18/07/2023
2995
Bài giảng Lễ Chúa Nhật XVI TN - Giáo phận Mỹ Tho











 







GỢI Ý SUY NIỆM

LỄ CHÚA NHẬT XVI TN - A

Kn 12,13.16-19; Rm 8,26-27; Mt 13,24-43

 
Lm Trầm Phúc

Chúa Giêsu sống trong một xứ nông nghiệp, vì thế Ngài dùng những dụ ngôn rút ra từ những việc đồng áng. Như thế, người nghe có thể dễ dàng hiểu rõ hơn.

Dụ ngôn quan trọng nhất trong những dụ ngôn chúng ta nghe hôm nay là dụ ngôn kẻ thù gieo cỏ lùng vào ruộng lúa. Hạt giống gieo vào ruộng lúa phải nằm trong lòng đất suốt mùa đông, kẻ thù có nhiều thì giờ để gieo cỏ lùng vào đó. Mùa xuân đến, lúa và cỏ lùng cùng mọc lên. Như thế cỏ lùng sẽ lấn át cây lúa, khiến lúa không thể tốt được. Chủ nhà biết là kẻ thù đã gieo cỏ lùng, nhưng ông không cho nhổ cỏ lùng vì có thể nhổ luôn lúa tốt. Ông nhẫn nại chờ cho đến khi gặt mới tách cỏ lùng ra khỏi lúa tốt. Lúa được trữ vào kho, còn cỏ lùng thì đốt đi.

Các môn đệ muốn hiểu rõ hơn nên xin Thầy giải thích dụ ngôn cỏ lùng. Chúa Giêsu đã giải thích rõ ràng dụ ngôn cho các ông.

Chúng ta có một kẻ thù không bao giờ mõi mệt đó là ma quỷ. Nó không bao giờ muốn cho lời Chúa sinh hoa kết quả trong thế gian. Nó dùng mọi hình thức, mọi kỷ thuật để gieo vào lòng người và thế gian những mầm giống cỏ lùng, những mầm giống tội lỗi. Chúng ta cũng thấy, hiện nay, không có nơi nào mà không có sự ác, không có nơi nào mà không có truỵ lạc, bất công, xảo kế. Và chúng ta đang run sợ vì thế giới này đang có nguy cơ tan nát. Chiến tranh đang nổ khắp nơi, dưới mọi hình thức. Lời Chúa đang bị bóp nghẹt. Ngay cả trong Giáo Hội cũng có những trào lưu mới độc hại. Bao nhiêu nhà thờ bị bỏ hoang vì không còn giáo dân, người ta đang tìm cách tiêu diệt Giáo Hội bằng mọi giá. Nhiều người thành tâm tự hỏi: sao Chúa không tiêu diệt những mầm móng tội ác, sao Chúa để cho những người độc ác tồn tại.

Thiên Chúa vẫn nhẫn nại đợi chờ, vì Ngài không muốn cho những người tội lỗi phải chết, nhưng chỉ mong họ ăn năn. Chính Chúa Giêsu đã nói: “Ta đến không để tiêu diệt, mà để cứu vớt”. “Người mạnh giỏi không cần thấy thuốc, mà những kẻ yếu đau”.

Chúa vẫn nhận nại đợi chờ cho chúng ta ý thức được vai trò của mình là làm cho danh Cha cả sáng. Chúng ta có ý thức được rằng chúng ta là những người được yêu và chúng ta phải mang tình yêu Chúa đến tận cùng thế giới không? Kẻ thù càng manh động, chúng ta càng phải cố gắng nhiều hơn.

Hãy xem chúng ta đã làm được gì cho Nước Chúa? Chúng ta đã gieo được gì trong gia đình chúng ta, trong xóm chúng ta đang sống, trong môi trường làm việc của chúng ta? Nhiều người trong chúng ta chỉ giữ đạo cho mình, lo rỗi linh hồn một mình. Hạt giống Chúa gieo vào tâm hồn chúng ta không sinh kết quả mà ngược lại bị cỏ lùng bóp nghẹt. Chúng ta theo dỏi những chương trình truyền hình mỗi ngày, nhiều giờ mà không biết cầu nguyệu, thì hạt giống lời Chúa làm sao đâm bông kết trái?

Tâm hồn chúng ta là thửa đất mà Xatan luôn rình rập. Nó gieo vào đó cỏ lùng của tiền bạc, thú vui, tiện nghi đủ loại, hấp dẫn chúng ta, làm chúng ta xao lãng không còn nghĩ gì hơn là lợi nhuận và hưởng thụ.

Khi chúng ta không bám vào Chúa thì Satan sẽ thắng vì chúng ta chỉ là tro bụi. Hãy cảnh giác cao độ, vì Satan vẫn mạnh hơn chúng ta. Chỉ có Chúa mới có thể giúp chúng ta dẹp được cò lùng trong tâm hồn chúng ta. “Không Thầy, chúng con chẳng làm được việc gì”, Chúa đã cảnh báo chúng ta như thế. Chúa mới là thành đồng bảo vệ chúng ta. Ngài cho chúng ta một hồng ân vô cùng quí báu là được ăn lấy Ngài, sống với Ngài. Đó là bảo đảm tuyệt vời. Đừng bỏ qua dịp nào chúng ta có thể dự bàn tiệc thần linh của Chúa. Đây là thời thương xót. Chúa nhẫn nại đợi chờ đến mùa gặt mới ra tay. Đừng để cỏ lùng bóp nghẹt cây lúa mà Chúa đã công phu gieo vãi vào lòng chúng ta.




