì bệnh trạng của ông đã đến hồi vô phương cứu chữa.
Khi biết mình không thể sống nổi, nhà đại phú hộ rất buồn bã thất vọng, gọi vợ con đến trăng trối: “Khi ta chết rồi, hãy khắc vào một bia đá đặt trên mộ ta lời rất bỡ ngỡ nhưng chân thật này: “Đây là mồ chôn một kẻ khờ dại!”
1. NÚI TABORÊ HUY HOÀNG
Bài Tin Mừng hôm nay tường thuật sự kiện Chúa Kitô biến hình, tỏ vinh quang Người cho ba Tông Đồ Pherô, Gioan và Giacobê, cho ba ông thưởng nếm một chút hạnh phúc Thiên Đàng, khiến các ông cảm nghiệm được niềm vui sướng và khoái lạc tràn đầy, đến nỗi Thánh Pherô đã phải sửng sốt kêu lên: “Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm, chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Maisen và một cho Elia”.
Thế rồi, lúc còn đang ngây ngất bỡ ngỡ trước cảnh thiên thai, huy hoàng thần tiên đó, bỗng có một đám mây bao phủ các ngài, và có tiếng từ trong đám mây phán ra: “Đây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Ngài”. Giây phút vui sướng thần tiên qua đi, các ông bừng tỉnh nhìn chung quanh, không còn thấy ai nữa, duy có một mình Chúa Giêsu và các ông.
Mục đích cho ba môn đệ thân tín nhất của Chúa, được hưởng sự vinh quang và hạnh phúc trong cuộc Chúa biến hình hôm nay, là để củng cố niềm tin tưởng của các ông và các môn đệ khác; khiến các ông thêm can đảm và kiên trì trong gian lao thử thách sẽ gặp, nhất là khỏi thất vọng trước cuộc khổ hình đau thương và cái chết tất tưởi đẫm máu của Thầy mình.
2. TIÊN BÁO VINH QUANG BẤT DIỆT
Niềm vui sướng hạnh phúc ba vị được nếm hưởng hôm nay, chỉ là hình bóng một chút vinh quang bất diệt, Chúa đã sắm sẵn cho các tôi trung con thảo của Chúa trên Quê Trời. Sau đời gian truân thử thách trần gian qua đi, những tôi trung con thảo của Chúa sẽ được vào nơi đầy ánh sáng huy hoàng tráng lệ, tận hưởng niềm vui sướng khoái lạc triền miên, hạnh phúc vô cùng vô tận. Thân xác sẽ được phục sinh vinh quang và trường tồn, y phục sẽ trở nên trắng hơn tuyết và sáng ngời như mặt trời… Chính Thánh Phaolô, sau khi được thưởng nếm những giây phút hạnh phúc Thiên Đàng này, trong cuộc thị kiến nơi tầng trời thứ ba, đã chỉ có thể thuật lại bằng một câu nói rất vắn gọn này: “Mắt chưa hề xem, tai chưa hề nghe, lòng chưa hề cảm nghiệm được hạnh phúc mà Chúa đã sắm sẵn cho các tôi trung con thảo được Chúa yêu thương”.
Ngay khi còn sống nơi trần gian này, Chúa cũng đã cho một vài vị Thánh được tiên hưởng những khoái lạc phúc đức đó trong giây lát. Cũng có khi cho thân xác các ngài được tiên hưởng hình bóng sự không hư nát của thân xác vinh quang sau này trên Nơi Vĩnh Phúc.
Trong cuốn sách nhan đề “The Incorruptibles”, tác giả Jean Carrol Cruz đã đề cập đến 102 vị Thánh, được chôn cất đã nhiều năm trong hầm mộ, mà thân xác các ngài vẫn còn tươi tốt như lúc còn sinh thời, chẳng hạn như các vị sau đây:
Thánh Gioan Maria Vianney, Cha Sở họ Ars nước Pháp, sau 45 năm chôn cất, lúc cải táng trong dịp điều tra tôn phong Hiển Thánh, người ta thấy xác ngài vẫn còn tươi tốt y nguyên.
Thánh Albertô Cả, từ trần năm 1280, sau hơn 200 năm được cải táng, xác ngài vẫn còn nguyên vẹn.
Thánh Nữ Agatha, từ giã trần gian năm 251, thế mà sau 11 thế kỷ, vẫn không hề tan rữa.
ĐỂ ĐƯỢC ĐỒNG HƯỞNG VINH QUANG
Để được đồng hưởng vinh quang hạnh phúc vĩnh cửu với Chúa trên Quê Trời, chúng ta cũng cần phải chết với Chúa: Chết cho tội lỗi, chết cho tính mê nết xấu, chết cho những đam mê thú tính, chết cho tính tự ái kiêu căng… và vâng giữ các giáo huấn Chúa Kitô dạy, như lời Chúa Cha đã tuyên phán: “Các ngươi hãy vâng nghe và tuân giữ lời Ngài”.
Trần gian không phải là nơi hưởng thụ như nhà đại phú hộ trên kia. Ông chỉ lo tận hưởng những khoái lạc trần gian, mà không màng chi tới hạnh phúc trường tồn trong đời sống mai hậu, nên cuối đời ông đã phải thất vọng trăng trối, đặt trên mồ ông tấm bia khắc ghi lời quả quyết thú nhận sự lầm lỡ của mình: “Đây là mồ chôn một kẻ khờ dại!”
Trái lại, trần gian chính là đường dẫn chúng ta, là những người lữ hành đang tiến về Quê Hương Vĩnh Cửu. Vì trần gian là chốn đền tội, là nơi lập công, là trường tập đức, đào tạo chúng ta nên những kẻ anh hùng chiến thắng, những công dân Nước Trời, những vị Thánh, những con ngoan thảo của Thiên Chúa, sẽ được khải hoàn vinh quang tiến về Quê Hương Chân Thật giữa muôn ngàn Thần Thánh.
Kết Luận
Thánh Phaolô Tông Đồ đã căn dặn chúng ta phải ghi tâm khắc cốt lời này: “Đây là thời thuận tiện, đây là ngày cứu độ”. Bao lâu còn sống trên trần gian, chúng ta còn thời giờ để lập công đức, để khi giờ Chúa gọi ra đi, chúng ta khỏi hối tiếc thất vọng.
Nếu chúng ta biết: “Vâng nghe lời Con Chúa” truyền dạy, chắc chắn chúng ta sẽ đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu Chúa hứa ban.
(Suy niệm của Lm. Tuấn Bình, CRM)
Theo tường trình của các nhà tâm lý ở Hoa kỳ thì số người tìm đến để giúp trị liệu ngày càng gia tăng, đặc biệt là giới trẻ, vì một lý do rất đơn giản là họ không tìm được mục đích và ý nghĩa của cuộc sống. Điều khiến tôi ngạc nhiên hơn cả là trong số này cũng có rất nhiều người Công giáo. Nếu là người Công giáo tại sao không chịu mở sách Giáo lý ra mà tìm hiểu để khỏi phải mất công tốn của đi nhờ các nhà tâm lý. Vì chưng, sách Giáo lý Công giáo ngay từ những hàng đầu tiên đã khẳng định rằng: mục đích chúng ta sống ở đời này là để nhận biết và mến yêu Thiên Chúa, rồi từ đó phát sinh hiệu quả thương yêu mọi người như anh chị em và cùng nhau xây dựng một xã hội tốt đẹp… để sau cùng trở về với Thiên Chúa là Đấng đã gọi chúng ta ra đi cũng là Đấng mong ngóng chúng ta trở về. Đây chính là ơn gọi phổ quát mà mọi người sinh vào trần gian được kêu mời để đạt tới, vì nó bao trùm hết những ơn gọi khác mà chúng ta vẫn hằng đáp trả qua những tiếng xin vâng nối tiếp nhau trong cuộc sống.
Để đạt được mục đích tối hậu của cuộc sống con người, Thiên Chúa mời gọi chúng ta vào những bậc sống khác nhau với quyền tự do chọn lựa: kẻ sống độc thân, người lập gia đình, và có một số rất ít chọn cuộc sống tu trì. Trong mỗi bậc sống đó, Thiên Chúa liên tục mời gọi chúng ta dưới nhiều hình thức để thăng tiến bậc sống mình đã chọn. Nói chung, dù ở bậc sống nào chăng nữa thì tất cả cũng chỉ là phương tiện để chúng ta tìm gặp Chúa mà thôi. Do đó, điều quan trọng không hệ tại bậc sống nhưng hệ tại việc chúng ta lợi dụng các phương tiện Chúa ban để sống trọn ơn gọi của mình.
Để gầy dựng một dân riêng, Giavê đã mời gọi Abram từ bỏ quê cha đất tổ, đi đến miền đất xa lạ mà ông chưa từng biết đến. Sau đó, lại truyền cho ông sát tế Isaac là người con duy nhất để làm của lễ toàn thiêu… Tuy ngập ngừng và khó hiểu nhưng ông vẫn vâng nghe và nhờ đó đã trở thành tổ phụ của một dân tộc hùng vĩ. Đang khi hăng say bắt bớ các Kitô hữu, thánh Phaolô được Chúa mời gọi để đem Tin Mừng cho dân ngoại. Dẫu sợ sệt và cảm thấy mâu thuẫn nhưng ông cũng can đảm vâng nghe và đã trở thành rường cột của Giáo hội. Ba thánh tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan trong bài Phúc âm hôm nay cũng được Chúa mời gọi lên núi để chiêm ngưỡng dung nhan vinh hiển của Ngài. Mặc dù các ông rất thích đến nỗi muốn dựng lều để được ở luôn trên đó, nhưng vì Chúa muốn cách khác nên các ngài lại xuống núi. Chính vì sự mau mắn vâng nghe đó mà sau này chẳng những các ông được chiêm ngưỡng, nhưng còn được dự phần vào vinh quang phục sinh của Chúa Giêsu nữa.
Điều này tỏ cho chúng ta thấy rằng cuộc sống của mỗi người, dù có đi lên hay bước xuống, rẽ trái hay quẹo phải, tất cả đều có thể đạt được mục đích tối hậu là chiếm hữu được Chúa, nếu chúng ta bước theo tiếng gọi của Ngài. Nói theo kiểu bình dân thì cuộc đời dẫu lên voi hay xuống chó đều có thể gọi là một cuộc đời thành tựu nếu chúng ta biết chấp nhận giới hạn của mình và làm cho nó thăng tiến theo chiều hướng thích hợp với những giới hạn đó. Không ai hạnh phúc cho bằng người biết chấp nhận và vui với những gì có được trong tầm tay. Chúa không dựng nên bất cứ ai trong chúng ta chỉ để ăn hại, nhưng Ngài dựng nên mỗi người với một dụng ý riêng. Cũng mười ngón tay thon dài như nhau nhưng của người này thì Chúa muốn họ dùng để đánh đàn, viết sách, còn của kẻ khác thì Ngài mời gọi họ dùng để trồng cây hoặc đào mương, vét giếng… Chính vì vậy mà không ai có quyền tự hào cho rằng ơn gọi hay công việc của mình cao trọng hơn của người khác. Bởi lẽ, nếu để hoàn thành ơn gọi của mình theo ý Chúa mà làm công việc hèn mọn như làm đầy tớ cả đời thì cũng cao đẹp và công phúc như người có bổn phận xây nhà thờ cho Chúa vậy. Điều can hệ là chúng ta đã tận dụng các khả năng Chúa ban để nhận ra và đáp trả lời mời gọi của Ngài trong cuộc sống hay không mà thôi.
Xin Mẹ là Đấng đã mau mắn và tự tình thưa lời “Xin Vâng” với Chúa giúp chúng con biết lắng nghe và mau mắn thưa lời “Fiat” với ơn Chúa soi động trong cuộc sống thường ngày, để ngày sau được cùng Mẹ thông phần vào vinh quang rực rỡ của Chúa Kitô Phục Sinh. Amen.
30. Thay đổi – Lm. Vũ Đình Tường
Vũ trụ chúng ta sống luôn biến đổi. Người sống vùng sa mạc nhận biết biến đổi rõ nhất là trong sa mạc. Sau một cơn bão thung lũng cát biến thành núi cát. Sức mạnh đó vượt ngoài tưởng tượng của loài người. Các khoa học gia có thể giải thích, đo lường, tìm hiểu nhưng bất lực không thể ngăn cản. Người sống vùng đồng bằng nhận biết biến đổi qua nước chảy trên sông. Người ta nói nước chảy đá mòn. Thực tế dân sống vùng sông ngòi biết nước chảy vài ba năm sông bị cạn dần, bờ sông bị mòn, lòng sông đã không mòn mà còn bị phù sa bù lấp làm lòng sông nông cạn. Biến đổi trong vũ trụ là điều không thể tránh. Cuộc sống đời người cũng có nhiều biến đổi theo từng giai đoạn. Từ trẻ thơ biến thành thiếu niên rồi thanh niên rồi trưởng thành, thành người lớn trước khi phải nhờ đến cây gậy chống bước đi, cụ ông, cụ bà. Mỗi một giai đoạn đều có thay đổi về cả vóc dáng lẫn tinh thần.
Tương tự như thế cuộc sống tâm linh cũng có những giai đoạn phát triển, thay đổi. Mỗi một giai đoạn giúp chúng ta biến thành con người khác. Cũng vóc dáng đó, cũng con người đó nhưng trong tâm hồn có biến đổi, có giao động, có dấu chỉ của thành hình. Thành hình như thế nào tuỳ thuộc vào chọn lựa lối sống của mỗi cá nhân.
Mừng kính lễ Chúa biến hình giúp chúng ta nhận biết con người trung tín theo Chúa không biến hình nhưng thành hình. Thành hình như thế nào chúng ta không thể khẳng định rõ ràng. Chúng ta chỉ biết qua hình ảnh nhận được trên núi thánh chúng ta mường tượng ra cuộc sống tương lai của người trung thành theo Chúa sẽ tương tự như hình ảnh trên núi thánh. Nhìn vào hình dạng biến đổi của Thầy để có cảm nghiệm là sẽ trở nên giống Thầy. Toàn thân sẽ trắng như tuyết, mặt mày sáng tươi và tinh thần đầy hoan lạc. Điều này tự mình không thể hoàn thành nhưng nhờ vào ơn Thầy ban cho. Kẻ tin theo Chúa được khai mở chút ít về cuộc sống tương lai nhờ các môn đệ được Chúa cho cảm nhận trên núi thánh. Con người trở nên trong sáng nhờ ánh sáng của Thầy chiếu dọi. Như mặt trăng sáng nhờ mặt trời, các môn đệ trung tín trở nên trong sáng nhờ ánh sáng mặt trời công chính là Đức Kitô chiếu toả.
Môn đệ không dám so với Thầy thì ít ra hình ảnh các tổ phụ cho biết các ngài cũng biến đổi như thế. Các ngài không so với Thầy, các ngài có được sự sáng nhờ Thầy ban cho, nhờ sống trung tín trong niềm tin. Niềm tin đây chính là ai tin vào Thầy cũng sẽ cảm nhận được sự sống mới nơi Thầy ban cho. Sự sống đó biến đổi con người bất toàn của ta trở nên tốt hơn, đẹp hơn, cao quí hơn, hoàn toàn hơn và cuối cùng trong sáng như tuyết. Đây là một cảm nghiệm, niềm hạnh phúc tuyệt vời mà trần thế không thể nào diễn tả. Các môn đệ đi theo Thầy được Thầy ưu đãi cho cảm nghiệm sự sống tương lai. Các ngài được nhìn thấy tương lai đời mình hạnh phúc như hình ảnh trên núi thánh. Dù chỉ hé mở một chút đã khiến các ngài say mê, muốn buông bỏ mọi sự nơi trần thế, không còn quyến luyến chi. Trước khi thực sự bước vào cộc sống mới, cuộc sống thành hình đó các ngài phải xuống núi. Xuống núi không phải để tích trữ, thu góp. Xuống núi để chính thức từ bỏ, dứt khoát xa lìa những gì thuộc về trần thế. Mỗi một hành động tốt lành đều giúp ta trở nên trong sáng hơn, mỗi một cử chỉ bác ái, yêu thương đều biến ta trở nên tốt lành hơn. Chính những biến đổi hàng ngày trên thay hình đổi dạng cuộc sống của ta, giúp ta trở nên trong sáng hơn. Từ bỏ lối sống tự tạo để bước theo con đường Thầy đã đi qua, con đường Thầy dẫn đường, chỉ lối. Con đường từ bỏ dù chông gai, cay đắng cũng rất đáng từ bỏ, cố gắng, trung tín bước theo Thầy vì sau những vất vả, gian truân là ánh sáng ngập tràn. Sau những âu lo, phiền muộn là niềm vui vĩnh cửu. Sau những khổ đau là hạnh phúc tuyệt vời. Sau những xua đuổi, rượt bắt là tưng bừng chào đón, đàm đạo. Hình ảnh đám mây bao phủ chính là trở ngại ngăn cách lớn nhất cho những ai không thể dứt khoát từ bỏ. Chỉ khi nào vượt qua đám mây che phủ đó con người mới nhận biết chân giá trị của cuộc sống mai hậu đang đón chờ.
Chúng ta cầu xin tâm tình trong lòng luôn ấp ủ cảnh sống tươi sáng. Ước mong niềm hy vọng tươi sáng sẽ xoá tan mây mù, tăm tối.
Biến cố hiển dung trong đoạn Phúc Âm chúng ta vừa nghe, hé mở trước vinh quang thật của Chúa, về phương diện nào đó thiết nghĩ để củng cố niềm tin cho các Tông đồ. Bởi 6 ngày trước đây, theo Phúc Âm Mátthêu và Máccô (còn Lc thì 8 ngày), ĐG báo cho các ông biết rằng Người sắp dẫn các ông lên Giêrusalem, ở đó Người sẽ bị đánh đập và bị giết chết, và những ai muốn làm môn đệ Chúa thì cũng phải vác thập giá mình mà theo Chúa, điều này đang làm cho các ông hoang mang, lo sợ. Chính Phêrô ngăn cản Chúa đừng đi vào con đường đau khổ này.
Đang lúc các ông trong tâm trạng bất ổn đó, ĐG dẫn các ông lên núi cao, chính nơi đây trước mặt hai nhân vật nổi danh của Cựu Ước: Môisen và Êlia đại diện cho Lề Luật và các tiên tri. Việc này như báo rằng thời Cựu Ước đã hết, thời Đức Giêsu, thời Tân Ước bắt đầu. Chính Chúa Cha xác nhận ĐG là con yêu dấu, và bảo hãy vâng nghe lời Ngài. Trước cảnh vinh quang của Đức Giêsu, Phêrô và các Tông đồ xin được kéo dài điều ấy: Vì vậy, các ông xin làm ba lều (1 cho Chúa, 1 cho Môisen, và 1 cho Elia). Điều này có ý nghĩa gì? Thưa các ông muốn khai mạc thánh đô ngay tại đây, các ông muốn lưu lại trong lễ hội vinh quang, các ông không muốn xuống núi. Nhưng cảnh ấy chỉ được Chúa cho diễn ra cách ngắn ngủi. ĐG và các Tông đồ lại xuống núi, lại tiếp tục công việc vất vả loan truyền Nước Chúa.
Phải chăng, chúng ta hôm nay cũng như các Tông đồ xưa, bước theo Chúa để chỉ muốn được những điều thuận lợi, mà khước từ những khó khăn, những hy sinh? Ước vọng của các Tông đồ, hay ước vọng của chúng ta bước theo Chúa để tìm được hạnh phúc thật, đó là điều đúng, chính đáng. Nhưng chúng ta đừng quên rằng, Đức Kitô đã phải trải qua khổ nạn mới được phục sinh, mới được suy tôn trong vinh quang sao? Người Kitô hữu cũng được mời gọi đi theo con đường ấy, chính ĐG nói: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mc 9,34).
Khi nói tới vác thập giá của mình, ta thường nghĩ: Thầy Giêsu có những đau khổ, và mỗi người ai cũng có cái khổ riêng. Điều đó không sai, nhưng chúng ta nên hiểu đúng hơn, đó là khi bước theo Chúa thì phải chấp nhận những cái khó khăn do việc theo Chúa mang lại: như phải tuân giữ những điều Ngài dạy, nghĩa là chấp nhận những hy sinh, vất vã của việc giữ đạo, sống đạo, từ bỏ con người cũ… Đôi khi còn phải hy sinh cả mạng sống (như thời kỳ cấm cách). Đây là con đường hẹp, con đường thập giá, nhưng là con đường dẫn đến hạnh phúc thật.
Muốn đạt tới vinh quang, hẳn phải trải qua con đường thập giá đó cũng là điều dễ hiểu thôi. Chẳng hạn như các bạn trẻ muốn có một nghề nghiệp, một bằng cấp đại học, các bạn cũng biết rằng phải đầu tư, phải hy sinh cho việc học hành như thế nào? Các bậc gia trưởng, hiền mẫu nhìn lại xem, để có một cơ ngơi, một mái ấm gia đình như hôm nay hẳn quý ông bà phải hy sinh, vất vả để xây dựng như thế nào? v.v. Cũng vậy, để được phúc trường sinh, mọi người chúng ta cũng phải hy sinh, cũng phải chịu cực khổ để bước theo Chúa, nghĩa là phải sống đạo, chứ không phải khi lãnh nhận BT Rửa tội là đương nhiên sẽ được phúc Thiên Đàng.
Có thể nói thập giá là biểu tượng của Kitô giáo, ở đâu có Kitô hữu, ở đó có thập giá: trên nóc nhà thờ, trên cổng nhà, trên người, trên mộ, nhưng thập giá được trưng bày như thế không bao giờ quan trọng cho bằng thập giá trong cuộc sống hằng ngày: thập giá khi nỗ lực chu toàn bổn phận, khi quên mình đi để quan tâm tới người khác, khi nói tiếng “không” với những gì đi ngược lại với những giá trị Phúc Âm. Thập giá không là điểm kết của Đức Giêsu, mà qua thập giá Ngài mới đạt đến Phục Sinh vinh hiển. Vì thế những hy sinh, những cố gắng của chúng ta hôm nay làm vì danh Đức Giêsu, là thập giá, là chìa khoá để mở cửa vào Thiên Quốc ngày sau với Ngài.
Bầu khí mùa chay rất thuận lợi cho việc chúng ta bước vào con đường thập giá của ĐKT. Thế nhưng hơn 10 ngày của mùa chay năm nay đã qua, mỗi người chúng ta hãy nhìn lại để xem mình đã bước theo Chúa được đến đâu? Mình giống Chúa được đến đâu? Chúng ta cũng nhớ rằng, chúng ta không chỉ bước theo Chúa trong mùa chay, mà còn bước theo Chúa trong suốt cuộc đời nữa.
Vinh quang mà Phêrô, Giacôbê và Gioan được cảm nếm trong khi Chúa biến hình, vinh quang của Đức Kitô Phục sinh cũng sẽ là vinh quang của chúng ta mai ngày, nếu chúng ta trung thành bước theo Chúa, và chấp nhận những khó khăn do việc bước theo Chúa mang lại. Nhưng liệu vinh quang ấy có đủ sức hấp dẫn để giúp chúng ta vượt qua mọi thử thách, mọi cám dỗ, mọi cạm bẫy trong cuộc đời để đi trọn con đường mà Chúa mời gọi chúng ta đi vào hay không?
32. Đức Giêsu- bảo chứng tình yêu
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Có nhiều tôn giáo tin nhận Thiên Chúa hiện hữu, nhưng Kitô giáo là tôn giáo đặc biệt nhận ra Thiên Chúa là Đấng yêu thương. Chính khi nhận ra Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, thì Kitô hữu nhận biết Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng, đến độ dám cho Con Yêu Dấu của Ngài nhập thể làm người ở giữa con người.
1. Đức Giêsu là Con Thiên Chúa
Đức Giêsu đã cùng với ba môn đệ lên núi. Ngài đã biến hình, áo Ngài trở nên trắng như tuyết. Tin Mừng Mác-cô không nói gương mặt Đức Giêsu biến đổi như thế nào, chỉ dùng chữ “biến hình;” tuy nhiên, người ta nghĩ rằng nếu áo của Ngài như vậy, thì gương mặt và thân xác của Ngài cũng phải “ra khác” một cách rất đặc biệt. Cựu Ước cũng đề cập đến gương mặt của Môsê trở nên sáng láng sau khi ông gặp gỡ Thiên Chúa, nên ông phải che mặt khi gặp gỡ dân Do Thái (Xh 34, 29-35). Thánh Phaolô đã giải thích gương mặt của Môsê được biến đổi vì phản ánh vinh quang Thiên Chúa. Vậy khi Đức Giêsu biến hình, hàm chứa Ngài là người phản ánh Thiên Chúa một cách rất đặc biệt.
Tiếng từ trong đám mây nói với ba môn đệ: “Đây là Con Ta, Đấng rất được yêu. Hãy nghe Ngài.” Như vậy, Thiên Chúa nhận Đức Giêsu là Con của Ngài, và là Đấng được yêu đặc biệt. Thực ra, tước vị “con Thiên Chúa” cũng được dùng để chỉ nhiều người (G 38,7), dân Israel (Hos 11,1), vị vua thiên sai (Tv 2,7). Với Đức Giêsu, Ngài được Thiên Chúa gọi là người Con, được yêu đặc biệt; tuy nhiên, ngay lúc trên núi này, chắc ba môn đệ chưa thể nào nhận biết Đức Giêsu là Con Thiên Chúa như các ngài đã nhận ra sau khi Đức Giêsu phục sinh và hiện ra cho các ông, tuy nhiên lúc này Đức Giêsu vẫn là một người rất đặc biệt.
Đức Giêsu nhận mình là Con Người. Đức Giêsu thật sự là người như tất cả mọi người. Một người cảm thấy gì thì Đức Giêsu cũng cảm thấy như vậy. Ngài cũng bị cám dỗ như bao người, dù là cám dỗ về miếng ăn, về danh vọng và về quyền hành (Mt 4,1-11); và không chỉ vậy, Ngài còn bị cám dỗ về đức tin nữa: “Lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con” (Mc 15,34). Đức Giêsu, nếu có điều gì khác chúng ta, thì đó là Ngài không phạm tội (Dt 4,15). Ngài đã dùng tự do để vâng phục Thiên Chúa, còn chúng ta lại dùng tự do Thiên Chúa ban để phản lại Ngài.
2. Abraham đã sẵn sàng hiến tế con mình cho Thiên Chúa
Abram, tổ phụ dân Do Thái, là một con người rất đặc biệt. Thiên Chúa đã mời gọi ông bỏ quê cha đất tổ để đi đến đất Ngài chỉ cho. Thiên Chúa hứa sẽ ban cho ông có con cháu nối dòng, có đất làm cơ nghiệp, và trở thành một mối chúc lành cho nhiều người. Abram đã tin và đã đi theo lời mời của Thiên Chúa. Đặt mình vào hoàn cảnh của người thời đó, ta nhận ra Abram đã tin vào Thiên Chúa một cách rất đặc biệt. Thời đó người ta chưa có luật lệ như hiện tại, người ta phải dựa vào gia đình họ hàng để bảo vệ mình và tài sản khỏi bị người khác đánh cướp. Thế mà Abram dám rời bỏ gia đình, ra đi với tài sản và vợ là Saray. Nếu không tin tưởng và phó thác tuyệt đối vào Thiên Chúa, thì không ai dám làm điều đó vì rất nguy hiểm, người ta không chỉ mất tài sản nhưng còn mất cả mạng sống mình. Abram đã dám làm.
Thiên Chúa đã đổi tên Abram thành Abraham, Saray thành Sara; và đã cho ông bà có một người con tên là Isaac. Thiên Chúa cũng nói với Abraham rằng dòng giống ông sẽ nhờ Isaac mà có; thế mà giờ đây Thiên Chúa lại bảo ông đem người con duy nhất của mình đi hiến tế làm của lễ dâng Thiên Chúa. Tại sao Thiên Chúa lại “đổi ý” như vậy? Tại sao Thiên Chúa không “nhất quán” với chính Ngài: đã hứa cho dòng dõi của ông nhờ Isaac mà có, mà bây giờ lại đòi ông phải hiến tế Isaac? Làm sao có thể vâng lời Thiên Chúa được?
Một lần nữa, Abraham đã tin và phó thác tuyệt đối nơi Thiên Chúa. Thiên Chúa muốn sao Abraham cũng làm, vì ông tin rằng Thiên Chúa quyền năng, Ngài có thể làm tất cả, ngay cả phục sinh Isaac. Chắc chắn Abraham đã có những suy nghĩ cám dỗ bất tuân, nhưng ông đã chiến thắng chính mình bằng niềm tin phó thác tuyệt đối nơi Thiên Chúa. Qua hành vi này, ông trở thành cha tất cả những người tin (Rm 4,18tt). Cả cuộc đời của Abrahm là một chuỗi những hành vi tin. Ngay cả khi vợ ông là bà Sara chết, ông vẫn chưa có đất để chôn (St 23), tuy vậy ông vẫn tin rằng Thiên Chúa sẽ ban cho ông điều Ngài đã hứa.
3. Thiên Chúa đã không dung tha chính Con Ngài
Khi Đức Giêsu còn tại thế, chẳng ai biết Ngài là Thiên Chúa nhập thể, kể cả các tông đồ. Chỉ sau khi Ngài sống lại, và với ơn Thánh Thần soi sáng, các tông đồ nhớ lại những gì Đức Giêsu đã nói và đã làm, nên mới nhận ra Ngài là Con Thiên Chúa theo một nghĩa thật đặc biệt. Một khi nhận ra Đức Giêsu là Đấng thật đặc biệt, là Con Thiên Chúa, thì Kitô hữu lại hiểu biết về Thiên Chúa và về con người một cách thâm sâu hơn.
Con người là ai mà được Thiên Chúa yêu thương đến như vậy! Sao Thiên Chúa lại trao phó Con của Ngài cho con người như thể “trao trứng cho ác” như vậy? Một người ít hiểu biết nhất cũng nhận ra con người gian ác sẽ giết Con của Ngài, như vậy tại sao Ngài vẫn trao gởi Người Con của Ngài cho con người? Tại sao Thiên Chúa tin con người đến độ như vậy? Cho đến cùng, Kitô hữu nhận ra tình yêu của Thiên Chúa đối với con người thật vô cùng: Thiên Chúa tin vào con người dù thật sự không thể tin được.
“Thiên Chúa không dung tha chính Con Ngài nhưng phó thác Con của Ngài vì tất cả chúng ta.” Nhìn Đức Giêsu chết trần trụi ô nhục thê thảm trên thập giá, người ta có cảm tưởng như thể Thiên Chúa yêu thương con người hơn cả Đức Giêsu. Thật ra không phải Thiên Chúa yêu thương con người hơn Con của Ngài; nhưng điều đó lại cho thấy Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng. Theo thánh Phaolô, một khi Thiên Chúa đã ban Đức Giêsu cho ta, thì Ngài không còn tiếc gì với ta nữa. Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta tất cả. Đức Giêsu là bảo chứng cho thấy Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng!
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Nơi Abraham có điều gì bạn kính phục?
2. Bạn có nhận thấy Thiên Chúa tin và phó thác vào con người khi cho Con Ngài nhập thể không? Tại sao?
3. Đức Giêsu có bị nghi ngờ về đức tin không? (chẳng hạn, không biết mình có sống lại thật không? nếu bạn nghĩ có, tại sao bạn nghĩ như vậy? xin đưa bằng chứng hoặc lý luận bảo vệ ý kiến của bạn.)
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
1. Thiên Chúa có quyền đòi hỏi như vậy không?
Abraham không con, Thiên Chúa đã ban Isaac cho ông, và hôm nay chúng ta thấy Thiên Chúa đòi Abraham phải hiến tế con của mình trên một ngọn núi.
Isaac là người con duy nhất của Abraham với Sara. Thiên Chúa cũng hứa rằng chính từ nơi Isaac mà Abraham có con cháu đông như sao trên trời như cát dưới biển!
Thiên Chúa ban Isaac cho Abraham, rồi bây giờ Thiên Chúa muốn đòi lại! Thiên Chúa hứa ban cho Abraham dòng giống đông đảo qua Isaac, nhưng bây giờ Thiên Chúa muốn Abraham hiến tế Isaac cho Ngài! Tại sao Thiên Chúa lại oái oăm như vậy? Giết Isaac, có khác nào Abraham giết mình!
Trong Kinh Thánh chúng ta còn thấy có nhiều đoạn văn cho thấy như thể Thiên Chúa coi thường mạng sống con người:
Thiên Chúa đã giết các con đầu lòng của người Aicập để giải phóng dân tộc Do thái;
Thiên Chúa đã ra lệnh thần tru “giết tất cả người và súc vật không chừa một mạng sống” trong một số thành mà dân Do thái đánh chiếm.
Tại sao Thiên Chúa lại đòi điều khủng khiếp như vậy nơi con người? Thiên Chúa có thể bắt con người phải giết người, và đặc biệt là giết con của mình, để hiến tế Ngài không? Thiên Chúa có quyền thử con người và đòi buộc con người như thế không?
Phải chăng là Thiên Chúa bất nhân?
2. Thiên Chúa đã hiến con của Ngài cho chúng ta
Thiên Chúa thử để cho thấy Abraham chọn Thiên Chúa trên hết, trên cả con mình, và trên cả chính mình. Tương tự vậy, Thiên Chúa đã cho Satan hành hạ Gióp, để người ta thấy rõ Gióp là người công chính và thánh thiện như thế nào!
Có thể chúng ta không dám hiến mạng con chúng ta cho Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa đã dám hiến mạng Con của Ngài cho chúng ta: “Thiên Chúa không dung tha chính Con mình, nhưng lại phó thác Con vì tất cả chúng ta; và như vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không ban mọi sự cho chúng ta cùng với Con của Ngài sao?” (Rm 8,31-32).
Thiên Chúa không đòi, nhưng Thiên Chúa mời, và nếu chúng ta dám dâng hiến tất cả cho Thiên Chúa, thì chắc Thiên Chúa không thua lòng quảng đại của chúng ta. Thiên Chúa mời gọi, để chúng ta được trổi trang hơn, được trổi vượt hơn.
Nếu chúng ta bất bình trước những đòi hỏi của Thiên Chúa đối với Abraham và đối với nhiều người, thì đáng lẽ chúng ta phải rung động sâu xa trước biến cố Thiên Chúa dám hiến Con của Ngài cho chúng ta! Thiên Chúa dám hy sinh Con của Ngài, và như vậy là hy sinh chính Ngài cho chúng ta.
Chúng ta dễ phản đối Thiên Chúa vì cho rằng Ngài đã đòi hỏi chúng ta, chứ dường như chúng ta chưa rung động trước tình yêu của Thiên Chúa qua việc Ngài hiến Con Ngài cho chúng ta! Và nếu vậy, chúng ta là loài phản loạn, yêu sách, đòi hỏi, và không khiêm tốn nhận biết mình thực sự: con người có là gì trước Thiên Chúa. “Nhân bản” thì không bằng “Chúa bản”, vì lấy Chúa làm nền tảng thì hàm chứa luôn tôn trọng con người thực, giúp con người thực sự, làm con người hạnh phúc thật.
3. Đây là Con Ta rất yêu dấu
Các môn đệ không hiểu nhiều về biến cố này, vì các ông chưa biết Đức Giêsu là Thiên Chúa. Các ngài chỉ biết Đức Giêsu là người rất đặc biệt của Thiên Chúa. Biến cố “Chúa hiển dung” này soi sáng biến cố phục sinh, và giúp các tông đồ nhận ra Đức Giêsu là Thiên Chúa.
Đức Giêsu là Thiên Chúa. Nếu đúng như vậy, thì Thiên Chúa yêu con người biết bao, vì Ngài đã hiến Con của Ngài vì tất cả chúng ta! Ôi tình yêu Thiên Chúa thật thâm sâu, thật nhiệm mầu.
Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng. Ngài là tuyệt đối, Ngài có quyền đòi hỏi mọi sự, và trên nguyên tắc con người phải dâng hiến tất cả cho Ngài, dâng hiến Ngài những gì qúy nhất, và thậm chí cả con người của mình.
Con người phải tin rằng Thiên Chúa yêu thương mình, cho dù Ngài có đòi hỏi gì đi nữa:
những con đầu lòng của người Aicập vẫn được Thiên Chúa thương;
những em bé bị chết ở Bêlem dưới tay bạo chúa Hêrôdê được tôn kính “các thánh anh hài”;
các thánh tử đạo được thưởng công xứng đáng.
Tin tưởng phó thác tuyệt đối vào Thiên Chúa, là những nhân đức đối thần, tức là những hành vi căn bản và nền tảng mà con người phải có đối với Thiên Chúa. Không tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, không thể làm đẹp lòng Thiên Chúa được.
Con người phải bỏ mình để Thiên Chúa trở nên nhất nơi mình.
34. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Chủ Đề: Cũng vì thương, Thiên Chúa ban Đức Giêsu cho loài người. (Mc 9,7)
Dẫn vào Thánh lễ
Trong Mùa Chay, Hội Thánh nhắc chúng ta nhớ những điều rất quan trọng. Chúa nhật vừa qua, Hội Thánh nhắc ta nhớ đến những ơn ban của Chúa. Hôm nay Hội Thánh nhắc ta nhớ đến một ơn quý giá nhất mà Thiên Chúa ban cho chúng ta, đó là Đức Giêsu, Người Con Một yêu quý của Ngài.
Thiên Chúa ban Đức Giêsu cho chúng ta để Đức Giêsu sống với chúng ta và chúng ta sống với Ngài, sống theo Ngài và sống như Ngài.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy chú ý lắng nghe Lời Đức Giêsu và kết hợp thân thiết với Ngài.
Gợi ý sám hối
Chúa nhật vừa qua, Đức Giêsu đã kêu gọi chúng ta sám hối, nghĩa là bỏ con được cũ lầm lạc để quay về với Chúa. Chúng ta đã thực sự quay về chưa?
Đức Giêsu còn kêu gọi chúng ta hãy lắng nghe Lời Chúa. Chúng ta đã làm việc này chưa?
Đã qua một tuần Mùa Chay rồi, mỗi người chúng ta có dự định cụ thể nào chưa?
Lời Chúa
Bài đọc 1: St 22,1-2.9a.10-13.15-18
Tường thuật chuyện Abraham tế sát Isaac.
Tế sát Isaac là một hy sinh rất lớn của Abraham, vì: a/ Isaac là đứa con duy nhất mà vợ chồng ông sinh được trong lúc tuổi già; b/ đứa con ấy lại là tất cả niềm hy vọng của ông về lới Chúa hứa sẽ cho ông một dòng dõi đông đúc; b/ bởi thế, Isaac là “đứa con một yêu dấu” của Abraham. Vậy mà ông đành giết nó để dâng cho Chúa.
Tuy nhiên tấm lòng của Abraham đối với Thiên Chúa còn to lớn hơn: a/ Chúa vừa gọi “Abraham” thì ông đáp lại ngay “Dạ, tôi đây”; b/ Chúa muốn ông làm một việc vừa ngược với tình cảm của ông, vừa xem ra cũng ngược với lời Ngài đã hứa (cho ông một dòng dõi đông đúc), ông cũng sẵn sàng làm.
Thiên Chúa coi trọng tấm lòng hơn lễ vật, coi trọng sự hy sinh trong tâm hồn Abraham hơn đứa con mà ông sắp dâng. Cho nên Chúa bảo ông dừng tay. Dù Abraham chưa giết con, nhưng Chúa kể ông đã dâng con cho Ngài.
Đáp ca: Tv 115
Tác giả đang ở trong một hoàn cảnh bi đát “Tấm thân tôi trăm phần khổ cực”, hơn nữa đang chứng kiến “cái chết của những bậc thánh nhân”, thế mà tác giả vẫn tin vào Thiên Chúa.
Đáp lại đức tin kiên vững ấy, Thiên Chúa đã “bẻ gãy xiềng xích” và cứu thoát tác giả. Ông vui mừng ca tụng Chúa và dâng lễ vật tạ ơn.
Những tâm tình này rất đúng với Abraham.
Tin Mừng: Mc 9,2-10
Bài tường thuật Đức Giêsu biến hình. Điểm đáng chúng ta lưu ý nhất là tiếng từ trời “Đây là con yêu dấu của Ta”. Câu này là vang vọng của lời Thiên Chúa nói với Abraham về Isaac “Hãy đem Isaac đứa con rất yêu dấu của ngươi… dâng nó làm lễ toàn thiêu” (Bài đọc I)
Như thế, Isaac là hình bóng của Đức Giêsu. Cũng như Abraham đã hy sinh đứa con một yêu dấu của mình, thì Thiên Chúa cũng không tiếc khi ban Đức Giêsu, Người Con Một yêu dấu của Ngài, cho nhân loại để chịu chết cứu chuộc nhân loại.
Bài đọc II: Rm 8,31-34
Thánh Phaolô suy nghĩ về ý nghĩa cuộc đời Đức Giêsu và hiểu rằng tất cả đều vì lợi ích cho loài người chúng ta: Khi Đức Giêsu chịu chết là chịu chết “vì tất cả chúng ta”; và khi Ngài sống lại lên ngự bên hữu Chúa Cha thì cũng là để “biện hộ cho chúng ta”.
Đức Giêsu chính là ơn ban tuyệt vời nhất mà Thiên Chúa ban cho loài người.
Gợi ý giảng
* 1. Món quà ngoài sức tưởng tượng
Các bài đọc hôm nay nói về những món quà vượt sức tưởng tượng.
Abraham là một người sẵn lòng với Thiên Chúa. Ngài bảo ông bỏ quê hương xứ sở mà ra đi đến một nơi vô định. Ông mau mắn làm theo. Thiên Chúa thấy lòng quảng đại của ông, Ngài bảo ông dâng Isaac cho Ngài. Món quà này chắc chắn Abraham không ngờ tới, vì đó không phải là một đồ vật hoặc một con vật mà là một con người. Con người ấy lại là đứa con duy nhất của ông. Hơn nữa nó còn là tất cả hy vọng của ông vì ông sinh ra nó trong lúc tuổi đã già, và ông nghĩ chỉ có nó mới thực hiện được mong ước của ông là có một dòng dõi. Dâng nó đi là dâng tất cả. Thế mà Abraham đã dâng. Một món quà ngoài sức tưởng tượng (bài đọc I).
Nhưng món quà mà Thiên Chúa ban cho loài người còn ngoài sức tưởng tượng hơn nữa. Đó là ban Đức Giêsu, Người Con độc nhất, Người Con thân yêu vô cùng. Hơn nữa, Thiên Chúa ban Người Con ấy để Người Con ấy chịu chết vì tội lỗi loài người, chết thay cho loài người (bài Tin Mừng). Thật chẳng có tấm lòng nào bằng như thế. Chẳng có tình yêu nào cao cả như thế (bài đọc II).
* 2. “Hãy vâng nghe lời Người”
Một hôm nhà vua triệu tập các cận thần. Vua đưa cho quan Tể Tướng một viên ngọc trai lóng lánh và hỏi:
– Ông hãy nói viên ngọc này đáng giá bao nhiêu?
– Muôn tâu, nó đáng giá còn hơn số lượng vàng khối mà 100 con lừa có thể chở.
– Ông hãy đẫp vỡ nó ra!
– Muôn tâu Bệ Hạ, làm sao hạ thần có thể phung phá một báu vật như thế ạ!
Nhà vua thưởng cho quan Tể Tướng một chiếc áo danh dự và lấy lại viên ngọc.
Kế đó vua đưa viên ngọc cho quan Thị Vệ, cũng hỏi:
– Theo ông, nó đáng giá bao nhiêu?
– Bằng nửa vương quốc.
– Hãy đập vỡ nó ra!
– Đập vỡ viên ngọc này ư? Muôn tâu Bệ Hạ, tay thần không thể nào làm được việc đó.
Nhà vua cũng thưởng cho ông này một chiếc áo danh dự, lại còn tăng lương cho ông.
Sau cùng nhà vua đưa viên ngọc cho Abdul:
– Ngươi có biết viên ngọc này đẹp đến mức nào không?
– Muôn tâu, đẹp không thể nói được.
– Hãy đập nát nó đi.
Lập tức Abdul lấy hai viên đá đập vỡ viên ngọc ra và nghiền nó thành bụi. Quần thần thét lên sợ hãi vì sự táo bạo của Abdul. Họ hỏi:
– Tại sao nhà ngươi dám làm thế chứ?
Abdul bình tỉnh đáp:
– Lệnh của Hoàng Thượng đáng giá hơn bất kỳ viên ngọc quý nào. Tôi tôn kính Hoàng Thượng chứ không tôn kính viên ngọc.
Nhà vua khen ngợi thái độ của Abdul và thưởng chàng trọng hậu hơn cả hai vị quan kia.
Câu chuyện giúp chúng ta hiểu tại sao khi Đức Giêsu biến hình, tiếng Chúa Cha từ trời đã phán: “Đây là Con Ta yêu dấu. Hãy vâng lời Ngài”.
* 3. Con yêu dấu
Khi đọc bài Tin Mừng hôm nay về việc Đức Giêsu biến hình, tôi chẳng có chút cảm xúc nào cả. Đọc thêm bài đọc I về chuyện Abraham tế sát Isaac, tôi khám phá rằng Isaac là hình bóng của Đức Giêsu, và người cha già Abraham là hình bóng của Thiên Chúa. Và tôi rất xúc động vì tiếng gọi “Con yêu dấu”.
Abraham yêu dấu Isaac biết chừng nào vì đó là đứa con duy nhất ông sinh ra được trong lúc tuổi đã già. Chúa Cha cũng yêu dấu Đức Giêsu biết chừng nào vì đó chẳng những là Người Con duy nhất mà còn là Người Con tuyệt hảo của Ngài.
Có người cha nào không tan nát cõi lòng khi đứa con yêu dấu duy nhất của mình phải chết? Chúa Cha hiểu được tâm trạng này nên Ngài chỉ thử lòng Abraham thôi chứ không nỡ để Isaac phải chết. Thế mà Chúa Cha lại cho Đức Giêsu Con Yếu Dấu của Ngài phải chết thật! Ôi tình Chúa Cha thương loài người chúng ta bao la và vĩ đại biết chừng nào!
Chúa Cha chỉ mong nơi loài người chúng ta một điều duy nhất là “Hãy vâng nghe Lời Đức Giêsu” thôi. Nếu điều duy nhất ấy mà chúng ta cũng không đáp ứng thì thật là phụ bạc biết chừng nào!
Thử thách và biến hình
Bài đọc I nói về thử thách (Thiên Chúa bảo Abraham tế sát Isaac), còn bài Tin Mừng nói về biến hình. Hai khía cạnh này liên kết với nhau và bổ sung cho nhau như hai mặt của một đồng tiền.
Khi Thiên Chúa mới gọi Abraham, Ngài đã thử thách ông: Ông phải từ bỏ quê hương xứ sở để đi đến một nơi vô định. Vì Abraham trung thành trong thử thách nên Thiên Chúa đã cho ông có con. Trước khi dẫn đời ông sang một biến đổi nữa, Thiên Chúa lại thử thách ông: đứa con duy nhất ấy, Ngài muốn ông giết đi để làm lễ tế cho Ngài. Một lần nữa Abraham đã vâng lời và một lần nữa ông được biến đổi: Isaac vẫn sống và sinh con cháu, nhờ đó Abraham thực sự có một dòng dõi.
Chúa nhật tuần trước, chúng ta thấy Đức Giêsu chịu thử thách trong sa mạc. Hôm nay chúng ta chứng kiến Ngài biến hình trên núi.
Học sinh cũng phải thường xuyên trải qua thử thách là các kỳ thi. Nhưng có như thế thì học sinh mới được chuyển cấp, càng ngày càng cao hơn, giỏi hơn…
Biến đổi là Quy luật
Hãy nhìn chung quanh, chúng ta sẽ thấy mọi sự luôn biến đổi. Thí dụ nhìn một cái cây. Tuy nó vẫn là cái cây đó nhưng bên trong nó có biết bao biến đổi: có những chiếc lá tháng trước nay không còn; nhiều chiếc lá mới mọc ra; và nhiều chiếc lá hiện nay tháng sau sẽ không còn. Nếu cái cây vẫn y như thế từ tháng này sang tháng khác, từ năm này qua năm khác thì đó không còn là một cái cây sống nữa mà là một khúc gỗ.
Hãy nhìn lên trời, chúng ta cũng thấy quy luật biến đổi ấy: bầu trời hôm qua với bầu trời hôm nay đâu có hoàn toàn giống nhau mặc dù cũng vẫn là một bầu trời.
Hãy nhìn xuống nước. Một triết gia đã nói “Không ai tắm hai lần trong một dòng sông”.
Và nhìn vào bản thân: các nhà khoa học nói rằng các tế bào luôn thay đổi, cái này chết, cái kia sinh ra. Sau 7 năm thì không còn tế bào nào là tế bào cũ của 7 năm trước nữa.
Không biến đổi cũng đồng nghĩa với chết. Đối với cuộc sống thân xác thì như thế. Đối với cuộc sống thiêng liêng cũng như thế.
Bởi thế trong Mùa Chay chúng ta cần biến đổi. Cứ sống y như cũ có nghĩa là chết.
Từ Tabor đến Golgotha
Một Linh mục qua nhiều năm coi xứ đã kể một câu chuyện khá dí dỏm và cũng rất sâu sắc như sau:
Có một đôi vợ chồng trẻ rất xinh đẹp và sống với nhau cũng rất khéo. Đúng là một cặp “trai tài gái sắc”. Có lẽ chính nét trẻ trung xinh xắn của vợ chồng đã cho họ một mùa xuân cuộc đời thật nồng cháy tình yêu và hạnh phúc.
Một ngày nọ, người vợ ăn một nửa trái táo, rồi tặng chồng phần kia. Người chồng vui vẻ đón nhận:
– Ôi nửa trái táo ân tình, công chúa của lòng anh!
Hai mươi năm sau. Cũng đôi vợ chồng ấy, cộng thêm những nét tàn tạ của thời gian. Cũng một trái táo, vợ ăn một nửa, mời chồng phần còn lại. Nhưng người chồng nhăn mặt:
– Sao lại cho nửa trái táo ăn thừa?
Tất cả nguyên trạng chỉ khác có nhan sắc. Cũng nửa trái táo dâng tặng nhưng hai mươi năm trước nhận từ tay “người đẹp” là trái táo ân tình. Hai mươi năm sau từ tay “nàng già” là trái táo ăn thừa. Nên chỉ dựa vào nhan sắc người ta sẽ mất hết tất cả với thời gian.
*
Cuộc biến hình trên núi Tabor được xếp đặt trước việc tiên báo khổ nạn. Nếu người ta làm cho an toàn những viên thuốc đắng bằng một lớp vỏ bọc đường, thì Đức Giêsu cũng hóa giải tin khổ nạn bằng cuộc biến hình rực rỡ. Bọc đường chứ không bọc thuốc ngủ. Hoá giải chứ không gây mê.
Nhưng có lẽ cuộc biến hình đã phản tác dụng: “Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm, chúng con xin dựng ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê và một cho Elia” (Mc 9,5). Vậy là Phêrô, Giacôbê và Gioan muốn đăng ký thường trú trên đỉnh núi Tabor. Họ đòi ngủ yên trong hào quang rực rỡ. Họ bỏ lại dưới chân núi các bạn đồng môn, các cuộc truyền giáo. Họ muốn xa rời dân chúng đang khao khát Lời Chúa.
Các ông đâu biết rằng Thầy Giêsu chỉ lên đỉnh Tabor trong chốc lát, rồi xuống núi chuẩn bị vác thập giá lên đồi Canvê. Theo Thầy không phải là lên cao hưởng thụ, nhưng là xuống thấp và leo lên thập giá với Thầy.
Cũng như ba môn đệ, đôi vợ chồng trong câu chuyện kể trên chỉ muốn dừng lại ở vẻ đẹp. Nhưng vẻ đẹp đâu tồn tại mãi. Chúa chỉ mặc “tấm áo trắng như tuyết” trong chốc lát vì niềm hy vọng Phục sinh. Cuộc đời cần hạnh phúc chứ không phải vẻ đẹp. Vẻ đẹp là một ân huệ của trời, nhưng cũng có thể là cạm bẫy cướp đi hạnh phúc.
Giá trị đích thực chính là tình yêu, chính do tình yêu mà đôi vợ chồng mới giữ được lòng thủy chung, chính do tình yêu mà các Kitô hữu mới trở nên bóng hình xinh đẹp rực rỡ của Chúa. Chính do tình yêu mà chúng ta phải biến hình đổi dạng mỗi ngày để phản ánh vinh quang ngời sáng của Người.
Đức Kitô vinh quang của Tabor cũng chính là Đức Kitô rong ruỗi trên các đường phố Palestina rao giảng chữa bệnh và làm các phép lạ.
Đức Kitô sáng láng của Tabor cũng chính là Đức Kitô thấm đẫm mồ hôi trong vườn Giêtsêmani.
Đức Kitô rực rỡ của Tabor cũng chính là Đức Kitô treo trên thập giá đỉnh Golgotha.
