11/07/2019
816
Suy niệm Chúa Nhật 15 Thường Niên năm C_Nhiều tác giả





















 

Các Bài Suy Niệm Chúa Nhật 15 Thường Niên – C

Lời Chúa: Đnl 30,10-14; Cl 1,15-20; Lc 10,25-37

 

MỤC LỤC

1. Sống bác ái – ViKiNi

2. Người Samaritanô nhân hậu.

3. Ai là người thân cận của tôi?.

4. Tôi là người thân cận của ai? – Petrus.tran.

5. Chúa Nhật 15 Thường Niên.

6. Chữa tận căn.

7. Tội thờ ơ.

8. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái

9. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

10. Yêu rồi làm – Thiên Phúc.

11. Yêu thương là quan tâm..

12. Thực thi lòng thương xót – Lm. Anmai.

13. Luật yêu thương – Lm. Giuse Trần Việt Hùng.

14. Hãy yêu thương thì sẽ được sống – André Sève.

15. Ai là anh em của tôi? – Veritas.

16. Ai là người thân cận.

17. Hãy đi và làm như vậy.

18. Phục vụ nâng cao giá trị con người

19. Ông hoàng hạnh phúc – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền.

20. Người Samaritanô nhân hậu.

21. Yêu người

22. Ai là anh em của tôi

23. Anh em của mọi người

24. Ai là người Samaria tốt nhất? – Charles E. Miller.

25. Tình yêu, cốt lõi của Kitô giáo!.

26. Làm gì để được sống đời đời

27. Bên ngoài và bên trong.

28. Chỉ vài bước thôi – Lm Giuse Nguyễn Hữu An.

29. Tôi là anh em của ai?.

30. Yêu Thiên Chúa và yêu tha nhân.

31. Ông hãy đi! và cũng hãy làm như vậy.

32. Người Samari tốt lành – Flor McCarthy.

33. Giới luật yêu thương – R. Gutzwiller.

34. Chú giải của Fiches Dominicales.

35. Ai là người thân cận của tôi? – Lm Vũ Phan Long.

36. Tình yêu và hạnh phúc.

37. Một lệnh truyền khó xử – Achille Degeest

38. Yêu Thiên Chúa và yêu tha nhân.

39. Ai là tha nhân của tôi?.

40. Lề luật và bác ái – Lm Giuse Nguyễn Hữu An.

41. Yêu là dấn thân – Br John Quốc Toản, CRM…

42. Suy niệm của JKN..

43. Người Samaritanô nhân hậu.

44. Người Samaria nhân từ.

45. Bác ái Kitô giáo – Bác ái kiểu mẫu.

46. Biên giới

47. Yêu thương.

48. Sống Lời Chúa.

49. Ai là người thân cận của tôi

50. Tốt hơn là hãy tin!.

51. Yêu và làm – Lm. Vũ Xuân Hạnh.

52. Đừng sợ! – Lm. Vũ Xuân Hạnh.

53. Suy niệm 1 của Gp Vĩnh Long.

54. Suy niệm 2 của Gp Vĩnh Long.

55. Suy niệm 3 của Gp Vĩnh Long.

56. Hãy về và làm như vậy – Giuse Vinc. Ngọc Biển.

57. Tôi đã để đi qua – Lm Mark Link.

58. Luật Samaritanô – Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa.

59. Chú giải mục vụ của Hugues Cousin.

60. Chú giải của Noel Quesson.

61. Ngươi hãy đi làm như vậy – William Barclay.

 

 

 

 

 

1. Sống bác ái – ViKiNi

(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)

 

Năm 1983, để cứu sống một người 36 tuổi ở Liên Xô, Bác sĩ Sumadrúp đã nhận một quả thận của một em bé gái từ bệnh viện Hoa Kỳ do Bác sĩ Montona gửi tới. Nhưng phải nhờ bao nhiêu công việc của máy điện toán các nước Balan, Đức, Pháp, Anh, Ý, của hàng ngàn bác sĩ làm việc mới tìm được quả thận của em bé gái tử thương vì tai nạn xe hơi đã hiến cho bệnh viện để cứu sống ai cần. Quả thận chỉ sống được 72 giờ, làm sao từ Hoa Kỳ đến Liên Xô? Mọi luật lệ về kiểm soát an ninh, mọi thủ tục giấy tờ quá cảnh đều được các chính phủ bãi miễn để khẩn cấp đưa quả thận đến kịp cứu chữa một người. Mọi ranh giới chủng tộc, giai cấp và chế độ hận thù cũng dứt bỏ trước sinh mạng của một người.

Luật đạo, luật đời đều có mục đích bảo toàn sự sống con người, sự sống thật quý giá, không có ngọc ngà châu báo nào đổi được. Nhà hiền triết Dương Chu sống đồng thời với Lão Tử đã quả quyết: Dù mất một sợi lông chân được lợi cả thiên hạ, cũng không làm: “bạt nhất mao nhi lợi thiên hạ, bất vi”. Đức Giêsu nhiều lần nhắc nhở chúng ta: “Được lời lãi cả thế gian, mất mạng sống mình nào được ích gì”. Cho nên không lạ gì, người ta đều mơ ước được sống trường thọ, chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu, vẫn chưa đủ, dân tộc nào cũng cho mình phát sinh từ nguồn gốc thần linh bất tử với những chuyện thần tiên hạnh phúc muôn thuở.

Dân tộc Việt Nam tự hào mình là con rồng cháu tiên, với những truyện Từ Thức lên tiên, Lưu Nguyễn lạc vào động thiên thai. Người Tàu cho mình là con cháu ông Bành Tổ vĩ đại, người Nhật nhận thần mặt trời là tổ tông. Người Ấn là con cháu của ba thần chí linh Braluna, Vishnu và Shiva, Người Hy Lạp là con cháu thần Zeus và Apôllô: Thần mỹ thuật, âm nhạc, ánh sáng, trai trẻ và cường tráng. Đế quốc La Mã thờ thần Jupiter dũng mãnh tối cao.

Những khát vọng chung của các dân tộc và của mỗi người không phải là ảo tưởng, hay huyền thoại, nhưng nó là một thứ gen nào đó, một thứ tâm thức sâu thẳm trong vô thức. Nói theo kiểu nhà Phật, đó là những chủng tử nằm sâu trong tạng thức như một thứ bào thai để sinh ra một đời sống mới. Chính những ước vọng đó đã hướng tới sự phục sinh mà Đức Giêsu là đầu, là trưởng tử đã sống lại từ cõi chết để ban cho các tiểu tử, các chi thể của Người được sống đời đời.

Người luật sĩ hỏi Đức Giêsu: “Tôi phải làm gì để được sống đời đời”. Câu hỏi bộc lộ một tâm trạng băn khoăn lo lắng, một thao thức thắc mắc muôn đời, chưa có ai giải quyết nổi, chưa có ai mở đường dẫn lối chính xác, trừ một mình Đấng từ trời xuống nói cho người dưới đất biết những sự trên trời và chỉ đường về trời để được sống đời đời.

Theo Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu chỉ cho ta con đường rất cụ thể tới sự sống đời đời, đó là con đường người Samari đã đi.

Đức Giêsu kể lại một câu truyện có lẽ xảy ra thường xuyên trên con đường từ Giêrusalem xuống Giêricô, dài chừng hơn hai mươi cây số, len lỏi qua rừng núi: Một người từ Giêrusalem đến Giêricô, có lẽ đi lễ về hoặc lo công việc làm ăn, chắc chắn có một số tiền của, nên bọn cướp để ý theo dõi. Chúng đã tàn nhẫn đánh người ấy đến nửa sống nửa chết giữa rừng. Tình cờ, có ba du khách đi qua, người thứ nhất là tư tế thấy vậy lách qua bên kia mà đi, người thứ hai là thầy trợ tế cũng thế. Người thứ ba là người Samari thấy cảnh tượng kẻ lâm nạn đang oằn oại đau đớn. Ông động lòng trắc ẩn, tiến lại gần dù biết kẻ lâm nạn là người Do Thái. Do Thái và Samari rất khinh bỉ nhau, họ không hề tiếp xúc với nhau. Nhưng lạ thay, trước cảnh nguy tử, mọi ranh giới chủng tộc, mọi luật lệ cấm cách, mọi kỳ thị truyền thống, đều chấm dứt, người Samari đã khẩn cấp cứu chữa kẻ thù. Ông đã coi kẻ thù là anh em của mình. Ông chỉ biết yêu thương và hết mình cứu sống. Ông đổ dầu, đổ rượu xoa bóp, băng bó những vết thương bầm tím rỉ máu. Dầu và rượu là phương thuốc kỳ diệu thời đó. Nhưng mới chữa tạm thời thôi. Ông cần phải đỡ người ấy đặt lên lưng lừa của mình, còn ông đi bộ dắt lừa, nhường yên lừa cho kẻ xấu số. Đến quán trọ, ông đã cõng bệnh nhân vào, trao tiền, xin chủ quán tìm thầy chạy thuốc cứu nạn nhân cho khỏi. Khi trở về ông trả mọi tốn kém khác nữa. Qua đoạn Tin Mừng này, chắc chắn Đức Giêsu muốn dạy chúng ta mấy bài học sống bác ái sau đây:

Bài học thứ I: Ai là thân cận, anh em với người rơi vào tay kẻ cướp? Thưa, không phải chỉ là đồng bào, đồng đạo như luật Do Thái dạy, không phải chỉ là ruột thịt, họ hàng, thân thuộc như chư dân đang sống. Nhưng là tất cả mọi người thuộc mọi dân tộc, tiếng nói, giai cấp, tôn giáo, đảng phải, vì tất cả đều là con một Cha trên trời, Đấng đã dựng nên, cứu độ họ. Chừng nào nhân loại học được bài học bác ái này, chừng đó sẽ không còn kỳ thị, chia rẽ, hận thù, khủng bố, chiến tranh tàn sát. Lúc đó, thế giới này mới là thiên đường cho mọi người.

Bài học thứ II: Tôi đồng hành với ai trên con đường này?

Tôi không thể đồng hành với bọn cướp, vì đam mê tiền của đã làm chúng thành kẻ cướp của, giết người. Tôi cũng không thể đồng hành với tư tế, trợ tế, vì quen giết chiên bò để tế thần đã làm cho họ ra kiêu ngạo, chai đá, tàn nhẫn, lãnh đạm với đau khổ của đồng bào.

Tôi sẵn sàng đồng hành với kẻ lâm nạn đau khổ, nửa sống, nửa chết, vững tin vào Đấng cứu độ như người Samari nhân hậu, giầu lòng thương xót, sẽ đến cứu chữa ta, đưa ta về nhà tình thương Thiên Chúa.

Nhất là tôi phải luôn luôn đồng hành với người Samari nhân hậu có tấm lòng vàng cao thượng, cảm thông, cảm thương cứu chữa kẻ đau khổ, nghèo hèn, cô thế cô thân bị bỏ rơi trong xã hội.

Bài học thứ III: Con đường thiêng liêng đích thực là mến Chúa yêu người luôn đi song song với nhau: Thường xuyên lên Giêrusalem cầu nguyện, lắng nghe lời Chúa, thấm nhuần tình yêu hy sinh của Chúa để trên đường về Giêricô, nơi đầy đau khổ, trộm cướp, chai đá, gặp gỡ họ an ủi, băng bó những vết thương, cải hóa những tật nguyền của họ, đưa họ vào nhà trọ tình thương của Chúa để chăm sóc, cứu chữa. “Anh hãy về và làm như vậy, thì được sống đời đời”. Đó là lời Chúa.

 

 

 

 

 

2. Người Samaritanô nhân hậu.

(Suy niệm của Lm. G.B. Trần Văn Hào SDB)

 

“Chỉ có loài vật mới nhẫn tâm ngoảnh mặt lại trước nỗi đau của đồng loại để chăm chút cho bộ lông mượt mà của nó, còn con người thì không”. Đây là lời phát biểu của ông Karl Marx, một triết gia vô thần. Tuy ông ta không tin vào Thiên Chúa, nhưng tự trong thâm tâm, ông vẫn tin vào sức mạnh của tình yêu, là đạo lý căn bản của cuộc sống làm người. Còn chúng ta thì sao? Là những người Công giáo, chúng ta tin vào Thiên Chúa, đấng có tên gọi là ‘Tình yêu’, nhưng chúng ta đã thực hành luật yêu thương cụ thể như thế nào? Qua dụ ngôn bài Tin mừng hôm nay, Chúa cảnh báo tất cả, từ các linh mục, tu sĩ đến giáo dân, để lay động lương tâm từng người. Người Samaritanô vốn chỉ là người ngoại đạo mà dân Do thái vẫn coi như thù địch, nhưng đã trở thành chuẩn mẫu để Chúa Giêsu đưa ra như một tấm gương soi. Sau khi thuật lại câu chuyện về người Samaritanô nhân hậu, Chúa nói với người thông luật đến hỏi Ngài, cũng như nói với chúng ta hôm nay: “Ông hãy đi và cũng hãy làm như vậy (c.37).

Một câu chuyện mang tính thời sự.

Ngày hôm nay, nếu Đức Giêsu đứng giữa chúng ta và cũng thuật lại giai thoại trên, Ngài sẽ đem ai ra để làm hình mẫu, bạn hay tôi, linh mục này hay tu sĩ nọ? hay Chúa lại tiếp tục đưa một người ngoại giáo nào đó ra để mời chúng ta bắt chước? Đức Cha Bùi Tuần khi đọc bài Tin mừng trên đã viết lại những dòng chia sẻ sau. “Cứ mỗi lần suy gẫm về câu truyện này, tôi cảm thấy xấu hổ và có chút gì mỉa mai làm tôi ray rứt. Tôi tưởng rằng khi đưa ra một mẫu gương bác ái, Chúa sẽ bảo chúng ta hãy nhìn vào gương sáng nơi vị linh mục này hay tu sỹ nọ, nhưng không, Chúa chỉ đưa ra một người ngoại giáo làm mẫu mực. Càng suy nghĩ tôi càng cảm thấy hổ thẹn.”

Thầy tư tế chuyên lo việc đền thờ, nhưng đền thờ đích thực nơi con người, những thụ tạo được Chúa dựng nên giống hỉnh ảnh Ngài, thì ông ta lại không màng. Cũng vậy, các thầy Lêvi thường hay đeo bảng khắc lề luật ở trước ngực, nhưng luật của tình yêu thì ông lại nhẫn tâm dẫm đạp, để mặc người bị nạn nằm đó chờ chết. Còn người Samaritanô ngoại giáo thì khác. Anh ta không biết chút gì về lề luật trên lý thuyết, nhưng trong thực hành, ông lại quá tuyệt vời.

Sự ích kỷ và vô tâm nơi mỗi người, thường xuất phát từ thái độ tự mãn mà chúng ta vẫn hay có. Trong Tin mừng Matthêu chương 18, Chúa nặng lời chỉ trích thái độ trịch thượng, khoe khoang của những người biệt phái và ký lục giả hình. Họ là những con người bề ngoài xem ra rất đạo đức nhưng trong lòng thì rống tuếch, chẳng khác gì mồ mả sơn phết bên ngoài. Cũng thế, hai ‘đấng bậc’ mà Chúa nhắc đến hôm nay, Thầy tư tế và Thầy Lêvi, đã hoàn toàn tỏ ra vô cảm trước nỗi đau của đồng loại. Họ vẫn tự cho mình là những người đạo đức, không dám sờ chạm đến xác chết vì sợ bị nhiễm uế. Nhưng sự vô cảm và ích kỷ lại chính là tình trạng nhiễm uế ghê tởm nhất từ chính bên trong tâm hồn của họ. Chúng ta cũng dễ rơi vào tình trạng giống vậy. Ông Wilberforce, một nhà tu đức đã nói: “Chắp tay lại để cầu nguyện thì rất tốt, nhưng biết mở tay ra để đến với anh em, nhất là những con người cùng khổ, thì vẫn tốt hơn.”

Cho thì có phúc hơn là nhận.

Đây là điều Chúa đã nói với Phaolô năm xưa, cũng như nói với chúng ta ngày hôm nay. Gương mẫu của người Samaritanô rất cụ thể và sống động, bởi vì ông ta đã biết cho đi. Nhưng trên hết, chúng ta hãy nhìn vào chính nguyên mẫu nơi Chúa Giêsu. Ngài đã cho đi tất cả, ngay cả mạng sống. Ngài không còn giữ lại chút gì cho mình. Triết gia vô thần Jean Paul Satre đã từng tuyên bố: “Tha nhân là hỏa ngục”. Ngược lại, Chúa Giêsu lại mạnh mẽ khẳng quyết: “Ai làm những điều tốt cho tha nhân là làm cho chính Ngài” (x. Mt 25). Trên Thập giá, Chúa bị mọi người hắt hủi và mỉa mai, từ những kẻ qua đường đến lính gác và đám đông. Những con người này đã hoàn toàn vô cảm trước nỗi thống khổ của Chúa. Chỉ duy nhất một mình ông Thánh ăn trộm đã tỏ lòng thương cảm đối với Ngài: “Còn ông này, ông có làm gì nên tội…” Từ trái tim biết rung lên giai điệu yêu thương ấy, tên trộm đã được biến đổi và trở nên một vị thánh lớn.

Kết luận

Tác giả Lý Thanh Thảo có viết một câu chuyện rất ngắn.

Trên một chiếc xe hơi đời mới, một bà mẹ trẻ đang dỗ đứa con.

– Ăn thêm một cái nữa đi con, mẹ thương.

– Ngán quá, con không ăn đâu, đứa bé phụng phịu.

– Ráng ăn một cái nữa, ngoan nào.

– Con nói không ăn mà, vứt đi, vứt nó đi.

Thằng bé lắc đầu quầy quậy, lấy tay gạt mạnh. Chiếc bánh kem văng ra khỏi cửa xe rơi xuống đường sát mép cống. Chiếc xe hơi láng bóng rồ máy chạy nhanh.

Hai đứa trẻ lem luốc đang móc rác gần đó, thấy chiếc bánh nằm chỏng trơ vội xô đến nhặt. Mắt chúng sáng rực dán chặt vào chiếc bánh thơm ngon. Thấy cái bánh lấm láp, đứa em gái nuốt nước miếng bảo thằng anh trai:

– Anh Hai thổi sạch rồi mình ăn.

Thằng anh phùng má thổi. Bụi đời đã dính chặt chẳng chịu đi cho. Đứa em cũng sốt ruột ghé miệng thổi tiếp. Cái miệng háu đói của chúng làm cái bánh rơi tõm xuống cống hôi hám.

– Ai bảo anh Hai thổi mạnh làm chi. Con bé nói rồi khóc thút thít.

– Ừ, thì tại anh. Nhưng kem còn dính tay anh đây này. Cho em 3 ngón, anh chỉ liếm 2 ngón thôi.

Những đứa trẻ đường phố tuy nghèo, nhưng rất thơ ngây và đầy ắp tình người. Chúng biết nhường nhịn và đùm bọc lẫn nhau.

Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có sống quảng đại với nhau hay chỉ sống ích kỷ và hẹp hòi giống như thầy Lêvi hoặc Thầy tư tế mà Chúa nói tới hôm nay.

 

 

 

 

 

3. Ai là người thân cận của tôi?

 

Trong bài Phúc Âm hôm nay, Đức Giêsu kể dụ ngôn người Samari từ thiện. Dụ ngôn trên đây trả lời cụ thể rõ rệt cho câu hỏi: “Ai là người thân cận của tôi?”

Theo quan niệm người Do thái, thì: “Thân cận” là người có quan hệ tự nhiên gần gũi với mình như: cùng dân tộc, cùng gia đình, cùng thành phần giai cấp… còn đối với Chúa Giêsu, thì thân cận là người hiện lúc này đang cần đến tình yêu thương và sự giúp đỡ của ta. Nạn nhân bị quân cướp trấn lột, là người Do thái. Thấy anh nằm vệ đường, người Samari có thể bảo mình: đây là người ngoại quốc, tôi không biết hay đây là một kẻ thù, không đáng giúp đỡ. Nhưng ngược lại, người Samari đã động lòng thương xót, tiến lại gần, không phải để hỏi han qua loa, nhưng người ấy lại nhận lấy trách nhiệm giúp đỡ nạn nhân cho đến khi họ không cần thiết nữa.

Khi nói đến dụ ngôn này, Chúa Giêsu không phủ nhận mối liên hệ tự nhiên những người cùng gia đình, cùng dân tộc, cùng tôn giáo chặt chẽ hơn với người ngoài… Cứ lý ra, ông trưởng tế và thày phó tế kia phải là người thân cận thương giúp nạn nhân trước, vì các ông là đồng hương, đồng đạo với người Do thái này, nhưng người Samari ngoại bang đã đóng vai trò người thân cận, bởi vì thày trưởng tế và thày tư tế đã trốn trách nhiệm của mình. Như vậy, cứ lẽ thường thì “Thân cận” trước hết là những người có liên hệ tự nhiên chặt chẽ với nhau hơn, như cha mẹ với con cái, vợ chồng, an em bè bạn với nhau. Do đó, ta có bổn phận thương giúp nhau trước. Nhưng Đức ái không cho phép ta đặt một hàng rào ngăn cách hay bất cứ môt kỳ thị nào, dù là kỳ thị chủng tộc, tôn giáo hay giai cấp… Tất cả mọi kỳ thị đều không hợp Đức bác ái. Vì vậy, bất cứ ai cũng có thể là người thân cận ta, khi Chúa đặt ta trước sự hoạn nạn của họ và cho ta có điều kiện thương giúp họ.

Là người Kitô hữu, chúng ta mắc một món nợ, tức là nợ yêu thương đối với bất kỳ ai đang cần được giúp đỡ. Có người ở ngay sát nhà ta, nhưng họ không cần ta giúp đỡ, nên chưa phải là người thân cận ta, nhưng nếu người xa lạ gặp ta và cần sự giúp đỡ mà ta có khả năng đem lại cho họ, thì khi đó họ trở nên người thân cận của ta. Người đó cần tình yêu thương của ta. Tình yêu thương ấy ta phải thi hành đúng lúc, hữu hiệu và vô vị lợi.

– Đúng lúc, nghĩa là phải thi hành nhanh chóng kịp thời, tuỳ theo nhu cầu đòi hỏi không được chậm trễ. – Hữu hiệu, nghĩa là việc giúp đỡ phải đem lại kết quả thiết thực, không phải chỉ hình thức qua loa. – Vô vị lợi, nghĩa là giúp đỡ tận tình, không mang ích lợi riêng mình, không tính toán hơn thiệt, không nghĩ rằng: mình giúp đỡ như vậy để họ biết ơn và để trả mình. Sự giúp đỡ phải phát xuất từ tình yêu thương phổ quát, ôm ấp hết mọi người, không phân biệt chủng tộc, thành phần giai cấp, không xét là bạn hay thù. Người xứ Samari trong bài Phúc Âm hôm nay đã làm gương cho ta về những điểm đó. Người ấy đã thương giúp nạn nhân đúng lúc cần thiết, cần băng bó vết thương, cần cơm ăn nước uống, cần nơi nằm nghỉ… Nếu để chậm trễ, nạn nhân có thể chết được. Người Samari cũng thi hành sự giúp đỡ cách hữu hiệu, nghĩa là sự giúp đỡ cách đến nơi đến chốn, cho tới khi nạn nhân lành bệnh hoàn toàn. Người Samari còn giúp đỡ một cách vô vị lợi, không mong nạn nhân sẽ biết ơn và đền trả cho mình.

Đấy, tình yêu thương Chúa truyền dạy ta là như vậy. Do đó, mỗi khi gặp trường hợp cần giúp đỡ thì ta phải thi hành tuỳ khả năng, nếu không, ta sẽ mắc nợ “yêu thương” mà Chúa đòi ta phải đền trả.

Trong thực tế, có nhiều người cần ta giúp đỡ về phương tiện vật chất như miếng cơm manh áo, bát gạo đồng tiền, một buổi cấy gặt, một công làm nhà. Người khác cần ta giúp đỡ về mặt tinh thần, thí dụ: một lời an ủi động viên, một cuộc thăm viếng hỏi han, một sự hoà giải khôn ngoan, giúp họ thêm nghị lực để vượt qua những khó khăn thử thách, nếu không họ sẽ ngã lòng tuyệt vọng. Sau cùng, có rất nhiều người đang cần ta giúp đỡ phần linh hồn: họ như nạn nhân trong dụ ngôn, bị ma quỷ trấn lột mất mọi của thiêng liêng, đánh cho bị thương trầm trọng, bỏ nằm bên miệng hoả ngục. Họ đang cần ta giúp đỡ bằng cầu nguyện, bằng hy sinh, bằng lời khuyên bảo giáo dục, bằng mọi cách mà ta có thể làm được.

Thánh Phao-lô nhắc nhủ chúng ta rằng: “Anh em không mắc nợ nhau điều gì ngoài món nợ yêu thương, vì ai thương yêu, người đó giữ trọn lề luật”. Thực tế, tình yêu là nền tảng, là động cơ cho mọi sinh hoạt của con người. Nhân loại ngày nay, đầy dẫy nhưng chênh lệch bất công, những tội ác, kẻ ăn không hết, người lần chẳng ra. Chỉ vì thiếu yếu tố tình yêu chân chính trong mối quan hệ giữa con người với con người. Ngày nào mà mọi người yêu thương nhau như Chúa yêu thương, thì bộ mặt thế giới sẽ biến đổi một cách kỳ diệu, vũ khí sẽ biến thành cày bừa, bom đạn biến thành dụng cụ sản xuất, người ta sẽ nhường cơm sẻ áo cho nhau, số người đói rách túng thiếu sẽ giảm đi, cảnh thái bình ấm no sẽ xuất hiện, dọn đường cho cảnh “ Trời Mới – Đất Mới” mà Chúa Kitô sẽ thực hiện ngày chung cùng của lịch sử.

Giờ đây, mỗi người chúng ta phải hỏi mình rằng: Ai là người thân cận của tôi? – Nói cách khác: Ai là người cần tôi giúp đỡ trong lúc này?

– Có khi là cha mẹ tôi già nua, yếu đau, túng thiếu mà tôi không chăm sóc? Biết đâu người thân cận lại là mẹ chồng, con dâu bất thuận đang cần giao hoà với nhau? Có khi là một bệnh nhân trong thôn xóm đang cần thuốc men thăm viếng? Có khi là một người khô khan tội lỗi trong gia đình, trong xứ họ, đang cần lời cầu nguyện khuyên bảo của ta để ăn năn thống hối.

Sau khi đã suy nghĩ và nhận ra người thân cận rồi, chúng ta tích cực hành động, theo gương người Samari nhân hậu mà Chúa nêu lên trong bài Phúc Âm hôm nay.

 

 

 

 

 

4. Tôi là người thân cận của ai? – Petrus.tran

 

Người Rôma xưa có câu “Homo homini lupus” nghĩa là “Con người đối xử với nhau chẳng khác gì chó sói”. Thoạt nghe câu nói trên, nó làm cho chúng ta có cảm tưởng lời nói đó quá khắt khe. Nhưng, quả thật, nhìn vào thực tế của xã hội hôm nay, chúng ta không khỏi giật mình vì cách đối nhân xử thế của con người. Chúng ta không khỏi bàng hoàng về phẩm hạnh của con người ngày một xấu đi.

Thật vậy, theo dõi trên truyền thông đại chúng, có thể nói, không ngày nào mà không có một án mạng xảy ra. Gần đây nhất, ngày 8/7/2013, là chuyện một người cháu trai “đi chơi về thấy cửa khoá nên leo cổng theo lan can lầu một vào trong và bị ông ngoại mắng. Tức giận, Tú (tên người cháu trai) đạp vào ngực và vật lộn với ông. Do khoẻ hơn nên đứa cháu bất nhân thắng thế, lấy máy nghe nhạc gần đó đập vào đầu rồi bóp cổ ông ngoại đến tắt thở”. (nguồn: vnexpress)

Xa hơn nữa là chuyện vợ giết chồng, mẹ giết con, rồi đến chuyện “mạng chó đổi mạng người” mà khi nghe đến, chúng ta không khỏi ngao ngán và tự hỏi: giữa con người với con người… “tình người” nay còn đâu?

***

“Tình người” hay nói đúng hơn “Tình yêu thương”… Vâng, đó là một trong những giáo lý căn bản mà một người Kitô hữu phải biết đến và thực thi. Trong Mười Điều Răn Đức Chúa Trời, chúng ta được truyền dạy rằng, “Mười điều răn ấy tóm về hai này mà chớ: trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự sau lại yêu người như mình ta vậy. Amen”.

“Mến Chúa”… vâng, thật dễ dàng. Còn “Yêu người” quả là không dễ chút nào. Thế nhưng, nếu chúng ta chỉ Mến-Chúa mà không Yêu-người, như thế, chúng ta chưa làm trọn lệnh truyền của Chúa, chúng ta chỉ mới giữ một nửa điều răn của Chúa.

Kinh thánh đã dạy chúng ta rằng, “Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga 4, 20).

Nói tới “yêu thương người”… Tạ ơn Chúa vì Người đã để lại cho chúng ta một bài học sâu sắc về “tình người” qua dụ ngôn “Người Samaria tốt lành”.

***

Câu chuyện “Người Samaria tốt lành” được chép trong Tin Mừng Luca (10,25-37). Thật ra, nếu được phép, vâng, chúng ta có thể nói rằng, đây là một câu chuyện “2 trong 1”. Gọi như thế là bởi câu chuyện “Người Samaria tốt lành” là câu trả lời cho câu chuyện trước đó.

Câu chuyện trước đó được kể lại rằng, Có người thông luật kia đứng lên hỏi Đức Giêsu rằng: “Thưa Thầy tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp” (Lc 10,25).

Đây không phải là lần đầu tiên có người tìm đến Đức Giêsu để hỏi Ngài một câu hỏi với nội dung như thế. Trước đây, cũng đã có một chàng thanh niên giàu có đến với Đức Giêsu cũng với nhã ý nêu trên.

Với chàng thanh niên giàu có, Đức Giêsu đã đưa ra những lời khuyên anh ta, để nhờ đó, anh ta có thể đón nhận được điều anh ta muốn có. Ngược lại, với người thông luật, thay cho lời khuyên, Ngài đã đưa ra một câu hỏi, một câu hỏi ngầm ý như một lời trách cứ, rằng “Trong luật đã viết gì? Ông đọc thế nào?”

Vâng, làm sao không trách cứ anh chàng thông luật này cho được. Người thông luật, chính là thầy thông giáo, thầy thông giáo chính là người am hiểu, rành rẽ luật Môse, luật Môse được ghi trong ngũ thư là những cuốn sách nói rất rõ về Mười Điều Răn, về lề luật, về lễ nghi thờ phượng Đức Chúa Trời.

Nói cách khác, là thầy thông luật, ông ta dư biết “đáp án” cho câu hỏi của ông ta. Thật vậy, sau khi nghe câu hỏi của Đức Giêsu, vị thông luật đã trả lời “ngọt sớt” rằng “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa Trời, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình”.

Qua cách trả lời của ông ta như thể chính ông ta là người ra câu hỏi.

Thế nhưng, điều đáng trách hơn nữa, ông thầy thông luật này đã thâm hiểm khi biến câu trả lời của mình thành câu hỏi, một câu hỏi hóc búa, trước là để thử Đức Giêsu, sau là để chứng tỏ mình-có-lý.

“Nhưng ai là người thân cận của tôi?” Ai! “Ai là người thân cận của tôi?”

Không trả lời trực tiếp vào câu hỏi, Đức Giêsu, một lần nữa, đã dùng một dụ ngôn, một dụ ngôn cho đến ngày nay, giới luật pháp quốc tế đã biến nó thành một đạo luật mang tên “luật người Samari nhân hậu”.

Lm. Jude Siciliano, OP. mở đầu bài giảng về chủ đề “người Samari nhân hậu” cho biết “Trong thế giới luật pháp có ‘luật người Samari nhân hậu’, luật này yêu cầu bảo vệ hợp pháp với những ai giúp đỡ chính đáng cho người khác khi người đó bị thương tích, đau yếu hoặc trong những tình cảnh hiểm nghèo. Luật người Samari nhân hậu này nhằm khuyến khích người khác trợ giúp những ai lâm cảnh hoạn nạn”.

Thì đây, câu trả lời của Đức Giêsu cho vị thông luật, qua dụ ngôn “người Samari nhân hậu” đã mô tả rõ nét “Ai là người thân cận của tôi”.

Ba nhân vật được đề cập trong dụ ngôn, lần lượt là thầy tư tế, rồi đến một thầy Lêvi, cuối cùng là một người Samari. Cả ba, kẻ trước người sau, đều đi trên một lộ trình, lộ trình từ “Giêrusalem xuống Giêricô” (x.Lc 10,30).

Cả ba đều nhìn thấy cảnh bi đát của một người lữ khách. Anh ta “bị rơi vào tay kẻ cướp… bị lột sạch… bị đánh nhừ tử…” và bị quẳng ra nằm rên rỉ giữa ngã ba đường làng.

Không thể tin được! Dù trông thấy người lữ khách đang nằm “nửa sống nửa chết”… Nhưng cả thầy tư tế lẫn thầy Lêvi đều “tránh qua bên kia mà đi”.

Người Samari. Vâng, người Samari “cũng thấy và chạnh lòng thương”. Sự chạnh lòng thương của anh chàng Samari không dừng ở đôi mắt, không dừng ở tấm lòng, nó được lan tỏa tới đôi chân và đôi tay.

Chuyện kể rằng “Ông ta lại gần”. Lại gần làm gì? Để xem trên con người bất hạnh này còn thứ gì quý giá “hốt hụi chót” chăng! Thưa không. “Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc” (Lc 10,34)

Viết tới đây, tôi chợt nhớ lại, cách đây khá lâu, ngay tại Saigon (dường như ở bùng binh ngã sáu Chợ Lớn thì phải), có một người bị cướp, bọn cướp giật túi tiền của anh ta, anh ta giật lại được, nhưng xui xẻo thay! túi tiền đó bị rách do sự giằng co giữa anh ta và kẻ cướp, tiền văng tung tóe trên đường.

Lúc đó nhằm giờ tan sở, rất nhiều người dừng xe lại lượm tiền rơi vãi, thế nhưng, thay vì gom lại trả cho khổ chủ, tệ thật! những kẻ dừng lại lượm tiền coi đó như là “của trời cho” họ, họ ung dung đút tiền vào túi và lên xe “Dzọt”…

Hay như câu chuyện một ông bác sĩ lái xe gây ra tai nạn hàng loạt trên đoạn ngã tư đường Lý Thái Tổ – Sư Vạn Hạnh. Trong khi rất nhiều nạn nhân đang oằn oại rên siết vì chấn thương, thay vì nhanh chóng đưa nạn nhân đi cấp cứu, nhiều người giở trò lưu manh lục soát ví tiền, cốp xe nạn nhân, cướp tiền cướp tư trang của họ.

Thật buồn thay! “tình người” trong thời buổi “xã nghĩa” là như vậy đó!

Trở lại câu chuyện dụ ngôn. Câu trả lời đã rõ.

“Ai là người thân cận của tôi?”. Đối với thầy thông luật cũng như toàn thể người Do Thái, họ quan niệm rằng “người thân cận” chính là người-đồng-đạo, đồng hương và đồng chủng tộc.

Với Đức Giêsu, qua dụ ngôn, Ngài không chỉ gửi đến thầy thông luật một “đáp án” mà còn để lại nơi ông ta một quan niệm mới về “tình người”.

“Vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp?” Thầy thông luật với một nhãn giới mới về “tình yêu thương” ông ta đã không ngần ngại trả lời rằng “Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy”.

****

Câu chuyện “người Samari nhân hậu”, qua lăng kính thần học, Lm. Charles E. Miller đã chia sẻ rằng, “Tội lỗi ‘mai phục’ trên đường đi của nhân loại, chực tước đoạt nhân phẩm của chúng ta, trấn lột chúng ta và cướp đi ân điển của Thiên Chúa. Tội đánh đập ta nhừ tử, rồi bỏ mặc ta dở sống dở chết. Chúa Giêsu đến nâng ta dậy, không phải để đặt lên lưng một con vật nào đó, mà là lên vai của Người và đưa ta về nhà Giáo Hội. Nơi đây, chúng ta được chăm sóc cho đến lúc Người lại đến trong vinh quang trong ngày chúng ta được sống lại”.

Vâng, là một Kitô hữu, chúng ta chẳng khác gì người lữ khách đi trên con đường về Trời-Mới-Đất-Mới. Vẫn còn đó, những “bọn cướp” tìm đủ mọi cách để cướp đi cuộc-sống-đức-tin của chúng ta, bằng những chủ thuyết vô thần lừa lọc và dối trá, bằng những thú đam mê dục vọng, bằng tiền tài danh vọng, bằng một nền văn hóa sự chết.

Vì thế cho nên, đừng rời xa Giáo Hội, nơi mà “Nhờ máu (Chúa Giêsu) đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an” cho chúng ta, sự bình an đó giúp chúng ta có thể vững tin để trở nên “người Samari nhân lành”.

Một khi chúng ta trở nên “người Samria nhân lành”, dù ở một lãnh vực nào, ở một ơn gọi nào, chúng ta vẫn có thể nhận ra “ai là người thân cận của tôi” .

Nói cách khác, dù tôi là Giám Mục hay Linh Mục, là bác sĩ hay kỹ sư, là nông dân hay công nhân, là một người chồng hay người vợ, là sinh viên hay học sinh v.v… tôi vẫn có thể nhận ra “tôi là người thân cận của ai”.

 

 

 

 

 

5. Chúa Nhật 15 Thường Niên

 

Trong bài Phúc Âm hôm nay (Lc 10,25-37) Chúa Giêsu nói về dụ ngôn “người Samari tốt lành” để trả lời cho chàng luật sư muốn gài bẫy Chúa khi đặt câu hỏi: “Ai là người thân cận của tôi” (Lc 10,29). Người ta đã thấy Chúa làm niều điều hay lẽ phải, ăn nói khôn ngoan, tinh thông mọi điều. Vì thế, chàng luật sư này liền đến chất vấn Chúa Giêsu. Luật của người Do Thái đã giới hạn sự giao tiếp giữa người Do Thái với những người không phải là DoThái.

Chúa Giêsu thấy chàng luật sư chưa sống đời mình một cách thực tế, còn chờ đợi, xem ai là người anh chị em của mình để yêu thương giúp đỡ. Chúa Giêsu kể câu chuyện một người đi đường từ Giêrusalem xuống Giêricô, dọc đường chẳng may bị kẻ cướp lấy tất cả đồ dùng quần áo, đánh cho nửa sống nửa chết, vắt nằm lăn lóc bên đường. Một tư tế đi qua rồi một trợ tế đi qua nhìn thấy tránh sang một bên và thản nhiên tiếp tục con đường của mình.

Tư tế và trợ tế là những bậc vị vọng trong một dân tộc mà chính quyền và giáo quyền làm một như dân Do Thái thời bấy giờ và ai cũng muốn làm bạn cùng những người đó. Trái lại sau đó, một người xứ Samaria là một nước thù địch cùng nước Giuđa lúc bấy giờ vì nạn Nam-Bắc phân tranh, người đó đi qua và hết lòng tận tình săn sóc nạn nhân người Giuđa. Kể xong, Chúa Giêsu long trọng hỏi chàng luật sư đó: “Ai là anh em của người bị rơi vào tay bọn cướp?”. Dĩ nhiên câu trả lời là người tỏ lòng thương xót giúp đỡ. Và Chúa Giêsu đã kết luận cuộc đối thoại bằng một câu đáng giá ngàn vàng: “Vậy ông hãy đi và làm như thế”. Hãy thực tế, đừng ngồi đó hỏi ai là anh chị em tôi để tôi yêu mến, để tôi lo lắng, để tôi săn sóc. Nhưng trước tiên hãy sống tỏ ra mình là người anh chị em của mọi người trước đã. Khả năng tỏ ra anh chị em của người khác ở trong tay của mình, đừng ngồi đó chờ mà hãy thực hành ngay.

Đối với chàng luật sư, luật cũ dựa trên nhân bản, lấy con người của mình làm tiêu chuẩn để cư xử: “Ngươi hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và người thân cận như chính mình” (Lc 10,27). Xét về mặt công bằng xã hội, nếu chúng ta tôn trọng nhân vị của người khác như chính bản thân mình, đó là điều tốt. Sách Giáo Lý Công Giáo cũng dạy: “Mỗi người hãy coi tha nhân, không trừ một ai như chính bản thân mình” (GLCG số1931)

Đối với Chúa Giêsu, dựa trên tinh thần đạo đức siêu nhiên, Ngài đã bổ túc luật cũ, lấy tiêu chuẩn hành động là Thiên Chúa; “Đây là điều răn của Thầy: ” Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 15,12; 13,34). Công Đồng Vaticanô II trong Hiến Chế Lumen Gentium đoạn 40 cũng nhắc nhở: “Bởi vậy, Người đã sai Thánh Thần đến với mọi người, để từ bên trong Ngài thôi thúc họ yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn cùng hết sức họ (Mc 12,30) và yêu thương nhau như Chúa Kitô yêu thương họ” (Ga 15,12; 13,34)

Chúa Giêsu đã không những chỉ dạy về sự chạnh lòng thương, mà chính Ngài là lòng thương xót, chính Ngài đã đóng vai trò của người Samari tốt lành. Nhân loại chúng ta là những nạn nhân bị đánh đập, cướp bóc, bị thương tích nửa sống nửa chết, bị bỏ rơi dọc đường trên cuộc hành trình tìm về sự sống vĩnh cửu. Tình yêu thương, sự chạnh lòng thương xót của Thiên Chúa được thể hiện qua việc nhập thể, mang lấy thân phận làm người, cùng chịu đau khổ, chịu chết và sống lại. Chúa Giêsu đã đến gần chúng ta, săn sóc lo lắng cho chúng ta. Ngài từ phía trời cao, xuống thế, và tự đặt mình vào trong hoàn cảnh của chúng ta. Chính Ngài là người hàng xóm đã chạnh lòng thương chúng ta. Mặt khác, Người cũng chính là nạn nhân của nhân loại, đã bị đánh đập tàn nhẫn và chết thê lương trên thập giá mà không có ai cứu chữa (Mc 15,34). Chúa Giêsu là Người tôi tớ rao giảng sự công chính, như con chiên bị sát tế cách bất công (Cv 8,32; Is 50,6). Chúa Giêsu đặt ra một thử thách lớn đối với những người đồng hương Do Thái của Ngài. Trong bối cảnh lịch sử thời ấy, người Do Thái và Samaria là những kẻ thù cay đắng của nhau. Người Do Thái nhìn người Samaria là loại công dân bậc hai hay ba, vì họ không còn mang dòng máu thuần khiết Do Thái nữa. Chúa Giêsu cũng muốn nói với chúng ta ngày nay rằng: “Mỗi người ở một lúc nào đó đều là thân cận, bởi mỗi người sẽ có lúc cần phải được giúp đỡ, ngay cả kẻ thù đáng ghét nhất của bạn. Hãy biểu tỏ lòng thương xót – chạnh lòng thương- qua việc phục vụ cho bất cứ ai đang cần giúp đỡ”.

Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta phải thực tế, phải sống và tạ ơn vì những gì Chúa đã ban, phải vâng theo những lề luật Chúa ghi khắc trong tâm hồn và dạy phải tuân giữ. Hằng ngày chúng ta gặp những người cô đơn, bị bỏ rơi, thiếu tình thương và chăm sóc, bị ngược đãi, thất vọng, chán nản và mặc cảm tội lỗi. Họ kêu cứu trong bài đáp ca hôm nay “Tôi buồn sầu và đớn đau” chúng ta đừng bỏ qua. Hãy dừng lại và giúp họ. Có rất nhiều cách mà chúng ta có thể thực hiện như: một nụ cười chân thành, một lời chào vui vẻ, sự ân cần thăm hỏi có thể giảm bớt nỗi đau của một tâm hồn sầu muộn, một lời “cảm ơn” nồng nàn có thể khích lệ một người bị quên lãng, bị khinh khi. Tình yêu chân thành sẽ chỉ cho ta biết phải làm sao. Tình yêu có thể cảm hoá lương tâm và thay đổi cách sống của một người. Tình yêu có tác dụng trên tha nhân và làm cho họ trở nên tốt hơn.

Câu chuyện Chúa Giêsu kể hôm nay, chỉ cho chúng ta biết ai là người thân cận mà chúng ta phải yêu thương. Người cho chúng ta sức mạnh, sự khôn ngoan để yêu thương qua tình yêu của Ngài. Trong tuần này, để thực hành Lời Chúa, chúng ta cùng nhau làm những việc cụ thể như thay vì nghĩ xấu, nói xấu tha nhân thì chúng ta hãy nghĩ tốt nói tốt cho tha nhân, tìm cách giúp đỡ tha nhân một cách tận tình và bác ái hơn. Làm cha mẹ, hãy dạy cho con cái sống trong sạch, yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể, vì chính Ngài là suối nguồn yêu thương, dạy cho ác em nhỏ biết kính trọng người lớn và chân thành yêu thương những người kém may mắn. Cuối cùng, mọi người hãy cầu nguyện để xin Chúa cho mình quảng đại yêu thương như Chúa Giêsu yêu thương.

Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa giúp chúng ta thành người Samaritanô nhân hậu, biết yêu thương và sẳn sàng giúp đỡ tha nhân bằng tình yêu mà Chúa muốn. Amen.

 

 

 

 

 

6. Chữa tận căn

 

Có một câu chuyện tưởng tượng, tiếp nối dụ ngôn người Samaria nhân hậu, đại khái như sau: Sau khi đã tận tình cứu giúp nạn nhân bị bọn cướp đánh và bỏ rơi, người Samaria này lại có dịp đi từ Giêrusalem xuống Giêricô. Lần thứ hai này, ông cũng gặp một nạn nhân khác và như lần đầu, ông cũng lại ra tay cứu giúp. Và rồi tiếp theo trong những lần có dịp đi qua con đưởng đó, ông đều gặp nạn nhân và đều cứu giúp, cho đến một ngày kia là lần thứ 2222, khi đến chỗ thường xảy ra những vụ cướp bóc, ông cũng lại gặp một nạn nhân. Như thường lệ, ông xuống lừa, băng bó vết thương. Xong xuôi đâu đó, ông đặt nạn nhân lên lưng lừa. Với thời gian, con lừa của ông dường như cũng quen đường cũ, đem nạn nhân đến quán trọ. Nhưng lần này ông chủ quán chỉ thấy nạn nhân nằm trên lưng con lừa cũ mà không thấy người Samaria đâu. Hơi ngạc nhiên, nhưng ông chủ quán vẫn tiếp tục chăm sóc nạn nhân như thường lệ. Điều mà ông chủ quán không ngờ mãi đến lần 2222 người Samaria mới có sáng kiến giúp các nạn nhân đến nơi đến chốn. Để giải quyết tận gốc rễ, ông đã tìm đến sào huyệt của bọn cướp với hy vọng thuyết phục họ, hoặc nếu được thì giúp đỡ để họ có thể trở về sống một cuộc đời lương thiện, từ bỏ những hành động trộm cướp và giết người.

Trong cuộc sống, rất nhiều lần chúng ta đã gặp phải những người đau khổ, nghèo đói, bệnh tật. Có thể là chúng ta đã đắp tai ngoảnh mặt làm ngơ như thầy tư tế và lêvi. Có thể là chúng ta cũng đã giúp đỡ họ một cách đại khái cho qua lần đoạn lượt bằng một lời chào, bằng một nụ cười, bằng một sự an ủi khích lệ hay bằng một vài ngàn đồng bạc làm phúc bố thí, nhưng có lẽ chưa một lần chúng ta dừng lại, suy nghĩ và tìm hiểu xem chúng ta phải làm những gì để chữa tận căn, để diệt tận gốc, hầu đem lại cho họ sự bình an và hạnh phúc đích thực.

Người Samaria đã lặn lội tìm vào tận hang ổ của bọn cướp, để xóa đi sự hiện diện của họ, vốn đã từng gieo rắc kinh hoàng và khổ đau cho nhiều người. Còn chúng ta thì sao?

Gặp một người nghèo túng, thay vì cho họ một số tiền nào đó, chúng ta có thể chỉ bảo cho họ một nghề nghiệp, nhờ đó mà họ sẽ tự túc tự cường, tự mình kến sống. Gặp một gia đình bất hòa, thay vì đưa ra những lời khuyên một cách chung chung, chúng ta có thể tìm hiểu đâu là nguyên nhân gây ra sự bất hòa đó, để rồi tìm cách xóa bỏ cái nguyên nhân ấy đi. Đây là một việc làm không mấy dễ dàng, thế nhưng, để sự giúp đỡ của chúng ta thự sự mang lại lợi ích cho người khác, liệu chúng ta có cùng với họ xóa bỏ tận gốc rễ nguyên nhân làm cho họ phải khổ đau hay không?

 

 

 

 

 

7. Tội thờ ơ.

 

Tôi đã chứng kiến không chỉ một lần cảnh đám đông vây quanh một đánh đánh lộn bên đường phố. Có khi đó là hai thanh niên quyết ăn thua đủ với nhau. Có khi đó là một người đàn ông đánh đập tàn nhận một người đàn bà. Có khi đó là hai cô gái sừng sổ với nhau. Điều đáng nói là mọi người dường như có vẻ dửng dưng, như chứng kiến một cánh đấm đá trên màn ảnh? Phải chăng con người ngày nay đã xơ cứng trước nỗi thống khổ của kẻ khác?

Thực tế có lẽ không đến nỗi quá quắt như vậy. Người ta chỉ thờ ơ để khỏi mang vạ vào thân giữa một xã hội mạnh ai nấy sống. Tuy thế cũng thật đáng buồn và đáng suy nghĩ. Tôi chắc có nhiều người cũng như tôi, không hẳn là mình không muốn can ngăn những cuộc ẩn đả xảy ra ngoài đường phố hay trong khu xóm. Có điều cái thói thờ ơ, để khỏi bị liên luỵ và được yên lòng, đã chiếm lĩnh lối sống ích kỷ, cầu an cá nhân của mình. Sống với tâm trạng như thế, chúng ta đọc sao được câu chuyện người Samaria nhân hậu của Tin Mừng.

Người Samaria là một anh chàng không có đạo, mà không có đạo cũng đồng nghĩa với không thể sống bác ái lương thiện. Quan niệm Do Thái hẹp hòi và thiển cận ấy, như một mẫu mực để những ai muốn có cuộc sống đời đời phải nhìn đó mà noi theo. Người Samaria ngoại đạo đã trổi vượt hơn những người chính thống, đạo đức nhất của xã hội và Giáo Hội lúc bấy giờ là thầy Lêvi và vị tư tế. Trổi vượt trong lãnh vực yêu thương, cứu giúp những người gặp vận nạn hiểm nguy trong cuộc sống. Còn chúng ta thì sao?

Tôi xin thưa chúng ta cũng phải trở nên là những người Samaria nhân lành của thời buổi hôm nay. Có nghĩa là chúng ta không phải chỉ sống cho riêng mình mà còn sống cho người khác. Chúng ta không chỉ lo toan cho cá nhân mà còn quan tâm tới hết mọi người chung quanh. Chúng ta không chỉ nghiêm túc trong giờ phụng vụ mà còn nghiêm túc trong mọi lãnh vực kinh doanh và sản xuất.

Trong xã hội, kẻ thờ ơ với tha nhân cũng nhiều, nhưng những người Samaria hiện đại cũng không thiếu. Họ có khi mang danh hiệu Kitô hữu, có khi mang danh hiệu Phật tử, có khi mang danh hiệu cộng sản và có khi chẳng mang một danh hiệu nào cả. Nhưng họ giống như Đức Kitô đã sống và họ tiếp cận được với Thiên Chúa cũng như với tha nhân. Vậy thì để trở nên những người Samaria thời buổi hôm nay, chúng ta đã thực sự có được một trái tim mở rộng, một thái độ quan tâm đến mọi người, mọi việc kế cận với chúng ta hay chưa?

 

 

 

 

 

8. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái

 

Chủ Đề: Luật trong lòng Người Samaria nhân hậu

Dẫn vào Thánh lễ

Anh chị em thân mến

Hôm nay chúng ta sẽ nghe dụ ngôn về người Samaria nhân hậu. Qua hình ảnh người Samaria này, Chúa muốn chúng ta hãy quân tâm giúp đỡ chăm sóc người khác. Còn thầy tư tế và thầy lêvi thì xem ra chẳng làm gì nên tội, nhưng thực ra tội của họ chính là tội thiếu sót: họ đã không làm điều lẽ ra họ phải làm.

Trước khi cùng nhau dâng Thánh lễ, chúng ta hãy xin Chúa tha thứ mọi tội lỗi của chúng ta, những tội trong lời nói, việc làm và cả những tội thiếu sót.

Gợi ý sám hối

Chúng ta rất ít quan tâm đến người khác.

Nhiều việc lành chúng ta có thể làm nhưng chúng ta đã bỏ qua không làm.

Chúng ta thường thờ ơ dửng dưng trước những người nghèo khổ bệnh tật.

Lời Chúa

Bài đọc I (Đnl 30,10-14)

Để khuyến khích dân Do Thái thực thi những lệnh truyền của Thiên Chúa, ông Môsê lưu ý họ rằng: Những lệnh truyền của Thiên Chúa không quá khó khăn cũng không vượt quá sức con người, nhưng có thể thực hiện được vì chúng không ở trên trời hay ở bên kia biển cả mà ở sát bên con người, nơi miệng con người và trong lòng con người.

Đáp ca (Tv 68)

Tv này là lời kêu xin của người đang gặp cảnh khổ, mong được Thiên Chúa cứu giúp.

Những lời này có thể áp dụng cho nạn nhân trong bài Tin Mừng bị kẻ cướp hành hạ đến nửa sống nửa chết và bỏ nằm trên đường.

Tin Mừng (Lc 10,25-37)

“Ai là người thân cận của tôi?” Câu hỏi này của vị Luật sĩ phản ảnh phần nào chiều hướng suy nghĩ của ông:

Ông muốn tìm một câu định nghĩa về “người thân cận”. Người Do Thái thời đó hiểu “người thân cận” chỉ là những đồng bào Do Thái với mình.

Ông muốn nghe một câu trả lời có tính lý thuyết.

Dụ ngôn người Samari phản ảnh chiều hướng suy nghĩ của Chúa Giêsu:

Định nghĩa về “người thân cận” không quan trọng bằng thực thi bác ái với người thân cận (câu 37)

Người thân cận là bất cứ ai (không phân biệt dân tộc, tín ngưỡng, quan điểm… ). Hình như hai nhân vật chính trong dụ ngôn này một người là Do Thái một người là Samari.

Thay vì tìm hiểu ai là người thân cận, tốt hơn nên tỏ ra mình là người thân cận đối với những kẻ đang cần mình giúp đỡ (câu 36)

Bài đọc II (Cl 1,15-20) (Chủ đề phụ)

Tín hữu Côlossê tuy đã tin vào Chúa Giêsu Kitô nhưng chưa an tâm, một mặt họ vẫn giữ lại những tập tục Do Thái giáo (như cắt bì, giữ luật ngày Sabát…), mặt khác họ tin thêm một số thần khác, làm thêm một số việc mê tín dị đoan. Họ nghĩ rằng như thế thì “chắc ăn” hơn.

Để bài trừ cách sống đạo “thập cẩm” này, thánh Phaolô đề cao vai trò tối thượng duy nhất của Chúa Giêsu:

Ngài là hình ảnh hữu hình của Thiên Chúa vô hình

Ngài là trưởng tử mọi thọ tạo

Mọi thọ tạo đều được tạo thành trong Ngài

Ngài còn là đầu của Hội Thánh

Thiên Chúa đã đặt tất cả mọi sự viên mãn trong Ngài

Tóm lại, Chúa Giêsu Kitô là Đấng cứu độ duy nhất. Bởi vậy, muốn được cứu độ thì chỉ cần tin vào một mình Chúa Giêsu Kitô, không cần nhờ bất cứ tôn giáo hay thần thánh nào khác.

Gợi ý giảng

* 1. Các vai trong dụ ngôn

Thầy tư tế và thầy Lêvi là những người chỉ quan tâm đến bản thân mình: khi gặp một tình huống đặc biệt, họ nghĩ đến bản thân họ trước (không dừng lại chăm sóc người bị nạn vì sợ trễ giờ, vì sợ ô uế nếu đụng vào xác chết).

Người Samaria là người biết nghĩ đến người khác: khi gặp người bị nạn, anh chỉ biết tìm cách giúp đỡ nạn nhân, không ngại mất giờ, mất công và mất tiền.

Thầy tư tế và thầy lêvi chú ý giữ luật ghi trên sách vở (luật quy định về thanh sạch và ô uế); Người Samaria giữ luật trong tim (luật yêu thương)

Thầy tư tế và thấy lêvi không phạm tội nào về lời nói hay việc làm, nhưng phạm tội thiếu sót vì đã bỏ qua không làm điều mình phải làm.

* 2. Người chăm sóc

Người Samaria là một người chăm sóc

Loại người này rất hiếm thấy trong xã hội, vì trong xã hội ai nấy chỉ biết lo cho mình, ít ai để ý chăm sóc người khác, nhất là chăm sóc những người xa lạ không có quan hệ gì tới mình.

Nhưng loại người này rất hữu ích cho xã hội. Bằng những việc chăm sóc âm thầm, nhỏ bé, họ chính là muối và men làm cho xã hội bớt đau khổ, bớt xấu xa và thêm tốt đẹp.

Khi đề cao người Samaria, Chúa Giêsu muốn chúng ta cũng phải là những người chăm sóc. Con đường Giêrusalem tới Giêricô chính là đường đời, trên đó không thiếu những người bất hạnh cần được chăm sóc. Mỗi người cũng được Chúa ban có nhiều khả năng chăm sóc: một lời an ủi động viên, một cử chỉ thân ái, một giúp đỡ thiết thực chính là chút rượu và chút dầu xoa dịu những thương đau cho người anh em mình đang gặp đau khổ. (FM)

* 3. Lòng tốt tự phát

Có nhiều người làm một việc tốt cách hết sức tự nhiên và dễ dàng. Đó là những người mà luật yêu thương đã ăn sâu vào con tim mình, đã trở thành máu thịt và hơi thở của mình.

Người Samaria trong dụ ngôn này là một người như thế: khi gặp một nạn nhân trên đường, anh không cần suy nghĩ gì cả mà tự nhiên xuống lừa, cúi xuống lấy dầu và rượu xoa dịu những vết thương của nạn nhân, rồi chở nạn nhân đến quán trọ, bỏ tiền ra nhờ chủ quán tiếp tục lo cho nạn nhân.

Khác hẳn với Thầy tư tế và thầy Lêvi: hai người này cũng thấy cảnh đó, nhưng đắn đo suy tính thiệt hơn. Và sau khi suy tính, họ chọn giải pháp “đi qua”. Họ thuộc luật rất nhiều đấy, nhưng luật chưa ăn sâu vào tim và chưa trở thành máu thịt và hơi thở của họ.

Làm thế nào để có lòng tốt tự phát như người Samaria? Việc này không phải muốn là được, không phải chỉ cố gắng tập một lần mà có, mà là kết quả của việc thực thi những việc tốt nho nhỏ cách đều đặn và kiên trì. Một hành động tốt cao cả là thành quả của nhiều hành động tốt nho nhỏ đã quen làm trước đó. Phần thưởng đích thực của một hành động tốt là nó giúp ta có thể làm thêm những hành động tốt khác một cách dễ dàng hơn.

* 4. Yêu rồi làm (Lc 10,25-37)

Một vị ẩn sĩ sống trong một khu rừng luôn bị một cô gái làng chơi đến cám dỗ. Ngạc nhiên trước sự thanh thản của vị tu hành, nhưng đồng thời cũng nghi ngờ sự bất bình thường của người đàn ông, cô liền hỏi một câu chế nhạo:

– Thầy không biết yêu sao?

Vị ẩn sĩ trả lời:

– Chưa đến giờ đó thôi?

Câu chuyện bỏ lửng tại đó. Một lần kia, trong lúc đi khất thực, vị tu hành phát hiện người con gái hay đến phá phách mình đó bị bọn cướp trấn lột và đánh cho thừa sống thiếu chết bên lề đường. Ông bèn dừng chân lại săn sóc cô ta, chữa các vết thương và đưa cô về thành phố điều trị.

Cô gái sững sờ nhìn vị ân nhân mà chưa biết mở lời ra sao, thì vị ẩn sĩ mỉm cười nói:

– Đã đến giờ rồi đấy, giờ của lòng thương xót!

***

Người thông luật trong bài Tin Mừng hôm nay hỏi Chúa Giêsu: “Ai là người thân cận của tôi?” Thay vì trả lời, Chúa Giêsu đã kể dụ ngôn người Samari tốt lành: Một khách bộ hành đi từ Giêrusalem xuống Giêricô, bị bọn cướp đánh nhừ tử, trấn lột, rồi bỏ nằm nửa sống nửa chết bên lề đường. Trong khi hai thầy tư tế và Lê vi “tránh qua bên kia mà đi”, thì người Samari ngoại đạo lại dừng chân, băng bó vết thương, đem nạn nhân về nhà trọ săn sóc.

Chúa Giêsu hỏi lại người thông luật: “Vậy ai là người thân cận của kẻ bị cướp?”. Hỏi tức là trả lời. Và người thông luật đáp: “Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót”. Chúa Giêsu bảo: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy” (Lc 10,37).

Vị ẩn sĩ trong câu chuyện trên đây và người Samari nhân hậu đã sống luật yêu thương một cách tuyệt vời, đó là “yêu bằng việc làm”. Yêu không chỉ trên đầu môi chót lưỡi, rồi phủi tay không làm gì cả, mà yêu chính là “miệng nói tay làm”, làm thực sự với hết khả năng của mình. Những việc làm cụ thể thường hùng hồn hơn những lời nói suông. Con đường dài nhất là con đường từ trái tim đến đôi tay. Chúa Giêsu muốn chúng ta đi hết con đường đó: “Hãy đi và làm như vậy”. Pascal đã nói: “Khuyết tật lớn nhất của một người là phục vụ quá ít cho những kẻ họ yêu thương”.

Sở dĩ người ta không dám làm một cái gì đó cho những người anh em, là vì họ không có can đảm vượt qua nỗi sợ.

Sở dĩ thầy tư tế và thầy Lê vi “tránh qua bên kia mà đi” là vì các thầy sợ ô uế khi đụng vào xác chết, sợ bọn cướp còn ẩn nấp đâu đây, sợ rắc rối phiền hà đến bản thân.

Sở dĩ chúng ta không dám làm một cái gì đó cho người anh em khi họ cần giúp đỡ, là vì chúng ta sợ phải thiệt thòi, sợ tốn công sức, sợ mất thời gian, sợ phải trả giá, sợ đụng đến sự an toàn, tiện nghi của mình. Chúng ta muốn được yên thân! Thầy tư tế và thầy Lêvi đã tự hỏi: “Điều gì sẽ xảy ra cho tôi, nếu tôi dừng lại và săn sóc người anh em bị đánh nhừ tử?”. Trái lại, người Samari đã đảo ngược câu hỏi: “Điều gì sẽ xảy ra cho người anh em bị đánh nhừ tử, nếu tôi không dừng lại và chăm sóc người ấy?” Người Samari tốt lành đã xả thân vào một hành động vị tha đầy nguy hiểm.

Yêu thương không phải là cho đi một cái gì, nhưng là cho đi chính bản thân. Yêu thương là hy sinh, là quên mình, là hiến thân phục vụ tha nhân: Kahil Gibram có một câu nói chí tình: “Bạn cho đi quá ít khi chỉ cho đi của cải. Chỉ khi nào cho đi chính mình, bạn mới thực sự cho đi”. Càng đi tìm bản thân, con người càng đánh mất chính mình. Càng co cụm trong vỏ ốc ích kỷ của mình, con người càng chết dần mòn trong nỗi cô đơn. Càng muốn được yên thân, con người càng vong thân.

Nỗi khát khao hạnh phúc của con người chỉ có thể được lấp đầy khi họ biết đến gần, cúi xuống phục vụ tha nhân.

Con người chỉ thành đạt thực sự, con người chỉ thục sự là người khi họ dám sống chết cho anh em.

Người tín hữu Kitô chỉ thực sự là con Chúa khi họ dám tiêu hao vì người khác. Mẹ Têrêsa Calcutta nói: “Ki tô hữu là người trao ban chính bản thân mình”.

Yêu rồi làm. Khi đã yêu rồi chúng ta sẽ biết phải làm gì cho người anh em. Khi đã yêu rồi chúng ta sẽ có sáng kiến để xả thân vì mọi người, nhất là những người nghèo hèn đau khổ. Khi đã yêu rồi, chúng ta sẽ biết cách làm cho kẻ xa lạ nên người thân cận, kẻ thù địch nên người bạn tốt, chỉ cần chúng ta dám đừng lại, đến gần và cúi xuống trước anh em.

***

Lạy Chúa cuộc sống đạo của chúng con sẽ trở nên phù phiếm nếu cái cốt lõi của đạo là yêu thương chỉ là điều phụ thuộc.

Xin đừng để chúng con loay hoay với những tính toán ích kỷ; chai đá, dửng dưng trước những khổ đau của anh em. Nhưng xin dạy chúng con biết chạnh lòng xót thương và giúp đỡ những ai đang cần đến chúng con. Amen (Thiên Phúc )

Chuyện minh họa

a/ Lòng hiếu khách tự nhiên

Alaska là một vùng đất đẹp thu hút nhiều du khách, nhưng cũng là một vùng rộng lớn thưa dân.

Ngày kia, một du khách lái xe đi thăm các thắng cảnh thiên nhiên. Quá mãi mê ngắm cảnh, xe của ông lạc vào một vùng hoang vu. Rủi thay chính lúc đó xe ông bị hư. Sau một hồi lâu tìm kiếm, ông may mắn gặp được một nông trại và xin ông chủ nông trại ấy giúp sửa dùm chiếc xe. Người chủ nông trại nhanh nhẹn lấy đồ nghề ra. Nửa giờ sau xe chạy được. Người du khách móc ví tiền ra, hỏi:

– Tôi phải trả công cho ông bao nhiêu?

– Thôi, khỏi phải trả chi cả.

– Nhưng tôi thấy có bổn phận trả lại cho ông điều ông đã làm cho tôi.

– Thì ông đã trả rồi đó.

– Xin lỗi, tôi chưa hiểu ông muốn nói gì?

– Ở nơi hoang vu này, tôi rất cô đơn nên cần có bạn. Ông đã cho tôi có dịp làm bạn với ông suốt một giờ đồng hồ vừa qua.

b/ Bản năng giúp người khác

Larry Skutnik là một người có tính nhút nhát làm việc cho một công sở ở Washington. Chiều ngày 13 tháng giêng năm 1982, một trận bão tuyết rất lớn đổ xuống thành phố này. Xe anh đang trên đường về nhà thì bị kẹt trên cầu bắt qua sông Potomac. Lý do là có một chiếc máy bay chở 79 người đã đâm đầu xuống sông. Anh bước khỏi xe để quan sát và thấy có 3 người đang bám vào đuôi chiếc máy bay đang chìm dần xuống nước. Một chiếc trực thăng đã đến kịp. 3 người ấy leo lên trực thăng. Nhưng chỉ 2 người bám dính, còn người thứ ba, một phụ nữ, vuột tay rơi trở lại xuống nước.

Không chút ngần ngại, Larry Skutnik nhảy tòm xuống sông, lặn xuống dòng nước lạnh cóng để tìm kiếm nạn nhân. Một lúc sau anh đã tìm được và đưa bà này lên bờ.

Tất cả những diễn tiến của cảnh đó đều được thu hình và sau đó được đưa lên truyền hình. Mọi người đều ca ngợi anh là một vị anh hùng. Sáng hôm sau, một phóng viên tới phỏng vấn:

– Do đâu mà anh đã làm được một hành động anh hùng như thế?

– Quả thực hai chữ “anh hùng” làm tôi xấu hổ quá. Tôi đâu có cố gắng gì đâu, chỉ là phản xạ tự nhiên thôi.

Anh hùng thật là người làm hành động anh hùng một cách tự nhiên như phản xạ. Người tốt thật là người làm việc tốt một cách rất tự nhiên.

Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế: Anh chị em thân mến, đạo Chúa Kitô là đạo tình thương, chỉ dùng tình thương mà cảm hóa và chinh phục người khác. Với quyết tâm sống trọn vẹn đức bác ái yêu thương Chúa đã dạy, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:

1. Hội thánh là dấu chỉ tình thương của Chúa đối với nhân loại / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành viên trong đại gia đình Hội thánh / biết luôn chân thành yêu thương / và tôn trọng hết thảy mọi người.

2. Trên thế giới ngày nay / chiến tranh và khủng bố / hận thù và bạo lực / vẫn còn đang hoành hành ở nhiều nơi / gây ra tang tóc và đau khổ cho biết bao gia đình / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho đức bác ái của Chúa Kitô tác động đến mọi suy nghĩ / lời nói và việc làm của con người hôm nay.

3. Trong đời sống thường ngày / có một số người ngại phiền phức / sợ cực nhọc khi phải giúp đỡ người khác / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho tất cả mọi người Kitô hữu biết sống quảng đại / và sẵn sàng trợ giúp những ai đang lâm cảnh gian truân khốn khó.

4. Sống bác ái là chu toàn cả Lề Luật của Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết rộng rãi chia sẻ cơm áo cho những ai đói rách bần cùng.

Chủ tế: Lạy Chúa, đức tin đòi buộc chúng con phải sống đức ái. Vậy xin Chúa thương ban ơn trợ giúp để chúng con có thể sống trọn vẹn niềm tin của mình. Chúng con cầu xin.

Trong Thánh Lễ

– Trước kinh Lạy Cha: Chúa Giêsu đã kêu mời chúng ta hãy yêu thương giúp đỡ nhau như những anh em cùng một Cha. Vậy chúng ta hãy cùng Ngài dâng lên Chúa Cha lời kinh say đây:

– Sau kinh Lạy Cha: “Lạy Cha, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, đặc biệt là lối sống thờ ơ ích kỷ, xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an…

Giải tán

Sau khi kể cho người thông luật nghe dụ ngôn về người Samaria nhân hậu, Chúa Giêsu đã bảo người đó: “Anh cũng hãy đi và làm như vậy”. Trong Thánh lễ này, Chúa Giêsu cũng kể lại cho chúng ta nghe dụ ngôn ấy. Giờ đây Thánh lễ đã xong, Ngài cũng bảo chúng ta: “Chúng con hãy đi và làm như vậy”. Chúc anh chị em ra về bình an.

 

 

 

 

 

9. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

 

NHỚ MANG THEO TRÁI TIM

Trường sinh bất tử, muốn được hạnh phúc vĩnh viễn, muốn được sống đời đời, đó là mơ ước muôn đời của mọi người. Hôm nay, một thày thông luật nói lên mơ ước đó khi ông hỏi Chúa “làm cách nào để được hưởng sự sống đời đời”.

Để trả lời ông, Chúa Giêsu kể câu chuyện, một câu chuyện bình thường xảy ra hằng ngày: Một người đi đường từ Giêrusalem xuống Giêrikhô, dọc đường bị cướp trấn lột, đánh nhừ tử, dở sống dở chết nằm rên rỉ bên vệ đường. Thày tư tế đi ngang thấy thế tránh qua bên kia đường mà đi. Thày Lêvi cũng thế. Nhưng một người xứ Samaria, một người ngoại đạo, đã chạnh lòng thương, dừng lại băng bó cho nạn nhân. Chưa hết, ông còn chở nạn nhân đến quán trọ. Hơn thế nữa, ông gửi tiền để nhờ chủ quán chăm sóc nạn nhân cho đến khi bình phục.

Qua câu chuyện người xứ Samaria nhân hậu, Chúa Giêsu chỉ cho ta con đường dẫn đến sự sống đời đời.

Đường Giêrikhô tượng trưng cho con đường về Nước Trời. Đó là con đường gập ghềnh khó đi. Đó là con đường nguy hiểm vì có trộm cướp rình rập. Đó là con đường thử thách. Để vượt qua thử thách, vũ khí duy nhất hữu ích là trái tim. Trái tim chiến thắng có những phẩm chất như sau:

Đó phải là một trái tim nhạy bén.

Người xứ Samaria nhân hậu có một trái tim nhạy bén. Dù đang bận việc riêng, dù vó ngựa phi nhanh, ông vẫn nhìn thấy người bị nạn nằm bên vệ đường. Dù tiếng gió vù vù xen lẫn tiếng vó ngựa lộp cộp, ông vẫn nghe được tiếng rên rỉ rất yếu ớt của người bị nạn. Trong khi đó, thầy Tư Tế và Thầy Lêvi chỉ đi bộ lại không thấy, không nghe. Hay nói đúng hơn, các thầy có nghe, có thấy nhưng trái tim các thầy đóng kín, nên các thầy chẳng động lòng. Trái tim các thầy bị đóng kín vì những cánh cửa lề luật: Sợ đụng chạm vào máu, vào người bị thương, sẽ trở thành ô uế không được tới đền thờ dâng lễ vật. Người xứ Samaria không nghe bằng đôi tai, không nhìn bằng đôi mắt, nhưng nghe và nhìn bằng trái tim. Trái tim nhạy bén có đôi tai thính lạ lùng. Có thể nghe rõ tiếng rên rỉ thì thầm tận đáy lòng. Trái tim nhạy bén có đôi mắt sáng lạ lùng. Có thể nhìn thấy cả những nỗi đau âm thầm trong tâm khảm.

Đó phải là một trái tim quan tâm.

Trái tim quan tâm đưa ta đến gần gũi anh em. Trái tim quan tâm biết làm tất cả để phục vụ anh em. Các thầy Tư Tế và Lêvi không có trái tim quan tâm nên khi thấy người bị nạn đã tránh sang bên kia đường mà đi. Người xứ Samaria có một trái tim quan tâm nên ông lập tức đến gần nạn nhân. Vì có trái tim quan tâm nên ông có thể làm tất cả để giúp nạn nhân. Vì quan tâm nên ông đã mang sẵn bên mình nào là dầu, nào là băng vải. Chẳng học nghề thuốc mà ông săn sóc vết thương một cách thành thạo. Chẳng luyện tập mà ông đã lấy dầu xoa bóp rất nhanh, băng bó rất khéo. Chẳng có kỹ thuật mà ông biết cách đưa được bệnh nhân lên lưng ngựa. Ông đã làm tất cả theo sự hướng dẫn của trái tim. Với trái tim, ông đã làm tất cả với sự chuẩn xác và nhất là với nhiệt tình để cứu nạn nhân.

Đó phải là một trái tim chung thuỷ.

Trái tim chung thuỷ không làm việc nửa vời, nhưng làm đến nơi đến chốn. Trái tim chung thuỷ không mỏi mệt buông xuôi, nhưng theo dõi giúp đỡ cho đến tận cùng. Người xứ Samaria bận rộn công việc, nhưng vẫn lo lắng cho nạn nhân đầy đủ, gửi gắm chủ quán tiếp tục thuốc thang. Và khi xong việc ông sẽ trở lại thăm hỏi để tiếp tục săn sóc cho đến khi khỏi hẳn. Ông làm tất cả với một trái tim chung thuỷ vẹn toàn.

Qua dụ ngôn, Chúa Giêsu dạy ta hiểu rằng: đường đến sự sống đời đời là con đường mọi người vẫn đang đi. Nhưng chỉ người đi với trái tim mới mong đến đích. Thầy Tư Tế và Thầy Lêvi đã rẽ sang hướng khác vì các thầy không mang theo trái tim. Người xứ Samaria đã đi đến nơi vì ông đi đường với trái tim nhân hậu, trái tim rất nhạy bén, rất quan tâm và rất chung thuỷ. Với trái tim ấy, ông đã yêu người thân cận như chính mình ông. Với trái tim ấy, ông đã mở đường đi đến sự sống đời đời.

Chúa Giêsu dạy tôi bắt chước người xứ Samaria nhân hậu. Hãy lên đường với trái tim. Hãy lắng nghe với trái tim. Hãy hành động với trái tim. Hãy đi trên đường của trái tim. Hãy để trái tim tham dự vào mọi lời nói, mọi cử chỉ, mọi suy nghĩ. Hãy mang theo trái tim theo trên khắp mọi nẻo đường. Con đường đi với trái tim chính là con đường dẫn đến sự sống đời đời.

Lạy Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng, xin uốn lòng con nên giống Trái Tim Chúa. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1- Theo ý bạn đâu là những dấu hiệu cho thấy một tình yêu đích thực và đáng tin?

2- Mỗi khi gặp một người cần giúp đỡ, bạn có hăng hái ra tay giúp ngay hay còn chần chờ, viện lý do để thoái thác?

3- Sau khi nghe dụ ngôn “Người xứ Samaria nhân hậu”, bạn có quyết tâm gì?

4- Mang theo trái tim nghĩa là gì?

 

 

 

 

 

10. Yêu rồi làm – Thiên Phúc

(Trích dẫn từ ‘Như Thầy Đã Yêu’)

 

Một vị ẩn sĩ sống trong một khu rừng luôn bị một cô gái chơi đến cám dỗ. Ngạc nhiên trước sự thanh thản của vị tu hành, nhưng đồng thời cũng nghi ngờ sự bất bình thường của người đàn ông, cô liền hỏi một câu chế nhạo:

– Thầy không biết yêu sao?

Vị ẩn sĩ trả lời:

– Chưa đến giờ đó thôi?

Câu chuyện bỏ lửng tại đó. Một lần kia, trong lúc đi khất thực, vị tu hành phát hiện người con gái hay đến phá phách mình đó bị bọn cướp trấn lột và đánh cho thừa sống thiếu chết bên lề đường. Ông bèn dừng chân lại săn sóc cô ta, chữa các vết thương và đưa cô về thành phố điều trị

Cô gái sững sờ nhìn vị ân nhân mà chưa biết mở lời ra sao, thì vị ẩn sĩ mỉm cười nói:

– Đã đến giờ rồi đấy, giờ của lòng thương xót!

***

Người thông luật trong bài Tin mừng hôm nay hỏi Chúa Giêsu: “Ai là người thân cận của tôi?” Thay vì trả lời, Chúa Giêsu đã kể dụ ngôn người Samaria tốt lành: Một khách bộ hành đi từ Giêrusalem xuống Giêricô, bị bọn cướp đánh nhừ tử, trấn lột, rồi bỏ nằm nửa sống nửa chết bên lề đường. Trong khi hai thầy tư tế và Lêvi “tránh qua bên kia mà đi”, thì người Samaria ngoại đạo lại dừng chân, băng bó vết thương, đem nạn nhân về nhà trọ săn sóc.

Chúa Giêsu hỏi lại người thông luật: “Vậy ai là người thân cận của kẻ bị cướp?” Hỏi tức là trả lời. Và người thông luật đáp: “Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót”. Chúa Giêsu bảo: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy.

Vị ẩn sĩ trong câu chuyện trên đây và người Samaria nhân hậu đã sống luật yêu thương một cách tuyệt vời, đó là “yêu bằng việc làm”. Yêu không chỉ trên đầu môi chót lưỡi, rồi phủi tay không làm gì cả, mà yêu chính là “miệng nói tay làm”, làm thực sự với hết khả năng của mình. Những việc làm cụ thể thường hùng hồn hơn những lời nói suông. Con đường dài nhất là con đường từ trái tim đến đôi tay. Chúa Giêsu muốn chúng ta đi hết con đường đó: “Hãy đi và làm như vậy”. Pascal đã nói: “Khuyết tật lớn nhất của một người là phục vụ quá ít cho những kẻ họ yêu thương”.

Sở dĩ người ta không dám làm một cái gì đó cho những người anh em, là vì họ không có can đảm vượt qua nỗi sợ.

Sở dĩ thầy tư tế và thầy Lêvi “tránh qua bên kia mà đi” là vì các thầy sợ ô uế khi đụng vào xác chết, sợ bọn cướp còn ẩn nấp đâu đây, sợ rắc rối phiền hà đến bản thân.

Sở dĩ chúng ta không dám làm một cái gì đó cho người anh em khi họ cần giúp đỡ, là vì chúng ta sợ phải thiệt thòi, sợ tốn công sức, sợ mất thời gian, sợ phải trả giá, sợ đụng đến sự an toàn, tiện nghi của mình. Chúng ta muốn được yên thân! Thầy tư tế và thầy Lêvi đã tự hỏi: “Điều gì sẽ xảy ra cho tôi, nếu tôi dừng lại và săn sóc người anh em bị đánh nhừ tử?” Trái lại, người Samaria đã đảo ngược câu hỏi: “Điều gì sẽ xảy ra cho người anh em bị đánh nhừ tử, nếu tôi không dừng lại và chăm sóc người ấy?” Người Samaria tốt lành đã xả thân vào một hành động vị tha đầy nguy hiểm.

Yêu thương không phải là cho đi một cái gì, nhưng là cho đi chính bản thân. Yêu thương là hy sinh, là quên mình, là hiến thân phục vụ tha nhân: Kahil Gibram có một câu nói chí tình: “Bạn cho đi quá ít khi chỉ cho đi của cải. Chỉ khi nào cho đi chính mình, bạn mới thực sự cho đi”. Càng đi tìm bản thân, con người càng đánh mất chính mình. Càng co cụm trong vỏ ốc ích kỷ của mình, con người càng chết dần mòn trong nỗi cô đơn. Càng muốn được yên thân, con người càng vong thân.

Nỗi khát khao hạnh phúc của con người chỉ có thể được lấp đầy khi họ biết đến gần, cúi xuống phục vụ tha nhân.

Con người chỉ thành đạt thực sự, con người chỉ thực sự là người khi họ dám sống chết cho anh em.

Người tín hữu Kitô chỉ thực sự là con Chúa khi họ dám tiêu hao vì người khác. Mẹ Têrêxa Calcutta nói: “Kitô hữu là người trao ban chính bản thân mình”.

Yêu rồi làm. Khi đã yêu rồi chúng ta sẽ biết phải làm gì cho người anh em. Khi đã yêu rồi chúng ta sẽ có sáng kiến để xả thân vì mọi người, nhất là những người nghèo hèn đau khổ. Khi đã yêu rồi, chúng ta sẽ biết cách làm cho kẻ xa lạ nên người thân cận, kẻ thù địch nên người bạn tốt, chỉ cần chúng ta dám dừng lại, đến gần và cúi xuống trước anh em.

***

Lạy Chúa, cuộc sống đạo của chúng con sẽ trở nên phù phiếm nếu cái cốt lõi của đạo là yêu thương chỉ là điều phụ thuộc. Xin đừng để chúng con loay hoay với những tính toán ích kỷ; chai đá, dửng dưng trước những khổ đau của anh em. Nhưng xin dạy chúng con biết chạnh lòng xót thương và giúp đỡ những ai đang cần đến chúng con. Amen.

 

 

 

 

 

11. Yêu thương là quan tâm

 

Trong một gia đình có người con đi học xa nhà, bất chợt ngày kia trở về trong gương mặt méo xẹo. Trông thấy đứa con với bộ dạng như thế, người mẹ biết ngay là con mình đang bị “viêm màng túi”. Mặc dù, đứa con có thể chưa mở miệng xin nhưng vì tình thương của người mẹ biểu lộ qua sự quan tâm. Với sự quan tâm ấy, bà biết con mình đang cần điều gì. Và cho dù thiếu hụt cách mấy bà cũng phải ráng để đáp ứng lại nhu cầu cần thiết của con mình.

Dụ ngôn mà Chúa Giêsu minh họa cho người thông luật trong đoạn Tin mừng hôm nay cho thấy thầy tư tế và thầy lêvi vì thiếu sự quan tâm nên đã bỏ người bị cướp nằm dở sống dở chết giữa đường. Ngược lại, người Samaria lại là người có sự quan tâm đến người bị nạn này. Anh ta đã hết tình hết mình với người bị nạn này: “Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc. Hôm sau, ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói: Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác.” (Lc 10,34-35)

Điều đáng nói ở đây là người Samaria này chắc chắn chưa bao giờ được học biết về giới răn kính Chúa yêu người. Thế nhưng, chỉ vì xuất phát từ tình người với nhau mà anh đã thực thi sự quan tâm đến người bị nạn thật tuyệt vời.

Cuối đoạn Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói với người thông luật cũng là nói với mỗi người chúng ta: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy.” (Lc 10,37b). Chúa Giêsu muốn chúng ta hãy thực thi tinh thần của đức mến vượt trên tình người nữa. Bởi lẽ, đức mến là nhân đức đối thần, nhờ đó chúng ta yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự vì chính Ngài. Và vì yêu mến Thiên Chúa, chúng ta yêu mến người thân cận như chính mình. Vì thế, thực thi đức mến xuất phát từ lòng mến Chúa sẽ vừa có tình người và vừa sống đúng với giới răn của Chúa dạy.

Hằng ngày theo dõi trên các phương tiện truyền thông hay đi đây đi đó chúng ta sẽ thấy còn rất nhiều mãnh đời rất đáng thương. Trong bệnh hoạn tật nguyền mà có khi phải gánh bao nhiêu là nặng nề của đời sống gia đình. Đang khi đó có nhiều buổi tiệc, nhiều cuộc chơi thâu đêm suốt sáng của bao nhiêu đại gia giàu có tốn tiền như nước. Nếu như những người này biết tiết kiệm chút đỉnh để giúp đỡ những người có hoàn cảnh đáng thương rthì thật là đáng tuyên dương. Mỗi người chúng ta mỗi khi tiêu xài hãy nhớ đừng quá phung phí. Đó cũng là cách mà chúng ta đang quan tâm đến những anh chị em đang sống xung quanh đang có hoàn cảnh khó khăn.

 

 

 

 

 

12. Thực thi lòng thương xót – Lm. Anmai.

 

Con người, chẳng hiểu tự bao giờ mà cái máu của ích kỷ, của ghen tương, của thù hận nó xen vào. Ai cũng biết ích kỷ, ghen tương, không biết cảm thương ấy là không tốt nhưng rồi cũng chẳng hiểu sao người ta cứ để cho cái nồng độ của ích kỷ, của ghen tương tăng lên dần dần trong đời sống thường ngày.

Đời sống con người có lúc này lúc khác, lúc sung túc và lúc ngặt nghèo. Lúc sung túc người ta cũng chia sẻ nhưng hình như không bằng lúc người ta ngặt nghèo. Cuộc sống người ta dù có nghèo đi chăng nữa những khi gặp những người khó khăn hơn thì họ dễ chia sẻ hơn là khi người ta giàu có.

Tâm lý thường thì người ta chia sẻ cho những người thân cận, đồng vai đồng vế, đồng hàng đồng xóm với họ chứ ít bao giờ họ nghĩ đến chia sẻ cho những người xa lạ. Đi xa hơn một chút nữa, để chia sẻ cho những người mà ta tạm gọi họ là người không đồng tình đồng ý hay là người đối nghịch với ta thì càng khó hơn nữa.