Lm. Đaminh Lê Minh Cảnh

Nhờ Ơn Chúa Thánh Hóa Tâm Hồn.

Chuyện kể rằng: có một thầy ẩn tu tên là Cébastien. Thầy thường hay đến cầu nguyện tại một ngôi nhà thờ nhỏ nằm sâu trên núi, nơi xa xôi hẻo lánh. Giữa ngôi nhà thờ đó, là một Cây Thánh Giá rất linh thiêng, và rất được người dân tin thờ. Một hôm, nhân lúc vắng người, thầy Cébastien quỳ gối trước Thánh giá ấy và thầm nguyện rằng: "Lạy Chúa, con biết Chúa quá đau khổ vì con, nên giờ đây, con muốn chia phần đau khổ với Chúa, bằng cách con sẽ giang tay, đứng thế chỗ cho Chúa trên Thánh giá này".

Không gian tĩnh lặng được một lúc, thầy nghe tiếng nói từ Thánh giá vọng xuống: "Được, Ta bằng lòng cho con thế chỗ, nhưng với một điều kiện là: Khi con thấy bất cứ điều gì xảy ra, con cũng phải im lặng. Được không!".

Cébastien đồng ý. Thế là, thầy được Chúa cho thế chỗ của Ngài trên thập giá.

Ngày ngày, giáo dân vẫn đến cầu nguyện trước thập giá ấy, nhưng không ai biết thầy Cébastien đã lên thế chỗ của Chúa Giêsu. Một hôm, có một người giàu, sau khi cầu nguyện xong, ra về lại bỏ quên túi tiền ở ghế ngồi. Nhìn thấy đó, nhưng Thầy vẫn phải yên lặng. Rồi một lúc sau, cũng có một người nghèo đến cầu nguyện, nhưng khi bước vào, người đó nhìn thấy túi tiền, tâm trạng mừng lắm và nghĩ rằng Chúa linh thiêng thật, Chúa biết mình nghèo túng, nên mới cho mình số tiền này. Thoáng nghĩ như thế, nên anh ta vội vàn cầu nguyện qua loa vài câu với Chúa, rồi lật đật cầm túi tiền đó ra về.

Sau đó, là một thanh niên bước vào cầu nguyện, anh này đến để xin ơn bình an cho một chuyến sắp đi xa. Rất không may cho anh, vì vừa cầu nguyện xong, anh bước ra bên ngoài, thì gặp người giàu trở lại tìm túi tiền. Tìm không thấy, ông ta nghĩ là tên thanh niên này đã lấy tiền, nên ông định đưa anh này đến đồn cảnh sát... Thấy vậy, từ trên thập giá, thầy Cébastien khá bức xúc, không chịu được, và không thể giữ im lặng được nữa, buộc lòng thầy phải lên tiếng: “Dừng lại!" Bắt đầu, Thầy kể rõ lại sự việc một cách chi tiết, như môt đoạn phim chiếu chậm... Và ngay lúc đó, Chúa Giêsu hiện ra bảo: “Cébastien! Con xuống khỏi thập giá ngay đi, vì con đã không giữ im lặng, như lời con hứa.” Thế là, Thầy phân trần giải thích: “Chúa ơi, Con không chịu được khi nhìn thấy cảnh bất công! Con không chấp nhận cảnh kẻ xấu sống chung lẫn lộn với người tốt.”

Thưa anh chị em,

Ý câu chuyện muốn gợi lên tâm lý chung của những người biết hướng thiện rằng: Trong cuộc sống đời thường, ta khó lòng chấp nhận cho phép những “người xấu” len lõi sống chung với những “người tốt”.

Với ý nghĩa tương tự, theo Tin Mừng, không ít người cũng có quan điểm: không nên để “cỏ dại” sống chung với “lúa tốt”. Nghĩa là “người xấu” và “người tốt” cần phải phân biệt rõ rằng, như lời người đầy tớ đề nghị với ông chủ của mình rằng: “Ông có muốn chúng tôi đi thu gom cỏ dại lại mà đốt đi không?”

Và nếu nói bằng những cụm từ nông nghiệp chuyên môn hiện đại, thì phải nói như thế này: “Ông có muốn chúng tôi dùng thuốc Ronstar hoặc 2.4 D, để diệt trừ cỏ gấu không? Hay ông có muốn chúng tôi xử dụng thuốc Gly-phô-sate để tiêu diệt cỏ Cú không? Hoặc có muốn chúng tôi phun thuốc ADC 360 EC, để diệt cỏ tận mầm không?” Chỉ cần chúng tôi dùng thuốc xịt “một phát” là trong dòng 24 tiếng đồng hồ, mọi loại cỏ sẽ chết ngay và ta “khỏe re như con bò kéo xe thôi”.

Thật ra, với ý của bài Phúc Âm, ta nên hiểu như thế này: tiêu diệt cỏ dại trên đồng ruộng, đồng nghĩa với việc “triệt hạ” những người tội lỗi ra khỏi thế giới này, là ý muốn của con người, chứ không phải của Chúa. Bởi vì bản tính của Chúa là “Thương Xót”, là “Nhân Hậu”, cho nên Ngài vẫn luôn đợi chờ những người tội lỗi một cách “kiên nhẫn” vì không muốn mất một linh hồn nào như Ngài đã nói: “Ta đến để tìm và cứu những người tội lỗi” (X.Mc 2,17).