Hai đỉnh núi Tabor và Golgotha cách nhau không xa, nhưng lại là con đường vạn lý, con đường đau khổ, con đường vượt qua: Đường tình yêu. Theo Thánh Têrêxa thành Lisieux: “Sống tình yêu không phải là căng lều trên đỉnh Tabor, mà là cùng với Giêsu ta trèo lên đồi Canvê”. Thánh Bernadette cầu nguyện: “Con không xin cho mình khỏi phải đau khổ, nhưng chỉ xin Người đừng bỏ con trong khổ đau”.
*
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn can đảm tiến bước trên đường đời chông gai vạn nẻo, với niềm hy vọng biến cố Phục sinh sẽ bừng sáng. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Đức Giêsu đã biến hình cho các môn đệ thấy vinh quang của Người, để củng cố đức tin cho các ông, và chuẩn bị các ông đón nhận cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện:
Trung thành với Đức Giêsu trong mọi hoàn cảnh là nguồn thách đố cho Hội thánh / chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi người trong Hội thánh luôn tin tưởng bước theo đường lối Đức Giêsu / dù khi được vinh quang hay khi phải trải qua gian nan tử nạn.
Trung thành để phục vụ công lý và công ích cho xã hội là nguồn thách đố cho các nhà cầm quyền / Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi người có trách nhiệm lãnh đạo trên thế giới luôn can đảm cương quyết / không nhượng bộ những gì vi phạm đến nhân phẩm và nhân quyền của người dân.
Nghèo đói, bệnh tật, thất nghiệp, chậm tiến… là những thách đố cho người Việt Nam hôm nay. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi người Việt Nam biết can đảm kiên nhẫn / để đoàn kết với nhau và từng bước vượt qua mọi khó khăn.
Những khó khăn bên ngoài và bên trong mà Hội thánh ở Việt Nam đang trải qua cũng là những thách đố cho mỗi Kitô hữu Việt Nam /. Chúng ta hãy cầu xin cho các Kitô hữu Việt Nam luôn vững lòng tin cậy / và luôn tích cực phục vụ đồng bào nhất là những người nghèo khổ.
Chủ tế: Lạy Đức Giêsu, Chúa đã tỏ vinh quang để củng cố đức tin cho các môn đệ khi họ gặp gian truân thử thách. Xin Chúa cũng nâng đỡ đức tin còn non yếu của chúng con để chúng con tin tưởng rằng: nếu cùng với Chúa vượt qua mọi khó khăn hôm nay thì cũng chắc chắn được chung phần vinh quang phục sinh với Chúa mai sau. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
Trong Thánh lễ
– Trước kinh Lạy Cha: Đức Giêsu là Con yêu dấu của Chúa Cha. Chúa Cha rất yêu thương Ngài và vừa lòng về Ngài. Chúng ta được hạnh phúc thông chia quyền làm con của Đức Giêsu. Vậy chúng ta hãy cùng với Ngài dâng lên Chúa Cha những tâm tình hiếu thảo của chúng ta.
– Lúc chúc bình an: Chúng ta hãy chúc bình an cho nhau trong tâm tình mến yêu nhau thực sự; và cũng hãy nghĩ đến những người xích mích với chúng ta mà hiện không có mặt trong Thánh lễ này, với quyết tâm cũng muốn hòa giải với họ nữa.
Giải tán
Chúa Cha đã yêu thương chúng ta đến nỗi ban Người Con Yêu Dấu duy nhất của Ngài là Đức Giêsu cho chúng ta và chịu chết vì chúng ta. Chúa Cha chỉ mong mỏi mỗi một điều là chúng ta vâng nghe Lời Đức Giêsu thôi. Trong tuần này, chúng ta hãy luôn tâm niệm lời Chúa Cha nói: “Đây là Con Yêu Dấu của Ta. Hãy vâng nghe lời Người”.
(Suy niệm của Lm. Hà Ngọc Đoài)
“Người biến hình trước mặt các ông… và từ đám mây có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người.” (Mc 9:1,7) Có một vị đạo sĩ cao niên bị mù. Ai nhìn thấy ông đều tỏ ra thương tâm và tìm cách cứu chữa ông. Có người mời được một y sĩ lừng danh đến chữa trị cho đạo sĩ. Y sĩ rất tự tín, đến gặp đạo sĩ và khuyên rằng: “Ngài hãy an tâm và tin vào bài thuốc của tôi có thể giúp cho đôi mắt được sáng như xưa.” Mọi người đứng chung quanh đều vui mừng và chờ đợi. Riêng đạo sĩ bình tĩnh trả lời: “Không dám phiền ông phải bận tâm cho sự mù lòa về phần xác của tôi. Hơn lúc nào hết, tâm hồn tôi thấy những gì mà trước đây tôi không thấy, và bây giờ tôi được thấy rõ hơn” Nhờ con mắt Đức Tin mà đạo sĩ có thể nhìn tới thế giới siêu linh. Đôi mắt phần xác bị mù lòa vì tuổi đời làm giới hạn bao nhiêu, thì con mắt tinh thần lại vượt không gian và thời gian để vươn tới sự gần gũi Thiên Chúa bấy nhiêu. Nhờ con mắt của Đức Tin mà linh hồn có thể nhìn thấy được mạc khải của thế giới linh thiêng. Nhờ vậy vị đạo sĩ có niềm vui trong tâm hồn. Khi Đức Giêsu báo tin cho các tông đồ biết là cuộc hành trình giảng đạo của Ngài đang đi về Giêrusalem. Tại đó, vì trung tín với Thiên Chúa Cha trong việc rao giảng mà Ngài phải chịu khổ hình cho đến chết. Rồi Ngài sẽ sống lại. Khi nghe tin đó thì các tông đồ lo sợ và khuyên can. Để giúp các tông đồ được siêu thoát, Đức Giêsu đem họ lên núi cao và tỏ bày vinh quang của Ngài qua sự biến hình. Trên đỉnh núi cao này Ngài chuẩn bị cho cuộc khổ nạn trên đỉnh núi Calvê. Khi bị treo trên thÿnh giá, người ngoại giáo binh sĩ Rôma, và tội nhân sẽ nhận ra Ngài là ai. Chính họ tuyên xưng ‘Ngài là Con Thiên Chúa.”
“Tôi sẽ tiến đi trước thiên nhan Chúa trong miền đất của nhân sinh. ” (TV 114:9) Chúng ta đang sống giữa một thế giới đa văn hóa, và nhiều tôn giáo. Những phép thuật của khoa học làm cho một số bị lung lạc đức tin! Là Kitô hữu, chúng ta nhìn vào Chúa Kitô là Ánh Sáng soi đường chỉ lối cho chúng ta vào cõi sống trường sinh.
36. Y phục Người trở nên rực rỡ
Sau khi tiên báo mình phải đi vào cuộc thương khó, phải chịu nạn chịu chết, Chúa Giêsu nhận thấy các môn đệ của Ngài băn khoăn không hiểu “tại sao Thầy mình lại phải như thế?” Để an ủi các môn đệ, Chúa Giêsu dẫn các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo mình lên núi và Ngài tỏ cho các ông thấy vinh quang của Ngài để củng cố niềm tin cho các ông. Ở đó Chúa Giêsu biến đổi hình dạng, y phục Người trở nên rực rỡ trắng tinh, làm cho các môn đệ phải một phen kinh hoàng vì sự lạ lùng đang diễn ra trước mắt. Nhưng sự lạ lùng này không làm cho các ông kinh hãi, sợ sệt; ngược lại làm cho các ông thích thú vô cùng và muốn được ở như thế mãi mãi nên thốt lên “Thưa Thầy chúng con ở đây thì thật là hay”. Hơn thế nữa, các ông còn muốn định cư luôn ở đó để được chiêm ngắm Chúa mãi, không hề muốn rời xa tình trạng ấy, nên xin dựng ba lều một cho Thầy, một cho Môsê và một cho Êlia.
Chúa Giêsu biến hình để trở về tình trạng Thiên Chúa của Người. Hình dạng đó làm cho các môn đệ không muốn lìa xa nữa, các ông không còn bận tâm điều gì nữa, chỉ muốn chiêm ngưỡng mãi mãi hình ảnh mà các ông đã thấy nơi Thầy của mình. Chúng ta có thế nói rằng các môn đệ này đã được “lên thiên đàng” khi các ông còn đang sống. Các ông hết sức sung sướng chiêm ngưỡng vinh quang của Chúa, không muốn xa rời nữa. Điều này làm cho các ông hạnh phúc vô cùng không còn tha thiết với môt điều gì khác ngoài Chúa. Giờ đây mọi sự trong thế không còn ý nghĩa gì nữa đối với các ông.
Mỗi ngày các môn đệ đều ở với Chúa Giêsu, cùng ăn với Chúa Giêsu, cùng nghe Chúa Giêsu giảng dạy, cùng hoạt động với Chúa Giêsu, có lẻ những bận rộn ấy đã che mắt các ông làm cho các ông không thể nào nhận ra vinh quang của Chúa Giêsu. Hôm nay Chúa Giêsu tách các ông ra khỏi những bận rộn và lo toan của cuộc sống đời thường để tỏ cho các ông thấy vinh quang vốn có của Ngài. Điều này làm cho các ông hạnh phúc vô cùng. Đó là một thứ hạnh phúc lấp đầy mọi khao khát của con người. Đây cũng là dịp để chúng ta hiểu thêm về hạnh phúc thiên đàng mai sau. Ở đó chúng ta sẽ được hạnh phúc tràn đầy và không còn ước ao một điều gì khác nữa.
Trong cuộc sống thường ngày chúng ta có quá nhiều công việc phải lo, phải nghĩ, nào là cơm áo, gạo tiền, nào là danh vọng quyền thế, nào là những thú vui phù phiếm nhưng không kém phần hấp dẫn, nào là những thói hư tật xấu: bài bạc, rượu bia, quậy hoạn, du côn du đảng, phá làng phá xóm, nào là thói quen nói hành nói xấu người khác, khiến chúng ta không còn nhớ tới Chúa, không còn giờ để gặp Chúa, không còn nhận ra tiếng nói của Chúa trong lương tâm mình nữa.
Mùa Chay là thời gian thích hợp để chúng ta quay về với Chúa, từ bỏ con người cũ tỗi lỗi xấu xa, để mặc lấy con người mới theo khuôn mẫu Chúa Kitô. Hãy gặp gỡ Chúa nhiều hơn qua các bí tích nhất là bí tích Thánh Thể và Giải tội, hãy dành thời gian để Chầu Thánh Thể nhiều hơn, cũng như gia tăng các việc lành phúc đức.
Xin Chúa giúp chúng ta nhận thấy rỏ thực trạng con người của mình hơn để dấn thân theo Chúa hơn. Gặp gỡ Chúa nhiều hơn sẽ kiến lương tâm chúng ta nhạy bén hơn với tiếng nói của Chúa trong tâm hồn chúng ta. Nhờ đó mỗi ngày chúng ta nên giống Chúa hơn, để Chúa ở đâu chúng ta cũng được ở đó với Người.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Tình yêu, hai tiếng thân quen mà rất khó diễn đạt. Chuyện cũng thường tình vì nhiều thi nhân đã từng hỏi: đố ai biết chữ tình là chữ chi chi? Mùa chay là mùa đặc biệt mời gọi đoàn tín hữu hoán cải ăn năn. Ăn năn hoán cải, không nguyên chỉ vì thấy sự xấu xa của kiếp tội đòi mà còn vì cảm nhận mối tình bao la mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Thấy sự xấu xa và bi đát của thân phận tội lỗi của bản thân, để rồi quay bước trở về là điều chính đáng và hợp lý, nhưng chưa hẳn là sâu xa và lâu bền. Một sự hoán cải, trở về dựa trên niềm xác tín vào tình yêu của Thiên Chúa mới thực sự là bền vững và sâu xa hơn nhiều. Giáo lý Công giáo đề cập đến hiện thực này khi phân biệt hai hình thức ăn năn tội đó là ăn năn tội vì Chúa và ăn năn tội vì mình, hay nói cách khác là ăn năn tội cách trọn và ăn năn tội cách chẳng trọn. Để góp phần giúp chúng ta trở về cách trọn hảo hơn, xin được chiêm ngắm tình yêu của Thiên Chúa qua các bài đọc của Chúa Nhật II Mùa Chay B này.
Yêu mến ai thì không chỉ muốn mà còn tìm mọi cách thế để hiến dâng điều tốt nhất của mình cho người mình yêu.. “Hãy đem con của ngươi, đứa con một yêu dấu của ngươi là Isaac, hãy đi đến xứ Môrigia mà dâng nó làm của lễ toàn thiêu ở đấy, trên một ngọn núi Ta sẽ chỉ cho” (St 22,2). Được hiểu như là lệnh truyền của Thiên Chúa, nhưng đó chính là tấm lòng của Abraham dành cho Đấng đã kêu gọi ông ra khỏi nơi quê cha đất tổ mà tiến về hứa địa. Dù băn khoăn, đau xót, nhưng Abraham vẫn muốn hiến dâng điều tốt nhất của mình là chính sự sống nối dài của mình, qua người con một.
Tình yêu thật diệu kỳ. Chính khi trao dâng là lúc lãnh nhận và lãnh nhận gấp trăm, gấp nghìn lần. Abraham đã không mất người con một yêu quý, mà đã trở thành cha của một đoàn con đông đảo “như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển”. Tình yêu thật diệu kỳ, vì Thiên Chúa là Tình Yêu (1Ga 4,8). Là Đấng phải được mọi vật mọi loài tôn thờ và chúc tụng, là Đấng đáng được mọi người thần phục mến yêu và hiến dâng tất cả, thì Thiên Chúa lại trao ban tất cả cho chúng ta. Thánh Tông đồ dân ngoại đã luận lý rằng: Một khi Thiên Chúa đã ban chính Con Một cho chúng ta thì lẽ nào Người lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta? (x. Rm 8,32).
Các Tin Mừng Nhất Lãm đều tường thuật sự kiện Chúa Giêsu biến hình trên núi Tabôrê. Có Êlia và Môsê hiện ra và đàm đạo với Người. Nội dung đàm đạo là về cuộc khổ nạn mà Chúa Giêsu sắp chịu tại Giêrusalem. Và đó chính là đỉnh cao của tình yêu Thiên Chúa tặng ban cho nhân loại. Vì không có tình yêu nào cao quý cho bằng mối tình của người hiến dâng mạng sống vì người mình yêu (x. Ga 15,13). Đây không phải là một tình cảm nhất thời mang tính tự phát, nhưng là một ý đinh có từ ngàn đời qua một chương trình được chuẩn bị từ ngàn xưa, mà sự hiện diện của Môsê và Êlia, đại diện cho Lề luật và hàng Ngôn sứ là một minh chứng hiển nhiên.
Nếu nói rằng Thiên Chúa trao ban chính Con Một, vì nhân loại bội phản, bất trung, sa ngã, phạm tội thì quả không sai. Nhưng nếu nói rằng Thiên Chúa hiến ban Con Một của Người cho nhân loại để mạc khải chính Người là Tình Yêu thì đúng hơn nhiều. “Biên giới của tình yêu là một tình yêu không biên giới”.
Thập giá Chúa mời gọi ta hoán cải. Mùa chay, mùa đặc biệt mời gọi đoàn tín hữu chiêm ngắm cuộc khổ nạn của Đấng cứu độ. Các khổ hình Chúa Kitô đã chịu và cái chết tủi nhục của người trên thập giá như một lời tố cáo tội ác của nhân loại chúng ta. Thấy được sự xấu xa của bản thân mình, hẳn nhiên ít nhiều, chúng ta cũng được thúc đẩy chê ghét tội lỗi và hoán cải ăn năn. Tuy nhiên chính tình yêu của Chúa mới làm chúng ta vươn lên, đổi mới, nên hoàn thiện và nhất là biết sống yêu thương cách quên mình.
Được chiêm ngắm dung nhan sáng láng của Thầy chí thánh, đúng hơn là nhờ được thông phần một cách nào đó “bản thể của Đấng là Tình Yêu”, thì Phêrô đã lên tiếng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê và một cho ông Êlia.” (Mc 9,5) Sao chỉ có ba cái lều mà không là bốn, năm hay là sáu? Dù đang kinh hoàng và không biết phải nói gì, nhưng Phêrô đã thay hai bạn đồng môn Gioan và Giacôbê nói lên tấm lòng của mình, một tấm lòng quên mình vì người khác.
“Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9,7). Ước gì chúng ta hằng luôn ghi khắc vào tâm khảm những lời từ miệng của Đấng Cứu Độ sau đây: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 14,24). “Vậy, nếu Thầy là Thầy và là Chúa, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13,12). “Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Môsê và lời các ngôn sứ là thế đó” (Mt 7,12).
Ai hiểu được chữ tình? Có thể nói rằng đó là những ai biết ở lại trong tình yêu Đấng Cứu Độ, đồng thời, nhờ và với tình yêu của Người, đã biết yêu thương như Người yêu thương. Thấy tội ác của mình, người ta có cơ may hối hận, ăn năn. Nhưng nghiệm thấy được tình yêu cứu độ người ta sẽ biết đổi đời và vươn lên.
(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
DẪN NHẬP
Bài Tin Mừng Thánh lễ hôm nay thuật lại việc Đức Giêsu biến hình trên núi Tabor trước mặt ba tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan. Việc biến hình này có ý nghĩa gì? Chắc chắn nhờ việc chứng kiến vẻ vinh quang tương lai của Chúa, Ngài muốn chuẩn bị cho các ông đối diện với biến cố khổ nạn của Ngài sẽ xẩy ra sau này.
Đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải theo gương các môn đệ mà trèo lên núi, bất chấp khó khăn, can đảm dấn thân bước theo Đức Giêsu trong cuộc tử nạn của Ngài. Cuộc đời của chúng ta sẽ gặp nhiều khó khăn, nhiều gian nan thử thách và có hàng ngàn lý do khiến chúng ta bỡ ngỡ, bối rối trước những hoàn cảnh éo le. Chúng ta sẽ không hiểu tại sao lại có những thử thách ấy! Chúa không thương yêu chúng ta sao? Không thắc mắc, chúng ta hãy bắt chước ông Abraham hoàn toàn tin tưởng phó thác đời mình trong tay Chúa quan phòng, vâng theo thánh ý Chuá, Ngài sẽ lo liệu, và ta hãy tâm niệm rằng: “Khi Chúa đóng cửa chính thì Ngài sẽ mở những cửa sổ”. Ngài sẽ có cách giải quyết.
TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1: St 22,1-2.9a,10-15
Theo nghiên cứu, người ta thấy dường như việc dùng trẻ con để tế lễ rất thịnh hành vào các thế kỷ thứ 8 và thứ 7 trước công nguyên. Cho nên khi nhắc nhở rằng mọi con đầu lòng đều thuộc về Thiên Chúa, lề luật liền nhấn mạnh đến việc buộc phải chuộc con đầu lòng bởi một của lễ thay thế. Câu chuyện tế lễ Isaac minh hoạ cho lề luật trên, đồng thời nhấn mạnh đến hành động đặc biệt của Abraham.
Thiên Chúa đã hứa với Abraham là ông sẽ trở thành tổ phụ của một dân lớn lao. Ông chỉ có một người con duy nhất là Isaac do bà Sara sinh ra. Thế mà Thiên Chúa đã truyền cho ông phải hiến tế người con yêu dấu của mình. Như thế làm sao có thể dung hòa được giữa việc hiến tế Isaac và lời hứa của Thiên Chúa cho ông có một dòng dõi đông đúc như sao trời cát biển?
Abraham tiến thoái lưỡng nan, không biết theo con đường nào. Tuy thế, ông đã phải trấn áp nỗi đau khổ của người cha, ông lấy nghị lực đức tin mà thưa“Xin vâng” với thánh ý Chúa. Ông đã làm một việc vượt trên cả mức độ anh hùng. Dù Abraham chưa giết con, nhưng Chúa kể ông đã dâng con cho Chúa.. Đức tin và lòng tuân phục của ông sẽ được phần thưởng liền sau đó.
+ Bài đọc 2: Rm 8,31-34
Có nhiều người còn nghi ngờ vào tình yêu của Thiên Chúa đến nỗi còn sợ sệt và tuyệt vọng. Thánh Phaolô với giọng điệu cảm kích sâu xa đã tuyên bố rằng không có gì phải thất vọng, bằng chứng là: Thiên Chúa đã không dung tha cho Con Một mình. Cuộc khổ nạn của Chúa Kitô là bằng chứng hùng hồn của tình yêu Thiên Chúa đối với loài người.
Việc Đức Giêsu bị chết trên thập giá đã khiến chúng ta không còn lý do nào phải hoài nghi và sợ sệt. Lỗi lầm lớn nhất chúng ta có thể vấp phải sẽ là hoài nghi, thiếu tin tưởng: “Nếu Thiên Chúa yểm trợ chúng ta, còn ai chống lại nổi chúng ta” (Rm 8,31)?
+ Bài Tin mừng: Mc 9,2-10
Khi đi theo Đức Giêsu, các Tông đồ có cùng hoài bão của người Do thái là Đấng Cứu thế của họ sẽ là Đấng Cứu thế vinh thắng oai hùng tái lập vương quốc của Đavít và Salomon. Nhưng khác với cái nhìn trần tục của các ông, trong kế hoạch của Thiên Chúa, Đấng Thiên sai sẽ là một “tôi tớ đau khổ và khiêm tốn đã được các tiên tri phác hoạ”.
Để củng cố niềm tin cho các môn đệ trước cuộc thương khó đầy xỉ nhục của Ngài, Đức Giêsu đã đưa ba môn đệ lên núi Tabor, biến hình trước mặt các ông để các ông thấy khuôn mặt sáng ngời của Ngài hầu củng cố niềm tin cho các ông truớc những ngày đen tối sắp tới.
Theo gương các tông đồ, chúng ta cũng phải có một niềm tin như vậy trước gian nan thử thách trong cuộc sống của một Kitô hữu. Hẳn nhiên, cũng như các tông đồ, Chúa cũng dành cho chúng ta những giờ phút sáng tươi hoan hỉ nội tâm để giúp chúng ta đi tới tận cùng điểm dốc Calvê.
THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Từ Tabor đến Golgotha.
ĐỨC GIÊSU BIẾN HÌNH.
1. Diễn tiến việc biến hình.
Thánh Marcô cho biết: sáu ngày sau khi thánh Phêrô truyên xưng Đức Giêsu tại Cêsarêa của vua Philippe, Đức Giêsu đã đưa ba môn đệ yêu qúi là Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cao. Thánh sử không cho biết là núi nào: núi Tabor hay Hermon. Các nhà chú giải Thánh Kinh ngày nay nghiêng về núi Hermon, song cổ truyền cho biết chính Tabor đã được hồng ân ấy.
Vì đi đường mệt nhọc các ông lăn ra ngủ và khi thức giấc, các ông nhìn thấy cảnh lạ lùng: Chúa biến hình, “áo Ngài trắng như tuyết, không thể nào giặt được như vậy”. Có ông Maisen và Elia đàm đạo với Ngài để khuyến khích Ngài đi vào cuộc tử nạn và có tiếng phát ra trong đám mây:”Đây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Ngài”. Sau đó, Đức Giêsu trở lại tình trạng bình thường. Việc biến hình này có ảnh hưởng sâu đậm đến ba ông.
2. Ý nghĩa việc Chúa biến hình
Đức Giêsu đã quyết định lên Giêrusalem, và quyết định ấy có nghĩa là chấp nhận thập giá. Ngài cần biết cách tuyệt đối rằng mình đã quyết định đúng trước khi tiếp tục dấn bước. Trên đỉnh núi Ngài đã chấp nhận đôi về quyết định của Ngài.
a) Sự hiện diện của Elia và Maisen
Maisen là đại diện cho pháp luật và Elia là tiên tri đầu tiên và vĩ đại nhất trong các ngôn sứ. Khi hai nhân vật lỗi lạc đó hội kiến với Đức Giêsu, có nghĩa là nhà tuyên bố pháp luật vĩ đại nhất và nhà tiên tri lỗi lạc nhất đã nói với Đức Giêsu rằng “Xin cứ tiến lên”. Nó có nghĩa là hai vị thấy nơi Đức Giêsu sự hoàn thành của tất cả những gì họ từng mơ ước trong quá khứ. Nó có nghĩa là họ thấy nơi Ngài tất cả những gì mà lịch sử vẫn trông chờ từ lâu và đã hướng về đó với hy vọng tràn đầy. Dường như chính lúc đó Đức Giêsu được bảo đảm rằng Ngài đang đi đúng hướng vì cả lịch sử đều dẫn đến thập giá.
b) Biến hình giúp môn đệ vững tin
Khi nghe Đức Giêsu báo cho họ biết là Ngài sẽ lên Giêrusalem để chịu chết, họ bàng hoàng, bối rối lo sợ vì bao điều mơ tưởng của họ sẽ bị tiêu tan, tương lai của họ trở nên bấp bênh, đen tối. Tuy thế, những gì đã xem thấy trên núi biến hình cho họ có cơ hội bám chặt lấy ngay khi họ chẳng hiểu gì. Cho dù có thập giá hay không, họ vẫn được nghe tiếng của Thiên Chúa xác nhận Đức Giêsu là Con Ngài.
Ngoài ra, việc Chúa biến hình trên núi khiến họ trở thành các chứng nhân cho sự vinh hiển của Chúa Cứu thế theo một ý nghĩa đặc biệt. Xác tín rằng mình là chứng nhân trước sự vinh hiển của Chúa Cứu Thế, sau này khi có dịp, họ đã có sẵn câu chuyện đang giấu kín trong lòng, sẽ kể lại cho mọi người nghe.
c) Lời mời gọi biến đổi
Hãy nhìn chung quanh, chúng ta sẽ thấy mọi sự luôn biến đổi. Thí dụ nhìn một cái cây. Tuy nó vẫn là cái cây đó nhưng bên trong đó có biết bao biến đổi: có những chiếc lá tháng trước nay không còn; nhiều chiếc lá mới mọc ra; và nhiều chiếc lá hiện nay sau sẽ không còn. Nếu cái cây vẫn y như thế từ tháng này sang tháng khác, từ năm này qua năm khác thì đó không còn là một cái cây sống nữa mà là một khúc gỗ.
Hãy nhìn lên trời, chúng ta cũng thấy qui luật biến đổi ấy: bầu trời hôm qua với bầu trời hôm nay đâu có hoàn toàn giống nhau mặc dù vẫn là một bầu trời.
Hãy nhìn xuống nước. Triết gia Héraclite đã nói:”Không ai tắm hai lần trong một dòng sông”.
Và nhìn vào bản thân: các nhà khoa học nói rằng các tế bào luôn thay đổi, cái này chết cái kia sinh ra, sau 7 năm thì không còn tế bào nào là tế bào của 7 năm trước nữa.
Không biến đổi cũng đồng nghĩa với chết. Đối với cuộc sống thân xác thì như thế. Đối với cuộc sống thiêng liêng thì cũng như vậy. Bởi thế trong mùa Chay chúng ta cần biến đổi. Cứ sống y như cũ là chết (Carôlô, Sợi chỉ dỏ, năm B, tr 134-135).
Việc Chúa biến hình nhắc cho các môn đệ và chúng ta phải thay hình đổi dạng linh hồn mình. Thánh Phaolô cũng nhắc nhở chúng ta phải cởi bỏ con người cũ tội lỗi để mặc lấy con người mới tốt lành thánh thiện hơn: “Hãy lột bỏ con người cũ mặc lấy con người mới. Hãy để Thần Khí Thiên Chúa canh tân tận tâm linh anh em” (Ep 4,22).
Thánh Tông đồ còn khuyên nhủ chúng ta hãy làm một cuộc canh tân toàn diện để cho con người nội tâm của ta biết nghe theo luật của Chúa mà bỏ đường lối của xác thịt. Vì thế, trong thư gửi tín hữu Êphêsô Ngài đã viết: “Anh em hãy cởi bỏ kiểu sống xa xưa, con người cũ đã ra hư hốt buông theo những đam mê lầm lạc. Hãy để Thần Khí canh tân đổi mới thấu tận trí khôn. Hãy mặc lấy người mới đã được tạo dựng nên theo Thiên Chúa, trong công chính và thánh thiện bắt nguồn trong sự thật” (Ep 4,22-24).
Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta phải đổi mới toàn diện, phải đổi từ con người cũ sang hẳn con người mới tốt lành. Đổi mới toàn diện là phải đổi mới tận căn chứ không phải chỉ đổi mới nửa vời hoặc đổi mới hời hợt một số cái, hoặc chỉ đổi mới cái bên ngoài để rồi trở thành con người mà người đời gọi một cách mỉa mai: “Nửa người ngửa ngợm nửa đười ươi”, đúng như người ta nói:
Thay quần thay áo thay hơi,
Thay dáng thay dấp mà người chẳng thay.
(Ca dao)
Truyện: Cách làm cho trắng da.
Người ta thuật rằng cả một khu đất kia chỉ có một gia đình người da đen ở. Gia đình đó gồm có một bà vợ, một người chồng và một đứa con trai 9 tuổi. Cậu bé đi học, nhưng giữa bọn trẻ da trắng, riêng mình đen thủi đen thui, nên lắm phen bị chê cười, chế nhạo. Cậu luôn luôn bị chọc ghẹo nên khó chịu, giống như một tấm lòng non nớt bị một vết thương sâu. Sau hết, cậu tự hỏi mình có thể thay đổi nước da chăng, rồi nhất định làm theo ý nghĩ đó.
Bữa nọ, thầy giáo thấy cậu vắng mặt, bèn hỏi đám học trò về cậu. Một trò thưa rằng thấy cậu đi đàng sau trường, giữa khu rừng nhỏ có rạch chảy qua. Thầy giáo ra công tìm kiếm và thấy cậu ở sát bờ rạch, đang dùng cát ướt kỳ cọ hai cánh tay đen. Thỉnh thoảng cậu dừng tay, rửa cát dính vào da, rồi nhìn xem mầu da mất chưa. Nhưng! Màu đen quá sậm, cậu mất công. Vài phút sau, thầy giáo gọi cậu:
– Này em làm gì đấy?
Cậu giật mình thưa:
– Con cố sức trừ bỏ màu da đen để nên người da trắng, song không sao được..
(Ms Lê văn Thái, Những tia sáng, tập 2, tr 94-95)
BIẾN ĐỔI VÀ THỬ THÁCH
1. Thử thách của tổ phụ Abraham
Bài đọc I hôm nay thuật lại việc Abraham sát tế Isaác con mình. Việc này cho chúng ta thấy cá tính và đức tin của ông. Lệnh truyền sát tế Isaác, người con duy nhất sinh ra trong tuổi già, thì vượt quá tầm nhìn cách nghĩ của con người và xem ra là phi lý. Sẽ thực hiện ra sao đây lời chúc phúc của Thiên Chúa cho ông làm tổ phụ các dân tộc, nếu không còn người con trai này? Thiên Chúa đòi hỏi ông hiến tế luôn cái cơ hội sống còn cuối cùng này của ông, đồng thời cũng là cái nền tảng cho niềm tin của ông. Yêu cầu của Thiên Chúa quá đỗi đau thương đoạn trường, nhưng với niềm tin cậy vào Thiên Chúa, ông vội vã thực hiện ngay lệnh truyền ấy. Cần vâng phục Thiên Chúa bất cứ giá nào. Ngay khi ông đang giơ cao con dao để hạ sát con trai, Thiên Chúa đã ngăn cản bàn tay ông và mạng sống Isaác được dành lại.
2. Thử thách của chúng ta
Đường lối Thiên Chúa thật lạ lùng… nhiều khi đường lối Chúa lại chẳng xem ra đi ngược với mục đích đang tìm kiếm sao? Câu chuyện về hy tế của Abraham khá làm sáng tỏ những phương thức của Thiên Chúa. Quả thật, tất cả chỉ là thử thách trong cuộc đời. Nhưng một khi chân trời mây mù bưng bít, không trông đâu được sự giúp đỡ của loài người, mọi sự dường như mất hết, chúng ta không còn cân nhắc suy tính được nữa, và thất vọng tự hỏi:”Tại sao Thiên Chúa xử như vậy”?
Nhưng chúng ta phải hiểu rằng Thiên Chuá luôn yêu thương chúng ta, Ngài đã phó nộp Con Một Ngài trên cây thánh giá vì phần rỗi chúng ta. Như vậy, khi Ngài để cho chúng ta nhờ đau khổ và thử thách kết hợp với sự thương khó của Chúa Kitô, chúng ta chắc chắn rằng, nhờ đó, Ngài cũng muốn liên kết chúng ta vào sự Phục sinh và vinh quang của Chúa Kitô. Do đó, thử thách cũng có ý nghĩa tích cực vủa nó. Không lạ gì khi thấy người ta nói: Có cứng mới đứng đầu gió (Tục ngữ)
Chính những đau khổ và gian nan thử thách sẽ làm cho chúng ta thêm giá trị trước mặt Chúa, nó thanh luyện chúng ta, nó làm cho chúng ta thể hiện lòng trung thành đối với Chúa. Lúc đó, đức tin của chúng ta mới có giá trị sau khi đã được thanh luyện như vàng ra khỏi quặng:
Có gió lung, mới biết tùng bá cứng,
Có lửa hừng, mới biết thức vàng cao.
(Tục ngữ)
Thánh Giacôbê Tông đồ nói về vấn đề này:”Phúc cho ai bị thử thách mà vẫn trung thành, bởi vì khi thành công trong cơn thử thách như thế, người đó sẽ được Thiên Chúa ân thưởng bằng sự sống mà Thiên Chúa đã hứa cho những ai yêu mến Ngài” (Gc 1,12).
Trong gian nan thử thách, hãy giữ vững niềm hy vọng và tin tưởng phó thác. Nhưng làm sao giữ được niềm hy vọng tâm hồn? Hãy noi gương Chúa Kitô! Tất cả cuộc đời Ngài chỉ là một chuỗi phó thác trong tay Chúa Cha. Trong lúc hấp hối Ngài than thở:”Lạy Cha, xin đừng theo ý Con, một theo ý Cha”. Sự tín thác mến yêu này là nguồn ơn cứu độ cho hết mọi người và là nguyên nhân của Phục sinh khải hoàn. Chính trong việc chiêm niệm về Chúa Kitô tín thác cho Tình Yêu mà chúng ta múc lấy nghị lực để nói như Ngài: “Lạy Cha, đừng theo ý con, một theo ý Cha”.
3. Thử thách và đức tin
a) Đức tin cần được thử thách
Trong những lúc bị thử thách, chúng ta không biết bám víu vào đâu vì những người chung quanh đều bất lực không thể giúp chúng ta. Lúc đó, chúng ta chỉ còn biết dựa vào đức tin để phó thác cho Chúa, xin Ngài đến cứu giúp. Đức tin cũng cần phải được thử thách thì mới có gia trị. Nếu ở trên núi Tabor, ông Phêrô thưa với Chúa: “Lạy Thầy, chúng con ở đây thì tốt lắm, chúng con xin dựng ba lều, một cho Thầy, một cho Elia và một cho Maisen” (Mc 9,5). Các ông muốn đăng ký thường trú trên đỉnh núi Tabor, ngủ yên trong hào quang rực rỡ, bỏ lại dưới núi bạn đồng môn, muốn hưởng thụ đầy đủ ánh hào quang của Chúa, thì các ông sẽ nói thế nào ở vườn Cây Dầu và ở đồi Golgotha?
Người đời cũng cảm nghiệm thấy giá trị và ích lợi của thử thách. Chính thử thách làm cho con người thêm giá trị. Con người chỉ được đánh giá đúng qua thử thách như thi sĩ Nguyễn công Trứ nói lại câu nói của cổ nhân:
Văn vô sơn thủy vô kỳ khí
Nhân bất phong sương vị lão tài.
Trong đời sống thiêng liêng, chúng ta phải có đức tin vững mạnh. Tuy thế đức tin không phải lúc nào cũng ở đỉnh cao, đức tin có lúc lên cao, có lúc xuống thấp theo nhịp điệu vui buồn, sướng khổ, may mắn hay trắc trở.
Khi lên tinh thần, đức tin của chúng ta cũng vững mạnh và sán lạn như đức tin của các tông đồ trong bài Tin mừng hôm nay. Khi đức tin ở đỉnh cao, chúng ta thấy gần gũi Đức Giêsu đến độ chúng ta tưởng rằng có thể đụng rờ được Ngài. Chúng ta cảm thấy gần gũi Thiên Chúa Cha đến độ dường như đôi tay của Ngài đang bao bọc chung quanh ta, và Thánh Thần dường như đang nói với chúng ta. Trái lại, khi xuống điểm thấp, đức tin của chúng ta yếu ớt như muốn mất hẳn, giống như đức tin của các môn đệ ở vười Cây Dầu (Mark Link).
Áp dụng vào trong cuộc sống hằng ngày, đôi lúc chúng ta cảm thấy đức tin mình ở những điểm cao, lúc đo chúng ta yêu thương hết mọi người. Chúng ta thắm thiết với bạn bè, và chúng ta tha thứ cho tất cả mọi thù địch. Vào những ngày như thế, chúng ta không thể hiểu được chúng ta đã từng cho rằng cuộc đời là khó khăn. Nhưng khi ở những điểm thấp, không có gì là trôi chảy cả: “Chúng ta cảm thấy bị đè nén và đáng thương, bị hiểu lầm, chán nản, bị mất mát thiệt thòi. Đó là lúc chúng ta thấy mình có nhiều kẻ thù hơn là thực tế, và thấy người bạn nào của mình cũng đều có lỗi với mình cả. Vào những ngày như vậy, chúng ta khó mà biết được tại sao có những lúc chúng ta lại nghĩ rằng cuộc đời này là dễ dàng vui tươi” (Anthony Padovano).
b) Tin tưởng và phó thác
Những lúc gặp đau khổ hoặc gian nan thử thách chúng ta chỉ còn biết tin tưởng và phó thác cho Chúa. Ngài có thể làm được tất cả trong những cái loài người cho là không có thể, để quyền năng của Chúa được tỏ hiện nơi ta, như thánh Phaolô đã nói:”Khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2Cr 12,10).
Có câu nói diễn đạt kinh nghiệm sống đạo, sống niềm tin trong đau khổ thật sâu xa:”Khi Thiên Chúa đóng của chính thì Ngài mở ra cửa sổ”. Thiên Chúa đóng cửa chính là khi chúng ta gặp thử thách, đau khổ, không còn có thể nhìn thấy ánh sáng, sự hiện diện đầy quan phòng của Thiên Chúa. Đó là khi Thiên Chúa xem ra như bỏ rơi, mặc chúng ta đương đầu với thử thách, khó khăn. Lúc đó, chúng ta cần nhớ rằng: Thiên Chúa Ngài sẽ mở ra cửa sổ, mở ra một lối thoát, một giải đáp, một hướng đi mới cho cuộc đời chúng ta.
Thiên Chúa đóng cửa chính nhiều lần trong cuộc đời mỗi người, nhưng đồng thời Ngài cũng mở ra những cửa sổ để hướng chúng ta đến một điều tốt đẹp hơn mà trước đó chúng ta không ngờ. Những kinh nghiệm đau thương, tiêu cực mà chúng ta gặp phải trong cuộc đời, đôi khi đó là tiếng nói của Thiên Chúa để mời gọi chúng ta bước ra khỏi một hoàn cảnh không tốt đẹp, để chuẩn bị chúng ta sẵn sàng hơn đón nhận những hồng ân mới.
Truyện: Niềm đau tượng hình.
Du khách đến Roma thường đi thăm ngôi thánh đường cổ tên là Dominus sub aquis, vì phía trên bàn thờ, có một tượng thánh giá rất đặc biệt: bất cứ ai đến qùi trước tượng thánh giá và cầu nguyện với tất cả lòng thành đều được sức mạnh và an ủi thâm sâu.
Người ta kể rằng tác giả của thánh giá bằng tượng cẩm thạch này đã mất nhiều năm mới hoàn thành được tác phẩm. Hơn hai lần, mỗi khi treo bức tượng lên để ngắm nhìn, ông lại cho kéo xuống và đập bỏ, vì ông cho rằng tác phẩm vẫn chưa diễn đạt được điều ông muốn.
Khi ông bắt tay vào công trình lần thứ ba thì cũng là lúc ông gặp nhiều thử thách nhất. Nhiều người ganh tị nên tìm cách hạ uy tín ông. Vợ con ông qua đời trong những hoàn cảnh thật đau thương.
Ai cũng tưởng rằng cơn thử thách đã khiến ông bỏ cuộc. Trái lại, ông càng miệt mài chú tâm vào công trình. Người nghệ sĩ dồn tất cả niềm đau của mình lên khuôn mặt của Đức Kitô. Bức tượng của Chúa Giêsu trên thập giá không còn là một phiến đá lạnh lùng, xa lạ, mà trở thành niềm đau đậm nét của một tâm hồn. Bức tượng đã trở nên sống động và có sức thu hút do chính tâm tình mà người nghệ sĩ muốn tháp nhập vào.
(Thiên Phúc, Chuyện hay đông tây, tập 1, tr 159)
Khi gặp những giây phút đen tối, chúng ta hãy bắt chước gương của Abraham trong bài đọc I hôm nay. Niềm tin của Abraham yếu ớt và dường như phai mờ khi ông nghĩ rằng Thiên Chúa đòi hỏi ông phải hy tế con trai của ông là Isaác. Điều đó làm cho ông khổ tâm và bối rối. Nhưng Abraham vẫn tin cậy vào Chúa, và Thiên Chúa không để ông thất vọng. Thiên Chúa đã chúc phúc và ban ơn cho ông hơn cả những ước mơ của ông.
Thiên Chúa cũng thử thách niềm tin của chúng ta như thế. Khi bị thử thách, tâm hồn chúng ta cũng đau khổ và bối rối. Nhưng nếu chúng ta tin cậy vào Thiên Chúa giống như Abraham, thì Thiên Chúa sẽ không để chúng ta thất vọng. Và cuối cùng, Thiên Chúa cũng sẽ chúc phúc và ban ân huệ cho ta nhiều hơn những gì chúng ta mơ ước.
Đức Kitô hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn là một: Ngài là Đức Giêsu sáng láng trên núi Tabor, cũng là Đức Giêsu mướt máu trong vườn Cây Dầu, và cũng là Đức Kitô đau khổ trên thập giá ở đồi Golgotha. Hai đỉnh núi Tabor và Golgotha cách nhau không xa, nhưng lại là con đường vạn lý, con đường đau khổ, con đường vượt qua: Đường Tình Yêu. Theo thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu thì: “Sống tình yêu không phải là căng lều trên đỉnh Tabor, mà là cùng với Đức Giêsu ta trèo lên đồi Calvê”. Hiểu được đau khổ là con đường tình yêu, thì thánh nữ Bernadette đã cầu nguyện: “Con không xin cho mình khỏi đau khổ, nhưng chỉ xin Ngài đừng bỏ con trong đau khổ”.
39. Crux est lux – thập giá là vinh quang!
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB)
Nhiều nhà chú giải Thánh Kinh cho là cảnh hiển dung trên núi Ta-bo là một trong những sự kiện quan trọng nhất của Tân Ước, vì tuy không phải là chóp đỉnh, biến cố này thật sự tóm tắt tất cả mạc khải cứu độ. Chúng ta thấy ở đây, Mô-sê và Ê-li-a, các phát ngôn viên của lề luật và ngôn sứ (tắt một lời là đại diện của Cựu Ước) giới thiệu đấng Kitô của Tin Mừng cho các môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan. Các môn đệ này sẽ là các nhân chứng được coi là ‘trụ cột’ của Giáo Hội (theo lối diễn tả của Phao-lô trong thư gửi tín hữu Ga-lát), những người có trách nhiệm rao giảng Tin Mừng cho mọi thụ tạo (Xem chú thích Mc 9:1tt trong ‘Lời Chúa Cho Mọi Người’). Nếu quả thật là như thế thì hiển dung đâu chỉ đơn thuần là một liệu pháp tâm lý đề vực dậy tinh thần suy sụp của các môn đệ trước cuộc khổ nạn đau thương Đức Giêsu sẽ phải chịu tại Giê-ru-sa-lem. Ý nghĩa của nó chắc hẳn phải lớn lao hơn nhiều…, và vì thế đáng để ta dành đôi chút thời giờ tìm hiểu thêm.
Vinh quang, hay diện mạo đích thực của Thiên Chúa là điều con người mọi thời đại và mọi tôn giáo đều muốn kiếm tìm. Mô-sê và Ê-li-a là hai nhân vật Cựu Ước được mô tả như đã có diễm phúc chớm thấy vinh quang đó tỏ lộ; Mô-sê trên định Si-nai khi lãnh tấm bia giới luật (xem sách Xuất Hành chương 19), và Ê-li-a trên đỉnh núi Khô-rếp trên đường trốn chạy khỏi sự truy đuổi của hoàng hậu I-dê-ven (xem 1 Vua chương 19). Tuy nhiên thứ vinh quang Đức Chúa mà hai ông được chứng kiến thực tế đã rất khác nhau; một đàng là ‘Đức Chúa ngự trong đám lửa mà xuống, khói bốc lên như khói lò lửa và cả núi rung chuyển mạnh… (Xh 19:18), đàng khác là ‘Sau động đất là lửa, nhưng Đức Chúa cũng không ở trong lửa. Sau lửa là tiếng gió hiu hiu. Vừa nghe tiếng đó, ông Ê-li-a lấy áo choàng che mặt, rồi ra đứng ở cửa hang… (1 V 19:12-13). Nếu thế vinh quang mà Đức Giêsu muốn hiển thị trong lần biến dạng trên núi Ta-bo có chi khác với những lần đó không? Trước hết đó hẳn phải là một thứ vinh quang đích thực, vì được hiển thị do chính Người Con duy nhất từ Thiên Chúa mà đến. Vinh quang đó không những phải vượt xa mọi thứ hào quang đôi mắt phàm tục có thể nhìn thấy, mà còn phải vượt xa những gì cả Mô-sê lẫn Ê-li-a đã được chứng kiến trong những lần thị kiến Đức Chúa thời Cựu Ước.
Tác giả Lu-ca cho biết ‘hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem’ (Lc 9:31), điều đó chứng tỏ cuộc xuất hành sắp tới mới biểu hiện vinh quang thật, khác với những gì các ông đã biết hoặc đang được chứng kiến lúc này. Thứ hào quang mà hai ông hiện đang được chứng kiến chưa hẳn là tột đỉnh; tột đỉnh vinh quang phải là cuộc xuất hành các ông đang được nghe đề cập tới. Đức Giêsu cũng hàm cùng một ý đó khi căn dặn ba môn đệ trên đường xuống núi: “không được kể lại cho ai nghe các điều vừa thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại”. Đúng vậy, cuộc tử nạn hay cuộc vượt qua Người sắp chịu mới chính là vinh quang đích thực, trong đó tình yêu cứu độ của Thiên Chúa được tỏ hiện cách rực rỡ nhất. Nếu Thiên Chúa là tình yêu, thì vinh quang chói lọi của Người không thể là điều gì khác hơn biểu hiện của tình yêu đầy từ nhân và xót thương thông qua hành động cứu chuộc. Sau này khi gần tới giờ ra đi chịu chết và khi cầu nguyện với Chúa Cha, chính Đức Giêsu đã không ngần ngại gọi giờ phút ‘tang thương’ đó là giờ Thiên Chúa tỏ lộ vinh quang Ngài, giờ phút Thiên Chúa được tôn vinh cách tuyệt đối. “Lạy Cha, giờ đã đến, xin Cha tôn vinh Con Cha để Con Cha tôn vinh Cha… xin ban cho con vinh quang mà con vẫn được hưởng bên Cha trước khi có thế gian” (Ga 17:1.8).
Chính Mô-sê và Ê-li-a cũng hầu như còn đang mong đợi được chứng kiến thứ vinh quang đó, vinh quang của Thập Giá. Và Đức Giêsu thật sự mong muốn và khích lệ các môn đệ, đặc biệt ba môn đệ thâm tín nhất, loan truyền cho mọi người thứ vinh quang ‘xuất hành’ đó, hơn là chựng lại làm ba lều bên thứ vinh quang ‘giả tạo’ của diện mạo sáng láng và y phục trắng tinh. Phải chăng đây chính là cuộc chuyển biến quyết định nhất của mọi niền tin, từ Cựu Ước bước qua Tân Ước, từ vinh quang của quyền uy (lửa, động đất, loa vang dội…) qua vinh quang của tha thứ và cứu độ, từ quan niệm về một Đức Chúa quyền phép qua hình ảnh một Thiên Chúa là Cha của Đức Kitô Giêsu đầy xót thương nhân hậu? Đối với các môn đệ là những người Do Thái chính hiệu, sự chuyển tiếp này không thể không gây ngỡ ngàng và đặt ra nhiều vấn nạn. Các ông vẫn còn phải ‘bàn nhau xem câu “từ cõi chết sống lại” nghĩa là gì’, và Đức Giêsu còn phải cất công giải thích nhiều lần hơn nữa. Điều này cũng sẽ mãi mãi, qua mọi thời đại, tiếp tục là vấn đề then chốt độc đáo của niềm tin Kitô hữu (so với các tôn giáo khác, nhất là Do Thái giáo và Hồi giáo) khi phải vẽ lên trong tâm linh các tín hữu hình ảnh về một Thiên Chúa… lòng lành, xót thương và cứu độ, những nét không tuân theo bất cứ thứ lô-gich hay lối suy nghĩ thông thường nào, nhưng chỉ dựa trên mạc khải duy nhất của Đức Kitô thập giá. Cách duy nhất họ có thể làm là để mình hoàn toàn bị khuất phục bởi mạc khải vinh quang thập giá, điều làm cho họ, trước mặt khôn ngoan của người đời, bị liệt vào hạng ngu đần và hèn nhất; do đó “Hãy vâng nghe lời Người!”
Mùa chay chính là thời gian để mỗi chúng ta vâng nghe và đón nhận thứ vinh quang cứu độ này của Thiên Chúa, vì thế đó là thời gian của thanh lọc và củng cố niềm tin Kitô.
Lạy Chúa là đấng Cứu Độ của con! Con xin được như Phêrô dựng lều, nhưng không phải để chiêm ngắm dung mạo hiển dung sáng láng, mà là để say mê vinh quang cứu độ Chúa dành cho con. Chính Chúa đã chủ động kêu mời con ở lại trong tình yêu xót thương của Người, không những chỉ trong mùa chay thánh mà còn trong suốt cuộc sống dương thế, và mãi mãi trong hạnh phúc Quê Trời mai sau. Amen.
40. Người đã phó nộp Ngài vì hết thảy chúng ta
(Suy niệm của Lm. Stephanô Bùi Thượng Lưu)
Buổi sáng tinh sương hôm đó, trên con đường dẫn tới vùng đất Moriyah (theo truyền thuyết, chính là ngọn đồi sau này đền thánh Giêrusalem sẽ được xây trên đó), cụ già Abraham tay “cầm lửa và dao phay”, Isaac, đứa con duy nhất của cụ vác củi. Cả hai đang mải miết trèo núi để làm lễ tế kính tiến Thiên Chúa Giavê.
Câu chuyện xảy ra vượt sức tưởng tượng của con người! Khởi đầu là lệnh truyền của Thiên Chúa Giavê: “Ngươi hãy lấy con ngươi, con một ngươi, ngươi yêu dấu tức là Isaac mà đi tới đất Moriyah, và ở đó hãy dâng nó làm của lễ thượng hiến trên một quả núi ta sẽ tỏ cho ngươi” (St 22,2). Tiếp đó là việc thi hành thượng lệnh không sai một ly: “Abraham xây tế đàn rồi sắp củi, và trói Isaac con ông mà đặt lên tế đàn, trên đống củi, đoạn Abraham giơ tay cầm lấy dao phay để tế sát con mình” (St 22,9-10).
Hành động của Abraham là tột đỉnh của lòng tin: quả thực Abraham đã không từ chối Chúa một điều gì, ngay cả người con duy nhất của ông. Đức tin của Abraham đã trở nên khuôn vàng thước ngọc cho mọi lòng tin, không phải một đức tin mù quáng, phi lý, nhưng một đức tin dựa trên chính Thiên Chúa, Đấng hằng trung tín. Cuộc thử thách đức tin của Abraham thật khủng khiếp, nhưng “lòng kính sợ Thiên Chúa” là thành trì kiên cố bảo vệ đức tin kiên vững của ông trong cơn bão táp. Chính vì thế, Thiên Chúa Giavê đã ân thưởng ông bội hậu: “Vì ngươi đã không từ chối với ta con một ngươi thì ta sẽ ban phúc chúc lành cho ngươi, ta sẽ làm cho dòng giống ngươi thêm đông, nên nhiều như sao trên trời, như cát dưới biển… Mọi dân thiên hạ sẽ lấy dòng giống ngươi mà cầu phúc cho nhau, bởi vì ngươi đã vâng nghe tiếng Ta”. (St 22,17-18). Dòng giống đông như “sao trời cát biển” đó chính là những cõi lòng tin Thiên Chúa, đó chính là hội thánh tại thế, đó chính là mỗi người chúng ta.
“Ngài là con chí ái Ta, các ngươi hãy nghe Ngài” (Mc 9,7)
Hiến tế của Abraham dâng hiến Isaac mới chính là hình bóng của một Hy lễ toàn hảo của chính Đức Giêsu Kitô, con một Thiên Chúa. Thánh Phaolô đã quả quyết: “Người đã không tha cho chính con của Người, nhưng đã phó nộp Ngài vì chúng ta hết thảy” (Rm 8,32). Lòng mến của Thiên Chúa đối với con người thật khôn lường khôn tả. Chính tình yêu vô bờ bến ấy, thể hiện qua việc Đức Kitô chịu nạn chịu chết trên bàn thờ thập giá, đã khơi nguồn ân cứu độ, hoàn thành giao ước vĩnh cửu giữa Thiên Chúa và con người.