Vì tâm lý thường là như vậy nên khi người ta chia sẻ với những người thân thuộc, đồng vai đồng vế thì họ cũng tự nhủ rằng họ làm như thế là tốt lắm rồi nhưng Chúa Giêsu mời gọi con người đi một bước xa hơn cái bước bình thường đó là thương những người không cùng lập trường với mình, những người đối lập với mình. Lời mời gọi ấy thật sự là khó. Lời mời gọi ấy được Thánh Luca ghi lại qua câu chuyện dụ ngôn Chúa Giêsu kể.

Chúa Giêsu là nhà giáo dục tài ba, Ngài hết sức tinh tế khi muốn dạy, muốn khuyên, muốn bảo những người nghe Ngài giảng dạy. Chuyện dụ ngôn là câu chuyện hết sức gần gụi và hết sức thực tế. Chuyện dụ ngôn không ám chỉ riêng tư một cá nhân, một tập thể nào cả nhưng chỉ nói chung chung. Với cách nói chung chung đó sẽ làm giảm đi phần nào đụng chạm, phần nào tự ái của người, của nhóm người được nói đến.

Dụ ngôn người Samaria nhân hậu này hết sức quen thuộc với mỗi người kitô hữu. Chúa Giêsu nói là một người kia chứ không nói người đó tên gì, nhà ở đâu. Người kia đó đi đường từ Giêrusalem xuống Giêricô đi công chuyện, đi đám cưới hay đi đám tiệc gì đó không rõ. Chuyện đáng tiếc là người này gặp cướp giữa đường. Chắc là đoạn đường Giêrusalem xuống Giêricô vắng vẻ lắm nên người khách mới ra nông nổi này. Giá như người này chết thì chẳng còn chuyện gì đển nói nhưng người này dở sống dở chết. Sống cũng chẳng ra sống mà chết cũng chẳng ra chết mới oan nghiệt. Giá mà chết thì khoẻ còn sống mà chẳng làm được gì, kêu cũng chẳng được mà la cũng chẳng xong.

Câu chuyện hết sức hấp dẫn ở cái chổ là có thầy tư tế đi ngang qua nhưng cũng bỏ đi luôn. Và rồi, đến một thầy Lêvi cũng đi ngang nhưng ông thầy này tiếp tục cái cảnh “nhắm mắt làm ngơ”. Hai ông thầy đi qua và rồi một người Samari cũng đi qua đó. Thế nhưng, điều hết sức kinh ngạc, hết sức tuyệt vời đó là người Samari này đã lấy rượu để rửa vết thương, năng bó vết thương. Khi bị tai nạn, được làm như thế quả là có phúc lắm rồi nhưng người này lại có phúc hơn nữa khi mà người Samari này còn cho lên lưng lừa và đem đến quán trọ. Không chỉ đưa đến quán trọ mà còn trao tiền cho chủ quán chăm sóc. Hơn điều mà mọi người nghĩ đó lại là còn hứa là sau khi đi công chuyện về ông sẽ thanh toán phần còn lại. Tuyệt vời, hết sức tuyệt vời nơi con người Samari này.

Câu chuyện đẹp không chỉ dừng ở chỗ này mà còn đẹp hơn, ý nghĩa hơn khi người Samari và người Do Thái ngày xưa kình địch nhau, không đội trời chung với nhau. Nét đẹp của người Samari là họ đã vượt qua cái ranh giới hận thù, chia rẽ của lòng người để toả lòng thương cảm đến người bị tai nạn.

Câu chuyện này cũng đáng lưu ý nơi hình ảnh của hai ông thầy là thầy tư tế và thầy Lêvi. Hẳn ông ta có ăn, có học hơn cái người Samaria kia nhưng lòng của ông ta đã khép lại trước con người bị tai nạn. Chúa Giêsu không hề đề cập đến bằng cấp, địa vị, thân thế sự nghiệp của người Samari, Chúa Giêsu chỉ đề cập đến tấm lòng nhân hậu của người Samari dành cho người bị nạn mà là người đó lại là người ở phe đối lập của mình.

Hình ảnh của người Samaria nhân hậu hết sức dễ thương. Làm sao ông có thể làm được cái điều mà người đời khó làm này? Chắc có lẽ trong đời thường của ông, ông đã cảm nhận được tình thương từ ơn trên dành cho đời của ông nên ông đã làm như thế với anh chị em đồng loại và anh chị em đồng loại ấy không phân biệt là kẻ ghét người thương.

Đáng trách chăng đó là hai ông thầy. Hai ông thầy được ăn được học nhất là được hòng về lòng thương xót của Thiên Chúa. Bài học về lòng thương xót ấy đã được mời gọi trong suốt dòng chảy của lịch sử cứu độ. Thiên Chúa mời gọi con người giản đơn ở cái chuyện mến Chúa và yêu người. Mệnh lệnh Chúa gửi đến cho con người có như vậy thôi.

Mệnh lệnh đó, chúng ta vừa nghe Thánh Phaolô nhắc qua thư của Ngài gửi tín hữu Côlôsê. Ngài mời gọi tín hữu Côlôsê cũng như mọi người chúng ta là khi chúng ta nghe tiếng Chúa thì chúng ta giữ những mệnh lệnh, những thánh chỉ của Ngài trong sách Luật. Ngài nhắc cho chúng ta mệnh lệnh ấy nó nằm trong lòng bàn tay của mọi người. Mệnh lệnh ấy gần và rất gần. Mệnh lệnh ấy ngay trong miệng, trong lòng của chúng ta và chúng ta hết sức dễ để đem ra thực hành.

Lời của Chúa Giêsu dạy trong dụ ngôn hết sức tế nhị. Chúa Giêsu không bắt người thông luật làm như mệnh lệnh của Chúa nhưng Chúa Giêsu mời gọi người thông luật thực thi điều mà chính ông đề ra: “Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy.” Chúa Giê-su bảo ông ta: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy.”

Trang Tin mừng này kết thúc một cách bỏ ngõ. Thánh Luca không hề viết thêm cho độc giả rằng người thông luật đó đã làm gì, đã sống như thế nào sau khi nghe lời của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu cũng đã mở ngõ cho nhà thông luật: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy”.

Ngày hôm nay, Chúa Giêsu cũng mở ngõ cho mỗi người chúng ta. Chắc chắn khi nghe dụ ngôn ấy xong và sau khi nghe Chúa Giêsu chất vấn chúng ta cũng sẽ trả lời như nhà thông luật đó là thực thi lòng thương xót với người ấy. Thế nhưng, nhìn vào thực tế của cuộc sống, hình như chúng ta khiếm khuyết lòng thương xót anh chị em đồng loại. Lý do khiếm khuyết đó là vì chúng ta đã không lắng đọng tâm hồn, lắng đọng cõi lòng của chúng ta. Nếu chúng ta lắng đọng tâm hồn, chúng ta để cho lòng chúng ta lắng xuống chúng ta sẽ thấy được chúng ta hạnh phúc và Chúa thương chúng ta nhiều. Khi và chỉ khi chúng ta nhìn thấy tận căn lòng Chúa thương xót thì chúng ta mới có thể thương xót anh chị em đồng loại chúng ta được.

Chúng ta vẫn bị những rào cản của vật chất, của quyền lợi để rồi chúng ta không thấy Chúa hiện diện trong cuộc đời của chúng ta. Chúng ta hãy xin với Chúa Giêsu ban cho chúng ta con mắt đức tin để chúng ta thấy lòng Chúa thương xót chúng ta để chúng ta có thể thương xót anh chị em đồng loại như lòng Chúa mong muốn.

 

 

 

 

 

13. Luật yêu thương – Lm. Giuse Trần Việt Hùng

 

Người ta kể rằng ngày kia Chúa Giêsu đóng vai bác hành khất đi ăn xin. Chiều đến, Ngài rảo qua các biệt thự xin trọ qua đêm. Kẻ thì bảo vào chuồng ngựa mà ngủ, kẻ nói xuống vựa lúa, kẻ khác bảo chui vào gầm cầu thang… Nhưng xem ra bác hành khất không muốn nhận những tấm lòng tốt đó. Bác ra xóm lao động xin ở trọ. Bác được lối xóm tiếp đãi tử tế và cho ăn, ngủ chung nhà. Sáng sớm hôm sau thức dậy, bác ta biến đâu mất nhưng gia chủ thấy một bức thơ để lại, trong có ghi câu: “Các con là bạn thân của Đức Kitô.” Sau này mấy kẻ nhà giàu nghe biết rất lấy làm hổ thẹn.

Đức ái là yêu thương. Bác ái không ghen tương đố kỵ. Thiên Chúa đã phú bẩm trong lương tâm con người để biết phân biệt lành dữ, xấu tốt. Lương tâm cần được hướng dẫn và chỉ bảo hướng về đàng lành. Giống như một cây non cần được uốn nắn để mọc thẳng lên. Xưa Thiên Chúa đã chọn một dân riêng và ban lề luật cùng các huấn lệnh để hướng dẫn họ đi trong đường lối của Thiên Chúa. Sách Đệ Nhị Luật được ghi chép những điều Thiên Chúa truyền dạy, lời các tiên tri và những lề luật cần thiết để sống theo đường lối Chúa: “Miễn là anh em nghe tiếng Chúa, Thiên Chúa của anh em, mà giữ những mệnh lệnh và thánh chỉ Người, ghi trong sách Luật này, miễn là anh em trở về với Thiên Chúa, Thiên Chúa của anh em hết lòng hết dạ.” (Đnl 30,10). Lề Luật vừa hướng dẫn và vừa gìn giữ rào cản để mọi người khỏi rơi vào lầm lỗi. Sống theo mệnh lệnh và thánh chỉ của Chúa là sống theo Chúa.

Tất cả các lề luật đều quy về giới luật yêu thương. Luật yêu thương là căn cốt của tất cả cuộc sống. Sống để yêu và yêu để sống. Luật đó đã được in ghi sâu tận tâm can của mọi loài thụ tạo. Luật ở tại tâm: “Thật vậy, lời đó ở rất gần anh em, ngay trong miệng, trong lòng anh em, để anh em đem ra thực hành.” (Đnl 30,14). Chúng ta không phải tìm kiếm đâu xa, tâm yêu thương ở sẵn trong lòng ta. Hạt giống yêu thương đã được Thiên Chúa gieo trong lòng mỗi người. Chúng ta có bổn phận tưới gội, chăm sóc và làm cho hạt giống sinh xôi nảy nở. Trái tim yêu thương cần mở rộng để cho đi và đón nhận. Yêu như dòng nước luôn chảy, có ra có vào và có lên có xuống. Tình yêu như dòng nước nếu bị đóng khung khép kín, tình yêu sẽ cô đơn, lẻ loi và giá lạnh.

Thánh Gioan đã tuyên xưng: “Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa vì Thiên Chúa là Tình Yêu.” (1 Ga 4,8). Vì muốn chia sẻ tình yêu, Thiên Chúa tạo dựng mọi kỳ công trong vũ trụ. Mọi vật và mọi loài được hiện hữu trong tình yêu của Thiên Chúa. Dấu ấn tình yêu được lan tỏa khắp cùng vũ trụ. Thiên Chúa đã quan phòng mọi sự theo thánh ý. Tình yêu có những cách thể hiện khác nhau giữa muôn loài. Cảm súc tình yêu được bày tỏ qua sự sống. Từ những loài có sự sống đơn sơ đến phức tạp đều được ngụp lặn trong biển tình của Thiên Chúa. Sống để yêu và được yêu. Kinh Thánh đã nói 686 lần về tình yêu ‘Love, loved, loving, loves, lover’, yêu Chúa và yêu người.

Truyện kể có một con chó, tên là Capitan, đã nằm ngồi bên mộ của chủ suốt quãng thời gian 6 năm. Ông Miguel Guzman đã nhận nuôi con chó như món quà cho đứa con trai trẻ vào năm 2005. Năm 2006 ông bất ngờ chết và đã được chôn cất tại nghĩa trang Villa Carlos Paz, trung tâm Argentina. Sau khi chôn táng ông xong, con chó Capitan đã ra khỏi nhà và tìm đến nghĩa trang nơi chôn cất ông. Con chó luẩn quẩn và quỳ bên mộ ông. Mỗi ngày, cứ đúng 6 giờ chiều, nó nằm xuống trên mộ suốt đêm trong vòng 6 năm trời. Chúng ta không thể hiếu thấu cái gì đã đang xảy ra trong tâm ở thế giới động vật. Tình cảm, tình yêu, cảm xúc hay một sự thần giao cách cảm nào đó.

Nhà Khoa học đã nghiên cứu 14 cặp khỉ Rhesus Macaque tại Trung Hoa. Đã học biết rằng con khỉ mẹ và các khỉ con cũng bày tỏ sự trìu mến yêu thương. Những con khỉ mẹ và khỉ con nhìn nhau với ánh mắt thân thương. Khỉ mẹ cúi xuống mơn trớn và hôn các khỉ con trên mặt, trên môi và khỉ con cũng hôn trả lại. Các con khỉ cùng chia sẻ thực phẩm và săn sóc nâng đỡ nhau giống như xã hội con người. Khỉ mẹ thường ôm con vào lòng và bảo vệ con một cách rất âu yếm. Các con khỉ cũng sống thành bày, thành đàn và yêu thương hỗ trợ nhau. Khi một con bị thương hay ốm yêu bệnh tật, các con khỉ khác cũng lo lắng chăm sóc. Qua khuôn mặt và cách biểu tỏ cảm tình, chúng ta nhận biết loài vật cũng có một mức độ yêu thương mà Tạo Hoá đã phú bẩm.

Chúng ta cũng có thể quan sát gà mẹ dẫn đàn gà con đi tìm mồi. Mẹ dẫn con ra vườn và lấy sức mình dùng đôi chân giãi đất tìm mồi, rồi cục cục gọi các gà con đến ăn mồi. Khi nghe biết có quạ đen, diều hâu hay bất cứ sự nguy hiểm nào, gà mẹ dáo giác giang cánh ra để ấp ủ con dưới cánh. Tuy cuộc sống gà vịt rất đơn sơ nhưng cũng nói lên tình liên đới bảo vệ và chia sẻ yêu thương. Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh gà mẹ ấp ủ con để nói lên tình yêu của Thiên Chúa với loài người: “Đã bao lần Ta muốn tập họp con cái người lại, như gà mẹ tập họp gà con dưới cánh, mà các người không chịu.” (Mt 23,37).

Anh em chớ mắc nợ nhau điều gì, ngoài ra tình thương mến. Câu truyện trong bài Phúc Âm hôm nay nói về một người lữ hành bị tai nạn cướp bóc và bị đánh đập dọc đường. Có thầy tư tế và trợ tế đi ngang qua và thấy nạn nhân nhưng không mở lòng giúp đỡ. Một người xứ Samaria đi qua, động lòng thương và giúp đỡ nạn nhân bằng mọi cách. Người Samaria, tuy là ngoại đạo, nhưng đã biết tỏ lòng thương xót. Ông đã thực hành giới răn yêu thương bằng chính hành động của mình. Chúa Giêsu đã khuyến khích các thầy thông luật, các môn đệ và cả chúng ta nữa: Đức Giêsu bảo ông ta: “Ông hãy đi và cũng hãy làm như vậy.” (Lc 10,37). Nói về giới luật yêu thương thì dễ, ai cũng có thể suy niệm, phát biểu và truyền rao nhưng để đưa vào áp dụng trong cuộc sống hằng ngày thì không đơn giản. Chúng ta cần thấm nhuần tinh thần bác ái và quảng đại dấn thân. Đạo của Chúa là đạo yêu thương. Không chỉ yêu bằng lời nhưng bằng hành động.

Chúa Giêsu đã nêu gương bằng tình yêu thập giá. Chúa đã cho và cho tất cả. Chúa Kitô là hiện thân của Thiên Chúa Cha: “Chúa Giêsu Kitô là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo.” (Cl 1,15). Tình yêu Chúa cao vời, làm sao chúng ta có thể đáp đền cho cân xứng. Thiên Chúa Cha yêu thương chúng ta đến nỗi đã ban Con Một Yêu Dấu, chịu khổ hình và chết để chuộc tội chúng ta. Chúa Con đã hiến thân trên thập giá và đã đổ tới giọt máu cuối cùng để cứu độ. Chúa Thánh Thần là ngọn lửa yêu mến khơi dậy lòng yêu thương trong tâm hồn chúng ta. Mọi sự bắt đầu với tình yêu và sẽ kết thúc trong tình yêu: “Vì Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người.” (Cl 1,19).

Lạy Chúa, Chúa yêu thương chúng con. Tình yêu Chúa lan toả khắp cùng thế giới. Vũ trụ muôn loài đều mang dấu ấn tình yêu của Chúa. Xin cho nguồn tình yêu tuôn chảy trong tâm hồn chúng con, để chúng con luôn biết yêu và được yêu. Yêu Chúa và yêu tha nhân như chính mình.

 

 

 

 

 

14. Hãy yêu thương thì sẽ được sống – André Sève

(Trích dẫn từ ‘Tin Mừng Chúa Nhật’)

 

Rõ ràng là từ yêu thương được nói đến nhiều ở đây. Nhưng chúng ta hãy cho hai từ khác đi kèm vì nếu không có hai từ này, từ yêu thương sẽ không đứng vững nổi: làm và sống.

Đàng khác, mở đầu câu chuyện diễn ra rất nhanh:

– Tôi phải làm gì để được sống? Luật sĩ hỏi.

- Hãy yêu thương, Chúa Giêsu nói, cứ làm như thế ngươi sẽ được sống

Vào lúc kết thúc, sau câu chuyện đẹp về tình yêu thương, tiếng nói chiến thắng chính là: cứ làm như thế. Để chiến thắng, Chúa Giêsu đã huy động hai nét của khoa sư phạm: cuộc đối thoại đanh thép và câu chuyện không thể quên được.

Cho nên phải làm gì để được sống? Yêu mến Chúa và anh em. Đây là hai tình yêu thương liên kết chặt chẽ với nhau đến nỗi người ta không nói về giới răn thứ nhất và thứ hai. Chúa Giêsu công nhận lời mô tả ngắn ngủi của luật sĩ: “Ngươi hãy yêu mến Chúa và thương yêu anh em”. Đây cũng là một dòng chảy tình yêu. Chắc chắn cần phải dựa vào mối liên kết giữa hai tình yêu bởi vì trong một trong những bản văn cuối cùng của Tân Ước, thánh Gioan vẫn còn lấy lại ý tưởng: “Nếu ai thấy anh em mình cần đến của cải phải giúp đỡ mà đóng cửa lòng mình lại, có lý nào đức ái Thiên Chúa ở cùng người ấy được” (1Ga 3,17). Đây là lời khuyên cho những kẻ tin rằng với chút ít lòng thương xót người ta có thể tự cho phép mình ích kỷ hoặc có tính xấu.

Chúng ta hãy xem xét khẳng định của Chúa Giêsu: Hãy yêu thương thì ngươi sẽ được sống. Đẳng thức yêu thương bằng được sống đối với chúng ta có hoàn toàn rõ ràng hay không? Nếu có, chúng ta hãy cảm tạ Chúa, giòng máu Tin Mừng đang chảy trong huyết quản của chúng ta. Nhưng đây là điều phải kiểm chứng.

Khi Chúa Giêsu nói đến yêu thương ở đây, đây không phải là một trong những niềm đam mê, tình yêu hoặc tình bạn, là những thứ đưa chúng ta lên chín tầng mây, mà là tình yêu thương anh em rất có tính cách bó buộc, cụ thể. “Phải làm điều đó!”. Và đây không luôn luôn là điều làm thích thú.

Trên đường Giêricô, thầy tư tế và thầy Lêvi không tích cực làm việc thiện! Thậm chí nghĩ rằng người kia đã chết, họ sợ bị ô uế “theo tập tục” (theo những luật lệ Do Thái giáo), điều mà Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh chính là việc họ thiếu nhiệt tình cứu giúp một kẻ nào đó. Hai người kia dường như không xác tín rằng “yêu thương là được sống”.

Tuy vậy chỉ cần so sánh họ với người Samari hay thương người để thấy đâu là sức sống! Không phải nơi những bản chất nhỏ nhặt này mà một điều không là gì cả làm rầy hay làm hoảng sợ. Than ôi người ta thấy những Kitô hữu khá bị sự khôn ngoan ích kỷ này cám dỗ, với cái giá phải trả là một cuộc sống được sống nhỏ giọt.

Người Samari đã chọn một cuộc sống hao tổn và nồng nhiệt. Trong khi thấy người đàn ông nằm đó, ông có lẽ đã cảm thấy cần phải đi qua cho nhanh, nhưng sức mạnh của cuộc sống của ông chiến thắng những vấn nạn đang đến với ông, Chúa Giêsu nói: ông động lòng thương và ông làm mọi sự cần thiết. Ông không quên gì cả, cho mà không tính toán. Không chờ đợi một lời cảm ơn nào và có lẽ vừa đi vừa hát lâm râm, hạnh phúc vì đã làm một người sẵn sàng phục vụ con người. Hai người kia sẽ tiếp tục sống lay lắt. Còn người Samari, ông đang sống triệt để. Chúa Giêsu nói: “Hãy yêu thương thì ngươi sẽ được sống”.

 

 

 

 

 

15. Ai là anh em của tôi? – Veritas

(Trích dẫn từ ‘Hãy Ra Khơi’)

 

Sáng nay, khi đọc đoạn Phúc âm mà chúng ta vừa chia sẻ với nhau trong thánh lễ này, tôi đã nghĩ đến ngay bài tập viết đầu tiên mà tôi đã phải cố gắng vẽ ngoằn ngoèo trên trang tập đầu tiên mới mua về. Đó là ngày tôi được thầy cho lên lớp bắt đầu tập viết những chữ a, b, c… Trưa về nhà khoe với mẹ, đúng ngay lúc cha tôi đang ngồi tiếp chuyện với một ông cụ nhà nho quen biết trong làng.

Nghe tôi khoe, cha tôi cầm lấy cuốn tập, mấy trang đầu đã đề những chữ a, b, c, rồi nói với ông cụ ngồi đối diện: Xin cụ viết giùm vào trong trang thứ hai này bốn chữ “Kính Chúa Yêu Người”. Cụ nhà nho viết xong, cha tôi đưa sang cho tôi đang đứng bên cạnh và nói: “Đây, con đến ngồi trên ghế cạnh kia rồi đồ lại những chữ này”. Thật là khốn khổ cho tôi lúc đó mới học viết được ba chữ a, b, c, mà bây giờ cha tôi lại bắt viết trọn cả bốn chữ “Kính Chúa Yêu Người”.

Tôi còn nhớ rõ hình ảnh những chữ mà tôi cố gắng vẽ theo mà không hiểu gì cả, chỉ biết rằng đây là bốn chữ nói “Kính Chúa Yêu Người”. Biết được bằng lỗ tai, nghe qua miệng cha tôi nói, chứ lúc đó làm gì mà tôi đã đọc được bốn chữ “Kính chúa Yêu Người”. Và biến cố đã in sâu vào tâm trí tôi, đến nỗi mỗi lần nhớ đến cha tôi là mỗi lần tôi nhớ đến bài học đầu tiên này và cũng là bài học mà giờ đây tôi hiểu là cần phải học mãi suốt đời cũng chưa xong: “Kính Chúa Yêu Người”. Nhìn vào những chữ ngoằn ngoèo mà tôi đã phải viết ra hay nói đúng hơn phải đồ lại cho đầy trang giấy rồi mới được đi chơi, và có thể đây là hình phạt cho tật hay khoe của tôi lúc đó. Cha tôi mỉm cười bảo: “Con phải làm sao để sống được bốn chữ này cho đến chết mới thôi”.

Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và nhà thông luật hôm nay phần nào cũng có thể được ta hiểu theo viễn tượng của kinh nghiệm nhỏ của tuổi thơ tôi ngày xưa. Người luật sĩ đến với Chúa Giêsu để tìm câu trả lời cho thắc mắc quan trọng nhất của cuộc đời: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sống đời đời?”. Và đây cũng là thắc mắc của mọi người, không ai có thể dập tắt được câu hỏi này trong tâm hồn họ. Tạm thời, họ có thể dẹp qua một bên câu hỏi này, vì những lo toan cho cuộc sống hoặc vì những mê lợi của lợi danh, của quyền lực… Nhưng rồi vào lúc nào đó con người và mỗi người chúng ta cũng sẽ phải đặt ra cho mình câu hỏi này: “Tôi sống đây để làm gì? Và tôi phải làm gì để được sống đời đời?”.

Bản tính con người là như vậy, không thể nào chối bỏ được khát vọng hướng về trời cao, đó là khát vọng căn bản sâu xa nhất của con người, của mọi người chúng ta. Chúa Giêsu đã gợi ý cho nhà thông thái trả lời đúng như Kinh Thánh dạy, mà nội dung theo tôi nghĩ không khác xa gì bốn chữ tôi đã học được từ cha tôi ngay từ khi mới bắt đầu đi học: “Kính Chúa Yêu Người”.

Đây không phải là vấn đề về hiểu biết, một người nông dân bình thường không biết chữ như cha tôi cũng biết tóm gọn luật Chúa trong bốn chữ “Kính Chúa Yêu Người” để truyền lại cho tôi. Vấn đề là nơi thực hành là phải biến đổi tâm hồn của chính mình để nhìn nhận mọi người là anh chị em của mình.

Chúa Giêsu đã phải dùng dụ ngôn người Samaritanô nhân lành để soi sáng cho nhà thông thái, để rồi rốt cuộc như thể chính ông cũng khám phá ra được chân lý. Chúa Giêsu không đặt vấn đề như nhà thông thái: “Ai là người thân cận của tôi”, mà Ngài đã đặt lại vấn đề: “Ai đã trở nên người thân cận của người anh em bị nạn kia”, và nhà thông thái đã trả lời đúng: “Thưa là kẻ đã tỏ ra lòng thương đối với người đó”.

Tâm hồn cần có tình thương, nhất là cần được đầy tràn tình thương của Chúa thì mới dễ dàng trở thành tâm hồn thân cận của mọi người, trở thành người anh chị em của mọi người, bất luận người đó là ai. Không phải dễ thực hiện sáu chữ của Chúa Giêsu cho nhà thông thái: “Hãy đi và làm như vậy”.

Chúa Giêsu cũng nói với mỗi người chúng ta hôm nay, chúng con, những đồ đệ của Ta. Chúng con phải có tâm hồn đã biến đổi bởi tình yêu Chúa, để rồi có thể trở thành người anh chị em của mọi người mà thực hiện trọn vẹn giới răn: “Kính Chúa Yêu Người”.

Cử hành Bí tích Thánh Thể, nhất là được thông phần vào Mình và Máu Thánh Chúa, được chia sẻ chính sự sống của Chúa, người Kitô có được sức mạnh mới để thực hiện tình thương trong cuộc sống của mình, trong bất cứ môi trường sinh sống nào.

Chúng ta đây, chúng ta có biết quí trọng việc cử hành Bí tích Thánh Thể trong đời sống chúng ta không? Chúng ta có năng đến với Chúa trong Bí tích Thánh Thể để múc lấy sức mạnh sống tình thương đối với anh chị em hay không? Không đến với Chúa, chúng ta cũng khó đến với anh chị em xung quanh. Xin Chúa thương nhắc nhở chúng ta, củng cố lòng mến nơi chúng ta và nhất là củng cố đức tin nơi mỗi người chúng ta, đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh tin kính.

 

 

 

 

 

16. Ai là người thân cận

(Trích dẫn từ ‘Manna’)

 

Suy Niệm

Bài Tin Mừng hôm nay có bốn động từ làm.

Tôi phải làm gì để được sự sống đời đời (c.25)? – Cứ làm như vậy, ông sẽ được sống (c.28). – Kẻ đã thực thi (làm) lòng thương xót… (c.37). – Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy (c.37).

Tình yêu đòi thể hiện bằng việc làm cụ thể.

Người Samari đã chạnh lòng thương trước nạn nhân, nhưng anh không dừng lại ở tình cảm suông. Anh đã thể hiện lòng thương xót qua hành động.

Từ trái tim đến đôi tay là một con đường dài.

Mẹ Têrêsa Calcutta đề nghị mỗi tối trước khi đi ngủ, ta chỉ cần xét mình nhờ nhìn vào hai bàn tay. Hôm nay tôi đã làm gì cho Giêsu và với Giêsu?

Yêu bằng hành động đòi ta nhiều can đảm.

Người Samari phải vượt qua những nỗi sợ tự nhiên. Sợ bị nhơ uế bởi đụng vào xác chết. Sợ bọn cướp còn quanh quẩn đâu đây. Sợ cuộc hành trình bị chậm trễ. Sợ những phiền luỵ phức tạp cho mình. Những nỗi sợ rất khôn ngoan và hợp lý.

Nỗi sợ khiến người ta tránh qua bên kia mà đi, khi nỗi sợ ấy lớn hơn lòng thương người bị nạn.

Chỉ ai thắng được nỗi sợ mới dám ngừng lại, đến gần và cúi xuống. Chỉ ai không sợ mới thấy thực sự.

Thầy tư tế và thầy Lêvi đều thấy nạn nhân. Nhưng nỗi sợ đã khiến họ nhắm mắt làm ngơ và biến họ trở thành người không thấy.

Người không thấy điều đã thấy thì chẳng thể nào là người thân cận.

Người Samari dám đến gần, gần hơn qua cử chỉ săn sóc, và anh đã trở nên người thân cận của kẻ bị nạn.

“Ai là người thân cận của tôi?”

Đó là người đồng bào, đồng đạo, thuộc dân Thiên Chúa. Người Do Thái thời Đức Giêsu dễ trả lời như thế.

Ở cuối dụ ngôn, Đức Giêsu đã lật ngược câu hỏi trên:

“Ai là người thân cận của kẻ bị cướp?”

Chỉ cần đổi lối đặt câu hỏi, tất cả cánh cửa như mở tung, mọi hàng rào bị phá đổ.

Tôi không chỉ phục vụ cho người thân cận của tôi.

Khi tôi đến gần ai mà phục vụ thì tôi trở thành người thân cận với kẻ ấy, và kẻ ấy trở thành người thân cận với tôi. Như thế ai cũng có thể thành người thân cận của tôi, miễn là tôi dám yêu họ như chính mình.

Người Samari bị dân Do Thái khinh miệt, nhưng họ có thể sống luật yêu thương cách tuyệt vời.

Hôm nay vẫn có các Kitô hữu đi dự lễ về, nhưng sống xa lạ với đức ái Kitô giáo.

Ước gì chúng ta đơn sơ và hồn nhiên hơn khi yêu.

Gợi Ý Chia Sẻ

Theo ý bạn, đâu là những dấu hiện cho thấy một tình yêu đích thực và đáng tin?

“Yêu người thân cận như chính mình.” Yêu chính mình là một điều quan trọng. Theo ý bạn, một người yêu chính mình một cách đúng đắn là người như thế nào? Đâu là những tội phạm đến chính mình?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa, lúc đầu chúng con chỉ muốn cầm tay nhau để làm thành một vòng tròn khép kín.

Sau đó chúng con hiểu rằng cần phải buông tay nhau để nhận những người bạn mới, để vòng tròn được mở rộng đến vô cùng và trái tim được lớn lên mãi.

Lạy Chúa, chúng con biết rằng cần phải nối vòng tay lớn xuyên qua các đại dương và lục địa.

vòng tay người nối với người,

vòng tay con người nối với Tạo Hoá.

Chúng con thích Chúa đứng chung một vòng tròn với tất cả loài người chúng con, nắm lấy tay chúng con và đưa chúng con lên cao.

Ước gì việc Chúa giang tay trên thập giá giúp chúng con biết cầm lấy tay nhau và nhận nhau là anh em.

 

 

 

 

 

17. Hãy đi và làm như vậy

(Trích dẫn từ ‘Manna’)

 

Suy Niệm

Tôi phải làm gì để được sự sống đời đời?

Phải yêu, yêu hết mình, yêu Thiên Chúa và yêu người thân cận.

Đức Giêsu khen câu trả lời của người luật sĩ và bảo: “Hãy làm như vậy và ông sẽ có sự sống.”

Để có sự sống, cần phải yêu, nghĩa là ra khỏi mình và trao hiến.

Ai không yêu là huỷ hoại chính mình và người khác.

Con người được dựng nên bởi Đấng là Tình Yêu, được khuôn đúc theo hình ảnh của Tình Yêu đó, nên con người hướng về Tình Yêu như hoa hướng dương quay về phía mặt trời.

Con người chỉ thật là mình khi biết yêu thương.

Hãy yêu người thân cận như chính mình.

Nhưng ai là người thân cận của tôi? Đức Giêsu giúp ta tìm thấy câu trả lời bất ngờ qua dụ ngôn người Samari nhân hậu.

Người thân cận của tôi là mọi người đang cần đến tôi, là người hôm nay tình cờ tôi gặp trên đường.

Người thân cận là người gần tôi vì tôi đã đến gần người ấy, đã cúi xuống và phục vụ.

Không phải vì người đó là thân cận của tôi nên tôi đến gần mà phục vụ. Nhưng khi tôi đến gần bất cứ ai mà phục vụ, tôi biến mình thành người thân cận của họ.

Chẳng ai là người xa lạ với tôi, nếu tôi không tránh họ như hai thầy Lêvi và tư tế.

Người thân cận với tôi không chỉ là người cùng nhà, cùng nhóm, cùng tôn giáo, cùng quê hương, cùng lý tưởng.

Người thân cận với tôi không phải là một ý niệm trừu tượng nhưng là bà mẹ già gần bên, là người bạn chung phòng, là người hàng xóm mà tôi phải chịu đựng, là tất cả những ai đã và đang làm tôi đau khổ.

Tất cả đều có thể được tôi yêu thương và đều có thể trở nên người thân cận của tôi.

Tình yêu là một phép mầu, chỉ cần tôi dám bước tới, xích lại và cúi xuống là người lạ nên quen, người xa nên gần, kẻ thù nên bạn.

Những khoảng cách được lấp đầy, những rào chắn phút chốc sụp đổ.

Nhưng yêu không phải là chuyện dễ dù con người hôm nay cứ tưởng mình đã biết yêu.

Lúc nào cũng có cớ để người ta né tránh yêu thương. Thầy tư tế và Lêvi đều tránh qua một bên mà đi. Phải chăng họ sợ bị ô nhơ nếu đụng nhằm xác chết? Phải chăng họ sợ bọn cướp vẫn còn ở đâu đây? Những nỗi sợ làm người ta bỏ đi.

Chấp nhận là đến gần và cúi xuống là chấp nhận liều lĩnh và trả giá. Cuộc hành trình bị chậm lại, chương trình phải thay đổi. Tiền bạc, thời giờ, công sức là những điều phải trao đi. Tất cả chỉ vì chạnh lòng thương, vì con tim biết nhói đau trước nỗi khổ của người khác.

Tình yêu thực sự bao giờ cũng cụ thể: chấp nhận cả tay và người bị dơ bẩn lấm lem, chấp nhận gặp rắc rối, xáo trộn và nguy hiểm, vì Tình Yêu đòi hiến trọn con người.

Chúng ta cần thành thật nhận mình chưa biết yêu, vì yêu như thế thì vượt quá sức con người. Cần đón lấy nguồn Tình Yêu Thiên Chúa đổ vào tim ta (Rm 5,5) để tim ta trở nên mênh mông và quảng đại, để ta thi hành được điều Chúa nói:

“Ông hãy đi và cũng hãy làm như vậy.”

Gợi Ý Chia Sẻ

Muốn có sự sống đời đời, cần phải yêu, nghĩa là mở ra trước Thiên Chúa và tha nhân. Bạn có nghĩ rằng muốn có sự sống ở đời này, cũng cần phải yêu không? Ai không yêu, người ấy đã chết ngay khi còn sống, bạn có cảm nghiệm được điều đó không?

Thế giới còn quá nhiều người lây lất, nửa sống nửa chết. Thế giới vẫn cần những người Samari dám ngừng lại và cúi xuống. Có lần nào trong đời bạn là người Samari không?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa, lúc đầu chúng con chỉ muốn cầm tay nhau để làm thành một vòng tròn khép kín. Sau đó chúng con hiểu rằng cần phải buông tay nhau để nhận những người bạn mới, để vòng tròn được mở rộng đến vô cùng và trái tim được lớn lên mãi.

Lạy Chúa, chúng con biết rằng cần phải nối vòng tay lớn xuyên qua các đại dương và lục địa.

vòng tay người nối với người,

vòng tay con người nối với Tạo Hoá.

Chúng con thích Chúa đứng chung một vòng tròn với tất cả loài người chúng con, nắm lấy tay chúng con và đưa chúng con lên cao.

Ước gì việc Chúa giang tay trên thập giá giúp chúng con biết cầm lấy tay nhau và nhận nhau là anh em.

 

 

 

 

 

18. Phục vụ nâng cao giá trị con người

(Trích dẫn từ ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm. Ignatiô Trần Ngà)

 

Trước mắt người Do Thái thì dân Samari thật đáng khinh miệt. Họ bị xem là người lai căng vì đã kết hôn với ngoại kiều, làm vẩn đục dòng máu tinh tuyền của tổ tiên Do Thái. Họ bị khinh miệt vì đã tôn thờ các tà thần ngoại lai. Thế nên người Do Thái xem người Samari như những người hạ cấp đáng bị tẩy chay.

Thế nhưng hình ảnh của người Samari trong Tin Mừng hôm nay lại đẹp tuyệt vời. Giá trị của người đó gia tăng thật cao. Nhờ đâu được như vậy. Chúng ta hãy theo dõi câu chuyện do Chúa Giêsu thuật lại như sau:

Tại một khúc đường vắng từ Giêrusalem đến Giêricô có một khách bộ hành bị bọn cướp xông ra trấn lột hết tiền bạc của cải, lại còn đánh người ấy trọng thương nằm thoi thóp, nửa sống nửa chết giữa quảng đường hoang vắng.

Thế rồi, một tia hy vọng loé lên trong đầu óc nạn nhân khi anh ta thoáng thấy có một khách bộ hành đang từ xa đi tới. Khi người bộ hành gần đến, niềm hy vọng càng dâng cao vì đây là một vị tư tế, chắc chắn ngài sẽ đoái thương cứu chữa anh. Nhưng rồi vị tư tế cố tình rảo bước cho nhanh, lánh qua một bên rồi đi thẳng, để mặc anh nằm thoi thóp giữa đường. Một lát sau, có một thầy trợ tế đi qua, niềm hy vọng của nạn nhân lại được bùng lên nhưng rồi vụt tắt, vì thầy trợ tế chỉ đảo mắt nhìn nạn nhân rên siết, rồi cũng vội vàng rảo bước cho nhanh. Có lẽ ông ta sợ rằng bọn cướp còn ẩn náu đâu đây, sẽ trấn lột hết những gì ông ta mang trên mình và sẽ đánh đập ông nhừ tử như người khốn khổ kia…

Cuối cùng, có tiếng lừa lộp cộp từ xa vẳng lại. Người thứ ba xuất hiện, một người dân Samari. Ôi thôi! Chẳng hy vọng gì nơi hạng người nầy, hạng người xưa nay vẫn mang tiếng là lai căng và rối đạo! Thế nhưng thật bất ngờ, người Samari cho lừa dừng lại, bước xuống, cúi mình trên nạn nhân, cảm thương con người xấu số.

Có thể giờ nầy vợ con ông ta đang nóng lòng mong đợi ở nhà, có thể bọn cướp còn đang lai vãng đâu đây lại xông ra để cướp, để giết hại ông như chúng đã gây ra cho người xấu số, lại phải mất công, bỏ việc vì nạn nhân nầy… nhưng thôi, đành phó mặc… Thương người như thể thương thân, phải tìm cách cứu sống anh ta trước đã.

Thế là người Samari vội mở hành trang lấy cồn, lấy rượu rửa sạch vết thương, băng bó những vết thương còn rỉ máu, lấy dầu xoa bóp những nơi bầm tím, rồi vực nạn nhân lên lừa của mình, quay ngược đường trở về quán trọ.

Đến nơi, ông ta lo liệu cơm cháo thuốc men, săn sóc nạn nhân như cho người thân yêu của mình suốt đêm. Sáng hôm sau, vì công việc khẩn trương, ông phải vội lên đường. Nhưng trước khi ra đi, ông ta dốc hết túi tiền, trao cho chủ quán với lời căn dặn: “Xin ông vui lòng chăm sóc người nầy giùm tôi cho chu đáo, nếu còn tốn phí thêm bao nhiêu, khi trở về tôi sẽ hoàn lại cho ông”.

Thật là một hy sinh hết sức lớn lao! Một tấm gương hào hiệp và cao đẹp hiếm có. Nét đẹp đó vẫn được Giáo Hội truyền tụng suốt hai mươi thế kỷ qua và cho đến muôn đời. Sáng giá thay con người biết yêu thương, hy sinh và phục vụ!

Thế là đang khi danh giá người Samari lên cao tột đỉnh nhờ giàu lòng nhân ái thì danh giá vị tư tế và thầy Lê-vi bị tụt dốc thảm hại vì đã thiếu lòng thương xót, đã không hy sinh giúp đỡ nạn nhân trong cơn hoạn nạn, ngặt nghèo.

Phục vụ còn là điều kiện để được sống đời đời

Nhưng sự hy sinh phục vụ của người Samari không chỉ nâng cao giá trị của ông ta mà thôi, mà còn là một điều kiện tiên quyết giúp ông được sống đời đời.

Khi người thông luật hỏi Chúa Giêsu phải làm gì để được sống đời đời, Chúa Giêsu giúp ông ta khám phá ra câu đáp: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình.”

Chúa Giêsu không lý thuyết suông, Ngài cụ thể hoá quy luật mến Chúa yêu người bằng hành động nhân ái của người Samari trên đây với lời kết luận: “Ông hãy đi và làm như vậy”. Như thế, những ai muốn được sống đời đời thì hãy quên mình phục vụ như người Samari trên đây.

* * *

Quên mình phục vụ tha nhân, một việc làm với hai hiệu quả lớn: làm gia tăng đáng kể giá trị của mình và được hưởng sự sống đời đời.

Lạy Chúa, biết đến bao giờ con mới có thể trở thành một người Samari mới cho xã hội hôm nay! Biết bao giờ con mới dám hy sinh phục vụ để đạt được sự sống đời đời!

 

 

 

 

 

19. Ông hoàng hạnh phúc – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền

(Trích dẫn từ ‘Cùng Nhau Suy Niệm’)

 

Có một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: ở một thành phố nọ, có một Ông Hoàng sống một cuộc đời rất hạnh phúc. Vì thế khi ông chết, người ta đã làm một bức tượng của ông, đặt trên một cái bệ cao giữa thành phố và đặt tên là Ông Hoàng Hạnh Phúc, như là biểu tượng may mắn sẽ mang hạnh phúc đến cho mọi người dân trong thành.

Một buổi chiều đầu mùa đông, một con chim én đến đậu dưới chân pho tượng. Bỗng một giọt nước rơi xuống đầu nó. Nó nhìn lên và ngạc nhiên vì đó là giọt nước mắt của Ông Hoàng. Ông đang khóc. Những giọt nước mắt cứ lăn dài trên đôi má của ông. Chim én ngạc nhiên và hỏi rằng:

– Tại sao ông khóc? Ông là Ông Hoàng Hạnh Phúc kia mà!

– Ông hoàng trả lời: Từ khi đứng trên cao nhìn thấy cảnh sống của dân thành, ta đau lòng quá và không còn hạnh phúc nữa. Ta muốn đi giúp họ lắm, nhưng đôi chân ta bị chôn chặt ở cái bệ này nên không thể nào đi được. Bạn có thể giúp ta không?

– Không được, tôi phải bay đi cho kịp đàn đang bay về phương bắc.

– Hãy làm ơn giúp ta đêm nay đi.

– Chim én ngập ngừng giây lát rồi nói: Thôi được. Bây giờ ông muốn tôi làm gì?