“Tìm”“Cứu” người tội lỗi, có nghĩa là Ngài không muốn tiêu diệt họ, mà Ngài chỉ muốn cho họ cơ hội để sám hối, ăn ăn trở lại. Và một khi một ai đó biết ăn năn, cũng là lúc Chúa tỏ lòng “xót thương” đối với họ.

Nói như vậy, để biết rằng Chúa giống y như một người cứu nạn chuyên nghiệp: đi khắp nơi, tìm khắp chốn những con người tội lỗi, không phải để trừng phạt, nhưng là để cứu sống.

Xét ra, ta mới thấy Chúa Giêsu có nhiều lý do để làm như thế: Thứ nhất: vì Chúa là Đấng rất từ bi nhân hậu như Kinh Thánh diễn tả: “Ngài không nỡ bẻ gẫy cây sậy bị dập và Ngài cũng không nỡ dập tắt tim đèn còn khói.” (Mt 12,21) Thứ hai: vì Chúa tin rằng người xấu vẫn có cơ hội để thay đổi thành người tốt và người tội lỗi vẫn có thể sửa đổi để làm lại cuộc đời. Chẳng hạn như Phêrô: một đêm chối Thầy, nhưng một đời đền tội. Hay là như Phaolô: một thời bắt đạo, rồi một thời truyền đạo. Hoặc Augustinô, một thời tội lỗi, nhưng nữa đời còn lại, biết hoán cải để nên thánh...

Nhìn vào tấm gương của các Thánh, có những lúc ta cảm thấy mình bị quỵ ngã do cám dỗ của ma quỉ, của thế gian và sự yếu đuối xác thịt của bản thân.

Tuy nhiên, từ nơi sâu thẩm nhất của tâm hồn, ta cảm thấy vẫn còn đó một sự “gắng sức chỗi dậy”, muốn sửa đổi bản thân để nên thánh mỗi ngày!

Sự gắng sức trong ta có lúc dằn co dữ dội, chẳng khác gì một cuộc “nội chiến” giữa thể xác và tinh thần, như lời thánh Phaolô nói trong thư gửi tín hữu Rôma: “Điều tốt tôi muốn mà tôi lại không làm, còn điều xấu, tôi không muốn mà tôi lại cứ phạm” (Rm 7,19)

Điều đó muốn nói rằng: mãnh đất tâm hồn ta có những hạt giống tốt, đang cố gắng ngoi lên với những việc làm tốt lành. Và đồng thời vẫn có không ít những mầm cỏ dại (xấu xa) chen vào, làm cho ta bị mất đi “sức đề kháng”, “thiếu ơn Chúa”, khiến cho tâm hồn ta dễ bị “nhiễm bệnh”, sa ngã phạm tội.

Nên giờ đây, chúng ta cầu xin Chúa cho ta biết đón nhận ơn Chúa, như một sức mạnh thần dược, đẩy lui những mầm móng “cỏ lùng độc hại”, để tâm hồn ta trở thành một mãnh đất màu mỡ với những hạt giống tốt chờ một mùa bội thu. Amen.




Lm. FX. Nguyễn Văn Thượng

Lòng thương xót của Đức Chúa là một trong những thực tế quý giá nhất trên thế giới, một trong những chủ đề được tiết lộ nhiều nhất trong toàn bộ Kinh thánh, và là một trong những Chân Lý bị hiểu lầm một cách thảm hại nhất về Đức Chúa. Nếu chúng ta muốn biết Chúa thực sự là ai, nếu chúng ta muốn nhìn vào trái tim của Người, thì không nên nhìn vào sự thể hiện cơn thịnh nộ chính đáng và sức mạnh vũ trụ của Người. Thay vì thế, hãy chú ý đến lòng thương xót của Người mà không giảm thiểu sức mạnh toàn vẹn của Người, và nhìn vào bức tranh toàn cảnh có thể thay đổi cuộc đời chính mình.

Đức Chúa bày tỏ lòng thương xót, Người làm như vậy với chủ ý và sức mạnh hoàn toàn, và chúng ta, những tạo vật của Người, có cái nhìn sâu sắc nhất về con người của Đấng Toàn Năng không chỉ ở quyền tối thượng mà còn ở sự tốt lành của Người. Không chỉ đơn giản là ở sự vĩ đại của Đấng Tối Cao mà là sự dịu dàng của Người. Không chỉ ở sức mạnh cao chót vót mà còn ở sự dịu dàng đáng ngạc nhiên của Người.

1.Chúa xử khoan hồng vì Người làm chủ được sức mạnh. Ngài lấy lượng từ bi cao cả mà cai quản chúng con, nhưng có thể sử dụng quyền năng bất cứ khi nào Ngài muốn. Làm như thế Chúa đã dạy dân rằng: người công chính phải có lòng nhân ái. Người đã cho con cái niềm hy vọng tràn trề là người có tội được Người ban ơn sám hối.” (Kn 12,18-19)

Khi nói về sự tốt lành của Đức Chúa, Đa-vít chỉ ra những phẩm chất cụ thể của sự tốt lành đó. Điều tối quan trọng trong số đó: lòng nhân từ cao cả nhấn mạnh cả ân huệ mà Đức Chúa ban cho lẫn tấm lòng nhân từ, dịu dàng của Người mà cai quản mọi loài thụ tạo. Cần lưu ý rằng các thuật ngữ ‘lượng từ bi’ trong đoạn trích này nên được hiểu là con tim Thiên Chúa tràn đầy sự “nhân từ/thương xót”, vì chúng có thể mang cả hai nghĩa bổ túc. Chỉ riêng bối cảnh sẽ quyết định liệu Chúa đang hành động vì lòng thương xót chung hay liệu Người có động cơ sâu xa nào đó chẳng hạn như lòng trắc ẩn chân thành hoặc nỗi buồn xót xa cho hoàn cảnh của người khác.