Mùa chay thánh, mùa dọn lòng người tín hữu đón nhận tình yêu tuyệt đối của Thiên Chúa, chúng ta hãy cùng với ba môn đệ Phêrô, Giacobê và Gioan chiêm ngưỡng bản tính và vinh quang Thiên Chúa hiện tỏ nơi Đức Kitô con yêu dấu của Ngài. “Hãy nghe Ngài” vì Ngài là “Đường là sự thật và sự sống” dẫn đưa con người về với Thiên Chúa. Thái độ của người tín hữu trong mùa chay thánh là hãy lắng nghe Lời Chúa, suy niệm Lời Chúa, và đem ra thực hành Lời Chúa trong đời sống.
Hãy luôn ghi nhớ rằng, con đường đức tin Abraham xưa đã đi cũng như cuộc hành trình đức tin của chúng ta trong thế giới hôm nay, cả hai chỉ là một, sẽ đầy thử thách chông gai, và chóp đỉnh vẫn là: Vâng Phục và Kính Sợ Thiên Chúa.
41. Đức Giêsu biến hình vinh quang
Câu chuyện được viết sau khi Đức Giêsu Phục sinh vinh quang, đã đuợc tin vững vàng, đã được rao giảng rộng rãi và cũng để củng cố đức tin của các tín hữu.
Để hé mở cho biết từ từ về chính mình Đức Giêsu bắt đầu bằng câu hỏi: người ta nói Thầy là ai? Phêrô đã đáp đúng: Thầy là Đấng Kitô Con Thiên Chúa. Nhưng mọi người chưa hiểu đúng mặc dù Người đã giải thích bằng “loan báo sự thương khó”. Đấng Kitô phải chịu đau khổ nhiều, bị giết chết, ngày thứ ba mới sống lại vinh quang, Nhưng người ta sợ sự thương khó nên sự sống lại vinh quang bị che khuất mắt họ. Đức Giêsu cho ba môn đệ thân tín nhất thấy trước trong chốc lát sự sống lại vinh quang mong các ông hiểu mà tin và giúp người khác tin: Người biến hình vinh quang.
Vài điểm CHÚ GIẢI
– Sáu ngày sau: không phải ngày thứ sáu mà là ngày trước ngày sa bát, là ngày cuối, ngày sống lại.
– Đức Giêsu đem Phêrô, Giacôbê và Gioan di theo mình: Ba môn đệ thân tín nhất, sẽ có mặt trong giờ Đức Giêsu hấp hối. Thân tín, đi theo là điều kiện khởi đầu để thấy sự biến hình vinh quang.
– Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, chỉ mình các ông thôi: Điều kiện tiếp theo là “đi riêng ra một chổ, chỉ mình các ông thôi” với Đức Giêsu. Không còn với ai hết, tách riêng ra khỏi những người khác chưa đủ điều kiện để được thấy.
– Tới một ngọn núi cao: Núi nào? Chỉ một nơi riêng biệt dành cho những việc quan trọng nhất. Trong văn chương Do thái những điều trọng đại thì được xảy ra trên núi. Núi: quan trọng bậc nhất.
– Rồi Người biến hình trước mắt các ông: Thiên tính tiềm ẩn trong Đức Giêsu hiển lộ ra.
– Y phục người trở nên rực rỡ trắng tinh, không thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy: Chưa có ngôn ngử để diển tả đúng thực tế siêu nghiệm nầy, đành phải dùng những từ ngữ có sẳn dù không cân xứng. Con người được nhìn thấy qua y phục.
– Ông Êlia và ông Môsê hiện đến đàm đạo với người: Êlia trước Môsê vì đi ngược từ Đức Giêsu. Lịch sử được tính từ Đức Giêsu vế trước cũng như về sau. Êlia là các tiên tri, Môsê là lề luật. Cả hai là Cựu Ước. Bàn giao Cựu Ước cho Đức Giêsu để Người lập ra Tân Ước.
– Thưa Thầy được ở đây thì tốt lắm: ở đây là hiện tại vinh quang mà các ông thấy. Là cách diễn tả đơn sơ nhất về visio beatifica (phúc kiến) hạnh phúc thiên đàng cũng là chính xác nhất. Ở đây tốt lắm: không thể tốt hơn nữa nên cũng không muốn đi đâu nữa. Hoàn toàn thoả mãn rồi.
– Chúng con xin làm ba lều: Trong cuộc Xuất Ai Cập Hòm bia Thiên Chúa tượng trưng cho sự hiện diện của vinh quang Thiên Chúa ở trong lều.
– Bỗng có một đám mây bao phủ các ông: Đám mây và tiếng phán từ trong đám mây là văn chương do thái tả sự hiện diện của Thiên Chúa. Đáp lại lời của Phêrô: Thiên Chúa không ở trong lều mà ở trong đám mây: Thiên Chúa ở trên trời. Không cần làm lều.
– Và từ đám mây có tiếng phán: Thiên Chúa ở trên trời, hiện diện trong đám mây. Có tiếng phán mới nhận ra có Thiên Chúa.
– Đây là Con Ta yêu dấu: Đức Giêsu của phép rửa đã biến hình vinh quang. Lời tuyên bố “Con Thiên Chúa” được hiện thực. Con Thiên Chúa đồng bản tính thì cũng có vinh quang như Thiên Chúa. Con yêu dấu “đẹp ý Cha hoàn toàn”. Vâng ý Cha trong mọi sự.
– Hãy vâng nghe lời Người: Xứng đáng được vâng lời, nghe lời. Là điều kiện cuối cùng để chúng ta được “biến hình” hầu hưởng vinh quang như Đức Giêsu biến hình.
– Không thấy ai nữa chỉ con một mình Đức Giêsu: Môsê, Êlia thuộc thời kỳ quá độ đã bàn giao cho Đức Giêsu, Đấng được Thiên Chúa uỷ nhiệm làm Đấng cứu độ. Đức Giêsu mới cứu độ. Đi theo Người thì được cứu độ. Chỉ Đức Giêsu mà thôi. Ngoài Người không có ai khác.
Khi cho Con xuống thế làm người Thiên Chúa Cha dã vạch ra chương trình cuứ độ. Đức Giêsu phải hoàn thành mọi chi tiết thì mới được Thiên Chúa tôn phong là Đấng Cúư Độ và Chúa. Trên thập giá khi Đức Giêsu tuyên bố “đã hoàn tất” thì Người được Thiên Chúa cho sống lại vinh quang. Người đã mở ra con đường tới sự sống lại vinh quang cho loài người. Đó là con đường làm con Thiên Chúa. Thiên Chúa không muốn đường thập giá mà muốn đường “làm con”. Đức Giêsu làm con yêu dấu của Thiên Chúa thì cũng được thông phần vinh quang của Thiên Chúa. Và tiếng Chúa Cha đã căn dặn “hãy nghe lời Người”. Là điều kiện Chúa Cha đã đặt ra.
Phương tiện để thực hiện tốt điều kiện của Chúa Cha là đi theo Đức Giêsu trên con đường của Người: Được Đức Giêsu đem đi “theo”, đi riêng, lên núi cao, nhất là nghe lời Ngưòi, chỉ một mình Đức Giêsu (không còn Môsê và Êlia, cũng không còn tiếng phán từ đám mây). Tóm lại phải làm sao để nghe lời Đức Giêsu tốt nhất. Có các dòng tu chiêm niệm tập trung học hỏi Kinh Thánh và cầu nguyện. Ngày nay người ta quan tâm tới “thực hành” nhiều hơn nên có những dòng tu hoạt động xã hội nhưng trên căn bản của LỜI. Lời là ý của Thiên Chúa. Đức Giêsu dạy cho chúng ta biết ý của Thiên Chúa để làm theo và được làm con như Người. Vâng ý Cha là làm con.
Lời Chúa mới biến hình chúng ta được. Lời được thực hành mới có kết quả.
Hãy thực hành Lời Chúa Cha “Hãy nghe Lời Người”.
42. Cuối đường hầm hay trên đỉnh núi?
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Vân Lực)
Với tốc độ 300.000 cây số một giây, ánh sáng có thể bay nhanh tới những miền xa thẳm trong chớp mắt. Không vật nào có thể di chuyển nhanh như thế. Nhờ ánh sáng Chúa biến hình hôm nay, ba môn đệ cũng phóng tầm nhìn rất xa, xa tới tận bản tính Thiên Chúa. Chính vì thế, các ông đã xác định được hướng sống và tìm được nền tảng của niềm hi vọng cho cuộc đời. Trong ánh sáng thần kỳ, Đức Giêsu đã mạc khải tất cả sự thật về Người. Sứ mệnh Người hiện rõ từng nét. Chúng ta tìm về ánh sáng đó để cùng các môn đệ ngất ngây chiêm ngưỡng dung nhan tuyệt vời của Đức Giêsu, Con Thiên Chúa và là Đấng cứu độ muôn dân.
ÁNH SÁNG THẦN KỲ
Nếu không được chứng kiến ánh sáng thần kỳ trên núi, các môn đệ mãi mãi sống trong giằng co bất tận giữa thực tế và mộng tưởng. Giấc mơ Thiên sai vẫn đẹp như ngày nào. Thiên sai phải là một anh hùng cái thế thực hiện tất cả những giấc mộng bá chủ của dân tộc Do thái. Thực tế Thầy lại tiên báo về một Thiên sai đau khổ và bị những nhà lãnh đạo dân chúng tiêu diệt khỏi mặt đất (Mt 16:21; Lc 9:22; Mc 8:31). Lời Thầy như dẫn các môn đệ vào con đường hầm dầy đặc bóng tối.
Nhưng đã đến lúc ánh sáng lóe lên ở cuối đường hầm. Đức Giêsu muốn lôi các môn đệ ra khỏi cảnh hoang mang đó. Người phải củng cố niềm tin các môn đệ. Nếu không, các ông sẽ mất hẳn chiếc phao và sẽ trôi dạt đến một chân trời vô định. Cả sự nghiệp Thầy trò sẽ tan tành ra mây khói. Bởi vậy Thầy quyết định dẫn ba môn đệ thân tín nhất lên núi để tìm một điểm mốc cho tương lai.
Núi là nơi lý tưởng để Thầy trò cầu nguyện. Nhưng lần này khác hẳn. “Núi là nơi thường chứng kiến những mạc khải siêu nhiên và những cuộc thần hiển” (The New Jerome Biblical Commentary 1990:615). Sau khi đã leo tới đỉnh núi, “Người biến đổi hình dạng trươc mắt các ông. Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy.” (Mc 9:3) Đức Giêsu đã xuất hiện nguyên hình. Thân xác không cản nổi luồng sáng từ thiên tính Người. Niềm tin các môn đệ bừng dậy. Có lẽ trong niềm tin Phật tử, Đức Phật cũng tỏa ra một thứ hào quang tương tự khi chứng ngộ, thành đạo dưới gốc cây bồ đề (?). Bởi vậy nói theo kinh nhà Phật, trong cuộc biến hình hôm nay, Đức Giêsu cũng đã thành con đường dẫn các môn đệ thoát khỏi bến mê và trở về nhà Cha an toàn.
Trong ánh sáng biến hình, các môn đệ sẽ hiểu được lời Đức Giêsu hứa về “Triều Đại Thiên Chúa đầy uy lực” (Mc 9:1) và xác tín “Thầy là Đức Kitô” (Mc 8:30). Nói cách khác, Thầy tự mạc khải là Đấng quyền năng có sứ mạng cứu nhân độ thế. Trong địa vị và vai trò lớn lao đó, Thầy xứng đáng là vị lãnh đạo muôn dân vào Đất Hứa. Thầy xuất hiện để lời các tiên tri trở thành hiện thực. Chính vì thế hai ông Môsê và Eâlia đã xuất hiện để củng cố và chiếu sáng niềm tin các môn đệ vào sứ mạng của Thầy. Đúng hơn, hai ông là cái nền đánh bóng dung nhan Đức Giêsu.
CHÂN TƯỚNG VỊ THIÊN SAI
Nhưng trên hết, chính lúc các ông ngây ngất về dung nhan Thầy trổi vượt hơn các ông Môsê và Eâlia, thì “có một đám mây bao phủ các ông” (Mc 9:7). Mây là biểu tượng Thiên Chúa hiện diện. Phải được nhắc lên đám mây, các ông mới nghe được tiếng Chúa Cha: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9:7). Lời trìu mến chừng nào! Tất cả cơ nghiệp Chúa Cha là Đức Giêsu! Nhưng cơ nghiệp ấy Chúa Cha đã không ngần ngại hi sinh cho hạnh phúc nhân loại. Hình ảnh Abraham sẵn sàng sát tế Isaac chỉ diễn tả phần nào tấm lòng hi sinh cao cả của Thiên Chúa đối với con người. Abraham chỉ bị thử thách, chứ không sát tế người con yêu quí. Trái lại, “đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta” (Rm 8:32). Thiên Chúa Cha quí trọng mạng sống Con Cha tới mức nào. Vậy mà Người đã hi sinh mạng sống ấy cho chúng ta (Disciples in Mission [Homily Guide, Lent Cycle B] 1999:10). “Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy anh em” (1 Cr 6:20).
“Tiếng trong đám mây làm liên tưởng tới vị tiên tri trong Đệ Nhị Luật (18:15) sẽ được lắng nghe vào những ngày sau hết” (Faley 1994:231). Đám mây và Lời Chúa Cha chứng minh rõ ràng tự bản tính Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Còn ai xứng đáng cho các môn đệ nghe lời hơn không? Vậy mà từ xưa tới nay, các ông vẫn hoang mang vì dư luận! Bởi vậy từ nay, dù Thầy có nói những điều trái tai gai mắt, các môn đệ cũng phải chấp nhận. Sự thật vẫn là sự thật. Thầy không sợ sự thật. Thầy muốn môn đệ cũng phải đối diện với sự thật. Vì “sự thật sẽ giải phóng các ông” (Ga 8:32).
Thấy cảnh Đức Giêsu biến hình, Phêrô cảm thấy lúng túng. “Ông không biết phải nói gì, vì các ông kinh hoàng” (Mc 9:6). Một kinh nghiệm khó quên. Một cảm nghiệm thần bí tuyệt vời. Tuyệt vời đến nỗi ông muốn kéo dài mãi cảnh thần tiên đó. Đề nghị dựng ba lều chỉ là một cách nói lên điều ông không biết diễn tả làm sao nỗi vui sướng ngây ngất. Nhưng Đức Giêsu không muốn các môn đệ “ngủ quên trên chiến thắng”. Ngay trên núi, sau khi chứng kiến cảnh Thầy biến hình, các ông đã bị trả về thực tế. “Các ông chợt nhìn quanh, thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi” (Mc 9:8). Thực tế trơ ra đó. Nhưng thực tế không phải chỉ có thế. Các ông lại phải tiếp tục nghe những điều nhức nhối tâm can phát ra từ miệng Thầy. Thầy trò rủ nhau xuống núi. Thầy tiếp tục quả quyết về số phận không thể tránh: “Người phải chịu nhiều đau khổ và bị khinh chê.” (Mc 9:12) Lúc này có lẽ các ông đã sẵn sàng nghe Đức Giêsu hơn, vì ai có thể tẩy mờ hình ảnh Thầy biến hình khỏi tâm trí các ông? Làm sao các ông quên được lời phán từ đám mây: “Hãy vâng nghe lời Người”. Nghe lời Người để tìm đến sự sống, chứ không phải cái chết. Đúng hơn, niềm hi vọng sẽ bừng dậy khi “Con Người từ cõi chết sống lại.” (Mc 9:9) Đó mới là điều ám ảnh tâm trí các ông suốt đời. Đức Giêsu Phục sinh sẽ là câu trả lời đích xác, dẹp yên mọi xôn xao trong lòng các ông từ trước tới nay. Từ đây giấc mộng Thiên sai bá chủ sẽ nhường bước cho niềm hi vọng Phục sinh lớn lao đó. Ánh sáng biến hình chỉ là bóng mờ so với ánh sáng Phục sinh. Nhưng không chứng kiến hay cảm nghiệm được ánh sáng biến hình, người ta có thể ngộ nhận về sứ mệnh thiên sai của Đức Giêsu. Đó là lý do tại sao “Đức Giêsu truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trừ khi Con Người từ cõi chết sống lại.” (Mc 9:9) Trong ánh sáng Phục sinh, các môn đệ mới nhận thấy rõ ràng “nơi Đức Giêsu Kitô, chính Thiên Chúa đã can thiệp để cứu độ dân Người.” (Fisichella 1995:669) Người chính là vị Thiên sai đến thực hiện tất cả những lời Thiên Chúa hứa giải thoát nhân loại.
Ngày nay, nhiều nơi trên thế giới, nhân loại vẫn còn sống trong những đường hầm chật chội, tăm tối. Sự dữ và bất công còn hiện diện khắp nơi. Chính vì thế người Kitô hữu vẫn chưa thể nghỉ yên. “Sứ mệnh Thiên sai vẫn còn đó như mời gọi dân thiên sai thực hiện cuộc giải thoát toàn vẹn và sau cùng. Biến cố huyền nhiệm Phục sinh chắc chắn đã mang lại ơn cứu độ. Biến cố đó không chuẩn chước, nhưng đúng hơn thúc ép chúng ta phải trở nên khí cụ thực hiện công bình và từ bi ở bất cứ nơi đâu sự dữ còn hoành hành” (Fisichella 1995:669). Nhờ đó, hòa bình sẽ là dấu chỉ rõ nhất của Thiên Chúa tình yêu giữa một xã hội đầy bạo động và sa đọa này.
Hi vọng không phải lóe lên ở cuối đường hầm, nhưng chiếu toả mãnh liệt trên đỉnh núi. Hôm nay sau khi chiêm ngưỡng dung nhan Đức Giêsu, các môn đệ đã nhận thấy “sức mạnh duy nhất của Thiên Chúa là sức mạnh tình yêu, tình yêu toàn năng” (TGM Angelo Comastri: Zenit 12/3/2003) đang hoạt động mãnh liệt trong tâm hồn con người và toàn thể vũ trụ.
43. Tìm vinh quang Thiên Chúa ở đâu?
(Suy niệm của Lm. Trần Xuân Lãm)
Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa xuống trần gian mang hình hài thể xác con người như ta, nhưng hôm nay Ngài tạm thời từ bỏ hình dạng bình thường của con người, để mặc lấy một hình dạng khác rất siêu phàm: “Y phục Ngài rực rỡ, trắng tinh, không thợ giặt nào ở trần gian giặt trắng như vậy”. Sự sáng láng chiếu tỏa vinh quang của thiên giới.
Đức Ki-tô chính là Đấng Messiah ẩn mình, người tôi trung đau khổ của Thiên Chúa, hôm nay được tỏ bày trước kỳ hạn vinh quang, qua việc các đại diện của lề luật và ngôn sứ là Mô-sê và Ê-li-a, hiện ra và đàm đạo với Ngài. Đây là lần thứ hai có tiếng phán từ trời về Chúa Giê-su: “Này là Con Ta chí ái” (Mc 9:7)
Trong lúc còn thử thách ở cuộc đời trần gian, chúng ta được mời gọi tin phục hoàn toàn vào Thiên Chúa qua mọi biến cố trong cuộc đời. Thiên Chúa ẩn náu mình đi không muốn tỏ vinh quang và quyền phép uy nghi của Ngài ra, để ép buộc chúng ta nghe lời Ngài. Ngài đã ban cho chúng ta tự do và Ngài tôn trọng tự do đó. Hơn nữa, có tự do mới có công phúc.
Tuy nhiên những ai đọc và suy niệm lời Chúa, những ai có con mắt đức Tin trong sáng thì đã thấy và đã biết Thiên Chúa uy quyền và vinh quang ở đâu: ở trong Bí tích Thánh thể, trong các Bí tích, trong Phúc âm, trong mọi biến cố, hoàn cảnh cuộc đời. Chúa hiện ra ở đó còn uy quyền sáng láng hơn cả khi biến hình trên núi cao hôm nay.
Bài Phúc âm còn ngụ ý dạy chúng ta, nếu muốn được nhìn thấy Thiên Chúa vinh quang và uy nghi thì phải lên núi cao, vượt trên mọi thấp hèn của xác thịt. Bên cạnh đó, chúng ta cần sẵn sàng bước theo con đường thập giá của Đức Ki-tô, vì con đường ấy dẫn chúng ta đến vinh quang và phúc trường sinh muôn đời.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện)
“Ngày nay, trong rất nhiều trường hợp, chúng ta cũng chẳng khác gì các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan: hiểu sai lời Đức Giêsu, hiểu sai những thực tại thần thiêng được ban cho trải nghiệm, cứ mãi chỉ mang tư tưởng nhân loại chứ không phải tư tưởng của Thiên Chúa…”
Có một mối liên hệ sâu xa giữa biến cố được kể lại trong bài Tin Mừng hôm nay (Mc 9,2-10) với lời tiên báo về số phận của Con Người trong Mc 8,31. Trước phản ứng rất mạnh mẽ của ông Phêrô (đại diện cho nhóm các đồ đệ) đối với lời tiên báo đó (8,32), Đức Giêsu, vốn đầy tình thương yêu nhân lành đối với các đồ đệ, đã muốn giúp các ông hiểu và đón nhận chương trình cứu độ của Thiên Chúa, bằng cách cho các ông được trải nghiệm một thực tại ngoại thường: biến cố hiển dung.
“Khi ấy, Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, chỉ mình các ông thôi, tới một ngọn núi cao” (c.2). Tác giả Tin Mừng không nói rõ đó là ngọn núi nào. Có lẽ ông muốn ám chỉ núi Sinai, là ngọn núi mà ở đó, ông Môsê và ông Êlia (các nhân vật sẽ xuất hiện trong c.4) đã được chứng kiến các cuộc thần hiện của Thiên Chúa (x. Xh 34,1-8; 1V 19,8-18). Trước đây, các đồ đệ đã từng được biết rằng Đức Giêsu là Đấng Mêsia (8,30), nhưng các ông lại hiểu sai về tư cách và sứ mạng Mêsia của Người. Đức Giêsu đã cố gắng giúp họ không hiểu sai, bằng cách nói cho họ biết về số phận đang được dành sẵn cho Con Người (8,31), nhưng Người đã thất bại trong nỗ lực đó (8,32). Bây giờ Người đưa các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi riêng ra một nơi, để một lần nữa, giúp các ông điều chỉnh cái ý tưởng sai lầm của các ông về Đấng Mêsia và giúp các ông đón nhận những hệ luận của việc gắn bó với Người. Những gì các ông sắp trải nghiệm sẽ là một cuộc thần hiện, cho các ông thấy tình trạng vinh quang của Đức Giêsu sau khi Người chiến thắng sự chết. Người muốn cho các ông cảm nghiệm trước ánh vinh quang của Đấng sắp đi vào cuộc khổ nạn kinh hoàng.
“Người biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy” (cc.2c-3). Vinh quang của Đức Giêsu được trình bày qua các chi tiết về vẻ huy hoàng của y phục của Người. Theo quan niệm đương thời, y phục là cách diễn tả con người, và trong trình thuật này, nó có giá trị ám chỉ nhân tính của Đức Giêsu. Y phục đó bây giờ “trở nên rực rỡ, trắng tinh”. Sự rực rỡ và trắng tinh thuần khiết đó biểu tượng cho vinh quang thần linh thấm đẫm nhân tính của Người. Đó là vinh quang thực của Đấng bị trao nộp vào tay người đời vì sự sống thật của nhân loại. Sự chết mà Người sắp trải qua sẽ thất bại tận căn trước vinh quang thần linh này. Và vẻ huy hoàng thuần khiết đang được tỏ lộ nơi Đức Giêsu này có nguồn gốc thiên thai, chứ không phải là kết quả của nỗ lực nhân loại: “Không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy”.
“Và ba môn đệ thấy ông Êlia cùng ông Môsê hiện ra đàm đạo với Đức Giêsu” (c.4). Sự xuất hiện của hai nhân vật vĩ đại của Cựu Ước là các ông Môsê và Êlia, đã đem vào trong những thực tại mà các đồ đệ đang trải nghiệm một đường nét và ý nghĩa mới: mối liên hệ của Cựu Ước với Đức Giêsu. Tác giả Mc đã không nói rằng ông Môsê và ông Êlia đến, mà là các ông “hiện ra”, như thể một thực tại đang còn ẩn giấu bây giờ được tỏ lộ ra. Đàng khác, ông Môsê và ông Êlia hiện ra là để cho các đồ đệ của Đức Giêsu thấy, và tác giả không hề nói gì về vẻ vinh quang của các vị ấy. Hai vị là đại diện của Cựu Ước (Lề Luật và các ngôn sứ) như đã được ban truyền cho dân. Và tuy hiện ra cho các đồ đệ thấy, nhưng ông Môsê và ông Êlia không nói gì với các ông mà chỉ đàm đạo với Đức Giêsu. Điều này có nghĩa là Cựu Ước chẳng truyền đạt cho các đồ đệ của Đức Giêsu sứ điệp nào nếu không qua Đức Giêsu. Ông Môsê và ông Êlia xuất hiện trong sự quy hướng về Đức Giêsu mà thôi. Chính Đức Giêsu mới là Đấng xác định giá trị của Cựu Ước. Môsê và Êlia, tức là Lề Luật và các ngôn sứ, không phải là những giá trị tuyệt đối, mà là những thực tại tùy thuộc vào thực tại Giêsu. Đức Giêsu và sứ điệp của Người siêu vượt hơn hẳn mọi thực tại cao quý nhất của mặc khải Cựu Ước. Những gì Đức Giêsu nói và thực hiện thì quan trọng hơn hẳn những gì ông Môsê và các ngôn sứ đã dạy.
“Bấy giờ, ông Phêrô thưa với Đức Giêsu rằng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia” (c.5). Sự tiến triển của biến cố hiển dung bị đoạn tục bởi sự kiện ông Phêrô lên tiếng. Được trực tiếp chứng kiến những gì đang diễn ra, ông Phêrô hướng về Đức Giêsu (chứ không phải về ông Môsê hay ông Êlia) và thưa chuyện với Người.
Ông Phêrô đưa ra một đề nghị, nhân danh các bạn (“chúng con”) và hy vọng sẽ được Đức Giêsu đồng ý. Điểm chính yếu trong đề nghị là việc làm ba cái lều, một cho Đức Giêsu, một cho ông Môsê và một cho ông Êlia. Có hai khía cạnh đáng chú ý, được diễn tả bằng danh từ “lều” và số từ “ba”. Hạn từ “lều” gợi ý về lễ Lều: ông Phêrô nối kết cuộc hiển dung của Đức Giêsu với sứ mạng Mêsia của Người, và ông hiểu đó là sứ mạng Mêsia theo hướng dân tộc chủ nghĩa. Với số từ “ba” và được phân chia rõ ràng là “một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia”, ông Phêrô đang đặt cả ba vị trên cùng một bình diện, xóa mờ sự tùy thuộc của các ông Môsê và Êlia đối với Đức Giêsu và đặt các ông ấy trong tư thế độc lập. Thực tại đang xảy ra, như chúng ta đã nói trên kia, là ông Môsê và ông Êlia xuất hiện chung với nhau trong sự quy hướng về Đức Giêsu. Nhưng trong đề nghị của ông Phêrô, thì Đức Giêsu, ông Môsê và ông Êlia đồng hàng với nhau, và mỗi vị có vai trò riêng của mình, mỗi vị có “lều” riêng của mình. Đức Giêsu là Đấng Mêsia; ông Môsê: Lề Luật và các thiết chế; ông Êlia: nhà cải cách tôn giáo vĩ đại. Bằng cách đó, ông Phêrô cho thấy ý tưởng của ông về Đấng Mêsia (x. 8,29.33). Một cách gián tiếp, ông Phêrô phủ nhận sự mới mẻ của sứ điệp và vai trò của Đức Giêsu và Nước Thiên Chúa.
Rõ ràng ông Phêrô đã được nhìn thấy vinh quang của Đức Giêsu, nhưng chưa hiểu. Đúng ra, cần phải nối kết vinh quang đang được hé lộ trong biến cố hiển dung này với thực tại phục sinh của Con Người sau cuộc khổ nạn và cái chết của Ngài, như Đức Giêsu đã từng nói trước (8,31), nhưng ông Phêrô chưa thực hiện được sự nối kết đó. Ông vẫn đang còn mang tư tưởng của loài người chứ chưa phải là tư tưởng của Thiên Chúa (8,33).
“Thực ra, ông không biết phải nói gì, vì các ông kinh hoàng” (c.6). Tại sao các ông lại kinh hoàng đến độ không biết nói gì? Có yếu tố nào đe dọa các ông ở đây? Trong sự sợ hãi và cảm thấy bị đe dọa đó, ông Phêrô lại chỉ ngỏ lời với Đức Giêsu thôi, chứ không nói gì với các ông Môsê và Êlia, chứng tỏ ông cảm thấy kinh hoàng là vì một điều gì đó nơi Đức Giêsu. Quả thực, ông và các bạn đang được chứng kiến vinh quang thần linh tỏ lộ nơi Đức Giêsu. Các ông hiểu rằng nơi Người đang có mãnh lực thần linh của chính Thiên Chúa, vốn là mãnh lực có thể gây chết chóc cho người phàm một khi họ được chứng kiến. Và điều đó gây ra nỗi kinh hoàng tột độ cho các ông.
“Bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (c.7). Xuất hiện yếu tố thứ ba của cuộc thần hiện. Yếu tố thứ nhất là sự biến đổi hình dạng của Đức Giêsu, cho thấy tư cách và vị thế thần linh của Người. Yếu tố thứ hai là sự xuất hiện của các ông Môsê và Êlia, chứng tỏ Đức Giêsu là điểm đến, là đỉnh điểm, là điểm quy chiếu của tất cả Cựu Ước. Bây giờ xuất hiện yếu tố thứ ba: Đức Giêsu được công bố là Con Thiên Chúa, Đấng hiến dâng chính mạng sống mình, Đấng là Lời tối hậu của Thiên Chúa cho nhân loại.
Có thể nói sự xuất hiện của đám mây và tiếng phán từ đám mây chính là đỉnh điểm của cuộc thần hiện. Đám mây vừa mạc khải vừa che giấu sự hiện diện của Thiên Chúa. Và trong thực tế, đám mây đã thế chỗ của những chiếc lều mà ông Phêrô muốn làm. Nói chính xác hơn, sự xuất hiện của đám mây bao trùm đồng một trật Đức Giêsu, ông Môsê và ông Êlia, chính là sự từ chối, hoặc chí ít cũng là sự điều chỉnh, cái đề nghị vừa được phát biểu của ông Phêrô. Khi đề nghị làm ba cái lều “ở đây” là ông Phêrô đang muốn cầm giữ cả ba vị trong cõi đất này, với hy vọng rằng vương quốc Mêsia, nhờ các Ngài, sẽ được khai mở như là một thực tại thế tạm. Trái lại, Thiên Chúa cho thấy rằng vinh quang của Đức Giêsu và thực tại Người mang đến, tự bản chất, thuộc về cảnh vực thần linh chứ không phải là những thực tại thế tạm.
Cùng với đám mây và từ đám mây, có tiếng phán. Tiếng ấy không nói với Đức Giêsu nhưng là nói với các môn đệ và cung cấp cho các ông lời giải thích về những gì đang diễn ra. Phần thứ nhất của lời giải thích là một khẳng định: “Đây là Con Ta yêu dấu”. Đại từ “đây” rõ ràng loại trừ ông Môsê và ông Êlia khỏi điều được công bố và đồng thời nhấn mạnh tính cách hơn hẳn của Đức Giêsu so với hai vị đó. Ngữ đoạn “là Con của Ta” cho thấy một cách tường minh rằng thực hữu của Đức Giêsu xuất phát từ chính Thiên Chúa, rằng hành động của Người là hành động của chính Thiên Chúa, rằng lời của Người là lời của chính Thiên Chúa. Định ngữ “yêu dấu” nhấn mạnh mối tương quan đặc biệt giữa Thiên Chúa và Đức Giêsu.
Phần thứ hai là một lời kêu gọi: “Hãy vâng nghe lời Người”. Đức Giêsu là Tôn Sư độc nhất, là Đấng công bố lời tối hậu của Thiên Chúa. Các môn đệ chỉ phải vâng nghe lời Người mà thôi. Cựu Ước (mà đại diện ở đây là các ông Môsê và Êlia) không có gì để nói trực tiếp với các môn đệ nữa nếu không phải là qua Đức Giêsu. Như thế, không hề có hai mặc khải song song hay tiếp nối (Cựu Ước và Đức Giêsu), mà chỉ có một mặc khải duy nhất nơi Đức Giêsu, Đấng thực hiện và hoàn tất những gì được nói trong Cựu Ước, Đấng quyết định giá trị và đem lại sự trường tồn cho những thực tại Cựu Ước.
Tác giả Tin Mừng không nói gì về phản ứng của các môn đệ đối với những gì vừa được công bố từ đám mây. Trong Kinh Thánh, một khi được ý thức, lời của Thiên Chúa sẽ gây nên nơi người nghe sự sợ hãi. Nhưng các môn đệ ở đây không phản ứng gì. Hình như tác giả Tin Mừng có ý ngầm cho biết rằng các ông đã chẳng hiểu đúng ý nghĩa của những thực tại đang diễn ra, y như trước đây các ông đã không hiểu đúng ý nghĩa lời tiên báo của Đức Giêsu (x. 8,31tt).
“Các ông chợt nhìn quanh, thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi” (c.8). Trái với đề nghị của ông Phêrô, các ông Môsê và Êlia đã biến đi. Từ nay, họ không còn vai trò gì trong lịch sử nữa, chỉ còn lại một mình Đức Giêsu, Đấng duy nhất mà các môn đệ phải vâng nghe lời, Đấng duy nhất là tôn sư và ngôn sứ. “Chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi”.
Sau đó, các Ngài rời cảnh vực thần linh và trở về với lịch sử trần trụi. Cho đến lúc này, như chúng ta đã hơn một lần nói ở trên, các môn đệ chưa hiểu đúng những thực tại mà các ông vừa được trải nghiệm. Vì thế, “ở trên núi xuống, Đức Giêsu truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại” (c.9). Chỉ khi vinh quang của Người được liên kết chặt chẽ với sự từ chối và cái chết mà Người đã từng nói cho các ông biết, thì các ông mới có thể nói lại cho người khác những gì các ông vừa được trải nghiệm trên núi. “Các ông tuân lệnh đó, nhưng vẫn bàn hỏi nhau xem câu “từ cõi chết sống lại” nghĩa là gì” (c.10).
Ngày nay, trong rất nhiều trường hợp, chúng ta cũng chẳng khác gì các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan: hiểu sai lời Đức Giêsu, hiểu sai những thực tại thần thiêng được ban cho trải nghiệm, cứ mãi chỉ mang tư tưởng nhân loại chứ không phải tư tưởng của Thiên Chúa… Nhưng đồng thời, ngay trong Mùa Chay thánh này, biết đâu Chúa vẫn đang hiển dung cho chúng ta một cách nhiệm mầu… Từng chi tiết của cuộc hiển dung trong bài Tin Mừng hôm nay đều đáng được suy niệm một cách nghiêm túc và đều có ý nghĩa sâu xa đối với đời sống đức tin của chúng ta…
Hôm nay, Chúa nhật thứ hai Mùa Chay, chúng ta được thánh sử Maccô trình bày về cuộc biến hình của Chúa Giêsu. Cuộc biến hình này mạc khải Thiên tính của Chúa Giêsu, đồng thời mạc khải con đường mà Chúa Giêsu phải đi. Đó cũng là con đường mà các môn đệ và tất cả chúng ta cũng phải đi qua.
Ba môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan đã ở với Chúa Giêsu hằng ngày, họ đã nhìn thấy Ngài, lắng nghe Ngài giảng dạy, chứng kiến những phép lạ Ngài làm, nhưng họ vẫn chưa thực sự nhận ra Ngài là ai, hôm nay họ mới nhìn thấy vinh quang của Con Thiên Chúa lần đầu tiên, và họ thật sự là hạnh phúc.
Thật thế, Thiên Chúa là tình yêu. Ngài vẫn từng phút từng giây đổ tràn tình yêu của Người vào đời sống chúng ta. Thánh Macco kể lại việc Chúa Giêsu cho ba môn đệ hôm nay lên núi cao để hiểu biết về Người hơn. Ngài đưa họ vào đời sống thâm sâu của Người. Đó là sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa. Sự sống này là tình yêu không ngừng trao ban và nhận lãnh. Tình yêu đó là nguồn mạch sự sống và nguồn mạch hạnh phúc. Sự sống và hạnh phúc ấy đổ tràn vào tâm hồn những ai đến sống thân mật với Chúa. Ai đã một lần nếm cảm hạnh phúc ấy rồi, vĩnh viễn không thể tách rời Thiên Chúa được nữa. Chính vì thế, sau khi nhìn ngắm dung nhan Đức Giêsu và sau khi nghe lời Chúa Cha nói: “Đây là Con Ta yêu dấu”, Phêrô cảm nhận được niềm hạnh phúc ngập tràn đến độ muốn ở lại mãi mãi trên núi, không muốn trở uống nữa. Hay hai môn đệ Gioan và Anrê, sau một buổi chiều sống với Đức Giêsu đã quyết định đi theo làm môn đệ của Người. Thánh Phaolô sau khi được đưa lên tầng trời thứ ba đã mạnh dạn nói: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, nguy hiểm, bắt bớ, gươm giáo…? Không, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta”.
Trên núi Tabor, cuộc biến hình của Chúa Giêsu cho chúng ta thêm xác tín ” Chúa Giêsu chính là con yêu quý của Thiên Chúa”. Người Con này vinh quang rực rỡ nhưng đã chẳng những bằng lòng mà còn vui lòng đi vào con đường khổ nạn và thập giá để mang ơn cứu độ cho mọi người. Người Con này đã hoàn toàn vâng phục theo thánh ý Thiên Chúa, dù phải trải qua con đường đau thương và khổ giá. Ngài chấp nhận đi con đường khổ giá và vâng phục cho đến chết trên cây thập giá để dẫn đưa nhân loại đi qua con đường thập giá này mà đến bến bờ vinh quang mai ngày. Và ba ông đã thấy vinh quang của Chúa Giêsu, ba ông được biết chương trình của Thiên Chúa, chương trình của Chúa đó là chương trình của tình yêu. Tình yêu này được minh chứng qua sự hy sinh; Chúa Cha, vì yêu thương ta, đã đành hy sinh Con Một yêu quý của Người. Ngài đã không dung tha cho chính con yêu quý của người nên Thánh Phaolo đã diễn tả: “Thiên Chúa đã không dung tha chính Con Một mình nhưng lại phó nộp vì tất cả chúng at, há Ngài lại chẳng ban cho chúng ta mọi sự cùng với con của Ngài sao” (Rm 8,32). Nếu Thiên Chúa đã ban cho Người Con Duy Nhất của Ngài thì Ngài còn tiếc gì chúng ta nữa. Còn phần Chúa Con, Ngài đã chấp nhận liều mạng sống như lời Người nói: “Không có tình yêu nào lớn lao bằng tình yêu của người dám hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu”. Chương trình tình yêu của Chúa để cứu chuộc ta được thực hiện qua sự đau khổ và cái chết trên thập giá của Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu Kitô mặc dù là Thiên Chúa nhưng đã mặc lấy xác phàm, trở nên con người sống ở giữa loài người, chấp nhận hy sinh, chấp nhận từ bỏ tất cả để đi vào cuộc khổ nạn, nhằm mang ơn cứu rỗi chúng ta. Ngài đã hy sinh tất cả, hy sinh cả mạng sống mình để làm theo ý Chúa Cha. Vì thế, Ngài đã được Chúa Cha tôn vinh trên hết mọi loài, sau khi cho Ngài từ cõi chết sống lại.
Mầu nhiệm hy tế của Chúa Giêsu được thực hiện một lần cho đến muôn đời. Và hằng ngày hy tế thánh này vẫn được tái diễn nơi Thánh lễ mà linh mục cử hành. Khi tham dự Thánh Lễ là dấu hiệu và bằng chứng tình yêu của Chúa Giêsu Kitô, chúng ta bày tỏ lòng yêu mến Chúa, biết ơn Chúa và cố gắng sống đổi mới theo hướng tích cực hơn, góp phần làm cho thế giới này được biến đổi mang màu sắc và phẩm chất yêu thương, một tình yêu hiến mạng sống của Chúa Giêsu Kitô dành cho nhân loại.
Rồi đây ba môn đệ sẽ bước với Thầy Giêsu đi vào con đường đau khổ chết trên thập giá. Biến hình chỉ là một hào quang lóe lên ngắn ngủi, bất ngờ, báo trước vinh quang phục sinh sắp đến. Thân xác Chúa Giêsu sẽ được vào vinh quang viên mãn khi thân xác ấy chịu đóng đinh vì yêu mến Chúa cha và yêu thương nhân loại tột đỉnh. Chúa Giêsu Kitô đã chấp nhận đi vào con đường đau khổ, bước vào cái chết và tiến đến phục sinh vinh hiển để ban ơn thánh hóa và cứu chuộc con người. Theo dấu chân Chúa Giêsu đã đi qua, Hội thánh vẫn luôn tiếp tục hành trình đó nhằm mang ân sủng cứu độ con người bằng Thánh Lễ và các Bí tích. Do đó, ý thức được tình thương mà Thiên Chúa dành cho, chúng ta hãy tri ân Thiên Chúa và siêng năng đến lãnh nhận ân sủng từ Thánh Lễ và các Bí tích. Để làm được điều này, đòi buộc chúng ta đón nhận bằng tình yêu. Chấp nhận hy sinh thời giờ, công việc, các thú vui, danh lợi…trong cuộc sống.
Tiếp tục con đường Chúa Giêsu đã đi, chúng ta thấy Hội thánh và cụ thể là các vị Giáo sĩ, tu sĩ và những người có tâm hồn thành tâm thiện chí. Họ chấp nhận và bước theo Thầy Giêsu, đi con đường Ngài đi. Họ đã sống từ bỏ và đã hy sinh. Họ muốn làm theo ý Chúa và Hội Thánh. Con tim của họ tràn đầy yêu thương vì con tim này được tu luyện, bồi dưỡng bởi tình thương nhân từ của Thiên Chúa. Họ không quản ngại cho đi sức khỏe, thời gian, tuổi thanh xuân. Họ đã sống cho tình Chúa và cho tình người. Họ can đảm cho đi sứ mạng hữu hình và thiêng liêng. Dám sống quên mình cho đàn chiên vì sự sống và ơn cứu độ cho nhân loại. Hơn nữa, noi gương Chúa Giêsu, các vị kể trên đã yêu mến Thiên Chúa hết lòng, sẵn sàng bước theo Chúa Kitô, đi theo con đường Ngài đã đi, sống sứ mạng dấn thân cho sứ vụ. Dù gặp gian nan, thử thách, đau khổ và như con đường thập giá Chúa Giêsu đã đi qua, họ luôn tin vào Chúa Kitô, xác tín rằng mình cũng sẽ được phục sinh vinh hiển với Ngài. Như Chúa Giêsu, Chúa Cha là lẽ sống của Ngài thì chính Chúa Kitô cũng chính là lẽ sống của họ. Chính niềm tin phục sinh ấy giúp họ bắt đầu và bắt đầu lại, giúp họ tiếp tục rồi lại tiếp tục cuộc hành trình sống chúng nhân giữa đời trong sứ vụ của mình.Đồng thời chúng ta cũng nhận thấy họ cũng phải chiến đấu với ba thù. Chúng ta hãy biết ơn các vị Giáo sĩ và tu sĩ là những người mang đức tin và ơn cứu độ cho chúng ta. Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban ơn cho họ trung thành bước theo con đường Chúa Giêsu đã đi với lòng tin, cậy và yêu mến Chúa mãnh liệt.
Mỗi người chúng ta cũng phải đi qua con đường khổ giá để bước vào vinh quang, bước đến tình yêu và sự sống đời đời mà Chúa sẽ ban tặng cho chúng ta.Vì thế, chúng ta hãy vui lòng đi trên con đường mà Chúa Giêsu và các bậc tiền nhân đã đi để được hưởng hạnh phúc với các ngài. Hơn nữa chúng ta tin rằng có Đấng ủng hộ chúng ta là Đấng đã đi trước mở đường cho chúng ta. Do đó, như Chúa Giêsu đã biến hình, chúng ta cũng sẽ được biến hình hằng ngày, biến đổi cả con người cũ kỹ, yêu hèn, tội lỗi của chúng ta nếu chúng ta dám từ bỏ lối sống ích kỷ, chấp nhận cuộc sống yêu thương tha nhân… Ngày nay có thể người ta không thấy Chúa biến hình nhưng họ sẽ cảm nghiệm phần nào khi thấy các người Công Giáo sống vui tươi, chan hòa tình người, tình yêu thương. Họ thấy được những người sống mãnh liệt vào niềm tin và hy vọng vào Chúa Kitô.
Là người Công giáo, chúng ta được tái sinh bởi Bí tích Rửa tội, nghĩa là chúng ta được chết cho con người cũ tội lỗi và sống cho con người phục sinh của Chúa Kitô. Người Công Giáo khi đó được gia nhập công đoàn Hội Thánh, được nuôi dưỡng Mình Máu Chúa và được tha thứ không ngừng để bước đi theo Chúa Giêsu trong Bí tích Giải tội. Mặt khác, chúng ta không ngừng nhận được các hồng ân khác hằng hằng ngày. Chúng ta hãy tri ân Chúa. Chúng ta hãy cám ơn Hội Thánh. Đồng thời chúng ta hãy mạnh dạn bước theo con đường Chúa Giêsu đã đi, chúng ta chấp nhận vượt qua khó khăn vất vả trong cuộc sống, chúng ta chấp nhận hy sinh hằng ngày để làm sáng danh Chúa, để đi con đường Ngài đi. Chúng ta hãy sống thân mật và gắn bó với Chúa Giêsu. Chúng ta nhận ra con người chúng ta là hồng ân Thiên Chúa ban tặng.
Khi đã biết những sự thật về Chúa và về bản thân, chúng ta sẽ có một cái nhìn khác về con người và thế giới. Ta sẽ nhìn mọi người bằng ánh mắt của Thiên Chúa. Ta sẽ nhìn thế giới như thể nó đã được biến hình trong Chúa Giêsu. Ta sẽ nhìn thấy tình yêu Chúa dành cho mỗi người. Mỗi người đều là kết quả của tình yêu cứu độ của Chúa. Ta cũng sẽ nhìn thấy con đường mình phải đi là con đường thánh giá. Chính những đau khổ sẽ thanh luyện, giúp ta nên tinh tuyền để càng ngày càng gần gũi thân mật với Chúa hơn, để can đảm đi theo con đường đau khổ và phục sinh mà Chúa Kitô đã đi trong niềm tin và lòng mến chứa chan.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa giúp chúng con nhận ra tình yêu thương mà Chúa dành cho chúng con. Đồng thời xin cho chúng con can đảm bước theo con đường mà Chúa đã đi với lòng tín thác thật sự và lòng yêu mến nồng nàn. Amen.
(Suy niệm của Tôma Nguyễn Xuân Hiệp)
Chuyện kể rằng: Có hai anh em ruột kia rất thương nhau, rất hợp tính và cùng có một mơ ước cao đẹp là sẽ sống một cuộc đời hết sức thánh thiện. Lớn lên, người anh cưới vợ, sinh con, chăm chỉ làm ăn và cũng không quên những bổn phận đạo đức hằng ngày. Còn người em thì đi tu, thành một thầy dòng, ngày ngày đi khắp nơi giảng đạo và giúp đỡ những người nghèo. Mười năm sau, người em làm thầy dòng trở về quê thăm lại anh mình. Hai anh em nói chuyện với nhau thật nhiều về cuộc sống và tâm tư của mình. Người anh khám phá ra rằng ngày xưa hai anh em tâm đầu ý hợp như thế, mà sao bây giờ lại khác nhau quá xa: người em thì vẫn thích thánh thiện như xưa và còn thánh thiện hơn xưa nữa, còn mình thì sao quá tầm thường không còn chút mơ ước nào về lý tưởng thánh thiện ngày xưa nữa. Người anh tìm đến một vị ẩn sĩ để hỏi cho biết nguyên do sự khác biệt ấy. Vị ẩn sĩ không trả lời thẳng mà dùng những hình ảnh thiên nhiên để giải thích cho anh ta. *Trước tiên là đám mây trên trời: thường thường bầu trời ngày nào cũng có những đám mây, nhưng không có đám mây ngày nào giống đám mây ngày trước. Cũng là mây, nhưng mây ngày nay khác mây ngày hôm qua. *Kế đến là một cái cây xanh: nó vẫn luôn luôn là cây thông xanh rì, nhưng năm trước nó nhỏ hơn, năm nay nó đã lớn hơn và cao hơn một tí, năm sau nó sẽ lớn và cao hơn tí nữa. Có nhiều cái lá của năm trước mà năm nay không còn, và có nhiều chiếc lá của năm nay sẽ rụng vào năm tới để thay bằng những chiếc lá khác. *Và sau cùng chính là thân xác con người: các tế bào trong thân xác con người luôn luôn thay đổi, có cái chết đi và có cái sinh ra thêm. Khoa học tính rằng cứ sau 7 năm thì thân xác ta hoàn toàn đổi mới không còn một tế bào nào của 7 năm trước đây nữa. Sợi tóc, móng tay, làn da của ta năm nay hoàn toàn không chứa một tế bào nào của sợi tóc, móng tay và làn da của 7 năm trước. Vị ẩn sĩ mới kết luận: tâm hồn con người cũng thế. Muốn lớn lên, muốn tươi trẻ mãi, muốn hăng say sinh động thì mỗi ngày cũng phải biết từ bỏ những thói quen xấu, những cám dỗ đam mê và đồng thời biết nổ lực luyện tập những nhân đức tốt. Không đào thải đi và không thu nhận vào thì nó sẽ chết khô như một thân cây chết đứng, chứ không còn là một thân cây tươi tốt sống động vươn mỗi ngày. Sở dĩ người anh trở nên tầm thường, khô cằn vì suốt 10 năm qua anh ta luôn tự mãn với những cái mình đang có, không muốn bỏ đi cái xấu nào và cũng không nổ lực tập một nhân đức nào. Tức anh ta không chịu “lên núi” trong đời sống hằng ngày để cầu nguyện, để gặp Chúa, để được biến đổi.
Cả ba bài đọc phụng vụ hôm nay mời gọi chúng ta theo Chúa Giêsu “lên núi cầu nguyện”. Bài đọc 1, sách Sáng Thế tường thuật lại biến cố “lên núi” của Tổ phụ Abraham đầy giân truân vất vả, cả sự dâng hiến mạng sống người con một yêu dấu theo thánh ý Thiên Chúa. Chính bởi đức tin mạnh mẽ và quả cảm vượt thắng tất cả mà ông được gặp gỡ Thiên Chúa và được chúc phúc. Bài đọc 2, thánh Phaolô mời gọi giáo đoàn Rôma: hãy tín thác vào Thiên Chúa Tình Yêu, cho dẫu hành trình đức tin như một cuộc “leo núi” đầy khó nguy. Chính Thiên Chúa đã đi bước trước và thể hiện tình yêu qua Người Con Một: “Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta”. Bài Tin Mừng, thánh sử Maccô đã tường thuật lại biến cố Chúa Giêsu biến hình trên núi trước mặt các môn đệ thân tín là: Phêrô, Giacôbê và Gioan. Qua biến cố ấy, Chúa Giêsu muốn để lại cho các tông đồ và mỗi chúng ta bài học hữu ích trong hành trình đức tin của người kitô hữu là phải “lên núi” “Đức Giêsu lên núi cầu nguyện” (Mc 9,28). Đây là bài học căn bản và nền tảng mà Chúa Giêsu muốn dạy mỗi người chúng ta: Phải cầu nguyện, kết hiệp và tìm thánh ý Chúa sau và trước những công việc làm. Để thực hiện điều ấy, “Đức Giêsu lên núi”, tức phải vứt bỏ những vướng bận lo toan thành công thất bại, phải dành thời giờ cho việc leo núi, vượt thắng những cám dỗ đam mê, phải nổ lực phấn đấu không ngừng với thân xác nặng nề để leo lên độ cao khó khăn vất vả trong đời sống tâm linh mới có thể sống tương giao với Thiên Chúa và để lắng nghe thánh ý của Người. Nếu thiếu vắng đời sống tương giao kết hiệp với Thiên Chúa trong thinh lặng, trong thẳm sâu tâm hồn để kín múc sức sống thần linh từ Thiên Chúa, thì xem chừng cách cầu nguyện ấy đã đi vào vết xe đổ của kiểu cầu nguyện đầy hình thức bên ngoài mà Chúa Giêsu đã từng lên án những người Biệt Phái. Đó là kiểu cầu nguyện kể lể, huênh hoang báo cáo kết quả cho cấp trên là Thiên Chúa. Hay kiểu cầu nguyện xem Thiên Chúa chỉ là chỗ dựa tinh thần tạm thời. Khi gặp thất bại, gian truân thì sốt sắng đến với Thiên Chúa như chiếc phao cứu sinh của đời sống tâm lý để giải tỏa những xung đột, những bế tắc, để vượt qua những bĩ cực thương đau. Sự sốt sắng cầu nguyện hy sinh ấy là vì con người, chỉ dừng lại ở nhu cầu ích lợi cá nhân chứ chưa đi vào mối tương giao kết hiệp với Thiên Chúa để tìm thánh ý Người. Nhà thần học Bonneffeur bảo: Đó là kiểu cầu nguyện ngoại giáo; một kiểu cầu cạnh tư lợi. Người không biết Chúa và cả những người vô thần cũng làm như thế. Một kiểu cầu an! Còn Chúa Giêsu mời gọi chúng ta phải vượt thoát những vướng bận lo toan của đời thường để kết hiệp với Chúa, để tìm thánh ý Chúa trong từng biến cố, từng phút giây. Phải kết hiệp với Thiên Chúa cách liên lỉ mọi lúc mọi nơi, mọi công việc. (x. Mc 18,1-8.9-14) Ước mong Lời Chúa hôm nay soi dẫn mỗi người chúng ta biết “lên núi” mỗi ngày, biết từ bỏ những cám dỗ đam mê, những vướng bận đời thường, mà sống kết hiệp với Thiên Chúa qua Thánh lễ, kinh nguyện, xét mình, tĩnh tâm, lãnh bí tích Giao hòa… Chúa Giêsu biến hình trên núi Tabor hôm nay là hình ảnh tiên trưng hành trình vác thập giá lên núi Canvê và phục sinh của Chúa Giêsu. Và đó cũng là hành trình đức tin của mỗi người tín hữu chúng ta. Mỗi người chúng ta phải “lên núi” mỗi ngày mới có thể “biến hình”, mới có thể phục sinh sáng láng như Đức Giêsu Kitô. Amen.
