17/07/2021
1661
Ba bài học cho truyền thông giáo xứ trong thời COVID_Chủng viện Thánh Gioan XXIII biên dịch
















 







 

BA BÀI HỌC CHO TRUYỀN THÔNG GIÁO XỨ TRONG THỜI COVID

MATTHEW WARNER

 

Những thách đố nổi lên qua đại dịch COVID trong năm vừa qua đã cho thấy sự cần thiết của công cụ kỹ thuật số đối với truyền thông giáo xứ. Nhưng nó cũng cho thấy thiếu sót của chúng – công cụ kỹ thuật số tự chúng không giải quyết được các vấn đề của chúng ta. Đây là ba bài học mà mỗi nhà lãnh đạo giáo xứ hay giáo phận cần hiểu khi nghĩ tới việc thúc đẩy truyền thông của giáo xứ.

BÀI HỌC SỐ 1 - Nhóm 82%

Một trong những sai lầm căn bản nhất mà chúng ta thấy các nhà lãnh đạo giáo xứ liên tục mắc phải liên quan đến truyền thông (kỹ thuật số hoặc phương tiện khác) là không nhận ra các nhóm người khác nhau trong cộng đoàn. Có nhiều cách giải quyết vấn đề này. Đây là cách giải quyết (rất) đơn giản sẽ tạo nên sự khác biệt lớn cho truyền thông ở mỗi giáo xứ: nhóm 7%, nhóm 11% và nhóm 82%.

Nhóm 7%

Nhóm 7% (dựa trên nghiên cứu nổi tiếng của Dynamic Catholic) là những người hầu hết hay giúp đỡ tài chính và tình nguyện cho giáo xứ ở mức độ trung bình. Nhóm 7% này phần lớn là “người tham gia”. Họ gắn bó với chúng ta qua những tai tiếng và nhiều thiếu sót khác từ các thành viên trong Hội Thánh. Thông tin cho họ tương đối dễ dàng. Họ đọc bảng tin, nghe các thông báo, kiểm tra trang web, đặt ra đường hướng mục vụ cho giáo xứ, kiểm tra email và có thể tải ứng dụng hay theo dõi bạn trên phương tiện truyền thông. Hầu hết họ sẽ trở lại tham dự Thánh Lễ cho dù họ chưa trở lại.

Nhóm 11%

Nhóm 11% nằm ở đầu bên kia của cán cân. Đây là phần trăm những người Công Giáo vẫn công nhận mình là người Công Giáo nhưng chưa bao giờ tham dự Thánh Lễ - chưa từng. Và, không có gì ngạc nhiên, họ vẫn chưa quay về. Mặc dù họ vẫn cần được rao giảng Tin Mừng và giáo xứ có thể giúp, nhưng không phải là vấn đề tức thời (cơ hội!) tại giáo xứ.

Nhóm 82%

Nằm giữa hai thái cực 7% (tham gia nhất) và 11% (hầu như không tham gia), phần còn lại chúng ta gọi là nhóm 82%. Họ vẫn còn xuất hiện… đôi khi! Ít nhất họ có hiện diện, trước khi có lệnh cách li vì COVID.

Một số người trong số này (khoảng 14 trên 82%) trung thành tham dự Thánh Lễ hằng tuần trước đại dịch COVID (họ chỉ không tình nguyện cũng không đóng góp gì). Phần còn lại của 82% này (đại đa số) tham dự Thánh Lễ ít thường xuyên – nghĩa là, mỗi tháng, cách tuần, hay chỉ vào dịp lễ Giáng Sinh, Phục Sinh hoặc Thứ Tư Lễ Tro.

Đối với 82% này – dù sao hầu hết trong số họ - các bí tích không phải là ưu tiên hàng đầu: Họ thường xuyên bỏ tham dự Thánh Lễ, hiếm khi hoặc không bao giờ đi xưng tội, v.v… Nhưng họ vẫn xuất hiện hoặc vì có gắn bó cách nào đó cách tích cực với niềm tin của mình, hoặc vì sự tiếc nhớ đang suy yếu dần, hay vì thói quen mà bây giờ, tại COVID, họ không còn nữa. Dĩ nhiên, họ đã không còn nhạy cảm với luật buộc tham dự Thánh Lễ Chúa nhật, cho nên việc tái lập luật buộc ấy không thay đổi nhiều (mặc dù đây là cơ hội đáng quan tâm để giúp cho người giáo dân chưa hiểu rõ về luật buộc này!).