Cũng như trong Thánh Vịnh 145 câu 8, thuật ngữ “lòng trắc ẩn/lòng trắc ẩn” hiện diện những bối cảnh mà chúng xuất hiện như một khuôn mẫu có tính công thức để vẽ nên một bức tranh vững chắc hơn về lòng nhân từ cao cả của Chúa, trước tiên là từ quan điểm của Cựu Ước và sau đó là từ việc áp dụng chúng cho Đấng Ki-tô trong Tân Ước. Ân sủng và lòng thương xót của Đức Chúa đã được biết rõ và thường được các tác giả Cựu Ước nhắc đến. Chúng thường xuất hiện riêng lẻ nhưng đặc biệt hiệu quả khi chúng xuất hiện cùng nhau.

Cựu Ước ghi lại nhiều trường hợp về ân sủng và lòng trắc ẩn kiên định của Đức Chúa đối với sự ương ngạnh quá thường xuyên của Israel và không tuân giữ—thậm chí cố ý không tuân theo-- các tiêu chuẩn của Người. Vì vậy, Nê-hê-mi-a có thể chỉ ra sự tha thứ của Chúa cho dân Người trong quá khứ: “Nhưng tổ tiên chúng con đã tỏ ra ngoan cố, đã cứng đầu cứng cổ không vâng lệnh Chúa truyền. Họ giả điếc làm ngơ, cũng chẳng thèm ghi nhớ những kỳ công Chúa làm. Họ cứng đầu cứng cổ muốn phản loạn cùng Người, nuôi trong lòng ý định trở lại kiếp làm tôi” (Nê-hê-mi-a 9,16-17a), đồng thời nhắc nhở Đức Chúa rằng về phần mình, Chúa được biết đến với tinh thần nhân từ và kiên nhẫn: “Chúa là Thiên Chúa luôn sẵn sàng thứ tha, Người từ bi nhân hậu, chậm giận, giàu tình thương, đã không bỏ rơi họ.” (Nê-hê-mi 9:17b). Bất chấp tội lỗi của chúng ta, Đức Chúa vẫn nhân từ; bất chấp ân sủng của Đức Chúa chúng ta vẫn tiếp tục phạm tội; bất chấp việc chúng ta tiếp tục phạm tội, Đức Chúa vẫn tiếp tục nhân từ: “ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội” (Rm 5,20). Lòng thương xót của Thiên Chúa là điều mà con người không thể nghĩ ra nhưng có thể trải nghiệm.

Việc các Ki-tô hữu nên thể hiện lòng trắc ẩn chân thành đối với nhau là điều dễ hiểu. Nhưng lòng trắc ẩn của chúng ta có nên chỉ giới hạn cho anh em đồng đạo không? Câu trả lời là không. Nhu cầu của thế giới là có thức ăn, quần áo và việc làm, và những người có những thứ này phải biết chia sẻ với những người không có. Hơn nữa, chúng ta đã thấy ở trên rằng Thiên Chúa quan tâm đến cả những nhu cầu của con người. Ni-ni-ve, kẻ thù của người Do Thái Chúa cũng quan tâm và thể hiện lòng thương xót. Đồng thời, khi Chúa Giê-su bị “một chuyên gia về luật tôn giáo” (x.Lc 10,25) thách thức giải thích ý nghĩa của luật pháp Đức Chúa là “yêu người lân cận như chính mình” (x.c. 28), Người đã đưa ra câu chuyện ngụ ngôn về người Sa-ma-ri nhân lành và mở rộng ra cho mọi người hình ảnh đó cần thiết nơi chính cuộc sống từng người. Khi chuyên gia pháp lý nhận ra những gì đã được dạy, Chúa Giê-su thách thức ông ta: “Hãy đi và làm y như vậy’ (Lc 10,37).

Mong ước những tín hữu ngày nay bước theo Chúa là Thiên Chúa cao cả, đầy ân sủng và từ bi. Mong sao chúng ta lưu ý đến lời thách thức của Chúa Giê-su để trở thành “người Sa-ma-ri nhân lành”. Mong sao chúng ta làm theo lời khuyên của Phao-lô bằng cách mặc lấy “lòng thương xót chân thành” và cố gắng hết sức để yêu thương “người lân cận” của mình.

 

2.Thần Khí giúp đỡ chúng ta là những kẻ yếu hèn, vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải; nhưng chính Thần Khí cầu thay nguyện giúp chúng ta, bằng những tiếng rên siết khôn tả”. (Rm 8, 26)

Do đó, đây là một nguồn trợ giúp và an ủi nữa cho mỗi Ki-tô hữu đang gặp thử thách hiện nay. Bản thân họ không biết khao khát sự giải thoát nào. Bản thân Thánh Phao-lô không biết phải cầu nguyện điều gì khi ngài xin lấy cái giằm xóc vào thịt mình; nếu để mặc họ, sự chờ đợi mòn mỏi và muôn chiều tơ lòng của họ có thể làm tiêu tan hy vọng của họ; nhưng một Người trợ giúp vượt ra ngoài chính họ đến để giúp đỡ họ, chính Chúa Thánh Thần, Đấng Bầu Cử cho họ.