Anh chị em thân mến.
Trong cuộc sống đời thường, ai cũng muốn cho mình được sung sướng, hạnh phúc. Thế mà anh chị em nhìn thấy hằng ngày, biết bao nhiêu người luôn tìm sự cực khổ, họ lam lủ suốt ngày, tay lắm chân bùn, vất vả với bao công việc nặng nhọc. Có người không có thì giờ nghĩ ngơi. Trong số đó có cả chúng ta, là những người đang ngồi trong nhà thờ đây. Như vậy tất cả mọi người không biết tìm hạnh phúc, không biết sống sung sướng sao? Hay mọi người bị một thế lực nào ép buộc phải làm như thế? – Thưa chính vì muốn tìm đời sống hạnh phúc, muốn tìm sự sung sướng mà con người phải tìm sự vất vả, cực nhọc như thế. Mới nhìn tưởng chừng như đó là một nghịch lý. Nhưng thực sự đó là một chân lý ngàn đời mà ai cũng đều biết. Muốn có được hạnh phúc thì phải biết chuẩn bị, chuẩn bị từ những đau khổ, từ những vất vả của cuộc sống. Nếu nằm không đó mà chờ thì hạnh phúc sẽ không bao giờ đến được.
Lạy Thầy chúng con được ở đây thì tốt lắm! Lời nói của Phêrô thốt lên cách vui sướng, nhưng ông không biết mình đã nói gì, vì Thiên Chúa đã cắt ngang tư tưởng của ông. Chúa Giêsu đã dẫn các ông từ dưới lên núi cao. Ngài cho các ông nhìn thấy và hưởng được một chút hạnh phúc của cuộc sống mai sau. Các ông muốn ở lại trong hạnh phúc đó, hạnh phúc mà các ông không cần phải chuẩn bị, không cần phải tìm kiếm, không cần phải vất vả. Các ông vui sướng, niềm vui sướng đó khiến các ông bật thành tiếng. Nhưng các ông không nói được hết lời, sự vui sướng cũng không còn nữa, các ông lặng thinh trong sự tiếc nuối. Chúa Giêsu lại dẫn các ông trở xuống, không cho ở trên cao nữa, trở về cuộc sống đời thường, cuộc sống của sự chuẩn bị cho chu đáo để đến hạnh phúc bất diệt, hạnh phúc chỉ để cho những người biết chuẩn bị.
Lạy Thầy chúng con được ở đây thì tốt lắm. Nhiều lần trong đời sống chúng ta cũng đã thốt lên câu đó. Cũng nhiều lần niềm vui của chúng ta không được trọn vẹn, bị cắt ngang nữa chừng và chúng ta cũng không biết mình đang làm gì. Điều mình muốn , điều mình đang tận hưởng, điều mình đang hài lòng thì bổng nhiên không còn nữa. Hằng ngày lại xuất hiện toàn những nghịch lý của cuộc đời: những điều làm cho mình phải vất vã khó chịu, những điều làm cho thân xác phải khổ nhọc, những điều làm cho mình phải đau đớn. Chúng ta chỉ biết bực mình, than van trách phiền, đôi lúc chúng ta muốn trốn chạy để tìm sự sung sướng hơn. Có khi nào chúng ta tự nghĩ: đây là lúc chúng ta đang đi xuống núi, trở về cuộc sống đời thường, đây là lúc chúng ta đang chuẩn bị cho hạnh phúc của chính mình, niềm hạnh phúc mà không ai có thể lấy đi được. Hay chúng ta vẫn còn đang mơ ước ở trên núi cao, để rồi không biết mình đang nói gì. Vì chúng ta đang muốn chiếm lấy một điều không có thực, muốn chiếm lấy một điều không phải của chính mình, chúng ta muốn chiếm lấy một niềm hạnh phúc, một sự sung sướng mà không cần sự chuẩn bị nào hết. Cũng giống như Phêrô muốn dựng lều ở trên núi, muốn ở luôn lại nơi không phải của mình. Nhưng Thiên Chúa lại đem chúng ta trở về cuộc sống thực tại của con người, một cuộc sống đời thường. Chúng ta có mất mát gì đâu, tại sao lại buồn bực khó chịu, tại sao lại trách móc kêu ca. Nếu chúng ta không biết chuẩn bị, thì làm sao có thể đón nhận hạnh phúc khi Con Người từ cỏi chết sống lại. Chúng ta có chu toàn trách nhiệm mình một cách tốt đẹp, chúng ta có làm tròn bổn phận của mình đối với Chúa chưa? Mọi người nhìn vào đời sống của chúng ta, họ có thể bắt chước được một chút gương tốt nào nơi chúng ta không. Nều chúng ta làm được những điều trên, đó là chúng ta đã vâng lời, nắm tay Chúa Giêsu và đi xuống núi với Ngài để chuẩn bị hưởng hạnh phúc ngay từ những giây phút hiện tại này thật tốt đẹp.
Xin Chúa cho chúng con biết chấp nhận cuộc sống hiện tại với những vui buồn sướng khổ theo Thánh ý Chúa, để biết chuẩn bị cuộc sống mai sau cho xứng đáng.
48. Suy niệm của Đức Ông James M. Reinert
(Đan Quang Tâm dịch)
MÙA CHAY, NHỚ LẠI VAI TRÒ VÀ SỨ MẠNG
CỦA TA TRONG GIÁO HỘI
Câu truyện Ápraham sẵn sàng hiến tế con trai mình là Ixaác đặt toàn bộ việc cử hành Mùa Chay vào trong một ánh sáng tuyệt hảo. Thánh Phaolô ám chỉ về câu truyện này trong Thư gửi tín hữu Rôma. Tuy nhiên, ông nhắc cộng đồng rằng Thiên Chúa không những chỉ sẵn sàng hiến tế Con của Người nhưng Người còn “đã trao nộp vì hết thảy chúng ta”.
Bởi vì hy tế đó, ta có can đảm và sự tự tin để biết rằng nếu ta trung thành, ta không có gì phải sợ. Thiên Chúa đã làm tất cả việc này cho chúng ta, Phaolô viết. Làm sao Người lại lên án chứ?
Tất cả điều này được tái củng cố trong câu truyện Hiển Dung khi Đức Giêsu khích lệ các tông đồ đừng mất đức tin trong ngày sắp đến. Trình thuật Hiển Dung trong Phúc âm Thánh Máccô thực tế chỉ là sự chép lại từng từ trong Phúc âm của Thánh Mátthêu và Thánh Luca. Ngay cả các biến cố dẫn đến sự kiện cũng y hệt.
Điều quan trọng là đặt bài Phúc âm ngày hôm nay vào trong ngữ cảnh. Theo Thánh Máccô, sự kiện xảy ra sáu ngày sau khi Đức Giêsu hỏi các môn đệ: “Người ta nói Thầy là ai?” Câu trả lời mà Thánh Phêrô đưa ra cho Người, quen gọi là lời tuyên tín của Phêrô, “Thầy là Đức Kitô!”, đã đưa Đức Giêsu đến chỗ báo trước lần thứ nhất về cuộc thương khó, cái chết và sự phục sinh của Người và vạch ra các đòi hỏi cho các môn đệ. Một lần nữa, Đức Giêsu sắp nhắc nhở các môn đệ và tất cả chúng ta rằng đây là một bộ phận trong kế hoạch của Thiên Chúa và từ lúc này trở đi, trong khi tiếp tục cuộc hành trình lên Giêrusalem, Người sẽ nói về thập giá rất nhiều lần.
Nay, sáu ngày sau, Đức Giêsu đem Phêrô, Giacôbê và Gioan lên đỉnh núi và Người hiển dung. Chắc chắn đây là một sự nếm trước về cuộc phục sinh. Hầu như chắc chắn là các môn đệ vẫn còn tìm cách để hiểu biết đầy đủ điều Đức Giêsu muốn nói khi bảo họ: “Người sẽ bị giết và sau ba ngày sẽ sống lại”. Nay họ được giải thích rõ về lời nói đó. Họ xem thấy vinh quang của trời; họ thấy mối liên quan giữa “lề luật” trong Môsê và các “ngôn sứ” trong Êlia và sứ điệp mà Đức Giêsu đã và đang rao giảng.
Trong Chủ nhật thứ hai này của Mùa Chay, ta được nhắc đến các vai trò và trách nhiệm của ta trong Giáo hội. Tất cả điều này đến với ta bằng sự đoan chắc rằng đây là một phần trong kế hoạch của Thiên Chúa, ta có các nghĩa vụ với tư cách là môn đệ và ta có sự đoan chắc về Nước Thiên Chúa – mà ta vừa mới nhìn qua – trước hết trong câu truyện Hiển Dung và rồi trong sự phục sinh của Đức Giêsu vào sáng Chúa nhật Phục sinh.
“Toàn thể dân Chúa đều có một vai trò để thực hiện trong khi Giáo Hội hoàn thành sứ mạng của mình. Bằng các cách thức khác nhau và thông qua mỗi thành viên theo các năng khiếu và cách hành động thích hợp với ơn gọi của mỗi người, dân Chúa đáp lại bổn phận công bố và làm chứng cho Tin Mừng (x. 1 Cr 9,16), trong sự nhận thức rằng “hoạt động truyền giáo là một công việc của mọi Kitô hữu” (Thông điệp Redemptoris Missio, 2) (Sách Tóm lược Học thuyết Xã hội Giáo hội Công giáo, 538).
“Đời sống cá nhân và xã hội, cũng như hành động con người trong thế giới, luôn luôn bị tội lỗi đe doạ. Tuy nhiên, “bằng cách chịu khổ vì chúng ta…, Đức Giêsu Kitô không những làm gương cho chúng ta để chúng ta bước theo Người, mà Người còn mở ra cho chúng ta một con đường. Nếu đi theo con đường ấy, cuộc sống và cái chết của chúng ta sẽ được thánh hoá và mặc một ý nghĩa mới” (Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes, 22). Trong đức tin và thông qua các bí tích, người môn đệ Đức Kitô gắn bó mật thiết với mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Giêsu để con người cũ của mình, cùng với những khuynh hướng xấu, chịu đóng đinh với Đức Kitô. Rồi khi trở thành thụ tạo mới, họ được ân sủng tăng sức để có thể “bước đi trong đời sống mới” (Rm 6,4). Điều này “không chỉ đúng với các Kitô hữu, mà còn đúng đối với mọi người thiện chí, vì ân sủng vẫn đang hoạt động một cách vô hình trong tâm hồn những người ấy. Vì Đức Kitô đã chết cho mọi người và vì ai ai cũng được mời gọi hưởng chung một định mệnh duy nhất, là định mệnh thần linh, ta phải tin rằng Đức Chúa Thánh Thần ban cho mọi người khả năng trở thành những người thông phần vào Mầu nhiệm Vượt Qua, bằng phương cách chỉ có Thiên Chúa biết” (Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes, 22) (sđd, 41).
Khi nói biến hình, người ta nghĩ ngay đến việc thay đổi hình dạng từ trạng thái này sang trạng thái khác. Bài Tin Mừng hôm nay cũng thuật lại việc biến hình của Chúa Giêsu, nhưng Ngài không biến thành một người khác. Chúa Giêsu biến hình để củng cố niềm tin cho các tông đồ và đồng thời chuẩn bị cho các ông có thể đón nhận việc Chúa Giêsu chịu đau khổ và chịu chết.
Có lẽ ai trong chúng ta cũng biết nhân vật Tề Thiên Đại Thánh trong phim “Tây Du Ký” với 72 phép thần thông. Ngộ Không có thể thổi phù một cái là lập tức trở thành người khác. Điều này diễn tả quan niệm thông thường của con người: biến hình là trở thành một người khác hay ít ra cũng là mượn hình dạng của ai đó.
Nếu hiểu như thế thì chúng ta luôn biến hình đổi dạng trong từng giây từng phút mà chúng ta không biết. Trước tiên, chúng ta có khuynh hướng muốn biến hình thành người khác. Chẳng hạn, tôi muốn giống ngôi sao ca nhạc, điện ảnh HôngKông, Hàn Quốc, nên tôi ăn mặc y chang họ từ tóc tai, quần áo cho đến đồ trang sức của ngôi sao ấy sử dụng. Chính lúc này tôi không còn là tôi nữa mà là cái bóng của thần tượng đó. Chúa Giêsu mời gọi ta biến hình giống như Ngài, tức là làm cho hình ảnh của Thiên Chúa nơi tôi được sáng ngời, trở nên đẹp hơn, để người khác nhìn vào cuộc sống tôi sẽ thấy được Thiên Chúa.
Kế đến, biến hình là chúng ta làm cho mình xấu đi. Chẳng hạn, tôi đua đòi ăn chơi, xì ke ma túy, chạy theo thú vui xác thịt. Ai cũng có những ước mơ vươn tới một cái đẹp, cái tốt. Tại sao tôi lại biến mình xấu đi? Chúa Giêsu mong tôi biến đổi nên giống như Thiên Chúa: thánh thiện, đạo đức.
Vậy để biến đổi theo lời mời gọi của Chúa Giêsu, thiết nghĩ chỉ có CẦU NGUYỆN, vì chính lúc ấy chúng ta gặp được Chúa và Ngài sẽ thay đổi chúng ta. Vì thế, chúng ta hãy sốt sắng cầu nguyện ở mọi nơi, mọi lúc, cố gắng biến đổi đời sống hằng ngày: ai rượu chè, cờ bạc, gain lận hãy dứt khoát với những tính xấu của mình, chăm chỉ làm ăn bằng sức lao động của hai bàn tay mình. Ai nguội lạnh, khô đạo hãy trở về với Chúa. Những ai giận hờn, xích mích nhau hãy làm hòa với nhau. Hãy biến ánh mắt ganh tỵ thành cảm thông, lời nói chua cay thành dịu dàng, lời nói phê bình thành lời xây dựng, con tim hận thù thành yêu thương.
Ước gì từng giây từng phút trong cuộc đời chúng ta là từng giây phút biến đổi theo hướng tốt hơn, trở về với con người thật của mình là hình ảnh Thiên Chúa, để hình ảnh ấy ngày càng rõ nét hơn. Thánh lễ hôm nay chúng ta cầu nguyện cho nhau, xin Chúa cho mỗi người đều được biến đổi thật sự trong Mùa Chay này, để khi tiếp xúc với ta, mọi người phải thốt lên rằng: “Thật là hạnh phúc cho tôi, vì tôi đã gặp được Chúa Kitô nơi anh, nơi chị”.
CÂU HỎI GỢI Ý:
Một số bạn trẻ bỏ rất nhiều tiền để sửa sang sắc đẹp và chạy theo mốt. Bạn nghĩ gì về tương quan giữa vẻ đẹp bên ngoài và vẻ đẹp trong tâm hồn con người?
Cầu nguyện có thể làm con người “biến hình”. Bạn có tin điều đó không? Bạn có quen ai đã biến đổi sâu xa nhờ cầu nguyện không?
50. Hãy lắng nghe – Rolland Dionne.
Tha hồ lựa chọn.
“Hãy hoán cải, hãy tin vào Tin Mừng”. Lời mời gọi này, Chúa Giêsu còn nói với chúng ta hôm nay như Ngài đã nói với thính giả xứ Galilê vào lúc khai mạc công trình rao giảng. Phải chăng đó chỉ là tiếng kêu trong sa mạc? Chúng ta còn tin vào Tin Mừng của Thiên Chúa, như Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta không?
Sự lựa chọn mà đức tin đòi hỏi không phải là điều dễ dàng. Sự lựa chọn này khó khăn bởi vì nó sẽ mang đến nhiều điều hệ lụy và đưa chúng ta vào những tình huống không thể thoái lui được. Có vô số những vị “giảng đạo” xuất hiện trước cửa nhà chúng ta và lui tới trong các khu xóm của chúng ta. Các giáo phái phát triển mỗi ngày một nhiều. Những kẻ tuyên truyền nói hay đến nỗi họ có thể hoán cải cả quỉ dữ nữa và nhất là khéo léo gieo nghi ngờ vào lòng những người xác tín nhất. Ta tự hỏi: Phải tin gì đây? Phải nghĩ gì đây? Ai là ngôn sứ thật? Ai có thể nói cho chúng ta biết điều này?
Tầm quan trọng của việc lắng nghe.
Một trong những nỗi bất ổn lớn nhất của thế giới chúng ta, đó là thiếu sự lắng nghe. Lắng nghe, hiện nay là cách điều trị tốt nhất đối với nhiều người. Trong mùa chay này, chúng ta được mời gọi lắng nghe: “Đây là Con chí ái của Ta, hãy lắng nghe lời Ngài”. Theo Thánh Kinh, lắng nghe không phải chỉ là nghe bằng tai nhưng là để cho mình được uốn nắn, giáo dục, hoán cải. Thiên Chúa nói về những người chống lại luật của Ngài: “Chúng không nghe lời Ta”.
Cũng như những kẻ được chứng kiến cuộc biến hình, chúng ta được mời gọi lắng nghe, được mời gọi đi vào sự biến hình của Chúa Kitô. Lắng nghe Chúa Kitô phải dẫn đưa chúng ta đến chỗ thay đổi sâu xa. Chúng ta được mời gọi chấp nhận cả một chương trình sống. Những đòi hỏi triệt để của phép rửa phải được thực hiện không thể còn chỗ cho sự tầm thường hoặc nguội lạnh nữa.
Kẻ lòng Ta ưu ái.
Một khẳng định không chút do dự, không chút giảm thiểu: “Đây là Con Một Ta ưu ái. Hãy lắng nghe lời Ngài”. Trong tất cả các ngôn sứ đây là vị ngôn sứ thật. Có lẽ đây không phải là Đấng mà các ngươi đã mơ ước, nhưng đó là ngôn sứ của Ta. Đó là ngôn sứ của Ta bởi vì Ngài đến để giải thoát và cứu độ. Chính Ngài mặc khải tư tưởng của Ta và có thể thông truyền sức sống của Ta. Chỉ mình Ngài đáng tin cậy, bởi vì Ngài là người duy nhất đã thể hiện dự tính của Ta về thế giới. Các ngươi hãy chọn Ngài.
Việc lựa chọn bao giờ cũng kéo theo những đòi hỏi. Trong mùa chay này chúng ta được mời gọi chiến đấu với sự dữ nơi chúng ta và xung quanh chúng ta. Con đường mà chúng ta phải theo là con đường giúp chúng ta tái sinh. Làm điều lành, thực thi bác ái huynh đệ và đặc biệt hơn nữa thương yêu những kẻ bé mọn, đó phải là những ưu tiên và phải dẫn đưa chúng ta vào đường hoán cải để làm cho chúng ta trở nên những kẻ “được ưu ái”.
Tin tưởng.
Chương trình dẫn chúng ta đi theo Chúa Giêsu là chương trình đòi hỏi nhất. Vài tuần lễ thật quá ngắn đối với chương trình của cả một đời người. Thiên Chúa của chúng ta có vẻ như là một Thiên Chúa khắt khe và nhỏ nhen. Thực ra nếu Ngài đòi hỏi, là bởi vì Ngài thương yêu chúng ta. Ngài đòi hỏi nhiều, nhưng Ngài cũng hứa cho chúng ta những điều tuyệt vời nữa.
Về phía Ngài, Ngài ban cho chúng ta mọi sự cả đến sự sống của Ngài nữa. Không những Ngài sẽ ban sự sống ấy cho chúng ta sau khi chúng ta chết đâu, nhưng ngay ở trần thế này. Việc tuyên xưng đức tin vào đêm vọng Phục Sinh giúp chúng ta tìm lại được sự sống ấy.
Chúng ta có sẵn sàng chết một cách nào đó để sống lại tốt hơn không? Chúng ta có sẵn sàng “lắng nghe” không? Có sẵn sàng để cho lời Chúa uốn nắn chúng ta và sống theo lời Ngài dù lời ấy có vẻ vô lý không? Hãy để Thiên Chúa thực hiện dự án của Ngài nơi mỗi người chúng ta và chúng ta sẽ có quyền được gọi là “Con yêu dấu”.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Đức Giêsu mê những ngọn núi vắng vẻ, đó là nơi Ngài gặp gỡ Cha, chìm đắm trong cầu nguyện.
Có nhiều ngọn núi trong cuộc đời Đức Giêsu: núi của Bài Giảng về các mối phúc, núi Tabo nơi Ngài biến hình, núi Sọ và núi Ô-liu nơi Chúa thăng thiên.
Những ngọn núi trở thành cột mốc đánh dấu.
Những ngọn núi đan vào nhau làm nên cuộc hành trình.
Ba môn đệ thân tính được Ngài đưa lên núi Tabo, để củng cố niềm tin của họ, trước khi họ thấy Ngài như người bị Cha bỏ rơi và bị mọi người khai trừ ruồng rẫy trên núi Sọ.
Nhưng vinh quang của núi Tabo chỉ là một loé sáng bất ngờ và tạm thời, báo trước vinh quang viên mãn khi Ngài về Thiên Quốc.
Biến hình là một hành động của Thiên Chúa Cha.
Sau khi gặp Cha, Đức Giêsu được Cha biến hình. Sự biến đổi này ảnh hưởng đến thân xác và khuôn mặt, và đến cả y phục của Ngài.
Vinh quang của Con Thiên Chúa làm người vốn bị che khuất, nay được Cha hé mở cho các môn đệ.
Ông Môsê ngày xưa, sau khi lên núi gặp Đức Chúa cũng đã phải che lại khuôn mặt chói lọi của mình.
Chẳng ai gặp Thiên Chúa thực sự mà lại không biến hình.
Đời sống kết hiệp thực sự với Thiên Chúa làm cho người Kitô hữu tỏa sáng rực rỡ.
Biến hình không phải là trở thành cái gì khác mình, như Tôn Ngộ Không với các trò biến hoá.
Biến hình là trở lại với cái tôi sâu thẳm của mình: tôi là con yêu dấu của Thiên Chúa.
Từ khi chịu phép Thánh Tẩy, chúng ta đã bước vào một cuộc biến hình, từ từ và liên tục.
Nếu chúng ta chấp nhận đi vào đường hẹp của Thầy Giêsu chúng ta sẽ được biến hình đổi dạng và phản ánh ngời sáng hơn vinh quang Chúa (x. 2Cr 3,18). Chúng ta phải trở thành điều chúng ta đang là.
Đời sống Kitô hữu là một cuộc lên núi và xuống núi với Chúa Kitô mỗi ngày. Cần cảm nếm được sự dịu ngọt và hạnh phúc khi được chiêm ngắm Chúa Giêsu trên núi cao. Nhưng cũng phải xuống núi với Chúa để đi đến nơi hiến mình, nơi phục vụ, đi cùng và đi sau Chúa Giêsu đến với Vườn Dầu và Núi Sọ.
Ước gì chúng ta dám đón nhận những gai góc đời thường và nhìn mọi khổ đau bằng cái nhìn mới mẻ.
Người Kitô hữu lên núi gặp Chúa để rồi được sai xuống núi hành đạo. Nhưng xuống núi rồi, lại có khi thấy cần lên núi.
Gợi Ý Chia Sẻ
Một số bạn trẻ bỏ rất nhiều tiền để sửa sang sắc đẹp và chạy theo mốt. Bạn nghĩ gì về tương quan giữa vẻ đẹp bên ngoài và vẻ đẹp bên trong tâm hồn con người?
Cầu nguyện có thể làm con người “biến hình”. Bạn có tin điều đó không? Bạn có quen ai đã biến đổi sâu xa nhờ cầu nguyện không?
Cầu Nguyện
Khi bị bao vây bởi muôn tiếng ồn ào, xin cho con tìm được những phút giây thinh lặng.
Khi bị rã rời vì trăm công ngàn việc, xin cho con quý chuộng những lúc được an nghỉ trước nhan Chúa.
Khi bị xao động bởi những bận tâm và âu lo, xin cho con biết thanh thản ngồi dưới chân Chúa để nghe lời Người.
Khi bị kéo ghì bởi đam mê dục vọng, xin cho con thoát được lên cao nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự cầu nguyện.
Lạy Chúa,
ước gì tinh thần cầu nguyện thấm nhuần vào cả đời con. Nhờ cầu nguyện, xin cho con gặp được con người thật của con và khuôn mặt thật của Chúa.
52. Điều quan trọng là biết nghe Chúa Giêsu
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Để có thể minh định vị trí cách xác đáng trong trí chúng ta đoạn Phúc Âm về sự Biến hình này của Chúa, chúng ta hãy nhớ lại, những tâm tư nào có thể có nơi các môn đệ là các Tông đồ tương lai khi Chúa Giêsu loan báo cho họ lần đầu cuộc khổ nạn của Người. Là người dân Do Thái tốt như họ, các môn đệ Chúa cũng chia sẻ niềm hy vọng chung của dân Israel. Họ hy vọng một Đấng Cứu Thế toàn thắng và vinh quang. Nhưng đến một lúc mà Chúa thách đố họ hãy có một hành động đức tin. Nhân danh họ, Phêrô nhìn nhận Người là Con Thiên Chúa. Nhưng sự tuyên xưng ấy chưa bao trùm được hết tất cả số mệnh của Chúa Giêsu. Phêrô tuyên xưng đức tin vào CON NGƯỜI của Chúa Giêsu, song Phêrô không tưởng tượng nổi là Thiên Chúa lại có thể trải qua thảm kịch cuộc Khổ nạn. Thành thử cần phải gợi lên dần dần trong trí óc các môn đệ sự mạc khải điều mà dưới con mắt họ, sẽ là một gương xấu khủng khiếp, một sự thử thách rất lớn lao cho đức tin của họ. Cũng cần phải củng cố đức tin họ trước. Giai thoại Biến hình tượng trưng một thời kỳ quan trọng trong việc giáo dục các môn đệ. Đây là những con người đang chờ đợi một Đấng Cứu Thế vinh quang. Vậy mà Chúa Giêsu lại mạc khải cho họ biết rằng Chúa Cứu Thế là người Tôi tớ đau khổ và bị hạ nhục. Làm cách nào giúp họ vượt lên được khỏi sự trái ý họ cảm thấy? Chúa Giêu muốn giúp họ điều này bằng cách cho họ thấy là Con Thiên Chúa, mặc dầu chịu đau khổ, sẽ được vinh quang. Và đó là việc Chúa Biến hình hôm nay.
Chúng ta ghi nhận rằng cho đến cùng các môn đệ vẫn còn vấp phải gương xấu của cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa Giêsu. Cần phải có sự Sống lại và ngày lễ Ngũ tuần họ mới thực hiện được những gì mà Thiên Chúa muốn nơi Con Chí Ái của Người.
Chúng ta hãy lưu ý điều này:
1) Đây là Con Chí Ái của Ta.
Điều quan trọng là vào một lúc trang nghiêm Chúa Cha lên tiếng quả quyết rằng Chúa Giêsu là con người mà các môn đệ bắt đầu đi theo quả thật là Con của Ngài. Chúng ta đừng tưởng tượng rằng: vào giây phút đó, các môn đệ quan niệm tiếng ‘Con’ như chúng ta quan niệm ngày nay, vì ngày nay chúng ta đã được biết mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Họ nhận ra là qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa tỏ mình ra và hành động. Họ linh cảm thấy Chúa Giêsu có một nguồn gốc và số mệnh vượt xa các giới hạn loài người. Tiếng từ Trời phán: này là Con Ta yêu dấu, điều đó cũng có nghĩa là Con duy nhất. Họ nhận ra cách sâu sắc giữa Thiên Chúa và Chúa Giêsu có mối tương quan phụ tử thật là độc đáo. Họ ý thức rằng Chúa Giêsu tuỳ thuộc vào Thiên Chúa, đặc mệnh như một người Con. Tiếng lại phán thêm: Hãy nghe lời Người. Trong trí óc các môn đệ là những người đang mong đợi Đấng Cứu thế, mấy tiếng đó có nghĩa là: Hãy nghe lời Người như lời đáp lại sự chờ mong của các ngươi vào Đấng Cứu Thế, ở cả những ngày mà Người trải qua thảm kịch Khổ nạn.
2) Hãy nghe Lời Người.
Lời huấn dụ đó (hay mệnh lệnh đó) từ trời cao cũng ngỏ cùng chúng ta ngày hôm nay. Nhưng hiện giờ mỗi người trong chúng ta đều đã biết những phản kháng của bản tính con người chống lại lời mời gọi hãy theo Chúa Giêsu chịu đóng đinh. Chúng ta đều biết rằng, qua Chúa Giêsu, số phận chúng ta là một số phận quang vinh, nhưng Thiên Chúa buộc phải giáo dục chúng ta như những người môn đệ và đưa chúng ta dần dần vượt qua chướng ngại vật của sự đau khổ và sự chết. Thỉnh thoảng Người trợ lực chúng ta trong công cuộc này, bằng cách ban cho chúng ta những giây phút hoan lạc nội tâm, nó có tác dụng biến đổi đức tin của chúng ta. Nói chung thì những giây phút ấy khá hoạ hiếm. Điều quan trọng là chúng ta biết ‘nghe’ Chúa Giêsu. Chúng ta có thực hiện được điều mà Người trả lời cho tất cả những thắc mắc, chờ mong, ước muốn sâu xa nhất của chúng ta không?
Sự Biến hình của Chúa được các Phúc âm trình bày như một giai đoạn trong tiến trình của Chúa tới Giêrusalem, nơi mà Chúa sẽ phải chết và sẽ Phục Sinh. Trong nhịp độ cuộc Khổ nạn và Vinh quang đánh dấu cho những bước đi của Chúa tiến tới đích, sự Biến hình là một âm điệu khải hoàn. Nhưng Chúa Giêsu không dừng lại ở đây. Người tiếp tục đến cùng con đường của Người. Trên đường đời mà dần dà mỗi ngày chúng ta một đi sâu vào, chúng ta cũng ý thức được cho chính chúng ta, nhịp điệu khổ nạn và vinh quang, thử thách và hy vọng. Gương mẫu nào, sức mạnh nào sẽ giúp chúng ta đi đến cùng? Chúng ta hãy “NGHE” Chúa Giêsu; Đấng đi trước chúng ta, dìu dắt chúng ta đến sự biến hình bất diệt của chúng ta.
53. Hai khuôn mặt một tình yêu.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Tại nước Mêhicô, người ta thường tổ chức những cuộc đấu võ rất ác liệt. Đó là một loại võ tự do, nên các võ sĩ có thể phục sức tuỳ sở thích và có thể mang cả mặt nạ trong khi đấu võ.
Một linh mục tên là Gaêtanô đang làm công tác xã hội để giúp nuôi các trẻ em nghèo và mồ côi. Để có thêm tiền cho mục đích này, cha Gaêtanô liền nghĩ đến chuyện ghi danh tham dự các trận đấu.
Với một thân mình to lớn, thông thạo võ thuật và đầy lòng dũng cảm, mỗi khi lên võ đài, cha Gaêtanô mang một chiếc mặt nạ màu vàng để che dấu tung tích của mình. Ngài thường đấu với những đối thủ hung hãn nhất. Tất cả tiền thưởng hoặc thù lao nhận được, cha đều dành cho quĩ cứu trợ các trẻ em nghèo và mồi côi. Từ đó, chiếc mặt nạ vàng trở thành biểu tượng cho tấm lòng vàng của cha Gaêtanô.
Thưa anh chị em,
Hai khuôn mặt, một tình yêu: Trên võ đài cha Gaêtanô là một võ sĩ mang mặt nạ vàng, ở giữa đàn con cô nhi của cha, cha là một linh mục sống hoàn toàn cho người khác, phản ảnh tình yêu cuả Thiên Chúa, một tình yêu cho đi mà không tính toán, không so đo, không sợ thương tích.
Hai khuôn mặt, một tình yêu: Trên núi Tabo, khuôn mặt Chúa Giêsu bừng sáng ánh hào quang của một Thiên Chúa. Ơ giữa loài người, Con Thiên Chúa vẫn mang khuôn mặt bình thường như chúng ta. Ba môn đệ đã quá quen với khuôn mặt Thầy Giêsu, khuôn mặt dãi dầu mưa nắng vì sứ vụ, khuôn mặt chan chứa mọi thứ tình cảm con người. Rồi đây, ba môn đệ này còn phải làm quen với khuôn mặt khổ đau trong Vườn Cây Dầu và khuôn mặt đẫm máu trên Thập giá của Thầy Giêsu. Biến hình chỉ là một hào quang phục sinh sắp đến. Thân xác Chúa Giêsu sẽ được vào vinh quang viên mãn khi thân xác âý chịu lăng nhục vào đóng đinh vì yêu Cha và yêu con người đến tột cùng.
Ở bài đọc 1 hôm nay, sách Sáng thế đã cho ta thấy: Thiên Chúa đã dung tha cho Abraham khỏi sát tế Isaac, người con duy nhất của lời Hứa. Nhưng Thiên Chúa đã không dung tha chính Con Một yêu quí của Ngài. Như lời Thánh Phaolô: “Thiên Chúa đã không dung tha chính Con Một mình, nhưng lại phó nộp vì tất cả chúng ta, há Ngài lại chẳng ban cho chúng ta mọi sự cùng với Con của Ngài sao? (Rm 8,32). Nếu Thiên Chuá đã ban cho chúng ta Người Con duy nhất của Ngài thì Ngài còn tiếc gì với chúng ta nữa? Abraham là hình ảnh của Cha trên trời, không ngại dẫn con mình đến thật giá trên núi Sọ. Hơn nữa, hình ảnh của Isaac vác củi đi theo cha và bằng lòng để cho sát tế, cũng hướng chúng ta về cuộc Thương Khó: Chúa Giêsu vác lấy Thập giá rồi tự biến mình trên Thập giá theo ý Chúa Cha.
Trong cuộc biến hình huy hoàng rực rỡ của Chúa Giêsu trên núi Tabo, chính Chúa Cha đã xác quyết một lần nữa: “Chúa Giêsu chính là Người Con yêu quý của Thiên Chúa”. Người con trong thực tế rực rỡ vinh quang của Thiên Chúa, nhưng đã ẩn che vinh quang đó để đi vào con đường vâng phục cho đến chết và chết trên Thập giá, để dẫn đưa nhân loại đi qua cùng một con đường Thập giá đến vinh quang phục sinh. Cảnh tượng huy hoàng của núi Tabo hôm nay sẽ củng cố lòng tin của chúng ta khi đứng trước cảnh tượng tang thương trên Núi Golgôtha, đồng thời nhắn nhủ chúng ta phải biết tìm ra sức sống phong phú bên kia cái chết với Chúa để sống lại vinh quang với Ngài, đó là định luật căn bản của Kitô giáo. Abraham, “người Cha của mọi kẻ có lòng tin” đã lấy chính cuộc đời mình làm sáng tỏ định luật căn bản đó. Và cuộc biến hình trên núi Tabo cũng nhằm chứng minh định luật tất yếu chết để sống cuộc đời Chúa Kitô cũng như của chúng ta trên đường về cõi sống.
Chúng ta cũng được biến hình, được bừng sáng, nếu chúng ta dám yêu thương, dám từ bỏ cái tôi ích kỷ, để cái tôi đích thực được lộ ra, trong sáng. Thế giới hôm nay không thấy Chúa biến hình sáng láng, nhưng họ ó thể cảm nghiệm được phần nào, khi thấy các Kitô hữu có khuôn mặt vui tươi, chan chứa niềm tin, tình thương và hy vọng, như khuôn mặt mang mặt nạ vàng của Cha Gaêtanô trên võ đài, tượng trưng tấm lòng vàng của Cha đối với các em nghèo và mồ côi.
Thưa anh chị em,
Chúa Giêsu, “Người Con Một yêu quý của Cha, người đẹp lòng Cha”, đã chấp nhận tạm gác bỏ, dấu kín vinh quang Ngài vốn có từ thuở nơi Chúa Cha, để hoá thân làm người hầu cứu rỗi chúng ta, Ngài còn hy sinh đến cùng độ, hy sinh chính mạng sống mình theo ý Chúa Cha nữa. Vì thế, Ngài đã được Chúa Cha tôn vinh trên hết mọi loài, sau khi cho Ngài được Phục Sinh từ cõi chết.
Mầu nhiệm này đã được thực hiện trọn vẹn một lần trong lịch sử, nhưng hằng ngày, đặc biệt trong thánh lễ, mầu nhiệm ấy còn được tưởng niệm, tái hiện trên bàn thờ. Tham dự Thánh Thể, dấu hiệu và bằng chứng tình yêu của Chúa Kitô, chúng ta bày tỏ lòng yêu mến Chúa, biết ơn Chúa và cố gằng đổi mới đời sống hằng ngày của chúng ta,góp phần làm cho thế giới này biến hình đổi dạng trở nên Trời Mới Đất Mới trong ngày Chúa Giêsu Kitô trở lại trong vinh quang.
CHÚA TỎ VINH QUANG NGÀI.
“Đừng kể lại cho ai nghe… cho tới khi Con Người từ cõi chết sống lại”.
Đức giám mục Curtis một lần tới thăm Đức hồng y Newman. Hai người đàm đạo lâu giờ về đủ thứ chuyện. Đức hồng y Newman cho Đức giám mục Curtis biết: Tòa Thánh đã cho ngài đặc ân được đặt Mình Thánh trong phòng. Không ngờ tin này làm Đức giám mục Curtis xúc động mạnh, đến nỗi khi Đức hồng y mời Đức giám mục Curtis ở lại ban đêm, ông trả lời: “Tôi không thể nào ngủ được khi biết Chúa của tôi đang ở với tôi chung một mái nhà”.
Đã hẳn bao giờ Thiên Chúa cũng ở bên ta vì Người là Thiên Chúa toàn năng hiện diện khắp nơi, nhưng một khi chúng ta ý thức điều đó, một khi có bằng chứng nhắc nhớ tới sự kiện đó, thì thường làm ta xúc động mãnh liệt. Ta biết điều này khi đọc thấy thái độ của các Tông đồ được chứng kiến Chúa tỏ vinh quang. Chúa là niềm vui tột đỉnh, là an ủi tràn đầy cho các tâm hồn. Và có thể định nghĩa thiên đàng là sự ý thức rõ ràng mình được sống bên sự hiện diện của Thiên Chúa. Nhưng muốn thưởng thức niềm hân hoan đó, niềm hân hoan làm các Tông đồ hầu như ngất ngây đó, chúng ta phải có một số điều kiện.
Trước hết ta cần bắt chước các Tông đồ lên một đồi cao. Khi lên cao chúng ta dễ có ý thức siêu thoát hơn. Vì vậy hầu hết các cuộc xuất hiện quan trọng của Thiên Chúa trong Kinh Thánh đều xảy ra trên núi cao. Không nhất thiết phải là một đỉnh núi, nhưng chắc chắn phải là sự vươn lên của tâm hồn, tránh được sự ám ảnh, vương vấn của cuộc đời trần tục. Cần có một đỉnh cao nội tâm, gắng đạt tới những chân trời xa rộng. Muốn vậy phải rời bỏ thung lũng thấp, cố gắng đi xa, chịu đựng gian khổ, ngột ngạt của độ cao… và tránh đám đông ồn ào gây nhiễu.
Chúa cho ba Tông đồ chứng kiến Chúa biến hình: Phêrô, Giacôbê và Gioan. Đây không phải tình cờ. Khi làm phép lạ cho bé gái 12 tuổi đã chết được sống lại, Chúa cũng đưa ba Tông đồ này theo để các ông được chứng kiến (Mc 5,37). Cũng chính ba ông là những người gần gũi Chúa khi Chúa cầu nguyện và hấp hối trong vườn Cây Dầu (Mc 14,33). Chúa cho ba ông chứng kiến quyền uy Thiên Chúa của Người và cũng được thấy nỗi khổ đau của nhân tính Chúa, để các ông thành chứng nhân cho niềm tin của mình và của anh em.
Một điều kiện nữa để thành môn đệ gần gũi của Chúa đã được chính Thiên Chúa Ngôi Cha phán bảo: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy nghe lời Ngài”. Đây là lần thứ hai có tiếng từ trời phán xuống, nhưng lần này rõ ràng tiếng đó nói với chúng ta. Là môn đệ Chúa, thì phải nghe lời Chúa. Nghe lời Chúa trong Kinh Thánh, trong tìm tòi suy luận, nhưng nhất là trong Kinh Nguyện một mình riêng rẽ đối diện với Chúa nơi thanh vắng. Môn đệ của Chúa cần thiết phải được Chúa đích thân dạy dỗ, mặc khải cho.
Sự biến hình, bộc lộ đôi chút vinh quang Thiên Chúa, làm vui thỏa tâm hồn các môn đệ. Khi xuống núi, Chúa dặn các ông đừng kể lại với ai ‘cho tới khi Con Người từ cõi chết sống lại’. Vì Chúa biết rằng chỉ sau cái chết và Phục Sinh của Chúa, các ông mới hiểu rõ về Chúa. Khuôn mặt đích thực của Chúa Cứu Thế chỉ biểu lộ đầy đủ khi đã chết trên thập tự chứng tỏ tình yêu đối với nhân loại và sống lại khải hoàn do quyền lực Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin mở mắt lòng tin chúng con, cho chúng con được nhìn thấy Ngài luôn hiện diện trong cuộc sống chúng con.
Qua đoạn Tin mừng vừa nghe chúng ta nhận thấy: những gì xảy ra trên đỉnh Taborê hoàn toàn trái ngược hẳn với những gì đã xảy ra trong sa mạc khi Ngài bị cám dỗ.
Cuộc dạo chơi của bốn Thầy trò hôm nay thật là thú vị, đến nỗi Phêrô đã phài thốt lên: Thưa Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm. Chúng con xin dựng ba lều, một cho Thầy, một cho Maisen và một cho Êlia. Từ đó chúng ta khám phá ra rằng: điều mà Satan nhọc hơi cám dỗ Ngài mà không được, thì hôm nay chính Ngài lại tỏ lộ cho ba môn đệ, đó là vinh quang của Con Thiên Chúa. Vinh quang ấy còn được làm chứng bởi hai nhân vật lịch sử của Cựu ước: Maisen và Êlia. Tại sao Ngài từ chối Satan nhưng lại bật mí cho các môn đệ. Tôi xin thưa, chìa khóa của vấn đề được tìm thấy trong chỉ thị của Ngài ngăn cấm các môn đệ không được tiết lộ điều mắt thấy tai nghe cho đến khi Con Người từ cõi chết sống lại. Satan cám dỗ Ngài tỏ mình là Con Thiên Chúa bằng cách phô trương thanh thế, biểu dương quyền lực. Và Ngài đã từ chối, để rồi Ngài sẽ tỏ lộ ra trong mầu nhiệm khổ nạn và Phục sinh. Bởi vì chính thập giá mới là nơi Ngài tỏ cho nhân loại biết Ngài là Con Thiên Chúa.
Biến đá trở thành bánh hay nhảy từ trên cao xuống một cách an toàn thì rồi con người cũng có thể làm được. Nhưng sống lại từ cõi chết thì chỉ mình Thiên Chúa mới thực hiện được mà thôi. Bởi vì cho đến ngày hôm nay chưa một ai đã thoát khỏi cái chết, thế nhưng chỉ có cái chết của Con Thiên Chúa mới thắng nổi sự chết và đó mới là cuộc biểu dương đích thật quyền năng tuyệt đối của Con Thiên Chúa.
Đức Kitô không những đã chẳng màng đến của cải, danh vọng thậm chí cả đến quyền năng có sẵn Ngài cũng chẳng sử dụng và hơn thế nữa Ngài lại còn chấp nhận cho thiên hạ cười chê: là bạn với quân thu thuế và phường tội lỗi, là kẻ phạm thượng, điên khùng. Do đó mà Ngài đã bị kết án và chết như một phạm nhân giữa những tên trộm cướp. Chỉ nhờ hạ mình thẳm sâu như thế và quên mình tới mức thánh Phaolô đã coi như là một sự tự hủy, mà Ngài đã đạt được danh hiệu trổi vượt trên muôn vàn danh hiệu, đó là Đức Kitô, Đấng Thánh của Thiên Chúa. Chính cái vinh quang mà Ngài sẽ chỉ đạt được trong mầu nhiệm thập giá thì hôm nay Ngài tỏ ra cho ba môn đệ được thấy với mục đích là để các ông đừng có ảo tưởng về một vinh quang trần thế, nghĩa là ước mơ rằng Ngài sẽ làm vua cai trị Israel và các ông sẽ được chia nhau mỗi người một địa vị. Đồng thời Ngài cũng chuẩn bị cho các ông khỏi chán nản và tuyệt vọng khi thấy Ngài bị bắt bị kết án và bị giết chết trên thập giá. Vì thế, biến cố Taborê gắn liền với biến cố Canvê. Sự biến hình gắn liền với thập giá. Cùng với cuộc khổ nạn và Phục sinh, thì sự biến hình hôm nay sẽ là một điềm báo trước cho vinh quang của Ngài, một khi Ngài từ cõi chết sống lại.
Với chúng ta cũng vậy, nếu hôm nay chúng ta dám chấp nhận khổ đau, dám vác thập giá mà bước theo Ngài thì trong ngày sau hết chúng ta cũng sẽ được tham dự vào vinh quang Phục sinh với Ngài.
Bộ phim Một Người Chết Đang Bước Đi kể lại câu chuyện của một nữ tu (Sơ Helen Prejean), trong nhiều tháng, bà hộ tống một người đàn ông (Robert) đến chỗ bị hành hình ở Lousiana. Chúng ta hãy ghi chú cách Robert cố gắng thu phục được lòng tin của một trong những người giám sát, đó là một hình ảnh tử tế và nhân hậu của người cha, sơ Helen đã phản ánh lại hình ảnh này như sau:
Không bao giờ Robert thực sự có một người cha. (Trong số 53 năm tuổi đời của anh, cha anh đã sống 27 năm tại một nhà tù). Điều này làm cho tôi nghĩ đến cha tôi. Thật là một trong những cảm giác quí giá nhất trong cuộc đời, khi biết rằng cha bạn tự hào về bạn. Tôi là một môn sinh của cha tôi, là người lưu giữ cho ông cuốn nhật ký cuộc hành trình nghỉ mát của gia đình. Ông luôn luôn có một giọng nói đặc biệt, mỗi khi giới thiệu tôi với các bạn bè và đồng nghiệp của ông: “Đây là Helen, con gái nhỏ của tôi”. Trước sự hiện diện của những người xa lạ, tôi cứ im lặng, nép sát vào người ông, nắm chặt bàn tay ông. Sau đó, tôi sẽ siết chặt bàn tay của ông hơn bao giờ hết, và một lần nữa, có đầy rẫy những câu hỏi và ríu rít nói chuyện với ông. Một đứa trẻ có thể ngây ngất cảm giác an toàn bên một người cha.
Câu chuyện này có thể giúp chúng ta hiểu được một số nét nào đó về cảm nghiệm núi Tabor đối với Đức Giêsu. Trong cuộc đời của Người, có một thời điểm rất khó khăn, một thời điểm không biết chắc chắn và lo sợ về tương lai. Người đã tiến về Giêrusalem, tại đó, Người cảm nhận được rằng cùng một số phận giống như tất cả các ngôn sứ đang chờ đợi Người – một cái chết khủng khiếp. Tự nhiên, Người muốn thoái lui khỏi số phận đó. Để suy niệm và cầu nguyện, Người đã lên núi Tabor.
Chúng ta không biết chính xác điều gì xảy ra trên núi. Nhưng dường như Người có một cảm nghiệm sâu sắc về sự hiện diện của Thiên Chúa. Người nghe được những lời nói tuyệt vời “Đây là Con Cha yêu dấu”. Trên núi Tabor, Đức Giêsu đã được an ủi và xác nhận. Người biết rằng Cha Người hài lòng về Người, và sẽ ban cho Người sức mạnh để đương đầu với một tương lai tối tăm và đầy đe dọa. Với Thiên Chúa đứng về phía mình, Người có thể đương đầu với tất cả mọi sự.
Đôi khi, cuộc sống có thể trở nên tối tăm với tất cả chúng ta. Có rất nhiều tiếng nói đối với chúng ta “Chỉ khi nào thành công, hoặc nổi tiếng, thì bạn mới là một người tốt”. Nhưng vẫn có một giọng nói thì thầm trong tâm hồn chúng ta “Con là đứa con trai / con gái yêu dấu của Cha”. Chúng ta cần phải chú ý đến giọng nói này. Chúng ta phải nhận ra rằng mình là những người con yêu dấu của Thiên Chúa, và cố gắng sống cuộc đời của mình nhờ ánh sáng chân lý của Người.
Jean Vanier đã thiết lập nhiều cộng đoàn dành cho người bị bệnh tâm lý. Ông kể lại rằng ở một trong những cộng đoàn đó, có một người đàn ông tên là Pierre, bị mắc bệnh tâm lý. Ngày kia, có người hỏi Pierre “Anh có thích cầu nguyện không?”
Anh trả lời “Có chứ”.
Người kia hỏi “Anh làm gì mỗi khi anh cầu nguyện?”
Pierre trả lời “Tôi lắng nghe”.
“Và Thiên Chúa nói gì với anh?”
Người nói “Hỡi Pierre, con là con trai yêu dấu của Ta”.
Đức tin như một con mắt thần hướng chúng ta đến một cách sống bình an, phó thác, nhìn đau khổ và cái chết như những phương tiện dẫn đến vinh quang. Đó là chủ đề mà lời Chúa muốn nhắn nhủ chúng ta.
Chúng ta hãy lấy một thí dụ như trường hợp Abraham trong bài đọc 1. Khi gần trăm tuổi, ông được Thiên Chúa hiện ra và nói sẽ ban cho ông một người con trai. Đó là người con duy nhất của Abraham với vợ chính là Sara, lúc ấy cũng gần 90 tuổi. Điều này đã là một sự lạ lùng đối với Abraham và Sara, nhưng Thiên Chúa đã thực hiện. Sau đó, Thiên Chúa muốn thử đức tin nơi Abraham, nên phán bảo ông đem đứa con duy nhất ấy lên núi làm lễ toàn thiêu. Tất nhiên Abraham rất đau lòng, nhưng nhờ đặt trọn niềm tin vào sự chỉ dạy của Thiên Chúa, ông đã vâng lời và cầm dao giết con. Cuối cùng, Thiên Chúa đã nhận “lòng tôn kính và tin yêu” của Abraham, vì đã không tiếc một thứ gì nếu Thiên Chúa muốn, nên miễn cho ông khỏi giết con và chúc phúc cho ông. Chúng ta thấy đức tin đã đem lại cho con người một sức sống mãnh liệt biết bao.
Hơn thế, đức tin còn giúp con người vượt thắng mọi đau khổ thể xác và tinh thần, mọi bất lực theo khả năng tự nhiên của con người và khoa học. Trở lại câu chuyện của Abraham, chúng ta thấy chính đức tin đã trấn an mối thương tâm của một người cha phải cầm dao giết con mình, làm lễ tế cho Đấng mà ông hết lòng tin tưởng.
Như vậy, đức tin giúp con người sẵn sàng đón nhận đau khổ, vững lòng khi gặp đau khổ và chiến thắng đau khổ để đạt tới một mục đích cao đẹp hơn. Cụ thể, trong bài Tin Mừng, khi thấy các môn đệ quá sợ đau khổ, không muốn chấp nhận cuộc khổ nạn của Chúa, nên Chúa đã hé mở vinh quang của nước Thiên Chúa để hun đúc cho các ông một niềm tin, một hy vọng để sống. Một đức tin mà Chúa đòi hỏi các ông phải có nếu muốn dự phần vinh quang với Ngài. Như thế, có thể nói, đức tin là nhân và vinh quang là quả, giúp chúng ta nhận chân giá trị mọi đau khổ trên trần gian này, để từ đó chúng ta can đảm, sáng suốt đón nhận và giải quyết mọi thử thách đến trong đời sống hàng ngày.