– Trong một túp lều đàng kia có một người mẹ đang khóc vì con bà bị bệnh mà bà không có tiền gọi bác sĩ. Bạn hãy lấy viên ngọc ở chuôi kiếm của ta đem cho bà ấy.

– Chim én dùng mỏ lấy viên ngọc ra và bay đến cho bà mẹ nghèo. Nhờ có tiền, bà đã lo cho con bà khỏi bệnh.

– Hôm sau Ông Hoàng lại xin chim én nán lại một đêm nữa để mang viên ngọc khác đến cho một người nghèo khác. Rồi hôm sau nữa đến giúp một người nghèo khác nữa. Cứ thế hết ngày này đến ngày khác, con chim én lấy các thứ trang sức của Ông Hoàng đem cho người nghèo. Cuối cùng trên mình Ông Hoàng không còn gì quý giá nữa. Khi đó đã là giữa mùa đông, trời đã lạnh rất nhiều.

– Một buổi sáng, người ta thấy xác con chim én đã chết cóng dưới chân pho tượng Ông Hoàng trần trụi. Phía dưới thành phố, mọi người đều hạnh phúc. Họ có biết đâu hạnh phúc của họ là nhờ sự hy sinh của Ông Hoàng Hạnh Phúc và con chim én nhỏ bé kia.

Đôi khi trong cuộc sống chúng ta vẫn vô tâm như vậy. Nhiều người đã được sống hạnh phúc nhưng họ đâu biết rằng hạnh phúc của họ là nhờ sự chắt chiu từng hy sinh âm thầm của biết bao nhiêu người. Có thể đó là sự hy sinh không mệt mỏi của cha, của mẹ từng ngày vất vả trên nương đồng, hay trên công trường. Có thể đó là sự hy sinh nhịn nhục của những người thân chịu thiệt thòi để họ được hạnh phúc. Có thể đó là sự hy sinh nhường nhịn của bạn bè để họ được vui hơn trong cuộc sống. Thế mà, nhiều người vẫn tưởng rằng mình lớn lên không cần ai giúp đỡ. Lối suy nghĩ đó đã dẫn đến một đời sống ích kỷ, hẹp hòi, một lối sống dửng dưng đến xa lạ với đồng loại.

Thực vậy, ở trong cuộc đời này vẫn còn đó biết bao người chắt chiu từng hạt gạo, gom góp từng miếng vải để giúp kẻ cơ hàn. Cuộc đời vẫn còn đó biết bao người hy sinh cả cuộc sống mình để phục vụ các bệnh nhân, nhất là các bệnh nhân nan y. Vẫn còn đó cả hàng triệu người đang đổ mồ hôi vật vã trên công trường, trên nương đồng để làm ra của cải và sản phẩm cho hàng tỉ người trên trái đất hưởng dùng. Vâng, cuộc đời vẫn còn đó biết bao người biết hy sinh vì tha nhân, biết kiến tạo niềm vui trong những giọt mồ hôi lao nhọc để phục vụ tha nhân. Thế nhưng, giòng đời vẫn còn đó những trái tim khô cằn, những tâm hồn lạnh nhạt đến dửng dưng với nỗi đau của đồng loại. Họ đâu biết rằng cuộc đời của họ đang bị cuốn trôi theo một giòng chảy của trần đời. Họ được đón nhận thì cũng phải biết trao ban. Vì chẳng ai có thể giữ mãi cho mình được điều gì mãi mãi. Tất cả những gì mình có rồi một mai cũng bị cuốn trôi theo thời gian.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết dừng lại để giúp đỡ những ai đang cần đến chúng ta, hãy biết chia sẻ với những khó khăn của tha nhân. Hình ảnh Thầy Tư tế và Lê vi đã bỏ lại đằng sau tiếng kêu cứu của đồng lại diễn tả một thế giới mà con người luôn hối hả bận rộn với giòng chảy cuộc đời. Họ bị giòng đời cuốn trôi đến nỗi đã quên rằng, cuộc sống đích thực là cuộc sống còn có khả năng chia sẻ với tha nhân. Một cuộc đời có ý nghĩa là cuộc đời biết dùng thời giờ để sống với tha nhân trong yêu thương và phục vụ. Và một cuộc đời đã mất khi không còn khả năng để giúp đỡ anh em. Ông Hoàng hạnh phúc đã không còn hạnh phúc khi ông nhận ra mình không còn khả năng để giúp đỡ đồng loại. Ông cảm thấy bất hạnh khi mình không còn khả năng để xoa dịu nỗi đau của đồng loại. Ngược lại, người Samaria nhân hậu, ông đã tìm được niềm vui của cuộc đời phục vụ. Ông đã dừng lại để xoa dịu nỗi đau của kẻ bất hạnh. Cuộc đời ông hạnh phúc biết bao khi ông băng bó nỗi đau của đồng loại. Khi ánh mắt của kẻ chịu ơn đang nhìn ông một cách trìu mến thân thương. Niềm vui của ông càng được nhân lên khi người mà ông giúp đỡ đã coi ông như anh em. Từ một người xa lạ nay trở thành kẻ thân thích. Ông đã biết dùng của cải đời này để mua bạn hữu đời này và cả đời sau. Đó chính là mẫu người mà Chúa đang mời gọi chúng ta hãy làm theo như vậy.

Ước gì trong năm thánh với chủ đề Giáo hội mầu nhiệm, hiệp thông và sứ vụ sẽ là lời nhắc nhở chúng ta về Giáo hội của Chúa, do Chúa sáng lập và hiện diện thì mỗi ky-tô hữu cần phải hiệp nhất với nhau trong Chúa, cần nhìn nhận nhau là anh em và hãy biết sống đời kytô hữu bằng sự dấn thân để phục vụ tha nhân trong yêu thương chân thành. Nguyện xin Chúa là Đấng đã hết lòng yêu thương và phục vụ con người cho đến nỗi bằng lòng chịu chết vì chúng ta, giúp cho chúng ta cũng biết sống yêu thương như Chúa đã yêu thương chúng ta. Amen.

 

 

 

 

 

20. Người Samaritanô nhân hậu

(Trích dẫn từ ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

 

Một đạo sĩ Ấn giáo nọ hỏi các đệ tử của ông như sau

-“Làm thế nào để biết được đêm đã tàn và ngày bắt đầu?”

Sau vài phút suy nghĩ, một đệ tử giơ tay xin trả lời:

-“Tôi biết được khi nào là đêm tàn và ngày bắt đầu, đó là khi ta trông thấy một con thú từ xa mà ta phân biệt được nó là con bò hay là con ngựa”,

Câu trả lời đã không làm cho nhà đạo sĩ ưng ý chút nào… một đệ tử khác lên tiếng:

-“Ta biết được khi nào là đêm tàn và ngày bắt đầu, đó là khi ta thấy một cây lớn từ đàng xa mà ta phân biệt được đó là cây xoài hay cây mít”,

Vị đạo sĩ lắc đầu không đồng ý. Khi các đệ tử nhao nhao muốn biết giải đáp, ông mới ôn tồn nói như sau:

-“Khi ta nhìn vào gương mặt bất cứ người nào mà nhận ra người đó là người anh em của ta thì đó là lúc đêm tàn và ngày mới bắt đầu. Nếu ta không phân biệt được như thế, thì cho dù đêm có tàn, ngày có bắt đầu, tất cả mọi sự không có gì thay đổi”.

Thưa anh chị em,

Nhân loại đã chìm ngập trong đêm tối của tội lỗi, đêm tối của trốn chạy khỏi Thiên Chúa và chối bỏ lẫn nhau giữa người với người. Chúa Giêsu đã đến để xoá tan ĐÊM tối và khai mở NGÀY mới, trong đó người nhận ra người là anh em, người trở về với Thiên Chúa.

Như nhà đạo sĩ đã giải đáp: “khi ta nhìn vào gương mặt của bất cứ người nào mà nhận ra người anh em của ta trong người đó, là lúc đêm tàn và ngày mới bắt đầu”. Nhận ra người anh em nơi một người nào, đó chính là nhìn thấy hình ảnh của Thiên Chúa nơi mọi người cũng như phẩm giá vô cùng cao quý của người đó. Nhận ra người anh em nơi một người nào, đó là nhìn thấy niềm vui, nỗi khổ, sự bất hạnh và ngay cả lỗi lầm của người đó như của chính mình.

Nhận ra người anh em nơi một người nào, đó là sẵn sàng tha thứ cho người đó ngay cả khi người đó xúc phạm đến ta và không muốn nhìn mặt ta. Nhận ra người anh em nơi một người nào, đó cũng có nghĩa là không thất vọng về khả năng hướng thiện của người đó. Nhận ra người anh em nơi một người nào, đó cũng có nghĩa là muốn nói với người đó rằng, cách nầy hay cách khác, ta cần người đó để được sống xứng đáng với ơn gọi làm người hơn.

Trái lại, nếu ta không nhận ra người khác là người anh em của mình thì mình vẫn ở trong bóng tối đêm đen. Chỉ khi nhận ra được người khác là người anh em của mình, thì mình mới bước vào ánh sáng ban ngày. Người khác đó là bất cứ ai, không phân biệt màu da, chủng tộc, ngôn ngữ, ý thức hệ. Tất cả mọi người là anh em của tôi.

Thế nhưng, thưa anh chị em, trong Tin Mừng hôm nay, một luật sĩ đã hỏi Chúa: “Ai là anh em tôi?”. Để trả lời, Chúa Giêsu đã kể cây chuyện người Samari nhân hậu. Người Samari nầy đã nhận ra nạn nhân đang năm lây lất bên đường là người anh em gần gũi của mình, đang khi thầy Tư tế và thầy Lêvi lại không nhận ra nạn nhân nằm bên vệ đường kia là người anh em, mặc dầu nạn nhân ấy cũng là người Do Thái đồng bào và đồng đạo với mình. Nạn nhân đã trở thành kẻ xa lạ, chỉ vì rơi vào hoàn cảnh bất hạnh.

Câu chuyện muốn làm nổi bật thái độ dễ thương của người Samari nhân hậu. Chúng ta thấy ông xuống ngựa và đến cúi xuống trên con người đang quằn quại ở vệ đường. Ông chẳng để ý xem kẻ bất hạnh là ai? Là người Do Thái hay Samari – hai dân nầy vẫn coi nhau như thù địch- ông chỉ thấy đây là một kẻ bất hạnh, một con người như mình, nhưng lại không được như mình. Thế nên ông đã săn sóc, băng bó vết thương và chở đến quán trọ gần nhất cấp cứu, rồi còn sẵn sàng trang trải mọi phí tổn nữa.

Như vậy, người Samari nhân hậu nầy đã trở nên người anh em thân cận, gần gũi với người bị nạn, mặc dù ông không cùng chủng tộc và tôn giáo, hơn nữa ông còn bị coi như kẻ thù của người Do Thái bị nạn nầy, đang khi hai thầy Tư tế và Lêvi vừa là người Do Thái vừa là bậc thầy dạy đạo, tế lễ, lại coi kẻ đồng đạo, đồng bào xa lạ. Chính những hành động bác ái thương người cụ thể như tế mới làm chứng ai thật là người có đạo, ai thật là người, vì có lòng nhân ái.

Anh chị em thân mến,

Ngày 11 tháng 2 năm 1984, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã ban hành một Tông thư mang tựa đề: “Salvifici doloris” nói về “ý nghĩa đau khổ của người theo Kitô giáo” để toàn thể Giáo Hội suy tư trong Năm Thánh Cứu Độ 1984. Đức Giáo Hoàng đã nhắc lại dụ ngôn “người Samari nhân hậu”, không phải chỉ để gởi tới các bệnh nhân, những người phải chịu đau khổ, mà còn gởi tới mọi người. Bởi vì đau khổ vẫn ở ngay bên đường đi của chúng ta, đến nỗi con người rất dễ bị cám dỗ ‘bỏ đi qua”một cách dửng dưng. Sự dửng dưng nầy là một nét đặc trưng của thời đại chúng ta. Chắc chắn rằng dụ ngôn “Người Samari nhân hậu” đã trở nên yếu tố thiết yếu của nền văn hoá đạo đức cũng như nền văn minh phổ quát của nhân loại. Nhưng “khi đến với đau khổ của người khác, không một tổ chức nào, tự nó, có thể thay thế người”. Và vào ngày phán xét, Chúa sẽ nói với mỗi người chúng ta rằng: “Ta bảo thật các ngươi, mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đâu, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (x. Tông thư SD. Số 28-30).

Chúa Giêsu đã bảo luật sĩ: “Cả ông nữa, hãy đi và làm như vậy”. Hôm nay, chính với chúng ta, Chúa Giêsu ban huấn lệnh cấp bách nầy: “Hãy đi và làm y như vậy”. Chúng ta hãy đi và làm như người Samari đã làm. Tất cả chúng ta phải tiếp tục nhiệm vụ của người Samari nhân hậu bên cạnh tất cả những ai chúng ta gặp và chân tình giúp đỡ, băng bó các vết thương của họ, nhưng vết thương, nghèo đói, đau yếu, bệnh tật, cô đơn, chết chóc… Đừng ngồi đặt vấn đề: “Ai là anh em tôi?”, nhưng hãy đi và tỏ ra “mình là anh em của mọi người”. Đừng dừng lại tìm xem người đó là ai, có đạo hay không có đạo. Nhưng hãy đi và làm như người Samari kia, nhìn thấy vết thương thì băng bó, nhìn thấy người đau khổ thì cứu giúp. Phải vượt qua quan niệm hẹp hòi của người Do Thái, để đi đến tình huynh đệ phổ quát, đại đồng.

Yêu mến Chúa trong nhà thờ, không đủ, nếu không yêu mến Chúa trên đường đi và trong người anh em đồng bào, đồng loại. Chúng ta phải sống đạo chứ không phải chỉ biết luật day mến Chúa yêu người trong sách vở. Thánh Gioan Tông đồ đã nói: “Anh em đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương thực sự bằng việc làm”. Ngài còn nói: “Ai nói rằng mình ở trong ánh sáng mà lại ghét anh em mình, thì vẫn còn ở trong bóng tối. Ai yêu thương anh em mình thì sống trong ánh sáng. Nhưng ai ghét anh em mình thì ở trong bóng tối đã làm cho người ấy ra mù quáng” (1Ga 2,9-11).

Hãy nhận ra khuôn mặt của tất cả mọi người là người anh em. Chỉ khi đó chúng ta mới ra khỏi bóng tối đang bao trùm chúng ta và được tràn ngập ánh sáng vinh quang của Chúa.

 

 

 

 

 

21. Yêu người

 

Ai là người thân cận của tôi? Câu hỏi mới nghe như đơn giản nhưng thực ra đó lại là mấu chốt để giải thích cho đúng đắn lề luật Maisen. Vì lẽ luật này đòi hỏi chúng ta phải yêu người thân cận như chính mình.

Theo lẽ thường của người Do Thái thời bấy giờ thì quan niệm về người thân cận bị thu hẹp vào các thành phần Israel. Như vậy hạng ngoại kiều không có chỗ đứng trong những hoạt động bác ái, thành ra dụ ngôn Chúa Giêsu kể về người Samaria nhân hậu có hiệu quả như một trái bom hay như một cú đấm vào lương tâm của những kẻ tự ru ngủ bằng điệp khúc bình an vì đã làm tròn bổn phận tối thiếu của mình.

Quả thực qua dụ ngôn Chúa Giêsu đã chỉ trích gương xấu cần phải tránh mà điển hình là ông tư tế và thầy Lêvi, hai ông viên chức của phụng vụ đền thờ và được coi như là hàng đạo đức bởi đã giữ đúng lề luật. Đồng thời Ngài cũng nêu lên gương tốt phải theo mà cái khuôn mẫu là người Samaria, một ngoại kiều, một địch thủ, một tên lạc đạo. Bất chấp mọi thứ rào cản xã hội hay tập tục truyền thống, ông ta đã xông xáo tiến lại người xấu số để giúp đỡ anh ta đang bị bỏ dở sống dở chết trên đường. Chắc hẳn tình người của ông đã phát xuất từ lòng nhân từ rộng rãi của ông chứ không phải từ những bộ luật rườm rà phiền toái.

Đưa ra những nhân vật điển hình trên, chắc hẳn Chúa Giêsu nhằm giải thích một cái gì đó thiết yếu trong giáo huấn của Ngài, điều mà con người mọi thời, nhất là chúng ta ngày nay, trong hoàn cảnh cụ thể của mình, cần được soi sáng. Cái thiết yếu chính là ý nghĩa của câu hỏi lật ngược: Không còn hỏi ai là thân cận của tôi, mà hỏi tôi là người thân cận của ai?

Đó là tinh thần cách mạng của Tin Mừng mà không bao giờ chúng ta múc cạn được chiều sâu của nó. Bởi vì vấn đề không còn là ngồi đó mà xem ai là kẻ thân cận của mình, như thể một số người nào đó được chỉ định trước để chúng ta sử dụng như là phương tiện làm chiếu sáng đức yêu người của chúng ta, trong khi một số những người khác có thể thoát ra ngoài những hoạt động yêu thương ấy mà không gây ra một nguy cơ nào cho lương tâm. Chúng ta đi tìm những người thân cận trong một danh sách đã lập trước. Trong khi đó chính tình yêu đòi buộc chúng ta phải đi tìm gặp những người thân cận ở trong một giới hạn vô biên vì giới hạn của tình yêu là yêu không giới hạn. Khi đó mọi người đều có thể là người thân cận, là người anh em của chúng ta, đặc biệt là những kẻ đau khổ, nghèo túng và bị ruồng bỏ. Người chúng ta phải yêu thương trước nhất phải là người chúng ta thương không nổi, phải là người sống bên lề xã hội, tức là hạng người tội lỗi, yếu đuối và bị khinh khi. Bao lâu chưa đạt tới đó, thì chúng ta hãy còn ở trong cái mức của ông tư tế, cái mức của thầy Lêvi là những người đã cố tạo khoảng cách cho đủ xa những kẻ bất hạnh.

Đừng giả đui giả điếc trước tiếng gọi của những người anh em đó, dù họ là ai, dù họ ở đâu, thì họ vẫn là những người thân cận của chúng ta, nếu chúng ta biết tiến lại gần họ với một con tim bằng hữu và với những cánh gay giơ ra để giúp đỡ như người Samaria và như Đức Kitô ngày xưa.

 

 

 

 

 

22. Ai là anh em của tôi

(Suy niệm của Lm. Anphong Trần Đức Phương)

 

Chúa Nhật hôm nay nói đến luật Bác Ái là kính mến Chúa và yêu thương phục vụ tha nhân, đặc biệt trong việc giúp đỡ những người lâm cảnh khó khăn.

Bài Đọc I (Đệ Nhị Luật 30:10-14): Lề luật của Chúa đã được ghi khắc vào lòng chúng ta (Lương Tâm) để hướng dẫn chúng ta sống cho xứng đáng những con người đã được Chúa dựng nên theo hình ảnh Chúa, chúng ta cần đem ra thực hành trong cuộc sống hằng ngày. Bài đọc II (Côlôsê 1:15-20): Chúa Giêsu cũng chính là Thiên Chúa thật, Ngài mặc lấy thân xác con người, đổ máu ra trên Thánh Giá để cứu chuộc nhân loại và trở nên “trưởng tử mọi loài thọ sinh và là Đầu Giáo Hội.” Bài Phúc Âm (Luca 10: 25-37): Chúng ta phải thực hành Đức Bác Ái để được sống đời đời. Đó là yêu mến Chúa hết lòng và yêu thương phục vụ tha nhân. Người Samaritano tốt lành là hình ảnh của những người biết thương cảm và hy sinh giúp đỡ mọi người, nhất là những người gặp hoạn nạn, dù người đó là ai.

Mỗi ngày khi chúng ta đọc Kinh ‘Mười Điều Răn Đức Chúa Trời’, chúng ta nên để ý đến lời cuối cùng “Mười điều răn Chúa tóm về hai điều này: trước hết kính mến Một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự, sau là yêu thương tha nhân như chính mình. ” Nếu chúng ta sống được hai điều căn bản này là chúng ta đã chu toàn được mọi lề luật của Chúa và các giới răn của Giáo Hội.

Luôn biết kính mến Chúa và thương yêu người khác như chính mình, chúng ta sẽ dễ dàng chu toàn các bổn phận thờ phượng Chúa, chúng ta sẽ xa tránh các dịp tội để không phạm tội làm mất lòng Chúa và xúc phạm đến nhau (những tội như tham lam tiền bạc, lỗi phép công bằng, làm chứng gian hại người khác, lộng ngôn, nói hành nói xấu, ham thú vui xác thịt, luyến ái tự do, li dị, phá thai…). Mọi tội lỗi đều xúc phạm đến Thánh Danh Chúa, và làm hoen ố hình ảnh của Chúa mà chúng ta mang trong tâm hồn khi chúng ta đã được thanh luyện qua Bí Tích Thánh Tẩy.

Hơn nữa, giữ Lề Luật Bác Ái không phải chỉ là lo xa tránh tội lỗi mà tích cực hơn, còn phải lo chu toàn các bổn phận của người tín hữu: ngoài bổn phận thờ phượng Chúa, chúng ta có bổn phận đối với Ông Bà Cha Mẹ, đó là điều răn thứ bốn: Phụng dưỡng các Ngài khi còn sống, nhất là khi các Ngài đã già yêu, bịnh tật. Hằng nhớ đến và cầu nguyện cho các vị đã qua đời.

Luật Bác Ái cũng dạy chúng ta phải duy trì tình yêu trong gia đình giữa vợ chồng, giữa cha mẹ và con cái; điều này cũng đòi buộc chúng ta phải hy sinh nhiều lắm để có thể chịu đựng lẫn nhau, tha thứ và nâng đỡ lẫn nhau trong cuộc sống.

Ngoài gia đình ruột thịt, chúng ta còn sống trong gia đình nhân loại, mà mọi người đều là con cái Chúa và anh em với nhau “Tứ Hải Giai Huynh Đệ.” “Mọi người đều là anh em của tôi” trong gia đình nhân loại. Thực hành được đìều đó, chúng ta sẽ không còn xét đoán, kỳ thị chủng tộc, tiếng nói, mầu da…; nhưng biết chấp nhận mọi dị biệt để yêu thương nhau như anh em, để xây dựng hòa bình, thay vì gây chiến tranh, chém giết lẫn nhau. Người Samaritano tốt lành đã tận tâm giúp người bị kẻ cướp hành hung, ông đã không phân biệt, không xem xét người đó là ai, chủng tộc nào; nhưng thấy một người hoạn nạn cần giúp đỡ là ông hết lòng giúp đỡ không sợ bị liên lụy, không sợ mất thời giờ, tiền của. Đó là điều Chúa Giêsu đặc biệt muốn nhấn mạnh trong Dụ Ngôn trong Bài Phúc Âm hôm nay. Chính Chúa Giêsu đã thực hành điều đó, Ngài đã yêu thương chúng ta ngay khi chúng ta còn là những kẻ tội lỗi, đã hy sinh xuống thế làm người, đã chịu chết để cứu chuộc mọi người thuộc mọi ‘chủng tộc và ngôn ngữ’, băng bó mọi vết thương gây ra do tội lỗi và đưa chúng ta vào “Quán Trọ” là gia đình Giáo Hội để chữa lành và đưa chúng ta về quê hương thật Nước Trời.

 

 

 

 

 

23. Anh em của mọi người

 

Ai là người thân cận của tôi? (Lc 10,29)

Câu hỏi của nhà thông luật này cũng là câu hỏi của nhiều người trên thế giới ngày nay. Câu hỏi này nhắm đến quyền lợi của cá nhân người hỏi. Chúng ta có thể hiểu ngầm vế còn lại: những người còn lại là người xa lạ hoặc là thù địch của tôi. Nếu là người thân, không hại đến quyền lợi tôi thì tôi giúp. Còn kẻ thù hại đến quyền lợi tôi thì tôi bất thông giao. Anh em thì không hại tôi, nhưng có lợi cho tôi. Kẻ xa lạ thì phải dè chừng, kẻ thù địch thì phải tiêu diệt. Nhưng câu trả lời của Chúa Giêsu trong câu chuyện dường như nhấn mạnh một khía cạnh khác.

Đừng hỏi ai là người thân của tôi, đừng chỉ nghĩ đến bản thân và lợi ích riêng mà phải nghĩ đến người khác: tôi có bổn phận gì đối với người xung quanh? Câu hỏi này giúp chúng ta nghĩ đến quyền lợi của anh em mình trước. Như vậy, Chúa Giêsu muốn mỗi người phải từ bỏ tính ích kỷ, qui về mình nhưng vị tha, nghĩ đến quyền lợi của tha nhân.

Chính Chúa đã thi hành điều này trước để làm gương cho chúng ta.

Khi loài người xúc phạm đến Chúa, Chúa không bỏ mặc con người dưới quyền sự chết mà hứa ban ơn cứu chuộc. Chính Ngôi Hai Thiên Chúa đã không giữ Ngai Trời của mình mà bỏ trời xuống thế làm người, lo cho loài người. Cho dù loài người phản bội tiếp tục đối xử bất công với Chúa và còn vu cáo, giết Đức Giêsu bởi tay dân ngoại. Chúa biết như vậy nhưng Ngài không nghĩ đến quyền lợi của mình. Chúa cũng không hỏi: ai là anh em, là trung thần của Ngài mà Ngài muốn làm anh em của chúng ta đang lúc chúng ta còn là thù địch của Ngài. Như vậy, Chúa đã lấy ân trả oán. Không những Chúa tha tội ác của chúng ta mà còn thi ân giáng phúc cho cả loài người bằng việc xuống thế, giảng dạy, chữa lành các bệnh nhân và lấy máu mình rửa sạch tội lỗi nhân gian.

Câu trả lời của Chúa Giêsu đối với nhà thông luật hôm nay cũng là lời nhắn gởi tới mọi người trên trần gian. Nếu chúng ta biết lo cho quyền lợi người khác, muốn làm bạn với mọi người thì thế giới này không còn chiến tranh hận thù, các đảng phái không còn thù hằn tiêu diệt nhau, nhưng biết xây dựng nhau, coi nhau là anh em; mọi đồng bào, mọi người trong gia đình sẽ tự hỏi xem mình có coi mọi người là anh em của mình chưa.

Tuy nhiên, thực tế điều này không phải dễ làm. Con người chỉ có thể coi mọi người là anh em và đối xử với mọi người trong tình yêu thương khi sống giới răn thứ I: yêu mến Đức Chúa, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn. Ngươi. Khi chúng ta tin thờ Chúa, tuyên xưng Thiên Chúa là Cha. Thì từ đó, chúng ta mới nhận ra mọi người là anh em, kể cả kẻ thù. Còn ai từ chối Thiên Chúa là Cha thì không thấy được mọi người là anh em của mình, nhất là những kẻ thù nghịch mình! Đối với những ai từ chối Thiên Chúa thì ngày nào họ còn từ chối Thiên Chúa, họ sẽ không yêu thương được người khác cách chân thành mà chỉ giao tiếp dựa trên lợi danh: Vì tiền, vì chức, vì một lợi lộc nào đó. Họ sẽ đối xử với nhau theo kiểu mạnh được yếu thua. Khá lắm cũng chỉ là thương hại, bố thí chút cho kẻ bần cùng, cho đi phần dư thừa của mình, chứ không tôn trọng tha nhân đúng mức.

Lời Chúa hôm nay nhắc bảo chúng ta đừng chỉ lo cho bản thân, nhưng biết nghĩ đến anh em đồng loại như Chúa đã thương xót chúng ta. Chúng ta cũng hãy thương mến mọi người như anh em của mình. Điều này có thể thực hiện được như bài đọc I trong sách Đệ Nhị Luật nói: hãy trở về cùng Chúa. Thánh chỉ Ta truyền cho các ngươi hôm nay không quá khó, cũng không quá sức các ngươi. Lời Chúa ở sát bên các ngươi, trong lòng các ngươi, để các ngươi thực thi (Đnl 30,10-14).

Lời Chúa nói trong lương tâm mỗi người, cho dù người đó tuyên bố mình vô thần nhưng trong lòng vẫn cảm thấy một điều gì đó linh thiêng trong thế giới này và vì vậy họ kiếm tìm một tín ngưỡng để có chỗ dựa tinh thần. Vậy chúng chúng ta hãy cầu xin cho mọi người dù đã biết Chúa hay đang từ chối Chúa biết nhận ra nguồn cội của mình. Xin cho mọi người chúng ta là những người đã tuyên xưng lòng tin vào Chúa biết giữ giới răn Kính Chúa Yêu Người và trở nên dấu chỉ yêu thương giữa lòng thế giới hôm nay.

 

 

 

 

 

24. Ai là người Samaria tốt nhất? – Charles E. Miller

(Trích dẫn từ ‘Mở Ra Những Kho Tàng’)

 

Chúa Giêsu thích kể các dụ ngôn khi Ngài rao giảng, điều đó thì không có gì ngạc nhiên khi có người đặt câu hỏi: “Ai là người láng giềng của tôi?”. Chúa Giêsu đã không cho một câu trả lời trực tiếp. Thay vào đó, Ngài đã kể một câu chuyện dụ ngôn.

Dụ ngôn này thì quen thuộc và để lại ấn tượng mạnh mẽ khi được diễn tả trong một ngôn ngữ. Nói với một người nào là Samaria nhân lành có nghĩa là nói rằng ông ta đã giúp đỡ người khi cần. Trong câu chuyện, người Samaria đã dừng lại và giúp đỡ người đàn ông bị bọn trộm cướp đánh đập và tước lột tất cả, minh chứng chính ông là người láng giềng tốt mà Chúa Giêsu muốn nói đến, ngay cả khi người Samaria này đã không biết nạn nhân xấu số và nạn nhân xấu số cũng không hề biết người Samaria.

Trong câu chuyện dụ ngôn của mình, Chúa Giêsu thường đưa ra một đường vòng không ngờ. Và đường vòng cho câu chuyện dụ ngôn này là ý nghĩa mà Chúa Giêsu trao cho từ”láng giềng”. Sự kiện anh hùng là một người Samaria. Hãy nhớ rằng câu chuyện này được nói với người Do Thái, những người khinh bỉ người Samaria. Những người Do Thái nhìn người Samaria như là những kẻ phản bội, những kẻ thờ tà thần. Những thính giả đang nghe Chúa Giêsu phải bị sốc rất nặng. Họ phải giận dữ khi Ngài đề nghị với họ một mẫu gương là một người Samaria anh hùng.

Một số giáo phụ tiên khởi của Giáo Hội đã đặt một đường vòng khác vào câu chuyện. Các Giáo phụ thấy người mà chúng ta gọi là người Samaria nhân lành là hình ảnh của chính Chúa Giêsu. Nói cách khác, các giáo phụ nghĩ rằng ít nhất một con người đã được giới thiệu với chúng ta là người luôn giúp đỡ và Chúa Giêsu đã luôn làm điều đó.

Nòi giống con người bị thoái hoá đi bởi tội lỗi. Tội lỗi đã tước bỏ nơi chúng ta mọi giá trị như là con người. Nó đã đánh cặp của chúng ta để lấy đi khỏi chúng ta những ân sủng của Thiên Chúa. Nó đã tấn công chúng ta một cách khốc liệt khiến tất cả chúng ta đều giống như là một người dở sống dở chết. Chúa Giêsu đã nâng chúng ta dậy, không chỉ là trên một con vật, nhưng là trên chính đôi vai của Ngài và mang chúng ta đến với Giáo Hội, để chúng ta có thể được chăm sóc cho đến khi Ngài trở lại trong vinh quang, ngày Phục Sinh của chúng ta.

Nhưng sau đó, Chúa Giêsu đã mang chúng ta vào trong Giáo Hội, Ngài đã không để mặc chúng ta đi trên con đường của Ngài. Ngài ở với Giáo Hội mọi ngày và cho đến tận thế. Qua sứ vụ của Giáo Hội, trong phép rửa Chúa Giêsu đã chữa lành mọi vết thương tội lỗi, phục hồi sự sống của ân sủng và ban cho chúng ta giá trị là con cái của Thiên Chúa. Và trong phép Thêm sức, Chúa đã tăng sức cho đời sống ân sủng bên trong chúng ta, Ngài đã củng cố căn tính của chúng ta như là con cái của Thiên Chúa và thừa tự Nước Trời. Chúa Giêsu đã đến với chúng ta trong Giáo Hội, qua Lời và các bí tích: Lời của Thánh Kinh và bí tích Thánh Thể là chính Mình và Máu Người nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng của chúng ta.

Từ “láng giềng” theo nghĩa chữ là một người ở gần bên chúng ta. Chúa Giêsu đã minh chứng chính Người còn hơn là một láng giềng nữa, hơn là một người nào đó ở gần chúng ta, Ngài đã làm cho chúng ta trở nên thành phần của thân thể mầu nhiệm của Ngài là Giáo Hội. Trong Ngài chúng ta tiếp tục hiện hữu, như bài đọc II đã dạy chúng ta: “Ngài là Đầu của thân thể là Giáo Hội”.

Khi chúng ta bước đi trong đời sống, tội lỗi vẫn còn tiếp tục tàn phá và làm tổn hại chúng ta, chúng đang chờ đợi một khoảnh khắc bất ngờ, chểnh mảng để chúng có thể tấn công chúng ta vào lúc chúng ta yếu đuối. Nhưng chúng ta không bao giờ đơn độc trong cuộc chiến đấu của mình. Thật sống động khi chúng ta họ bài học của bài Thánh Vịnh ngày hôm nay: “Hãy hướng về Chúa những khi bạn cần và bạn sẽ sống”. Khi chúng ta hướng về Chúa sẽ nhận thấy rằng Ngài không quá mầu nhiệm và xa xôi khỏi chúng ta. Chúa Giêsu không quá đơn giản là một người Samaria nhân lành. Ngài là một người tốt nhất.

 

 

 

 

 

25. Tình yêu, cốt lõi của Kitô giáo!

(Suy niệm của Lm. Phêrô Nguyễn Hương)

 

Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật 15 TNC giới thiệu với chúng ta một chủ đề đáng suy nghĩ, đó là: “mến Chúa và yêu người”. Đây là luật mới và cốt lõi của đời sống người Kitô hữu.

Bài đọc I trích từ sách Đệ Nhị Luật, qua môi miệng của Môisen, Thiên Chúa mời gọi Dân Riêng của Người hãy tuân giữ các giới răn và huấn lệnh của Thiên Chúa. Luật này không phải ở đâu xa xôi, nhưng là ở bên cạnh chúng ta, trên môi miệng và được khắc ghi trong lòng chúng ta. Luật này đạt tới sự viên mãn nhờ và trong Đức Kitô (Bài đọc II).

Cốt lõi của Lề Luật được tìm thấy trong bài Tin Mừng: “Ngươi hãy yêu mên Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn người, và hãy yêu thương anh em như chính mình”. Chúa Giêsu xác nhận đó là con đường dẫn tới sự sống đời đời.

“Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết sức…” có nghĩa là chúng ta phải đặt Thiên Chúa ở chổ nhất trong bậc thang giá trị của cuộc đời. Theo đó, Thiên Chúa là ưu tiên số một, là quan trọng nhất trong mỗi suy nghĩ, phán đoán, hành động của cuộc đời tôi, còn những thứ khác là thứ yếu. Và mỗi ngày tôi sống theo chọn lựa đó, trong khi có những người bên cạnh có thể chọn tiền bạc, danh dự, quyền lực, hưởng lạc là chỗ nhất cho cuộc đời của họ.

Nhưng chỉ mến Chúa thôi thì không đủ, mới chỉ được một nữa, chúng ta còn phải “yêu thương Anh em như chính mình”. Ở đây, chúng ta để ý chữ “như chính mình”.

Yêu người khác như yêu chính mình có nghĩa là: chúng ta cũng biết chăm sóc, quan tâm, giúp đỡ và mong muốn điều tốt lành, thiện hảo cho người khác như chúng ta làm cho chính mình. Chứ không phải là thấy người khác thành công thì mình tìm cách đạp đỗ, thấy người bên cạnh gặp điều khốn khó thì lòng lấy làm vui mừng! Đức Khổng Tử dạy: “Đừng làm cho người khác những gì mà bạn không muốn cho mình”. Đức Giêsu còn đi xa hơn: “Hãy làm cho người khác những gì mà bạn muốn cho mình”. Nhất là đối với những người đang cần đến sự giúp đỡ của Chúng ta.

Quả thế, Mến Chúa và Yêu Người là cốt lõi của Kitô giáo. Trong tác phẩm Quo Vadis, một người ngoại giáo hỏi Thánh Phêrô khi ngài mới đến Rôma: Hy lạp đem đến cho chúng tôi sự thông thái, Rôma đem đến quyền lực, tôn giáo của ông đem lại điều gì? Thánh Phêrô trả lời: Tình yêu!

Ở đây, chúng ta tìm thấy câu trả lời cho Marx, khi ông nói rằng tôn giáo của chúng ta chỉ lo đến sự sống mai hậu mà quên đi và sao nhãng bổn phận xây dựng cuộc sống hôm nay. Có thể Marx có lý trên bình diện thực tiễn, khi ông không thấy có những Kitô hữu thực sự sống Tin Mừng vào thời ông, hay nói như Maritain là “nỗi đau của thế kỷ XIX là không phải có Marx, mà là không có những Kitô hữu giống như Marx”. Nhưng cốt lõi của Kitô giáo dạy chúng ta là yêu mến Thiên Chúa và từ đó hướng tới tha nhân, không phân biệt ai, hướng tới xây dựng xã hội. Việc đến nhà thờ là để giúp chúng ta sống tốt hơn trong gia đình, nơi công sở, trong công việc. Việc đọc kinh xem lễ không phải là để ẩn náu, thoát đời một cách ích kỷ, nhưng là để tìm kiếm sự bình an cho tâm hồn mình, khi tâm hồn bình an, thì gia đình, xã hội cũng sẽ được bình an.

“Hãy đi và làm như vậy”! Lời đó Chúa nói với người thông luật và hôm nay Người cũng nói với chúng Ta. Như người Samaritanô nhân hậu, là mẫu gương tuyệt về việc biết chọn Luật Bác ái là trên hết, tất cả chúng ta cũng được mời gọi thực hành Luật Bác Ái bằng những việc làm cụ thể hành ngày của chúng ta. Và như thế là chúng ta đang yêu Chúa, đang giữ luật và đang xây dựng một thế giới bằng văn minh Tình thương. Amen!

 

 

 

 

 

26. Làm gì để được sống đời đời.

 

Xin mời mỗi người nghiêm chỉnh đặt câu hỏi nầy cho chính mình kẻo không kịp.

Thường người ta lo đủ chuyện đời nầy chuyện to chuyện nhỏ đều lo còn chuyện sống đời đời thì chưa lo. Đợi giờ chót. Có khi để ngưòi khác lo cho: rước cha.

Sống thì phải được sống lâu, trăm tuổi. Nhưng sau đó thì đi đâu, ở đâu? Phải sống đời đời. Phải biết làm gì để đựoc sống dời đời.

Một người thông luật đã tỏ vẻ quan tâm nên hỏi Đức Giêsu và Người biết người nầy biết nên hỏi lại: Ông đọc thấy gì trong lề luật? (ie. có rồi)

Yêu mến Đức Chúa là Thiên Chúa hết lòng hết sức…

Và yêu mến ngưòi thân cận như chính mình. Người thân cận là Do Thái, là dòng đạo có cắt bì. Ông muốn thử xem Đức Giêsu có gì mới không. Để minh hoạ cho cụ thể Đức Giêsu kể một câu chuyện làm ngạc nhiên vì tính mới mẻ.

Một ngưòi từ Giêrusalem xuống Giêricô, là Do Thái… bị cướp, gặp nạn dở sống dở chết nằm giữa đường, ai đi qua cũng phải thấy.

Một thầy tư tế rồi một thầy lê vi từ Giêrusalem về ( mới làm xong nhiệm vụ tế lễ ở đền thờ về). Là chức việc trong đạo. Thấy lạnh lùng tránh qua bên rồi đi thẳng. Không động lòng chút nào hết.

Một người Samaria, người ngoại, kẻ tội lỗi, kẻ thù của người Do Thái, đi ngang qua đó. Thấy, động lòng thương xót, ghé lại đổ dầu và ruợu, băng bó vết thương, đỡ lên lừa đưa đến quán trọ chăm sóc…tốn bao nhiêu khi trở về tôi sẽ thanh toán đủ. Tươm tất từ đầu chí cuối, không chỉ qua loa, nửa chừng. Có lòng thương xót là vậy. Thương thì thương cho trót gọt thì gọt cho trơn. Đây là tính mới mẻ: yêu kẻ thù. Có lòng thương xót mà thương xót cả kẻ thù, không phân biệt đạo ngoại. Ngoại mà có lòng thương xót thì hãy bắt chước còn đạo mà vô cảm vô tâm không có lòng thương xót thì đừng bắt chước kẻo khi phán xét Chúa Giêsu hỏi khi ta bi nạn nằm giữa đường có động lòng thương xót không thì trả lời làm sao?

Không cần biết là Do Thái, Lê vi, tư tế hay Samaria ngoại giáo Chúa chỉ hỏi có lòng thương xót không, có biết động lòng không? Có thì được chúc phúc không thì thôi.

Điều răn quan trọng nhất và cũng là duy nhất có giá trị trước mặt Chúa là đây. Đây cũng là điều mới mẻ của Chúa Giêsu. Chính Chúa Giêsu cũng sẽ phán xét theo tiêu chuẩn này vì Người đã dạy như vậy.

Hãy đi và làm như vậy thì được sống đời. Bảo đảm.

 

 

 

 

 

27. Bên ngoài và bên trong

 

Căn bản của nền luân lý hay đạo đức Khổng – Mạnh dựa vào luật được gọi là Trung và Thứ này: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân”. Nghĩa là “điều gì mình muốn kẻ khác làm cho mình thi hãy làm cho người ta”, Hoặc là “Điều gì mình không muốn kẻ khác làm cho mình thì cũng đừng làm cho người ta”. Đạo đức của người Việt thì tóm gọn trong một mệnh lệnh: “thương người như thể thương thân”. Còn những mệnh lệnh Chúa được ghi trong sách luật xem ra thật nhiều nhưng tóm gọn lại cũng chỉ là hai: “mến Chúa và yêu người”, và cuối cùng thì chỉ có một mệnh lệnh là “yêu tha nhân như chính Chúa yêu mình”

Dụ ngôn người Samariatanô hôm nay là một điển hình, là một sự phê phán đánh thẳng vào lòng tự kiêu tự đại, tính kỳ thị chủng tộc và tôn giáo của người Do Thái, đặc biệt là đối với hàng ngũ những người lãnh đạo. Thật vậy người Do Thái xưa nay vẫn hãnh diện coi mình là dân riêng của Chúa, những người được tuyển chọn tách riêng ra khỏi các dân tộc khác. Họ nại vào tư thế: “tách biệt” đó để khinh ghét những người dân ngoại, coi những người nay như đương nhiên là tội lỗi xấu xa. Qua dụ ngôn này Đức Giêsu đã vạch trần thói vô nhân đạo của họ.

Trong câu chuyện dụ ngôn cả nạn nhân lẫn ông tư tế, thầy Lêvi đều là những người Do Thái, và họ đều từ Giêrusalem xuống Giêrikhô. Nghĩa là họ vừa mới lên Giêrusalem, rất có thể là lên đền thờ cầu nguyện trở về. trông thấy nạn nhân không những không thèm dừng lại cứu giúp, còn tránh qua bên kia đường mà đi. Làm như thể mình không thấy nạn nhân. Hành động này thật không thể tha thứ được vì đã thấy mà còn cố tình trốn tránh làm như không thấy, tội ấy mới thật là nặng gấp đôi. Bởi vì bằng cách tránh qua bên kia đường, làm như không thấy, họ tự bào chữa cho con tim thối nát và lương tâm chai đá của họ: họ muốn vẫn được coi như người công chính “mến Chúa và yêu người”.