Nhưng bằng cách nào? Không phải như Chúa Ki-tô cầu thay cho họ, ở bên ngoài chính họ, tại Tòa ân phúc; nhưng bên trong chính họ, bằng cách truyền cảm hứng cho họ bằng những tiếng rên rỉ không thể tả xiết (hoặc, không diễn tả được thành lời) này; và họ ý thức rằng những khao khát sâu sắc và mãnh liệt như vậy là do Thần Khí tác động đến họ và dạy họ cầu nguyện. Họ có thể vẫn không thể diễn đạt những lời cầu xin của họ đối với Đức Chúa thành một hình thức rõ ràng, hoặc thậm chí diễn đạt chúng bằng lời; nhưng họ biết rằng Đức Chúa biết ý nghĩa của những gì mà Thần Khí của chính Người đã soi dẫn. Ngay cả ngoài đức tin và sự soi dẫn đặc biệt của Tin Mừng, ý thức bên trong của linh hồn con người, với những khao khát về một điều gì đó chưa được thực hiện, cung cấp một trong những bằng chứng thuyết phục nhất về một cuộc sống sẽ đến với những người cảm thấy khao khát như vậy.

Niềm tin Ki-tô giáo làm sống động lý tưởng, và tăng cường khát vọng; và do đó, lời tiên tri về ý thức nội tại có được một sức mạnh mới đối với tín hữu; và điều này càng khiến chúng ta tin chắc rằng sự thăng tiến của đời sống thiêng liêng ý thức được là nhừo Chúa Thánh Thần. Tác giả Thánh Vịnh hát: “Ôi lạy Chúa, như nai rừng mong mỏi tìm suối nước trong, linh hồn tôi cũng trông mong được gần Người,” đã cảm thấy trong những hơi thở hổn hển nồng nhiệt mặc dù không rõ ràng này là điềm báo trước về sự thành tựu “niềm hy vọng nơi Đức Chúa” nhờ hơi thở phả ra từ Chúa Thánh Thần nói thay cho mình trước mặt Chúa. Sự giúp đỡ trong việc chuyển cầu của Thần Khí là hoàn hảo vì Người dò xét tấm lòng của những người mà Người giúp đỡ, và Người có thể hướng những lời cầu nguyện của chúng ta theo ý muốn của Đức Chúa.

 

3. “Khi mọi người đang ngủ, thì kẻ thù của ông đến gieo thêm cỏ lùng vào giữa lúa, rồi đi mất. Khi lúa mọc lên và trổ bông, thì cỏ lùng cũng xuất hiện.” (Mt 13,26)

Ngụ Ngôn về Lúa Mì và Cỏ Dại, hay Cỏ lùng, chứa đầy ý nghĩa thiêng liêng và chân lý. Nhưng, bất chấp lời giải thích rõ ràng về dụ ngôn mà Chúa Giê-su đưa ra (Mt 13,36-43), dụ ngôn này thường bị hiểu sai. Nhiều ý kiến đã cố gắng sử dụng câu chuyện này như một minh họa về tình trạng của Hội Thánh, lưu ý rằng có cả tín hữu chân chính (lúa mì) và kẻ giả mạo (cỏ lùng) nhiều cộng đoàn. Mặc dù điều này có thể đúng, nhưng Chúa Giê-su giải thích rõ ràng rằng cánh đồng không phải là Hội Thánh; đó là thế giới (câu 38).

Ngay cả khi Chúa không nói cụ thể với chúng ta rằng thế giới là bối cảnh của câu chuyện, thì điều đó vẫn hiển nhiên. Chủ đất bảo đầy tớ không được nhổ cỏ ngoài đồng, nhưng phải để đó cho đến mùa gặt sau này. Nếu cánh đồng là Hội Thánh, mệnh lệnh này sẽ mâu thuẫn trực tiếp với lời dạy của Chúa Giê-su trong Mt 18, cho chúng ta biết cách đối phó với những tội nhân không ăn năn trong cộng đoàn.

Trong xã hội nông nghiệp vào thời Chúa Giê-su, nhiều nông dân phụ thuộc vào chất lượng mùa màng của họ. Một kẻ thù gieo cỏ dại sẽ phá hoại một vụ mùa. Cỏ lùng trong dụ ngôn cho đến khi trưởng thành, có hình dạng giống như lúa mì. Nếu không có những loại thuốc diệt cỏ hiện đại, người nông dân thông thái sẽ làm gì trong tình thế tiến thoái lưỡng nan như vậy? Thay vì nhổ cỏ lùng làm bật luôn cả lúa tốt, người chủ đất trong dụ ngôn này đã khôn ngoan đợi đến mùa gặt. Sau khi thu hoạch cả cánh đồng, cỏ có thể được tách ra và đốt. Lúa mì sẽ được để dành trong nhà kho.

Trong phần giải thích dụ ngôn, Chúa Giê-su tuyên bố rằng chính Người là người gieo giống. Người gieo rắc hạt giống Cứu Độ, tức là gieo đức công chính, trong cánh đồng thế giới. Nhờ ân sủng của Người, những Ki-tô hữu công chính sinh hoa kết trái nhờ Chúa Thánh Thần (x.Gl 5,22-24). Sự hiện diện của họ trên trái đất là lý do khiến “Nước Trời” giống như cánh đồng thế gian. Khi Chúa Giê-su nói: “Nước Thiên Chúa đã đến gần” (Mt 3,2; 4,17), Người muốn nói đến cảnh vực thiêng liêng tồn tại trên đất song song với vùng cương toả của ma quỷ (1 Ga 5,19) . Khi vương quốc thiên đàng đơm hoa kết trái, thiên đường sẽ trở thành hiện thực và sẽ không có “cỏ lùng” giữa “lúa mì”. Nhưng hiện tại, cả hạt giống tốt và xấu đều chín muồi trên thế giới.