Có một câu nói diễn đạt kinh nghiệm sống đạo, sống niềm tin trong đau khổ thật sâu xa, đó là “Khi Thiên Chúa đóng cửa chính thì Ngài mở ra cửa sổ”. Thiên Chúa đóng cửa chính là khi chúng ta gặp thử thách, đau khổ, không còn có thể nhìn thấy ánh sáng, sự hiện diện đầy quan phòng của Thiên Chúa. Đó là khi Thiên Chúa xem ra như bỏ rơi, mặc chúng ta đương đầu với thử thách, khó khăn. Lúc đó chúng ta cần nhớ rằng: Thiên Chúa, Ngài sẽ mở ra cửa sổ, mở ra một lối thoát, một giải đáp, một hướng đi mới cho cuộc đời chúng ta.
Chẳng hạn, Thiên Chúa đóng kín cửa chính trong cuộc đời chúng ta, khi chúng ta trải qua cơn bệnh nặng, thì Ngài lại mở ra cửa sổ, cho chúng ta gặp được bác sĩ tận tình tài giỏi để chữa lành. Thiên Chúa đóng kín cửa chính khi chúng ta bị mất mát, thua thiệt, nhưng ngài lại mở ra cửa sổ khi Ngài cho chúng ta gặp được những tâm hồn quảng đại sẵn sàng giúp chúng ta bắt đầu lại cuộc đời. Thiên Chúa đóng cửa chính khi chúng ta bất ngờ phải mang tang người thân, thì Ngài lại mở ra cửa sổ là trong gia đình được hòa thuận lại với nhau…
Thiên Chúa đóng kín cửa chính nhiều lần trong cuộc đời mỗi người, nhưng đồng thời Ngài cũng mở ra những cửa sổ để hướng chúng ta đến một điều tốt đẹp hơn mà trước đó chúng ta không ngờ. Những kinh nghiệm đau thương, tiêu cực mà chúng ta gặp phải trong cuộc đời, đôi khi đó là tiếng nói của Thiên Chúa để mời gọi chúng ta bước ra khỏi một hoàn cảnh không tốt đẹp, để chuẩn bị chúng ta sẵn sàng hơn đón nhận những hồng ân mới. Nhìn lại cuộc sống, có thể mỗi người chúng ta cũng đã cảm nghiệm được những giây phút Thiên Chúa như đóng kín cửa chính, nhưng đồng thời Ngài cũng mở ra những cửa sổ, những viễn tượng mới, tốt đẹp hơn cho cuộc đời chúng ta. Vì thế, khi gặp thử thách, đau khổ, chúng ta đừng bao giờ chán nản, thất vọng, nhưng hãy tin tưởng và cầu nguyện, càng phải cầu nguyện nhiều hơn bình thường, để xin thêm đức tin và kiên nhẫn. Tin tưởng và kiên nhẫn, vì khi Thiên Chúa đóng kín cửa chính, Ngài sẽ mở ra cửa sổ.
Chúng ta vẫn thường nói: “Chạy trời không khỏi nắng”, nghĩa là ở đâu cuộc đời cũng có những khổ lụy của nó, và ngày nào cũng có nỗi khổ của ngày ấy. Như vậy, đau khổ tự nó là một điều xấu, không ai ham, không ai muốn. Vậy đau khổ có giá trị gì không? Tự nó chẳng có giá trị gì cả, nhưng cái làm cho đau khổ có giá trị, có công phúc chính là thái độ của người đau khổ. Vì thế, những khi gặp đau khổ, chúng ta đừng bao giờ phàn nàn, kêu trách Chúa, cũng đừng bao giờ rủa mình, than thân trách phận, chán nản, buông xuôi, nhưng hãy tự cố gắng và hãy giúp đỡ nhau, nhất là hãy tin tưởng, cậy trông và gia tăng cầu nguyện xin Chúa trợ giúp, vì Chúa đã nói: “Hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, hãy đến với Tôi, Tôi sẽ nâng đỡ bổ sức cho”.
58. Từ cõi chết sống lại nghĩa là gì?
(Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng)
Từ cõi chết sống lại nghĩa là gì?
Chúa Giêsu nhận thức rằng cuộc khổ hình mà Người sắp phải chịu sẽ để lại một kinh nghiệm đau thương cho các tông đồ, nhất là cho Phêrô, Giacôbê và Gioan, là những người sẽ chứng kiến cảnh sầu khổ của Chúa trong vườn cây dầu. Vì thế Chúa đưa ba tông đồ lên đỉnh núi để biến hình cho họ thấy cảnh vinh quang của nước Chúa. Việc Chúa biến hình có mục đích là củng cố đức tin và đức cậy của các tông đồ, trong cái viễn tượng của cuộc khổ hình và thánh giá. Sau cảnh biến hình, Chúa ra lệnh cho các tông đồ không được thuật lại cho ai những điều họ vừa xem thấy, cho tới khi Con người từ cõi chết sống lại (Mc 9:9). Các tông đồ tuân giữ lời căn dặn đó, nhưng vẫn tự hỏi nhau: Từ cõi chết sống lại nghĩa là gì?
Trong Mùa Chay ta cùng với các tông đồ suy gẫm ý nghĩa của lời Chúa: Từ cõi chết sống lại nghĩa là gì? Các tông đồ bày tỏ nỗi buồn sầu khi Chúa Giêsu tiên báo, Con người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế và kinh sư loại bỏ, bị lên án tử hình, và ngày thứ ba sẽ sống lại (Mc 8:31). Các ông không thể nào quan niệm được rằng Thầy mình sẽ phải chịu đau khổ. Các ông muốn Đức Kitô đi theo đường lối của loài ngưòi, nghĩa là tránh khổ hình thập giá. Vì thế Phêrô đại diện cho các tông đồ kéo riêng Người ra và trách Người (Mc 8:32).
Từ đó các tông đồ quan sát và suy niệm những cảnh: Thầy mình bị bách hại trong vườn cây dầu, bị dân chúng lăng nhục, nhạo cười, bị quân lính tra tấn và đánh đòn, cuối cùng chịu đội mão gai, vác thánh giá và chịu chết trên thập giá. Những cảnh bách hại và lăng nhục Thầy mình phải chịu làm các tông đồ nản lòng, khiếp sợ. Họ nản lòng vì cái chết của Thầy mình đã làm tiêu tan những mối hi vọng của họ. Họ khiếp sợ vì bị người Do Thái truy nã, bách hại. Rồi khi được loan tin là Thầy mình đã sống lại họ trở nên hoang mang, không biết đâu là thực hư. Chỉ sau khi đối diện với Chúa phục sinh họ mới trở nên xác tín. Và từ đó họ ra đi để làm chứng cho việc Chúa sống lại. Để chia sẻ cái niềm vui phục sinh của Thầy mình, họ cũng đã phải trải qua những bách hại, chịu tù đày và chịu khổ hình trên thập giá. Đúng như lời Chúa phán: Đày tớ không trọng hơn chủ. Nếu người ta đã bách hại Thầy, họ cũng bách hại các con (Ga 15:20). Và như vậy các tông đồ dần dần đã hiểu được từ cõi chết sống lại như thế nào? Các vị tử đạo trong đó có tiền nhân Việt Nam, 117 vị anh hùng tử đạo, cũng đã hiểu đuợc tư cõi chết sống lại là thế nào trước khi dám để cho lý hình hành xử.
Đối với ta, tư cõi chết sống lại nghĩa là gì trong đời sống mỗi người? Một biến cố rất quan trọng xẩy ra trong đời sống ta, mang lại sự sống thiêng liêng cho tâm hồn là Bí tích Rửa tội. Khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, ta cũng được sống lại từ cõi chết. Cái tội nguyên tổ bị hủy diệt, và ta được sống lại trong ơn nghĩa với Chúa. Thế rồi từ đó trong cuộc sống hàng ngày, ta cũng trải qua những cuộc chết đi sống lại nho nhỏ, không phải như các tông đồ, cũng không phải như các vị tử đạo. Khi ta sẵn sàng chịu thua thiệt, mất mát ở đời này, như mất bạn bè, mất việc làm, mất dịa vị xã hội, chỉ vì tin yêu vào Chúa, và tuân giữ giới răn Chúa, tức là ta đã chết đi cho mình một phần, để được sống lại trong ơn nghĩa với Chúa. Khi ta sẵn sàng chết đi cho tội lỗi, chết đi cho tính ươn hèn, chết đi cho tính tham lam, ích kỷ, lười biếng, chết đi cho tính nói hành nói xấu, ta sẽ đuợc tham dự vào đời sống mới trong ơn nghĩa với Chúa. Đó chính là ý nghĩa của lời Chúa: Nếu hạt lúa miến rơi xuống đất mà không mục nát đi, nó sẽ trơ trọi một mình; còn nếu mục nát đi, nó sẽ sinh nhiều bông trái (Ga 12:24). Khi ta chịu cắt tỉa những tính mê nết xấu, ta sẽ được vươn lên về đời sống tinh thần, đời sống thiêng liêng. Bấy giờ ta mới cảm nghiệm được ý nghĩa của lời Chúa: chết đi sống lại như thế nào.
59. Suy niệm của ‘Tin Vui Xuân Lộc’
Bài Tin Mừng về việc Chúa hiển dung còn gọi là Chúa Biến Hình hôm nay nằm trong phần đầu của phần III nói về Mầu Nhiệm Con Người. Sau khi loan báo về cuộc Thương khó và Phục Sinh lần thứ nhất, Chúa Giêsu dạy cho các tông đồ và các môn đệ, là những người đi theo Ngài về Thập Giá, về Từ bỏ. Sau đó Ngài liền củng cố ngay niềm tin cho các Tông đồ bằng biến cố hiển dung như một lời trấn an trước đau khổ, Thập giá và cái chết, hơn nữa như một lời khẳng định: chỉ có con đường Thập giá mới dẫn tới cuộc sông vinh quang Phục sinh. Giơ đây, chúng ta hãy cùng ba môn đệ lên núi, chiêm ngắm cuộc biến đổi kỳ lạ này để học được tâm tình của Chúa Giêsu.
“Sáu ngày sau….” ý nói về một khoảng cách gần sau khi Chúa Giêsu loan báo về cuộc thương khó và sự chết của Ngài. Lần này, Chúa Giêsu chỉ dắt ba ông đi riêng ra, đó là Phêrô, Giacôbê và Gioan. Chúng ta thấy đây là nhóm nòng cốt của tập đoàn 12 vị là. Ba vị này: một người là thủ lãnh, cầm đầu Giáo Hội sau này; một vị là Giám mục tiên khởi Jérusalem và một vị được mệnh danh là “Người được Chúa yêu”. Thánh sử Máccô ghi rõ “chỉ mính các ông thôi tới một ngọn núi cao”. “Núi cao” ý nói vinh quang Thiên Chúa sẽ được tỏ hiện trên đó và đúng thế “Người biến dổi hình dạng trước mắt các ông”. Đây chính là mục đích mà Chúa Giêsu dẫn ba ông đi riêng ra, tách biệt khối nhóm 12. Sự biến đổi của Ngài được miêu ta phủ đầy ánh sáng chói loà. Ánh sáng trắng ấy không có thợ nào ở trần gian làm được. Đây chính là vẻ huy hoàng từ nơi Thiên Chúa, ánh sáng chiếu dọi của Con Chiên trong sách Đaniel và sách Khải Huyền. Cùng lúc ấy, các ông thấy Môsê và Êlia xuất hiện, trò chuyện với Chúa Giêsu. Hai vị thuộc thế hệ Cựu Ước, đại diện cho lề luật và các Ngôn sứ, có ảnh hưởng rất lớn đối với người Do Thái. Hai vị đàm đạo với Chúa Giêsu về cuộc vượt qua của Ngài tại Giêrusalem (x. Lc 9,31) Ý nói toàn bộ lề luật và các Ngôn sứ; nói đúng hơn toàn bộ Kinh Thánh đều qui về Chúa Giêsu và làm chứng rằng Chúa Giêsu là người hoàn tất mọi lời hứa về Đấng Mêsia. Ngài là Người Tôi Tớ đau khổ trong Isaia, là Đấng Mêsia, Đấng Cứu độ nhân loại ẩn mình. Ngài chính là Thiên Chúa đến gánh tội trần gian (x. Ga 1,29), là Đấng Trung gian đưa Thiên Chúa đến với con người và qui tụ con người đem về cùng Thiên Chúa.
Lúc này, Phêrô theo cảm tính đã bày tỏ tâm tình muốn ở lại trong vinh quang này mãi. Ông thưa rằng: Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay. Ông không biết ý kiến của hai ông kia thế nào, nhưng ông cảm thấy ý của mình có lẽ là tốt nhất, tuyệt vời nhất. Nếu Chúa đồng ý, ông sẽ dựng ba cái lều cho ba vị, còn ông và các bạn không cần chốn nương thân. Thấy sự lúng túng và chỗ hổng này, Thánh Sử Maccô viết một câu như muốn biện minh cho câu nói thiếu hụt ấy: Ông không biết phải nói gì vì kinh hoàng. Qua câu này, chúng ta lại thấy rõ hơn vẻ huy hoàng chói lọi toát ra từ con người Giêsu, một con người cùng ăn cùng uống “ người trần mắt thịt” mà nay đột nhiên biến đổi kỳ diệu, đến nỗi người môn đệ cùng sống với Ngài đã thốt lên những lời vô nghĩa, còn hai ông kia không nói được gì cả.
Giờ đây là giờ Thiên Chúa hành động: một đám mây, có tiếng phán: và xác nhận Chúa Giêsu là Con Yêu Dấu của Chúa Cha, con người chỉ còn một bổn phận là VÂNG NGHE LỜI NGÀI mà thôi. Một mạc khải, một xác tín, một lệnh truyền. Chúa Cha mạc khải cho ba môn đệ biết: Chúa Giêsu là Con Yêu dấu của Ngài, chính Chúa Cha khẳng định với các ông điều này qua sự hiện diện và lời nói của Ngài trong đám mây. Ngài ra lệnh đòi buộc các ông: hãy nghe lời Con của Ngài. Đây là một mạc khải từ Thiên Chúa; Chúa Cha xác nhận Chúa Giêsu, người Nagiarét, cùng ăn cùng uống với các ông đây là Con Thiên Chúa. Ngài là Con Yêu Dấu của Chúa Cha vì luôn làm đẹp lòng Cha, luôn chọn Thánh Ý Cha làm lương thực nuôi sống mình (x, Ga 4,34). Bây giờ, Chúa Cha cũng muốn các môn đệ, những người đi theo Chúa Giêsu. Hãy bắt chước Chúa Giêsu. Như Chúa Giêsu đã tuân giữ ý Cha, thì các ông hãy vâng giữ lời Chúa Giêsu, chính là tuân hành Thánh Ý Chúa Cha vậy.
Cuộc hiển dung kết thúc sau khi tiếng phán chấm dứt, các ông nuối tiếc nhìn quanh, nhưng chỉ còn hiện tại: Chúa Giêsu và các ông mà thôi. Sau biến hình, mọi sự trở về bình thường, một Giêsu bằng xương bằng thịt… có dễ lôi cuốn các ông vào con đường Thập Giá, con đường Vượt Qua hay không?
Trong câu 9 và 10. Chúa Giêsu ra lệnh các ông phải giữ kín những điều mới xảy ra, mà chỉ được rao truyền sau khi Ngài sống lại. Chúa Giêsu muốn giữ kín bí mật Mêsia, bí mật Con Thiên Chúa khi Ngài còn đang sống trên trần gian này. Các ông vâng lời, nhưng vẫn thắc mắc “ từ cõi chết sống lại” nghĩa là gì? Từ “sống lại”, từ “phục sinh” vượt xa tầm trí hiểu của các ông; các ông vẫn cho rằng: chết là hết. Các ông vẫn chưa hiểu và tin vào sự sống lại.
Ngày nay, mỗi người chúng ta được biến đổi hàng ngày. Chúng ta thường chú ý về những biến đổi về thể xác, về kiến thức, về địa vị, danh vọng… Có bao giờ chúng ta để ý chăm chút, nuôi dưỡng để biến đổi về tâm hồn, về đời sống tâm linh của chúng ta chưa?. Nếu chưa, chúng ta hãy mau đến với Bí Tích Thánh Thể, nơi đó chính Chúa Giêsu sẽ dạy chúng ta cách biến đổi theo ý Chúa Cha, biến đổi để ngày càng trở nên đồng hình đồng dạng vời Con Chí Ái của Người là Đức Giêsu Kitô khổ nạn và Phục Sinh. Amen.
Tại sao ba môn đệ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan lại được diễm phúc chứng kiến cảnh tượng Chúa biến hình trên đỉnh Taborê. Nhiều nhà chú giải cho rằng vì Chúa muốn củng cố niềm tin còn non yếu nơi các ông.
Thực vậy, mới mấy ngày trước đây khi Ngài loan báo về những đau khổ và cái chết Ngài phải chịu, thì Phêrô đã lên tiếng can ngăn: Lạy Thầy, không thể như thế được. Và Chúa Giêsu đã quở trách Phêrô: Hỡi Satan, hãy cút đi, con chỉ làm cản trở đường đi nước bước của Thầy, vì những tư tưởng của con không xuất phát từ Thiên Chúa, mà chỉ xuất phát từ con người.
Sau lời quở trách ấy, thì có lẽ giờ đây các ông đang cần một liều thuốc bồi bổ tinh thần. Từ đó chúng ta đi vào phạm vi đức tin và chúng ta có thể xác quyết: hành trình của đức tin giống như hành trình của một chiếc tàu đi biển. Có lúc được nâng lên cao, có lúc lại bị hạ xuống. Thường nó có những điểm cao và những điểm thấp của nó. Có lúc lên núi thì cũng phải có lúc xuống đồi. Có những lúc bùng sáng, thì cũng có lúc như muốn tàn lụi. Hãy nhìn vào ba vị tông đồ thân tín nhất của Đức Kitô và chúng ta sẽ thấy được như vậy.
Thực thế, đức tin của các ông hôm nay rực sáng như một ánh đuốc trong đêm tối, nhưng có những lúc ngọn lửa ấy như muốn tàn lụi. Đúng thế, chỉ một vài tháng sau, tại vườn cây dầu tại dinh thượng tế, tại đỉnh cao đồi Canvê, các ông người thì chối Chúa, kẻ thì bỏ Chúa mà chạy trốn. Đức tin của chúng ta cũng vậy, có những lúc lên cao và có những lúc xuống thấp… Khi lên cao, chúng ta cảm thấy gần gũi Chúa đến độ chúng ta tưởng rằng mình có thể đụng chạm tới Ngài, chúng ta thấy rằng ơn thánh của Ngài luôn ấp ủ bao bọc và nâng đỡ chúng ta. Trái lại khi xuống thấp, chúng ta cảm thấy như Chúa xa lìa chúng ta, không còn đón nhận những lời chúng ta kêu xin. Chúa không còn gần gũi chúng ta, mà chỉ là một nhân vật xa lạ, một ý niệm trừu tượng, chẳng ăn nhập gì với cuộc sống chúng ta. Vậy thì trong những lúc bị xuống thấp như thế chúng ta phải làm gì?
Tôi xin thưa, hãy noi gương bắt chước tổ phụ Abraham. Niềm tin của ông có phần yếu ớt và bị lu mờ khi Thiên Chúa đòi hỏi ông phải hy sinh đứa con duy nhất là Isaac, đem nó lên núi mà sát tế để dâng kính Ngài. Điều đó làm cho ông đau khổ và bối rối. Thế nhưng ông vẫn một lòng cậy trông và phó thác vào Chúa. Cuối cùng, Chúa đã không để cho ông phải thất vọng. Ngài đã chúc phúc và ban cho ông nhiều hồng ân hơn cả lòng ông mơ ước. Đôi khi Thiên Chúa cũng thử thách đức tin của chúng ta. Tâm hồn chúng ta thì chất đầy những đắng cay, bản thân chúng ta thì khổ đau buồn phiền, thế nhưng hãy tin tưởng và cậy trông vào Chúa như Abraham ngày xưa, bởi vì Ngài sẽ nâng đỡ và phù trợ chúng ta.
Để kết thúc, chúng ta hãy ghi nhớ tư tưởng sau đây của thánh Giacôbê tông đồ: Phúc cho ai bị thử thách mà vẫn trung thành, bởi vì người đó sẽ được Thiên Chúa ân thưởng bằng sự sống mà Ngài đã hứa ban cho những kẻ yêu mến Ngài.
Có những lúc chúng ta phải đương đầu với một tình huống mà khi ấy chúng ta không thể thốt lên lời được. Có lẽ không phải tất cả chúng ta đều đã trải qua kinh nghiệm về những khoảnh khắc như vậy một cách có ý thức. Tuy nhiên, tôi tin rằng nếu chúng ta thường xuyên phản tỉnh về cuộc sống của mình, chúng ta sẽ nhận ra có rất nhiều khoảnh khắc như thế trong cuộc đời của mình. Khả năng nhận ra những khoảnh khắc kinh ngạc và đáng sợ ấy phù thuộc vào tình trạng thanh tĩnh và thinh lặng của tâm hồn chúng ta.
Có những lúc trong cuộc đời, chúng ta sống và làm việc như cái máy, không có chút phản tỉnh nào về cuộc sống của mình. Chúng ta có quá nhiều việc phải làm. Vì thế, sự bận rộn liên lạc này dễ bị Satan lợi dụng để lôi kéo chúng ta ra xa ơn gọi căn bản của mình, là ơn gọi sống trong mối liên hệ gắn bó với Thiên Chúa. Hầu có thể sống gắn bó mật thiết với Thiên Chúa, chúng ta cần dành thời giờ để phản tỉnh trong sự bình an và thinh lặng của tâm hồn. Sự bận rộn thái quá ngăn cản chúng ta thực hiện việc này.
Chúng ta xin Chúa Thánh Thần ban ơn soi sáng để nhận ra và xác tín chúng ta cần có những khoảng thời gian thoát ra khỏi sự bận rộn của đời sống thường ngày, và can đảm đi đến một nơi thanh vắng để cầu nguyện và suy nghĩ. Các sách Tin Mừng cho chúng ta biết chính Chúa Giêsu cũng thường xuyên làm như vậy. Chúa Giêsu biết rõ việc cầu nguyện giúp mình giữ được sự sáng suốt và gắn bó với Chúa Cha. Chỉ khi nào chúng ta sống trong thinh lặng với Thiên Chúa và phản tỉnh về ý nghĩa sâu xa của cuộc đời mình, lúc đó những việc chúng ta làm trong thế giới này mới có giá trị. Nếu hành động của chúng ta không dựa trên việc chúng ta sống gắn bó với Thiên Chúa thì rồi cuộc đời của chúng ta có lẽ cũng chỉ như “Dã tràng xe cát biển đông, nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì”.
Xã hội ngày hôm nay làm cho con người có nguy cơ đánh mất khả năng dừng lại để sống trong thinh lặng và suy nghĩ phản tỉnh. Đó là một nguy cơ làm cho sự liên hệ giữa chúng ta với Thiên Chúa, là Đấng đã tạo dựng nên chúng ta, bị buông lỏng và dần dần bị cắt đứt hoàn toàn.
Trong Mùa Chay, Giáo Hội đặt trước mắt chúng ta những mầu nhiệm có vẻ rất tương phản nhau: một bên là Chúa Kitô đau khổ và chịu đóng đinh, một bên là Chúa Kitô vinh quang và Phục sinh, để chúng ta suy niệm và khám phá ra hai chân lý hay hai thực tại khác không kém phần tương phản, đó là tội lỗi trầm trọng của nhân loại và lòng yêu thương vô bờ bến của Thiên Chúa, hiểu được hai thực tại này thì chúng ta sẽ hiểu được phần nào hai mầu nhiệm đau khổ và vinh quang. Cũng chính trong ý hướng đó Chúa Giêsu đã chuẩn bị tinh thần và củng cố niềm tin cho các môn đệ bằng việc Ngài tỏ lộ cho các ông thấy phần nào vinh quang của Ngài mà chúng ta gọi là Chúa biến hình.
Biến hình là thế nào? Có phải là một chuyện thần thoại không? Cách đây ít lâu, trên đài truyền hình thành phố, chúng ta rất thích thú được xem các trò biến hình của Tôn Ngộ Không, một kẻ có 72 phép thần thông biến hóa, chỉ cần một cái lắc mình, họ Tôn có thể biến thành một con vật, một cô thiếu nữ hay một trái bí… đó là những chuyện thần thoại, không có thực, còn việc Chúa Giêsu biến hình, không phải là một chuyện thần thoại mà là một chuyện có thực.
Biến hình, theo nghĩa thông thường người ta thường hiểu là thay đổi một hình dạng khác với hình dạng bình thường. Các môn đệ đã sống với Chúa Giêsu ba năm rồi, các ông thấy Chúa chỉ là một người có xương có thịt, có hình dạng như mọi người, dù các ông đã được nghe những lời giảng dạy hay ho, cao siêu của Chúa, dù các ông đã được chứng kiến những phép lạ Chúa làm, nhưng các ông chưa thấy chân tướng đích thực của Ngài, bây giờ Chúa biến hình cho các ông thấy, Ngài thay đổi hình dạng “con người” cho các ông thấy hình dạng “Thiên Chúa” của Ngài.
Nói rõ hơn, Chúa Giêsu biến hình là Chúa bày tỏ cho các môn đệ biết thân thế đích thực của Ngài: Ngài chính là Con yêu dấu của Chúa Cha, Ngài là Đấng làm đẹp lòng Chúa Cha và là Đấng mà người ta phải nghe lời. Nhưng làm sao có thể nhận ra thần tính trên khuôn mặt nhân tính của Chúa? Đó là thắc mắc lớn của các môn đệ trên đường theo Chúa, và cũng là mối bận tâm của Chúa trong công cuộc giáo huấn của Ngài, thế nên mới có biến hình, đó cũng là mục đích của việc Chúa biến hình.
Ngoài mục đích bày tỏ, bộc lộ chân tướng đích thực là Con Thiên Chúa của mình, Chúa Giêsu còn nhằm một mục đích khác nữa, Ngài muốn khích lệ, động viên các môn đệ để các ông vững lòng trước mầu nhiệm thập giá, nghĩa là sau khi loan báo về cuộc khổ nạn Ngài sẽ phải trải qua, làm các ông khiếp sợ, Chúa lật cho các ông thấy đàng sau cây thập giá có gì, đó là sự phục sinh vinh quang, giống như Ngài biến hình trước mắt các ông lúc này. Qua đó, Chúa cũng muốn nhắn nhủ các ông: cuộc đời của các ông cũng thế, sẽ phải trải qua đau khổ rồi mới bước vào chốn vinh quang, vì vậy, hãy tin tưởng, can đảm và kiên nhẫn chịu đựng, Chúa luôn ở bên để hỗ trợ các ông.
Có một câu chuyện kể rằng: một người đàn bà giàu có đang hấp hối trên giường bệnh, trong tờ chúc thư để lại, bà kể tên của tất cả mọi người thân thuộc và xa gần sẽ hưởng gia tài của bà, tuyệt nhiên bà không hề đá động đến cô gái nghèo và trung thành hầu hạ bà bấy lâu nay, quà tặng duy nhất mà bà để lại cho cô là một thánh giá làm bằng thạch cao. Cô gái nhận lấy món quà nhưng lòng đầy cay đắng buồn phiền, cô tự nghĩ: mình đã trung thành phục vụ, hầu hạ sớm hôm để rồi chỉ được một món quà không ra gì, không còn đủ bình tĩnh để nuốt lấy từng giọt đắng cay, cô đã kéo thập giá xuống khỏi tường và ném mạnh trên nền nhà, cây thập giá vỡ tung, và kìa, trước sự ngạc nhiên của cô, tất cả những mảnh vụn thoát ra khỏi lớp vỏ thạch cao đều là những viên kim cương óng ánh. Cô gái chỉ có thể hiểu được lòng tốt của người chủ khi cô nhận ra giá trị của món quà. Lắm khi Thiên Chúa cũng gửi đến cho chúng ta những món quà được bao bọc bằng hình thù của thập giá, sự sần sùi và dáng vẻ thê thảm của thập giá làm chúng ta không thể hiểu được lòng tốt của Thiên Chúa, Ngài yêu thương chúng ta, Ngài không bao giờ muốn điều dữ cho chúng ta, bởi vì tất cả mọi sự xảy đến cho chúng ta đều nhằm dẫn đưa chúng ta đến hạnh phúc cao cả hơn.
Quả thực, ở đâu và bất cứ lúc nào cũng có thập giá, đã mang tiếng khóc vào đời, con người tiến bước trong cuộc sống với tất cả gánh nặng của thập giá. Tại sao Thiên Chúa đã để cho con người phải đau khổ? Mãi mãi dường như con người sẽ không bao giờ tìm được câu giải đáp cho vấn đề đau khổ, Chúa Giêsu không bao giờ đặt vấn đề và cũng không bao giờ đem lại một giải đáp cho vấn đề, trong thinh lặng, Ngài đã vác lấy thập giá, và khi sống lại, Ngài cho chúng ta thấy rằng thập giá là con đường dẫn đến sự sống. “Hãy vác lấy thập giá và theo Ta”, đó là lệnh truyền của Ngài. Mang lấy thập giá với tinh thần chấp nhận và mến yêu, chúng ta sẽ thấy ánh sáng bừng lên trong cuộc sống, mang lấy thập giá, chúng ta sẽ thấy tình yêu mạnh hơn sự chết, mang lấy thập giá, chúng ta sẽ chiến thắng được hận thù và thất vọng. Tóm lại, không chối bỏ thực tại của đau khổ, chết chóc, nhưng chúng ta luôn được mời gọi để không nhìn vào đó như tiếng nói cuối cùng, như ngõ cụt, bởi vì vinh quang của Thiên Chúa là con người được sống, cho nên hướng đi của lịch sử loài người không phải là ngõ cụt của sự chết mà là sự sống, bên kia khổ đau, chết chóc, cuộc sống vẫn còn tiếp tục có ý nghĩa và đáng sống.
Đây cũng là điều nhắc nhở chúng ta: đàng sau mọi gian nan thử thách, đàng sau mọi đau khổ của cuộc đời, luôn có Thiên Chúa hiện diện để bảo vệ và nâng đỡ, để an ủi và khích lệ, và nếu chúng ta chẳng nhận được gì ở đời này, chúng ta vẫn tin rằng: Thiên Chúa sẽ thưởng công cho chúng ta ở đời sau.
Nhà tâm lý học Abraham Maslow kể lại câu chuyện một người mẹ trẻ tuổi như sau: “Vào một buổi sáng nọ, cô sửa soạn bữa sáng cho gia đình của cô. Nhà bếp tràn đầy những ánh sáng, những đứa con của cô đang cười đùa và nói năng vui vẻ, và chồng cô đang đùa giỡn với đứa con út. Trong khi cô đang trét bơ trên bánh mì và rót nước cam, ngay lúc đó, cô cảm thấy tràn trề niềm vui sướng và yêu thương trong gia đình của cô. Rưng rưng nước mắt, cô đã cảm động đến nỗi không thể nào nói được.”
Maslow gọi lúc đó là giây phút tột đỉnh. Nó là những giây phút ngắn ngủi quí báu chúng ta nhìn thấy những biến cố thông thường cách siêu thường. Nó là giây phút giống như là Thiên Chúa chiếu ánh sáng của Ngài vào những sự vật chung quanh chúng ta và làm cho chúng ta cảm thấy mình đang nhìn thấy một thế giới khác.
Ý tưởng về giây phút tột đỉnh giúp chúng ta thấu hiểu những gì mà Phêrô, Giacôbê và Gioan đã cảm nghiệm mà bài Phúc Âm hôm nay tả lại. Họ đã cảm nghiệm được những giây phút tột đỉnh.
Chỉ trong một vài phút quí báu, họ đã thấy được Chúa Giêsu trong một hình thức hoàn toàn khác biệt. Chỉ trong vài phút quí báu, họ đã thấy Thiên Chúa chiếu rọi qua con người bề ngoài của Chúa Giêsu. Chỉ trong vài phút quí báu, họ đã nhìn thấy một thế giới vượt trên thế giới này. Chỉ trong vài phút quí báu, họ đã thấy từ ngoại diện của Chúa Giêsu đến những gì bên trong nội diện: Con Thiên Chúa vinh hiển và tuyệt mỹ.
Điều đó đưa đến một câu hỏi. Tại sao câu truyện Phúc Âm về cuộc biến hình của Chúa Giêsu lại đặt giữa những bài đọc buồn tẻ ủ rũ của Mùa Chay? Tại sao nó không được đặt giữa những bài đọc vui mừng của Mùa Phục Sinh?
Câu trả lời nằm trong ý nghĩa việc biến hình xảy ra. Nó xảy ra ngay sau khi Chúa Giêsu nói cho các môn đệ biết Ngài phải đi lên Giêsusalem chịu đau khổ và chịu chết.
Khi Phêrô nghe Chúa Giêsu nói về việc này, ông đã kêu lên: “Xin Thiên Chúa thương! Những sự đó sẽ không xảy ra cho Ngài.”
Chúa Giêsu liền nói với Phêrô: “Xéo đi sau Ta! Hỡi Satan! Ngươi là cớ vấp phạm cho Ta, vì ý tưởng của ngươi không phải ý tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.”
Phêrô, Giacôbê, và Gioan cần có mũi chích tinh thần sau khi cuộc mạc khải khiếp sợ của Chúa Giêsu.
Có thể đấy cũng chính là lý do mà Giáo Hội đặt bài đọc biến hình giữa những bài sầu buồn của Mùa Chay. Giáo Hội cũng muốn cho chúng ta mũi chính tinh thần này trước khi xoay sự chú ý của ta đến cuộc thương khó của Chúa Giêsu trong ngày Thứ Sáu Tuần Thánh.
Giáo Hội muốn cho chúng ta một sự gì đó để nhìn vào trong những giờ đau khổ của cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu và cái chết trên thập tự.
Trong mỗi một người chúng ta, cũng có một phần của Adong và một phần của Thiên Chúa.
Như Chúa Giêsu trên Núi Tabor, chúng ta cũng cảm nghiệm được những giây phút ngây ngất, khi Thiên Chúa chiếu sáng qua chúng ta gần như làm cho ta bị loà luôn. Trong những giây phút này, chúng ta cảm thấy thật là gần gũi với Thiên Chúa y như là chúng ta cảm thấy chúng ta có thể với tay chạm đến Thiên Chúa.
Và chúng ta cũng cảm nghiệm được những giây phút lo buồn, khi phần của Adong vùng vẫy mãnh liệt, đến nỗi phần của Thiên Chúa trong ta bị lung lay và gần chết đi. Chúng ta cảm thấy xa lìa Thiên Chúa, đến nỗi ta hỏi rằng không biết Thiên Chúa có hiện hữu hay không.
Trong những giây phút ngây ngất chúng ta sung sướng trong lời Thiên Chúa Cha phán với chúng ta những gì mà Thiên Chúa Cha đã phán với Chúa Giêsu: “Đây là Con Ta tuyển chọn.” Những lúc lo buồn, chúng ta cũng sẽ cảm nghiệm những gì Chúa Giêsu đã cảm nghiệm trong vườn cây dầu: cánh tay Thiên Chúa Cha sẽ nâng đỡ chúng ta.
Sau khi nghe đọc đoạn Tin Mừng, chúng ta không khỏi băn khoăn tự hỏi:
– Tại sao Chúa Giêsu lại tỏ lộ sự việc lạ lùng ấy cho ba môn đệ thân tín nhất.
Tôi xin trả lời:
– Đó là để soi sáng và củng cố đức tin cho các ông.
Đúng thế, các tông đồ, những người bạn nghĩa thiết của Chúa đã không muốn hiểu và không muốn chấp nhận những lời tiên báo của Chúa về cuộc tử nạn và cái chết của Ngài.
Cách đây mấy hôm, Chúa Giêsu cũng đã nói với các ông:
– Con Người sẽ phải lên Giêrusalem ở đó sẽ bị bắt bớ, bị giết chết, nhưng ngày thứ ba sẽ sống lại.
Phêrô đã kéo Ngài ra một chỗ và can ngăn, nhưng Chúa Giêsu đã khiển trách ông nặng lời:
– Hãy cút đi hỡi Satan, ngươi chẳng hiểu gì về những việc của Thiên Chúa, mà chỉ hiểu những công việc của người đời mà thôi.
Có thể những lời nói xa nói gần, nói bóng nói gió của Chúa về cuộc tử nạn đã làm cho niềm tin tưởng của các ông bị chao đảo và mối cậy trông của các ông bị tắt ngấm, để rồi sau cùng đứng trước nỗi thống khổ của thập giá, các ông sẽ trở nên những kẻ bị phá sản, không còn hy vọng, không còn can đảm, không còn nghị lực.
Bởi đó, khi tỏ lộ vinh quang của mình trên đỉnh Taborê, Chúa Giêsu muốn củng cố niềm tin tưởng và giúp các ông chiến thắng trong những giờ phút tăm tối. Cũng như chuẩn bị các ông sẵn sàng đón nhận những bắt bớ, những cấm cách sẽ xảy đến sau này.
Đúng thế, nếu đọc tiếp Phúc Am chúng ta sẽ thấy: liền sau đó trong cuộc tử nạn các ông, người thì chối bỏ, người thì chạy trốn. Sở dĩ như vậy là vì các ông chưa hiểu. Một mai, khi đã nghĩ lại và nhất là nhớ đến vinh quang Taborê, các ông sẽ can đảm trong mọi cơn gian nguy thử thách và sẽ hy sinh cho đến giọt máu cuối cùng vì tình yêu của Đấng đã bị đóng đinh vào thập giá.
Sự việc Chúa Giêsu biến hình đã tạo được một tiếng vang cho đến tận cùng bờ cõi trái đất, nó sẽ đem lại cho chúng ta một bài học, một niềm an ủi trong những giờ phút đen tối.
Thực vậy, khi gặp phải những khổ cực đớn đau, những đắng cay chua xót, chúng ta hãy nghĩ rằng: Nếu chúng ta trung thành với Chúa, chúng ta sẽ được nhìn thấy vinh quang Ngài trong cõi sống ngàn thu. Vinh quang ấy không phải chỉ kéo dài trong thoáng chốc của một kiếp phù du, nhưng sẽ kéo dài mãi mãi, kéo dài đời đời.
Sống trên trần gian, chúng ta giống như những kẻ bị lưu lạc nơi đất khách quê người, chúng ta không bao giờ nhìn thấy Thiên Chúa, hay như lời thánh Phaolô đã diễn tả: Hiện tại chúng ta chỉ nhìn thấy một cách mơ hồ như trên một tấm gương, nhưng rồi chúng ta sẽ hiểu biết Ngài một cách trọn vẹn, sẽ yêu mến Ngài mãi mãi và trái tim nhỏ bé của chúng ta sẽ ngập tràn hạnh phúc. Một thứ hạnh phúc vượt trên những điều chúng ta có thể nghĩ tưởng được.
Vì thế mà thánh Phaolô cũng bảo:
– Những đau khổ đời này thì nhỏ nhoi không thể nào sánh ví được với vinh quang mai hậu.
Nếu chúng ta trung thành yêu mến và phụng sự Chúa, thì phần thưởng bội hậu sẽ được dành để cho chúng ta. Lúc bấy giờ, thân xác của chúng ta, người bạn tâm phúc của linh hồn, cũng sẽ được dự phần vinh quang, cũng sẽ được chia sẻ niềm vui bất tận.
Vì đau thương là đường lên ánh sáng, gian khổ là đường về vinh quang và thập giá là đường dẫn tới phục sinh.
65. Từ Tabor đến Golgotha – Thiên Phúc
Một linh mục qua nhiều năm coi xứ đã kể một câu chuyện khá dí dỏm và cũng sâu sắc như sau:
Có một đôi vợ chồng trẻ rất xinh đẹp và sống với nhau cũng rất khéo. Đúng là một cặp “trai tài gái sắc”.Có lẽ chính nét trẻ trung xinh xắn của vợ chồng đã cho họ một mùa xuân cuộc đời thật nồng cháy tình yêu và hạnh phúc.
Một ngày nọ, người vợ ăn một nửa trái táo, rồi tặng chồng phần kia. Người chồng vui vẻ đón nhận:
– Ôi nửa trái táo ân tình, công chúa của lòng anh!
Hai mươi năm sau. Cũng đôi vợ chồng ấy, cộng thêm những nét tàn tạ của thời gian. Cũng một trái táo, vợ ăn một nửa, mời chồng phần còn lại. Nhưng người chồng nhăn mặt:
– Sao lại cho nửa trái táo ăn thừa?
Tất cả nguyện trạng chỉ khác có nhan sắc. Cũng nửa trái táo dâng tặng nhưng hai mươi năm trước nhận từ tay “người đẹp” là trái táo ân tình. Hai mươi năm sau từ tay “nàng già” là trái táo ăn thừa. Nếu chỉ dựa vào nhan sắc người ta sẽ mất hết tất cả với thời gian.
Cuộc biến hình trên núi Tabor được xếp đặt trước việc tiên báo khổ nạn. Nếu người ta làm cho an toàn những viên thuốc đắng bằng một lớp vỏ bọc đường, thì Đức Giêsu cũng hóa giải tin khổ nạn bằng cuộc biến hình rực rỡ. Bọc đường chứ không bọc thuốc ngủ. Hóa giải chứ không gây mê.
Nhưng có lẽ cuộc biến hình đã phản tác dụng: “Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm, chúng con xin dựng ba lều, một cho Thầy, một cho Moi sê và một cho Elia” (Mc 9,5). Vậy là Phêrô, Giacôbê và Gioan muốn đăng ký thường trú trên đỉnh núi Tabor. Họ đòi ngủ yên trong hào quang rực rỡ. Họ bỏ lại dưới chân núi các bạn đồng môn, các cuộc truyền giáo. Họ muốn xa rời dân chúng đang khao khát Lời Chúa.
Các ông đâu biết rằng Thầy Giêsu chỉ lên đỉnh Tabor trong chốc lát, rồi xuống núi chuẩn bị vác thập giá lên đồi Canvê. Theo Thầy không phải là lên cao hưởng thụ, nhưng là xuống thấp và leo lên thập giá với Thầy.
Cũng như ba môn đệ, đôi vợ chồng trong câu chuyện kể trên chỉ muốn dừng lại ở vẻ đẹp. Nhưng vẻ đẹp đâu tồn tại mãi, Chúa chỉ mặc “tấm áo trắng như tuyết” trong chốc lát vì niềm hy vọng Phục Sinh. Cuộc đời cần hạnh phúc chứ không phải vẻ đẹp.Vẻ đẹp là một ân huệ của trời, nhưng cũng có thể là cạm bẫy cướp đi hạnh phúc.
Giá trị đích thực chính là tình yêu, chính do tình yêu mà đôi vợ chồng mới giữ được lòng chung thủy, chính do tình yêu mà các Kitô hữu mới trở nên bóng hình xinh đẹp rực rỡ của Chúa. Chính do tình yêu mà chúng ta phải biến hình đổi dạng mỗi ngày để phản ánh vinh quang ngời sáng của Người.
Đức Kitô vinh quang của Tabor cũng chính là Đức Kitô rong ruổi trên các đường phố Palestine rao giảng, chữa bệnh và làm phép lạ.
Đức Kitô sáng láng của Tabor cũng chính là Đức Kitô thắm đẫm mồ hôi trong vườn Giếtsimani.
Đức Kitô rực rỡ của Tabor cũng chính là Đức Kitô treo trên thập giá đỉnh Golgotha.
Hai đỉnh núi Tabor và Golgotha cách nhau không xa, nhưng lại là con đường vạn lý, con đường đau khổ, con đường vượt qua: Đường tình yêu. Theo Thánh Teresa thành Lisieux: “Sống tình yêu không phải là căng lều trên đỉnh Tabor, mà là cùng với Giêsu ta trèo lên đồi Canvê”. Thánh Bernadette cầu nguyện:“Con không xin cho mình khỏi phải đau khổ, nhưng chỉ xin Người đừng bỏ con trong khổ đau”.
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn can đảm tiến bước trên đường đời chông gai vạn nẻo, với niềm hy vọng biến cố Phục Sinh sẽ bừng sáng. Amen.
(Trích trong Tinmung.net)
Trong Mùa Chay, Giáo Hội đặt trước mắt chúng ta những mầu nhiệm có vẻ rất tương phản nhau: một bên là Chúa Kitô đau khổ và chịu đóng đinh, một bên là Chúa Kitô vinh quang và Phục sinh, để chúng ta suy niệm và khám phá ra hai chân lý hay hai thực tại khác không kém phần tương phản, đó là tội lỗi trầm trọng của nhân loại và lòng yêu thương vô bờ bến của Thiên Chúa, hiểu được hai thực tại này thì chúng ta sẽ hiểu được phần nào hai mầu nhiệm đau khổ và vinh quang. Cũng chính trong ý hướng đó Chúa Giêsu đã chuẩn bị tinh thần và củng cố niềm tin cho các môn đệ bằng việc Ngài tỏ lộ cho các ông thấy phần nào vinh quang của Ngài mà chúng ta gọi là Chúa biến hình.
Biến hình là thế nào? Có phải là một chuyện thần thoại không? Cách đây khá lâu, trên nhiều đài truyền hình, chúng ta rất thích thú được xem các trò biến hình của Tôn Ngộ Không, một kẻ có 72 phép thần thông biến hóa, chỉ cần một cái lắc mình, họ Tôn có thể biến thành một con vật, một cô thiếu nữ hay một trái bí… đó là những chuyện thần thoại, không có thực, còn việc Chúa Giêsu biến hình, không phải là một chuyện thần thoại mà là một chuyện có thực.
Biến hình, theo nghĩa thông thường người ta thường hiểu là thay đổi một hình dạng khác với hình dạng bình thường. Các môn đệ đã sống với Chúa Giêsu ba năm rồi, các ông thấy Chúa chỉ là một người có xương có thịt, có hình dạng như mọi người, dù các ông đã được nghe những lời giảng dạy hay ho, cao siêu của Chúa, dù các ông đã được chứng kiến những phép lạ Chúa làm, nhưng các ông chưa thấy chân tướng đích thực của Ngài, bây giờ Chúa biến hình cho các ông thấy, Ngài thay đổi hình dạng “con người” cho các ông thấy hình dạng “Thiên Chúa” của Ngài.
Nói rõ hơn, Chúa Giêsu biến hình là Chúa bày tỏ cho các môn đệ biết thân thế đích thực của Ngài: Ngài chính là Con yêu dấu của Chúa Cha, Ngài là Đấng làm đẹp lòng Chúa Cha và là Đấng mà người ta phải nghe lời. Nhưng làm sao có thể nhận ra thần tính trên khuôn mặt nhân tính của Chúa? Đó là thắc mắc lớn của các môn đệ trên đường theo Chúa, và cũng là mối bận tâm của Chúa trong công cuộc giáo huấn của Ngài, thế nên mới có biến hình, đó cũng là mục đích của việc Chúa biến hình.
Ngoài mục đích bày tỏ, bộc lộ chân tướng đích thực là Con Thiên Chúa của mình, Chúa Giêsu còn nhằm một mục đích khác nữa, Ngài muốn khích lệ, động viên các môn đệ để các ông vững lòng trước mầu nhiệm thập giá, nghĩa là sau khi loan báo về cuộc khổ nạn Ngài sẽ phải trải qua, làm các ông khiếp sợ, Chúa lật cho các ông thấy đàng sau cây thập giá có gì, đó là sự phục sinh vinh quang, giống như Ngài biến hình trước mắt các ông lúc này. Qua đó, Chúa cũng muốn nhắn nhủ các ông: cuộc đời của các ông cũng thế, sẽ phải trải qua đau khổ rồi mới bước vào chốn vinh quang, vì vậy, hãy tin tưởng, can đảm và kiên nhẫn chịu đựng, Chúa luôn ở bên để hỗ trợ các ông.
Có một câu chuyện kể rằng: một người đàn bà giàu có đang hấp hối trên giường bệnh, trong tờ chúc thư để lại, bà kể tên của tất cả mọi người thân thuộc và xa gần sẽ hưởng gia tài của bà, tuyệt nhiên bà không hề đá động đến cô gái nghèo và trung thành hầu hạ bà bấy lâu nay, quà tặng duy nhất mà bà để lại cho cô là một thánh giá làm bằng thạch cao. Cô gái nhận lấy món quà nhưng lòng đầy cay đắng buồn phiền, cô tự nghĩ: mình đã trung thành phục vụ, hầu hạ sớm hôm để rồi chỉ được một món quà không ra gì, không còn đủ bình tĩnh để nuốt lấy từng giọt đắng cay, cô đã kéo thập giá xuống khỏi tường và ném mạnh trên nền nhà, cây thập giá vỡ tung, và kìa, trước sự ngạc nhiên của cô, tất cả những mảnh vụn thoát ra khỏi lớp vỏ thạch cao đều là những viên kim cương óng ánh. Cô gái chỉ có thể hiểu được lòng tốt của người chủ khi cô nhận ra giá trị của món quà. Lắm khi Thiên Chúa cũng gửi đến cho chúng ta những món quà được bao bọc bằng hình thù của thập giá, sự sần sùi và dáng vẻ thê thảm của thập giá làm chúng ta không thể hiểu được lòng tốt của Thiên Chúa, Ngài yêu thương chúng ta, Ngài không bao giờ muốn điều dữ cho chúng ta, bởi vì tất cả mọi sự xảy đến cho chúng ta đều nhằm dẫn đưa chúng ta đến hạnh phúc cao cả hơn.
Quả thực, ở đâu và bất cứ lúc nào cũng có thập giá, đã mang tiếng khóc vào đời, con người tiến bước trong cuộc sống với tất cả gánh nặng của thập giá. Tại sao Thiên Chúa đã để cho con người phải đau khổ? Mãi mãi dường như con người sẽ không bao giờ tìm được câu giải đáp cho vấn đề đau khổ, Chúa Giêsu không bao giờ đặt vấn đề và cũng không bao giờ đem lại một giải đáp cho vấn đề, trong thinh lặng, Ngài đã vác lấy thập giá, và khi sống lại, Ngài cho chúng ta thấy rằng thập giá là con đường dẫn đến sự sống. “Hãy vác lấy thập giá và theo Ta”, đó là lệnh truyền của Ngài. Mang lấy thập giá với tinh thần chấp nhận và mến yêu, chúng ta sẽ thấy ánh sáng bừng lên trong cuộc sống, mang lấy thập giá, chúng ta sẽ thấy tình yêu mạnh hơn sự chết, mang lấy thập giá, chúng ta sẽ chiến thắng được hận thù và thất vọng. Tóm lại, không chối bỏ thực tại của đau khổ, chết chóc, nhưng chúng ta luôn được mời gọi để không nhìn vào đó như tiếng nói cuối cùng, như ngõ cụt, bởi vì vinh quang của Thiên Chúa là con người được sống, cho nên hướng đi của lịch sử loài người không phải là ngõ cụt của sự chết mà là sự sống, bên kia khổ đau, chết chóc, cuộc sống vẫn còn tiếp tục có ý nghĩa và đáng sống.
Đây cũng là điều nhắc nhở chúng ta: đàng sau mọi gian nan thử thách, đàng sau mọi đau khổ của cuộc đời, luôn có Thiên Chúa hiện diện để bảo vệ và nâng đỡ, để an ủi và khích lệ, và nếu chúng ta chẳng nhận được gì ở đời này, chúng ta vẫn tin rằng: Thiên Chúa sẽ thưởng công cho chúng ta ở đời sau.
Thánh Phaolô nói với chúng ta rằng Thiên Chúa đứng về phía chúng ta. Do đó, gian truân, đau khổ, và cả sự chết cũng không thể tách rời chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa, một tình yêu mà chúng ta nhận thấy nơi Đức Kitô.
Maya Angelu, một thi sĩ và tác giả người Mỹ, là một người phụ nữ khôn ngoan và cũng có đời sống thiêng liêng. Chị kể là vào một ngày kia, chị đã được thức tỉnh về mặt tôn giáo. Điều này xảy ra theo một cách thức rất đơn giản. Chị ngoài 20 tuổi, và vừa mới di chuyển đến San Francisco. Chị nói rằng lúc đó, chị là một người tích cực theo thuyết bất khả tri. Điều này không có nghĩa là chị không còn tin tưởng nơi Thiên Chúa nữa, mà chỉ là dường như Thiên Chúa không còn ở nơi những người sống chung quanh mà chị thường hay giao du với. Thế rồi có một giáo viên giới thiệu với chị một cuốn sách tựa đề là Những Bài Học về Chân Lý. Chị kể rằng vào một ngày kia, người giáo viên đó yêu cầu chị đọc cuốn sách đó cho ông ấy. Tôi lên 24 tuổi có học thức và cũng rất trần tục. Thầy giáo của tôi yêu cầu tôi đọc một phần trang sách chấm dứt bằng câu “Thiên Chúa yêu thương tôi”. Tôi đã đọc đến đây rồi gấp sách lại, nhưng thầy giáo bảo tôi “Cứ đọc lại đi”. Tôi mở sách ra, và đọc một cách mỉa mai “Thiên Chúa yêu thương tôi”. Ông bảo “Đọc nữa đi”. Sau đến 7 lần đọc đi đọc lại tôi bắt đầu cảm thấy rằng câu nói đó có thật, và có thể Thiên Chúa đã thực sự yêu thương tôi. Vâng, Người yêu thương tôi, Maya Angelu.