Thái độ này trái ngược hẳn với thái độ người Samariô, bản văn không nói rõ là từ Giêrikhô lên Giêrusalem hay ngược lại, nhưng nếu như người ấy từ Giêrikhô đi lên, thì có nghĩa là đang đi bên kia đường, khi trông thấy nạn nhân mà theo bối cảnh ở đây là người Do Thái, mặc dù vậy ông ta vẫn dừng lại băng bó, săn sóc nạn nhân và vực lên lưng lừa của mình. Và điều này có nghĩa là ông ta phải đi bộ, nhường con lừa cho nạn nhân. Ông đưa nạn nhân vào quán trọ, đưa tiền săn sóc nạn nhân, và hứa ngày hôm sau sẽ trở lại thanh toán tiền cho xong nếu còn thiếu.

Ngày hôm nay, có người giải thích dụ ngôn theo nghĩa bóng hay ẩn dụ, coi người Samaria như biểu tượng của chính Đức Kitô, Đấng từ trời cao, xa lạ đối với người phàm, nhưng cố tình yêu thương và săn sóc loài ngưởi bị Satan đánh gục. Giải thích như thế xem ra cũng có lý, nhưng thật là nguy hiểm vì có thể dẫn người ta tránh đi việc thực hành bác ái với anh em. Thật vậy, người ta có thể cho rằng chỉ có Chúa mới có thể yêu thương người ta tới mức như vậy, còn loài người chúng ta bản chất vốn ích kỷ lười biếng đời nào chịu làm như thế…

Nhưng thực tế cho thấy thái độ của người Samari không phải là không có thật. Xưa nay vẫn không thiếu những người “dân ngoại”, những người “vô thần” tỏ ra có lòng bác ái hơn những kẻ “hữu thần’ những kẻ “có đạo”. Trái lại cũng không thiếu những tư tế chẳng những thiếu bác ái mà còn vô nhân đạo. Thật! “chiếc áo không làm nên thầy tu”, cái nhãn hiệu Kitô giáo không miễn trừ cho chúng ta khỏi sự tham lam ích kỷ và tội lỗi. Không phải cứ hễ là Kitô giáo là chúng ta phải tốt, ngược lại đâu phải vô đạo, ngoại giáo là xấu đâu. Cũng tương tự như thế không phải cái nhãn hiệu mình mang trên mình đương nhiên chúng ta sẽ trở thành anh hùng đâu, hay những con người lý tưởng gương mẫu. Đúng! Cái vỏ không bảo đảm được cho cái ruột bên trong con người, nếu như cái ruột đó đã hư, đã thối… Trái lại cái ruột tốt dù không có bao bì đẹp hay chắc chắn bao bọc, thì vẫn cứ tốt và sử dụng được.

Dụ ngôn này không những dạy chúng ta phải có lòng bác ái với anh em, mà còn dạy chúng ta phải biết học với những người ngoài gia đình, ngoài cộng đồng tôn giáo hay chính trị của chúng ta. Đừng bao giờ có thành kiến về người khác, đừng bao giờ nghĩ rằng chỉ có mình là hay là tốt, trái lại hãy nhận ra cái tốt nơi những người vẫn bị coi là thù địch với chúng ta.

Lạy Chúa, xin cho con biết nhận ra mình, để con biết khiêm tốn hạ mình xuống trước mặt người khác, và hơn cho con luôn có lòng thường cảm yêu thương hết tất cả mọi người. Amen.

 

 

 

 

 

28. Chỉ vài bước thôi – Lm Giuse Nguyễn Hữu An

 

Đức Cha Bùi Tuần viết: “Tôi thấy từ nhà ông phú hộ đến chỗ ông ăn mày Ladarô chỉ khoảng vài bước, nghĩa là cách nhau chỉ có cái cổng. Khi sống, ông phú hộ đã không chịu bước vài bước đó, để cảm thương và cứu khổ cho người hành khất Ladarô luôn nằm đó (x.Lc 16,19-26). Hậu quả là khi chết rồi, người phú hộ đó đã phải ném vào vực sâu hoả ngục, xa cách thiên đàng cao sang vời vời.Vài bước vô tâm đã đưa tới cực hình vô tận… Dụ ngôn người Samari tốt lành (x.Lc 10,30-32) cho thấy: cũng chỉ vài bước thôi, thầy Tư tế và thầy Lêvi đã tránh sang bên kia đường, để khỏi cứu nạn nhân. Lý do họ vịn vào để tránh cứu nạn nhân, có thể là vì quá bận với những công tác tôn giáo ở nhà, hoặc vì không rõ lý lịch nạn nhân. Và họ an tâm. Nhưng Chúa Giêsu coi đó là một an tâm xấu, có thể là một tội đáng phải phạt” (xem).

Lối hành xử của ông Phú hộ “mackeno” hay thầy Tư tế và Lêvi “tránh sang một bên”, biểu tượng cho thái độ sống thờ ơ, dửng dưng, mặc kệ, đó là căn bệnh thời đại: vô cảm.

Có ba cấp độ vô cảm khác nhau trong đời sống hàng ngày.

Thứ nhất là vô cảm trước người khác, hiểu theo nghĩa là một hay nhiều người cụ thể, ở ngay trước mặt, như người thân trong gia đình, hàng xóm hay bất cứ ai đó gặp tai nạn ngoài đường.

Thứ hai là vô cảm trước đất nước hiểu theo nghĩa một cộng đồng mà mỗi người là một thành viên.

Thứ ba là vô cảm trước đồng loại, bao gồm cả những người ở xa, xa xôi và xa lạ, thuộc một đất nước khác hay một lục địa khác.

Tạm thời, xin gác loại vô cảm thứ ba lại. Chỉ tập trung vào hai loại vô cảm thứ nhất và thứ hai. Lý do: một, đó là những vấn đề bức xúc nhất hiện nay; hai, sự vô cảm thứ ba chỉ khắc phục được nếu người ta đã vượt qua được hai loại vô cảm đầu tiên: Không hy vọng có người biết xúc động trước nỗi đau khổ của ai đó, ở châu Phi chẳng hạn, nếu người ta cứ dửng dưng trước những đau khổ ngay trước mặt và trước mắt mình. Nếu có, đó chỉ là chút cảm xúc mang mùi lãng mạn chủ nghĩa; nó thoáng qua, rồi tắt, chứ chắc chắn sẽ không dẫn đến bất cứ một hành động cụ thể nào cả.

Vô cảm trước đất nước có nhiều biểu hiện, nhưng trung tâm vẫn là sự dửng dưng, hay nói theo chữ quen thuộc ở Việt Nam lâu nay, là mặc kệ. Đất nước nghèo đói ư? Mặc kệ! Đất nước càng ngày càng lạc hậu ư? Mặc kệ! Sự bất bình đẳng trong nước càng ngày càng trầm trọng; khoảng cách giữa giàu nghèo càng ngày càng lớn; người giàu càng ngày càng giàu và người nghèo càng ngày càng nghèo ư? Mặc kệ! Nạn tham nhũng càng ngày càng hoành hành, càng phá nát nền kinh tế quốc gia ư? Mặc kệ! Xã hội càng ngày càng băng hoại; văn hóa càng ngày càng suy đồi; giáo dục càng ngày càng xuống cấp ư? Mặc kệ! Trung Quốc xâm lấn Việt Nam, làm lũng đoạn kinh tế Việt Nam, bắt bớ và giết hại ngư dân Việt Nam ư? Mặc kệ! Dửng dưng hay mặc kệ trước những vấn đề liên quan đến danh dự quốc gia cũng là một sự vô cảm.

Nhưng tại sao người ta lại trở thành vô cảm? Câu trả lời tương đối dễ: Một, người ta bị tước trách nhiệm đối với đất nước; và hai, bất cứ người nào còn có trách nhiệm và muốn biểu lộ trách nhiệm ấy thì bị chụp mũ, sỉ nhục, bắt bớ, giam cầm. Trách nhiệm đối với đất nước trở thành một cái tội. Dân chúng bị xem là những kẻ ngoại cuộc đối các vấn đề quốc sự. Người nào không chấp nhận điều đó thì bị trừng phạt nặng nề. Kẻ thì bị đạp vào mặt. Kẻ thì bị bắt bớ. Kẻ thì bị đe dọa. Kẻ thì bị bêu xấu trên các phương tiện truyền thông đại chúng. Trong hoàn cảnh như thế, người ta không vô cảm đối với đất nước mới là chuyện lạ. (x. Blog của tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc).

Một trong những phát minh vĩ đại của khoa học là sáng chế ra rôbốt. Nhưng khoa học không thể tạo ra một con chip “tình cảm” để khiến rôbốt biết yêu, biết ghét, biết thương, biết giận. Căn bệnh vô cảm biến con người thành rôbốt, vô tình, thờ ơ với mọi sự xung quanh. Nhìn thấy cái xấu, cái ác mà không thấy bất bình, không căm tức. Thấy những điều tốt đẹp, cao thượng mà không ngưỡng mộ, cảm phục. Gặp người có hoàn cảnh khó khan, hoạn nạn mà không thấy xót xa, thương cảm, không muốn ra tay giúp đỡ dù có điều kiện. Đứng trước sự bất công, xấu xa, gian dối mà không thấy phẫn nộ, nhức nhối. Thời nay, ra đường gặp người bị cướp, bị trấn lột, bị đuổi chém… nhưng lại ít thấy ai ra can ngăn, cứu giúp. Không dại gì dây dưa vào, mackeno, là biểu hiện của bệnh vô cảm.

Lối sống dửng dưng, thờ ơ, mặc kệ đang hình thành một nền “văn hóa vô cảm” trong xã hội chúng ta. Thái độ này đang được thể hiện tràn lan trong cuộc sống. Hình ảnh những người trẻ nhường chỗ trên xe buýt cho người lớn tuổi hoặc phụ nữ có thai như là chuyện cổ tích; chuyện dửng dưng chứng kiến người thanh niên lừa một người mù đi bán vé số để cướp số tiền mưu sinh nhỏ nhoi được coi như chuyện nhỏ không đáng phải can thiệp, hay như chuyện một người phụ nữ bị đánh đập, bị lột hết quần áo và bị trói nằm trước mặt người qua đường mà chẳng ai quan tâm tới… Môi trường sống hôm nay tràn lan những câu chuyện vô cảm như thế xảy ra hằng ngày.

Chỉ vài bước thôi ông nhà giàu có thể đến với Ladarô nghèo khổ. Chỉ vài bước thôi thầy Tư tế và Lêvi sẽ chạm đến người bị nạn trên đường. Chỉ vài bước thôi, sao mà khó đến vậy? Âu cũng chỉ vì họ mắc bệnh vô cảm.

Sự vô cảm vì con người ích kỷ, tham lam. Vì thế, suy cho cùng, bệnh vô cảm là do thiếu vắng tình yêu, xa cách với tình yêu, không quen nói về tình yêu, không quen thể hiện yêu thương, không bao giờ nuôi dưỡng tình yêu trong cuộc sống.

Dụ ngôn trong Tin Mừng hôm nay với hai hình ảnh trái ngược.Tư tế và Lêvi tượng trưng cho tinh thần vị luật của Cựu ước. Người Samari tượng trưng cho những người sống tình yêu. Tư tế và Lêvi là những người đại diện tầng lớp đáng kính trọng nhất trong xã hội. Họ chu toàn nghĩa vụ đối với Thiên Chúa nhưng lại dửng dưng trước đau khổ của anh em đồng loại. Một người Samari (thường bị người Do thái khinh bĩ, khai trừ, coi là ngoại đạo, tránh giao tiếp) tình cờ đi ngang qua, thấy cảnh ngộ đáng thương của người bị nạn nên động lòng thương. Chuyện tình cờ xảy ra trên đường: đức ái không luôn luôn đến từ nơi người ta chờ đợi. Chẳng quan tâm đến việc xem nạn nhân là người Do thái hay không, anh làm tất cả những gì có thể để cứu giúp người bất hạnh này. Săn sóc tại chỗ, đưa về quán trọ, anh còn dự liệu cả hoàn cảnh khó khăn mà người này có thể gặp phải khi không có anh bên cạnh, vì thế anh nói với chủ quán: “Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác”. Chính hành động làm cho anh em khốn khổ của mình trong đời thường mới làm nên con người tôn giáo chứ không là địa vị hay chức vụ, dù đó là thầy Tư tế hay thầy Lêvi đi nữa. Đối với nghĩa vụ đức ái, không có bất kỳ hạn định nào. Bác ái là miệng nói tay làm, là giúp đỡ người khác thật sự theo khả năng của mình.

Tin Mừng hôm nay là câu chuyện đẹp về tình yêu thương. Người Samari nhân hậu đã sống đức yêu thương cách tuyệt vời, đó là “yêu bằng việc làm”. Anh đã cho đi mà không tính toán, không chờ đợi một lời cảm ơn nào, và có lẽ anh vừa đi vừa hát bài ca hạnh phúc. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta sống và thực thi yêu thương: “Hãy đi và làm như vậy”.

Lạy Chúa Giêsu,

Nếu chỉ với vài bước thôi, chúng con đã có thể cứu được một người cả xác cả hồn, thì xin cho chúng con có nhiều bước chân đi để đến với mọi người. Chúng con biết, cuộc sống đạo sẽ trở nên phù phiếm nếu cái cốt lõi của đạo là yêu thương chỉ là điều phụ thuộc, Kitô hữu mà không thực hành bác ái bằng việc làm trong đời sống thì cũng chỉ là hữu danh vô thực. Xin đừng để chúng con loay hoay với những tính toán ích kỷ, chai đá, dửng dưng trước những bất hạnh khổ đau của anh em. Nhưng xin dạy chúng con biết chạnh lòng xót thương và giúp đỡ những ai đang cần đến chúng con. Amen.

 

 

 

 

 

29. Tôi là anh em của ai?

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

 

Bước vào Chúa nhật XV thường niên C, mở đầu bài Tin Mừng với một thắc mắc do một nhà thông luật đặt ra cho Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời?” (Lc 10,25). Biết ông ta là nhà thông luật nên Chúa Giêsu yêu cầu ông hãy tự tìm lời giải đáp. Ông đã tìm thầy và trình bày rất chính xác khi tóm lược hai giới răn chính: Mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn, và thương mến người anh em như chính mình”. Để tự biện minh, ông hỏi thêm: “Ai là người anh em của tôi?” (Lc 10,29). Chúa Giêsu trả lời câu hỏi này bằng một dụ ngôn. “Một người kia từ Giêrusalem xuống Giêricô…” khi đọc lên mọi người biết ngay: đó là dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu!

Quan niệm của người Do thái về người thân cận

“Ai là anh em của tôi?” Trong Dothái Giáo thời bấy giờ có sự bàn cãi về ai sẽ được coi như người anh em của người Israel. Và theo họ, phạm trù “người anh em” bao gồm tất cả những người đồng quê với mình và những người Dân ngoại bí mật theo Do Thái giáo. Khi chọn những nhân vật (một người Samaritanô đến giúp đỡ một người Do thái!) Chúa Giêsu khẳng định rằng phạm trù người anh em là phổ quát, không phải riêng rẽ. Chân trời của nó là nhân loại chứ không phải gia đình, giới chủng tộc, hay tôn giáo. Người thù chúng ta cũng là một người anh em! Tin Mừng theo Thánh Gioan dẫn chứng những người Do thái trên thực tế không có tương quan tốt với những người Samaritanô (x. Ga 4,9).

Mọi người là anh em với nhau

Qua dụ ngôn, Chúa Giêsu dạy chúng ta rằng tình yêu người thân cận không những phải phổ quát mà con phải cụ thể và tiên phong thực hiện. Người Samaritanô cư xử thế nào trong dụ ngôn? Nếu người Samaritanô chấp nhận nói với người vô phúc đang nằm đó trong vũng máu, Anh một linh hồn vô phúc! Sao xảy ra như vậy? Hãy vui lên! Hay một cái gì giống như vậy, rôi tiếp tục con đường của mình, thì tất cả những sự kiện đó không phải là mỉa mai và lăng mạ sao? Ngược lại ông đã làm một cái gì cho kẻ khác: “Ông ta lại gần, băng bó những vết thương, xức dầu và rượu, rồi đỡ nạn nhân lên lừa mình, đưa về quán trọ săn sóc. Hôm sau, lấy ra hai quan tiền, ông trao cho chủ quán mà bảo rằng: “Ông hãy săn sóc người ấy và ngoài ra, còn tốn phí hơn bao nhiêu, khi trở về, tôi sẽ trả lại ông”.

Điều mới lạ trong dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu không phải là Chúa Giêsu đòi hỏi một tình yêu cụ thể, phổ quát. Nhưng mới lạ ở tại một cái gì khác, Đức Giáo hoàng Biển Đức XVI viết trong quyển sách của ngài (x Chương 7 sách “Chúa Giêsu thành Nazarét”). Cuối dụ ngôn Chúa Giêsu hỏi người tiến sĩ luật kẻ đã hỏi Người, “Theo ông nghĩ, ai trong ba người đó [thầy Lêvi, thầy tư tế, người Samaritanô] là anh em của người bị rơi vào tay bọn cướp?”

Chúa Giêsu đem đến một sự đảo ngược bất ngờ trong quan niệm truyền thống về người anh em. Người Samaritanô là anh em chứ không phải là người bị thương tích, như chúng ta vẫn quan niệm. Điều này có nghĩa là chúng ta không phải đợi cho tới khi người anh em chúng ta xuất hiện trên đường đi của chúng ta, có lẽ là quá thê thảm. Chúng ta phải sẵn sàng nhận ra họ, gặp họ. Tất cả chúng ta được kêu gọi nên người anh em! Vấn đề của người tiến sĩ luật bị đảo ngược. Từ một vấn đề trừu tượng và lý thuyết, trở thành một vấn đề cụ thể và sống động. Câu hỏi không phải là: “Ai là người anh em của tôi?” Nhưng “ở đây và bây giờ tôi có thể là anh em của ai?”

Tôi là anh em của ai?

Trong quyển sách của ngài Đức Giáo hoàng đề nghị một sự áp dụng đương thời dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu. Ngài thấy toàn thể lục địa Phi Châu được biểu trưng trong người bất hạnh bị ăn cướp, bị thương tích, và để nằm chết bên lề đường, và ngài thấy, những thành phần của những xứ giàu có bắc bán cầu, hai người đi ngang qua, nếu không phải chính xác là những tay cướp.

Chúng ta có thể đưa ra một đề nghị áp dụng khác về dụ ngôn. Giả thiết, nếu Chúa Giêsu đến với dân Israel hôm nay và một người thông luật lại hỏi Người, “Ai là người anh em của tôi?” Người sẽ thay đổi một chút bài dụ ngôn và thay vì người Samaritanô Người sẽ đặt một người Palestin! Nếu một người Palestin hỏi Người cũng một câu hỏi, thì trong chỗ người Samaritanô chúng ta sẽ gặp một người Israel!

Chúng ta không áp dụng cho châu Phi và Trung Đông nữa. Nếu có ai trong chúng ta đang ngồi đây hỏi Chúa Giêsu câu hỏi “Ai là người anh em của con?” Thì Người sẽ trả lời sao? Chắc chắn Người sẽ nhắc chúng ta rằng người anh em chúng ta không những là người đồng hương Việt Nam máu đỏ da vàng với chúng ta, nhưng cũng là những kẻ ngoài cộng đồng chúng ta, không những là những người Kitô hữu mà còn những người Phật Giáo, không những là những người Công Giáo mà cũng là những người Tin Lành, không những là người cùng tín ngưỡng mà cả những người Cộng sản vô thần nữa. Nhưng Người sẽ nói thêm liền là điều này không phải là quan trọng nhất. Điều quan trọng nhất không phải biết ai là người anh em của tôi nhưng là thấy ở đây và bây giờ tôi có thể là anh em của những ai, tôi có thể làm người Samaritanô nhân hậu cho ai.

Hôm nay, Chúa nói với chúng ta: “Hãy đi và làm y như vậy”, làm như người Samaritanô đã làm. Tất cả chúng ta phải tiếp tục nhiệm vụ của người Samaritanô nhân hậu bên cạnh những người chúng ta gặp và chân thành giúp đỡ, băng bó các vết thương thể xác và tinh thần cho họ, những vết thương lòng, nghèo đói, ốm đau, bệnh tật, cô đơn và chết chóc… Đừng ngồi đặt vấn đề: “Ai là anh em tôi?”, nhưng hãy đi và tỏ ra “mình là anh em của mọi người”. Amen.

 

 

 

 

 

30. Yêu Thiên Chúa và yêu tha nhân

(Suy niệm của Lm. Giuse Vũ Thái Hòa)

 

Khi người thông luật đặt câu hỏi: “Thưa thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” và tìm được câu trả lời trong Luật: “Ngươi hãy yêu mến Đức Chúa Thiên Chúa của người, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực và hết trí khôn ngươi, và người thân cận như chính mình”. Chúa Giêsu trả lời: “Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống”.

Vì muốn cho người thông luật này hiểu rõ hơn thế nào là “người thân cận”, Chúa Giêsu kể dụ ngôn người Samari tốt lành.

Qua dụ ngôn, Chúa Giêsu giúp người thông luật và giúp chúng ta vượt lên trên cái nhìn hạn hẹp của mình. Người thân cận là tất cả mọi người, dù là người mình không ưa thích, không cùng màu da, không cùng tôn giáo, không cùng lập trường chính trị. Chúng ta đến gặp tha nhân với lòng bác ái và quãng đại. Như vậy, câu hỏi không còn là “ai là người thân cận của tôi?”, mà là “tôi là người thân cận của mọi người như thế nào một cách cụ thể?”

Ngày xưa, trong một làng nhỏ, tại miền Nam Trung quốc, có một em bé gái tiều tụy, đói rách và mang bệnh phong hủi. Khi biết em bị bệnh hủi, dân chúng dùng gậy gộc và gạch đá xua đuổi em ra khỏi làng.

Giữa cảnh hỗn loạn ấy, một nhà truyền giáo xông ra ẵm em bé trên tay để bảo vệ em khỏi những trận đòn và những viên gạch, hòn đá ném bừa bãi vào tấm thân bé bỏng của em.

Thấy có người mang em bé đi, dân làng mới chịu rút lui, nhưng miệng vẫn còn gào thét: “Đồ hủi! Đồ hủi!”

Với những giòng nước mắt chảy dài trên má, những lần nầy là những giọt nước mắt vui mừng chứ không phải là những giọt lệ buồn tủi, em bé hỏi vị cứu tinh của mình: “Tại sao ông lại lo lắng cho con?” Nhà truyền giáo trả lời: “Vì Ông Trời đã tạo dựng cả hai chúng ta, và cũng vì thế con sẽ là em gái của ta và ta sẽ là anh của con”

Suy nghĩ hồi lâu, em bé cất tiếng hỏi: “Con có thể làm gì để tỏ lòng biết ơn cứu giúp của ông?” Nhà truyền giáo mĩm cười đáp: “Con hãy trao tặng lại cho những kẻ khác tình yêu này càng nhiều càng tốt.”

Kể từ đó đến ba năm sau, khi em bé tắt thở cuối cùng, em đã vui vẻ băng bó các vết thương của các bệnh nhân khác trong trại cùi, đút cơm cho những người bị bệnh nặng, và nhất là em tỏ ra dễ thương và yêu mến tất cả mọi người trong trại. Lúc từ giã cõi đời, em bé chỉ mới 11 tuổi. Các bệnh nhân khác đã từng chung sống với em nói với nhau: “Bầu trời nhỏ bé của chúng ta đã về trời”.

Tinh thần Kitô giáo được tóm gọn trong hai điểm: yêu Chúa và yêu người. Cả hai luôn đi đôi với nhau. Hễ mến Chúa là phải yêu người. Càng yêu mến Chúa thì càng yêu người. Công thức Phúc Âm này không thể tách rời được trong đời sống của Kitô hữu.

Thánh Gioan Tông đồ có viết: “Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1 Ga 4:20). Như thế, tình yêu tha nhân là nơi chứng minh tình yêu của mình đối với Thiên Chúa.

Câu đầu và câu cuối của bài Tin Mừng hôm nay được nhấn mạnh bởi động từ làm. Câu đầu là câu hỏi của người thông luật: “Tôi phải làm gì để được sống đời đời?”. Câu cuối cùng là câu trả lời của Chúa Giêsu: “Cứ làm như vậy là sẽ được sống”, nghĩa là thực thi lòng bác ái xót thương không biên giới, không điều kiện với tất cả mọi người, như người Samari trong dụ ngôn đã thực hành. Như thế, đức ái không phải là một khái niệm trừu tượng, mà là một điều rất cụ thể.

Chúng ta thường dễ dàng yêu thích những người hợp với mình. Nhưng Chúa Giêsu dạy chúng tá phải yêu thương mọi người, kể những người không hợp với mình và thù ghét mình (Mt 5:44). Đó chính là tinh thần Kitô giáo, là giới luật mới lạ nhất mà chỉ có Chúa Giêsu truyền dạy cho chúng ta. Nếu chúng ta thực hiện được điều đó, chúng ta đích thực là con cái Chúa, và chúng ta sẽ “được sự sống đời đời làm gia nghiệp”.

Nguyện xin Chúa Nhân lành luôn ban ơn cho chúng ta niềm vui, sức mạnh và can đảm để yêu Chúa và yêu tha nhân trong đời sống thường nhật của chúng ta, nơi Nước Trời đã bắt đầu.

 

 

 

 

 

31. Ông hãy đi! và cũng hãy làm như vậy

(Suy niệm của Lm Uyen Nguyen)

 

Lời chào từ giã của Đức Giêsu. Một lời tiễn chân độc đáo, ý nghĩa dành cho người thông luật. Ông gặp Đức Giêsu trên đường lên Giêrusalem và hỏi Người một vấn đề rất cốt lõi. Đó là hành động để đạt sự sống trường sinh! Nhìn chung với người biệt phái, Đức Giêsu bị liệt vào hàng ngũ phá luật. Qua đó, người thông luật kín đáo hỏi thử Người:“Tôi phải làm gì để được sự sống trường sinh làm gia nghiệp”? Câu hỏi không mang tính viễn vông lý thuyết, nhưng rất cụ thể, biểu lộ chủ đích của hành động! Vì ông muốn chứng tỏ mình là kẻ đơn sơ chân chính.

Đức Giêsu hiểu cạn ý ông. Thay vì trả lời vào câu hỏi, Người hỏi lại ông: “Trong luật đã viết gì? Ông đọc thế nào”? (c.26). Vị thông luật trả lời ngụ ý tỏ ra am tường bằng trích dẫn hai luật theo đó không ai không coi là hệ trọng: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình” (c.27). Câu đáp thật chính xác. Đức Giêsu ngợi khen ông và khuyến khích ông: “Cứ làm như vậy sẽ được sống” (c.28).

Tuy nhiên, do sự thúc đẩy bên trong, nhưng bên ngoài, để tỏ ra ngay chính, chưa muốn dừng lại, ông chuyển đổi câu hỏi sang đối tượng được nêu lên trong luật, cụm từ ‘người thân cận’? Rất cụ thể, Người nói với ông như để chỉ ông xem toàn cảnh câu chuyện dụ ngôn mô tả những nhân vật mà mỗi người theo cách ứng xử riêng trước một tình cảnh rất đáng thương tâm. Trên con đường từ Giêrusalem dẫn xuống Giêricô, một lộ trình nếu phải đi thì khá xa, cảnh trí thì hiểm trở. Con đường len mình đổ dốc xuống đến Giêricô. Xảy ra cảnh một người bị kẻ cướp đánh nhừ tử, bỏ nằm nửa sống, nửa chết bên đường giữa khung cảnh quạnh quẽ. Có hai người lần lượt đi qua, một vị tư tế, một vị Lêvi, cả hai trong cùng một tư thế. Họ gặp thấy người bị cướp, không dám để tâm, né tránh sang bên lặng lẽ đi. Sau đó một người samari lữ hành cũng qua, ông thấy, ông dừng ngựa, xuống chăm sóc nạn nhân rồi đưa về quán trọ. Đức Giêsu hỏi: “Ai trong ba người đó là người thân cận của kẻ bị cướp”? Không do dự, ông đáp: “Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy”. Nghe vậy, Đức Giêsu bảo ông thay vì đưa tiễn: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy”.

Nội dung đàm đạo và các nhân vật trong toàn cảnh câu chuyện toát lên một yếu tố tương phản ngột ngạt ngầm ẩn bên trong. Bên này là những người lãnh đạo, giải thích luật, điều hành luật, thông luật, tư tế, Lêvi đền thờ. Bên kia là Đức Giêsu mà trong mắt họ thật đáng ghét, người Samari bội đạo, kẻ bị cướp nhơ nhớp. Tuy nhiên, khác xa với điều họ nghĩ, với Đức Giêsu thôi, Đấng đến không phải để hủy bỏ luật, dù một chấm phẩy, mà là để kiện toàn.

Riêng những lời nói, thì hai câu hỏi của Đức Giêsu và vị thông luật đặt cho nhau, đem so sánh, lối hành văn có sự khác biệt thật tế nhị mà dí dỏm. Một bên, kẻ giữ luật, nhiệm nhặt giữ khỏi ô uế, cấm sờ người thương tích sắp chết. Một bên là chủ của luật. Đàng khác, câu hỏi vị thông luật đặt lên ai là thân cận của tôi. Đức Giêsu đặt câu hỏi ai là thân cận của kẻ bị cướp. Từ hai cách đặt câu hỏi, với đại danh từ ‘của tôi’ và đối tượng của nó, cũng tỏ cho thấy đâu là não trạng dành cho vấn đề? Đại danh từ chỉ cái tôi phải chăng là ‘cái ngã’ làm nên tụ điểm trung tâm. Cái tôi mình đặt mốc xác định ‘thuộc về’ làm ra sự khác biệt hệ trọng, chính nó là sự minh định tính chất thân cận để có thể xác định tính cách đạo đức trong hành động thực thi luật yêu thương!

Dù sao, cuộc đàm thoại giữa Đức Giêsu và vị kinh sư cũng đã trải qua hơn 2000 năm. Câu chuyện Đức Giêsu kể thì rất đời thường, rất thời sự qua mọi buổi xưa nay. Điều đáng nói là vấn đề thực thi luật yêu thương, và âm vang của nó vẫn hằng vang vọng kêu gọi tỉnh thức.

Tuy hai thế hệ xưa và nay cách xa nhau. Tính chất người và người thì hằng đồng nhất chỉ cách xử trí thì khác biệt. Thế hệ xưa vốn dĩ vì lý do giữ luật để toàn vẹn, nên sinh ra những con người làm ngơ trước tình người, thế hệ nay làm sao quan tâm nổi khi có quá nhiều trào lưu trình làng quan điểm hấp dẫn như khuynh hướng hưởng thụ tích cực. Thời đại đổi thay nhưng bản tính con người vẫn không thay đổi. Luật yêu thương phú bẩm vào lương tri mang tính ràng buộc thì bất biến, luôn đòi hỏi người với người trong tinh thần trân trọng, đối xử đẹp và tiếp sức nhau. Đó là cốt lõi của luật.

Quan điểm của Đức Giêsu hướng đến tha nhân, là những kẻ thân cận không chỉ dựa vào Cựu Ước mà còn mới mẻ của Người. Người hướng đến với hết mọi người, người tốt như kẻ xấu, yêu hay ghét, gieo ơn hay phát tán khốn, vẫn phải cầu nguyện cho tất cả với tâm thức bao dung tha thứ… Đức Giêsu, trong tình yêu như vậy, vượt trên mọi rào cản luật lệ. Do vậy, thân cận không thu hẹp vào những người thân gần mà còn vượt tận xa bao quát.

Lý do để Đức Giêsu sống và dạy luật nội tâm kiểu mới của Người chính là Người đang tự quyết lên Giêrusalem, và còn nữa, vì vâng lệnh Cha Người trên đường loan báo “nước trời đang gần đến”, cứu khổ mọi người ví là nhân loại con Cha trên trời, như “mưa nắng trên kẻ lành người dữ” (x.Mt 5,45). Hơn nữa, Người nhìn luật yêu người là quy luật thực tiễn, thiết thân, vì đồng loại thì sát gần, trong nguyên lý muốn yêu xa, hãy bắt đầu gần từ những gì thực tế. Tình yêu của con người không thể chạm đến viễn vông, thiết nghĩ bắt đầu từ những gì gần gũi hay đã qua cảm nghiệm.

Hậu thế như Phaolô, một cách chí tình, ngài khuyên dạy các giáo đoàn tòng đạo từ ngài sống luật yêu thân cận, là hãy biết sống và tập sống:

“Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác” (Pl 2,4).

“Hãy luôn cố gắng làm điều thiện cho nhau cũng như cho mọi người” (Tx 5,15b).

“Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Giêsu Kitô” (Pl 2,5).

Lạy Chúa Giêsu, con xin lắng nghe, xin hãy dạy con sống chuẩn mực là ‘họa phẩm’ của Chúa.

 

 

 

 

 

32. Người Samari tốt lành – Flor McCarthy

(Trích dẫn từ ‘Phụng Vụ Chúa Nhật và Lễ Trọng’)

 

Suy Niệm 1. LÒNG NHÂN TỪ TỰ PHÁT

Alaska là một xứ sở hoang dã, cô độc, lẻ loi nhưng đẹp lạ lùng. Đó là một thánh địa cho những du khách thích phiêu lưu. Tuy nhiên vùng đất ấy không cho phép bạn xuống tinh thần. Các thị trấn ít ỏi và xa nhau. Những người sống ở đó phải đối diện với những thời kỳ cô lập lâu dài. Đặc biệt các chủ nông trại sống một đời sống rất lẻ loi.

Một lần kia, một người Mỹ đi du lịch Alaska trong một cái nhà di động (xe kéo) thì nỗi lo sợ kinh khủng nhất của ông đã ập đến: chiếc xe làm nhà bị gãy trục, và ông rơi vào tình huống khó khăn ở giữa một nơi không rõ là nơi nào. Ông cho gia đình rời khỏi căn nhà di động và quyết định đi bộ với hy vọng tìm được một ai đó có thể giúp đỡ họ. (Thời đó chưa có điện thoại di động).

Sau khi đi được ít dặm, ông đã gặp vận may: ông đến đúng một nông trại. Ông nói với chủ nông trại về tình trạng khó khăn của ông. Chủ nông trại rất thông cảm. May thay, ông này có máy hàn. Ông kéo căn nhà di động về sân nông trại với chiếc máy kéo của ông, và sửa chữa cái trục bị gãy. Khi công việc đã hoàn tất, người du khách lấy ví tiền và nói: “Tôi nợ ông bao nhiêu?”

“Ông không nợ tôi đồng nào” người chủ nông trại đáp.

“Nhưng tôi thấy tôi phải trả công cho ông”

“Ông đã trả công cho tôi rồi”, người chủ nông trại nói.

“Tôi không hiểu”, người du khách nói.

“Ông đã cho tôi niềm vui của gia đình ông trong mấy giờ liên”.

Người du khách ngạc nhiên nhưng vui sướng đã gặp một tấm lòng quảng đại như thế. Những người như thế làm chúng ta lấy lại niềm tin vào sự tốt lành, nhân từ của con người. Lòng nhân từ cũng là một mầu nhiệm như điều xấu. Nhưng ở đâu điều xấu làm đau buồn và chán nản thì lòng nhân từ làm vui sướng và đem lại cho chúng ta cảm hứng.

Tình trạng cao nhất mà chúng ta có thể đạt đến là khi lòng nhân từ trở thành một dòng nước ân sủng một cách dễ dàng, tự nhiên và không tính toán. Khi nó tuôn ra từ chúng ta mà chúng ta không nhận thấy, như môt chiếc lá từ cây mọc ra. Trong trường hợp của người chủ nông trại, rõ ràng chúng ta gặp được một hành động của lòng nhân từ tự phát. Cũng giống như trường hợp của người Samari. Rõ ràng lòng nhân từ của người Samari trở thành thói quen, tự phát, một bản tính thứ hai. Điều tốt đẹp mà người ấy làm cho người khác thì người ấy không coi là một việc gì đặc biệt. Đối với một số người, lòng quảng đại nằm trong những hành động lác đác, lẻ loi, đối với những người khác, đó là một cách sống.

Làm thế nào để một người đến được tình trạng hạnh phúc ấy? Nó không thể được hoàn thành một sớm, một chiều. Nó phải được học hỏi bằng sự thực hành lâu dài. Nó không được hoàn thành bởi một ít công việc vĩ đại nhưng bằng nhiều công việc nhỏ bé. Người ta làm những công việc vĩ đại không phải bởi sự bốc đồng nhưng bởi một loạt những công việc nhỏ được liên kết với nhau. Phần thưởng thật sự cho một hành động tốt là để làm cho việc tốt kế tiếp được dễ dàng hơn. Mỗi hành động nhỏ của ngày thường làm nên hoặc không làm nên nhân cách.

Điều gây khó chịu trong câu chuyện của Đức Giêsu không phải ở chỗ một người vô tội bị tấn công, nhưng ở sự kiện hai người mà bạn chờ đợi giúp đỡ người bị thương đi ngang qua không bày tỏ chút thương xót nào với người ấy. Một người Kitô hữu chân chính không dửng dưng trước sự đau khổ của người khác.

“Ai là người lân cận của tôi?” người thông luật hỏi. Câu trả lời chung của thời ấy sẽ là: Người lân cận của tôi ở trong cùng một bộ tộc hoặc cùng phe nhóm, tôn giáo của tôi. Nhưng lời đáp của Đức Giêsu đưa ra là: “Người lân cận của tôi là bất cứ ai tôi chọn để trở nên người lân cận”. Lời đáp thật sự là tôi không quan niệm ai là người lân cận của tôi nhưng ai là người mà tôi muốn đối xử như một người lân cận?

Tôi là loại người lân cận nào? Đây là một câu hỏi mà thỉnh thoảng mỗi người chúng ta phải tự hỏi, nhưng đó là một câu hỏi mà chính chúng ta không thể tự trả lời.

Suy Niệm 2. TRẮC NGHIỆM VỀ NHÂN CÁCH

Theo Tolstoy, một bi kịch không nói với chúng ta về toàn bộ đời sống của một con người. Điều nói gây ra là đặt con người vào một tình huống. Rồi tuy theo cách mà con người xử sự với tình huống ấy, nhân cách của người ấy được bộc lộ cho chúng ta.

Đây đúng là điều mà Đức Giêsu thực hiện trong câu chuyện của Người. Người đặt thầy tư tế, thầy Lêvi và người Samari vào một tình huống. Họ được đặt trước một quyết định: hoặc dừng lại để giúp đỡ người bị thương, hoặc tiếp tục công việc riêng của họ? Không có lối thoát cho họ, không có chỗ để trốn tránh. Họ phải dấn thân vào con đường này hoặc con đường khác. Thầy tư tế và thấy Lêvi quyết định đi qua; người Samari quyết định dừng lại và giúp đỡ.

Khủng hoảng tạo ra nhân cách, nó hầu như làm biểu lộ nhân cách. Trong những thời kỳ khủng hoảng, con người bộc lộ điều đã có sẵn trong tâm hồn họ: con người quảng đại hay con người ích kỷ, anh hùng hay kẻ hèn hạ. Một lúc nào đó hoặc một biến cố nào đó có thể khiến một người bộc lộ bản chất của họ. Gặp một người bị thương tích là một thời điểm cho thầy tư tế, thầy Lêvi và người Samari.

Điều đó đã bộc lộ điều gì về nhân cách của thầy tư tế và thầy Lêvi? Nó bộc lộ một điều rất đáng lên án, tức là họ là những người vị ngã. Họ không quên mình để giúp đỡ người khác. Khi có sự cố xảy ra, họ đặt họ lên hàng đầu.

Và điều đó đã bộc lộ điều gì về nhân cách của người Samari? Một điều rất đáng khâm phục đó là ông là một con người quan tâm chăm sóc cho người khác. Ông thuộc loại người không thể bỏ qua một người khác đang đau khổ và tìm cách làm vơi đi nỗi đau của họ.

Đời sống trắc nghiệm chúng ta liên tục. Mỗi ngày, chúng ta được trắc nghiệm bằng những cách nho nhỏ; và thỉnh thoảng bởi những cách lớn. Những trắc nghiệm ấy cho biết chúng ta là loại người nào: người có bản chất vị kỷ, hoặc người có bản chất vị tha.

Những cơ hội lớn thường hiếm hoi, mà ít người hoàn thành. Nhưng chúng ta có được nhiều cơ hội nhỏ, những cơ hội khó nhìn thấy hơn để chúng ta bày tỏ sự chăm sóc và mối quan tâm với người khác đang cần được giúp đỡ.

Sự trưởng thành về đức hạnh được xác định không phải bởi những điều chúng ta làm trong những trường hợp phi thường, nhưng bằng thái độ bình thường của chúng ta. Chính các sự việc khiêm tốn mỗi ngày thay vì là những biến cố to lớn bộc lộ tư cách rõ nhất. Mỗi sự việc nhỏ hình thành nhân cách của chúng ta.

CÂU CHUYỆN KHÁC

Larry Skutnik, 28 tuổi là một người đàn ông nhút nhát, làm việc trong văn phòng chính phủ ở Washington. Vào buổi chiều ngày 13 tháng Giêng năm 1982, một cơn bão tuyết nghiêm trọng tràn vào thành phố. Ông đang trên đường trở về nhà và chạy trên con đường tắc nghẽn băng qua một chiếc cầu trên sông Potomac Kiver. Ông bỗng nhận thấy nguyên nhân của sự việc – một chiếc máy bay với bảy mươi chín hành khách đã đâm sầm vào dòng sông. Ông ra khỏi xe, tìm kiếm và thấy có ba người, đang bám chặt vào đuôi máy bay chổng ngược bên trên mặt nước.

Một máy bay trực thăng đã đưa hai người trong số đó vào bờ, còn người thứ ba, một phụ nữ rơi xuống nước giá lạnh và bắt đầu chìm xuống. Không chút nghĩ ngợi, ông cởi giày và áo khoác lặn xuống nước và đưa người phụ nữ ấy lên bờ. Sau đó, ông nói ông chỉ muốn về nhà. Sau một chuyến đi ngắn đến bệnh viện, ông được phép về nhà.

Hành động mạo hiểm cứu người của ông được chiếu lên truyền hình. Sáng hôm sau, ông thức dậy thấy mình trở thành một anh hùng của quốc gia. Nhưng ông tránh né mọi sự quảng cáo. “Từ “anh hùng” làm tôi e thẹn” ông nói: “Tôi đã phản ứng một cách tự nhiên, thế thôi”.

Thật đẹp khi biết rằng người ta vẫn còn thừa nhận sự cao cả của một hành động như thế. Và cũng thật đẹp khi biết rằng người ta có thể làm một hành động như thế và coi đó như một việc bình thường và tự nhiên.

 

 

 

 

 

33. Giới luật yêu thương – R. Gutzwiller

 

GIỚI LUẬT

Như Đức Giêsu lên đường đi Giêrusalem, người ta cũng lên đường tiến về Giêrusalem trên trời. Vấn đề đặt ra ở đây là làm thế nào biết được con đường dẫn đến nơi đó và điều cốt yếu để đạt đích hệ tại điều gì.

Câu hỏi của luật sĩ nói lên 2 chủ đề ấy: ‘Lậy Thầy, tôi phải làm gì để được sống đời đời?’. Câu trả lời quá rõ. Đức Giêsu để cho luật sĩ tự rút từ sách luật ra câu trả lời: đó là một mệnh lệnh kép về lòng yêu mến Thiên Chúa và tha nhân.