Chúa Giê-su Ki-tô một ngày nào đó sẽ thiết lập nền công chính thực sự. Sau khi Người cất Hội Thánh Thánh Thiện ra khỏi thế giới này, Đức Chúa sẽ trút cơn thịnh nộ công bình của Người trên thế giới. Vào cuối đại nạn, tất cả những người không tin sẽ bị phán xét vì tội lỗi và sự vô tín của họ; sau đó, họ sẽ bị loại khỏi sự hiện diện của Đức Chúa. Những người sống theo đức công chính của Đức Ki-tô sẽ trị vì với Người. Thật là một hy vọng huy hoàng cho “lúa mì”!

 


Lm. Thái Nguyên

BAO DUNG VÀ CHỜ ĐỢI

Suy niệm

Thế giới con người ngay từ đầu đến giờ vẫn là sự đối đầu không ngừng giữa sự thiện và sự ác. Tuy nhiên, đứng trước thực tế của cuộc sống hằng ngày, người ta vẫn đặt ra vấn nạn: nếu Thiên Chúa là Tình Yêu, Ngài toàn năng và thánh thiện, thì tại sao Ngài không tiêu diệt sự ác mà để nó lây lan, khiến cho cuộc đời đầy họa tai và khổ ải? Tại sao người lành vẫn phải chuốc lấy những oan trái và nghiệt ngã như vậy? Đó cũng là điều mà dụ ngôn trong Tin Mừng hôm nay đặt ra.

Đứng trước tình trạng cỏ lùng ở giữa lúa, những người đầy tớ cũng đã ngạc nhiên và hỏi chủ mình rằng: không phải ông đã gieo giống tốt trong ruộng ông sao? Vậy cỏ lùng tự đâu mà có?”. Chủ trả lời là do kẻ thù đã làm điều đó, nghĩa là do quỉ dữ đã gieo vào. Nhưng sao chủ lại không cho đầy tớ diệt cỏ lùng? Vì chủ sợ làm như vậy có thể làm bật luôn rễ lúa. Thật vậy, vì cỏ lùng rất giống với cây lúa mì, nên khó phân biệt hai thứ, nhưng đến khi đơm bông thì có thể nhận ra dễ dàng.

Thiên Chúa để cho cỏ lùng mọc chung với lúa, kẻ xấu sống chung với người tốt. Chúa chấp nhận tình trạng vàng thau lẫn lộn. Ngài nhẫn nại với tội nhân, không muốn kẻ gian ác phải chết nhưng muốn nó ăn năn trở lại và được sống (Ed 18, 23). Cỏ lùng chẳng bao giờ thành lúa được, nhưng người xấu có thể hoán cải nên người tốt, tội nhân có thể thành thánh nhân. Sự thánh thiện của Thiên Chúa ở chỗ bao dung và chờ đợi. Dù sao, sự dữ vẫn nằm trong tầm kiểm soát của Thiên Chúa, Đấng có thể biến sự dữ thành sự lành (x. St 37-50), Đấng chấp nhận cho cỏ lùng và lúa cùng lớn lên đến mùa gặt (Mt 13, 29-30), Đấng “cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất lương”. (Mt 5, 45).

Thật ra, cỏ lùng và lúa nằm ở nơi con tim mỗi người, luôn đong đưa giữa thiện và ác, giữa cao thượng và thấp hèn, giữa thiên thần và satan. Vì thế, chúng ta không có quyền tiêu diệt người ác, nhưng có bổn phận tiêu diệt sự ác trong con người, trước tiên nơi chính mình. Tự bản chất, cuộc sống đòi hỏi phải thanh tẩy sự ác không ngừng nơi bản thân, vì chính mình là mầm mống trước tiên gây đau khổ cho bản thân và đồng loại. Nếu Thiên Chúa thẳng tay diệt trừ theo lẽ công bình thì mỗi người chúng ta chắc không ai thoát được (x. Ga 8, 3-11). Trước mặt Chúa chẳng ai là người công chính (Rm 3, 10). Ngay trong những hành vi tốt đẹp nhất của tôi vẫn thấy có chút vị kỷ, chiếm đoạt. Vì thế, kẻ thù lớn nhất của đời mình là chính mình, là “cái tôi đáng ghét”.

Mảnh ruộng nào cũng luôn có cỏ lùng và lúa. Trong môi trường nào cũng có đủ hai hạng người ấy: triều đình nào cũng có những trung thần và nịnh thần; xã hội nào cũng có những thanh quan và tham quan; tôn giáo nào cũng có những người thành tín và bất trung. Sự hiện diện của người xấu cũng là tiếng chuông cảnh báo về bản thân tôi. Satan vẫn lợi dụng thời cơ để lén lút gieo vào trong tôi những hạt giống cỏ lùng, và gây nên những hư hại cho những người xung quanh: một thái độ hững hờ, thiếu quan tâm cũng đủ gây nên buồn phiền cho bạn hữu; một hành vi thiếu tế nhị và tôn trọng cũng đủ gây thương tổn cho tha nhân; một chút nóng giận, khích bác, hay vênh vang tự đắc cũng đủ gây bất hòa trong cộng đoàn; một lời nói vô ý thức hay một hành động thiếu trách nhiệm cũng đủ gây ra tai hoạ cho người khác…

Dụ ngôn cho biết: “Khi mọi người đang ngủ, thì kẻ thù của ông đến gieo thêm cỏ lùng vào giữa lúa”. Nếu tôi không cảnh giác, sẽ có nhiều điều xấu xa xâm nhập vào lòng trí mình. Nếu tôi không luôn đặt mình ở trước mặt Chúa trong mọi công việc, thì đời sống tôi dễ trở thành miếng mồi ngon cho sự dữ hoành hành. Do hậu quả của tội nguyên tổ, con người dễ bị cám dỗ và hướng chiều theo điều xấu, dễ tự mâu thuẫn và bất đồng ngay trong chính bản thân. Đó cũng là kinh nghiệm của thánh Phaolô về việc tốt muốn làm mà lại không làm, cũng là kinh nghiệm hằng ngày của mỗi người chúng ta khi đứng trước những lựa chọn.