Đột nhiên, tôi bắt đầu khóc to. Tôi biết rằng nếu Thiên Chúa yêu thương tôi, thì tôi có thể làm được những điều kỳ diệu, tôi có thể làm được những điều vĩ đại, học hỏi, hoàn tất được bất cứ thứ gì. Bởi vì cái gì có thể chống lại tôi, nếu Thiên Chúa ở với tôi, bởi vì bất cứ người nào ở với Thiên Chúa, thì đều tạo được ưu thế.
Đối với Maya Angelu, mặc dù chị vẫn tin tưởng nơi Thiên Chúa, nhưng dường như Người quá xa vời và không có thật. Chỉ đến khi chị tin tưởng rằng Thiên Chúa yêu thương mình, thì Thiên Chúa mới có thật đối với chị. Thế rồi niềm tin đó đem lại năng lực cho chị. Đột nhiên, chị cảm thấy rằng mình có thể làm được tất cả mọi sự, đương đầu với bất cứ thứ gì, bởi vì Thiên Chúa yêu thương chị và ở với chị. Đức Giêsu vừa mới bắt đầu cuộc hành trình lên Giêrusalem của Người. Cho đến thời điểm này, chủ yếu Người làm việc ở Galilê. Ngay cả ở đó, khu vực mà Người lớn lên. Người đã gặp nhiều sự chống đối từ phía các nhà lãnh đạo tôn giáo. Nhưng khi lên Giêrusalem, Người cảm nhận được rằng một cái chết khủng khiếp chờ đợi Người tại đó. Tự nhiên, Người thoái lui trước số phận. Dường như Người phải suy niệm và cầu nguyện về điều này, và phải đi lên đỉnh núi Tabor.
Đức Giêsu có một kinh nghiệm tuyệt hảo trên ngọn núi đó. Người lắng nghe những lời nói tuyệt vời này “Con là Con Cha yêu dấu, Cha hài lòng về Con”. Nói cách khác, Người biết rằng Thiên Chúa yêu thương Người. Lời xác nhận này sẽ ban cho Người sức mạnh để đương đầu với tương lai, bất kể nó tiếp diễn ra sao. Vấn đề của chúng ta là ngay khi gặp rắc rối, lòng tin của chúng ta bị lung lay. Chúng ta nghĩ rằng Thiên Chúa bỏ rơi mình. Nhưng nếu cầu nguyện, chúng ta sẽ nhận ra rằng Thiên Chúa không hề bỏ rơi chúng ta, nhưng Người hằng ở với chúng ta trong khi chúng ta gặp gian khổ.
Trong tất cả mọi lúc, đặc biệt trong những lúc khó khăn, chúng ta nên ghi nhớ lời thánh Phaolô “Thiên Chúa đứng về phía chúng ta”. Và khi Thiên Chúa đứng về phía chúng ta, chúng ta có thể đương đầu với bất cứ điều gì.
Cách nhận biết rằng không gì có thể chia cách chúng ta khỏi tình yêu của Thiên Chúa, đó là sức mạnh trong những lúc yếu đuối, và niềm hy vọng của chúng ta những khi gặp nghịch cảnh. Khi gặp đau khổ, tất cả điều chúng ta phải làm là phó thác thân mình cho sự chăm sóc của Người. Giống như Đức Giêsu trên núi Tabor, chúng ta cũng có thể cảm nghiệm được những giây phút hiếm hoi của ánh sáng và niềm vui. Chúng ta được thoáng nhìn thấy đất hứa mà chúng ta đang tiến tới trong lòng tin. Trong tình yêu của Người đối với chúng ta, ngay trên trái đất này. Thiên Chúa cho phép chúng ta nếm được những niềm vui của thế giới sắp đến.
68. Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
Có hai thuyết về ngọn núi nơi Chúa Giêsu biến đổi hình dạng: có thể là núi Các-men ở miền bắc Ga-li-lê và gần Xê-da-rê Phi-líp-phê, nơi ông Phêrô tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Kitô; còn truyền thống quen thuộc thì cho đó là núi Ta-bô-rê ở phía nam Ga-li-lê giáp ranh với Sa-ma-ri và nằm trên đường xuống Giu-đê-a. Nếu ta coi hành trình của Chúa Giêsu lên Giê-ru-sa-lem như tột đỉnh sứ mệnh cứu thế của Đấng Kitô, thì Ta-bô-rê quả thực là bước quyết định để Chúa xác tín sứ mệnh ấy và nhất quyết đi Giê-ru-sa-lem để chịu đau khổ và chịu chết. Tuy nhiên, biến cố biến đổi hình dạng không chỉ có ý nghĩa đối với Chúa Giêsu, mà còn có ý nghĩa đối với các môn đệ, những kẻ muốn theo Chúa cũng phải “từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”.
a) Để Chúa Giêsu xác tín sứ mệnh và quyết định đi Giê-ru-sa-lem
Sứ mệnh cứu thế của Chúa Giêsu mỗi ngày cần phải được củng cố thêm, sao cho đúng với kế hoạch Chúa Cha đã phác họa. Sau những ngày tháng thành công và nổi danh tại Ga-li-lê, Chúa Giêsu chắc chắn bị cám dỗ không muốn rời Ga-li-lê. Tại sao lại rời bỏ môi trường mình đang gặt hái được những kết quả tốt đẹp? Nhưng Chúa Giêsu đặt thánh ý Chúa Cha lên trên hết. Người cần phải quyết định rõ ràng, theo “tư tưởng của Thiên Chúa” hay theo “tư tưởng của loài người”, lên Giê-ru-sa-lem hay ở lại Ga-li-lê. Việc biến đổi hình dạng trên núi có thể coi như một tiến trình quyết định lên đường đi Giê-ru-sa-lem. Vậy quyết định đi Giê-ru-sa-lem được củng cố như thế nào qua những gì xảy ra trên núi Ta-bô-rê?
Trước hết là qua sự xuất hiện của ông Mô-sê và ngôn sứ Ê-li-a bên cạnh Chúa Giêsu. Ông Mô-sê là người đem Lề Luật của Thiên Chúa cho Ít-ra-en. Còn Ê-li-a là vị ngôn sứ vĩ đại nhất. Chúa Giêsu đến để thực hiện tất cả những gì Lề Luật và các ngôn sứ nói. Do đó, sự hiện diện của hai vị bên cạnh Chúa Giêsu đã nói lên đầy đủ ý nghĩa sứ mệnh của Người, đồng thời là một khích lệ to lớn. Ta có cảm tưởng câu chuyện giữa Chúa Giêsu với Mô-sê và Ê-li-a xoay quanh đề tài về sứ mệnh của Chúa Giêsu mà thôi. Các ông nói với Chúa: “Ngài đã thi hành sứ mệnh cứu thế một cách tốt đẹp, xin Ngài cứ tiếp tục sứ mệnh ấy!” Các ông nhìn thấy nơi Chúa Giêsu thể hiện tất cả những gì Thiên Chúa đã dạy các ông nói trước đây.
Tiếp đến là qua lời xác nhận của chính Chúa Cha: “Đây là Con Ta yêu dấu”. Khi nói những lời này, Chúa Cha xác nhận tất cả những gì Chúa Giêsu đã làm trong quá khứ đều làm đẹp lòng Người. Đồng thời những lời đó cũng ngầm hiểu: Con đã quyết định đi Giê-ru-sa-lem là đúng, vậy Con cứ tiếp tục làm như đã quyết định. Chúa Giêsu không chỉ thấy việc chấp nhận thập giá như một điều không thể tránh né, nhưng tích cực hơn như một lẽ sống của Người và của toàn thể nhân loại. Người mong Chúa Cha sẽ nói qua Người với nhân loại những lời “đây là con Ta yêu dấu”.
b) Biến cố Chúa Giêsu biến đổi hình dạng mang ý nghĩa đối với môn đệ Người
Các môn đệ nản lòng sau khi Chúa Giêsu loan báo cuộc Thương Khó và Phục Sinh. Ông Phêrô thì phổi bò nên “bắt đầu trách Người”. Ông đóng vai trò của Xa-tan cám dỗ Chúa Giêsu đừng làm theo những gì Người đã loan báo. Ông đã rời chỗ đứng của ông, thay vì bước đi theo sau Chúa thì ông lại bước lên trước làm chướng ngại con đường thập giá của Người. Mới đây ông đã thay mặt anh em môn đệ để tuyên xưng đức tin Chúa Giêsu là Đấng Kitô thì bây giờ ông cũng thay mặt anh em để cản đường Chúa lên Giê-ru-sa-lem. Do đó, việc Chúa biến đổi hình dạng trên núi thật là cần thiết để ông và các bạn trở về chỗ đứng môn đệ của họ và lấy lại đức tin đã bị lung lạc do hình ảnh Thương Khó và cái chết của Chúa tại Giê-ru-sa-lem. Dù hiểu hay không hiểu sứ mệnh của Chúa Giêsu, thì ít ra lúc này các ông cũng được phục hồi niềm tin vào Người sau khi nghe những lời Chúa Cha nói với Người: “Đây là Con Ta yêu dấu”. Ngoài ra biến cố trên núi hiển dung cũng chuẩn bị các ông trong sứ mệnh làm chứng cho Chúa Giêsu. Vinh hiển các ông được chứng kiến trên núi là những gì tiên báo cho vinh hiển của Chúa Kitô Phục Sinh mà các ông sẽ rao giảng cho muôn dân.
c) Chúa Giêsu biến đổi hình dạng trong cuộc sống Kitô hữu
Có khi nào ta nghĩ rằng cả cuộc đời Kitô hữu của ta là tiếp diễn cuộc biến đổi hình dạng của Chúa Giêsu theo một nghĩa nào đó không? Dĩ nhiên ta không dám hiểu đó là một cuộc biến đổi chiếu tỏa vinh quang, nhưng là một sự thay đổi con người của ta trở nên giống Chúa Kitô mỗi ngày một hơn. Thánh Lê-ô Cả Giáo hoàng đã nói trong bài giảng của ngài: “Thiên Chúa đã khôn ngoan dự liệu cho niềm hy vọng của Hội Thánh có nền tảng vững vàng: Người cho Hội Thánh biết toàn thân thể mầu nhiệm của Đức Kitô sẽ được biến đổi ra sao. Người cũng dự liệu cho các chi thể tin chắc mình sẽ được thông phần vinh quang rực rỡ của Đầu là Đức Kitô” (Bài đọc 2, giờ Kinh Sách CN 2 mùa Chay).
Có lẽ thánh Phao-lô đã diễn tả cuộc biến đổi hình dạng của đời sống Kitô hữu một cách cụ thể nhất qua những lời ngài gửi cho các tín hữu Phi-líp-phê: “Vấn đề là được biết chính Đức Kitô, nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ của Người, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người, với hy vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết” (Pl 3:10-11). Việc ta biến đổi nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô quả thực tiếp tục cuộc hiển dung của Người trên núi Ta-bô-rê.
d) Suy nghĩ và cầu nguyện
Thập giá nào trong cuộc sống có thể làm cho tôi mất đi đức tin vào Chúa Kitô? Tôi có nhận ra được ý nghĩa đích thực của thập giá đó không?
Phụng vụ Lời Chúa lấy câu truyện Chúa Giêsu biến đổi hình dạng làm chủ đề cho Chúa Nhật 2 mùa Chay có ý nghĩa gì đối với tôi? Tôi có nhận ra sứ điệp nào đặc biệt không? Và tôi đã đáp lại thế nào?
Ông Phêrô xin dựng cho Chúa một cái lều trên núi để ông được tiếp tục cảm nghiệm những giây phút đầy an ủi khích lệ. Tôi có muốn dựng một cái lều ngay trong đời sống của tôi để Chúa cư ngụ và biến đổi con người tôi không? Dựng lều như thế nào?
Cầu nguyện
“Xin ở lại với con, lạy Chúa,
vì con cần có Chúa hiện diện
để con khỏi quên Chúa.
Chúa thấy con dễ bỏ Chúa biết chừng nào.
Xin ở lại với con, lạy Chúa,
vì con yếu đuối,
con cần Chúa đỡ nâng để con khỏi ngã quỵ.
Không có Chúa,
con đâu còn nồng nhiệt hăng say.
Xin ở lại với con, lạy Chúa,
vì trời đã xế chiều và ngày sắp tan,
cuộc đời qua đi, vĩnh cửu gần đến.
Con cần được thêm sức mạnh
để khỏi ngừng lại dọc đường.
Xin ở lại với con, lạy Chúa,
vì con cần Chúa trong đêm tối cuộc đời.
Con không dám xin những ơn siêu phàm,
chỉ xin ơn được Ngài hiện diện.
Xin ở lại với con
vì con chỉ tìm Chúa, yêu Chúa
và không đòi phần thưởng nào khác
ngoài việc được yêu Chúa hơn”.
– Cha Pi-ô
(Trích RABBOUNI, lời nguyện 16)
69. Đệ tam nhãn – Lm. Vincent Travers.
Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi Tabôrê. Phêrô la lên: “Lạy Chúa, chúng ta ở đây thú vị biết bao!”. Thật thế, các ông thấy được một khía cạnh nơi Chúa Giêsu mà các ông chưa bao giờ nhìn thấy trước đó. Điều nầy lưu lại một ấn tượng sâu xa giúp các ông đứng vững trong những ngày đen tối đầy thử thách đang trải dài trước mắt các ông. Từ đây trở đi, Chúa Giêsu không chỉ đơn thuần là một rabbi, con ông thợ mộc ở Nagiarét. Giờ đây Ngài là Đức Kitô, con yêu dấu của Thiên Chúa.
Đã thấy vinh quang
Dòng chữ đầy ý nghĩa nhất ở trong phần mở đầu của đoạn Phúc Âm nầy là: “Chúa Giêsu đã đem ông Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cầu nguyện.” Chúng ta cũng có thể nhớ lại một dịp về sau khi Ngài đem riêng bộ ba đó theo Ngài. Đó là khi ở trong vườn Giếtsêmani. Ở trên núi Tabôrê họ đã thấy vinh quang của Chúa. Ở trong vườn cây dầu, họ đã chứng kiến cảnh hấp hối của Chúa. Đó là lúc trèo lên núi cao. Đó là lúc tụt xuống đất thấp. Ở trên cao họ đã được hỗ trợ cho khi phải xuống đất thấp. Kinh Tiền Tụng trong Thánh Lễ Chúa Nhật thứ hai Mùa Chay đã ghi lại như sau: “Ngài đã mạc khải vinh quang của Ngài để tăng sức cho họ khi phải đối diện với sự nhục nhã của thập giá.” Thật đúng như vậy, nhưng một câu hỏi đã được đặt ra: “Còn đối với chúng ta thì sao?”.
Chúng ta có thể đối đầu với nhiều chống đối và bách hại, thử thách và áp lực, nếu chúng ta có được một dấu chỉ về sự hiện diện của Chúa cho thấy rồi ra cuối cùng mọi sự sẽ được êm xuôi, đâu vào đấy. Chúng ta có điều gì để bám víu vào, có mạc khải nào cho thấy chúng ta sẽ trải qua cơn khủng hoảng khi mất đi một người thân yêu, khi bị sa thải mất việc hoặc bị chối bỏ trong một sự tương giao… mà những điều đó xem ra là cả một vũ trụ đối với chúng ta? Câu trả lời là “có”. Trong thực tế, chúng ta đã có những lúc được thấy Chúa biến hình khi Ngài tự mạc khải cho chúng ta. Chỉ cần chúng ta thấy – thấy và nhận thấy điều gì đang xảy ra đó. Sự nghịch lý lớn lao ở trong Thánh kinh là: “ai có đôi mắt thì bị mù, còn ai mù thì có thể thấy”.
Thiên Chúa vô hình
Những nhà thần bí học đã đề cập đến đệ tam nhãn – con mắt thứ ba. Họ nói tới việc nhìn thấy với con mắt của tâm hồn. Họ nói cho chúng ta rằng nếu chúng ta nhìn xem bề ngoài thì chúng ta đánh mất điều cơ bản, cái thực tại ở bên trong. Có một câu đầy ý nghĩa trong sách “The Little Prince” (Vị Tiểu Hoàng Tử). Câu đó là: “Điều gì cơ bản thì con mắt không thể thấy được.”
Một quyển sách khác – quyển “Reaching For The Invisible God”(Đạt Tới Thiên Chúa Vô Hình) – đã đặt câu hỏi: “Ở đâu chúng ta có thể trông mong gặp được Thiên Chúa Vô Hình?”.Joseph Mary Plunket, thi sĩ người Ái-Nhĩ-Lan là với khả năng con người, đã nhìn thấy Thiên Chúa vô hình ở trong thiên nhiên. Ông đã cảm hứng viết ra bài thơ sau đây:
“Tôi đã thấy huyết Ngài trên đóa hoa hồng,
Và vẻ đẹp của đôi mắt Ngài trên những vì sao.
Thân thể Ngài chiếu sáng giữa màn tuyết trắng muôn thuở,
Những giọt lệ Ngài rơi lã chã từ bầu trời cao.”
Thiên Nhiên đã cung ứng cho thi sĩ Plunket những dịp biến hình và ngạc nhiên thay, ông đã chiêm ngắm vinh quang Thượng Đế trong một đóa hoa tươi, một hạt mưa rơi và một cụm tuyết trắng.
Chúng ta cũng thế, chúng ta được diễm phúc nhìn thấy Thiên Chúa vô hình với khả năng con người chúng ta. Phải chăng đôi khi chúng ta đã không hỏi một người thân yêu hãy “nhận ra chúng ta” trong đám quần chúng đông đảo sao? Sự thật họ đã nhận ra và chúng ta vui sướng biết bao khi thấy họ nhận ra chúng ta trong đám đông đó. Chúng ta hãy nhận ra Thiên Chúa với con mắt của tâm hồn. Ngài đến với chúng ta không phải theo cung cách chúng ta nhưng theo cung cách của Ngài. Có thể chúng ta không nhận chân sự hiện diện của Ngài trừ khi chúng ta cố nhìn ra Ngài.
Thiên Chúa trong tô cháo gà
J.D. Salinger đã viết quyển sách “Fanny and Zooey” khiến người đọc phải choáng váng. Một cảnh gây nên ấn tượng lớn là khi Fanny từ trường cao đẳng về nhà, thần kinh bại hoại thê thảm. Cô đang nghiên cứu tỉ mỉ nền thần bí học về đạo giáo và cố gắng đó đã khiến cô căng thẳng tột độ. Thêm vào đó, mẹ cô cảm thấy lo lắng bồn chồn và để biểu lộ điều đó, bà đã dọn cho cô một tô cháo gà. Fanny rõ biết mẹ cô đang ra sức vỗ về cô nhưng sự trao tặng đó chọc giận cô khiến cô văng tục.
Em trai Fanny đang ngồi bàn ăn, nhảy nhổm lên và đối đầu với cô. Cậu thẳng thừng bảo cô là toàn bộ lối tiếp cận của cô đối với tôn giáo đều sai lầm hết: “Nếu tôn giáo là điều chị truy tầm, thì đây là lúc có người nói cho chị biết là chị đang đánh mất mỗi một tác động về tôn giáo đang xảy ra trong căn nhà nầy. Chị không có chút nhận thức khi thưởng thức một tô xúp đã được thánh hóa và đó là loại xúp duy nhất mà mẹ dọn ra trên bàn ăn nầy.”
Cậu em đã thấy điều mà cô chị không thấy. Cậu đã nhìn thấy với đệ tam nhãn, sự mạc khải của tình yêu Thiên Chúa ở trong tô cháo gà của mẹ cậu. Fanny mù mắt. Cô có đôi mắt nhưng cô đã không thể thấy. Cô đã không thể thấy Đức Kitô ở trong cuộc sống tầm thường. Cô không thể thấy Ân sũng Thiên Chúa trong một tô cháo gà. Có thể cô đã ganh tị với Phêrô, Giacôbê và Gioan ở trên núi Tabôrê, nhưng cô cũng có một kinh nghiệm về biến hình và giả như cô đã quan sát, có thể cô đã được biến đổi và cô sẽ la lên: “Lạy Chúa, Con tạ ơn Chúa, thật thích thú được ở nơi đây, tại bàn ăn nầy.”
Sự mạc khải có thể đã nuôi dưỡng cô, nâng đỡ cô khi xuống tinh thần và giúp đỡ cô qua cơn khủng hoảng.
Thiên Chúa ở đây
Đối với chúng ta thì sao? Chúng ta cũng có thể chứng kiến những cuộc biến hình trong đời sống chúng ta. Thiên Chúa đã ban cho chúng ta điều đó nhưng thường khi đôi mắt chúng ta mất cơ hội thấy Ngài trong cuộc sống thường nhật, khi chúng ta thưởng thức một tô xúp nóng, khi ngắm xem một buổi chiều tà hay một đóa hoa xinh, khi được trao tặng một nụ cười tươi, khi đón tiếp những người anh chị em bất hạnh nhất của chúng ta. Thánh kinh cho chúng ta rõ hoặc là chúng ta thấy Chúa khắp mọi nơi hoặc là chúng ta không thấy Ngài ở đâu hết. Mỗi một cuộc thăm viếng của Thiên Chúa vô hình là một lúc đầy ân sũng khiến chúng ta phải la lên: “Lạy Chúa, chúng con ở đây thật thích thú biết bao!”
Thích thú cho đến đỗi Phêrô, Giacôbê và Gioan đã muốn ở lại mãi trên đỉnh núi Tabôrê. Nhưng Chúa Giêsu đã dẫn dắt họ xuống núi. Không ai sống mãi trên một đỉnh núi. Thỉnh thoảng lên đó một lúc và rồi sau đó phải đi xuống thật xa để có những hoài vọng và cảm hứng mới. Chúng ta phải xuống núi. Sống là sống trong những thung lũng, làng mạc và thị thành. Chính ở đó có nhà cửa, trường ốc, bệnh xá, nhà tù, công sở, hảng xưởng và dinh thự… Đó là nơi người ta sinh hoạt, nơi có sự yêu thương và tha thứ, nơi có được miếng cơm manh áo, nơi vác thánh giá hằng ngày, nơi pha lẫn tiếng khóc và tiếng cười, đàn hát nhảy múa kể cả sinh hoạt cho phần rỗi linh hồn. Đó là nơi làm cho những mảnh đời chúng ta có ý nghĩa. Đó là nơi chúng ta đem thi thố những hoài bão và ước vọng. Chúng ta nên làm chiếu tỏa ánh sáng của núi Tabôrê trong đời sống chúng ta, ánh sáng mà qua đó bộ mặt nhân loại của chính Thiên Chúa được mạc khải.
Câu hỏi gợi ý:
1. Điều các tông đồ thấy nơi Đức Giêsu khi Ngài hiển dung trên núi khác với điều các ông thấy nơi Ngài hằng ngày ở chỗ nào? Trường hợp nào các ông thấy được bản chất của Ngài?
2. Chúng ta cần hành xử với mọi người đúng theo bản chất con người họ, hay theo những gì chúng ta thấy ở bên ngoài? Bản chất đích thực và sâu xa nhất của mỗi người là gì?
3. Bản chất đích thực của mọi người chung quanh ta – là hình ảnh và là con cái Thiên Chúa – có hiện ra trước con mắt đức tin của ta không? Ta thường hành xử theo con mắt đức tin hay theo con mắt xác thịt?
Suy tư gợi ý:
1. Bản chất và hiện tượng
Khi cứu xét một sự vật, dù lớn hay nhỏ, tâm hay vật, trừu tượng hay cụ thể… bất cứ triết lý nào, đông phương cũng như tây phương, đều nói đến và phân biệt hai phạm trù căn bản này: bản chất và hiện tượng.
– Hiện tượng: là những gì hiện ra trước mắt mọi người, thấy được dễ dàng, và thường thay đổi, nay thế này mai thế khác. Chẳng hạn, đối với một người, thì hiện tượng là những gì liên quan đến hình dạng (khuôn mặt, chiều cao, vẻ đẹp, mầu da), khả năng (trình độ văn hóa, nghề nghiệp, chuyên môn, tài nghệ), tính nết (quan niệm, tư tưởng, thói quen, các khuynh hướng), sở hữu (sự giàu nghèo, của cải, nhà cửa), v.v…
– Bản chất: là cái sâu thẳm bên trong, khiến cho một vật là chính nó, chỉ thấy được bằng trí tuệ, và tương đối không thay đổi.
2. Khi Đức Giêsu hiển dung, các tông đồ thấy được bản chất của Ngài
Khi sống với Đức Giêsu, các tông đồ chỉ thấy được những hiện tượng bên ngoài của Thầy mình: thân xác, thói quen, lời nói, việc làm, với những lời giảng dạy, những phép lạ, v.v… Từ đó các ông dự đoán về bản chất của Thầy mình: trước hết Ngài là một Thầy Đạo vì Ngài dạy về đạo lý, tôn giáo; kế đến Ngài là người được Thiên Chúa sai đến, là người của Thiên Chúa, vì Ngài có thể nhân danh Thiên Chúa mà làm phép lạ, chữa bệnh, trừ quỉ… Sự hiểu biết của các ông về bản chất của Ngài chỉ là dự đoán, căn cứ trên những hiện tượng mà các ông thấy được, tuy đúng, nhưng chưa phải là bản chất đích thực và sâu xa của Ngài.
Nhưng vào thời điểm của bài Tin Mừng này, các ông được nhìn thấy nhãn tiền bản chất của Thầy mình qua những hình ảnh mang tính biểu tượng diễn ra trước mắt các ông. Ngài đứng giữa Môsê và Êlia, là hai nhân vật vĩ đại tiêu biểu cho Lề Luật và các ngôn sứ, là hai thực tại nền tảng của tôn giáo Do Thái. Đứng giữa hai ông, điều đó có nghĩa là Ngài lớn hơn hai ông. Toàn cảnh – với y phục rực rỡ, mây trắng bao phủ – biểu tượng cho sự vinh quang cùng tột của Ngài. Câu nói từ trong đám mây phán xuống cho các ông biết rõ bản chất đích thực của Ngài: «Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người». Vậy thì Ngài chính là Con Thiên Chúa. Điều các ông thấy bằng mắt, nghe bằng tai về Thầy mình hôm nay là bản chất đích thực của Ngài, khác với bình thường các ông chỉ thấy những hiện tượng bên ngoài của Ngài.
3. Chúng ta cần thấy được bản chất của mình và tha nhân
Trong đời sống, chúng ta chỉ nhìn thấy được những hiện tượng bên ngoài của sự vật, của người này người nọ. Và qua những hiện tượng ấy, tâm trí ta tìm kiếm, khám phá ra bản chất của sự vật, của con người. Tuy nhiên, nếu chỉ căn cứ vào những hiện tượng bên ngoài, sự phán đoán của ta về bản chất của sự vật hay của con người có thể sai lầm. Thấy được bản chất đích thực của người, việc, vấn đề ta gặp trong cuộc đời là điều hết sức quan trọng để chúng ta hành xử đúng, thích hợp.
Trong đời sống, rất nhiều khi chúng ta đối xử với người khác, theo những hiện tượng mà ta thấy được nơi họ, chứ không theo bản chất đích thực của họ. Hiện tượng là cái có thể thay đổi, nay còn mai mất, nay thế này mai thế khác: như của cải, tài năng, quyền lực… Thật vậy, nhiều người hôm trước còn giàu nứt khố đổ vách, hôm sau biến thành trắng tay. Nhiều người khi gặp lại sau nhiều năm xa cách, ta không ngờ được tính tình của họ đã đổi trắng thay đen quá nhanh chóng và sâu xa… Nói cụ thể hơn, nhiều khi cách chúng ta đối xử với tha nhân tùy thuộc vào sự giàu nghèo, vào quyền lực, vào tính nết của họ… Chúng ta không nhìn vào bản chất đích thực của họ và đối xử theo bản chất ấy.
4. Bản chất đích thực của con người: là hình ảnh và là con cái của Thiên Chúa, được dựng nên giống như Ngài
Sự hiển dung của Đức Giêsu cho các tông đồ và cho cả chúng ta thấy bản chất đích thực của Ngài. Kinh Thánh, hay đức tin, cho ta biết bản chất đích thực và sâu xa nhất của ta và của những người mà ta gặp trong cuộc đời. Họ và ta đều được Thiên Chúa tạo dựng «theo hình ảnh của Ngài» (St 1,27; 9,6; Ep 4,24), «giống như Ngài» (St 1,26; 5,1), để trở thành «con cái Ngài» (Lc 20,36; Ga 11,52; Rm 8,14.16.21; Gl 3,26; 1Ga 3,1.2.10). Họ và ta đã được Thiên Chúa «ban tặng một điều rất quý báu và trọng đại» là «được thông phần bản tính của Ngài» (2Pr 1,4). Mà bản tính của Ngài là thần linh, nên khi «được thông phần bản tính của Ngài», một cách nào đó, họ và ta cũng mang bản tính thần linh nơi bản chất mình (x. Tv 82,6; Ga 10,35). Đức tin Kitô giáo cho chúng ta thấy phẩm giá nội tại của con người thật hết sức cao cả. Nếu nhìn bằng con mắt đức tin, và thật sự hành xử đúng theo những gì đức tin đòi hỏi, chúng ta sẽ phải coi trọng chính bản thân mình và mọi người chung quanh ta biết bao!
Coi trọng bản thân đòi buộc ta phải sống thánh thiện, tốt lành, cao thượng xứng với bản chất cao quí của mình. Sống hèn hạ, tội lỗi không chỉ là tự khinh rẻ bản thân mình, mà còn giống như làm dơ bẩn hay chà đạp hình ảnh của Thiên Chúa. Một cách nào đó, đó là vũ nhục Thiên Chúa. Tương tự như con của một ông vua mà sống một cách hèn hạ, nhục nhã, mất phẩm giá, điều này làm mất mặt nhà vua, làm nhà vua phải xấu hổ trước mặt thần dân.
Coi trọng mọi người đòi buộc chúng ta phải cư xử với họ đúng với bản chất cao quí của họ. Bất cứ ai, hễ đã là người thì ta đều phải coi trọng, cho dù người đó hiện ra thế nào trong thế giới hiện tượng: nghèo nàn, dơ bẩn, hèn hạ, xấu xa, tội lỗi, hay có những hành vi bỉ ổi, đáng khinh… Dù họ thế nào, hễ đã là người, thì họ đáng kính trọng, chính vì bản chất của con người rất cao trọng. Luật pháp các nước nói chung đều cho việc cố ý giết người là một tội nặng, đáng chịu hình phạt nặng nhất, cho dù người bị giết là người có những hành vi hèn mạt hay tội lỗi đến đâu. Điều đó cho thấy luật pháp các nước đã nhìn nhận phẩm giá cao quí của con người, bất chấp con người thế nào.
Là người Kitô hữu, đúng ra ta phải luôn luôn thấy mọi người đều «hiển dung» trước con mắt đức tin của mình, nghĩa là ta phải thấy được bản chất đích thực rất cao quí của mọi người. Nếu ta thật sự tôn trọng và yêu mến Thiên Chúa, thì tất nhiên ta phải tôn trọng và yêu mến con cái của Ngài, hình ảnh của Ngài, là những con người cụ thể chung quanh ta. Thiên Chúa thì vô hình, nhưng hiện thân của Ngài thì rất hữu hình bên cạnh ta, chung quanh ta. Nếu ta không tôn trọng và yêu mến những hiện thân cụ thể ấy của Ngài, thì sự tôn trọng và yêu mến Ngài nơi ta chỉ là một ảo tưởng. Thánh Gioan nói: «Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy» (1Ga 4,20).
Cầu nguyện
Lạy Cha, việc Đức Giêsu hiển dung trước mắt các tông đồ khiến các ông nhìn thấy bản chất đích thực và cao trọng của Ngài là Con Thiên Chúa. Nếu con mắt đức tin của con còn trong sáng, tinh nhuệ, ắt con cũng thấy mọi người chung quanh con «hiển dung» trước mắt con với bản chất rất cao trọng của họ: là hình ảnh và là con cái của Cha. Xin cho con biết biểu lộ lòng yêu mến và tôn trọng Cha một cách cụ thể qua việc yêu thương và quí mến những người đang sống chung quanh con, bất chấp họ là người thế nào.
(Suy niệm của Lm. Anphong Trần Đức Phương)
Chúng ta đã bước sang Chúa Nhật II Mùa Chay. Trong Chúa Nhật II Mùa Chay, bài Phúc Âm cả ba chu kỳ năm A (Matthêu 17: 1-9), năm B (Matcô 9:2-10), và năm C (Luca 9:28-36) đều nói đến việc Chúa Giêsu dẫn ba môn đệ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cao cầu nguyện và Ngài ‘biến hình’ trước mặt các ông. Tuy có một vài chi tiết nhỏ khác nhau, nhưng cả ba Thánh Sử đều ghi lại ‘dung nhan Chúa Giêsu biến đổi, sáng láng, áo Ngài trắng tinh tuyền…’; rồi các ông cảm thấy thật hạnh phúc và muốn ‘dựng lều’ để ở lại trên đó luôn. Đặc biệt cả ba Thánh Sử đều ghi lại lời Chúa Cha nói: “Này là Con ta yêu dấu!…” Đây cũng là lời Chúa Cha nói về Chúa Giêsu sau khi Chúa Giêsu chịu Phép rửa của Thánh Gioan Tẩy Giả (Matthêu 3:17). Lời này nhắc đến Thánh vịnh 2,7 “Con là Con Cha, hôm nay Cha đã sinh ra Con!” và lời tiên tri Isaia “Đây là tôi tớ Cha, Ta hài lòng về Người” (Isaia 42:1).
Bài Đọc I trong cả năm A, năm B và năm C đều nói về tổ phụ Abraham. Ông Abraham đã được coi như người Cha của những người có lòng tin nơi Chúa (The Father of Believers). Ông đã tin tưởng tuyệt đối nơi Chúa là Đấng đã gọi ông và ông đã vâng theo lời Chúa, từ bỏ quê hương của mình là đất Ur và ra đi đến nơi Chúa chỉ cho ông là đất Palestine (Năm A: Sáng Thế 12:1-4). Thiên Chúa đã ký kết với ông một giao ước cho dòng dõi của ông tồn tại và phát triển và được hưởng phần đất Palestine làm gia nghiệp (Năm C: Sáng Thế 15:5-12, 17-18). Abraham đã thấy rõ tình yêu thiên Chúa đối với ông. Ông luôn luôn tin tưởng nơi Chúa và chấp nhận mọi thử thách, gian nan trong cuộc sống theo Thánh ý Chúa. Cả khi Chúa thử thách ông và bảo ông hy sinh người con trai duy nhất của ông là Isaac cho Chúa, ông đã sẵn sàng ngay (Năm B: Sáng Thế 22: 1-2,9,10-13,15-18). Dù Isaac không bị giết, nhưng tấm lòng của Abraham đã chứng tỏ niềm tin và tình yêu tuyệt đối của ông đối với Chúa, sẵn sàng hy sinh tất cả để đáp trả tình yêu Chúa.
Bài Đọc II (Roma 8: 31-34) nhắc đến tình yêu muôn đời của Thiên Chúa đối với chúng ta; đã tạo dựng chúng ta “theo hình ảnh Chúa”, cho chúng ta vượt xa mọi loài thụ tạo, chúng ta có xác, và cũng có hồn thiêng, được chung hưởng cuộc sống đời đời với Chúa. Hơn nữa, cũng vì yêu thương chúng ta, ‘Thiên Chúa đã hy sinh chính Con một yêu dấu của Ngài để hy sinh đền vì tội lỗi chúng ta!”
“Tình yêu đáp trả tình yêu!”
Mùa Chay là thời gian ‘thuận tiện’ để chúng ta suy gẫm về tình yêu Chúa đối với nhân loại và mỗi người chúng ta. Chúng ta đã làm gì để đáp trả lại tình yêu của Chúa đối với chúng ta. Chúng ta có dám hy sinh tất cả DANH, LỢI, THÚ để sống trọn vẹn cho Chúa, để hoàn toàn tận hiến cho Chúa, dám cùng chết đi với Chúa theo tính xác thịt của chúng ta, từ bỏ tính hư nết xấu, chết đi thật cho tội lỗi để có thể sống lại thật với Chúa trong Mùa Phục Sinh.
Cuộc đời là một thử thách không ngừng qua các lỡ làng, đau khổ hàng ngày, mà bản tính con người lại thích an hưởng, thích ‘dừng lại’ và ‘dựng lều’; nhưng thử thách cứ luôn xảy ra, và mỗi người chúng ta đều “phải chịu nhiều gian khổ mới được vào nước Thiên Chúa!” (Công Vụ Tông Đồ 14,22). Chính Thánh Phêrô cũng muốn ‘dựng lều’ để hưởng hạnh phúc êm đềm khi Chúa ‘biến hình’; nhưng không được, Thầy trò phải ‘xuống núi’, phải đối diện với thực tế, với bao gian truân vất vả trên đường truyền giáo, rồi cũng phải chịu khó khăn và chịu chết.
Xin cho chúng ta luôn biết nhìn lên Thập Giá của Chúa, để can đảm “bỏ mình đi, vác thánh giá hàng ngày theo chân Chúa” (Matcô 8,34…) đến đỉnh núi Gôn-gô-ta, và chấp nhận thử thách cuối cùng là cái chết, ‘chịu táng trong mồ’, để có thể ‘được sống lại và lên trời vinh hiển’, hưởng hạnh phúc đời đời với Mẹ Maria, các Thiên Thần và các Thánh.
Câu chuyện Thiên Chúa yêu cầu Abraham hy sinh người con trai Isaac của ông là một câu chuyện lạ. Trên thực tế, đây là một câu chuyện gây sốc. Điều làm cho chúng ta cảm thấy rắc rối nhất là hình ảnh Thiên Chúa tình cờ bắt gặp.
Tuy nhiên, chúng ta phải cố gắng hiểu được ý nghĩa mà câu chuyện muốn chuyển tải. Câu chuyện này dạy cho chúng ta một điều gì đó rất quan trọng, và là một câu chuyện rất hay, đưa ra một hướng trái ngược với điều mà nó hy vọng để lại cho người nghe, bắt đầu bằng cách dường như muốn nói rằng Thiên Chúa chấp nhận sự hy sinh của con người, và thậm chí có khi Người còn đòi hỏi sự hy sinh đó nữa. Nhưng đối tượng của câu chuyện là nhằm chỉ ra một điều trái ngược hẳn lại. Đó là cố gắng chỉ ra cho chúng ta rằng trên thực tế, sự hy sinh của con người trái với ý muốn của Thiên Chúa.
Và câu chuyện đã kể lại về điều này một cách rất thú vị. Dường như yêu cầu của Thiên Chúa đối với Abraham là quá tàn bạo và bất công, đến nỗi làm cho chúng ta muốn kêu lên “Hãy ngưng lại đi! Điều này sai trái. Điều này khủng khiếp!”. Chúng ta phải suy xét lại ý tưởng ông già Abraham bị Thiên Chúa đòi hỏi phải hy sinh người con trai Isaac của ông. Cảm giác khiếp sợ của chúng ta được nâng lên, nhờ gánh nặng của niềm hy vọng đặc biệt mà Isaac đã được mang trên vai – làm trọn lời hứa rằng Abraham sẽ có vô số con cháu.
Mục đích của câu chuyện là khơi gợi lên nỗi khiếp sợ về ý tưởng rằng Thiên Chúa đòi hỏi con người phải hy sinh. Sống giữa những người Canaan vốn là những người thực hành hy tế theo kiểu nhân loại, nên bằng cách này hoặc cách khác, Abraham đã có ý nghĩ rằng Thiên Chúa đang đòi hỏi nơi ông hành động hy sinh này. Nhưng Thiên Chúa đã chỉ ra cho ông cách thế khác. Câu chuyện này có ý muốn đặt dấu chấm hết cho sự hy sinh của con người đối với Thiên Chúa.
Tại sao Thiên Chúa lại muốn thử Abraham? Để cho cả thế giới biết rằng nếu có người nào đó nói với chúng ta “ Nhân danh Thiên Chúa, tôi phạm tội giết người”, thì chúng ta sẽ biết rằng người đó nói dối. Đó là ý kiến nhất trí của truyền thống Do thái Chính thống. Thật đáng buồn, việc giết người nhân danh Thiên Chúa đã được thực hiện một cách phổ biến qua nhiều thời đại. Ngay cả trong thời đại của chúng ta, vẫn có những kẻ giết người vì niềm tin tôn giáo, và họ nghĩ rằng làm như thế là họ đang tôn vinh Thiên Chúa. Tháng 10 năm 1995, Yigal Amir, một tín đồ Do thái Chính thống, đã bắn chết Yitzhak Rabin. Thỉnh thoảng, những người Palestine mang bom tự sát đánh lại người Israel, giết chết đàn ông, phụ nữ, trẻ con vô tội, đều là những tín đồ Hồi giáo chính thống. Năm 1994, Paul Hill, kẻ đã giết chết một bác sĩ và người cận vệ của ông bên ngoài một dưỡng đường phụ sản, là một cựu linh mục thuộc Giáo hội Trưởng lão ở Scotland. Đây chỉ là một ví dụ. Thiên Chúa không muốn lấy điều ác đáp trả lại điều ác, lấy đau khổ đáp trả lại đau khổ, lấy mạng đền mạng. Các trang lịch sử nhuộm tràn đầy máu do những người tự cho mình là “kẻ báo thù của Thiên Chúa”. Những vua chúa và nguyên thủ các quốc gia đã giết chết người, đòi hỏi uy quyền và ân sủng của Thiên Chúa cho những hành động đen tối của họ.
Câu chuyện trên chứng tỏ rõ ràng về chiều sâu nơi lòng tin của Abraham.. Ông được chuẩn bị để hy sinh điều quí giá nhất của ông. Lòng tin ngoại hạng của ông đã được trọng thưởng một cách đặc biệt. Không có gì đáng thắc mắc, khi chúng ta gọi ông là “cha của những kẻ tin”.
Câu chuyện trên lên án tư tưởng tôn vinh Thiên Chúa bằng cách cướp đi một mạng sống. Nhưng Đức Giêsu đề cập đến một điều gì đó mang tính cách thách đố hơn nhiều: đó là tư tưởng tôn vinh Thiên Chúa bằng cách tự cống hiến chính cuộc đời của mình, để phục vụ Thiên Chúa và người khác. Người đã đưa ra một gương mẫu nơi chính bản thân Người. Thiên Chúa không hề đòi hỏi nơi Đức Giêsu mạng sống của Người. Nhưng Đức Giêsu đã tự hiến thân mình một cách tự do, trong việc phục vụ Thiên Chúa và người khác. “Cống hiến chính cuộc đời của mình” không nhất thiết là phải chịu chết. Điều này có nghĩa là sống vì người khác.
73. Suy Niệm của Lm. Nguyễn Văn Phan.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay cho chúng ta một dịp nhìn lại cá tính và đức tin của Abraham. Lệnh truyền sát tế Isaac, người con duy nhất sinh ra trong lúc tuổi già, thì thật là vượt quá tầm nhìn cách nghĩ của con người và xem ra là phi lý. Sẽ thực hiện ra sao đây lời chúc phúc của Thiên Chúa cho ông làm tổ phụ các dân tộc, nếu không có người con Isaac này? Thiên Chúa đòi hỏi ông hiến tế luôn cái cơ hội sống còn cuối cùng này của ông, đồng thời cũng là cái nền tảng cho niềm tin của ông. Yêu cầu của Thiên Chúa quá đỗi đau thương đoạn trường, nhưng với niềm tin cậy vào Thiên Chúa, ông vội vã thực hiện ngay lệnh truyền ấy. Cần vâng phục Thiên Chúa bất cứ giá nào. Ngay khi ông đang giơ cao con dao để hạ sát con trai, Thiên Chúa đã ngăn cản bàn tay ông và mạng sống của Isaac được dành lại.
Đức tin và lòng vâng phục của Abraham trở nên gương mẫu cho tất cả chúng ta noi theo. Ông luôn đón nhận lời Chúa và đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa, ngay cả những khi đức tin của ông bị thử thách vượt qua mọi giới hạn. Như Abraham ngày xưa, chúng ta được Thiên Chúa kêu gọi lên đường đi đến một vùng đất chưa hề biết, đặc biệt nhiều khi hoàn cảnh chung quanh làm cho đức tin chúng ta trở nên không thể hiểu được, hầu như là vượt khỏi khả năng suy nghĩ của con người. Những lúc khủng hoảng, như cái chết của người thân yêu làm cho cuộc đời trở nên u ám, thì chúng ta lại càng cần tín thác vào Lời Chúa. Chúng ta đang đi nhờ ánh sáng đức tin chứ không phải bằng đôi mắt trần (2Cr 5,7). Một khi chúng ta tin tất cả những gì Chúa nói và Chúa làm, không phải vì chúng ta đã thấy, nhưng chỉ vì Lời Chúa và sức mạnh của Thiên Chúa đang hiện diện trong lòng chúng ta.
Bài Tin Mừng hôm nay mô tả một biến cố đáng kinh ngạc trong cuộc đời Đức Chúa Giêsu: Biến Hình trên Núi. Các tông đồ đã hoàn toàn bị ‘hớp hồn’ khi được nhìn thấy vinh quang Đức Kitô trong phút giây, và nhất là khi được mạc khải cho biết Thầy của mình là ai: “Này là Con Ta yêu dấu. Hãy lắng nghe Lời Người.”
Biến cố hồng phúc hôm nay sẽ giúp các ông chịu đựng đêm tối trong vườn Giệtsêmani, khi phải chứng kiến cơn hấp hối của Chúa Giêsu. Những giây phút vui vẻ khi mọi sự đều hòa hợp “đâu vào đấy” thì rất hiếm hoi và họa hoằn “năm thì mười họa”. Không ai có ý bảo chúng ta phải ngồi đó mà trông chờ Chúa Biến Hình, nhưng chúng ta được kêu mời theo chân các tông đồ leo lên núi, tiếp tục suy tư sứ điệp ẩn tàng trong Lời Chúa và thực tâm sống sứ điệp ấy với lòng xác tín sâu xa. Chỉ qua khổ nạn và cái chết, Đức Kitô mới đi vào trong vinh quang phục sinh. Nếu Người biến đổi thân xác đầy thương tích của chúng ta và làm cho chúng ta rập khuông với thân xác vinh hiển của Người, thì con đường chúng ta đi chính là con đường thương khó của riêng Chúa thôi.
Biến cố Biến Hình hôm nay nói với chúng ta không chỉ về những giai đoạn thử thách và khổ đau của chúng ta mà còn về vinh quang tiềm tàng dành sẵn cho chúng ta, với điều kiện là chúnt ta luôn luôn đi theo con đường của Chúa với một niềm tin tưởng cậy trông, không bao giờ ngã lòng thất vọng.
Mùa Chay cho chúng ta một cơ hội quý báu để nhìn lại chính mình với những an toàn giả tạo mà chúng ta cứ khư khư ôm lấy không chịu vất bỏ trên con đường lữ hành. Mùa Chay nhắc nhở chúng ta rằng một cuộc sống mà không duyệt xét lại thì không đáng sống. Để cho Mùa Chay này tràn đầy ơn phúc, giúp chúng ta trở thành những người dễ thương, quảng đại và chân thực, chúng ta phải chết đi cho những lối sống của thế gian bằng cách hy sinh và từ bỏ chính mình. Có lẽ không ai trong chúng ta sẽ được kêu gọi hiến tế đứa con duy nhất như Abraham xưakia, nhưng phần đông chúng ta được kêu gọi quay lưng lại với tính ích kỷ của mình và tránh xa những lời nói việc làm gây bất an trong gia đình hay đầu độc cuộc sống cộng đồng. Để thắng vượt những yếu hèn tội lỗi và trở nên con người trưởng thành chín chắn, chúng ta cần kiên nhẫn và nỗ lực suốt đời người, vì không có gì đáng giá mà lại đơn giản và dễ chiếm đoạt.
74. Suy niệm của Lm. Jude Siciliano.
Khi nghe tác giả Tin mừng kể: “Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ” như thánh Marcô làm hôm nay, chúng ta liền liên tưởng đến một điều mặc khải đặc biệt dành cho các ông. Những lần khác thánh Marcô nhắc tới là đoạn 4 câu 34, đoạn 13 câu 3. Tuy nhiên, chúng ta không hiểu chính xác Chúa đã mặc khải điều gì trong ngày hôm nay, bởi lẽ cứ như mạch văn thì chẳng biết câu truyện biến hình xảy ra ở đâu và lúc nào.
“Sáu ngày sau, Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo mình… tới một ngọn núi cao”.
Một vài nhà chú giải cho là câu truyện xảy ra sau khi Ngài chỗi dậy từ cõi chết. Thánh Marcô đặt lên sớm hơn để giúp đỡ độc giả nhận ra ý nghĩa thâm sâu những điều Chúa dậy và thực hiện trong sứ vụ rao giảng của Ngài. Lý do, cụm từ “sáu ngày sau” thường được hiểu là sau cuộc tử nạn và phục sinh của Ngài. Câu truyện biến đổi hình dạng cũng có nhiệm vụ giúp đỡ độc giả định giá lại cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa Giêsu trong ánh sáng phục sinh, bởi lẽ chính Chúa Giêsu cũng đã nói đến biến cố đó khi các ngài từ trên núi đi xuống, trở về với cuộc sống bận rộn thường nhật. “Ở trên núi xuống, Đức Giêsu truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại”.
Phúc âm nhấn mạnh sự xuất hiện của Êlia và Môsê. Nhưng tại sao lại hai ông mà không phải các nhân vật Thánh kinh khác? Ví dụ như Abraham và Sara, hai tổ phụ vĩ đại của đức tin? Họ chẳng thích hợp cho bối cảnh hay sao? Còn vua Đavit? Ông vua danh tiếng của đạo Do thái, đứng làm biểu tượng cho rất nhiều giá trị đạo, đời? Ông vua dũng mãnh nhất trong lịch sử, đứng đối lập với vai trò người tôi tớ đau khổ của Giavê, tức Đức Giêsu, không thích hợp lắm sao? Thực tế thì chúng ta chỉ có Êlia và Môsê với ý nghĩa thần học vững vàng. Theo quan niệm Do thái, Êlia phải đến trước dọn đường cho Đấng Messia, tức Đấng Thiên Sai. Êlia là một ngôn sứ lớn. Như vậy, sự hiện diện của ông gợi lên ước vọng thiên sai của dân tộc Do thái, đồng thời giữ vai trò người tôi tớ trung tín của sách Isaia. Chúa Giêsu vừa là Đấng Thiên Sai, vừa là tôi trung của Giavê Thiên Chúa. Nhân vật Môsê đã đưa Israel thoát khỏi kiếp sống nô lệ ở Ai Cập, Chúa Giêsu cũng sẽ thực hiện công việc như thế, nhưng rộng lớn hơn, không phải cho một dân tộc, mà là toàn thể loài người khỏi vòng kìm kẹp của tội lỗi. Điều quan trọng là cả hai Môsê và Êlia đều phai mờ vào trong đám mây, còn lại một mình Chúa Giêsu trước mặt các tông đồ. Bây giờ họ chẳng còn phải nhìn vào ai nữa ngoài Chúa Giêsu. Đây là bài học cho các tín hữu. Chúng ta nhìn vào đâu để tìm ra tiếng nói ngôn sứ và sự cứu thoát khỏi tội lỗi? Chính là vào Chúa Giêsu biến hình!
Một ý tưởng khác về Đấng Thiên Sai nằm ở ước vọng của thánh Phêrô làm ba lều tưởng niệm giây phút hiển dung. Khi tôi còn là một đứa trẻ sống ở Brooklyn, New York, Mỹ, gần những người bạn Do thái láng giềng. Để cử hành lễ Sukkoth (lễ lều trại), họ làm những chiếc lều bằng gỗ trên các cổng ra vào hay trong các sân sau nhà. Đây là dịp lễ truyền thống để tạ ơn Thiên Chúa sau mùa gặt hái. Chuyển ý sang cho chúng ta là Bí tích Thánh thể, Hội thánh cũng gọi là “tạ ơn”, tiếng Latinh là Eucharistia. Chúa Giêsu là mùa màng bội thu của mọi tín hữu. Bánh rượu là những hoa màu ruộng đất, cộng với lao động của con người thành lễ vật chúng ta dâng tiến Thiên Chúa làm lễ tạ ơn. Như thế, trong Đức Kitô chúng ta nhận ra được đầy đủ những ơn huệ thượng đế ban cho loài người. Trong bài đọc thứ hai thánh Phaolô quả quyết: “Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta sao?”. Vậy, ơn cứu độ là ơn nhưng không thượng đế ban qua Chúa Giêsu, và chúng ta được tự do vào thiên đàng miễn là theo đúng con đường Đức Kitô đã chỉ vẽ.