Nói chung, nhiều người trong nhóm này đã từ từ trôi dạt ra khỏi giáo xứ. (Hãy nhớ rằng 6 người ra đi trong số một người trở lại). Mỗi năm có ít giáo dân trở lại hơn. Hội Thánh chưa tìm hiểu phương thế để đảo ngược xu hướng tổng thể này, và bây giờ COVID đã xuất hiện, và, tôi lo ngại, đẩy nhanh cuộc xuất hành. Bao nhiêu? Chúng ta chưa biết.

Nhóm 82% là thách đố của chúng ta trước COVID. Thách đố đó vẫn còn đến hôm nay. Tôi nói “thách đố”, nhưng thực chất nó là cơ hội. Hội Thánh phải biết kết nối với nhóm 82% này. Sự kết nối bắt đầu từ việc liệt kê danh sách những người này và cần hiểu rằng họ khác biệt hơn so với những nhà lãnh đạo giáo xứ (điển hình là những người nằm trong nhóm 7%).

Nhóm 82% này đã xuất hiện (trước COVID)! Vào vài dịp trong năm, họ đã và đang đứng trước chúng ta. Họ không phải là những người khuất mặt phải tìm kiếm “ngoài kia” trên mạng xã hội. Họ vẫn ngồi cạnh chúng ta trên băng ghế, lắng nghe những gì chúng ta phải nói, cho chúng ta cơ hội xây dựng tương quan tốt hơn với họ. Nhưng chúng ta rất thường lãng phí cơ hội đó. Và bây giờ họ là những người có nguy cơ không quay trở lại cao nhất.

Hầu hết các nhà lãnh đạo giáo xứ đều có ý định tốt khi liên lạc với nhóm 82% này. Nhưng thực tế, nhiều chương trình học hỏi, các sứ vụ ở giáo xứ, những đề án được đưa ra, và ngôn ngữ được sử dụng hầu như chỉ vang tới nhóm 7% - không phải nhóm 82%. Phần mềm, nội dung, và những công cụ truyền thông họ nghĩ là hữu ích (các app di động của giáo xứ, kênh truyền thông xã hội, thư viện điện tử, các giải pháp ChMS[1] kiểu dữ liệu lớn, v.v…) hầu như chỉ có tác dụng với nhóm 7%.

Tại sao các nhà lãnh đạo giáo xứ, mặc dù rất thiện chí, tiếp tục thất bại trong việc liên lạc với nhóm 82%?

Bởi vì những người đưa ra các quyết định đó thường là những người điển hình nằm trong nhóm 7%. Và những lời phàn nàn họ nghe được đến từ nhóm 7% này. Và phần lớn số tiền đóng góp xuất phát từ nhóm 7%. Tất cả đều xảy ra bên trong “Bong bóng 7%”. Vì vậy, việc họ nhìn mọi thứ qua lăng kính đó là lẽ tự nhiên, nhưng đó là một lí do chính khiến các giáo xứ không thành công trong việc thu hút những người đang từ từ ra đi (nhóm 82%). Để thành công, họ phải thoát ra cái vòng phản hồi trong nhóm 7% đó, đặc biệt chú ý đến những người đang cố gắng kết nối, và sẵn sàng cố gắng thử nghiệm một cách tiếp cận khác. Đó là bước một để quay về từ COVID.

BÀI HỌC SỐ 2 – Trực tiếp liên lạc với các giáo dân khi bạn cần phải làm nhất

Khi việc cách li và các hạn chế được đưa ra, chúng ta nhanh chóng nhận thấy mỗi giám mục hay giáo xứ có thể trực tiếp liên lạc với đoàn chiên của mình tốt như thế nào.

Bản tin được in ra chỉ có tác dụng nếu người ta đến xem, và thậm chí khi đó, chỉ một tỉ lệ nhỏ giáo dân đọc nó. Phương tiện truyền thông xã hội và các ứng dụng dành riêng cho thiết bị di động cũng không đủ vào đâu và sẽ tiếp tục như vậy, vì phần lớn giáo dân sẽ không theo dõi giáo xứ trên phương tiện truyền thông xã hội, và họ cũng không buồn tải ứng dụng của giáo xứ xuống. Những kênh thông tin này có thể chấp nhận được đối với nhóm 7%, nhưng đó là cách tôi thấy. Hầu hết người giáo dân sẽ không chủ động đọc trang web giáo xứ, mặc dù có nhiều người đã đọc trong đại dịch COVID. Trước đây, cũng như bây giờ, điều hết sức quan trọng là làm cho các thông tin phổ biến nhất dễ tìm trên trang web của giáo xứ, và trang này phải thích ứng với điện thoại di động.