Nhưng rồi tiến trình hoàn thiện vẫn đang ở phía trước, hướng mọi người chúng ta vươn tới sự thiện hảo là chính Đức Kitô. Chúng ta không dung túng sự dữ, nhưng cũng không bạo động để chống lại ác nhân; không che chắn cho những điều xấu xa, nhưng vẫn nhẫn nại biến đổi trái tim của kẻ thù thành bạn hữu, vì tin vào sức mạnh của tình yêu. Chúng ta cũng không hy sinh kẻ khác nhưng hy sinh chính mình, để xây dựng một thế giới hòa bình. Đó cũng chính là con người Đức Giêsu trong Tin Mừng hôm nay, mà chúng ta phải mặc lấy tâm tình của Ngài: tâm tình bao dung, đón nhận và chờ đợi trên hành trình về quê trời.   

Cầu nguyện

Lạy Chúa!
khi để cỏ lùng mọc chung với lúa,
Chúa chấp nhận có vàng thau lẫn lộn,
cho dù nhiều hỗn độn và nhiễu nhương,
Ngài vẫn luôn yêu thương và nhẫn nại,
không cho làm hư hại cả đôi bên.

Qua đó Chúa dạy cho chúng con biết,
không tránh được kẻ thù gieo tai ác,
gây đau thương và chua chát phận người,
làm cho cuộc sống này mất đẹp tươi.

Qua đó Chúa đã mời gọi chúng con,
hãy kiên tâm đừng vội chấp sai lầm,
đừng nôn nóng mà loại trừ người xấu,
cần nhìn vào chiều sâu và cảm thấu,
càng không nên khinh thị hay đối đầu,
vì chưa chắc mọi sự như thế đâu.

Qua đó Chúa cũng cho chúng con hiểu,
cỏ lùng và lúa tốt ngay trong lòng,
vẫn đong đưa điều dữ với điều lành,
bất đồng và mâu thuẫn không thể tránh,
sự thiện và sự ác vẫn phân tranh,
cái tốt và cái xấu luôn hình thành.

Chính bản thân của con còn chưa tốt,
nên đừng vội thốt ra lời phê phán,
càng không được xét đoán hay lên án,
kẻo làm cho cuộc sống mãi bất an.

Xin cho con tìm cách thế nhẹ nhàng,
biết mở đường dẫn lối trong tình bạn,
luôn đồng hành và khuyến khích bảo ban,
giúp cho nhau vượt thoát những nguy nan,
cố gắng biến kẻ thù thành bạn hữu,
để chờ ngày viên mãn phúc thiên thu. Amen.

 


Tôma Lê Duy Khang

Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu kể cho chúng ta nghe dụ ngôn cỏ lùng và lúa, Chúa Giêsu kể: “Nước Trời ví như chuyện người kia gieo giống tốt trong ruộng mình. Khi mọi người đang ngủ, thì kẻ thù của ông đến gieo thêm cỏ lùng vào giữa lúa, rồi đi mất. Khi lúa mọc lên và trổ bông, thì cỏ lùng cũng xuất hiện.”

Chúng ta nhớ, cũng trong Tin mừng Matthêu, có đoạn nói đến việc Chúa Giêsu sai các môn đệ đi và nói: “Thầy sai anh em đi như chiên đi vào giữa bầy sói.”

Nghĩa là trong Nước Trời, trong Giáo Hội sẽ có người tốt và người xấu, sẽ có cỏ lùng và lúa, sẽ có chiên và sói, vậy làm sao để có thể giữ được bản chất của mình, làm sao để luôn là lúa để được vào kho lẫm, làm sao để luôn là chiên để được xếp đứng vào bên hữu Chúa?

Trong Tin mừng Matthêu chương 10, Chúa Giêsu nói: “Vậy anh em phải khôn như rắn và đơn sơ như bồ câu. “Hãy coi chừng người đời. Họ sẽ nộp anh em cho các hội đồng, và sẽ đánh đập anh em trong các hội đường của họ. Và anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy để làm chứng cho họ và các dân ngoại được biết. Khi người ta nộp anh em, thì anh em đừng lo phải nói làm sao hay phải nói gì, vì trong giờ đó, Thiên Chúa sẽ cho anh em biết phải nói gì: thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thần Khí của Cha anh em nói trong anh em” (Mt 10,16-20).

Còn trong dụ ngôn lúa và cỏ lùng hôm nay thì khi những người đầy tớ biết được nguyên do có cỏ lùng là do kẻ thù gieo vào ruộng lúa thì họ đến thưa chủ nhà rằng: “Vậy ông có muốn chúng tôi ra đi gom lại không?” Ông đáp: “Đừng, sợ rằng khi gom cỏ lùng, các anh làm bật luôn rễ lúa. Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt. Đến ngày mùa, tôi sẽ bảo thợ gặt: hãy gom cỏ lùng lại, bó thành bó mà đốt đi, còn lúa, thì hãy thu vào kho lẫm cho tôi.” Nghĩa là ông chủ là người quyết định, khi hạt giống đơm bông kết hạt, cỏ lùng cũng phơi bày ra, lúc đó chủ sẽ xử lý.