Ba “lều” thánh Phêrô đề nghị còn gợi nhớ lại con đường gập ghềnh dân Do thái phải trải qua trong sa mạc để đến đất hứa. Con đường này chính Thiên Chúa đã chọn và dẫn đưa họ đến bến bờ tự do. Bao nhiêu gian khổ, nhọc nhằn đến nỗi Thiên Chúa đã tự mạc khải mình để củng cố Đức tin cho họ. Dầu vậy, họ vẫn phản bội, thất bại trong nếp sống đạo đức của cả một dân tộc, kêu ca, bái lạy tà thần, nhát đảm, nhiều lần nổi dậy chống lại Môsê, chống lại Đức Chúa của mình. Đó cũng là hình ảnh của chúng ta, của Hội thánh hữu hình hôm nay. Chúng ta cũng cần dừng lại trong “lều” nội tâm để nhìn lại tư cách sống trước Thánh thể, lễ tạ ơn của mỗi người. Một mặt để cử hành, tưởng niệm lòng trung tín của Đức Chúa Trời, mặt khác để chúng ta đủ can đảm bỏ ngọn núi diễm phúc, trở về với đời sống thánh hiến như của Chúa Giêsu, hoạt động giữa đồng bào, đồng loại, thi thố từ bi bác ái, giúp đỡ tha nhân, làm chứng cho một Thiên Chúa tốt lành, rộng lượng. Chẳng phải tiền bạc là thứ duy nhất chúng ta buộc cho đi, còn nhiều cái khác nữa như lòng nhân ái, thông cảm, tính hoà đồng, hy vọng, tha thứ… và nhất là sự thật. Bởi sự thật sẽ giải phóng và cứu rỗi nhân loại. Sở dĩ còn chiến tranh, thiếu vắng hoà bình là bởi vì nhân loại chưa có sự thật, còn nghi ngờ lẫn nhau, cho nên còn hận thù, ghen ghét. Sự đe doạ nổ ra chiến cuộc ở Iraq là một bằng chứng rất cụ thể. Đối với người tín hữu, không có lâu đài vĩnh viễn, không có “hồng lâu mộng” trên đỉnh núi Tabor. Họ phải dựng “lều” khắp thế gian để rao truyền lòng Chúa xót thương. Phêrô đã lầm, bởi ông ích kỷ, muốn “định chế hoá” những gì ông được xem thấy trên ngọn núi cao. Nhưng Chúa Giêsu dẫn ông xuống núi và không cho tiết lộ hạnh phúc tương lai, phải trở về với những khó khăn, nhọc nhằn thường nhật giữa các môn đệ khác, anh em, đồng bào của mình. Đây là điểm hết sức quan trọng chúng ta phải ghi nhớ: Chia sẻ hạnh phúc với người khác trong gian khổ, bất hạnh và gian truân. Không đứng trên nơi cao nhìn xuống đồng loại đang quằn quại trong đau thương. Khuynh hướng chung hiện thời là giống ký lục, biệt phái thuở xưa, “định chế hoá” đức tin bằng những ngôi nhà thờ kiên cố, huy hoàng, rồi ngày ngày lui tới tận hưởng an toàn, ấm cúng. Trong khi đáng lý phải quan tâm đến những nơi khác cần thiết hơn. Tôi biết ở một giáo xứ kia, người ta tối thiểu hoá ngân sách giúp đỡ người nghèo để có tiền tân trang ngôi nhà nguyện Thánh thể. Đúng không thưa quí vị? Câu trả lời hợp lý là không đúng. Tuy nhiên, đại loại là vẫn như thế cả, vì danh dự cá nhân.
Sở dĩ Chúa cấm các môn đệ không được tiết lộ biến cố huy hoàng mà họ vừa được mục kích, là vì họ chưa hiểu hoàn toàn đầy đủ ý nghĩa cuộc đời của Ngài. Ngài còn phải trải qua chống đối, đau khổ, nhục nhã và cái chết. Chỉ khi nào họ chứng kiến Ngài sống lại và lên trời, lúc ấy mới thấy được toàn bộ ý nghĩa sự hiện diện của Ngài giữa họ, giữa dân tộc Do thái và loài người.
Đến đây tôi xin chia sẻ một kinh nghiệm mà tôi đã trải qua trong gia đình. Sớm muộn quí vị cũng có dịp tiếp cận với nó. Được tin cấp báo, tôi trở về Brooklyn. Cha tôi 96 tuổi đang hấp hối. Khi còn khoẻ mạnh cụ luôn có thái độ lạc quan, yêu đời. Cụ làm nghề đưa thơ, là nguồn vui hàng ngày cho gia đình và hàng xóm láng giềng. Bất cứ cái gì cụ cũng là niềm vui cả. Ngày lễ, Chúa nhật, thức ăn, đồ uống, quần áo, chó mèo, gà vịt, những cuộc đi dã ngoại xa gần… Chúng tôi cứ nhìn cụ mà vui đùa. Bỗng nhiên cụ bị bạo bệnh, nằm liệt, bất động trên giường, vật lộn để thở và thiếp ngủ suốt ngày. Bây giờ cụ gầy ốm trông thấy, hình hài cụ đang phai mờ dần. Trông thấy cụ tôi lại được yên ủi bởi nhớ đến câu truyện Chúa Giêsu biến đổi hình dạng. Hôm qua chúng tôi đã xức dầu bệnh nhân cho cụ. Cụ vui vẻ hẳn, cứ gọi con cháu đến mà khoe, khoe cái cuộc đời theo Chúa của cụ. Ngày mai cụ sẽ được biến hình với Chúa, tôi hy vọng như vậy, không phải nhất thời mà vĩnh viễn. Một ngày nào đó chúng ta sẽ được chia sẻ biến cố đó với cụ, vui như cụ. Câu truyện gia đình tôi là vậy, tôi tin chắc nó cũng là câu truyện của mọi gia đình trong xứ đạo.
Chính xác thì biến cố hiển dung giữ vai trò nào trong cuộc sống của Chúa Giêsu? Chắc chắn Ngài không thường xuyên biến đổi hình dạng. Điệu bộ Ngài vẫn là một bác thợ mộc nghèo khổ làng Nazareth, bỏ nghề đi lang thang với một nhóm người hiếu kỳ theo sau. Quần áo Ngài vẫn chẳng khi nào nên “trắng như tuyết”. Nhưng sự biến hình của Ngài liên tục xảy ra trong lời giảng dạy và công việc Ngài làm. Nó biến đổi thiên hạ nên tốt, nên bạn hữu với Đức Chúa Trời: Kẻ có tội ăn năn thống hối, người nghèo khổ, quân vô lại được mời vào bàn tiệc hoàng gia. Người tứ thế cô thân được trao quyền bính nước trời. Đàn bà, con nít (thời đó bị khinh bỉ) được tôn lên hàng khanh tướng. Hạng khố rách áo ôm được phong làm vua chúa, mặc cẩm bào rực rỡ. Người quyền thế, kẻ giàu sang bán hết gia tài phân phát cho người nghèo hèn, trở thành những môn đệ nhân từ, đạo hạnh. Người ốm đau được ban sức khỏe, què quặt đi được, người câm nói được, người mù xem thấy ánh sáng Chúa phục sinh, nhảy nhót như nai rừng.
Ngày nay, ơn hiển dung của Chúa Giêsu vẫn còn chiếu toả trên Giáo hội và thế giới. Chúng ta không thể chối cãi chân lý này. Nó là một điều lương tâm phải tin nhận. Nhưng nó biến đổi chúng ta ra sao? Liệu nó có đủ sức mạnh tẩy não chúng ta từ những tư tưởng bè phái, khép kín, giai cấp, đặc quyền, đặc lợi, loại trừ, xa lạ thành những con người yêu thương, nhân ái, cởi mở, chấp nhận người khác như anh chị em mình? Liệu nó có khả năng thúc giục chúng ta nhìn Giáo hội như những dân cư “lều trại” cùng đồng hành với nhau vượt sa mạc hơn là các công nhân xây dựng đền đài? Liệu chúng ta có đủ can đảm luôn đeo băng “WWJD” và nhìn thấy nhu cầu chung quanh để hy sinh cứu giúp? (WWJD = what would Jesus do? = Chúa Giêsu làm gì trong hoàn cảnh này?). Chúng ta thành thật kêu xin Chúa Thánh thể hôm nay để ơn hiển dung của Ngài thực sự biến đổi chúng ta, toàn giáo xứ, thành những con người tốt, bạn của Thiên Chúa. Xin thánh nhan Ngài chiếu toả hơn nữa trên tâm hồn các tín hữu, để qua họ, thiên hạ nhận ra lòng Thiên Chúa tốt lành. Tội lỗi đến mấy đi nữa thì cũng được vào sống trong Nước Ngài.
Chúa Kitô đã phục sinh và chúng ta đã được nghe toàn thể câu truyện. Ơn hiển dung của Ngài không phải là “tia chớp từ đáy chảo”, “thỏi vàng của đứa điên rồ, phỉnh gạt”. Tuy nó không luôn luôn sáng chói, dễ nhận ra. Nhưng mãi mãi là chân thật. Nếu chúng ta cất công nhìn kỹ hơn vào muôn vàn hình thức nguỵ trang của nó, trên những mảnh đời bất hạnh, chúng ta sẽ ngạc nhiên nhận ra nó có mặt ở đấy từ lâu. Ngài cũng hiện diện và biến đổi chúng ta khi vâng lời Ngài, chúng ta tha thứ cho nhau, ôm hôn nhau trong bình an và nhất là rước lễ sốt sắng. Giống như các tông đồ, Ngài cũng dẫn đưa chúng ta đi riêng ra một chỗ, chỉ mình Ngài với chúng ta, khi cử hành Phụng vụ Thánh lễ. Rồi trở lại đời sống thường nhật, chúng ta sẽ cũng lại thấy Ngài tàng hình khéo léo trong muôn ngàn trạng thái thần linh. Amen.
75. Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux
CUỘC BIẾN HÌNH
Quang cảnh rực rỡ đang diễn ra đã tỏa lan trên bầu khí nặng nề ngự trị trong Phúc âm kể từ khi Chúa Giêsu loan báo về cái chết không thể nào tránh được của Ngài (8,31 và tiếp theo). Đây giống như một giai đoạn tạm nghỉ được dành cho Thầy trò trên bước đường dấn thân vào cái chết. Chúa Giêsu mang theo Ngài ba môn đệ được Ngài yêu chuộng nhất (c. 2). Chỉ ba người này được theo Ngài vào căn phòng em bé gái được Chúa Giêsu làm cho sống lại (5,37-43). Và cũng chỉ ba người này là những nhân chứng đặc biệt trước cơn hấp hối của Thầy (14,33-34). Sở dĩ Chúa Giêsu cho họ tham dự vào những cuộc mạc khải then chốt là vì họ được kêu gọi để trở nên cột trụ cho Giáo Hội Ngài. Việc tách các môn đệ này riêng ra để đến một chốn rất xa cho chúng ta đoán được ý định của Chúa Giêsu sẽ mạc khải cho họ một điều bí mật sâu xa nào đó. Truyền thống cho rằng Chúa Giêsu và ba môn đệ này đã leo lên ngọn núi Taborê, một ngọn núi nhỏ bé ở Galilê, không xa Nadaret bao nhiêu. Tuy nhiên cách xác định vị trí này mãi đến thế kỷ thứ ba mới thấy. Ngoài ra địa danh này không phù hợp với chuyến du hành mạn bắc vào ngay vùng dân ngoại (8,27). Chính vì thế theo các nhà chuyên môn, đúng hơn đây là núi Hermon, ngọn núi đồ sộ cao tới 2760 mét phủ đầy tuyết rất gần vùng Cêsarê Philipphê là nơi Chúa Giêsu được coi như đang có mặt.
Dù sao thì ở đây, Maccô cũng ít quan trọng đến địa lý hơn là thần học. Như người ta sẽ thấy, đối với Maccô, “ngọn núi cao” này nhắc nhở đến ngọn núi Sinai thời xuất hành là nơi Thiên Chúa đã gặp gỡ Môsê cách rất đỗi thân mật (x. Xh 24,12-18). Quả thực, trình thuật này đang dẫn chúng ta đến cuộc hiển linh của Chúa Giêsu (c. 2c). Trong một giây phút chói lòa, vị Sư Phụ đã biến hình trước mắt các đệ tử mình. Người ta chợt nghĩ ngay đến hiện tượng liên quan đến Môsê: “Da mặt ông tỏa sáng” sau khi được trực kiến Thiên Chúa trên núi Sinai (Xh 34,29-35).
Hoàn toàn tự nhiên khi Maccô nhờ đến các hình ảnh Thánh Kinh để mô tả biến cố xảy đến cho Chúa Giêsu (c. 3). Như chúng ta đã biết, nơi người Sêmit, y phục một người tượng trưng chính bản thân người đó. Y phục Ngài tỏa ra rõ nét trắng toát mà loài người không thể có. Y phục màu trắng báo hiệu ánh sáng quang vinh thần thánh nơi các thiên sứ (16,5) hay nơi những kẻ được chọn (x. Kh 3,5).
Đối với các môn đệ này, cuộc thị kiến đầy kinh ngạc về tình trạng “quang vinh” của Chúa Giêsu lại còn được bổ sung thêm bằng việc xuất hiện của Êlia và Môsê (c.4). Hai nhân vật lẫy lừng này đến đây làm gì? Môsê là cha đẻ của Lề Luật Do Thái. Chính trong sự hiện diện đầy uy nghi của Thiên Chúa trên núi Sinai mà Môsê đã tiếp nhận Lề Luật (x. Xh 19 và 20). Và bốn thế kỷ sau, Êlia cũng đã hành hương lên chính ngay núi thánh Sinai để gặp gỡ Thiên Chúa hằng sống (x. IV 19,1-13). Những nhà lãnh đạo của dân riêng Chúa được truyền thống Do Thái xem như vẫn hiện đang sống trong VINH QUANG: Môsê thì với tư cách nhà làm luật vĩ đại của Israel, còn Êlia là khuôn mặt dẫn đầu trong số các tiên tri. Ở đây, cả hai hội tụ lại, họ tượng trưng cho Lề Luật và các tiên tri, điều này bao hàm ý nghĩ toàn bộ Kinh Thánh đều ủng hộ Chúa Giêsu. Đàm đạo với hai vị này, Chúa Giêsu muốn minh chứng rằng nơi bản thân Ngài đã hoàn tất mọi lời hứa về Đấng Mêsia.
Mãi đến lúc này, bị quang cảnh khác thường đột nhiên xảy đến, các môn đệ đều ngậm câm. Giờ đây, nhân danh họ, Phêrô mới dám ngỏ lời với Chúa Giêsu (c.5). Ông gọi Chúa bằng “Thầy” (Rabbi) nghĩa là vị Thầy mà ông phải tuân theo mọi lời giáo huấn. Phêrô muốn nói cho Thầy mình niềm hạnh phúc mà ông và các bạn đang cảm nhận khi được tham dự vào lễ hội thiên quốc này. Tuy nhiên phải chăng phản xạ của Phêrô quá ư trần tục? Không phải là ông muốn lôi kéo dài giây phút hạnh phúc khôn lường này sao? Ở đây việc Phêrô đề nghị dựng lên ba lều cho Chúa Giêsu và hai vị khách thiên quốc có lẽ nhằm mục đích ám chỉ đến “lễ lều” của Do Thái. Vào mùa thu, tức mùa hái nho, người ta thường dùng các cành cây dựng lên trong vườn nho những chiếc chòi nhỏ với niềm hy vọng mãnh liệt sẽ được đón tiếp Đấng Mêsia ở đây (x. Lv 23,33-36). Tuy nhiên như thường thấy xảy ra trong các Phúc âm, ở đây Phêrô bị lầm. Ông ta không nắm bắt được ý nghĩa sâu xa của biến cố ông được trải qua. Vả lại bản văn cho thấy Phêrô hoàn toàn không ý thức gì về lời đề nghị của mình (c. 6). Maccô ghi nhận nỗi kinh hoàng của các môn đệ trong trường hợp quá khác thường này. Có vẻ như Phêrô đã thử “làm quen” với một hiện tượng thần linh vượt quá tầm hiểu biết của mình…
Chính lúc này một thị kiến bổ túc mới có thể hướng dẫn độc giả hiểu được toàn bộ sự cố (c. 7a). “Đám mây” được mượn trực tiếp từ sách Xuất hành (được Maccô cố ý khai thác trong toàn bộ đoạn này). Trong bước đường gian khổ nơi vùng hoang mạc, dân Chúa chọn đã được một cụm mây sáng lòa hướng dẫn (x. Xh 13,21 và tiếp theo). Đám mây thần thánh này được người xưa mượn từ hiện tượng phong nhiêu của bão tố để ám chỉ việc Thiên Chúa kề cận dân Ngài. Đây là một hình ảnh tuyệt hảo nói lên sự hiện diện của Thiên Chúa với loài người, vừa ẩn khuất mà lại vừa hiển lộ. Đây là trường hợp Thiên Chúa trao ban một sứ điệp quan trọng: “Chính Ngài là con yêu quý của Ta” (c.7b). Thật thú vị khi ghi nhận rằng những lời này được Thiên Chúa ngỏ với các môn đệ. Với vài thay đổi nhỏ nhặt, những lời này lặp lại những lời đánh dấu cuộc tấn phong Chúa Giêsu vào lúc Ngài chịu phép rửa (x. 1,11). Vào lúc đó, Thiên Chúa Cha đã để cho Chúa Giêsu đăng quang trong sứ mệnh làm Đấng Mêsia. Giờ đây, sau khi đón nhận ra thân thế Mêsia của Thầy mình (8,29), Phêrô và các môn đệ còn phải đón nhận mầu nhiệm sâu thẳm hơn nữa về thân thế Ngài. Bởi vì Ngài là Đấng Mêsia nhưng đồng thời còn là “Người Con rất yêu dấu” của Chúa Cha nữa.
Như thế giọng nói từ trời khích lệ các môn đệ tiếp tục bước theo con đường họ đi trong đức tin để khám phá được trọn vẹn thân thế Chúa Giêsu. Đó là ý nghĩa sâu xa của biến cố mà họ vừa trải qua. Tuy nhiên phải thêm rằng trọng điểm của trình thuật này xem ra hệ tại nơi các từ ngữ sau: “Hãy nghe lời Ngài” (c.7c). Lời mời gọi ngắn gọn này nhắm tới điều mà Chúa Giêsu mới nói với các môn đệ Ngài (8,31-33). Như người ta đã thấy: Phêrô đã chống lại như một con quỷ dễ thương trước những viễn cảnh bi đát mà Thầy vừa mới hé lộ. Chắc chắn các môn đệ rất phiền não khi phải “nghe” Chúa Giêsu xác định điều này. Giờ đây một khi vừa được trông thấy –như một ánh chớp lòa- Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, đồng thời cuối cùng Ngài sẽ lãnh nhận được số phận quang vinh bên kia cái chết thì liệu họ có giữ được niềm hy vọng và tiếp tục bước theo Thầy mình trên con đường thập giá không?
Câu cuối cùng diễn tả tình trạng trở lại bình thường khá tê tái (c.8). Maccô cố ý nhấn mạnh: đối với những kẻ theo Ngài, cuộc biến hình của Chúa Giêsu sẽ chỉ là một phút hồng ân “ngắn ngủi” để nâng đỡ đức tin của họ trên bước đường gian truân. Rõ ràng biến cố trên đây đã được Maccô đọc lại dưới ánh sáng của cuộc Phục Sinh và của Kinh Thánh. Ông nhằm nâng đỡ lòng trông cậy của các Kitô hữu Rôma đang chịu khổ đau và chết chóc vì cơn bách hại.
Sáu ngày sau, Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo mình
Maccô không nói phải dựa vào sự kiện nào để tính “sáu ngày” trên. Một lần nữa, sự thiếu chính xác này cho ta thấy, không nên đọc Tin Mừng theo cách thông thường. Đối với người Do Thái, đối với mọi người đã làm quen với Kinh thánh, thì “sáu ngày” trên chỉ là một kiểu nói thần học. Đó là thời gian cần thiết để con người thanh tẩy trước khi đến gần Thiên Chúa: “Sáu ngày sau, từ giữa đám mây, trên núi Sinai, Thiên Chúa mới gọi Môsê” (Xh 24,16). Chúng ta hãy lưu ý những từ: “sáu ngày”… “Môsê”… “đám mây”… “núi “… Trình thuật của Maccô cũng được dệt bằng những hình ảnh Kinh thánh như thế. Nhưng còn mang ý nghĩa hơn: Có phải là ngẫu nhiên mà “Lễ lều tạm” (Yom Sukkôt) tại Israel lại xảy ra sáu ngày sau “Lễ xá tội” (Yom Kippour) không? Vì thế Lễ lều tạm là lễ người ta dựng những lều bằng cành lá, làm nới trú ẩn mỏng manh trong thời gian lang thang nơi hoang địa, tượng trưng cho sự mỏng dòn của con người trên bước hành trình về Miền Đất Hứa. Sau này Phêrô cũng muốn dựng một nhà trú, một lều tạm.
Phêrô, Giacôbê và Gioan
Đức Giêsu không mời gọi tất cả các môn đệ, nhưng chỉ chọn có ba ông! Chi tiết đó cũng không phải là một ngẫu nhiên, mà nếu đọc qua ta có thể không để ý đến. Chính ba” môn đệ này đã chứng kiến việc Đức Giêsu làm bồi sinh bé gái 12 tuổi (Mc 5,37), và chính ba ông này sẽ chứng kiến cơn hấp hối của Người tại Ghét-sê-ma-ni (Mc 14,83).
Họ có phải là những con người được đặc ân không? Không phải vậy. Họ chỉ là ba con người sống những cảm nghiệm đặc biệt, để có khả năng nâng đỡ đức tin cho kẻ khác. Tại sao ta lại hay so bì và ghen tị? Mỗi người chúng ta cũng đều nhận được một ân riêng, độc nhất; ơn đó không chỉ dành riêng cho mình, nhưng để thông truyền cho kẻ khác.
Chỉ có ba ông, đi riêng với Người, lên một ngọn núi cao…
Đó là những điều kiện theo truyền thống Kinh thánh, để “gặp gỡ Thiên Chúa”. Một đầu óc hiện đại có thể phản ứng lại. Thiên Chúa ở khắp nơi mà! Tại sao cứ phải bày vẽ ra như thế? Đúng vậy! Nhưng chúng ta là loài có thân xác nên không thể tránh bỏ một số những biểu tượng. Riêng tôi; tôi thấy hình ảnh đó thật đẹp và rất hùng hồn: Nào ta hãy tiến lên với “Thiên Chúa” (Xh 24,1-34,2; 1V 18,20-19,8-11). Bạn hãy đứng trên núi! Hãy tạo lập cho bạn một núi trong i.âm hồn, một đỉnh núi cô tịch và diện kề với Chúa. Hãy biết tận dụng những chân trời mở rộng! Bạn sẽ không khi nào nhìn thấy những chân trời đó, nếu không chấp nhận rời bỏ thung lũng, nương theo nhưng con đường mòn mà leo cao, nếu không chịu khổ nhọc lâu dài, thả dốc trên những đỉnh cao trước không khí loãng nhạt và gay gắt nếu không chịu tách xa đám động dân chúng.
Và Người biến đổi hình dạng trrớc mắt các ông
Khi con người cố diễn tả những tương quan giữa Thiên Chúa và thế gian, họ luôn bị dao động giữa hai do dự, hai quan niệm:
Một quan niệm “bi quan”: Cần phải tiêu diệt thế gian để nhận thấy Thiên Chúa. Ta có thể gọi quan niệm đó là quan niệm của Thánh Au tinh, Luther và phái Tin lành phục hưng cách mạnh mẽ.
– Một quan niệm “lạc quan”: Chính “thế gian này” là Nước Thiên Chúa. Người ta đề cao giá trị của con người và thế giới và làm giảm nhẹ ảnh hướng của Thiên Chúa. Đây có thể là cơn cám dỗ của người Công giáo, thường biến Giáo Hội trở nên một cái gì tuyệt đối, là Nước Trời đã đến.
– Nhưng cũng có một “quan niệm thứ ba biến dạng” Vâng, xác thịt là tốt và thân xác là do Thiên Chúa muốn tạo ra. Vâng, thế gian là tạo vật của Chúa, nhưng đó chỉ là “hình ảnh”, là “họa ảnh” tương tự của Thiên Chúa. Để thực sự tốt hẳn, thế gian không cần bị “tiêu diệt”, nhưng cần được “biến dạng”. Trên núi, Đức Giêsu không để một ánh sáng từ ngoài rọi chiếu vào, nhưng chính Người, trong thân xác Người, đã là ánh sáng. Và tất cả những gì là xác thịt trong ta, cũng phải trở nên ánh sáng, trong suốt, tinh thần. Bên Phương Đông thuộc Chính thống giáo, lễ Biến Hình là đại “Lễ”, Lễ tôn kính Hình tượng, Con người được Thiên Chúa xuyên qua. Trong thời kỳ tập sự, không chỉ nhắm học một “kỹ thuật”, người họa sĩ hình tượng trước hết phải về một ảnh Đức Giêsu biến hình, để chứng tỏ anh ta có khả năng vẽ được một khuôn mặt người – hình ảnh – của Thiên Chúa hay không. Đó là cả một quan niệm về cuộc đời, về xã hội loài người, về Giáo Hội, về phụng vụ mà mục đích là giúp ta rập theo đúng khuôn Đức Giêsu. Nếu những cách nhìn này có vẻ làm chúng ta choáng váng, thì có lẽ chúng ta phải khám phá ra ý nghĩa đích thực của Phép rửa, bí tích đã “dìm” ta trong Đức Kitô, đã làm cho ta được “tham dự vào bản tính của Thiên Chúa” (2 Pr 1,4). Đúng ra, toàn diện đời sống Kitô hữu chúng ta chỉ là một sự thông phần, một biến hình trong Đức Kitô. Tất cả chúng ta, mặt không che màn, chúng ta phản chiếu vinh quang của Chúa như một bức gương. Như vậy, chúng ta được biến đổi nên giống cũng một hình ảnh đó, ngày càng trở nên rực rỡ hơn, như cao bởi tác động của Chúa là Thần khí” (2 Cr 3,18).
Chắc chắn, ở dưới trần gian này, mầu nhiệm phi thường đó – nghĩa là sự biến đổi thực sự con người trong Thiên Chúa vẫn không thể thấy đọc. Tuy nhiên, sự biến hình của ta đã đạt được, dù còn bí ẩn, nhưng một ngày nào đó sẽ bùng tỏa ra: “Sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên Chúa. Khi Đức Kitô, nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Người, và cùng Người hưởng phúc vinh quang” (Cl 3,3-4).
Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy.
Đừng coi thánh Phêrô và thánh Maccô, thư ký của ông, lại ngây ngô hơn ta. Đó là những con người rất thực tế những kẻ bình dân, không phải là các nhà trí thức. Các ông mới biết mở miệng, nhưng chưa biết phải nói thế nào về cảm nghiệm phi thường đã “xảy đến” cho mình. Như thế cả chúng ta nữa, ta cũng không nên dừng lại ở mức độ sơ đẳng là “giặt sạch nhất”, “trắng nhất”. Vấn đề không nằm ở yếu tố đó.
Một lần nữa, chúng ta đang nằm trong lĩnh vực ngôn ngữ Kinh Thánh biểu tượng: Màu trắng là màu của thế giới trên trời và không gì ở trần thế so sánh được. Đó là màu của thiên sứ hiện đến lúc Phục sinh (Mt 28,3), lúc Chúa lên trời (Cv l,10). Đó là màu của những kẻ chiến thắng (Kh 3,4.20). Ao trắng khi chịu phép rửa, lúc tuyên xưng đức tín, áo trắng của cô dâu, áo trắng của linh mục lúc dâng lễ đều lấy lại hình ảnh biểu tượng này. “Anh em được mặc lấy Đức Kitô” (Gl 3,27). “Cái thân sẽ chết này sẽ mặc lấy sự bất tử” (l Cr 15,53). “Anh em hãy cởi bỏ con người cũ để mặc lấy con người mới” (Cl 3,10).
Ông Êlia cùng Môsê hiện ra đàm đạo với Đức Giêsu.
Môsê và Elia tượng trưng cho sự mong đợi của Israel được ghi trong “lề luật” và các “ngôn sứ”. Chúng ta cũng! cần ghi nhận, họ không chỉ là những nhân vật đứng ra “làm vì”. Đó là khuôn mặt tiêu biểu, đã chết trước đó nhiều thế kỷ mà lại hiện diện đồng thời với Đức Giêsu và đang nói chuyện với Người. Họ đang liên hệ sống động với Chúa. Đó là thứ ánh Sáng chiếu trên cuộc sống bên kia thế giới. Anh Sáng chiếu tỏa trên những người quá cố của chúng ta. Cái chết thay vì là kết điểm. Có phải là một “cửa ngõ” dẫn chúng ta vào thế giới của Thiên Chúa không?
Trong Cựu ước Môsê và Êlia là hai nhân vật vĩ đại đã được Thiên Chúa mạc khái cho “trên núi”. Và truyền thống Do Thái vẫn mong đợi hai vị trở lại vào lúc kết thúc thời gian chuẩn bị cho Đấng Mêsia đến (Mt 3,22-24). Vả lại theo thánh Maccô, thì đó cũng là câu hỏi mà các môn đệ đã đặt ra cho Chúa Giêsu, ngay sau khi diễn ra quang cảnh trên (Mc 9,11-13).
Cùng với Đức Giêsu, thời cánh chung đã khởi sự.
Bấy giờ ông Phêrô thưa với Đức Giêsu rằng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây hay quá! Chúng con xin dựng ba cái lều”. Thực ra, ông không biết phải nói gì, vì các ông sợ quá.
Một lần nữa, Phêrô lại đóng vai phát ngôn viên. Chính ông, trước đó vài hôm, lúc ở Xêdarê đã nhân danh cả nhóm ‘tuyên xứng đức tin” (Mc 8,27-33). Chính ông đã đóng vai satan cám dỗ Đức Giêsu khước từ thập giá (Mc 8,33). Hôm nay, ông vẫn chưa hiểu hơn gì. Đó là một “người chứng” không vẽ vời điều gì thêm. Các biến cố xảy đến cho ông, đều mang tính cưỡng ép, trái với ý ông. Sau này, ông sẽ viết: Đó không phải là những chuyện hoang đường thêu dệt khéo léo; chính chúng tôi đã được thấy tận mắt vẻ uy phong lẫm liệt của Người, khi chúng tôi ở trên núi thánh với Người (2 Pr 1,16-18). Chúng ta cũng nên đọc lại đời ông: Phêrô không phải là con người chiêm niệm huyền bí; đó chỉ là anh chàng làm nghề biển! Chúng ta có thể tin tưởng vào khiếu quan sát của ông. Ngoài ra, ông cũng nhận ra rằng, đó là điều không thể hiểu được. Nhưng điều đó buộc ông phải chấp nhận. Ông không biết phải nói gì.
Bỗng có một đám mây bay đến bao phủ các ông. Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người”.
Theo kiểu nói biểu tượng đám mây là “Sự hiện diện của Thiên Chúa” (Xh 16,10; 19,9; 24,15; Ds 14,10). Tiếng nói trên đây cũng chính là tiếng nói ngày Đức Giêsu chịu phép rửa (Mc 1,11). Nhưng lúc đó, tiếng nói đó chỉ dành cho Đức Giêsu. Còn hôm nay, tiếng phán này gửi cho các môn đệ.
Vậy Đức Giêsu là ai? Để đáp lại câu hỏi cơ bản này, ta không thể vận dụng “những suy luận” cá nhân, cũng không nhờ vào “những nghiên cứu Kinh Thánh”, nhưng qua cách cầu nguyện “riêng một mình trên núi”; nếu ta biết lắng nghe! Căn tính đích thực của Đức Giêsu mà ta biết được chỉ nhờ Chúa Cha mạc khải. Đó là điều vượt khỏi khả năng nắm bắt của con người.
Ở trên núi xuống, Đức Giêsu cấm các ông không được kể lại cho ai nghe những điều đã thấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết sống lại. Các ông tuân lệnh đó, nhưng vẫn bàn hỏi nhau xem câu “từ cõi chết sống lại” nghĩ a là gì?
Cần phải có Thập giá và Phục sinh, để các môn đệ khám phá ra căn tính đích thực của Chúa Giêsu.
77. Chú giải của Fiches Dominicales
ĐỨC GIÊSU HIỂN DUNG TRÊN NÚI
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Sau khi loan báo cuộc khổ nạn
Đáp lại câu hỏi thúc ép của Đức Giêsu, Phêrô vừa mới tuyên bố Thầy là Đấng Messia”. Đức Giêsu liền dẫn các môn đệ vào con đường khổ nạn và chết mà Người sẽ phải đi để hoàn thành sứ mạng của Người. Maccô viết: “Rồi Người bắt đầu dạy cho các môn đệ biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sống lại”. Viễn tượng kinh hoàng như thế đi ngược với tư tưởng Người thời đó. Về Đấng Cứu thế. Nghĩ rằng Đấng Cứu thế mà cũng phải trải qua đau khổ và sự chết là điều không ai dám nghĩ, cả những người Do Thái thời đó cũng như các môn đệ của Đức Giêsu: Bởi đó Phêrô tức tốc phản ứng, ông liền kéo riêng người ra và bắt đầu trách Người”. Cử chỉ đó đã làm cho Phêrô bị một lời quở trách cực mạnh từ Đức Giêsu: “Satan, lui ra đàng sau thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người”. Sau đó, Đức Giêsu nói tiếp: “Ai muốn theo tôi phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Con đường mà Con Người đi cũng là con đường bắt buộc đối với các môn đệ Người.
2. Cuộc hiển dung của Đức Giêsu trên núi.
Maccô đã đặt tường thuật hiển dung của Chúa trong tương quan với việc công bố lần thứ nhất cuộc khổ nạn, việc này đã
vấp phải sự không hiểu nơi các môn đệ và khiến bọn họ kinh hoàng. Giống như Matthêu và Luca, tác giả Tin Mừng thứ hai diễn tả bằng một lối văn tượng trưng, mượn những yếu tố chính từ cuộc thần hiện (cuộc Thiên Chúa tỏ mình) ở núi Sinai (“Jésus, l’histoire vraie”, Centurion, trang 330).
Ngày xưa, trong cuộc xuất hành qua hoang địa, Môsê đã công bố cho con cái Israel rằng: “Đức Chúa, Thiên Chúa của người, sẽ cho nổi lên giữa các người một vị ngôn sứ giống như Ta, các người hãy nghe lời Người”. Hôm nay Maccô đã bật mí: vị ấy đã đến rồi, đây là thời gian hoàn tất, một kỷ nguyên mới đã khai sinh.
Maccô viết: “Sáu ngày sau” mà lại không chỉ rõ sau cái gì, nhưng rất có thể là ông muốn nói về biến cố Xuất Hành.
+ Hoặc là nói về sáu ngày mà sau đó, theo Xh 24,1 6, “Thiên Chúa gọi ông Môsê từ giữa đám mây lên núi Sinai”. Nếu thế, theo Maccô, đó là một cách giới thiệu biến cố hiển dung như một Sinai mới và đồng thời giới thiệu Đức Giêsu như một Môsê mới.
+ Hoặc là nói về sáu ngày chuẩn bị cho đại lễ Lều Trại, lễ đó người ta dựng lều bằng cành cây (như người Do Thái còn làm ngày nay) để tưởng nhớ cuộc xuất hành, với hy vọng vào thời đại cứu thế mà Thiên Chúa sẽ đến cư ngụ mãi mãi ở giữa dân Người. Nếu thế, theo Maccô đó là một cách côgn bố thời đại mới đã khởi đầu.
Cũng như ngày xưa Môsê lên núi Sinai, thì Đức Giêsu cũng dẫn các bạn hữu của Người lên một ngọn núi cao. Nhưng ngọn núi nào? Từ ngữ này mang ý nghĩa thần học nhiều hơn là địa lý: núi ở trong Kinh Thánh là địa điểm đặc tuyển cho việc mặc phải thần linh. Ở đây nói về một Sinai mới, một cuộc mặc khải quyết định của Thiên Chúa.
– Cũng như Môsê, lúc lên núi nhận giao ước, chỉ đem theo Giousê, Đức Giêsu chỉ gọi riêng đi theo Người có “Phêrô, Giacôbê và Gioan”. Cũng ba người đó, những người bạn thân nhất được theo Chúa vào phòng bé gái chết mà được Người làm cho sống (5,37-43); ba người đã chứng kiến cuộc hấp hối của Người trong vườn cây dầu: Đức Giêsu đã liên kết họ với Người trong những thời điểm mạnh của mặc khải, để họ trở nên những trụ cột của Hội Thánh Người.
– Cũng như da mặt của Môsê ngời sáng, vì ông đã đàm đạo với Thiên Chúa và cũng như dân Israel xem thấy mặt ông chiếu sáng (Xh 34,29-35), Đức Giêsu “hiển dung” trước các môn đệ, vinh quang Thiên Chúa, cái vinh quang mà Đức Giêsu chiếu toả vào buổi sáng Phục sinh, lúc này đang xâm chiếm bao phủ Người.
Vào lúc đó ông Môsê và ông Êlia hiện ra đàm đạo với Người. Đó là hai vị có thần thế trong Cựu ước. Cả hại vị đều đã trèo lên núi: Môsê lên để lập giao ước, Êlia lên để nhận sứ mạng cải tổ giao ước. Hai vị tượng trưng cho toàn bộ Cựu ước: Lề Luật và các Ngôn sứ (Êlia) giờ đây được thực hiện: thời đại cứu thế đã khởi đầu.
Phêrô đề nghị “Chúng ta hãy làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia”. Thực ra, ông không biết mình nói gì do quá kinh hoàng, Maccô giải thích. Phêrô đã lầm lẫn vì nghĩ rằng đã đến giờ mà Thiên Chúa cư ngụ vĩnh viễn ở giữa dân Người và họ có thể ở đó miên trường.
Sau cùng, cũng giống như khi lập giao ước ở núi Sinai, một đám mây, dấu chỉ hữu hình của sự hiện diện Thiên Chúa, đã bao phủ ngọn núi, thì ở đây một đám mây che phủ các ông. Rồi cũng giống như ở Sinai, có tiếng nói phát ra tử đám mây. Những lời này gần giống như tiếng vang của những lời đã phán lúc chịu phép rửa ở sông Giođan. Nhưng, lúc xưa tiếng đó nói với Đức Giêsu: “Con là Con Ta yê u dấu, Cha hài lòng về Con” (1,11), còn ngày nay tiếng đó nói với ba môn đệ: Tiếng đó soi sáng các môn đệ cho biết căn tính của Đấng mà Phêrô mới đây đã tuyên xưng là Đấng Thiên Sai (Mêsia): “Đây là Con yêu dấu của Ta”. Tiếng đó xác nhận giáo huấn của Đức Giêsu về cuộc khổ nạn – phục sinh của Con Người: “Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”.
J.Hervieux quảng giải: “Giờ đây dường như qua tia chớp loè sáng, họ đã thoáng thấy Đức Giêsu là Con Thiên Chúa”, và vượt qua khỏi sự chết, Người được Thiên Chúa dành cho một cuộc sống vinh quang. Lẽ nào họ không giữ niềm hy vọng và không tiếp tục theo Thầy trên con đường thập giá?” (L’evangile de Marc”, Centurion p.125).
– Bỗng chốc, Maccô kết luận: “Các ông chợt nhìn chung quanh, thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi ở trên núi xuống Đức Giêsu truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trừ khi Con Người đã từ cõi chết sống lại”. Chúng ta lại thấy ở đây một lần nữa “bí mật thiên sai”, mà Maccô rất quí trọng: điều mà ba môn đệ vừa thấy vượt quá sức tưởng tượng quá đỗi, nó làm xáo trộn tận cùng hình ảnh Đấng Thiên Sai của các ông, nên tốt hơn các ông nên giữ im lặng ít lâu. Sau này, dưới ánh sáng của Phục Sinh, các ông sẽ hiểu rõ ý nghĩa. Lúc đó, các ông sẽ có thể làm chứng.
BÀI ĐỌC THÊM
1. “Mọi sự chứng tỏ một khởi đầu mới”.
(Célébrer, tạp chí C.N.P.L. số 266, trang 26).
Cuộc hành trình này kêu mời chúng ta từ bỏ một số hình ảnh Thiên Chúa. Ông Apraham đã khám phá dung mạo của một Thiên Chúa, không chấp nhận máu của tế vật và không đòi hy lễ nào khác ngoài sự vâng phục toàn tâm con người. Người Kitô hữu còn có thể khám phá một Thiên Chúa không đòi hỏi hy sinh “vượt sức người” (siêu phàm), mà chỉ đòi tin tưởng và phó thác.
Phêrô, Giacôbê và Gioan, cả các ông cũng vậy, phải loại bỏ một thứ hình ảnh Thiên Chúa, để khám phá ra một hình ảnh khác nơi Đức Giêsu Kitô. Loại bỏ thứ quan hệ dựa trên sự sợ hãi, họ phải cảm nghiệm được một Thiên Chúa, Đấng đã không dung tha con ruột mình, và chấp nhận sự mạc khải đau đớn một Đấng Thiên Sai chịu khổ nạn, Đấng ấy sẽ lôi kéo họ đi theo Người.
Và còn hơn nữa, Người còn đề nghị ta khám phá rằng nhân loại là con đường tới Thiên Chúa. Mà không phải một Thiên Chúa không có thân xác, nhưng một Thiên Chúa trong xác thịt hẳn hòi. Một thân xác được mời gọi để biến đổi hình dạng. Đó là con đường do Đức Giêsu vạch ra.
Người Do Thái trông đợi sự biến dạng sẽ xảy ra vào ngày tận thế. Khi trình bày điều đó đã thực hiện nơi Đức Giêsu, Maccô muốn tuyên báo rằng ngày tận thế đã khai mào. Thực vậy, mọi sự chứng tỏ một khởi đầu mới: Một hy vọng đáng nể cho tất cả những gì đang rên xiết “chuyển dạ sinh ra”.
2. “Điều kinh ngạc trong Đức Giêsu, Thiên Chúa tỏ mình rất phàm nhân”.
(Thư gởi các người Công giáo Pháp, Cerf, trang 49-50).
“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Cả cuộc đời của Đức Giêsu, từ lúc sinh ra cho tới ngày chịu. chết và sống lại, luôn tỏ ra quy hướng về Chúa Cha; Người lãnh nhận tất cả mọi sự từ Chúa Cha, và dấn thân hoàn toàn vào công trình cửu độ theo mệnh lệnh của Chúa Cha.
Nhưng điều kinh ngạc không phải chỉ là việc nhập thể của Chúa Con, Đấng đến cư ngụ ở giữa chúng ta để bày tỏ tình thương của Chúa Cha.
Điều kinh ngạc còn là trong Ngôi Lời nhập thể, Đức Giêsu, Thiên Chúa tỏ mình ra quá phàm nhân. Trước hết, người phàm vì Người tỏ mình phàm hơn chính người trần: Chúa đi đến với những người lạc mất trong số người trần, kẻ bé nhỏ và kẻ bị loại trừ, kẻ đau yếu và kẻ tội lỗi. Người phàm, bởi vì Người chia sẻ hết mọi sự của bản tính nhân loại, đau khổ và bạo lực, bất công và chết chóc, chết trên cây thập tự. Hoàn toàn người phàm, đến độ ban tặng cho ta được thông công sự sống của Người. “Lạy Cha, Con muốn rằng, con ở đâu thì những người Cha đã ban cho Con cũng ở đó với Con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của Con, vinh quang mà Cha đã ban cho Con ” (Ga 17, 24).
Lòng tin vào Đức Giêsu, Chúa con bao gồm sự bạo dạn dám đón nhận sự sống của chính Thiên Chúa vào sự sống người phàm của ta. Nếu chúng ta trình bày Lời Chúa và các Bí tích cho người khác, ta làm cũng vì mục đích đó: là để chúng ta biết được niềm vui sống và yêu mến như con thảo của Thiên Chúa, theo bước chân của Chúa Con, trong sức mạnh của Chúa Thánh Thần.
78. Gợi ý suy niệm của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
SỨ ĐIỆP CỦA TRÌNH THUẬT
Các lời mời gọi bản văn Biến Hình đưa ra có vẻ như dành cho con người hiện đại, nhất là Maccô.
Biết bao ý thức hệ triết học, tôn giáo, chính trị, khoa học v.v. chất chứa trong những khát vọng của chúng nỗi chờ mong một lúc mà nhân loại sẽ vượt lên chính mình và đạt tới một tình trạng trong đó nó sẽ được siêu thăng hóa. Khi la lớn rằng chúng không được thỏa mãn, phải chăng một vài ý thức hệ đã không tuyên bố cùng những khát vọng trên?
Trên bình diện đức tin Kitô giáo, cuộc Biến hình là câu trả lời của Chúa Giêsu cho các khát vọng ấy: con người được tạo dựng để hưởng vinh quang, nghĩa là để được tỏ hiện trong chính mình, bên kia cái mình đã làm, một cuộc sống siêu phàm của hữu thể mình mà không là gì khác ngoài sự sống được chia sẻ với Thiên Chúa khì đảm nhận thân phận hay chết của mình. Định mệnh này có một tính cách khiến lý trí chưng hửng ngạc nhiên. Có thể kinh nghiệm về nó và không hẳn là biết phát biểu ra nó. Chính cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu được nghe và được đi theo khi Người chỉ cho thấy mặc khải sau cùng về con người, mới cho phép phát biểu và tin vào định mệnh như thế.
Mặc dầu cuộc Phục sinh đã xảy ra và mặc dầu bức màn che đã hoàn toàn bị cất khỏi bản tính và con người. Chúa Giêsu khai mở nhân loại mới ấy, Kitô hữu vẫn không thể sống trong ảo tưởng: các thực tại bi thương của cuộc sống không bị tiêu trừ; chúng vẫn còn phần lớn trong một hoàn cảnh gần như hoàn cảnh các sứ đồ lúc cuộc Biến hình xảy ra. Cuộc Phục sinh đã chẳng hủy tiêu các giáo huấn đưa ra trước đó, song chỉ củng cố chúng mà thôi. Các là thánh sử làm tỏ rõ hơn hết các hoàn cảnh mà trong đó người ta tưởng đã hiểu và tuy vậy, vẫn chẳng bao giờ thôi thấy rằng người ta đã chưa hoàn toàn hiểu thấu. Ông trình bày Kitô hữu như những người đã khám phá trong Chúa Giêsu một con người duy nhất đã cho họ một kinh nghiệm quyết định nhưng chẳng chấm dứt bao giờ.
Đời sống môn đồ của Chúa Giêsu được trình bày như thỉnh thoảng có một nhịp mạnh. Núi là biểu tượng của nơi mà, nhờ phép rửa, đã xảy ra cho người ấy cuộc gặp gỡ với hữu thể vinh quang là Chúa Giêsu. Một khi trèo lên trên nó, người ấy đi vào trong một thế giới khác xem ra vừa kỳ diệu vừa lạ lùng, một thế giới biến đổi ý nghĩa đời họ. Nhưng tiếp đó họ phải trở về cuộc sống bình thường: phải tiếp tục trong cùng viễn tượng hấp dẫn của một sự sống vinh quang, nhưng không cùng trong một bầu khí, hoàn cảnh. Thành thử cuộc sống thường nhật này được đánh dấu bằng nhtĩng giai đoạn đưa kẻ ấy đến chỗ nghe con người Chúa Giêsu, những giai đoạn trở thành cho kẻ ấy những lúc “tách riêng” thật sự, vì chúng giúp họ đào sâu, một cách nội tâm hơn và thân tình hơn, lai lịch của Đấng là họ đang song hành với.
Hai yếu tố có tính cách quyết định đối với hiệu quả này. Một là sự rút lui thật sự khỏi cuộc sống thường ngày, dù có ý hay ngẫu nhiên. Bấy giờ là như thể một khung cảnh làm vỡ tung cái bình thường và chuẩn bị cho một cuộc bùng vỡ nội tâm. Đó chẳng phải là một sự rút lui kiểu ngoài giáo nhắm cắt đứt khỏi đời sống hoặc làm cho người ta trở về đó như về lại một cái gì không chịu nổi, nhưng là một kinh nghiệm thiêng liêng đích thực đưa người ta vào lại đời sống và giúp người ta trải qua cuộc sống bằng cách biến đổi cái thường nhật gần gũi. Hai là, trong đời riêng tư, phải kinh nghiệm sự đau khổ và ngay cả sự chết dưới bất cứ mọi hình thức, để đi vào sự hiểu biết mới mẻ ấy hơn.
Tuy nhiên, có một cám dỗ rình chờ Kitô hữu trên con đường ấy, đó là dừng lại ở một trong các giai đoạn, thôi bước và tuyệt đối hóa kinh nghiệm mình như thể nó đã có tính cách dứt khoát, phong thánh cho các viễn quan riêng mà, dầu có hảo ý, vẫn còn có tính cách nhân loại. Trên bất cứ điểm nào, Kitô hữu cũng phải là một con người đang hành trình chứ chẳng phải là một con người đã đến đích. Chỉ có con người Chúa Giêsu mà họ đi theo mới là tuyệt đối.
Sau cùng, bản văn kêu mời Kitô hữu phải hành động với cùng phương pháp sư phạm như Chúa Giêsu. Chẳng có gì lạ khi loài người chỉ khám phá được dần dần mầu nhiệm Người, khi đầu tiên họ lưu ý đến con người trong chính nó, rồi ngạc nhiên về cái ý thức mà Người cho thấy về một sự sống siêu nhiên đang ở trong Người mà Người gọi là Thiên Chúa. Cũng chẳng có gì lạ khi chờ đợi cho loài người đặt những câu hỏi trước lúc trả lời họ, khi một vài kẻ, để sẵn sàng hiểu hơn, đã kinh nghiệm trong cuộc đời họ thế nào là chết cho chính mình và kinh nghiệm được ước vọng vượt quá những giới hạn của họ.
Gilles Becquet, lecture d’evangiles,… année B. (p.186-200)
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Việc Chúa Kitô chịu đau khổ và chịu chết là một mầu nhiệm khó chấp nhận, “là cớ vấp phạm cho người Do thái, là sự điên rồ đối với dân ngoại” (Lc 1,23) Bởi đó Thiên Chúa đã chuẩn bị tâm hồn mọi người để có thể hiểu được phần nào mầu nhiệm ấy.
Cuộc chuẩn bị xa xôi nhất là việc Thiên Chúa đòi tổ phụ Abraham sát tế con trai duy nhất, dâng làm của lễ toàn thiêu cho Ngài. Việc đòi hỏi ấy thật là mâu thuẫn với lời Chúa hứa cho ông. Nhưng Abraham không thắc mắc, không phản đối mà hoàn toàn tin tưởng. Kết quả: ông được kể là công chính và Isaac con ông vẫn được sống, chứ chẳng bị sát tế (Bài đọc 1)
Sự công bình và lòng thương yêu của Chúa đối với ta đã đòi hỏi Chúa làm một điều tương tự như Abraham là “không dung tha Con mình, nhưng lại phó thác Con vì tất cả chúng ta” (Rm 8,32). Isaac không bị giết mà Abraham vẫn được kể là công chính (Gc 2,21), còn Chúa Kitô thì đã bị giết, đã chết thực sự, nhưng đã sống lại, ngự bên hữu Chúa Cha và đã trở thành Đấng “công chính hóa” nhân loại (Bài đọc 2).
Chính là để cho các môn đồ thân tín giữ vững niềm tín thác khi thấy mình đau khổ và chết mà Chúa Kitô đã tỏ phần nào vinh quang của Người trên núi Taborê.
2. Chúa Giêsu đã đem ba môn đồ thân yêu lên núi Biến hình và cũng sẽ đem họ vào vườn Cây Dầu trong cơn hấp hối của Người. Mọi cảnh ngộ dầu là dịp Chúa gởi đến để kêu mời ta tiến sâu trong tình thân ái với Người. Hãy biết đọc các “dấu chỉ thời đại” dưới ánh sáng đức tin, trong tình yêu Chúa nồng nàn.
3. Các môn đồ không thể hiểu ngay mọi ý nghĩa của biến cố Biến hình. Trong đời sống thường nhật, đứng trước những khó khăn, gian truân, vui buồn, được an ủi hay bị bỏ rơi ta thật khó quán triệt ý nghĩa cuộc đời, khó khám phá ra Thiên Chúa tình yêu và công bình. Nhưng hãy kiên tâm, bền chí trong kinh nguyện, trong suy niệm lời Chúa. Trong đời hoạt động và ta sẽ thấy Thiên Chúa lớn hơn con tim chúng ta.
4. Ngày nay biến cố Biến hình vẫn còn tiếp diễn trong thế giới: Chúa Kitô biến hình trong người nghèo đói, bệnh tật, tù đày bơ vơ không nhà cửa, trong các sứ giả Tin Mừng… “Ai tiếp đón các con là tiếp đón Ta, ai tiếp dón Ta là tiếp đón Đấng dã sai Ta”. Mùa Chay giúp ta thay đổi cái nhìn, kiện toàn cách cư xử của ta với tha nhân.