+ Kính mến Thiên Chúa

Thiên Chúa là cùng đích. Yêu mến Thiên Chúa là con đường. Đây là tâm điểm của Cựu ước và Tân ước, của Lề Luật và Phúc âm, và xét từ bên ngoài, của ngoại giáo và Kitô giáo, qua môi miệng những đại biểu tốt nhất, đều đồng tâm nhất trí như vậy.

Yêu thương là mầu nhiệm thâm sâu nhất của nền đạo đức tự nhiên và của nền luân lý được đặt lên trên nền tảng siêu nhiên. Vì cả 10 giới luật không là gì khác hơn là nhiều phạm vi hoạt động của cùng một giới luật yêu thương. Các nhân đức chỉ là những nhánh phát sinh từ thân cây ấy thôi. Lời cầu nguyện một đàng phát xuất từ tình yêu, đàng khác lại cầu xin tình yêu. Phụng vụ chẳng qua chỉ là thờ kính Thiên Chúa, phát sinh do tinh thần hy sinh và đạo đức, đồng thời cũng là ân huệ Thiên Chúa ban cho con người trong tình yêu thương hợp nhất hay nói cách khác là ‘thông hiệp, hiệp lễ’.

Chính giáo luật cũng nói đến sự liên hệ căn bản với tình yêu. Vì luật là mệnh lệnh của tình yêu, là thân thể mà tình yêu sẽ gán cho một tâm hồn. Bởi vậy, tình yêu là nguyên lý thành lập, là sức mạnh sáng tạo, là thành tố cốt yếu của lòng kính tin, hợp nhất và đơn nhất hoá mọi điều.

+ Yêu thương tha nhân

Nhưng con người không phải là lữ khách độc hành, một mình lên đường đi về với Chúa. Như suốt lịch sử thế giới cho thấy, cuộc đời, theo kế hoạch của Thiên Chúa là một bước đi của các dân tộc đến cùng Thiên Chúa, một đoàn lũ hợp nhau trở về nơi định cư của mình. Đó là lý do tại sao một tu sĩ không nên rút lui vào nơi thanh vắng một mình. Sống cốt yếu là sống cộng đoàn. Thế nên, tình yêu chân thực đối với Thiên Chúa phải thực sự triển nở nơi tình yêu đồng loại.

Những thái độ sẵn lòng đối với Thiên Chúa mà ta có thể sánh như cái đà ‘hàng dọc’ sẽ triển khai thành ‘hàng ngang’ đối với đồng loại. Tôn giáo xét tự nền tảng vốn có tính xã hội, nó không phải là khu vực của một cá nhân mà ở đó có thể quan tâm đến anh em mình hay là không cũng được. Ngay cả một thày tu trong căn phòng nhỏ bé của tu viện, một ẩn sĩ trong sa mạc, tự bản chất vẫn hiện diện một cách ‘xã hội’ trong lời cầu nguyện và thành tâm sám hối.

Không ai có thể và được phép tách biệt khỏi cộng đoàn. Như tình yêu đối với Thiên Chúa nhất thiết phải sinh ra tình yêu đối với đồng loại, thì tình yêu đối với đồng loại cũng vậy phải do từ tình yêu chân thành đối với Thiên Chúa. Người ta có thể coi đó (và thực đã có như vậy) như một tình bằng hữu, một chủ nghĩa nhân đạo, nhưng tình yêu ấy không trợ giúp anh em dựa trên nền tảng chính yếu: cùng nhau bước tiến trên đường về với Chúa. Và vấn đề là ở chỗ đó.

Vậy, sau khi đề cập đến tình yêu kép đôi này, Đức Giêsu nhấn mạnh đến điểm căn bản sâu xa này: ‘hãy làm thế và ông sẽ được sống’. Nói cách khác: ‘anh đã đi đúng đường, đã tiến tới gần đích, ‘là sống trong Chúa’.

DỤ NGÔN

Luật sĩ muốn biện bạch. Xét cho cùng, ông chẳng thực tâm trong khi đặt vấn nạn mà cũng chẳng có tinh thần tìm tòi cho bằng ông muốn ‘thử’ Đức Giêsu. Thua cuộc rồi, ông cố tránh né yêu sách gắt gao và hỏi thêm để che đậy sự thất bại và dùng mọi mánh khoé để Chúa phải lúng túng.

Dẫu thế, Đức Giêsu vẫn giải đáp cho vấn nạn ông nêu ra. Ngài đưa ra một thí dụ, thí dụ về một con đường. Một người đi từ Giêrusalem xuống Giêricô bị lũ cướp bóc lột và bị đánh đập dở sống dở chết. Ai trên đường đi về với Chúa ắt có thể cũng chịu chung một số phận như thế. Thực ra qua bao thế kỷ, cho thấy con người luôn gặp phải như thế trong suốt cả hành trình lịch sử của mình. Satan đã cướp phá nhân loại này, cướp mất đời sống siêu nhiên phong phú của nhân loại khi còn ở trong vườn Diệu quang xưa kia, khiến nhân loại phải chịu cảnh dở sống dở chết như bây giờ.

Những khả năng hiểu biết về mặt tôn giáo, hành động theo luân lý, đã bị giảm thiểu thật đáng kể. Những khả năng ấy không chết đi, mất đi mà là bị tổn thương trầm trọng. Có những người cũng bước qua con đường ấy và được coi là những người luôn có tình mến Chúa: các tư tế và Lêvi chẳng phải là những người luôn luôn phụng sự Thiên Chúa đó sao?

Họ từ đền thờ ra đi và vẫn khoác trên mình những dáng vẻ hoa mỹ và oai vệ của lễ nghi. Họ bước qua mà cứ phớt tỉnh chẳng màng chi đến những người không may gặp nạn và họ lại còn đấm ngực tự mãn cho rằng thái độ dửng dưng ấy bằng lòng mến yêu Thiên Chúa của họ. Vị tư tế tự nhủ rằng mình hiện diện chỉ để phục vụ Thiên Chúa chứ không để phục vụ nhân loại. Còn Lêvi lại tự nghĩ rằng mình phải cẩn thủ sự thuần khiết của bậc Lêvi, nhân danh tình yêu đối với Thiên Chúa, không để mất nó khi rờ tới một người có thể chết trong tay mình.

Hai thứ người này tưởng rằng mình yêu Thiên Chúa mà không cần yêu đồng loại. Và những ai cư xử không dựa trên xã hội đang khi vẫn phát huy những việc đạo đức, những nghi tiết những việc phụng thờ, là những người đã muốn tách hẳn tôn giáo khỏi thế tục, muốn hoàn tất thái độ chẳng có chút gì là đạo đức, như các tư tế và Lêvi bỏ qua không màng tới nhân loại đang lâm cảnh đau thương.

Một lữ khách thứ ba xuất hiện, đó là một người ngoại, người xứ Samaria, người này hẳn là phải đi một đoạn đường dài và xa hơn những người kia; có thể là một thương gia, luôn bôn tẩu ngược xuôi. Con người đó hẳn là rất xa lạ với nạn nhân kia, khác quốc tịch, khác cả tôn giáo. Xét mối tương quan nào đi nữa, bên ngoài hay bên trong, dân sự hay tôn giáo, hắn cũng là một kẻ xa lạ hoàn toàn.

Nhưng chợt thấy một người bị lâm nạn nửa sống nửa chết như thế, hắn tiến lại gần ngay. Qua cử chỉ ấy, hắn trở nên một người rất thân cận của nạn nhân. Chính hắn đích thân mang nạn nhân đến quán trọ và vì gấp rút qua hắn đành ra đi; để lại số bạc cần thiết và hứa sẽ trả số còn lại khi trở về. Như thế hắn vẫn tiếp tục quan tâm đến nạn nhân xấu số và trong tâm hồn không thể quên người ấy được, trong khi mong mỏi sớm về gặp lại.

Một người khá xa lạ lại nên người gần gũi, thấy tha nhân lâm nạn, hắn nên bạn thân ngay. Và đó không phải đơn giản là một thứ bác ái cảm tình, màu mè, nhưng thật là một hành vi ra tay trợ giúp. Ta có thể nhận ra tính tốt của hắn qua các chi tiết sau:

‘Lại gần, băng bó thương tích, xức dầu và rượu, đoạn vực người ấy lên lừa của mình mà đưa về quán trọ săn sóc. Hôm sau, lấy ra hai quan tiền ông trao cho chủ quán mà bảo: ông hãy săn sóc người ấy, và phải tiêu pha gì thêm thì khi trở về tôi sẽ trả cho ông’.

Người Samaria được đưa ra làm tiêu biểu ấy chính là Đức Kitô. Nhân loại đang cơn hấp hối, Ngài không bỏ rơi mà còn từ trời cao xuống thế, cất bước lên đường, ân cần săn sóc nhân loại, cúi xuống, đổ tràn dầu và rượu các nhiệm tích trên những vết thương do tội lỗi gây nên. Ngài đã dẫn đưa nhân loại vào Giáo Hội là quán trọ trong cuộc hành trình qua bao thế hệ, Ngài đã uỷ thác cho Giáo Hội việc ân cần chăm sóc chữa trị nhân loại; Ngài đã trả bằng giá máu Ngài và còn hứa thanh toán số còn lại trong ngày sau hết, tức là ngày Ngài Quang Lâm: khi ấy mọi thụ tạo được lành lặn toàn vẹn sẽ tiến về cùng đích của cuộc hành trình.

Để kết thúc dụ ngôn, Ngài khuyên bảo: ‘Hãy đi và làm như thế và ông sẽ được sống’.

Như thế, con đường lại được đặt thành vấn đề. Vì từ lúc này, con người biết: mình phải đi con đường nào và phải bước đi trên con đường ấy bằng tinh thần nào; điều chi sẽ xảy đến cho mình và người lữ khách sẽ nhìn rõ bổn phận nào phải thi hành đây. Bởi đó, câu chuyện này phải là một dấu định hướng thực sự.

 

 

 

 

 

34. Chú giải của Fiches Dominicales

 

THEO CHÂN ĐỨC GIÊSU, TRỞ NÊN NGƯỜI THÂN CẬN VỚI BẤT CỨ AI GẶP NẠN

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI

Một giới luật yêu thương

Đức Giêsu đã lên đường đi Giêrusalem, nơi Người sẽ tự ý dâng hiến mạng sống vì yêu anh em mình. Lúc đó có môt người thông luật đặt câu hỏi này để thử Người: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?”. Đức Giêsu đáp lại bằng một câu hỏi: “Trong luật đã viết gì? ông đọc thế nào?”. Giống như một cậu học sinh trả lời cho “người mà ông ta muốn thử tầm hiểu biết và tính chính thống về đạo lý, vị thông luật bắt đầu trích dẫn lệnh truyền của sách Đệ Nhị Luật 6,4, mà mọi người Do Thái đạo đức đọc mỗi ngày hai lần trong kinh Shema: “ngươi hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực và hết trí khôn ngươi”. Và ông liền đọc tiếp Luật của sách Lêvi 19,l8: “Và người thân cận như chính mình”. Trích dẫn câu Kinh Thánh ấy hoàn toàn phù hợp với giáo huấn của Đức Giêsu. Người vừa “khen ngợi câu trả lời, lại vừa khuyên nhủ vị thông luật hãy thực thi giới luật yêu thương theo hai chiều kích ấy. “Làm” như vậy sẽ cho phép ông nhận được “sự sống đời đời” làm gia nghiệp, điều ông đã thắc mắc qua câu hỏi ban đầu.

Để đem ra thực hành

“Cuộc đối thoại ngay sau đó được chuyển sang một câu hỏi mới của vị thông luật, “muốn chứng tỏ mình là người công chính”: “Những ai là người thân cận của tôi?”. Ta càng hiểu rõ hơn tại sao có câu hỏi đó, nếu ta biết rằng có một vài khoản trong Lề Luật tương phản với nhau; trong một vài trường hợp – như phần tiếp theo của bản văn Tin Mừng sẽ cho thấy lòng yêu mến Thiên Chúa và lòng yêu người thân cận xem ra loại trừ nhau.

Đức Giêsu tránh trả lời trực tiếp, để khỏi sa vào cái “mớ bòng bong” của khoa giải các nố luật. Người nêu ra cho nhà thông luật ấy một dụ ngôn… mở ra cho giới luật yêu thương tha nhân một lãnh vực không giới hạn.

Sự kiện xảy ra trên quãng đường dốc rất thuận lợi cho đạo tặc phục kích; con đường sa mạc (dài 25 cây số) từ Giêrusalem đến Giêricô là nơi thấp hơn kinh đô đến 1090 mét.

Ngoài tên đạo tặc và người chủ quán, ba nhân vật hết sức điển hình là một “thầy tư tế’, rồi một “thầy Lêvi”. Cả hai là khách qua đường, sau cùng là “người Samaria”. Cả ba người đều bất ngờ gặp “người bị kẻ cướp trấn lột đánh nhừ tử, rồi bỏ lại nửa sống nữa chết ở bên đường”; ta không biết thân thế trong đạo ngoài đời của người đó ra sao. Lối hành văn theo một khuôn mẫu định sẵn của dụ ngôn càng làm nổi bật nét giống nhau và khác nhau trong cách xử sự của các nhân vật.

– Người đầu tiên đi trên đường này là một “thầy tư tế”, người của phụng tự, người của Đền Thờ. Ông trông thấy kẻ bị thương, nhưng ông cũng nhớ đến lệnh cấm trong sách Dân Số 19,11 – 13,16: “Ai chạm vào xác chết… vào một người bị ám sát…một người chết, sẽ mắc dơ trong cả ngày, ông quên mất lời Chúa trong sách ngôn sứ Ôsê 6,6: “Ta muốn lòng nhân từ chứ.không muốn hy lễ”. Ông “tránh qua bên kia mà đi”.

– Sau đó tình cờ có thầy Lêvi, một nhân vật tượng trưng cho giới lãnh đạo Do Thái giáo, ông “cũng thấy, cũng tránh qua bên kia mà đi”, chắc hẳn cũng vì những lý do vừa nói.

– Sau cùng, “một người Samaria đi đường” cũng tới chỗ ấy H. Cousin nêu rõ: “Người này là một người lạc giáo, chỉ cộng nhận bộ Luật viết, là Ngũ Kinh, mà phi bác Luật truyền khẩu. Dưới con mắt của vị thông luật, hẳn đó là người hoàn toàn đối chọi với hai vị tôi tớ đáng kính của Đền Thờ.” (“L’evangile de Luc”, Centurion, tr. 158).

“Vậy trong khi hai vị kia tránh xa người mà họ coi như một xác chết, và có thể khiến họ thành ra dơ, thì người Samaria “chạnh lòng thương” – giống như chính Đức Giêsu chạnh lòng thương trước nỗi đau của bà goá Naim ở 7,13 – khi thấy bà đau khổ. Trong khi hai vị giáo sĩ kia, vì tôn trọng luật về thanh tẩy đã tách rời lòng mến Thiên Chúa với lòng yêu tha nhân, và… đã tránh qua bên kia đường, thì người Samaria lại gần, lấy dầu, lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc”. Bằng hành động, ông đã chứng tỏ, ông hiểu rõ ý Thiên Chúa mà ngôn sứ Ôsê đã diễn tả, hơn những vị đại diện Do Thái giáo chính thống kia nhiều.

Meynet còn lưu ý thêm: “Không ai là người ngoại” trong số ba ứng viên cứu nạn kia, nhưng cả ba đều có đạo và tuân giữ luật. Nhưng thầy tư tế, và thầy Lêvi đứng về phía quân cướp…; vì cũng như bọn đó, các ông bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết, các ông còn mang tội không cứu giúp người bị nạn. Còn người Samaria, là quân lạc đạo bị người Do Thái khinh miệt và khai trừ, thì lại yêu người bị thương như chính mình: ông hy sinh bản thân, hy sinh vật cỡi, hy sinh tiền bạc” (“L’Evangile de Luc. ánalyse rhétorique”, cuốn 2, trg 126).

Trở nên người thân cận với bất cứ ai gặp nạn.

Để kết thúc dụ ngôn, Đức Giêsu đổi ngược lại câu hỏi, mà vị thông luật đã đặt ra hồi nảy: “Vậy ai là người thân cận của tôi?”. Đức Giêsu hỏi lại ông ta: “Theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp?”

Không do dự, vị tiến sĩ luật đáp rất chính xác: “Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy”. Như vậy, theo ông, không cần biết ai là người thân cận của mình nữa, mà điều quan trọng là tìm cách nào để trở nên người thân cận, người gần gũi với bất cứ ai đang cần giúp đỡ. H. Cousin giải thích: “Hỏi ai là người thân cận của mình, vị thông luật tự đặt mình làm trung tâm thế giới, và nhìn mọi người như những vệ tinh quay chung quanh mình. Đức Giêsu đảo ngược vấn đề. Người thân cận là người thực thi lòng thương xót, chứ không phải người hưởng thụ lòng xót thương”.

– Đến lúc này, Đức Giêsu chỉ cần kêu mời người đối thoại, hãy chứng tỏ tình thương huynh đệ nhưng-không, vô vị lợi, thực tế, giống như người Samaria lạc đạo “ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy!”

Chúa nhật XIII, chúng ta đã theo chân Đức Giêsu lên đường đi Giêrusalem. Hôm nay, chúng ta hiểu rằng con đường lên Giêrusalem phải qua tình thương huynh đệ, là luật vượt trên mọi luật.

BÀI ĐỌC THÊM:

Hãy là người thân cận của mọi người.

Mọi người đều biết dụ ngôn người Samaria cho ta chứng kiến một sự đảo ngược. Câu hỏi được đặt ra lúc đầu là: “Ai là người thân cận của tôi?” Cuối cùng lại trở thành “Ai đã là người thân cân với kẻ bị rơi vào tay bọn cướp? “.

Sự đảo ngược này mang đầy ý nghĩa và nhiều đòi buộc mới mẻ. Thật vậy, chỉ định trước ai, là đối tượng của lòng xót thương nơi ta, thiết tưởng là thuận tiện hơn đấy. Hãy để ý xem sinh tử sở hữu: “của tôi” (thân cận của tôi) được đặt ở chỗ nào. Người ta đã chỉ trích khá nhiều công việc từ thiện của một vài mệnh phụ, chuyên làm việc từ thiện, các bà ấy có khách hàng của các bà (xin tạm gọi vậy). Người thân cận không phải’ một khách hàng, cũng không phải cơ hội để ta thực hành nhân đức. Người thân cận là người cải hoá ta, người bắt ta trở về với mình để kiến tạo ta nên một người thực sự gần gũi.

Trở nên gần gũi không dễ dàng đâu. Cần phải có trái tim, nếu không sẽ trở thành giả tạo. Cũng cần phải có sự sáng suốt và nhất là sự tế nhị cao độ đến nỗi có thể cho đó là một chút nhẹ dạ. Điều đẹp đẽ nhất trong cử chỉ của người Samaria là tính vô-vị-lợi của ông; ông không màng tới một lời cám ơn.

Có những người khiến người khác phải mang nặng quyền lực của họ. Nhưng kẻ đặt trên vai người khác gánh nặng bác ái từ thiện của họ, thiết tưởng còn trầm trọng hơn. Chỉ có bác thật sự khi nó giải thoát, khi nó khiến tôi trở nên người gần gũi, nên người anh em vì vốn chẳng ai mắc nợ ai điều gì. Hoàn toàn nhưng không.

Được mời gọi “hãy làm như vậy”, cùng với vị thông luật.

Sao lại trách cứ vị tư tế thánh thiện và vị “phó tế” nhiệt thành này? Họ là những người có trách nhiệm phục vụ để Thiên Chúa được tôn vinh và phụng thờ trên hết mọi sự. Hai người tôi tớ trung thành ấy có lý do chính đáng để giữ sự trong sạch theo luật định, bởi vì “ai chạm vào xác chết (…), hoặc một người bị ám sát, một người chết (…) sẽ mắc dơ trong 7 ngày ” (Ds 19,11-13.16)… Trong trường hợp đó vị tư tế hoặc thầy Lêvi không được làm việc phượng tự.

Những người giữ luật như vậy lầm rồi. Vì khi giữ luật, họ lại phản bội luật. Khi tưởng rằng tôn kính Thiên Chúa, họ lại xúc phạm đến Người. Thiên Chúa ở đó kìa, Người ẩn mình dưới dạng một người bị thương nửa sống nửa chết trong cái hố bên đường.

Đấy không phải lúc tra ván xem nạn nhân thuộc tôn giáo nào, quốc tịch nào, chủng tộc hoặc ngôn ngữ nào, cũng không phải là lúc nhút nhát ẩn mình sau tấm bình phong truyền thống để được an toàn. Việc đạo đức và lòng sùng kính chỉ là những phương tiện non yếu và tạm thời phải nhường chỗ cho đức bác ái là cái tuyệt đối nhất định. Đức ái bày tỏ ra trong tình yêu thương người thân cận là bằng chứng cụ thể tình yêu chân thành của ta đối với Chúa.

Kết cục có hậu, cái bẫy đã không hoạt động và viên tiến sĩ luật đã hiểu ra bài học thực hành. Ông ấy, và sau ông, cả chúng ta nữa, đều được mời gọi hãy làm như vậy. Không phải Lề Luật có thể cứu độ, cũng không phải các nghi thức và việc tuân hành luật, nhưng chính là việc hoán cải tâm hồn và Tình Yêu được phục vụ trước hết.

Hiểu Luật theo cách của Đức Giêsu, không cần tìm xem ai là người thân cận, nhưng đúng là làm thế nào để “trở nên người thân cận của ai đó?”, là biết “chạnh lòng thương” biết gạt bỏ mọi thành kiến về giai cấp và chủng tộc, về địa vị và tôn giáo.

Khi cử hành tiệc Thánh Thể, ta đã nhận biết và tiếp đón Chúa (Lời Chúa và Bánh), thì khi ra về, hãy cố gắng đừng giả bộ không nhận ra hoặc lẩn tránh Chúa khi ta gặp Người bên vệ đường.

 

 

 

 

 

35. Ai là người thân cận của tôi? – Lm Vũ Phan Long

 

Trong lãnh vực yêu thương người thân cận, người ta không được nghĩ từ bản thân, nhưng phải khởi đi từ nhu cầu thực tế của bất cứ người nào ta gặp trên đường ta đi.

NGỮ CẢNH

Đức Giêsu vừa mới đặt đối lập các môn đệ như là “những người bé mọn” với “các bậc khôn ngoan thông thái” (10,21); Người tuyên bố rằng các môn đệ có phúc vì được thấy được nghe nhiều điều mà các ngôn sứ và vua chúa không được (10,23-24). Nay tác giả Lc tiếp tục phần tường thuật hành trình lên Giêrusalem bằng cách giới thiệu một trong các vị thông thái để ông này hỏi Đức Giêsu và trắc nghiệm giáo huấn của Người (10,25-28). Mối phúc được công bố trên các môn đệ nay được nối tiếp bằng một đoạn văn mang tính khuyến thiện nói về sự sống đời đời và tình yêu đối với Thiên Chúa và người thân cận. Sau đó, do vị thông luật còn cật vấn, Đức Giêsu đã kể Dụ ngôn người Samari nhân hậu (10,29-37) để minh hoạ đòi hỏi của tình yêu.

BỐ CỤC

Bản văn có thể chia thành hai phần chính:

1) Điều kiện để được sống đời đời (10,25-28):- Người thông luật đặt câu hỏi (c. 25),

– Đức Giêsu trả lời bằng câu hỏi (c.26),

– Người thông luật trả lời bằng cách trích Kinh Thánh (c. 27),

– Đức Giêsu xác nhận (c. 28);

2) Dụ ngôn người Samari nhân hậu (10,29-37):

– Người thông luật cật vấn (c. 29),

– Đức Giêsu kể dụ ngôn để đưa tới câu hỏi (cc. 30-36),

– Người thông luật trả lời (c. 37a),

– Đức Giêsu xác nhận (c. 37b).

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI

– Thử (25): Động từ ekpeirazein, “test”, để diễn tả một thái độ thù nghịch. Chính câu hỏi về người thân cận mới là cái bẫy giăng ra cho Đức Giêsu.

– Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi (27): Trước tiên, vị thông luật trích Đnl 6,5 theo bản LXX. Đây là phần mở đầu của kinh Shema, tức là lời tuyên xưng đức tin mà người Do Thái đọc mỗi ngày hai lần.

Các phương diện của con người được nói đến ở đây phải được hiểu theo nghĩa Cựu Ước: kardia, “tim, lòng”, là những phản ứng cảm xúc nhanh nhạy của con người; psychê, “linh hồn”, là sinh lực và khả năng nhận thức; ischys, “sức lực”, là chiều hướng bản năng, và dianoia, “trí khôn”, là khả năng trí tuệ và lên kế hoạch. Tổng hợp lại, các phương diện này muốn diễn tả toàn thể con người.

– yêu mến người thân cận như chính mình (27): Câu đáp thứ hai này trích Lv 19,18b (vẫn theo bản LXX), nhưng nối với câu trước như một đơn vị duy nhất. Không có chỗ nào trong Cựu Ước liên kết hai điều này với nhau cả. Chính Đức Giêsu đã xác nhận cách làm này, và như thế Người đã đơn giản hoá mà cũng là đào sâu 613 qui định của Lề Luật.

Trong sách Lêvi, “người thân cận” ở thế song đối với “những con cái của dân ngươi”, nghĩa là người Ít-ra-en. Ở Lv 19,34, tình yêu có mở rộng đến cả “ngoại kiều” (gêr) trong xứ (x. Đnl 19,10), nhưng không mở ra với những người khác, chẳng hạn các gôyým, “các dân [ngoại]”.

– Cứ làm như vậy là sẽ được sống (28): nghĩa là được sống đời đời. Chỉ người nào đưa điều răn yêu thương ra thực hành thì mới đạt được sự sống. Động từ zêsê (“anh sẽ được sống”) rất có thể gợi đến Lv 18,5 là câu có lời hứa ban sự sống cho ai vâng phục các quy tắc và quyết định của Đức Chúa. Như thế, những lời Đức Giêsu nói đã thêm vào một lời khuyên cho lệnh truyền của Lề Luật vì lệnh truyền này vẫn còn có tính lý thuyết. Và đây chính là bài giáo lý tác giả Lc nhắm gửi đến cho độc giả Kitô hữu.

– từ Giêrusalem xuống Giêrikhô (30): Theo sử gia Gioxép (J.W. 4.8,3 § 474), còn đường này dài khoảng 150 stadia (khoảng mười tám dặm, một dặm [stadion] dài khoảng 185m) đi qua vùng “sa mạc và lởm chởm đá”. Giêrikhô, “thành phố chà là” (2 Sb 28,15), nằm kề ranh giới miền Pêrê, dọc theo một tuyến đường giao thông quan trọng, là một điểm chiến lược mà đế quốc Rôma quan tâm trong việc cai trị Giuđê. Tại đây người ta dễ gặp các nhân viên của đế quốc hoặc các sĩ quan, binh lính Rôma. Thành này không phải là Giêrikhô thời Cựu Ước (= Tell es-Sultan), mà là thành được Hêrôđê Cả thiết lập khoảng một dặm rưỡi về phía nam trên bờ tây của cánh đồng Giođan.

– một thầy tư tế (31): Rất có thể thầy đã xong thời gian phục dịch tại Đền Thờ Giêrusalem, nay đang đi về nhà. Truyền thống kinh sư sau này cho biết Giêrikhô là nơi có một số tư tế cư ngụ.

– một thầy Lêvi (32): Tên này lúc đầu chỉ một thành viên của chi họ Lêvi, tức một con cháu của người con thứ ba của Giacóp (St 29,34). Trong Cựu Ước, danh hiệu “thầy Lêvi” thường được dùng để gọi những người không thuộc dòng dõi Aharon, nhưng được giao cho làm những việc lặt vặt liên hệ đến việc phụng tự và các nghi thức ở Đền Thờ.

– người Samari (33; x. 9,52): tức dân cư Samari. Samari là kinh đô của vương quốc phía Bắc do vua Omri sáng lập vào khoảng năm 870 tr CHÚA GIÊSU. Sau này, tên gọi “người Samari” (hl. Samaritês) trở thành một tên gọi mang tính chủng tộc và tôn giáo để chỉ những người cư ngụ trong miền đất giữa Giuđê và Galilê, về phía tây sông Giođan. Sự đoạn tuyệt giữa người Samari và người Do Thái được giải thích khác nhau tuỳ mỗi bên. Thường người ta cho rằng có sự chia lìa đó là do có việc đế quốc Átsua đưa người Do Thái đi lưu đày sau khi chiếm được đất nước năm 722 tr CHÚA GIÊSU và đưa những người không phải là Do Thái vào làm thực dân ở trong miền đó (2 V 17,24). Có lẽ cũng do đó mà sau này những người ở lại quê nhà đả phá những người Do Thái hồi hương khi những người này xây lại thành và Đền Thờ Giêrusalem (x. Er 4,2-24; Nkm 2,19; 4,2-9). Dù thế nào, những người Samari chỉ chấp nhận Bộ Ngũ Thư là Kinh Thánh và đã xây một đền thờ trên núi Garidim (Tell er-Râs) vào thời Hy-lạp (đền này đã bị phá huỷ dưới thời Gioan Hiếccanô, khoảng năm 128 tr CHÚA GIÊSU).

– chạnh lòng thương (33): Động từ splanchnizesthai có nghĩa là “đau lòng, lòng quặn thắt”.

Ý NGHĨA CỦA BẢN VĂN

* Điều kiện để được sống đời đời (25-28)

Chuyện xảy ra khi một vị thông luật hỏi Đức Giêsu: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?”. Ông quan tâm đến sự sống đời đời. Ông xác tín rằng ông phải làm điều gì đó để có sự sống này, chứ sự sống đời đời không từ trời rơi xuống. Câu hỏi này đi xa hơn những mối bận tâm và lợi lộc hằng ngày. Câu hỏi này giả thiết là mọi sự không chấm dứt với cái chết, nhưng có một sự sống đời đời, không hề mai một, một sự sống vượt thắng cái chết. Với mối bận tâm có ý thức và với tinh thần trách nhiệm, vị thông luật hỏi: “Tôi phải làm gì để cuộc sống bên kia cái chết không trở thành cho tôi một hoàn cảnh bị phạt, nhưng là một sự sống vĩnh cửu đầy niềm vui?”.

Giống như Đức Giêsu, vị thông luật cũng đi từ tiền giả định là có một sự sống đời đời. Ông hoàn toàn đồng ý là để đạt được sự sống ấy, dứt khoát phải yêu mến Thiên Chúa và người thân cận trong cuộc sống hiện tại. Đức Giêsu đã đánh giá là ông trả lời đúng và đề nghị cứ làm như thế.

* Dụ ngôn người Samari nhân hậu (29-37)

Cảm thấy bị nhục vì phải tự tìm câu trả lời, vị thông luật chuyển sang bình diện suy lý: “Ai là người thân cận của tôi? Ai thuộc về khối những người mà tôi phải yêu thương như chính mình tôi?”. Dường như ông xác tín rằng phải có những giới hạn trong số những người mà ông phải yêu thương. Đối với người Do Thái, chỉ người đồng hương mới được coi như là người thân cận, và người ta mới phải yêu thương và giúp đỡ. Vẫn tỏ ra mình làm chủ cuộc tranh luận, Đức Giêsu coi câu hỏi của vị thông luật là quan trọng, và vì nhắm phục vụ công cuộc cứu độ các linh hồn, Người trả lời bằng dụ ngôn “Người Samari nhân hậu”.

Con đường đi từ Giêrusalem xuống Giêrikhô băng qua sa mạc. Cho đến cuối thế kỷ XX, đây là một con đường không an toàn, thường xuyên bị các đám cướp tấn công. Một người vô danh, không rõ địa vị, nòi giống, quốc tịch và tôn giáo, đã rơi vào tay bọn cướp. Ông bị đánh nhừ tử, rồi bị bỏ mặc bên vệ đường giở sống giở chết: đây là một tình cảnh hết sức quẫn bách. Nói rằng một con người ở trong tình cảnh ấy cần được giúp đỡ, và ai giúp đỡ người ấy là thân cận của người ấy, điều này thật rõ ràng trước mắt mọi người. Thầy tư tế và thầy Lêvi đã thấy con người nằm đó dở sống dở chết, nhưng đã sang bên kia đường mà tiếp tục bước đi. Sự bận tâm đến sự an toàn và sự tiện nghi thì mạnh hơn lòng đồng cảm đối với người bị nạn. Lối xử sự của người Samari khác hẳn. Ông hành động cách gương mẫu, ông đẩy mọi sự khác vào bình diện thứ hai và chỉ còn thấy tình trạng cần kíp của con người đang nằm trên đường dở sống dở chết. Ông đau lòng trước tình cảnh đáng thương, ông tìm mọi cách để kéo anh ta ra khỏi tình trạng nguy kịch càng nhanh càng tốt. Ông đã tận dụng tất cả những gì ông có để cứu giúp người bị nạn (dầu, rượu, con lừa, bạc).

Đức Giêsu đã cố tình chọn một người Samari làm kiểu mẫu. Hạng người lạc đạo ấy, không hề có kiến thức của nhà luật học, cũng không có phẩm cách của vị tư tế hay thầy Lêvi, lại tỏ ra hết sức nhân ái và đạo đức. Ông đã thực hành hai điều răn lớn của Cựu Ước về đức mến. Do đó, chính ông mới đáng được gọi là người Ít-ra-en chân chính.

Đức Giêsu cho thấy rằng trong vấn đề yêu thương, không thể vạch ra một giới hạn chính xác. Người không nêu ra những tiêu chí, xác định một con số giới hạn gồm những kẻ mà ta phải yêu thương. Như trong những trường hợp khác, Người thay đổi hướng nhìn, mở rộng chân trời. Vị thông luật hỏi: “Ai là người thân cận của tôi, kẻ mà tôi phải yêu thương?”. Đức Giêsu đảo ngược câu hỏi: “Ai đã tỏ ra là [ai đã trở thành] người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp?”. Như thế, Người đã thay đổi tầm nhìn. Dụ ngôn và câu hỏi cuối cùng của Đức Giêsu hoàn toàn trả lời cho câu hỏi đầu tiên của vị thông luật: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” (c. 25).

+ Kết luận

Trong lãnh vực yêu thương người thân cận, người ta không được nghĩ từ bản thân, nhưng phải khởi đi từ nhu cầu thực tế của bất cứ người nào ta gặp trên đường ta đi. Chỉ khi đó, đời sống ta mới trở thành con đường đưa tới cuộc sống vĩnh cửu. Vị thông luật tưởng có thể giữ cuộc tranh luận trên bình diện lý thuyết, nào ngờ Đức Giêsu đã đưa được ông về bình diện những thực tại sống động và đặt ông trước một chọn lựa: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy” (c. 37).

GỢI Ý SUY NIỆM

Có một thái độ ngược lại với thái độ của vị thông luật: “Tôi chẳng hề quan tâm tìm biết là sau cái chết, sự sống có tiếp tục chăng và chuyện này xảy ra như thế nào. Tôi đang có khá nhiều chuyện bận bịu với cuộc sống hiện tại rồi, nên không muốn nặng lòng với những mối bận tâm về sự sống đời đời. Đàng khác, người ta không biết được gì chắc chắn. Tôi tìm cách thoả mãn các nỗi niềm chờ mong của tôi trong đời sống hiện tại, chứ không quan tâm đến một sự sống đời đời có thể có”. Một thái độ như thế đã bị Đức Giêsu đánh giá là “ngu” (Lc 12,13-21). Người ta không thể giải quyết một câu hỏi bằng cách nhắm mắt lại và không muốn chấp nhận nó. Người ta tránh trả lời một cách có trách nhiệm câu hỏi về sự sống đời đời, bằng cách nói rằng người ta không muốn dính dáng gì đến nó. Ngược lại đối với Đức Giêsu, sự sống đời đời là một thực tại quyết định. Bởi vì nếu không có sự sống đời đời, nếu không có trách nhiệm trước Thiên Chúa hằng sống, thì rốt cuộc người ta xử sự thế nào trên con đường đưa tới Giêrikhô cũng chẳng quan trọng gì. Chẳng bao lâu người ta sẽ quên đi mọi sự. Sẽ chẳng có ai cật vấn tôi và tôi sẽ chẳng phải trả lẽ với ai cả. Nhưng trách nhiệm trước mặt Thiên Chúa không phải là chuyện xa lạ với thế giới; trách nhiệm này đưa tới trung tâm của đời sống hiện tại của chúng ta và qui định hình thức của đời sống này. Nó qui định điều gì là đúng và điều gì là sai trên đường đưa tới Giêrikhô. Không có trách nhiệm này, chỉ còn một vấn đề duy nhất là làm thế nào sống càng lâu càng tốt và sống càng thoải mái càng tốt.

Ta không thể nói: “Người thân cận của tôi có thể còn là người bà con đời thứ ba; người cư ngụ cùng đường phố với tôi; người cùng làm việc trong một xí nghiệp với tôi; người có thiện cảm với tôi, v.v.”. Đức Giêsu không chấp nhận những giới hạn cho tình yêu thương đối với người khác. Tôi không được suy nghĩ khởi đi từ chính bản thân: “Tôi còn buộc phải làm cho ai điều gì? Tôi [còn] phải giúp đỡ ai? Kể từ điểm đó, chuyện ấy không còn dính dáng đến tôi nữa?”. Không phải là bậc họ hàng hoặc mối thiện cảm sẽ qui định ai là người thân cận của tôi, nhưng là tình trạng cần được giúp đỡ thực sự trong đó người kia đang lâm vào. Bất cứ ai xuất hiện trên đường tôi đi, mà đang ở trong tình trạng quẫn bách, đều là người thân cận mà tôi phải yêu thương và giúp đỡ.

Muốn thực sự giúp đỡ người lâm nạn, người ta phải dấn thân vào trọn vẹn. Việc ấy có thể làm cho ta phải mất thì giờ, tốn phí tiền bạc, gây phiền toái, làm xáo trộn sự yên tĩnh cũng như chương trình, thậm chí có thể kèm theo một nguy hiểm cho mình nữa. Nhưng đấy chính là thực sự yêu thương người thân cận, một tình yêu đưa đến sự sống đời đời. Như thế, phải luôn mở mắt và có trái tim sẵn sàng để nhận ra được rằng ai đang thật sự cần được tôi giúp đỡ và tôi phải giúp đỡ người ấy thế nào. Hôm nay trên đường đời, vẫn còn có vô số “kẻ cướp”, nên sẽ còn vô số người rơi vào tay “kẻ cướp”, nằm trên đường ta đi, và chờ đợi ta trợ giúp.

Câu hỏi về sự sống đời đời đưa thẳng vào cuộc sống mỗi ngày của chúng ta. Chúng ta phải chịu trách nhiệm về lộ trình chúng ta theo hằng ngày, sao cho lộ trình này trở thành hành trình đưa chúng ta đến sự sống đời đời. Muốn thế, cần biết không vội vàng lo cho bản thân và lo cho những dự phóng riêng tư, nhưng biết dừng lại để mau mắn giúp đỡ những ai ở bên vệ đường đang cần được cứu giúp.

Đức mến phải phát xuất từ lòng của từng con người, phải thiết thực và hữu hiệu. Người Samari đã dừng lại, băng bó vết thương, thanh toán mọi chi phí cho chủ quán. Ông không cần tìm hiểu xem đây phải chăng là một người Do Thái, tức một kẻ thù không đội trời chung. Ông chỉ cần biết đây là một người đáng thương cần được cứu giúp, và ông đã cứu giúp.

 

 

 

 

 

36. Tình yêu và hạnh phúc

 

Ngay từ hồi còn nhỏ, chúng ta đã thuộc lòng câu giáo lý:

Hỏi. Ta sống ở đời này để làm gì?

Thưa. Ta sống ở đời này để nhận biết, thờ phượng, kính mến Đức Chúa Trời là Cha chúng ta và yêu thương mọi người như anh em, cùng nhau xây dựng một xã hội tốt đẹp cho ngày sau được hạnh phúc đời đời.

Nói tóm lại, mục đích chúng ta theo đuổi trong cuộc sống là xây dựng hạnh phúc ở đời này cũng như ở đời sau. Nếu suy nghĩ, chúng ta sẽ thấy: Hạnh phúc là điều mọi người đều mong muốn và tìm kiếm.

Bất kỳ ai chối bỏ cuộc đời mai hậu, thì cũng không thể huỷ diệt được niềm khát khao hạnh phúc vĩnh cửu. Bất cứ ai là người, thì đều mong mỏi tình yêu có nghĩa là yêu và được yêu.

Chính trong niềm mong mỏi, khát khao tình yêu và hạnh phúc trong cuộc sống, đã gợi lên những thắc mắc trong thẳm sâu cõi lòng. Tình yêu và hạnh phúc chỉ có được khi sống với người khác. Không ai sống đơn độc lẻ loi mà lại cảm thấy hạnh phúc toàn vẹn. Thế nhưng phải sống và phải yêu như thế nào?

Qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, ông luật sĩ đã đến để chất vấn Chúa Giêsu về sự sống đời đời. Và Ngài đã nhắc lại điều quan trọng nhất trong lề luật đó là kính mến Thiên Chúa hết lòng và yêu thương anh em như chính mình ta vậy. Điều này thì ông luật sĩ đã quá biết, ông ta chỉ thắc mắc:

– Ai là người anh em?

Chúa Giêsu đã không đưa ra một định nghĩa có tính cách triết học và trừu tượng về người anh em, trái lại Ngài đã kể một câu chuyện cụ thể và đòi chúng ta phải hành động như vậy.

Đúng thế, có một người đi từ Giêrusalem xuống Giêricô, chẳng may bị bọn cướp trấn lột và đánh trọng thương. Lần lượt xuất hiện các nhân vật. Bắt đầu là thày Tư tế, rồi thày Lêvi và cuối cùng là người Samaria. Chúa Giêsu nhấn mạnh: để đạt tới sự sống đời đời, nếu chỉ hiểu biết cặn kẽ về luật mà thôi thì cũng chẳng ích lợi gì. Thực vậy, thày Tư tế và thày Lêvi, là những đấng vị vọng trong đạo, đương nhiên họ rất thông hiểu giới luật yêu thương. Họ có đủ cách để giảng dạy cho dân, thế nhưng họ đã không thực hiện, bởi vì họ đã đắp tai ngoảnh mặt làm ngơ trước tiếng kêu cứu của nạn nhân đang cần sự giúp đỡ. Còn người Samaria là hạng người bị khinh miệt, không mấy thông hiểu về lề luật, bị coi như người ngoại giáo. Thế nhưng, ông đã làm ngược lại với thái độ của hai đấng vị vọng nói trên.

Chúa Giêsu muốn chúng ta xác định cho rõ ai trong ba người, qua thái độ cư xử của mình khi đứng trước nỗi đau khổ của người khác đã thực thi giới luật yêu thương?

Không phải sự hiểu biết, mà chính là việc thực thi tình thương yêu mới dẫn chúng ta đến việc trở nên người anh em của đồng loại mình.

Đây chính là điểm quan trọng, cần phải canh tân tâm hồn, cần có cái nhìn hướng đến hành động trước những nỗi khổ đau của người anh em. Sẽ không có tình yêu, sẽ không có hạnh phúc và sẽ không có hy vọng được sống đời đời nếu như chúng ta lẩn tránh và làm ngơ trước nỗi thống khổ của anh em mình.