Như vậy, để có thể giữ được bản chất của mình thì một mặt phải cậy dựa vào ơn Chúa, phải để Chúa hành động hướng dẫn cuộc đời mình, mặt khác phải là phải cộng tác với ơn Chúa, phải khôn ngoan như rắn và đơn sơ như bồ câu, để nhận ra ý Chúa và thi hành thánh ý Chúa trong cuộc đời mình.

Cha Antonio Vélez Alfar, người gốc Colombia, hiện đang sống ở Argentina. Cha Antonio làm chứng trong một thời điểm mà tại Argentina đang có những phản đối mạnh mẽ về luật cho phép phá thai. Ngài nói: “Đối với mẹ tôi, niềm tự hào lớn nhất là đã bảo vệ sự sống cho tôi.” Khi nói những lời này, cha Antonio rơm rớm nước mắt, bởi vì điều này làm cho cha quay trở lại tuổi thơ đầy đau thương của cha và mẹ cha. Thực tế, mẹ cha đã tiết lộ rằng bà đã có thai sau khi bị lạm dụng.

Cha nói: “Mẹ tôi là một phụ nữ có đức tin mạnh mẽ, xác tín và thực hành. Bà nói mặc dù hoàn cảnh rất khủng khiếp, nhưng đã cưu mang điều kỳ diệu của sự sống mới, một sự sống mà Thiên Chúa đã trao ban cho bà. Chính vì xác tín điều này mà mẹ tôi đã không phá thai. Và nếu Chúa cho phép điều này xảy ra, thì sự kiện này phải có ý nghĩa.”

Mẹ cha Antonio bị lạm dụng ở tuổi 27 bởi những người bạn đồng nghiệp. Tại một lễ hội, những người này đã chuốc thuốc mê cho thiếu nữ và lạm dụng cô. Trong nỗi đau khổ không biết cha của em bé là ai, thiếu nữ bị ép gả cho một người goá vợ. Người chồng này không những không yêu thương cô lại còn tiếp tục ngược đãi ngay sau khi kết hôn. Vì không thể ly thân, mẹ Antonio vẫn phải ở với chồng và có thêm con thứ hai, trong lúc Antonio được gửi về cho bà ngoại.

Cha Antonio tiếp tục câu chuyện: Một ngày nọ, bà tôi nói tôi gọi ông tôi bằng “bố”, tôi thắc mắc hỏi lại bà rằng tại sao cùng một người mà lại vừa là bố vừa là ông. Từ thắc mắc này, tôi đi hỏi mẹ tôi, và bà đã kể lại cho tôi nghe câu chuyện khủng khiếp mà bà đã phải trải qua. Bà giãi bày: “Nhiều người muốn mẹ phá thai, những người khác muốn mẹ bán con đi và một số người muốn vứt bỏ con ra đường. Và cũng có những người quan tâm đến con.”

Thực tế, tôi đã trải qua tuổi thơ rất khó khăn. Khi chỉ mới 10 tuổi tôi đã có những phản ứng dữ dội chống lại mẹ tôi.

Một ngày kia, tôi muốn trút cơn giận vào Chúa. Tôi đến nhà thờ để phản đối Người. Trong khi tôi hét lên “Tại sao điều này lại xảy đến với con?” thì có một linh mục đến bên tôi và nói với tôi rằng tôi đã đưa ra câu hỏi sai. Cha nói không hỏi “tại sao” nhưng hãy hỏi “cho ai.” Đó chính là hoàn cảnh của tôi, Thiên Chúa đang gọi tôi thực hiện những điều kỳ diệu.

Vị linh mục đó nói với tôi rằng Thiên Chúa viết thẳng trên những đường cong và tôi sẽ là khí cụ của Người. Sau đó vị linh mục đọc đoạn Thánh Kinh của ngôn sứ Giêrêmia về việc Chúa gọi ông và trấn an ông. “Có lời Đức Chúa phán với tôi rằng: ‘Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi; trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hoá ngươi, Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân.’ Nhưng tôi thưa: ‘Ôi! Lạy Đức Chúa là Chúa Thượng, con đây còn quá trẻ, con không biết ăn nói!’ Đức Chúa phán với tôi: ‘Đừng nói ngươi còn trẻ! Ta sai ngươi đi đâu, ngươi cứ đi; Ta truyền cho ngươi nói gì, ngươi cứ nói. Đừng sợ chúng, vì Ta ở với ngươi để giải thoát ngươi’” (Gr 1,1-8)

Lời chứng của cha Antonio trước toà là một khẳng định trước đây của đa số người dân Argentina, đặc biệt các Kitô hữu. (x. https://uybangiaoduchdgm.net/con-cua-mot-phu-nu-bi-ham-hiep-tro-thanh-linh-muc.html)

Hiểu được như thế, chúng ta thấy để có thể giữ được căn tính là lúa tốt, để sinh hoa trái tốt cho Chúa, chúng ta phải sống theo thánh ý Chúa trong cuộc đời của mình, nói như thư gởi tín hữu Do thái đó là: “Đừng để cho đủ thứ học thuyết xa lạ mê hoặc anh em.” Amen.