79. Đức Giêsu biến đổi hình dạng
(Chú giải của Lm PX Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Cuộc đời của Đức Giêsu là một hành trình, một chuyến đi đường. Điều này, tác giả Mc đã cho thấy dọc theo tác phẩm của ngài với từ ngữ “con đường” (hodos), đặc biệt trong phân đoạn 8,27–10,45: ở đây chúng ta thấy Đức Giêsu thường xuyên ở trên đường cùng với các môn đệ (8,27; 9,33.34; 10,32). Trên đường đi, Đức Giêsu nhắc đi nhắc lại cách Người sống. Người tìm cách giải thích cho các môn đệ rằng, một bên, do chương trình mà Người sẽ thực hiện theo lệnh của Thiên Chúa, bên kia do kế hoạch của các đối thủ muốn khử trừ Người, Người phải chọn lựa giữa đánh liều mạng sống và phản bội sứ mạng. Vì đã chọn vâng lời Thiên Chúa, Người đi lên Giêrusalem.
Biến cố Đức Giêsu biến đổi hình dạng là cốt lõi của đoạn trung tâm 8,27–10,45 và được trực tiếp liên kết với phân đoạn Phêrô tuyên xưng đức tin và lời loan báo đầu tiên về Thương Khó (8,27–9,1).
Chúng ta có lý khi coi bài tường thuật về Hiển Dung như là cái trục của TM Mc. Điều này càng rõ khi người ta nhận thấy bài này có thể dễ dàng tách khỏi ngữ cảnh: chỉ việc nối câu nói của Đức Giêsu về Quang Lâm gần kề (9,1) với cuộc tranh luận về Êlia phải đến trước (9,11-13) thì thấy tư tưởng cũng như thể văn không bị cắt đứt gì cả (Với lại các yếu tố của các bài tường thuật chỉ được nối với nhau bằng các liên từ kai: 9,1: “Và Người nói”; 9,2: “Và Người lên núi…”; 9,11: “Và các ông hỏi …”).
Sau khi đã nói đến những gian khổ mà các môn đệ phải chấp nhận nếu muốn đi theo Người, Đức Giêsu thêm: “Tôi bảo thật các người: trong số những người có mặt ở đây, có những kẻ sẽ không phải nếm cái chết trước khi thấy Triều Đại Thiên Chúa đến, đầy uy lực” (9,1). Theo tác giả, biến cố Triều Đại (Nước) Thiên Chúa đến là đối tượng của Tin Mừng (1,14-15). Còn “uy lực” của Thiên Chúa thì sẽ được biểu lộ vào ngày Quang Lâm. Đức Giêsu đã khẳng định như thế nhiều lần (x. 12,18-27; 13,24-27; 14,61-62).
Nếu tạm bỏ bài Hiển Dung sang một bên, ta thấy cuộc tranh luận sau đó bàn về việc Êlia trở lại (9,11-13). Đồng hoá Gioan Tẩy Giả và Đức Giêsu với Êlia và các ngôn sứ Israel ngày xưa là một đề tài được Mc thường xuyên đề cập đến, ở đây, cũng như ở trong 6,14-16 và 8,27-29. Cuộc tranh luận ấy trước tiên có tầm mức cánh chung, bởi vì ngôn sứ Malakhi đã loan báo Êlia sẽ trở lại làm vị tiền hô của Đấng Mêsia (x. Ml 3,23-24). Đức Giêsu đã nhìn nhận Gioan Tẩy Giả đóng vai trò này (Mc 1,2-8; x. Lc 1,17). Nói tóm, cuộc tranh luận về việc ngôn sứ Êlia trở lại, cho dù được coi là đã được thể hiện nơi Gioan Tẩy Giả, được ghép rất tự nhiên vào một lời của Đức Giêsu liên hệ đến biến cố Nước Thiên Chúa đến.
Vậy, bài tường thuật Hiển Dung đã được tháp vào đây là do nền thần học của tác giả và do cấu trúc ngài cung cấp cho tác phẩm của ngài, nhưng cũng là để làm một đoạn giải thích sự chậm trễ của Quang Lâm. Nếu như vậy, tác giả đã thực hiện được một sự hài hoà đáng phục bởi vì câu nói về Quang Lâm của Đức Giêsu được minh hoạ và báo trước trong biến cố Hiển Dung. Sự xuất hiện của Êlia được nhắc đến trong biến cố này, gợi ra câu hỏi về vai trò của Êlia sau đó. Khi đó, viễn cảnh Quang Lâm được lặp lại, càng thêm long trọng.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Đức Giêsu đưa ba môn đệ đi (9,2a-b);
2) Đức Giêsu biến đổi hình dạng (9,2c-8);
3) Đức Giêsu truyền lệnh giữ kín những điều đã biết (9,9-10).
Một số nhà chú giải đã khám phá ra có một sự “đóng khung” vừa chính xác vừa tinh tế, ở cc. 2 và 8. Một đàng, Mc viết rằng “Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, chỉ mình các ông thôi, tới một ngọn núi cao”. Đàng khác, ông nói rằng “Các ông chợt nhìn chung quanh, thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi”: kiểu đóng khung này đã bỏ ra bên ngoài cc. 9-10 là hai câu chứa đựng hai chủ đề riêng của TM Mc, là bí mật thiên sai và sự không hiểu của các môn đệ, để nói về một mạc khải riêng cho ba môn đệ thân tín: Tác giả Mc cho hiểu rằng muốn khám phá ra chân tính của Đấng Mêsia, cần phải được dẫn nhập dần dần. Bài tường thuật Hiển Dung này như muốn là biểu tượng của cuộc dẫn nhập tiệm tiến vào mầu nhiệm Đấng Mêsia: thị kiến được dành riêng cho ba môn đệ được dẫn riêng lên một ngọn núi; lệnh truyền từ trời là hãy chỉ lắng nghe Người Con; cuối cùng, lệnh truyền giữ kín mạc khải này.
3.- Vài điểm chú giải
– sáu ngày sau (2): Toàn bài gợi tới Xh 24. Cũng như Môsê, Đức Giêsu lên núi với ba bạn đồng hành nêu rõ tên (Xh 24,1.9). Tới ngày thứ bảy, Thiên Chúa nói với Môsê; qua sáu ngày, Đức Giêsu lên núi và có tiếng Thiên Chúa phán. Tác giả Riesenfield nhấn mạnh tới chi tiết “sáu ngày sau” mà cho rằng đấy là biến cố Đức Giêsu tỏ mình ra là Đấng Mêsia (truyền thống dành ngày thứ bảy để tưởng niệm Thiên Chúa đăng quang làm vua). Đám mây, cũng giống như trong Xh 24,16t, là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa.
– một ngọn núi cao: Ta không thể xác định đây là ngọn núi nào, nhưng nó có thể gợi tới núi Sinai (theo Xh 24). Ngọn núi là nơi có các cuộc thần hiển: Thiên Chúa nói với Môsê trên núi (Xh 24,15tt); Ngài tỏ mình ra với Êlia trên núi (1 V 19,8).
– Người biến đổi hình dạng: Không có kinh nghiệm nào trong quá khứ, dù là kinh nghiệm của Môsê ở trên núi Sinai, có thể giúp hình dung sự biến đổi hình dạng của Đức Giêsu ở đây. Điều đặc biệt là khi Người ở trong vinh quang thiên quốc, các môn đệ vẫn nhận ra Người. Đức Giêsu có “y phục rực rỡ, trắng tinh không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy” (c. 3). Thật ra đây là một “ánh sáng chói lọi”, là màu sắc của những thực tại thiên quốc và cánh chung. Cuộc Hiển Dung không phải là kết quả của một nỗ lực con người, nhưng là một biến cố được mô tả theo dạng thái bị động (c. 2: metemorphôthê, aorist passive) để cho thấy rằng Thiên Chúa là Đấng hành động một mình trong biến cố này.
– thấy ông Êlia cùng ông Môsê (4): Theo truyền thống, Môsê có vai trò rất quan trọng trong lịch sử dân Chúa. Thứ tự Êlia–Môsê của riêng tác giả Mc tương ứng với vị trí quan trọng hơn mà Êlia có trong TM II. Ngoài ra, ông còn là một dung mạo mang tính khải huyền và thiên sai hơn Môsê. Tuy nhiên, c. 5, với tên Môsê ở trước, ta nhận ra dấu vết của truyền thống mà Mc chưa xóa đi. Dù sao, sự xuất hiện của hai ông chứng tỏ “Nước Thiên Chúa đã đến gần”. Hai ông xuất hiện vừa cho thấy Đức Giêsu hiệp thông với thiên giới, vừa giới thiệu với tư cách và số phận của Người.
– đàm đạo với Đức Giêsu: Mc không cho biết đề tài cuộc trao đổi giữa Đức Giêsu với Êlia và Môsê.
– chúng con xin dựng ba cái lều (5): Khi ba nhân vật thiên giới đàm đạo với nhau, ba tông đồ, những con người “phàm phu tục tử”, ở cách xa. Do đó, khi ngỏ lời với Đức Giêsu mà chỉ thưa Người là “Thầy” (rabbi) và đề nghị được dựng ba lều, Phêrô đã chứng tỏ sự ngỡ ngàng hụt hẫng của mình. Đề nghị của Phêrô là nhắm duy trì hoàn cảnh các ông đang trải nghiệm. Tuy nhiên, ta chỉ hiểu được đề nghị này nếu ta đặt nó vào trong khung cảnh lịch sử của Lễ Lều. Lễ này kéo dài kỷ niệm 40 năm dân Israel đã sống trong sa mạc, dưới lều, để phụng sự Đức Chúa (Yhwh), và được Ngài che chở (đám mây sáng). Nhân danh dân tộc mình, Môsê đã yêu cầu vua Pharaô để cho dân đi vào sa mạc để có thể cử hành lễ mừng Đức Chúa. Lễ này có thể trùng hợp với cuộc thần hiển tại núi Sinai, nhưng thật ra, nó bao trùm những năm dài trước khi vào Đất Hứa. Người Do-thái đã ghi giữ rồi nhớ nhung đời sống du mục này và đã kết tinh nó vào Lễ Lều, kéo dài một tuần, để kết thúc chu kỳ Lễ Vượt Qua và lễ Ngũ Tuần. Trong Do-thái giáo hậu lưu đày, Lễ này có chứa nỗi niềm chờ mong Đấng Mêsia.
Thật ra, vì mối bận tâm của Mc là cho thấy hành trình đức tin của các môn đệ, nên đề nghị này của Phêrô chứng tỏ ông không hiểu gì (tương tự ở 8,32t): Do muốn duy trì niềm hạnh phúc thiên giới, ông lại đang muốn tránh những đau khổ chắc chắn phải đi vào.
– kinh hoàng (6): Tác giả đã nhận định: “Thật ra, ông không biết phải nói gì, vì các ông kinh hoàng” (9,6; xem 14,40: tình trạng ngây dại ở vườn Ghếtsêmani). Sự kinh hoàng này (tương tự sự kinh hoàng của các phụ nữ khi sứ thần hiện ra tại mộ, x. 16,5-8) chứng tỏ các ông khó mà hiểu, thậm chí không thể hiểu, tầm mức thiên sai của những lời nói và hành vi của Đức Giêsu. Phêrô đã minh giải sai cuộc tỏ mình của Đấng Mêsia trên núi; tất cả những gì ông có thể nói ra đều mang vẻ ngờ nghệch vì ông kinh hãi trước sự đột nhập của thế giới thần thiêng. Và khi Mc ghi nhận ở c. 8 rằng “các ông chợt nhìn quanh, thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi”, ta lại không nghe ra như một lời trách nhắm đến đến các tông đồ là đã không biết tiếp tục dựa vào lòng tin mà nhìn ra Đức Giêsu vẫn không ngừng sống cùng các thánh của Cựu Ước và sống trong tình thân thiết với Cha Người đó sao? Khi cũng những vị tông đồ này tự hỏi câu “từ cõi chết sống lại” nghĩa là gì, thì đây không phải hỏi về một vấn đề tín điều (bởi vì đây là một tín điều được mọi người, trừ phái Sađốc, chấp nhận), nhưng là băn khoăn về Đức Giêsu: Các ông đang vấp phạm vì cái chết mà Đức Giêsu sẽ phải đi qua. Chẳng phải là Đấng Mêsia sẽ được cất lên trời như Êlia, như Môsê sao? Chẳng lẽ Người lại phải xuống cõi chết trước khi sống lại? Mc đã nêu bật sự tăm tối của các tông đồ dọc theo tác phẩm của Người (x. 4,13.40-41; 6,50-52; 8,17-21; 9,32; 10,24.26.32.38).
– Từ đám mây (7): Đám mây là tấm phông trên đó Đức Giêsu biến đổi hình dạng, từ đó Êlia và Môsê đi ra để nói chuyện với Đức Giêsu và từ đó tiếng Chúa Cha phát ra; Êlia và Môsê lại biến mất vào đó, và cùng với đám mây, cũng biến mất vinh quang của Đức Giêsu. Như trong cuộc Xuất hành, đám mây tượng trưng sự hiện diện gần kề của Thiên Chúa. Đám mây này là tấm màn ngăn cách một thời gian nữa những thực tại trần thế với những thực tại biên giới. Đám mây này đã xé ra khi Đức Giêsu đến thế gian và nhận phép rửa. Đám mây này là nơi Đấng Phục Sinh biến mất vào hôm sau ngày sống lại và theo lời sấm Đanien; trên đám mây này, Đức Giêsu sẽ tái hiện vào thời tận thế để quy tụ những kẻ được tuyển chọn.
– Đây là con Ta yêu dấu (7): Sự xuất hiện của đám mây và tiếng nói của Thiên Chúa vừa giải nghĩa cuộc Hiển Dung vừa trả lời cho phản ứng của Phêrô.
So với Lời nói tại Phép Rửa (1,11), lời công bố này không thêm gì mới về Đức Giêsu, Con Thiên Chúa và Đấng Mêsia, nhưng lời này đưa lại một điều chỉnh quan trọng cho lời tuyên xưng đức tin của Phêrô (8,29). Vị tông đồ chỉ tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Mêsia; Trời Cao chứng thực Người là Con yêu dấu của Thiên Chúa. Nếu thị kiến về Đức Giêsu hiển dung giới thiệu trước vinh quang của Đức Giêsu vào ngày Phục Sinh và ngày Quang Lâm, Tiếng Nói lại chứng thực Đức Giêsu là Con luôn sống thân thiết với Chúa Cha và gợi ý rằng Người đã có từ muôn đời (tiền hữu). Lời gửi gắm cuối cùng đã đẩy cuộc truyện trò của Êlia và Môsê vào hàng thứ yếu; kể từ nay chính Đức Giêsu là Đấng duy nhất mà các tín hữu phải lắng nghe; Người là Đấng trung gian duy nhất của Giao Ước Mới trong đó Êlia, Môsê và tất cả các ngôn sứ được tham dự vào.
– truyền cho các ông không được kể lại (9): Đây là lệnh im lặng cuối cùng trong Mc, lệnh này có một ý nghĩa căn bản cho cả các lệnh khác với cùng một giới hạn về thời gian. Bằng c. 9 này, tác giả hướng bài tường thuật Hiển Dung về Phục Sinh: bài tường thuật như thế nối kết số phận của Đức Kitô và lời loan báo về Triều Đại Thiên Chúa. Những gì ba môn đệ đã thấy trên núi làm cho các ông thành những người được nhận trước sự hoàn tất của lời hứa 9,1. Sau lệnh của Đức Giêsu, tác giả dừng lại với môn đệ. Các ông tuân giữ lệnh truyền (ton logon ekratêsan cũng có thể có nghĩa là là “ghi nhớ ký ức”, theo kiểu nói La-tinh [memoria] tenere), nhưng tranh luận xem “từ cõi chết sống lại” nghĩa là gì, chắc chắn theo nghĩa là “cuộc sống lại của Đức Giêsu”.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Đức Giêsu đưa ba môn đệ đi (2a-b)
Cuộc Hiển Dung lại là một truyện nữa trong đó Đức Giêsu đưa riêng ba môn đệ chọn lọc là Phêrô, Giacôbê và Gioan đi (x. chữa con gái Gia-ia, 5,35-43). Người chọn một quả núi cao, biểu tượng của tình trạng gần gũi với Thiên Chúa; Người chọn sự cô quạnh và biệt lập. Đức Giêsu đưa các môn đệ đi xa cuộc sống hằng ngày xô bồ náo nhiệt. Điều mà các môn đệ phải hiểu là một điều hoàn toàn lạ thường, nhưng không có gì là ngoạn mục hoặc gây cảm giác mạnh. Hoàn cảnh mà Người chọn và bố trí cho thấy rằng Người không muốn tạo ra một ấn tượng tức thời và hời hợt trên một đám đông, nhưng Người muốn biến đổi một vài người cách sâu xa và bền vững. Chỉ bằng cách để cho mình được dẫn vào nơi cô tịch và đến gần Thiên Chúa, ba môn đệ mới ở trong môi trường thuận lợi mà bước một bước quyết liệt đến chỗ hiểu biết mầu nhiệm bản thân Đức Giêsu.
* Đức Giêsu biến đổi hình dạng (2c-8)
Đức Giêsu đã biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Những gì xảy ra trên núi là nhắm cho các ông, chứ không phải cho Người. Bây giờ các ông hiểu rằng phương diện quan thuộc của con người trần thế nơi Đức Giêsu không diễn tả hết thực tại của Người; họ cũng nhận thấy rằng Người không bị giam hãm trong các giới hạn của thực tại trần thế. Đàng sau phương diện nhân loại trần thế của Đức Giêsu, có ẩn giấu thực tại thần linh siêu phàm của Người. Ở đây không những các giới hạn của thực tại trần thế bị vượt qua, mà cả những ranh giới của thời gian cũng bị vượt qua. Bên cạnh Đức Giêsu, xuất hiện Êlia và Môsê, hai gương mặt nổi bật trong lịch sử dân Israel. Các ngài tượng trưng cho sự ân cần của Thiên Chúa đối với dân (Môsê) và cuộc tranh đấu của Ngài cho dân (Êlia). Sứ mạng và nhiệm vụ của Đức Giêsu được ví với sứ mạng và nhiệm vụ của hai ngài. Hai ngài là những vị báo trước Đức Giêsu. Sự kiện Đức Giêsu ở giữa hai ngài và hai ngài thưa chuyện với Đức Giêsu cho ba môn đệ một bằng chứng nữa để có thể nhận biết Đức Giêsu là ai: Người thuộc về thế giới của Thiên Chúa. Nhưng Người cũng thuộc về lịch sử của dân Israel được Thiên Chúa hướng dẫn. Người sẽ phải đưa sứ mạng của Môsê và Êlia đến chỗ hoàn tất. Tiếng Nói từ trời với các môn đệ xác nhận điều này. Ngoài lời tuyên xưng của Phêrô đã nhìn nhận Đức Giêsu là Đấng Kitô (8,29), bây giờ các môn đệ còn hiểu Đức Giêsu có quan hệ thế nào với Thiên Chúa. Đồng thời, các ông cũng hiểu hậu quả của quan hệ này đối với các ông: vì Người là Con Thiên Chúa, các ông phải vâng nghe lời Người. Tương quan của Đức Giêsu với loài người tùy thuộc quan hệ của Người với Thiên Chúa.
Sau khi đã mạc khải rằng Đức Giêsu là Con yêu dấu, rằng Đức Giêsu không chỉ là tôi tớ, mà ở trong một tương quan về nguồn gốc và bình đẳng do bản chất, Thiên Chúa còn tuyên bố về tình yêu đối với Người. Đây là bí mật đích thực của Người mà bây giờ ba môn đệ được chính Thiên Chúa đưa vào. Đức Giêsu không chỉ biết Thiên Chúa xa xa là Chúa tể, như Môsê và Êlia biết, nhưng biết Thiên Chúa như là Cha, trong một tương quan gần gũi và thân tình nhất. Bởi vì chúng ta không thể trực tiếp có một tương quan gần gũi với Thiên Chúa hơn và cũng không thể có một sự hiểu biết cao sâu hơn về Thiên Chúa, Đức Giêsu Đấng giúp chúng ta có sự hiểu biết tối hậu và vĩnh viễn về Thiên Chúa (x. Ga 1,18; Mc 12,6). Cho tới nay, Israel đã nghe lời Môsê và Êlia, bây giờ họ phải nghe lời Đức Giêsu.
Cuộc Hiển Dung là một đỉnh cao trong mạc khải về Đức Giêsu. Ở đây, Người tỏ mình ra cho các môn đệ trong thực tại siêu phàm của Người, trong quan hệ của Người với lịch sử Israel, trong tương quan của Người với Thiên Chúa. Các môn đệ đã nhận được mạc khải sâu xa nhất và quan trọng nhất về Đức Giêsu. Ta chỉ hiểu được sự vĩ đại và sâu thẳm của mạc khải này trong mức độ ta hiểu Thiên Chúa là ai: chỉ từ điểm này ta mới có thể hiểu nội dung của những điều sau đây: Thiên Chúa tự mạc khải ra như là Cha, đầy tình yêu, của Đức Giêsu; Đức Giêsu là Con yêu dấu của Thiên Chúa; trong lời nói và hành động của Đức Giêsu, tình yêu từ phụ của Thiên Chúa được tỏ bày ra. Các môn đệ đã biết tất cả những điều đó trong cuộc Hiển Dung.
* Đức Giêsu truyền lệnh giữ kín những điều đã biết (9-10)
Sau mạc khải ấy, Đức Giêsu truyền các môn đệ giữ im lặng. Họ còn cần có thời gian và phải tham dự vào cuộc Thương Khó, cái chết và sự sống lại của Đức Giêsu, trước khi có thể hiểu được bản chất đích thực và ý nghĩa của tư cách Con Thiên Chúa của Người. Khi đó, họ sẽ không được thinh lặng nữa, trái lại họ phải đi làm chứng công khai.
+ Kết luận
Nơi Đức Giêsu, các môn đệ được nghe lời của Con Thiên Chúa. Các ông sẽ ghi nhớ những lời Người nói về những đau khổ đưa đến vinh quang (8,31-9,1) và sẽ nghiền ngẫm những chặng đường mầu nhiệm của ơn cứu độ mà Đức Giêsu mạc khải cho các ông (9,9-13). Lời nói trong ánh sáng này lại không phải là dấu chỉ mà từ bao đời, dân tộc Do-thái và toàn thể nhân loại vẫn mong chờ, để đạt được cùng đích vận mệnh của mình sao?
5.- Gợi ý suy niệm
1. Những hoàn cảnh và điều kiện trong đó xảy ra mạc khải cho ba môn đệ cũng có một ý nghĩa cho việc chúng ta gặp gỡ riêng tư với Đức Giêsu và với Thiên Chúa: phải tách ra khỏi cuộc sống xô bồ, náo nhiệt, và phải để cho Đức Giêsu hướng dẫn. Khi đó, chúng ta lại được nghe Thiên Chúa giới thiệu Đức Giêsu: “Đây là Con Ta yêu dấu”. Người không phải là Con Thiên Chúa theo bất cứ kiểu nào, nhưng là Người Con duy nhất có trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa là Cha Người.
2. Bên cạnh Đức Giêsu, có Môsê và Êlia. Xuyên qua sự hiện diện của hai nhân vật này, Đức Giêsu đi vào để thuộc về lịch sử cuộc quan hệ giữa Thiên Chúa Israel với dân Người. Đức Giêsu không chỉ là một nhà trừ quỷ hoặc một thầy chuyên làm phép lạ. Sự hiện diện của hai nhân vật đã tạo những hướng đi quan trọng trong lịch sử dân Israel nêu bật rằng Đức Giêsu đã đến nhân danh Thiên Chúa để tiếp tục công trình của hai ngài.
3. Cần phải suy nghĩ kỹ hơn về hậu quả giữa quan hệ của Đức Giêsu với Thiên Chúa và ý nghĩa của quan hệ này đối với chúng ta. Càng dành thì giờ thờ phượng, chúng ta càng hiểu sâu thêm về thực tại “Đức Giêsu là Con Thiên Chúa”, khi đó, chúng ta cũng nhận ra những hậu quả của thực tại này đối với chúng ta. Chúng ta phải “vâng nghe lời” Người và không được phép im lặng nữa. Chúng ta sẽ phải ra đi mà làm chứng.
4. Ma quỷ quả có hô to chân tính của Đức Giêsu, nhưng không rút ra được bất cứ hệ quả nào cho những người đang nghe chúng. Còn ở trên ngọn núi này, lời khẳng định và lệnh truyền của Chúa Cha đi đôi với nhau. Chỉ có ai vâng theo mệnh lệnh thì mới nhìn nhận thật sự lời khẳng định và mới bắt đầu ở trên đường đưa tới chỗ hiểu lời này trọn vẹn hơn. Lệnh Đức Giêsu cấm các môn đệ nói về điều vừa thấy (9,9) cho hiểu là mọi điều đó vẫn còn nguyên giá trị, nhưng nói ra bây giờ thì còn quá sớm. Từ đó, ta hiểu rằng các tiếng la của ma quỷ hoàn toàn sai chỗ và quá sớm, và chỉ có thể gây khó khăn thêm cho việc hiểu biết Đức Giêsu cách đích thực.
80. Chú giải của William Barclay.
VINH QUANG TRÊN ĐỈNH NÚI
Ở đây chúng ta đang đối diện với một biến cố trong đời sống Chúa Giêsu vốn được phủ bằng một tấm màn bí mật. Chúng ta chỉ cố tìm xem đã có chuyện gì xảy ra. Maccô bảo rằng việc này xảy ra sáu ngày sau biến cố gần Xêdarê Philípphê, Luca thì nói tám ngày sau. Tuy nhiên, ở đây không hề có sự bất nhất. Cả hai vị đều muốn nói như ngày nay chúng ta nói là “độ chừng một tuần lễ sau”. Cả hai Giáo Hội Đông lẫn Tây phương đều kỷ niệm ngày Chúa Giêsu biến hình vào ngày 06 tháng 08 dương lịch. Vấn đề quan trọng không phải ngày đó đúng hay không, nhưng đó là thời điểm mà chúng ta nên tìm cách ghi nhớ. Truyền khẩu nói đến sự biến hình xảy ra trên đỉnh núi Tabor. Giáo Hội phương đông gọi lễ Chúa Biến Hình là lễ Taborion, có lẽ việc chọn núi Tabor được căn cứ vào câu đề cập đến núi Tabor trong Tv 89,12, nhưng đó là một lựa chọn đáng tiếc. Núi Tabor nằm về phía Nam xứ Galilê, còn Xêdarê Philípphê thì ở mãi tận phía bắc. Núi Tabor cao không hơn 300 mét và vào thời Chúa Giêsu có một đồn binh trên đó. Điều có lý hơn là sự việc đã xảy ra trên sườn núi Hermôn một ngọn núi phủ tuyết quanh năm, cao gần 3000 mét, gần Xêdarê Philípphê hơn và khung cảnh cũng yên tĩnh hơn nhiều.
Chúng ta không thể xác quyết đã có chuyện gì xảy ra. Chúng ta chỉ biết cúi đầu cung kính khi cố gắng tìm hiểu. Maccô bảo áo của Chúa Giêsu trở nên sáng rực. Từ ông dùng là chữ stibein, chữ được dùng chỉ sự sáng chói của đồng hoặc của vàng được nung chảy, hoặc của thép được đánh bóng hay ánh sáng chói chang vàng rực của mặt trời. Lúc biến cố ấy kết thúc, có một áng mây che phủ họ. Trong tư tưởng của người Do Thái, sự hiện diện Thiên Chúa luôn luôn được kết hợp với đám mây. Trong ngày khánh thành đền thờ sau khi được Salômôn xây cất, một đám mây đã bao trùm đền thờ. Dân Do Thái mơ ước khi Đấng Mêsia đến, đám mây hiện diện của Thiên Chúa cũng sẽ trở lại với đền thờ (Xh 16,10; 19,9; 33,9; 1V 8,10; 2Mcb 2,8). Việc đám mây kéo xuống là một cách nói rằng Đấng Mêsia đã đến, và bất kỳ người Do Thái nào cũng hiểu như vậy.
Sự biến hình có hai ý nghĩa:
1/ Đó là một điều thật quý báu cho Chúa Giêsu. Chúa Giêsu cần quyết định một số sự việc, Ngài đã quyết định lên Giêrusalem và quyết định ấy có nghĩa là đối diện và chấp nhận thập giá. Ngài cần biết cách tuyệt đối rằng mình đã quyết định đúng trước khi tiếp tục dấn bước. Trên đỉnh núi, Ngài đã nhận được sự chấp thuận quyết định của Ngài.
(a) Êlia và Môsê đã đến gặp Ngài. Môsê là nhân vật tối cao đã ban bố luật cho dân Israel. Cả hai dân tộc đã chịu ơn ông về luật của Chúa. Êlia là vị ngôn sứ đầu tiên và vĩ đại nhất trong các ngôn sứ. Mọi người luôn luôn nhìn lại ông như một ngôn sứ mang chính lời Chúa đến cho con người. Khi hai nhân vật lỗi lạc nhất đó hội kiến với Chúa Giêsu, có nghĩa là nhà ban bố luật vĩ đại nhất và vị ngôn sứ lỗi lạc nhất đã nói với Chúa Giêsu rằng “Xin cứ tiến lên!”. Nó có nghĩa là hai vị thấy nơi Chúa Giêsu hoàn thành tất cả những gì họ từng mơ ước trong quá khứ. Nó có nghĩa là họ thấy nơi Ngài tất cả những gì mà lịch sử vẫn trông chờ từ lâu và đã hướng về đó với hy vọng tràn đầy. Dường như chính lúc đó Chúa Giêsu được bảo đảm rằng Ngài đang đi đúng đường, và cả lịch sử đều dẫn đến thập giá.
(b) Thiên Chúa Cha phán với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu không bao giờ hành động theo ý riêng. Ngài luôn luôn đến với Thiên Chúa Cha và thưa rằng “Cha muốn con phải làm gì đây?” Ngài đặt mọi kế hoạch và dự kiến trước mặt Chúa Cha và Chúa Cha phán với Ngài “Con đang làm đúng điều chính Con yêu dấu Ta phải làm. Hãy tiếp tục đi”. Trên núi Biến Hình, Chúa Giêsu được bảo đảm Ngài không lầm đường. Ngài đã thấy thập giá không những là việc không tránh được và còn là điều vô cùng chính đáng.
2/ Đó là điều quý báu vô cùng cho các môn đệ của Chúa.
(a) Họ đang bị tan nát khi nghe Chúa Giêsu khẳng định rằng Ngài sắp lên Giêrusalem để chịu chết. Điều này dường như tiêu hủy, phủ nhận tất cả những gì họ đã được hiểu về Đấng Mêsia. Họ đang bối rối, ngẩn ngơ, kinh ngạc, chẳng hiểu sự việc thế nào. Những việc xảy ra chẳng những khiến họ rối trí mà còn khiến họ đau lòng. Những gì đã thấy trên núi Biến Hình cho họ một cơ hội để bám chặt lấy ngay khi họ chẳng hiểu gì. Cho dù có thập giá hay không, họ vẫn được nghe chính tiếng nói của Chúa Cha xác nhận Chúa Giêsu là Con Ngài.
(b) Nó khiến họ trở thành các chứng nhân cho sự vinh hiển của Chúa Kitô theo một ý nghĩa đặc biệt. Theo định nghĩa chứng nhân là người thấy, sau đó tỏ bày ra. Lần ấy, trên núi, họ đã được cho thấy vinh hiển của Chúa Kitô. Do đó, khi có cơ hội, họ đã có sẵn câu chuyện đang giấu kín trong lòng để lại kể cho mọi người nghe.
(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)
HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH:
Sau khi cho các môn đệ biết về việc Người sắp lên Giê-ru-sa-lem để chịu chết và ngày thứ ba sẽ sống lại, Đức Giê-su muốn củng cố lòng tin của các ông đang bị giao động, bằng cách đưa 3 môn đệ thân tín là Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an lên núi cao. Tại đây, Người biến hình trước mặt các ông, rồi có lời Chúa Cha xác nhận Người là Con yêu dấu. Có Mô-sê và Ê-li-a hiện ra đàm đạo về cuộc khổ nạn Người sắp trải qua. Như vậy, việc biến hình cho thấy cuộc khổ nạn của Đức Giê-su là do thánh ý của Chúa Cha và cũng nhằm khích lệ tinh thần của các môn đệ, giúp các ông kiên vững lòng tin khi phải chứng kiến cuộc khổ nạn của Người sau này.
CHÚ THÍCH:
– C 2-4: + Các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an: Đây là ba môn đệ được Chúa ưu ái. Người cho các ông nhìn thấy vinh quang Thiên tính của Người, như chuẩn bị tinh thần trước để các ông khỏi bị vấp ngã khi phải chứng kiến cảnh Người phải lo buồn sầu não trong vườn Cây Dầu trước giờ chịu khổ nạn (x. Mc 14,33). + Lên núi cao: Chưa xác định là núi nào trong hai ngọn núi là Tha-bo và Héc-mon. Núi cao thường được coi là nơi Đức Chúa ngự. Lên núi cao là để gặp gỡ Đức Chúa, như Mô-sê gặp Đức Chúa trên núi Khô-rếp trong vùng Si-nai để đón nhận mười điều răn được khắc trên hai tấm bia đá (x. Xh 24,12-18), còn Ê-li-a là vị ngôn sứ thời kỳ Các Vua, ông phải chạy trốn cuộc truy bắt của hoàng hậu I-de-ven bằng cách trớn lên “núi Thiên Chúa” (x. 1V 19,2.8). Trong Tin mừng hôm nay, ba môn đệ đã được Đức Giê-su cho leo lên núi cao để được Người mặc khải cho biết về Thiên tính của Người. + Người biến đổi hình dạng: Đức Giê-su tạm thời từ bỏ hình dạng bình thường của phàm nhân, để mang một hình dạng khác của Con Thiên Chúa. Y phục rực rỡ trắng tinh chiếu tỏa vinh quang thiên giới. Trong đoạn này, Mác-cô cho thấy: Đức Giê-su, Đấng Mê-si-a đang ẩn mình, người Tôi Trung đau khổ của Thiên Chúa, giờ đây đã tỏ bày ra trước kỳ hạn về vinh quang phục sinh sau này. + Ông Ê-li-a và ông Mô-sê: Hai vị này đều đã từng leo núi để tiếp nhận mặc khải của Đức Chúa. Hai vị đều là nhân vật của thời cánh chung. Cả hai đều bước vào thế giới bên kia cách bí nhiệm: Mô-sê thì bị chết ở miền đất Mô-áp trước khi dân vào chiếm Hứa Địa, nhưng không ai biết được mộ phần ông ở đâu (x. Đnl 34,6), còn Ê-li-a thì leo lên chiếc xe ngựa rực lửa bay về trời trong cơn gió lốc (x. 2V 2,11). Ở đoạn này, sự hiện diện của Mô-sê tượng trưng cho Lề Luật, và của Ê-li-a tượng trưng cho các Ngôn sứ. Điều này chứng minh có sự liên tục giữa Cựu Ước với Tân Ước. Nó cho thấy thời kỳ Cánh Chung và Cứu Độ đã khởi đầu. + Hiện ra đàm đạo với Đức Giê-su: Mác-cô không nói đến nội dung cuộc đàm đạo, đang khi Lu-ca lại cho biết: “Và nói về cuộc xuất hành” (nghĩa là cuộc ra đi: chết, sống lại và lên trời của Đức Giê-su) – mà Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem (x Lc 9,29).
– C 5-8: + Xin dựng ba cái lều: Lúc đó đang trong thời gian dân Ít-ra-en mừng Lễ Lều kéo dài 7 ngày. Trong các ngày này, họ phải đến ở tạm trong các lều trại làm bằng cành cây, để ôn lại công ơn Đức Chúa đã cứu Ít-ra-en khỏi cảnh nô lệ cho người Ai Cập và cha ông họ đã từng ở trong các lều trại nơi sa mạc (x. Lv 23,34.42-43). Ở đây, Phê-rô xin dựng 3 lều trại nhằm kéo dài cuộc thần hiện mà ông đang chứng kiến. + Có một đám mây bao phủ các ông: Đám mây diễn tả sự hiện diện của Đức Chúa, giống như trong thời kỳ xuất hành của dân Do Thái xưa (x. Xh 40,34-38) + Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người: Lời Chúa Cha công nhận Đức Giê-su là “Con” (x. Tv 2,7), giống như khi Người chịu phép Rửa tại sông Gio-đan (x. Mc 1,11). Đức Giê-su cũng được giới thiệu như một Ngôn Sứ mà mọi người phải nghe theo lời Người chỉ dạy (x. Mt 16,14; Cv 3,22-23).
– C 9-10: + Đức Giê-su truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy: Trong Tin Mừng Mác-cô, sau khi làm phép lạ chữa bệnh hay trừ quỉ, Đức Giê-su thường đòi người vừa được chữa lành phải giữ kín sự việc xảy ra, không được tiết lộ cho người khác biết là Đức Giê-su đã làm phép lạ ấy. Đòi hỏi giữ kín được gọi là “Bí Mật của Đấng Thiên Sai”. Sở dĩ Đức Giê-su không muốn cho người ta biết Người là Đấng Thiên Sai vì cần có thời gian để Người giảng dạy dân Do Thái hiểu đúng về sứ mệnh Thiên Sai theo Ý Thiên Chúa của Người. Nếu nói sớm sự thật này sẽ làm cho dân Do thái đang bị tinh thần ái quốc cực đoan tác động, đang mong đợi một Ông Vua Thiên Sai theo nghĩa trần tục, sẽ hiểu lầm về sứ mệnh Thiên Sai của Đức Giê-su và sẽ gây bạo loạn, gây cớ cho quân Rô-ma đem quân đến tiêu diệt dân Do Thái nhỏ bé, sẽ bất lợi cho sứ mệnh Thiên Sai về mặt thiêng liêng tinh thần của Đức Giê-su. Cuộc biến hình biểu lộ Thiên tính của Đức Giê-su sẽ được các môn đệ chính thức công bố sau biến cố Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giê-su, nghĩa là sau khi Người từ cõi chết sống lại. + Các ông tuân lệnh đó: Ba môn đệ đã vâng lời Đức Giê-su. Các ông không nói gì về cuộc biến hình này, mãi đến khi Người trải qua mầu nhiệm chết và sống lại. Dù các ông không hiểu tại sao Người lại cấm như vậy. + Từ cõi chết sống lại nghĩa là gì? Cũng như Phê-rô đã can trách Đức Giê-su đừng chấp nhận con đường cứu thế qua đau khổ thập giá theo ý Chúa Cha, còn các môn đệ khác đều không hiểu hay không muốn hiểu về con đường “Từ trong cõi chết sống lại” hoặc “Qua đau khổ vào vinh quang” đã được Đức Giê-su công bố trước cuộc biến hình (x Mc 8,31).
CÂU HỎI: 1) Tại sao Đức Giê-su lại hiển dung biến hình trước mặt ba môn đệ Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an? 2) Chúa biến hình trên núi cao là núi gì? 3) Đức Giê-su hiển dung để mặc khải Người là ai? 4) Nội dung cuộc đàm đạo với Mô-sê và Ê-li-a là gì và nhắm mục đích gì? 5) Tại sao ông Phê-rô lại xin Thầy cho dựng 3 lều? 6) Đám mây diễn tả về điều gì? 7) Qua lời phán từ trong đám mây, Thiên Chúa muốn mặc khải Đức Giê-su là ai với 3 môn đệ của Người? 8) Bí mật Đấng Thiên Sai nghĩa là gì? Tại sao Đức Giê-su cấm ba môn đệ không được nói ra điều các ông vừa được chứng kiến? 9) Tại sao các môn đệ lại thắc mắc về ý nghĩa của câu “Từ trong cõi chết sống lại” do Đức Giê-su đã nói sau khi biến hình?
SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Đức Giê-su đã biến đổi hình dạng trước mắt các ông” (Mc 9,2).
2. CÂU CHUYỆN:
1) Thiên thần cũng có thể biến thành ác quỉ:
Một hôm, một họa sĩ người Ý khá nổi tiếng đang đi bách bộ để tìm hứng sáng tác. Khi đến một khúc cua, ông chợt thấy một bé trai có khuôn mặt hồn nhiên dễ mến. Tự nhiên ông muốn vẽ lại vẻ mặt thiên thần của em. Ông nói với cậu bé rằng: “Này em, em có muốn tôi vẽ chân dung của em không?” Cậu bé gật đầu đồng ý và theo họa sĩ về xưởng vẽ của ông. Mấy giờ sau, cậu ta rất ngạc nhiên và vui mừng nhìn thấy khuôn mặt của em rạng rỡ trong bức tranh. Họa sĩ đặt tên cho bức tranh này là: “Tuổi thơ trong trắng”. Ông treo nó nơi phòng khách, và mỗi khi gặp điều gì bực mình, ông lại nhìn lên bức tranh kia và lập tức lấy lại bình an. Một số người muốn mua bức tranh với giá cao, nhưng dù gặp khó khăn về tài chính mà họa sĩ vẫn không bán.
Hai mươi năm sau. Một hôm họa sĩ cũng đang đi dạo để tìm hứng vẽ tranh. Khi tới gần khu nhà ổ chuột, tình cờ ông nhìn thấy một gã ăn xin, áo quần lôi thôi rách nát và có khuôn mặt chai lì gian ác, trông như một tên quỉ sứ. Ông suy nghĩ: “Sao trên đời này lại có người mang bộ mặt gian ác xấu xa đến thế nhỉ? Phải chi ta vẽ được gương mặt quỉ sứ này để so sánh với gương mặt thiên thần trong bức “Tuổi thơ trong trắng” trong phòng khách nhà ta thì hay biết mấy!”
Bấy giờ gã ăn mày đã chìa tay xin bố thí. Họa sĩ yêu cầu gã làm người mẫu cho ông vẽ và hứa sẽ cho gã một số tiền khá. Gã ăn xin lập tức đồng ý. Khi bức tranh đã vẽ xong, gã nhận tiền và ra về. Nhưng khi đi ngang phòng khách, gã trông thấy bức tranh “Tuổi thơ trong trắng” đang treo trên tường, gã liền dừng lại nhìn một lúc, rồi hai dòng lệ từ từ lăn trên gò má. Sau đó gã chỉ lên bức tranh và nói với họa sĩ rằng: “Thưa ông, đây chính là khuôn mặt của tôi hồi còn bé mà tôi nhớ có lần đã ngồi làm mẫu cho ông vẽ. Hôm nay ông lại vẽ khuôn mặt của tôi sau khi nó đã biến dạng!” Rồi gã thuật lại cuộc đời bất hạnh của gã như sau:
“Tôi vốn là một đứa con trai, lại là con một, nên được cha mẹ rất mực cưng chiều. Nhưng cũng vì thế mà tôi sinh ra hư hỏng. Khi cha mẹ tôi lần lượt qua đời, tôi đã bán tất cả gia sản và lao mình vào các thú vui trác táng… Chỉ sau một thời gian ngắn, tôi đã phung phí hết tiền bạc của cha mẹ và phải nhập bọn với lũ bạn đi trộm cắp. Rồi tôi bị bắt và thụ án mười năm. Trong thời gian ở tù, tôi đã trải qua rất nhiều gian khổ tủi nhục: Bị đánh đập, ứng hiếp và bị bóc lột tàn nhẫn. Nhưng rồi tôi cũng quen dần với cuộc sống đó. Cuối cùng chính tôi lại trở thành kẻ bóc lột hành hạ các tù nhân mới nhập trại và các bạn tù khác nhỏ yếu hơn tôi. Bây giờ sau khi vừa mãn hạn tù, tôi đang trong tình trạng không một đồng xu dính túi, lại còn mang thêm bệnh lao phổi sang thời kỳ thứ ba. Tôi chẳng biết làm gì hơn là phải đi ăn xin như ông thấy đó”.
Trước tâm sự của một người đã phung phí trót cả tuổi thanh xuân của mình, họa sĩ rất xúc động. Nhưng ông cũng chỉ biết khuyên bảo gã ăn xin hãy cố ăn ở lương thiện. Ít lâu sau, ông được tin gã đã nằm chết cô đơn tại một góc phố. Họa sĩ đã treo bức tranh “Ác quỉ” mà ông mới vẽ bên cạnh bức “Tuổi thơ trong trắng”. Ông cũng thường giải thích cho bạn bè và những ai thắc mắc về hai bức tranh như sau: “Hai khuôn mặt trong hai bức tranh này thực ra chỉ là một con người. Và sự khác biệt giữa hai khuôn mặt thiên thần và ác quỉ chỉ cách nhau 20 năm phóng đãng mà thôi!”.
2) Vâng lời đáng quý hơn mọi báu vật:
Một hôm nhà vua triệu tập các cận thần. Vua đưa cho quan Tể Tướng xem một viên ngọc trai vừa to vừa rất đẹp và hỏi rằng:
– Khanh hãy lượng định xem viên ngọc này đáng giá bao nhiêu?
– Tâu Bệ Hạ, nó đáng giá hơn số lượng vàng khối mà 4 con lừa có thể chuyên chở.
Vua ra lệnh cho quan Tể tướng:
– Nhà ngươi hãy đập bể viên ngọc này đi!
Quan Tể Tướng liền nói:
– Tâu Bệ Hạ, làm sao hạ thần có thể đập bể một báu vật rất quý giá như thế được ạ!
Nhà vua thưởng cho quan Tể Tướng một chiếc áo danh dự và lấy lại viên ngọc.
Kế đó vua lại đưa viên ngọc quý cho quan Thị Vệ trong cung và cũng hỏi:
– Theo khanh, viên ngọc này đáng giá bao nhiêu?
– Bằng cả một tỉnh thành của Vương quốc.
– Khanh hãy đập bể nó ra!
– Đập vỡ viên ngọc này ư? Tâu Bệ Hạ, tay thần không thể nào làm được công việc đó.
Nhà vua cũng thưởng cho quan Thị Vệ một chiếc áo danh dự và còn tăng lương cho ông.
Sau cùng nhà vua đưa viên ngọc cho Abdul:
– Ngươi có thấy viên ngọc nào đẹp bằng viên ngọc to quý này không?
– Muôn tâu, thần chưa hề thấy viên ngọc nào quý giá như viên ngọc của Đức Vua.
– Nhà ngươi hãy đập nát nó đi.
Lập tức Abdul cầm một viên đá lớn đập nát viên ngọc quý kia thành bụi. Quần thần ai nấy đều thét lên sợ hãi vì sự táo bạo của Abdul. Họ hỏi ông rằng:
– Sao nhà ngươi lại dám làm như thế?
Abdul bình tỉnh đáp lại:
– Lệnh của Hoàng Thượng đáng giá hơn bất kỳ viên ngọc quý nào.
Trước thái độ vâng phục tuyệt đối của Abdul, nhà vua đã khen ngợi chàng đã làm đúng nhiệm vụ của một bề tôi trung thành và đã ban thưởng bội hậu hơn hai vị quan kia.
Câu chuyện trên giúp chúng ta hiểu được Đức Giê-su chính là Con yêu dấu của Thiên Chúa vì luôn vâng lời Ngài, như Tin Mừng hôm nay đã ghi nhận: Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9,7b).
3. THẢO LUẬN: 1) Hãy cho biết nguyên nhân nào đã biến một em bé có khuôn mặt trong trắng của thiên thần lại biến thành khuôn mặt gian ác của quỉ dữ? 2) Bạn sẽ thực tập nhân đức nào để loại bỏ thói hư quan trọng bạn đang mắc phải trong Mùa Chay này?
4. SUY NIỆM:
1) Cuộc hiển dung của Đức Giê-su:
– Biến cố Đức Giêsu biến hình trên núi hé lộ cho ba môn đệ thân tín là Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an thấy vinh quang của Thiên Chúa nơi Thầy Giê-su của các ông: Từ khuôn mặt đến y phục bên ngoài của Đức Giêsu đều biến đổi nên sáng láng đẹp đẽ khiến ba môn đệ cảm thấy sung sướng ngất ngây.
– Bấy giờ đang là lễ Lều Trại, ông Phê-rô trong tình trạng nửa mê nửa tỉnh đã nhìn thấy Thầy Giê-su trò chuyện với hai nhân vật rất nổi tiếng là ông Mô-sê, đại diện cho Lề Luật và ông Ê-li-a, đại diện cho Lời Chúa phán, nên đã xin Thầy cho được dựng ba cái lều: Một cho Thầy, một cho ông Mô-sê và một cho ông Ê-li-a.
2) “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9,7):
Tiếng Thiên Chúa phán từ trong đám mây chính thức xác nhận Đức Giêsu là “Con Yêu Dấu” và dạy các môn đệ “hãy vâng nghe lời Người”.
– Đức Giêsu là Con Một của Chúa Cha, mang nơi mình tất cả vinh quang và quyền năng của Chúa Cha, thể hiện qua việc biến đổi hình dạng và y phục: Khuôn mặt của Người trở nên sáng chói vinh quang của Thiên Chúa giống như ông Mô-sê sau khi được tiếp xúc với Đức Chúa. Áo Người đang mặc hóa nên “rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy”. Các môn đệ ngỡ ngàng và ngây ngất khi được chứng kiến vinh quang của Thiên Chúa được biểu lộ nơi Đức Giêsu.
– Tiếp đến tiếng Chúa Cha từ trong đám mây truyền cho các môn đệ “hãy vâng nghe lời Người”: Vâng lời Đức Giê-su là vâng lời Chúa Cha như Người đã nói: “Ai nghe anh em là nghe Thầy; và ai khước từ anh em là khước từ Thầy; mà ai khước từ Thầy là khước từ Đấng đã sai Thầy” (Lc 10,16). Vâng lời Đức Giêsu là làm theo lời Đức Ma-ri-a đã dạy gia nhân trong tiệc cưới Ca-na: “Người bảo gì các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5). Cụ thể vâng lời Đức Giê-su còn là chấp nhận đi con đường “qua đau khổ là chấp nhận thập giá và cái chết để được vào trong vinh quang phục sinh”, điều mà ông Phê-rô đã không chấp nhận và còn lên tiếng can trách Đức Giê-su và đã bị Người mắng: “Xa-tan. Lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mc 8,33). Cuối cùng vâng nghe Đức Giêsu là không được nói với ai về những gì vừa chứng kiến, cho tới khi Con Người “từ cõi chết sống lại”.
3) “Từ trong cõi chết sống lại” (Mc 9,10) nhờ phương thế nào?:
Cuộc đời người tín hữu chính là họa lại cuộc sống của Đức Giê-su: Khi lãnh bí tích Rửa tội, chúng ta cũng được dìm mình trong dòng nước và trồi lên khỏi mặt nước giống như Đức Giê-su đã trải qua cuộc tử nạn và được an táng trong mồ, rồi ngày thứ ba đã từ cõi chết trỗi dậy. Các tông đồ các thánh tử đạo đã chấp nhận đi con đường này. Mỗi tín hữu chúng ta hôm nay cũng phải sẵn sàng chấp nhận sự thua thiệt, mất mát giữa đời thường. Chẳng hạn: vì đức tin và quyết tâm trung thành với Chúa không làm điều sai trái nên có thể mất việc làm, mất cả địa vị xã hội…
Thánh Phao-lô dạy: “Thật vậy, ai gieo giống nào thì sẽ gặt giống ấy. Ai theo tính xác thịt mà gieo điều xấu, thì sẽ gặt được hậu quả của tính xác thịt là sự hư nát. Còn ai theo Thần Khí mà gieo điều tốt thì sẽ gặt được kết quả của Thần Khí, là sự sống đời đời. Khi làm điều thiện chúng ta đừng nản chí, vì đến mùa, chúng ta sẽ được gặt, nếu không sờn lòng. Vậy bao lâu còn thời giờ, chúng ta hãy làm điều thiện cho mọi người, nhất là cho những anh em trong cùng đại gia đình đức tin” (Gl 6,7-10). Trong những ngày Mùa Chay này, chúng ta cũng cần xét mình và quyết tâm sám hối bằng việc loại trừ các thói hư như: lười biếng việc đạo đức dự lễ, đọc kinh gia đình, không tham lam ích kỷ vô trách nhiệm, tránh nói hành nói xấu kẻ vắng mặt, biết nín nhịn để không gây gỗ với những kẻ mình không ưa… Nhờ việc tham dự các buổi tĩnh tâm Mùa Chay, dọn mình xưng tội, tham dự các buổi học sống Lời Chúa hằng tuần, quyết tâm thi hành các công tác tông đồ bác ái và phục vụ cụ thể theo phân công của cấp trên… Nhờ đó, chúng ta hy vọng sẽ được biến đổi nên người mới và được sống lại thật về linh hồn trong Mùa Phục Sinh sắp tới.
5. LỜI CẦU:
Lạy Chúa Giêsu, hiện giờ chưa tới lúc chúng con được biến hình vinh quang, nhưng đang là lúc chúng con phải biến đổi nên tốt hơn nhờ sự ăn năn sám hối tội lỗi và ăn chay hãm mình đền tội. Nhờ đó, chúng con sẽ ngày một nên con hiếu thảo luôn làm đẹp lòng Chúa Cha hơn, nên môn đệ thực sự của Chúa nhờ chăm chỉ nghe và thực hành Lời Chúa. Xin cho chúng con biết cộng tác với ơn Thánh Thần để chu toàn sứ mạng làm chứng cho Chúa trước mặt người đời.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.