 

 

 

 

 

37. Một lệnh truyền khó xử – Achille Degeest

(Trích dẫn từ ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)

 

Theo Phúc Âm thuật, Đức Giêsu đặt lại tất cả mọi vấn đề. Người luật sĩ biết quá rõ Lề Luật giải quyết cách nào vấn đề người ấy đặt ra cho Thầy, nhưng vẫn muốn dồn Thầy vào chỗ lúng túng khó xử. Vì vậy sau câu đáp của Đức Giêsu, người lúng túng nhất chính là người luật sĩ ấy. Thật vậy, Đức Giêsu phá vỡ những hàng rào vừa chắc chắn vừa dễ chịu ngăn đỡ người Do Thái ngoan đạo giữ được chừng mực, khỏi quá nhiệt thành trong việc bác ái. Những luật sĩ từng chẻ cái tóc làm tư, đem nghĩa vụ bác ái mổ xẻ thành cơ man điều luật, sắp xếp theo nhiều tiêu chuẩn khác nhau: chủng tộc, cách giữ lề luật, giá trị về mặt xã hội, tuổi tác, nam nữ v.v… Chỉ một câu thôi, Chúa lật đổ mọi hàng rào. Đối tượng bác ái là con người, đơn giản thế thôi. Về sau, Chúa mở rộng viễn ảnh ra xa nữa: lòng yêu thương vì bác ái nhắm vào con người trong tư cách con cái Thiên Chúa, nghĩa là cùng trong liên hệ Cha con với Thiên Chúa tất nhiên phải thương yêu nhau như anh em ruột thịt. Ở tầm cao đó, không một thang giá trị nào đứng vững. Về điểm này Công Đồng Vaticanô II đã khai quang một số viễn ảnh rất đáng chúng ta chú ý.

1) ‘Bác ái Kitô giáo thực sự lan tràn tới mọi người không phân biệt chủng tộc, hoàn cảnh xã hội hay tôn giáo, bác ái không cầu mong một lợi ích hay một sự tri ân nào. Như Thiên Chúa đã yêu chúng ta bằng một tình yêu vô vị lợi, các tín hữu cũng phải lấy tình bác ái mà lo lắng cho con người bằng cách yêu mến họ với cùng một ý hướng như khi Chúa tìm kiếm con người. Do đó, như Đức Kitô đã rảo qua khắp các thị thành làng mạc, chữa lành mọi kẻ tật nguyền bệnh hoạn, làm dấu chỉ Nước Thiên Chúa đã đến, Giáo Hội cũng nhờ con cái mình mà liên kết với mọi người thuộc mọi hoàn cảnh, nhất là với những người nghèo hèn đau khổ, và tình nguyện hy sinh cho họ’ (Sắc Lệnh Ad Gentes 12).

2) Bác ái Kitô giáo phải quan tâm cách rất thực tế đến việc chữa lành những vết thương của bất công trên nhân loại. ‘Các Kitô hữu phải hoạt động và cộng tác với mọi người khác để tổ chức đứng đắn những công việc kinh tế xã hội’. Công đồng đưa ra hai phương thức ưu tiên hành động để tiến tới sự tổ chức thế giới công bình hơn, đó là việc giáo dục, và sự viện trợ cho thế giới thứ ba. ‘… Họ phải quan tâm đặc biệt đến việc giáo dục các thiếu nhi và thanh thiếu niên bằng các loại trường học khác nhau. Các trường này không những phải coi như phương tiện tuyệt hảo để huấn luyện và nâng cao giới trẻ Kitô hữu, mà đồng thời còn là một công cuộc phục vụ nhân loại hết sức giá trị -nhất là đối với các quốc gia đang phát triển- để nâng cao nhân phẩm và chuẩn bị những hoàn cảnh hợp nhân bản hơn’. – ‘Ngoài ra, họ còn phải tham gia vào nỗ lực của các dân tộc đang cố gắng tạo ra những hoàn cảnh sống tốt đẹp hơn, và củng cố hoà bình thế giới, bằng cách khuất phục đói khát, dốt nát và bệnh tật’ (Sắc Lệnh Ad Gentes). Người ta có thể công bằng mà nhìn nhận rằng Giáo Hội với danh nghĩa một định chế của Đức Giêsu, đã không sai lầm trong việc thực hành bài học mà Giáo Hội đã biết rút ra từ dụ ngôn người Samaria nhân lành. Tuy nhiên Giáo Hội cũng là mỗi người trong chúng ta. Về thực tế, giá trị và kích thước lòng bác ái của chúng ta lớn hay nhỏ? Nếu chúng ta lúng túng trong khi tìm câu đáp, phải chăng chúng ta không sáng suốt hay thiếu sáng suốt, hoặc chúng ta thuộc hạng người dễ thoả mãn về thành tích của mình?

 

 

 

 

 

38. Yêu Thiên Chúa và yêu tha nhân.

(Suy niệm của Lm. Vũ Thái Hoà)

 

Khi người thông luật đặt câu hỏi: “Thưa thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” và tìm được câu trả lời trong Luật: “Ngươi hãy yêu mến Đức Chúa Thiên Chúa của người, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực và hết trí khôn ngươi, và người thân cận như chính mình”. Chúa Giêsu trả lời: “Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống”.

Vì muốn cho người thông luật này hiểu rõ hơn thế nào là “người thân cận”, Chúa Giêsu kể dụ ngôn người Samari tốt lành.

Qua dụ ngôn, Chúa Giêsu giúp người thông luật và giúp chúng ta vượt lên trên cái nhìn hạn hẹp của mình. Người thân cận là tất cả mọi người, dù là người mình không ưa thích, không cùng màu da, không cùng tôn giáo, không cùng lập trường chính trị. Chúng ta đến gặp tha nhân với lòng bác ái và quãng đại. Như vậy, câu hỏi không còn là “ai là người thân cận của tôi?”, mà là “tôi là người thân cận của mọi người như thế nào một cách cụ thể?”

Ngày xưa, trong một làng nhỏ, tại miền Nam Trung quốc, có một em bé gái tiều tuỵ, đói rách và mang bệnh phong hủi. Khi biết em bị bệnh hủi, dân chúng dùng gậy gộc và gạch đá xua đuổi em ra khỏi làng.

Giữa cảnh hỗn loạn ấy, một nhà truyền giáo xông ra ẵm em bé trên tay để bảo vệ em khỏi những trận đòn và những viên gạch, hòn đá ném bừa bãi vào tấm thân bé bỏng của em.

Thấy có người mang em bé đi, dân làng mới chịu rút lui, nhưng miệng vẫn còn gào thét: “ Đồ hủi! Đồ hủi!”

Với những giòng nước mắt chảy dài trên má, những lần nầy là những giọt nước mắt vui mừng chứ không phải là những giọt lệ buồn tủi, em bé hỏi vị cứu tinh của mình: “Tại sao ông lại lo lắng cho con?” Nhà truyền giáo trả lời: “Vì Ông Trời đã tạo dựng cả hai chúng ta, và cũng vì thế con sẽ là em gái của ta và ta sẽ là anh của con”

Suy nghĩ hồi lâu, em bé cất tiếng hỏi: “Con có thể làm gì để tỏ lòng biết ơn cứu giúp của ông?” Nhà truyền giáo mỉm cười đáp: “Con hãy trao tặng lại cho những kẻ khác tình yêu này càng nhiều càng tốt.”

Kể từ đó đến ba năm sau, khi em bé tắt thở cuối cùng, em đã vui vẻ băng bó các vết thương của các bệnh nhân khác trong trại cùi, đút cơm cho những người bị bệnh nặng, và nhất là em tỏ ra dễ thương và yêu mến tất cả mọi người trong trại. Lúc từ giã cõi đời, em bé chỉ mới 11 tuổi. Các bệnh nhân khác đã từng chung sống với em nói với nhau: “Bầu trời nhỏ bé của chúng ta đã về trời”.

Tinh thần Kitô giáo được tóm gọn trong hai điểm: yêu Chúa và yêu người. Cả hai luôn đi đôi với nhau. Hễ mến Chúa là phải yêu người. Càng yêu mến Chúa thì càng yêu người. Công thức Phúc Âm này không thể tách rời được trong đời sống của Kitô hữu.

Thánh Gioan Tông đồ có viết: “Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1 Ga 4:20). Như thế, tình yêu tha nhân là nơi chứng minh tình yêu của mình đối với Thiên Chúa.

Câu đầu và câu cuối của bài Tin Mừng hôm nay được nhấn mạnh bởi động từ làm. Câu đầu là câu hỏi của người thông luật: “Tôi phải làm gì để được sống đời đời?”. Câu cuối cùng là câu trả lời của Chúa Giêsu: “Cứ làm như vậy là sẽ được sống”, nghĩa là thực thi lòng bác ái xót thương không biên giới, không điều kiện với tất cả mọi người, như người Samari trong dụ ngôn đã thực hành. Như thế, đức ái không phải là một khái niệm trừu tượng, mà là một điều rất cụ thể.

Chúng ta thường dễ dàng yêu thích những người hợp với mình. Nhưng Chúa Giêsu dạy chúng tá phải yêu thương mọi người, kể những người không hợp với mình và thù ghét mình (Mt 5:44). Đó chính là tinh thần Kitô giáo, là giới luật mới lạ nhất mà chỉ có Chúa Giêsu truyền dạy cho chúng ta. Nếu chúng ta thực hiện được điều đó, chúng ta đích thực là con cái Chúa, và chúng ta sẽ “được sự sống đời đời làm gia nghiệp”.

Nguyện xin Chúa Nhân lành luôn ban ơn cho chúng ta niềm vui, sức mạnh và can đảm để yêu Chúa và yêu tha nhân trong đời sống thường nhật của chúng ta, nơi Nước Trời đã bắt đầu.

 

 

 

 

 

39. Ai là tha nhân của tôi?

(Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL)

 

Trong bài Phúc Âm của Chúa Nhật XV Mùa Thường Niên Năm C hôm nay, qua cuộc vấn đáp giữa một nhà thông luật và Chúa Giêsu, Mạc Khải Thấn Linh cho chúng ta thấy rõ hai chân lý liên quan đến phần rỗi của chung loài nguòi và của riêng Kitô hữu chúng ta: thứ nhất là chân lý về đường lối để được sự sống đời đời, và chân lý thứ hai về chân dung của thành phần được gọi là tha nhân.

Trước hết, chân lý về đường lối để được sự sống đời đời, khi công nhận câu đối đáp của nhà thông luật “Ông đã trả lời đúng. Hãy làm như vậy thì ông sẽ được sống”, Chúa Giêsu đã cho nhà thông luật thắc mắc: “Tôi phải làm gì để được sự sống đời đời?” biết rằng, đó là “Ngươi phải yêu mến Chúa là Thiên Chúa của ngươi hết lòng muốn, hết linh hồn, hết sức lực và hết trí khôn ngươi, cũng như hãy yêu thương tha nhân như chính bản thân ngươi”. Như thế, yên mến Thiên Chúa hết mình và yêu thương tha nhân như mình chính là đường lối để được sự sống đời đời vậy. Căn cứ vào chân lý này, nói một cách phủ định hơn, nghĩa là, ai không mến Chúa hết mình và yêu người như mình chắc chắn sẽ không được sự sống đời đời, tức bị hư đi đời đời. Tuy nhiên, tới đây, nhà thông luật của chúng ta tỏ ra không có vấn đề gì với Thiên Chúa cho bằng với tha nhân. Bởi thế, ông không hỏi Chúa Giêsu “Thế nhưng Chúa là Thiên Chúa của tôi là Đấng nào?”, mà lại đặt vấn đề “tha nhân của tôi là ai?” hay “ai là tha nhân của tôi?” Do đó mới có chân lý thứ hai, chân lý về chân dung của thành phần được gọi là tha nhân.

Theo quan niệm bình thường, trước hết, “tha nhân” tức là một người không phải là mình, hoàn toàn khác với mình. Sau nữa, đối với liên hệ trong gia đình huyết tộc, “tha nhân” cũng không phải là thành phần thuộc về thân nhân ruột thịt hay họ hàng nghĩa thiết với mình. Sau hết, thành phần “tha nhân” lắm khi còn bị tâm lý giao hữu loại trừ ra khỏi bờ cõi cận nhân nữa, ra khỏi phạm vi thân thiết bạn bè, nghĩa là, trở nên một thành phần hoàn toàn lạ mặt, xa cách với mình, thành phần mình không hề quen biết tí nào. Tuy nhiên, thực tế và tâm lý bình thường cũng cho thấy một sự thật không ai có thể chối cãi được là, có nhũng lúc chính thân nhân và thân hữu của mình lại là những kẻ không thể đội trời chung với mình, bị chúng ta đẩy đi lưu đầy xa khuất khỏi mắt của chúng ta, tức ở ngoài cả biên giới “tha nhân” xa lạ nữa. Trong trường hợp này, “tha nhân” đột nhiên và nghiễm nhiên trở thành gần gũi, thành cận nhân với chúng ta hơn cả thành phần vốn là thân nhân và thân hữu của chúng ta trước kia. Vào những lúc đó, một “tha nhân” nào đó tỏ ra thông cảm với chúng ta và ngả về phía của chúng ta, vị “tha nhân” ấy, dù trước kia có những bất đồng với chúng ta, thậm chí đối nghịch với chúng ta, bấy giờ họ cũng sẽ trở thành thân thiết với chúng ta. Điển hình là trường hợp của quận vương Hêrôđê với tổng trấn Philatô, sau khi Hêrôđê được Philatô cho giải Chúa Giêsu đến để Hêrôđê phân xử, thì hai nhân vật này đã được Phúc Âm Thánh Luca thuật lại ở đoạn 23 câu 12 như sau: “Hêrôđê và Philatô trước kia vốn đối nghịch với nhau từ đó lại trở thành bạn bè”. Nếu cứ theo tâm lý chủ quan của con người chúng ta như thế, thì “tha nhân” phải nói là người bị tha hóa, tức thành phần không còn là họ nữa, mà là những gì chúng ta tạo ra hay biến thành tùy ý.

Nếu xẩy ra tình trạng này thì quả thực, như thực tế đã cho chúng ta thấy, nhiều khi chính những người vốn thân yêu nhất của chúng ta từ trước đột nhiên trở thành những con ma trơi, những con ma ban ngày, những con ma làm cho chúng ta sợ, lúc nào chúng ta cũng muốn tránh mặt, không dám gặp mặt, không dám đối diện và không còn thích gần gũi hay tìm đến như xưa nữa. Tình trạng “tha nhân” trở thành những con ma đối với chúng ta như thế còn chứng tỏ tâm trạng yếu bóng vía của chúng ta, nghĩa là tình trạng chúng ta chưa sống thực, tình trạng chúng ta còn trẻ con, chưa trưởng thành cả về tâm linh lẫn đức tin liên quan đến Thiên Chúa nữa. Đúng thế, nếu “tha nhân” không thực sự là một con người, mà chỉ là một cái gì do chúng ta tạo ra hay biến thành như thế, tùy theo ý nghĩ và ý thích của mình, thì quả thực chúng ta không phải chỉ có vấn đề với “tha nhân” mà còn với cả “Chúa là Thiên Chúa” nữa. Bởi vì, chỉ khi nào chúng ta tôn thờ “ngẫu tượng”, tức tôn thờ vị Thiên Chúa do chúng ta chủ trương, do chúng ta tự tưởng tượng vẽ vời ra, như trường hợp dân Do Thái tôn thờ bò vàng trong sa mạc được Sách Xuất Hành thuật lại ở đoạn 32 câu 4, chứ không phải vị Thiên Chúa đích thực, như Ngài tỏ mình ra cho chúng ta biết như được Thánh Kinh ghi nhận, chúng ta mới có thái độ bóp méo hình ảnh của Ngài là “tha nhân” như thế. Lý do là vì chúng ta chưa biết Ngài thực sự, nên chúng ta cũng không nhận ra những gì thuộc về Ngài. Đó là lý do tại sao Chúa Kitô, trong Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 15 câu 21 hay đoạn 16 câu 3, đã vạch rõ căn nguyên thế gian bách hại môn đệ của Người như sau: “Họ làm cho các con tất cả những điều ấy là vì họ chẳng nhận biết Cha cũng không nhận biết Thày”. Đó cũng là lý do chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa hết mình trước rồi mới có thể yêu thương tha nhân như bản thân mình được.

Chính vì “tha nhân” là một con người thực sự, một con người như chính chủ thể yêu và phải được chủ thể yêu yêu như chính bản thân mình mà, trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu không trực tiếp trả lời cho nhà thông luật “tha nhân của tôi là ai?”, song Người đã lật ngược vấn đề, qua câu hỏi gợi ý: “Ai trong ba người này (vị tư tế, thày Lêvi, và người Samariatanô) là tha nhân của người bị rơi vào tay bọn cướp?” Thế rồi, sau khi nhà thông luật trả lời: “Chính là người tỏ lòng thương cảm hắn”, Chúa Giêsu liền nói với ông ta: “Vậy thì anh hãy đi mà làm như thế”. Nghĩa là, theo tinh thần Chúa Giêsu dạy trong bài Phúc Âm hôm nay, một khi yêu thương nhau và trong việc yêu thương nhau, không nên, đúng hơn, không được, đặt vấn đề phân biệt và chọn lựa: “ai là tha nhân của tôi”. Bởi vì, một khi đã phân biệt và chọn lựa, thì theo tâm lý tự nhiên, mình chỉ yêu ai mình thích, thích ai hợp với mình, và mến ai làm vừa lòng mình v.v. Nếu yêu thương theo kiểu này là yêu thương mình hơn là tha nhân, và biến tha nhân thành sở hữu, thành thuộc hạ của mình hơn là coi họ như chính bản thân mình, để có thể yêu họ như chính bản thân mình. Bởi thế, vấn đề yêu thương chân chính hay Đức Ai trọn hảo theo Chúa Kitô trong bài Phúc Âm hôm nay là vấn đề hòa đồng và đại kết, ở chỗ, “tôi cần phải là tha nhân của mọi người, cần phải trở nên như mọi người”: “Ai trong ba người này là tha nhân của người bị rơi vào tay bọn cướp?”. Chỉ có thế chúng ta mới chẳng những không có ai là kẻ thù, hay không bao giờ gặp kẻ thù, dù thực sự có bị bất cứ ai thù ghét và tác hại, trái lại, chúng ta còn có thể “trở nên mọi sự cho mọi người”, như tinh thần của vị Tông Đồ Dân Ngoại chia sẻ trong thư Thứ Nhất gửi Giáo Đoàn Côrintô đoạn 9 câu 22.

Phải, chính tinh thần bác ái làm cho con người yêu thương trở thành quốc tế như thế, “trở nên mọi sự cho mọi người” như thế, họ mới thực sự là một nhà truyền giáo và mới có đủ khả năng truyền giáo. Bởi vì, nếu vai trò của nhà thừa sai, như bài Phúc Âm Chúa Nhật XIV Mùa Thuòng Niên Năm C tuần trước cho thấy họ được sai đi trước đến những nơi Chúa Giêsu sẽ đến, nghĩa là đi mở đường, để qua việc họ làm, hay qua đức ái làm nên bản chất và chân dung của người môn đệ Chúa Kitô nơi họ (xem Jn 13:35), thế gian có thể nhận biết Thày họ là Đấng Thiên Sai đến sau họ. Ý nghĩa bài Phúc Âm Chúa Nhật XV Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh Năm C hôm nay, một thời điểm Giáo Hội cử hành Mầu Nhiệm Chúa Kitô tỏ mình ra qua chứng tá Giáo Hội của Người trên thế gian cho đến tận thế, là ở chỗ này, ở chỗ, Chúa Kitô tỏ mình ra qua thành phần chứng nhân của Người, hay qua tình họ yêu thương trọn lành “trở nên mọi sự cho mọi người”, một tình yêu thương “đi khắp thế gian (và) cho mọi tạo vật” (Mk 16:15) chứ không phải cho riêng một dân nước nào, hay cho riêng một thành phần nào, một tình yêu hoàn toàn phản ảnh Đấng “muốn chứng tỏ lòng yêu thương đến cùng của mình” (Jn 13:1), ở chỗ, Người “đã đến không phải để được phục vụ mà là phục vụ, để hiến mạng sống mình làm giá chuộc nhiều người” (Mt 20:28; xem 1Tim 2:6).

Tuy nhiên, nếu “tha nhân” trở nên mọi sự như ý nghĩ, ý muốn hay ý thích chủ quan của chúng ta, như trên đã nhận định, họ trở thành một con người bị tha hóa đối với chúng ta là chủ thể yêu thong, vậy thì, ngược lại, nếu chúng ta “trở nên mọi sự cho mọi người” thì bản thân chúng ta có bị họ tha hóa không, có bị trở thành một khối như loài vật không, có mất ngôi vị của mình không, vì chúng ta không còn là chúng ta nữa, mà là bị mọi người đồng hóa, hay bị đồng hóa với mọi người mất rồi?

Câu trả lời được tìm thấy ở đây là một đàng thì bị bắt buộc và một đàng hoàn toàn tự nguyện. Việc ép con người phải bỏ mọi sự làm của chung, ngược với quyền sở hữu của họ, hoàn toàn khác với việc các Kitô hữu tiên khởi ở Giêrusalem tự nguyện “bỏ mọi sự làm của chung”, như Sách Tông Vụ thuật lại ở đoạn 2 câu 44. Sở dĩ thành phần Kitô hữu tiên khởi của chúng ta có thể thực hiện được việc này là vì họ hoàn toàn hiệp nhất với nhau, như Sách Tông Vụ còn thuật lại ở đoạn 4 câu 32: “Cộng đồng tín hữu đồng tâm nhất trí. Không ai lấy gì làm của riêng mình, mọi sự được lấy làm của chung”, một tình trạng chứng tỏ cá nhân con người đã đạt đến tầm vóc hoàn toàn của mình nơi cộng đồng xã hội, và cộng đồng xã hội cũng đạt đến tầm vóc thiện hảo của mình đúng như ý muốn của Thiên Chúa, một ý muốn được bộc lộ qua Lời Nguyện Tiệc Ly của Chúa Kitô ở Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 17 câu 22: “Cho tất cả đuọc nên một như chúng ta là một”, một mối hiệp thông có tác dụng truyền thông Thần Linh, như Người còn đề cập đến ở câu 23 ngay sau đó: “Để thế gian nhận biết rằng Cha đã sai Con”.

Vấn đề thực hành sống đạo: Ai trong chúng ta cũng biết, nếu không có lòng yêu mến Thiên Chúa hết mình, chúng ta không thể nào yêu thương tha nhân như mình. Yêu thương tha nhân như mình chỉ là bản trắc nghiệm xem chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa hết mình chưa hay đã yêu mến Ngài đến đâu? Mà yêu mến Thiên Chúa hết mình, như nhà thông luật trong Phúc Âm hôm nay đã nhắc lại đoạn Sách Nhị Luật, đó là yêu mến hết lòng muốn, hết linh hồn, hết sức lực và hết trí khôn. Thế nhưng, thế nào là yêu mến Thiên Chúa hết lòng muốn, rồi đến hết linh hồn, tới hết sức lực, sau hết là hết trí khôn. Không biết tiến sĩ tâm lý Trần Mỹ Duyệt có thể chia sẻ ý nghĩa về bốn tác động yêu mến Thiên Chúa hết mình theo thứ tự này được không?

 

 

 

 

 

40. Lề luật và bác ái – Lm Giuse Nguyễn Hữu An

 

Có lần nghe ca sĩ Hương Lan hát bài “Lạy Chúa, con là người ngoại đạo” với lời ca: Lạy Chúa, con là người ngoại đạo, nhưng con tin có Chúa ngự trên cao; tôi tự hỏi: tại sao là người ngoại đạo mà lại tin là có Chúa ngự trên cao? Đã tin có Chúa ngự trên cao là có đạo rồi. Nếu tin Chúa ngự trên cao mà vẫn là ngoại đạo thì chỉ có nghĩa là có đạo mà không vào đạo đó thôi.

Tôi đã gặp nhiều người có đạo mà không sống đạo. Và tôi cũng đã gặp nhiều người sống đạo mà không có đạo.

Nói về đạo và sống đạo, tôi thấy trong Phúc Âm có nhiều câu chuyện tường thuật về những người ngoại đạo nhưng lòng họ thì lại có đạo.

– Khi Chúa Giêsu vác thập giá lên Núi Sọ, đường dài, sức nặng của thập giá, kiệt sức vì bị hành hạ, Ngài gục ngã đến ba lần. Kẻ vác đỡ thập giá cho Chúa là ông Simon người xứ Kyrênê, một người ngoại đạo.

– Khi Chúa Giêsu đến Caphanaum, Viên Bách Quản, một người ngoại đạo đến gặp và van xin: Thưa Ngài, tên hầu của tôi nằm liệt bất toại ở nhà đau đớn lắm. Chúa nói: Ta phải đến chữa nó. Viên Bách Quản thưa lại: Thưa Ngài, tôi không đáng được Ngài vào nhà tôi, nhưng Ngài hãy phán một lời, đứa hầu nhà tôi sẽ khỏi. Nghe vậy Chúa Giêsu ngạc nhiên và nói với các kẻ theo Ngài: Quả thật Ta bảo các ngươi, Ta chưa hề gặp được lòng tin lớn như thế nơi một người nào trong Israel.

– Một lần khác, Chúa Giêsu vào một làng kia, có mười người phong hủi đến gặp Ngài. Từ đàng xa họ đã lên tiếng thưa: Lạy Thầy Giêsu xin thương xót chúng tôi. Thấy vậy, Chúa bảo họ: Hãy đi trình diện với hàng Tư Tế. Và xảy ra là khi họ đi thì họ được lành sạch. Một người trong bọn họ thấy mình được lành sạch liền quay lại lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa và sấp mặt dưới chân Ngài mà tạ ơn. Người ấy là một người Samari, người ngoại đạo. Chúa Giêsu cất tiếng nói: Không phải là cả mười người được sạch cả sao, chín người kia đâu không thấy họ quay trở lại mà chúc vinh Thiên Chúa, trừ có người ngoại này?

– Bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, Chúa Giêsu kể dụ ngôn: một người ở Giêrusalem xuống Giêricô, giữa đường bị bọn cướp trấn lột, đánh cho nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết. Thầy Tư Tế đi qua, thấy vậy liền lãng tránh. Thầy Lêvi đi tới cũng chẳng ngó ngàng, bỏ mặc nạn nhân. Một người ngoại đạo Samari đi ngang, thấy người lâm nạn, chạnh lòng thương liền băng bó, đặt lên lưng lừa đưa về quán trọ, nhờ chủ quán săn sóc rồi trả hết mọi phí tổn.

Thầy Tư Tế, Thầy Lêvi chẳng những là người trong đạo mà còn hơn nữa họ còn là kẻ rao giảng về đạo. Họ ở trong đạo nhưng không sống đạo. Người Samari,kẻ sống đạo lại là người không có đạo.

Như thế kẻ vác đỡ thập giá cho Chúa trên con đường dài với những bước chân xiêu té cuối đời là người ngoại đạo. Kẻ tỏ lòng biết ơn khi được Chúa chữa lành là người ngoại đạo. Kẻ thể hiện lòng bác ái xót thương không phải là Tư Tế, là Lêvi, các chức sắc trong đạo mà là người Samari, người ngoại đạo.

Khi băn khoăn tự hỏi: thế nào là người bên ngoài, thế nào là người bên trong? Thế nào là có đạo, thế nào ngoại đạo? Tôi thấy trong Phúc Âm có lần Chúa Giêsu nói: Ta bảo các ngươi, nhiều kẻ từ Phương Đông, Phương Tây mà đến và được dự tiệc với Abraham, Isaac và Giacop trong Nước Trời, còn chính con dân trong nước lại sẽ bị đuổi ra ngoài tối tăm.

Vậy thì có một khoảng cách rất lớn giữa hiểu biết về đạo và sống đạo. Đạo thì mênh mông vô bờ bến như đất trời, làm sao có thể đem đạo vào một định nghĩa chật hẹp được? Làm sao có thể nhốt đạo vào nhà thờ? Làm sao vẽ chân dung đạo bằng tờ giấy rửa tội được? Bởi lẽ “Đạo khả đạo phi thường Đạo” (Lão Tử)

Hiểu biết về đạo được thể hiện qua đời sống đạo. Có người nói rằng: tôi tin đạo chứ tôi không tin người có đạo. Đạo thì tốt, nhưng nhiều người có đạo lại xấu. Có nhiều người ngoại đạo lại tốt hơn người có đạo. Họ nói như thế vì họ thấy nhiều người có đạo mà lại không sống đạo của mình. Quả thật, con đường dài nhất là con đường từ cái đầu đến bàn tay. Giữa suy nghĩ, lời nói và việc làm, giữa hiểu biết và cuộc sống có một khoảng cách thật lớn.

Đức Khổng Tử đã nói chí lý: Đạo bất viễn nhân, nhân chi vi đạo nhi viễn nhân, bất khả dĩ vi đạo. Nghĩa là: đạo không xa cái bản tính của người ta, nếu theo đạo để cho xa cái bản tính của người ta thì không phải là đạo.

Đạo của Chúa Giêsu là Đạo Thiên Chúa làm người, rất gần gũi với con người. Vì con người là con đường của Giáo hội (ĐGH Gioan Phaolô II). Người Đông Phương lấy chữ nhân mà định nghĩa con người: nhân là người, nhân là nhân ái là lòng thương người. Ai không biết thương người khác là kẻ không xứng danh là người. Nhân bản và nhân ái có quan hệ mật thiết với nhau.

Qua dụ ngôn Chúa Giêsu kể, tôi thấy rằng, cái khác biệt sâu xa giữa Kitô giáo và Do Thái giáo, đó là: một bên là đạo của tình yêu, một bên là đạo của lề luật. Tư Tế và Lêvi tượng trưng cho tinh thần vị luật của Cựu Ước. Người Samari tượng trưng cho những người sống tình yêu. Những người tốt thì sống theo sự đòi hỏi của lương tâm hơn là của lề luật thành văn. Thấy người bị nạn, người Samari tốt lành đã động lòng xót thương. Lương tâm và tình thương đồng loại thúc đẩy anh cứu giúp người bị nạn đến nơi đến chốn bất chấp nạn nhân là người Do Thái thuộc dòng tộc có hiềm khích với dòng tộc của anh. Cung cách hành xử đầy tình thương này mới làm đẹp lòng Thiên Chúa.

Nhìn từ lăng kính luật pháp Do thái, hai ông Tư Tế và Lêvi đã không sai. Luật Cựu Ước dạy rằng, Tư Tế không được đụng vào thây người chết vì sợ bị ô uế. Nếu ô uế thì không được phục vụ trong đền thờ. Nạn nhân dở sống, dở chết, tức là có thể chết. Hai người Tư Tế và Lêvi không dám chạm đến người có thể chết. Họ lựa chọn lề luật. Sách luật Lv 21 ghi rõ điều khoản luật này khi nhắc đến Tư Tế và người chết. Người Samari lựa chọn bác ái. Anh không ngại chạm đến người dở sống dở chết này. Anh chăm sóc, lo lắng cho bệnh nhân như người thân và anh đã vượt quá giới hạn lề luật để sống theo bác ái. Khi phải lựa chọn giữa lề luật và bác ái, người nhân hậu lựa chọn bác ái dù biết các ràng buộc của lề luật. Người ấy không bỏ qua lề luật, không đả phá lề luật nhưng vượt trên lề luật nên đã làm trọn lề luật.

Chúa Giêsu hỏi người thông luật: “Ai là người thân cận của nạn nhân đã sa vào tay kẻ cướp?”. Người ấy đáp: “Người đã đem lòng từ bi thương nạn nhân”.

Chúa Giêsu đã khéo léo lái vấn đề từ câu hỏi người thông luật: ai là người thân cận của tôi? sang gợi ý tuyệt vời của Ngài: tôi là người thân cận của ai? Trả lời câu hỏi này có lẽ phải đi từ cuộc sống cụ thể của mình. Khi tôi đến gần ai để phục vụ với tình yêu thì tôi trở thành người thân cận với kẻ ấy, và kẻ ấy thành người thân cận với tôi. Ai cũng có thể trở thành người thân cận của tôi nếu tôi yêu thương họ bằng tình yêu mà Chúa đã thương yêu tôi.

Càng hiểu biết về đạo càng phải sống đạo. Chúa Giêsu dạy rằng: “Ai yêu mến Thầy sẽ giữ Lời Thầy”. Đạo của Thầy Giêsu là Đạo Tình Yêu. Yêu Chúa, Yêu Người là hai mặt của một tình yêu duy nhất. Yêu Chúa đích thực thì phải yêu người. Thánh Gioan viết: “Ai nói mình yêu Chúa mà không yêu người thì là kẻ nói dối”. Đối với Thánh Phaolô: “Yêu thương là giữ trọn lề luật”. Lề luật không phải được lập nên cho người có tình yêu mà cho người không có tình yêu. Nếu không có tình yêu thì việc làm theo lề luật có tốt đến đâu cũng vô giá trị: “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến thì cũng chẳng ích gì cho tôi”. Thánh Augustinô khuyên nhủ: cứ yêu đi rồi muốn làm gì thì làm. Tình yêu sẽ cho biết ta phải làm gì.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa dạy chúng con rằng: không phải những người cứ kêu lên “Lạy Chúa, Lạy Chúa..” là được vào Nước Trời. Nhưng chỉ những ai thi hành ý muốn của Cha mới được vào mà thôi. Xin cho Lời ấy in vào lòng trí giúp chúng con luôn biết thể hiện trong đời sống đạo hàng ngày. Amen.

 

 

 

 

 

41. Yêu là dấn thân – Br John Quốc Toản, CRM

 

Không có gì quí trọng trong cuộc sống con người bằng tình yêu. Tình yêu thường được nhắc đến trong văn thơ, báo chí và nhiều tác phẩm. Không phim ảnh nào mà không đề cập đến tình yêu. Con người cũng đã dùng nhiều lời lẽ khôn ngoan để định nghĩa tình yêu. Tuy nhiên, cũng có nhiều cuộc tự vẫn và chém giết xảy ra vì thất bại trong tình yêu. Kinh thánh cũng không thua kém trong việc đề cập đến tình yêu trong ý nghĩa sâu đậm nhất, tình yêu Thiên Chúa.

Các tác giả Tân Ước, nhất là thánh Luca trong Tin mừng hôm nay, luôn nhắc nhở ta rằng tình yêu mến Chúa và tha nhân không thể tách rời. Hơn nữa, thánh Gioan còn nhấn mạnh: “Ai nói mình yêu Chúa thì cũng phải yêu thương anh em mình” (s Gn 4:21). Tình mến Chúa yêu người có thể biểu lộ qua nhiều khía cạnh trong cuộc sống. Một trong những khía cạnh đó là dấn thân cho tha nhân.

Chúng ta có thể dấn thân phục vụ tha nhân tại trường học, xưởng làm, trong cộng đồng, xóm đạo hoặc ngay trong gia đình. Nhưng đặt biệt nhất là cần phải dấn thân phục vụ những người bất hạnh đang bị xã hội quên lãnh. Tin mừng hôm nay tả lại một gương dân thân: người Samaritanô, vì dấn thân, đã cứu sống một người bị bọn cướp đả thương nằm nửa sống nửa chết bên lề đường. Thầy Lêvi và Tư tế đã đi qua nạn nhân cách vô ý thức vì họ không muốn dấn thân. Nhìn vào cuộc sống, chắc nhiều lần chúng ta có thái độ như thầy Lêvi và Tư tế. Ông này nên giúp đỡ gia đình nghèo đó. Bà kia nên nâng đỡ những người đang gặp khó khăn trong giáo xứ. Anh nọ nên tìm cách giúp đỡ giới trẻ đang bị hư hỏng trong cộng đồng. Luôn luôn là ông này, bà kia, anh nọ, nhưng không bao giờ là tôi. Tôi không muốn dấn thân. Tôi không muốn mất thời giờ, khả năng, sự tiện nghi và thoải mái của tôi cho người khác.

Chúa Kitô, gương mẫu của mọi Kitô hữu, đã dạy và nhiều lần làm gương dấn thân cho nhân loại. Chúa Kitô đã dấn thân cho nhân loại ngay từ đầu lịch sử cứu độ. Ngài đã hiện diện bên cạnh ta khi ta được dựng nên từ hư vô. Ngài đã hóa thành nhục thể và sống giữa chúng ta. Ngài đã trở nên giống ta mọi sự trừ tội lỗi. Chúa Kitô đã dùng bữa với bọn đàng điếm, thu thuế và nhất là đã chết trên thập giá để cứu chuộc chúng ta. Là những Kitô hữu, chúng ta có dám theo gương Chúa Kitô để dấn thân cho kẻ khác không? Dấn thân đòi ta phải hy sinh thời giờ, khả năng, sức lực, sự thoải mái và đôi khi cả đến tánh mạng.

Hãy nhìn vào xã hội ta đang sống. Xã hội ngày nay có rất nhiều nghèo đói và vô gia cư sống rất tất tưởi trên những hè phố. Nhiều người bị những cơn bệnh ác nghiệt hành hạ và nhiều kẻ bị áp bức, quên lãng. Họ là những người đang bị bóc lột về những sự cần thiết tối thiểu, sự tự do và nhân vị. Họ là anh chị em của chúng ta trong Nhiệm thể Chúa Kitô. Là những thành phần trong Nhiệm thể Chúa Kitô, chúng ta cần phải dấn thân. Đừng ngần ngại mở rộng tầm tay để phân phát khả năng, thời giờ và nhất là chính con nguời của ta cho tha nhân.

Nhờ dấn thân, người Samaritanô đã cứu sống nạn nhân bị bóc lột bên lề đường; nhờ dấn thân Chúa Giêsu đã cứu chuộc chúng ta. Chúng ta có thật sự yêu Chúa? Nếu có, ta cần phải dấn thân để cứu giúp anh chị em bất hạnh trong xã hội vì Thánh Gioan đã dạy: “Ai nói mình yêu Chúa thì cũng phải yêu thương anh em mình” (1 Gn 4:21). Mỗi khi tham dự Tiệc Thánh thể, kỷ niệm việc Chiên Thiên Chúa đã dấn thân chịu chết để cứu chuộc nhân loại, chúng ta hãy suy về ý tưởng này.

 

 

 

 

 

42. Suy niệm của JKN

 

Câu hỏi gợi ý:

Yêu Chúa và yêu người, cái nào quan trọng hơn? Đặt vấn đề như thế có đúng đắn không? Có thể tách hai tình yêu ấy thành biệt lập với nhau không?

Tinh thần yêu thương của Đức Giêsu khác với tinh thần của Cựu Ước thế nào? Có gì mới mẻ hơn so với Cựu Ước?

Xét câu hỏi của Đức Giêsu: «Trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp?», bạn nghĩ gì về về câu hỏi ấy? Tại sao lại «ai tỏ ra là người thân cận», chứ không nói «ai là người thân cận»?

Suy tư gợi ý:

Yêu thương là cốt tuỷ của Luật Thiên Chúa

Lề luật vốn có rất nhiều điều luật, mỗi điều luật lại có một số khoản luật, làm sao giữ luật cho trọn vẹn để trở nên công chính? Muốn thế, phải nắm được cốt tuỷ của lề luật. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy cốt tuỷ của lề luật là lòng yêu thương. Theo Cựu Ước – được thầy thông luật trưng dẫn trong bài Tin Mừng hôm nay – thì có hai đối tượng của lòng yêu thương: một là Thiên Chúa, hai là người thân cận. Nhưng trong Tân Ước, đặc biệt trong các thư của Phaolô và Gioan, thì hai đối tượng ấy được tổng hợp lại thành một thực tại duy nhất có hai mặt, tương tự như một tờ giấy duy nhất có hai trang gắn liền nhau không thể tách rời. Yêu Chúa và yêu người là hai mặt của một tình yêu duy nhất. Do đó, yêu Chúa đích thực tất nhiên phải yêu người, «ai nói mình yêu Chúa mà không yêu người là kẻ nói dối» (1 Ga 4,20). Thánh Phaolô tóm cả lề luật vào một mối duy nhất là yêu người: «Tất cả lề luật được tóm gọn trong một điều này: Hãy yêu người lân cận như chính mình» (Gl 5,14), vì yêu người đích thực thì đã bao hàm yêu Chúa trong đó rồi. Nói khác đi, yêu người chính là yêu Chúa, miễn sao tình yêu đó là đích thực, nghĩa là vô vị lợi: yêu người, hy sinh cho người không vì một lợi lộc nào cả, thậm chí không phải để được Thiên Chúa thưởng. Nếu yêu người là để được Thiên Chúa thưởng mình, hay vì một lợi lộc khác của mình thì suy cho cùng hoá ra đó là mình tự yêu bản thân mình chứ đâu phải mình yêu người. Yêu kiểu ấy là một hình thức vị kỷ, chứ đâu phải là tình yêu!

Yêu thương là giữ trọn lề luật (x. Gl 6,2)

Chúng ta đang sống thời Tân Ước, vì thế chúng ta không nên sống theo tinh thần của Cựu Ước. Thời Cựu Ước, trình độ tâm linh của con người còn sơ khai, thấp kém, nên tiêu chuẩn để nên công chính vào thời đó là sống sao cho đúng với lề luật. Càng giữ đúng luật bao nhiêu thì càng công chính bấy nhiêu. Vì thế, những người Pharisiêu là những người hoàn chỉnh nhất theo tiêu chuẩn này: họ cố giữ luật sao cho đúng từng chi tiết, từng dấu phảy một. Tuy họ giữ đúng lề luật tôn giáo từng ly từng tý, đến nỗi có thể nói rằng khó có ai giữ lề luật chi ly hơn họ, nhưng Đức Giêsu đã nhận ra rằng trong lòng họ không có tình yêu, trái lại chỉ có lòng ích kỷ. Nếu họ có giúp đỡ ai, hy sinh cho ai, thì ý hướng khiến họ làm điều ấy là vì lề luật khuyên hay buộc như vậy, vì họ nghĩ: có làm như vậy thì mới là người công chính, và mới được Thiên Chúa ân thưởng. Họ giúp đỡ, hy sinh cho người khác rất nhiều, mà lòng họ có thể chẳng yêu thương người ấy bao nhiêu. Họ làm mọi sự vì lề luật đòi hỏi, chứ không phải tình yêu đòi hỏi.

Tới thời Đức Giêsu, Ngài thấy Dân Chúa đã sống trong trình độ tâm linh ấy cả ngàn năm rồi, bây giờ Ngài phải nâng trình độ ấy lên. Tiêu chuẩn để nên công chính bây giờ phải được nâng cao hơn: không nên làm vì lề luật buộc, mà vì tình yêu đối với tha nhân đòi buộc và thúc đẩy. Vì thế, Ngài nói: «Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời» (Mt 5,20). Ý của Ngài không phải muốn chúng ta giữ lề luật nhiệm nhặt hơn người Pharisiêu, vì chẳng mấy ai giữ luật tài hơn họ. Ngài muốn chúng ta công chính hơn họ ở chỗ có tình yêu bên trong, và làm mọi sự vì yêu thương chứ không phải vì lề luật buộc phải làm như thế. Điều đó không có nghĩa là Ngài đả phá lề luật, mà trái lại là làm cho lề luật hay việc giữ luật nên hoàn chỉnh hơn: giữ luật vì tình yêu, đưa tình yêu vào trong lề luật. Một khi đã có tình yêu đích thực, thì như thánh Âu-Tinh nói: «Cứ yêu đi rồi muốn làm gì thì làm». Tình yêu sẽ cho ta biết ta phải làm gì. Theo thánh Phaolô thì lề luật không phải được lập nên cho người có tình yêu, mà cho người không có tình yêu: «(9) Lề Luật có đó, không phải cho người công chính, mà là cho hạng người sống ngoài lề luật và bất phục tùng, vô luân và tội lỗi, phạm thánh phạm thượng, giết cha giết mẹ, sát nhân, (10) dâm dật, kê gian, buôn người, nói dối, bội thề, và những kẻ sống ngược với giáo lý lành mạnh» (1 Tm 1,9-10).