Nhưng nếu đó là tất cả những gì một giáo xứ đã gặp phải khi sự này xảy đến, họ thấy mình không được chuẩn bị đủ. Các diễn đàn đó không phải là cách tốt nhất để đạt tới hết đoàn chiên, dù có đại dịch hay không. Đặc biệt nếu chúng ta muốn tiếp cận được người giáo dân, chúng ta cần tiếp cận với nhóm đông nhất: nhóm 82%.

Các giáo xứ và giáo phận cần phải đầu tư vào những kênh trực tiếp hơn mà cũng có nền độc lập hơn. Và về mặt đó, không có gì tốt hơn là tin nhắn văn bản và email.

Nếu bạn có địa chỉ email và số điện thoại di động của người giáo dân, bạn có thể 1) liên hệ trực tiếp với họ ngay lúc ra thông báo và 2) dùng chúng vào một số công cụ và nền tảng khác nhau (ví dụ, nếu như chủ sở hữu một công ti công nghệ hiện đang điều khiển một kênh đặc biệt, công cụ, mạng xã hội hay kho ứng dụng nào đó muốn kiểm duyệt hay cản trở bạn, bạn có thể lấy địa chỉ email hay số điện thoại và dùng chúng ở một nơi nào khác và vẫn trực tiếp tiếp cận người của mình). Về vấn đề này, không có kênh liên lạc nào khác có giá trị như email và tin nhắn văn bản.

Hơn nữa, đây là những kênh (email và nhắn tin) hoạt động hiệu quả nhất cho việc tiếp cận những giáo dân ít tham gia (nhóm 82%). Chủ yếu vì những người giáo dân ít tham gia này không phải tạo một tài khoản, tải xuống ứng dụng, hoặc đăng nhập nơi nào đó, hay phải làm cái gì đó để nhận thông tin. Họ sẵn sàng kiểm tra email và hộp thoại suốt ngày. Đơn giản, mà hiệu quả.

May mắn thay, nhiều giáo xứ và giáo phận hiểu vấn đề này và đã chuẩn bị sẵn sàng khi COVID xảy đến, các giáo phận và giáo xứ đã thu thập địa chỉ email và số điện thoại di động, đồng thời trang bị cho các nhà lãnh đạo với những công cụ đơn giản để dùng chúng cách hiệu quả. Thật không may, vẫn còn nhiều giáo xứ và giáo phận không nắm bắt được chân tướng cội rễ này, đã không đầu tư những cách thức đáng tin cậy này là lập các danh sách và dùng tin nhắn văn bản và email như cột trụ truyền thông kỹ thuật số của mình. Điều này được chứng minh cách thực tế là Flocknote (dịch vụ tin nhắn văn bản và email của chúng tôi cho các giáo xứ) phát triển hơn trong hai tháng vừa qua sau khi COVID xuất hiện so với năm năm đầu tiên tồn tại.

Chỉ khi bạn trực tiếp tiếp cận với đoàn chiên và trò chuyện với họ, thì bạn mới có cơ hội hướng dẫn họ vượt qua đại dịch này, lắng nghe nhu cầu của họ để phục vụ họ tốt hơn, hay làm những điều thiết thực giống như thay đổi lịch trình hay giúp họ đóng góp trực tuyến (đóng góp trực tuyến là công cụ thiết yếu khác cho các giáo xứ trong thời đại dịch). Tuy không chắc chắn liệu nhóm 82% sẽ hoàn toàn quay về sau đại dịch hay không, chúng ta phải tìm cách ngay bây giờ bắt đầu tương tác với họ để truyền cảm hứng cho họ tiến vào giáo xứ gần hơn, chứ không phải xa cách hơn. Điều đó bắt đầu với khả năng liên lạc trực tiếp với họ.

BÀI HỌC SỐ 3 – Việc làm tác động mạnh hơn lời nói

Qua tất cả việc này, thông điệp mạnh mẽ nhất gởi đến giáo dân không phải nằm ở các thông điệp được truyền tải bằng tin nhắn, website, email, hay các phương tiện truyền thông hoặc công cụ kỹ thuật số. Nó chính là thông điệp được truyền tải bằng việc làm của người lãnh đạo. Người ta nhìn thấy những gì chúng ta đã làm. Thông điệp ấy ngân vang và rõ ràng. Trong một số trường hợp, đó là thông điệp vô cùng truyền cảm hứng. Một số trường hợp khác thì không.

Các Kitô hữu thời sơ khai dám liều mình chấp nhận cái chết và tù đày để cử hành Thánh Lễ và lãnh nhận Thánh Thể. Họ hết sức tìm nơi an toàn nhất có thể để làm, đôi khi ngay cả đi xuống lòng đất trong hang toại đạo. Thánh Tarcisius, chỉ là một cậu bé, đã chịu tử đạo vì anh dũng lén đưa Thánh Thể cho các Kitô hữu đang bị tù khao khát Chúa hơn bất kì điều gì khác. Trải qua dòng lịch sử  (và cho cả đến nay), người Kitô hữu vẫn dám liều mạng sống mình để lãnh nhận các bí tích, khi sống ở nơi Kitô giáo bị xem là bất hợp pháp và thường vượt qua nhiều cây số nguy hiểm chỉ để gặp một linh mục. Những việc làm như thế truyền tải thông điệp gì? Một thông điệp truyền cảm hứng vô tận vang dội tới chúng ta cho đến nay, cho đến hàng ngàn năm sau, và là nền tảng để loan báo Tin Mừng cho đến tận cùng trái đất.

Hiện tại, việc làm của chúng ta sẽ gởi đến thông điệp gì? Giáo xứ, Hội Thánh, đức tin chúng ta, các bí tích quan trọng như thế nào? Các việc chúng ta làm dưới áp lực, trong những thời điểm thử thách này, truyền tải lớn hơn và rõ ràng hơn bất cứ điều gì khác.

Tôi không nói là cứ khinh thường mạng sống và sức khỏe con người, mặc dù đáng suy gẫm về những gì thánh Tarcisius đã “khinh thường”. Nhưng không tính đến mức độ rủi ro và nguy hiểm do đại dịch COVID-19 (điều đó chắc chắn là thật và phải được cân nhắc), đó không phải thật sự là điều tôi muốn nói. Nhiều người sẽ nghiên cứu và thảo luận những điều này một cách đầy đủ vào lúc nào đó. Vậy nhé. Và chúng ta nên dành cho nhau, đặc biệt các nhà lãnh đạo chúng ta, nhiều sự tế nhị khi tất cả chúng ta phải vật lộn để định hướng một hoàn cảnh đầy bấp bênh chưa từng có.

Đây không phải là lúc để chỉ tay vào người khác để nói họ làm kém hay làm tốt như thế nào. Đây là lúc hành động. Thời điểm này sẽ là bước ngoặc quan trọng đối với nhiều người trong nhóm 82%. Liệu họ vẫn tiếp tục rời khỏi Hội Thánh? Hay phải chăng chúng ta sẽ tận dụng cơ hội này để giúp họ nhớ lại lý do họ đã đến lúc ban đầu?

Câu hỏi đặt ra cho chúng ta bây giờ là chúng ta muốn nỗ lực mạnh mẽ như thế nào, trong mọi giới hạn chúng ta có, để cho giáo dân lãnh nhận các Bí tích và chăm sóc các nhu cầu của họ? Chúng ta sẵn sàng mạo hiểm điều gì? Ở đâu việc tham dự Thánh Lễ được đặt trong danh sách chung với việc đi cắt tóc, mua thực phẩm, và đi học trong cộng đồng của chúng ta?

Những việc chúng ta làm bây giờ sẽ cho họ biết mọi sự họ cần biết: Đạo Công Giáo của họ có mục đích gì, nó phù hợp với cuộc sống của họ ở chỗ nào và như thế nào. Chúng ta sẽ gởi thông điệp gì?

-------

Matthew Warner là nhà sáng lập đồng thời là Giám đốc điều hành của Flocknote.com, một công cụ truyền thông đầy sáng tạo giúp cho hàng ngàn giáo xứ và giáo phận kết nối tốt hơn với đoàn chiên. Ông cũng là một nhà văn (ở BacktotheHome.com) đồng thời là tác giả quyển: Messy & Foolish: How to Make a Mess, Be a Fool, and Evangelize the World - Lộn xộn và ngu ngốc: Làm thế nào để gây  lộn xộn, làm một tên ngốc, và loan báo Tin Mừng cho thế giới. Ông có bằng Cử nhân kĩ sư điện của Texas A&M và và bằng cử Nhân Quản Trị Kinh Doanh ở Entrepreneurship. Ông, vợ ông cùng với sáu người con sống tại Texas.

Trích từ ebook Catholicism after Coronavirus, A Post-COVID Guide for Catholics and Parishes (Đạo Công giáo sau thời Coronavirus, Hướng dẫn dành cho người Công giáo và các giáo xứ thời hậu Covid) của Word on Fire, trang 145-156.

Biên dịch: Nhóm dịch thuật Gioan XXIII

 

[1] Christiana Middle School, trường trung học cơ sở (ND).