Nếu không có tình yêu, thì việc làm theo luật có tốt đẹp đến đâu cũng vô giá trị. Thánh Phaolô nói rất rõ: «Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi» (1 Cr 13,3). Đem hết gia tài ra bố thí cho người nghèo là một hành động có vẻ đầy yêu thương, nhưng nó vẫn có thể phát xuất từ một động lực hoàn toàn vị kỷ, chẳng có chút tình thương nào: bố thí để mọi người khen, nể phục, để được mang tiếng là thương người, là đạo đức.

Hai thái độ giữ luật trong dụ ngôn người Samari tốt lành

Trong dụ ngôn của bài Tin Mừng hôm nay, ta thấy có hai thái độ giữ luật:

– Một là của thầy tư tế và thầy Lêvi, tượng trưng cho tinh thần vị luật của Cựu Ước. Theo họ, trong lề luật, không có khoản nào qui định cụ thể phải cứu giúp người trong hoàn cảnh như thế này cả. Trái lại, có những khoản qui định cụ thể về sự sạch sẽ: «(Tư tế lớn nhất trong hàng anh em) thì không được đến gần người chết, và không được làm cho mình ra ô uế, dù vì cha hay vì mẹ mình» (Lv 21,11). Như vậy, nếu mình không cứu người ấy thì mình chẳng lỗi luật, còn nếu đụng đến người ấy mà lỡ người ấy chết trên tay mình, thì mình ra ô uế, không được tế lễ hay ăn bánh thánh. Thái độ lãnh đạm của họ đối với người bị nạn quả là có lý vì họ nghĩ: điều quan trọng là làm theo Lề Luật, chứ không phải là làm theo sự đòi hỏi của tình yêu. Vả lại, Lề Luật nói: «Phải yêu người thân cận như chính mình» (Lv 19,18), chứ phải yêu bất cứ người nào đâu! Nếu có tình yêu thì tình yêu ấy chỉ dành cho người lân cận, nghĩa là sống gần mình mà thôi.

– Hai là của người Samari, tượng trưng cho những người không sống theo Lề Luật: trong họ, những người tốt thì sống theo sự đòi hỏi của lương tâm hơn là của lề luật thành văn. Do đó, thấy người bị nạn thì người Samari tốt lành này động lòng thương, lương tâm và tình thương đồng loại đã thúc đẩy anh ta cứu giúp người bị nạn đến nơi đến chốn, bất chấp nạn nhân là người Do Thái, thuộc dòng tộc có hiềm khích với dòng tộc anh. Cách hành xử đầy yêu thương của anh mới làm đẹp lòng Thiên Chúa.

Đức Giêsu đưa ra dụ ngôn này để trả lời cho câu hỏi của anh chàng thông luật: «Nhưng ai là người thân cận của tôi?». Theo câu hỏi mà Đức Giêsu đưa ra sau dụ ngôn: «Vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp?», thì vấn đề không phải là ai là người thân cận để mình yêu thương, mà là phải tỏ ra mình là người thân cận với mọi người, bằng cung cách xử sự đầy yêu thương với họ. Kinh nghiệm tôi cho thấy: khi có ai tỏ tình yêu thương tôi bằng những hy sinh cụ thể, dù người ấy là người tôi chưa hề quen biết hay ở xa tôi vạn dặm, thì hành động yêu thương ấy làm cho người ấy và tôi trở nên gần gũi nhau, thân mật với nhau. Tình yêu thương và sự hy sinh ấy càng lớn thì sự gần gũi ấy càng tăng lên, thậm chí đi đến chỗ coi nhau như ruột thịt. Trái lại, dù gần gũi, dù là họ hàng, máu mủ, ruột thịt mà không yêu thương nhau, thì lại trở nên như kẻ xa lạ. Như vậy, theo tinh thần của Đức Giêsu, chúng ta phải biến tha nhân thành ruột thịt, thành gần gũi với mình bằng cách cư xử đầy yêu thương với họ, hơn là chọn lấy những người nào là ruột thịt hay gần gũi với mình để yêu thương.

Cầu nguyện

Lạy Chúa, xin cho con một tình yêu đích thực, vị tha, làm động lực thúc đẩy cho mọi hành động của con. Cho con biết thật sự quên mình được thể hiện bằng những hy sinh cụ thể cho tha nhân, vì đó chính là dấu chứng của tình yêu đích thực mà con cần có để nên công chính.

 

 

 

 

 

43. Người Samaritanô nhân hậu

 

Nguyệt san L’amour nổi tiếng bên Hoa Kỳ, trong số phát hành vào tháng mười hai trong mùa Giáng sinh năm 1991, đã đăng nổi bật câu chuyện người đàn bà mặc áo đỏ làm xôn xao dư luận. Lái xe qua cổng, thu tiền vé xa lộ, bà không ngần ngại trao một số tiền cho nhân viên thu lệ phí và nói: Tôi trả tiền luôn cho cả những xe đến sau tôi, cho đến khi trừ hết số tiền này. Thế là những người lái xe đi tiếp theo sau nhận được câu nói bất ngờ: “Có người đàn bà mặc áo đỏ vừa đi qua đã trả lệ phí cho quí vị rồi”.

Thế rồi không phải chỉ có một người đàn bà mặc áo đỏ, mà có thật nhiều người mặc áo đỏ thực hiện những cử chỉ tốt lành như vậy tại nhiều nơi, trong nhiều hoàn cảnh khác nhau, gây nên một cơn sốt mới, nhưng rồi cơn sốt qua đi, vì thật khó kiên trì trong điều tốt.

Hãy thực hiện những việc tốt, dù nhỏ hèn âm thầm không ai biết đến, nhưng chắc chắn việc làm tốt đó sẽ khơi dậy những chuỗi việc làm tốt khác nơi anh chị em xung quanh. Chuyện dụ ngôn kể về người Samaritanô được nhắc lại trong Phúc âm Chúa nhật XV mùa thường niên năm C đáng chúng ta suy nghĩ thêm. Không phải trí thức, cái biết làm nên người và làm cho người đồ đệ của Chúa được sống đời đời, nhưng là việc làm. Nhà luật sĩ biết rõ Kinh thánh và điều răn của Chúa, nên chính ông đã trả lời cho câu hỏi mà ông đã đặt ra cho Chúa Giêsu. Trong cái biết của ông có chút gì chưa trọn vẹn, chỉ cần Chúa chỉ điểm cho một chút là ông có thể trả lời đúng cho câu hỏi thứ hai hơi rắc rối một chút và khác với sự hiểu biết của ông về: “Ai là người lân cận của tôi?”.

Luật Môisen và truyền thống của người Do thái nói rõ ai là người lân cận và ai không, nghĩa là những người lân cận theo người Do thái có thứ bậc, trật tự và loại ra bên ngoài nhiều người. Chúa chỉ điểm cho nhà luật sĩ để ông ta khám phá ra sự thật, thay vì tìm hiểu xem ai là người lân cận thì hãy cố gắng biến chính mình để trở thành người lân cận của kẻ khác, như kẻ qua đàng trong dụ ngôn nhìn thấy người nửa sống nửa chết bên vệ đường thì không cần biết xem người đó có thuộc vào sổ những kẻ lân cận của mình hay không, nhưng tự bắt buộc mình, tự đặt mình làm người lân cận, làm kẻ phục vụ anh chị em để cho tình thương trong con người mình được thể hiện một cách cụ thể.

Đây là một thái độ sống hết sức mới mẻ. Cách hành xử của người đàn bà mặc áo đỏ phản ảnh phần nào thái độ Chúa muốn cho những người đồ đệ của Ngài thực hiện, nhưng tiếc thay người đàn bà mặc áo đỏ chỉ là một kiểu cách thời trang, mua vui qua lúc. Chúa muốn chúng ta kiên trì hơn, trung thành hơn, sẵn sàng để phục vụ anh chị em. Hãy biến mình trở thành người lân cận của anh chị em.

Lạy Chúa, xin mở mắt chúng con, cho chúng con nhìn thấy người anh chị em bên cạnh và biến đổi tâm hồn con có được chút tình yêu Chúa và thực hiện tình yêu đó cho anh chị em xung quanh. Amen.

 

 

 

 

 

44. Người Samaria nhân từ

 

Câu chuyện về người Samaria nhân từ làm cho tôi liên tưởng tới những sự việc vốn xảy ra thường ngày.

Chẳng hạn một người bất ngờ bị trúng gió, hay bị một tai nạn nào đó, đang nằm quằn quại bên vệ đường. Kẻ qua người lại, xúm đến coi xem rồi bỏ đi và tặc lưỡi:

– Thật tội nghiệp.

Thế nhưng, chỉ có một người đã vội vã đi gọi xe cứu thương và đưa kẻ bất hạnh ấy vào bệnh viện. Thiên hạ hỏi xem anh ta có phải là bà con họ hàng với kẻ gặp nạn hay không, thì anh ta đã trả lời:

– Tôi không có họ hàng bà con chi cả. Thế nhưng, tôi chỉ biết việc cần phải làm ngay bây giờ là lo cấp cứu cho người ấy.

Vậy trong số những người chứng kiến, ai là người công giáo, ai là người đã sống tinh thần của Chúa hơn cả?

Tôi xin thưa đó là người đã vội vã đi gọi xe cứu thương.

Hằng ngày chúng ta chứng kiến biết bao nhiêu chuyện đớn đau và buồn phiền xảy ra ngoài đường phố cũng như nơi khu xóm. Hằng ngày chúng ta cũng được nghe nói đến những tai ương hoạn nạn xảy ra ở chỗ này hay ở chỗ kia trên thế giới. Tuy nhiên, thái độ của chúng ta vẫn chỉ là thái độ thờ ơ và dửng dưng, thái độ của kẻ mũ ni che tai, hơi đâu mà để ý đến. Đó là chuyện bên tây, bên tàu chứ có phải là chuyện của mình đâu mà lo.

Tác phong của chúng ta vẫn chỉ là tác phong của kẻ “cháy nhà hàng xóm, bình chân như vại”. Chúng ta chỉ biết lo cho bản thân mình, gia đình mình, họ hàng mình, phe nhóm mình mà thôi. Và chúng ta cảm thấy được bình an thư thái, chẳng có tội lỗi chi cả, vì chúng ta không ăn gian, không nói dối, không giận hờn, không thù ghét, không cướp của, không giết người.

Thế nhưng, nếu suy nghĩ chúng ta sẽ thấy: yêu thương không chỉ dừng lại ở những tiếng “không” lạnh lùng ấy, nghĩa là không được bằng lòng với khía cạnh tiêu cực ấy, mà còn phải bước vào khía cạnh tích cực, nghĩa là phải làm gì cho những người mình thương mình mến chứ.

Khi đọc kinh cáo mình, chúng ta đã thú nhận những tội đã phạm nhiều trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót. Vậy những điều thiếu sót ấy là gì? Tôi xin thưa chính là những điều chúng ta phải làm mà đã không làm.

Nghĩ xấu, nói hành, ăn trộm, giết người… đó là những việc làm tội lỗi ai cũng biết. Thế nhưng, không dạy bảo con cái, không giúp đỡ cha mẹ, không bố thí cho người nghèo, không thăm viếng người đau yếu khi có thể… đó là những việc thiếu sót và cũng là lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng. Chúng ta cần phải thành thật thú nhận trước mặt Thiên Chúa và trước mặt mọi người để xin ơn tha thứ.

Dưới một góc cạnh nào đó, chúng ta có thể định nghĩa người Kitô hữu không phải chỉ là những người có Đức Kitô trong tâm hồn, mang Đức Kitô trong cuộc sống, mà hơn thế nữa, người Kitô hữu còn phải là người nhìn nhận Đức Kitô trong mọi người, coi những vui mừng và những hy vọng, những buồn phiền và những lo lắng của người khác là của chính mình. Chia sẻ những đớn đau và những khát vọng của anh em mình. Coi những vấn đề của người khác là của chính mình và tìm cách giải quyết. Đó mới là yêu người như mình ta vậy.

Vì thế, đừng chỉ sống đạo theo luân lý cá nhân, nhằm cái lợi cho riêng mình, mà còn phải có ý thức xã hội, nhằm cái lợi cho người khác nữa.

Chẳng hạn khi mở máy truyền hình vào ban tối, thì cần nghĩ ngay đến người láng giềng đang cần sự yên tĩnh để nghỉ ngơi. Khi đổ rác thì đừng đổ xuống dòng sông vì phải nghĩ ngay đến phép vệ sinh công cộng. Khi rước kiệu, thì đừng giăng hàng chiếm trọn cả mặt đường khiến cho bao nhiêu xe cộ bị kẹt cứng. Trong lúc đi rước, họ lâm râm đọc kinh và hát xướng. Họ tưởng thế là làm sáng danh Chúa cũng như làm sáng danh mình mọi đàng, đang khi ở hai đầu dân tài xế, lơ xe và còn biết bao nhiêu hành khách đang lên tiếng chửi bới họ và rất có thể cũng đang chửi bới đạo.

Hãy biết tế nhị giúp đỡ những người chung quanh, đó là cách thức làm chứng cho Chúa giữa lòng cuộc đời, bằng không, danh hiệu Kitô hữu của chúng ta cũng sẽ bị mai một với những phiền toái do chính chúng ta gây ra.

 

 

 

 

 

45. Bác ái Kitô giáo – Bác ái kiểu mẫu

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)

 

Người ta thường chia bác ái ra làm nhiều loại tuỳ theo đặc tính của nó: bác ái đổi chác, theo nghĩa “bánh ít đi, bánh qui lại”; bác ái ngân hàng là bác ái kiểu cho vay lấy lãi một cách sòng phẳng; bác ái vị tha là bác ái hoàn toàn cho đi một cách vô vị lợi; bác ái quảng đại tức là biết sẵng sàng trao ban hơn cả những gì mà đối tượng chờ đợi, v.v… Thế còn bác ái Kitô giáo là loại bác ái nào?

Câu chuyện Dụ ngôn trong Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cho ta biết bác ái Kitô giáo đúng nghĩa là gì. Theo trình thuật của thánh Luca, thì cả 3 nhân vật trong câu chuyện: người Samaria, thầy Tư Tế và thầy Lêvi đều trông thấy nạn nhân bên đường, nhưng chỉ có người Samaria biết “chạnh lòng thương”. Tuy nhiên, ông không chỉ dừng lại ở mức độ “từ ánh mắt” (trông thấy) “đến trái tim” (chạnh lòng thương); mà còn “đến cả đôi tay”, tức là bằng những hành động rất cụ thể.

Ông ta dừng lại, đến gần bên nạn nhân, cúi xuống, đổ dầu rượu (có lẽ ông đã dốc cạn dầu và rượu để làm dịu bớt sự đau đớn cho người bị nạn) và băng bó cẩn thận sau khi đã tẩy trùng cho vết thương, rồi đặt nạn nhân lên lưng lừa và đưa tới quán trọ mà săn sóc. Hơn thế nữa, ông còn ở lại với người bị nạn: “Hôm sau ông đưa ra hai quan tiền”. Từ ngữ “hôm sau”, mặc nhiên ta có thể hiểu ông đã ở lại với nạn nhân qua đêm để cho người đó qua khỏi cơn nguy kịch đã, rồi mới an lòng ra đi. Chưa hết, ông còn thanh toán mọi chi phí, và dặn dò cặn kẽ với người chủ quán: “Nhờ bác săn sóc người này, có tốn kém bao nhiêu, chính tôi sẽ chi trả khi trở về”. “Chính tôi” sẽ chi trả chứ không phải vợ con anh ta, cha mẹ anh ta, cũng không phải nhà băng, hay dịch vụ bảo hiểm y tế. Lòng quảng đại của ông thật tuyệt vời! Ông đã không ngại hy sinh thời giờ, sức lực và cả tiền bạc. Nói cách khác, ông đã quảng đại cho đi tất cả, nhất là cho đi chính mình.

Chính cung cách cư xử của người Samaria này đã làm nỗi bật lên đức ái hoàn hảo của Tin Mừng. Dụ ngôn cũng muốn ám chỉ cho ta thấy Đức Kitô đích thực là người Samaria nhân hậu đối với nhân loại chúng ta, khi Ngài đã sống trọn hảo đức bác ái đó của Tin Mừng. Ngài đã rời bỏ mọi vinh quang Thiên Quốc để đến trần gian. Ngài đã cúi xuống trên nhân loại khổ đau để băng bó và chữa lành các vết thương do tội lỗi và sự chết gây ra. Đoạn Ngài ra đi, để nhân loại trong quán trọ là Giáo hội của Ngài, để Giáo hội trông nom và chăm sóc hộ Ngài.

Và bây giờ đến lượt chúng ta cũng phải tiếp tục nhiệm vụ của người Samaria nhân lành bên cạnh tất cả những người mà chúng ta gặp gỡ: chân tình giúp đỡ và băng bó các vết thương của họ. Vết thương của nghèo đói, đau khổ, bệnh tật, cô đơn, chết chóc,… Con đường từ Giêrusalem tới Giêricô chính là đường đời, trên đó không thiếu những con người bất hạnh, bị bỏ rơi, bị bóc lột, bị để mặc trong tình trạng sống không ra sống, chết không ra chết. Họ đang là những nạn nhân của bạo lực, bất công, bệnh tật, chiến tranh hận thù… “Hãy đi và làm như vậy” luôn là một mệnh lệnh có tính cấp bách.

Chính vì thế, sứ điệp Tin Mừng đang thôi thúc chúng ta nỗ lực mỗi ngày làm một việc bác ái cụ thể trong môi trường mà mình đang sống: nơi thôn xóm, nơi công sở, nơi trường học, trên đường đi. Hãy làm với một niềm tin tưởng rằng mỗi một cử chỉ bác ái mà ta làm cho tha nhân, dù nhỏ bé đến đâu, cũng đều góp phần làm cho tình yêu của Thiên Chúa lan toả và làm cho nền văn minh tình thương của nhân loại được thăng hoa.

Chính Chúa Giêsu đã dạy rằng: “Không phải bất cứ ai cứ kêu lên: ‘Lạy Chúa, lạy Chúa’ là được vào Nước Trời cả đâu. Nhưng chỉ những ai thi hành ý muốn của Chúa Cha, kẻ ấy mới được vào mà thôi” (Mt 7,21). Ngài cũng đã dạy rằng Thiên Chúa chỉ tính sổ với ta về những hành động yêu thương, bác ái mà ta đã làm hoặc đã không làm cho những người anh em của ta (x. Mt 25).

Xin cho điều Chúa dạy, “hãy đi và làm như vậy” được mỗi người chúng ta ghi tâm khắc cốt và nỗ lực đem ra thực hành, để ta “được sự sống đời đời”, sự sống mà Chúa đã hứa ban cho tất cả những ai biết lắng nghe và thực thi vuông tròn các huấn lệnh của Ngài. Amen.

 

 

 

 

 

46. Biên giới

 

Về bác ái yêu thương, chúng ta đã nghe hoặc nói nhiều rồi, nhưng chắc chắn không bao giờ nói đủ, nói hết hay nghe đủ, nghe hết, mà còn phải nói nhiều và nghe nhiều nữa. Nhưng nghe nói hay hiểu biết luật yêu thương thôi thì chưa đủ, mà điều quan trọng là phải làm, phải thực hiện, phải hành động yêu thương thật sự. Bởi vì, nếu Kinh Thánh nói: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết”, thì chúng ta có thể nói: tình thương không có việc làm là tình thương dỏm, tình thương đầu môi chót lưỡi, tình thương nước bọt, tình thương chết.

Trong bài Tin Mừng Chúa Giêsu cũng khẳng định rõ ràng về yêu cầu đó. Chúa công nhận và khen người thông luật đã trả lời rất đúng luật và rất thuộc luật yêu thương. Nhưng còn thi hành thì sao? Có lẽ ông cũng đã thi hành, nhưng chưa thi hành đúng hoặc chưa thi hành đầy đủ khi ông hỏi Chúa: “Ai là người thân cận của tôi?”. Chúa không trả lời mà đưa ra một câu chuyện để giải thích.

Qua câu chuyện này, chúng ta đều biết ai là người thân cận của người bị nạn. Đúng, người Samari chứ không phải hai người tư tế và Lêvi, vì người Samari đã biết thể hiện tình thương. Trong khi trên thực tế, hai người tư tế và Lêvi thật sự là người thân cận của người bị nạn, vì cùng là người Do thái, đồng hương, đồng chủng, đồng đạo với người bị nạn, nhưng vì không biết thể hiện tình thương nên không còn là người anh em hay thân cận gì nữa. Trái lại, người Samari có một mối thù truyền kiếp, không đội trời chung với người Do thái, đáng lý ra ông ta phải tránh né nạn nhân, vì không có liên hệ ràng buộc nào, không cùng chủng tộc, không cùng tôn giáo, không cùng nghề nghiệp, xứ sở. Nhưng ông ta đã trở nên anh em, trở nên người thân cận của nạn nhân chỉ vì tình thương. Tình thương xoá bỏ mọi hàng rào ngăn cách. Trước mắt ông, đó là một người cần tình thương để sống và ông đã ra tay cứu giúp.

Như vậy, giới luật yêu thương không những đòi hỏi việc làm cụ thể mà còn đòi hỏi phải thể hiện đối với mọi hạng người: bất cứ ai, bất kể quốc tịch, huyết thống, đảng phái, màu da, cho dù là kẻ thù, mà gặp khó khăn, đều kêu gọi chúng ta giúp đỡ, tỏ tình thương. Nói khác đi, luật yêu thương đòi hỏi bật tung hết mọi thứ ranh giới đã bóp nghẹt nghĩa cử yêu thương, bất cứ hình thức nào cũng phải bật tung hết, để tất cả mọi người đều đối xử với nhau trên một căn bản chung duy nhất là con người mà thôi.

Chúng ta thường có khuynh hướng phân biệt xã hội thành hai loại người: tốt và xấu, bạn và thù. Kẻ xấu là người đáng xa lánh, người thù thì phải oán hận sâu sắc. Chúa Giêsu đã đánh đổ mọi thứ óc phân biệt đó: những kẻ bị xã hội loại ra bên lề đã được Ngài biến thành bạn hữu, những kẻ đồng bàn. Ngài đã không nhìn người bằng những nhãn hiệu có sẵn mà chỉ bằng hình ảnh cao quý của Thiên Chúa. Trong cái nhìn ấy, hàng rào giữa bạn và thù, giữa tốt và xấu sẽ được tháo gỡ giữa mọi người. Trong cái nhìn ấy, tất cả mọi người đều có chung một danh xưng: là anh em của nhau.

Là con cái Chúa, chúng ta phải có cái nhìn đó, chúng ta phải thể hiện tình yêu thương đối với bất cứ ai đang cần được chúng ta giúp đỡ. Họ là anh em của chúng ta, họ là người thân cận của chúng ta. Có người ở ngay sát nhà chúng ta nhưng họ không cần được giúp đỡ, đó chưa phải là người thân cận. Trái lại, có một người đâu đâu xa lạ mà họ cần sự giúp đỡ của chúng ta, và chúng ta có khả năng giúp đỡ, họ chính là người thân cận của chúng ta.

Cách đây ít lâu có người đã đặt vấn đề như sau: những người lái xe trên đường sẽ mau mắn dừng lại để giúp đỡ hạng phụ nữ nào đang gặp khó khăn dọc đường: một phụ nữ mang bầu hay một bà cụ già gầy yếu? Một cô hippy choai choai, một chị phụ nữ đứng đắn hay một cô gái ăn mặc hở hang? Câu hỏi này đã được một tạp chí giải đáp bằng cách tiến hành một cuộc thử nghiệm trên con đường số 1 thuộc tiểu bang Florida của Mỹ, với sự cộng tác của cô Sally Mullins, một kịch sĩ 22 tuổi. Cô Sally lần lượt hoá trang thành 5 vai phụ nữ khác nhau bị hư xe dọc đường và đang chờ đợi sự giúp đỡ của người đi đường. Kết quả của cuộc thử nghiệm như sau:

Đầu tiên với bộ y phục màu đen trang nhã, mang dáng dấp của một nữ viên chức nhà nước, cô đứng bên cạnh chiếc xe hơi với cốp xe đã được nhấc lên, dấu hiệu xe cộ đang bị hư. Cô đợi đúng một phút rưỡi thì chiếc xe hơi thứ 12 đã dừng lại và sẵn sàng giúp đỡ cô. Người lái xe là một thanh niên khoảng 30 tuổi.

Kế đến, với kiểu hoá trang thành một phụ nữ mang bầu, cô Sally đứng bên cạnh xe và lần này cô phải chờ đến hai phút rưỡi và phải chờ tới chiếc xe thứ 50 mới dừng lại. Chủ xe là một cặp vợ chồng.

Tiếp đến, trong vai một bà cụ gầy yếu, cô Sally phải chờ đến năm phút và phải chờ tới chiếc xe thứ 100, đó là xe của một đôi nam nữ sinh viên dừng lại hỏi thăm và sẵn sàng giúp đỡ.

Sau đó, trong y phục của một cô gái hippy choai choai, quần din bó sát và áo chim cò, thì kết quả thật là tồi tệ: không một ai chịu dừng xe lại giúp cô.

Cuối cùng, khi nữ diễn viên khoác trên người một chiếc áo mi ni bó sát người, cô chỉ vừa bước ra khỏi xe và chưa kịp mở cốp xe lên như những lần trước, thì đã có một thanh niên hào hoa dừng xe lại phía sau và xin được giúp đỡ. Bài báo trên kết luận bằng câu hỏi: nếu bạn gặp một hoàn cảnh tương tự, bạn sẽ tình nguyện giúp hạng người nào trong số năm loại phụ nữ nói trên để xứng đáng là một môn đệ của Chúa?

Hôm nay chúng ta cũng rất nên đặt câu hỏi: “Ai là người thân cận của tôi”. Chúng ta cần tìm cho được ai là người Chúa muốn chúng ta giúp đỡ? Chúng ta cần soi mình vào tấm gương lời Chúa hôm nay xem chúng ta đã thể hiện đức ái phổ quát được tới đâu? Hay ngược lại, chúng ta đã vô tình hoặc cố ý dựng thêm những hàng rào bất công và vô lý để khép kín chính mình hay án ngữ người khác thể hiện tình yêu thương chăng?

 

 

 

 

 

47. Yêu thương

 

Tôi xin hỏi các bạn: “Ai trong các bạn dám nói rằng: đời tôi không bao giờ yêu thương ai hay là không muốn một ai yêu thương tôi cả?” Chắc chắn là không có ai dám khẳng định như vậy cả. Thật vậy, nhu cầu và khát vọng yêu thương vẫn tồn tại nơi từng con người, nhưng vấn đề được đặt ra cho mỗi người chúng ta hôm nay là: tôi yêu ai? Yêu với một thái độ như thế nào? Và tôi yêu để làm gì? Những câu hỏi này ắt hẳn mỗi bạn đều đã có câu trả lời cho chính mình, đó là quan niệm riêng của mỗi người.

Hôm nay, qua trang Tin Mừng thánh Luca tường thuật cho chúng ta, Chúa Giêsu đã đưa ra cho chúng ta một quan niệm mới về tình yêu. Và đây cũng là điều cốt lõi cho đời sống người Kitô hữu và được đặt làm trung tâm điểm của đạo Kitô giáo chúng ta: Mến Chúa và Yêu Người. Chúa Giêsu đã đặt giới răn yêu thương này trong mối tương quan của người Kitô hữu với Thiên Chúa và với con người. Tình yêu Thiên Chúa và tình yêu tha nhân nơi người Kitô hữu có một mối quan hệ bổ túc cho nhau để người Kitô hữu ngày càng trở nên hoàn thiện hơn. Thánh Gioan khi nói về mến Chúa và yêu thương anh em cũng đã viết: “Ai nói yêu mến Thiên Chúa mà không yêu anh em mình là kẻ nói dối, vì nếu họ không yêu anh em là người họ trông thấy thì làm sao họ có thể yêu mến Thiên Chúa, Đấng mà họ không thấy”.

Cũng như người thông luật trong bài Tin Mừng hôm nay: Thiên Chúa thì chỉ có một, nhưng tha nhân thì rất nhiều xét trên mối tương quan, qua mỗi quan điểm… từ đó anh ta bối rối khi xác định cho mình người thân cận để yêu thương. Chúng ta nhiều khi cũng vậy.

Qua dụ ngôn người Samaria tốt lành, Chúa Giêsu đã không định nghĩa thế nào là người thân cận, nhưng Ngài đã giúp ta nhận ra cho mình mẫu người thân cận của chúng ta, đó không chỉ là những người thân quen “cùng hội cùng thuyền”, cũng không chỉ là những người cùng tôn giáo, cùng chủng tộc hay cùng một quốc gia, nhưng là những người đang gặp khốn khó, những người đang cần chúng ta giúp đỡ. Có thể nói khi đến gần ai – không có bất cứ một sự phân biệt nào – là lúc ta biến người đó thành thân cận của chúng ta. Nhưng thử hỏi có thể đặt một giới hạn cho tình yêu đối với tha nhân không?

Người Việt chúng ta có câu: “Thương người như thể thương thân”. Hay như một nhạc phẩm đã diễn tả: “Yêu là chết đi, là đóng đinh, là biết hy sinh cho người mình yêu”. Vâng, đó là tinh thần của Chúa Giêsu và là lời mời gọi của Chúa Giêsu: yêu thương tha nhân với một tình yêu vô vị lợi, không tính toán, không lý lẽ và không đặt một biên giới nào cho tình yêu ấy. Người Samaria đã không ngần ngại đến với người xấu số kia mà không hề nghĩ đến mình có thể gặp bao điều phiền toái: hành trình bị gián đoạn và trễ hẹn, sẽ phải tốn kém, thậm chí có thể bị thiệt thân nữa vì bọn cướp đang rình rập đâu đây. Ông đã không tính toán: khi dốc cạn dầu và rượu để làm dịu bớt sự đau đớn cho tha nhân, ông không ngần ngại nhường lưng lừa để đưa tha nhân đến quán trọ và không ngần ngại dốc những đồng tiền để lo cho người bị nạn.

Yêu tha nhân như chính mình, sứ điệp Tin Mừng mời gọi ta khi đến với tha nhân hãy biết dẹp đi cái tôi của mình, phục vụ tha nhân đến nỗi có thể nói được là phải hao mòn chính bản thân mình, để người thân cận tìm được một niềm vui và an ủi.

Chuyện người Samaria tốt lành ngày xưa có còn là bài học thiết thực cho các bạn và tôi ngày hôm nay nữa không? Thưa nó vẫn là một bài học cho chúng ta. Như với người thông luật, Chúa Giêsu cũng khuyến khích chúng ta: “Hãy đi và làm như vậy để được sự sống đời đời”. Sống bác ái và dấn thân cho tha nhân vẫn ngày ngày là chứng từ sống động cho đạo tình yêu của Thiên Chúa, nó có sức mạnh cuốn hút người khác đến với Thiên Chúa.

Cha sở giáo xứ Taejou (Nam Hàn) – cha Cluny kể rằng: Khi hay tin có một người ăn xin vừa mới chết ở ngoài chợ, các bạn trẻ trong giáo xứ của ngài đã hy sinh đóng góp tiền mua hòm để lo hậu sự cho người hành khất xấu số kia. Họ đã xin phép cha xứ đem ông ta đến nhà thờ để cầu nguyện (vì ông ta cũng vừa được rửa tội), tổ chức thánh lễ và đưa ông ta đi chôn. Người dân trong giáo xứ hay tin đã đến và tham dự. Mấy ngày sau, cha xứ có việc đến một làng cách giáo xứ của ngài 30 cây số thì có hai ông lão đến gặp và nói: “Sự bác ái và kính trọng của người Công giáo đối với người chết làm chúng tôi hài lòng. Chúng tôi biết được điều Giáo Hội Công giáo đã làm cách nay mấy ngày cho người chết nơi chợ. Vì thế, chúng tôi muốn xin trở lại đạo”. Và cha Cluny kết luận: “Thật tuyệt diệu! Các bạn trẻ trong xứ đã làm cho Giáo Hội được thiện cảm và hấp dẫn nơi con mắt của người ngoại giáo và ngay cả nơi con mắt của người Công giáo”.

Ngày nay, một xã hội đang có nhiều con người bị bỏ rơi, bị bóc lột, bị bỏ sống không ra sống chết không ra chết, luôn là một thực trạng không thể phủ nhận. Nhiệt huyết của các bạn đang có, tình yêu của các bạn đang ở thời kỳ sung mãn, các bạn hãy sống làm chứng cho Tin Mừng bằng chính đời sống bác ái cụ thể và thiết thực.

“Hãy đi và làm như vậy”. Sứ điệp Tin Mừng đang thôi thúc tôi và các bạn nỗ lực mỗi ngày một việc làm cụ thể trong môi trường của chúng ta đang sống nơi công sở, nơi trường học, trên đường đi. Các bạn hãy làm với một niềm tin tưởng rằng cho dù một cữ chỉ nhỏ của chúng ta đối với tha nhân là chúng ta góp phần làm cho tình yêu của Thiên Chúa lan toả và góp phần xây dựng một nền văn minh tình thương cho thế giới. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã ngỏ lời với các bạn qua sứ điệp ngày giới trẻ thế giới lần thứ 16 vừa qua rằng: “Vậy đừng sợ đi trên con đường Chúa đi. Với tuổi trẻ, chúng con hãy ghi dấu ấn của niềm hy vọng và lòng nhiệt thành vốn là đặc trưng của tuổi trẻ chúng con trên ngàn năm thứ ba”. Chúng ta hãy cùng trở nên chứng tá cho tình yêu bằng hai nguyên tắc: Tình yêu Thiên Chúa và tình yêu tha nhân là một; tình yêu tha nhân bao gồm tất cả mọi người, không loại trừ người ngoại bang hay kẻ thù.

 

 

 

 

 

48. Sống Lời Chúa

 

Làm sao để được sống đời đời? Đây là câu hỏi nhiều người đã đặt ra và cố gắng tìm câu trả lời. Đức Giêsu cũng đã được người ta đặt cho câu hỏi này, và Ngài đã không chỉ trả lời bằng lời dạy nhưng còn bằng chính cuộc sống của Ngài.

Lời Chúa ngay nơi lòng con người

Thời xưa người ta cũng ao ước được biết Lời Chúa, vì người ta tin rằng Lời Chúa đem lại cho người ta hạnh phúc. Môsê đã nói với dân chúng: Lời Chúa không ở xa con người, không ở trên trời để người ta cho rằng mình không thể lên trời nên không biết được, Lời Chúa không ở bên kia biển để người ta cho rằng xa quá không ai có thể tới để học biết và trở về dạy cho họ, nhưng Lời Chúa ở ngay trong lòng mỗi người, ở nơi miệng con người. Điều quan trọng là thực hành Lời Chúa.

Vấn đề chính yếu không phải là biết, mà là sống Lời Chúa. Mười giới răn của Chúa tóm lại nơi hai điều: yêu Chúa yêu người. Nói cho cùng, luật Chúa tóm mọi nơi giới luật “tình yêu”. Yêu tất cả mọi người, yêu đặc biệt người cần đến mình giúp đỡ như người Samaria yêu thương và giúp đỡ người bị nạn. Có thể người tư tế, luật sĩ, biệt phái biết luật nhiều hơn người Samaria, nhưng họ không sống Lời Chúa.

Ai yêu thương, là biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa là tình yêu (1Ga 4,8.16). Cái biết ở đây không là “biết nói” giỏi về Thiên Chúa, nhưng là “biết thực” bằng cuộc sống. Không phải cứ là nhà thần học, không phải cứ rao giảng hay về Thiên Chúa, là những người biết sâu xa về Thiên Chúa; nếu một người nói giỏi về Thiên Chúa mà họ lại sống không yêu thương, thì họ không phải là người biết Thiên Chúa thật.

Tập sống Lời Chúa

Sống Lời Chúa, không dễ. Sống giới răn yêu thương, không dễ. Đức Giêsu nói: “người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ thầy, là các con yêu thương nhau”. Không có dấu chỉ khác để nhận biết người môn đệ Đức Giêsu. Dấu chỉ duy nhất để nhận biết người môn đệ Đức Giêsu: “yêu thương”.

Yêu thương được biểu lộ qua nhiều khía cạnh của cuộc sống. Yêu thương bằng hành động: giúp đỡ; yêu thương bằng lời nói: dịu dàng, nâng đỡ, dứt khoát; yêu thương nơi tư tưởng: nghĩ đúng về người khác. Yêu thương được thể hiện bằng cả ánh mắt, bằng chính thái độ của cả con người. Tình yêu mạnh hơn sự chết, tình yêu có sức biến đổi con người. Tình yêu làm cuộc sống tươi hơn, đẹp hơn, vui hơn. Yêu thương làm cho người khác và làm cho chính mình triển nở và hạnh phúc hơn.

Tập yêu mỗi ngày. Thất bại là mẹ thành công. Mình muốn sống yêu thương, mà dường như con người của mình không muốn tuân theo điều mình muốn. Tình yêu không chỉ hệ tại nơi cảm tính, nhưng chính yếu nơi lý trí và ý chí; và từ đó con người thể xác của chúng ta sẽ được biến đổi. Tập nhìn, tập trả lời ngay cả khi mình không muốn; tập cười, tập lại gần khi mình không thích. Xin Chúa giúp mình, và ý thức: tự sức mình, mình không thể sống yêu thương như Chúa muốn được. Mình cần Chúa để sống yêu thương, để vượt qua chính mình, để thuộc về Chúa trong cuộc sống thường ngày.

Ai sống yêu thương, sẽ được thương yêu. Ai thấy mình không được thương yêu, hãy tự vấn xem mình đã yêu thương người khác chưa. Tập yêu, bằng cách tập chào hỏi trước, ngay cả chào hỏi người dưới mình trước. Tập cười khi họ chưa cười với mình.

Đức Giêsu- Đấng yêu thương

Đức Giêsu, Đấng đã yêu thương con người đến chết. Ngài mong rằng con người nhận biết tình yêu của Thiên Chúa và đáp trả tình yêu. Ngay khi Ngài sống, tuy dù có những người ghét và tìm cách giết Ngài, nhưng Ngài vẫn yêu thương và được nhiều người yêu mến. Cho đến hôm nay, Ngài vẫn là người được nhiều người yêu mến. Sở dĩ vậy, vì Ngài chỉ biết yêu thương mà thôi.

Ngài không đòi người ta kính trọng Ngài, Ngài không đòi người ta yêu mến Ngài, Ngài không đòi người ta phục vụ Ngài, nhưng Ngài yêu mến con người, phục vụ con người, tìm cách giúp đỡ con người, cả tinh thần lẫn vật chất. Những người nghèo, những người tội lỗi, những người bị xã hội coi thường và ruồng bỏ, thì Ngài tới với họ, để yêu thương và kính trọng họ.

Thiên Chúa là tình yêu. Đức Giêsu đã yêu thương như Thiên Chúa yêu thương.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

Bạn có được nhiều người yêu thương không? Tại sao vậy?

Câu Lời Chúa nào quan trọng nhất đối với bạn? Tại sao?

Có người nói: đạo Công Giáo phải là đạo “tình yêu”. Bạn có đồng ý với người đó không? Tại sao?

 

 

 

 

 

49. Ai là người thân cận của tôi

(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn An Khang)

 

“Ai là người thân cận của tôi?” Đó là câu hỏi của thầy thông luật đặt ra với Đức Giêsu. Để trả lời, Đức Giêsu đưa ra một câu chuyện, xảy ra trên đường từ Giêrusalem đến Giêrikhô.

Giêrusalem là thủ đô nước Do thái từ thời vua Đavít, cao hơn mặt biển 700m. Giêrikhô là một trong những thành phố cổ nhất thế giới, có từ khoảng năm 8000 trước công nguyên, thấp hơn mặt biển 250m. Từ Giêrusalem xuống Giêrikhô chỉ có một đường duy nhất dài khoảng 23 km, đi qua núi Cây Dầu là sa mạc, ngoằn ngoèo bên những tảng đá lớn, thường là nơi ẩn núp của những băng cướp. Hiện nay, còn lưu lại một lá thư viết từ năm 171 sau công nguyên, phàn nàn với nhà cầm quyền địa phương về tình trạng tội ác xảy ra dọc theo con đường đó. Có nhiều chứng cứ lịch sử cho thấy, các du khách đã phải nộp tiền cho lũ côn đồ địa phương tổ chức trấn lột, để được an thân khi đi qua con đường đó. Vì thế, chính con đường tai tiếng đó, đã cung cấp cho Đức Giêsu bối cảnh thực tế, để người nêu lên dụ ngôn người Samaria nhân hậu.

Chuyện xảy ra: Có một người đi từ Giêrusalem xuống Giêrikhô. Đức Giêsu không gán một nhãn mác tôn giáo hay xã hội nào cho người này, dầu có lý hiểu, đó là một người Dothái. Ông ta là người tốt hay xấu? Quan trọng hay không quan trọng? Những vấn đề đó không được nêu ra. Ông ta là một người bình thường. Tất cả chỉ có thế. Ông bị rơi vào tay bọn cướp, chúng lột sạch, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi để mặc người ấy nửa sống nửa chết. Tình cờ có thầy tư tế, thầy Lêvi và người Samaria đi qua. Đức Giêsu đặt cả ba vào trong một tình huống, phải chọn lựa một quyết định: Giúp hay không giúp người bị nạn kia, hoặc tiếp tục công việc riêng của mình? Họ không có lối thoát, cũng không có chỗ để trốn tránh. Họ phải dấn thân cách này hay cách kia. Thầy tư tế và thầy lêvi quyết định bỏ qua mà đi. Còn người Samaria quyết định dừng lại, và giúp đỡ nạn nhân.

Thầy tư tế và thầy lêvi cho mình có lý không giúp nạn nhân, vì các thầy vừa thực hiện lễ nghi phụng tự trong đền thờ xong. Các thầy còn đang thanh sạch, trên đường đi xuống Giêrikhô trở về nhà (thành này là một trong các thành cho thầy tư tế và lêvi ở). Các thầy không thể để mình dơ, vì theo luật Maisen: “Ai chạm vào xác chết, vào máu, vào một người bị ám sát, sẽ mắc dơ trong bảy ngày” (Ds 19,11-13). Để giữ mình thanh sạch, các thầy đã chọn giải pháp là không dây dưa vào nạn nhân. Tuy nhiên, các thầy đã không nhớ lời ngôn sứ Ôsê 6,6: “Ta muốn lòng nhân từ, chứ không muốn nghi lễ”. Thiên Chúa không thích lễ lạy của các thầy, Người chờ đợi các thầy bên ngoài đường phố, lúc các thầy sẽ ra khỏi nơi tế lễ, các thầy sẽ gặp người thân cận. Hãy yêu thương! Phải, các thầy hãy yêu thương. Đó chính là sự thờ phượng thật.

Vả lại, xưa cũng như nay, tất cả những ai không giúp đỡ người khác khi gặp hoạn nạn, đều bị các tòa án kết tội. Thầy tư tế và lêvi mắc tội bỏ qua. Tội bỏ qua có thể là tội xấu xa nhất của con người, vì người ta cho rằng càng không dính dáng tới người khác, càng tốt cho mình. Thầy tư tế và lêvi là những người “vô can”, khi đứng ngoài mà nhìn người khác gặp hoạn nạn. Việc đó đã nói lên tính cách của thầy tư tế và lêvi, họ là những người lấy mình là trung tâm, đã không mở lòng giúp đỡ người khác. Khi gặp vấn đề, họ đều đặt mình lên trước hết.

Người Samaria, trông thấy người bị nạn, ông cảm thông, thương xót và lập tức giúp đỡ người đó. Ông không lo ngại về điều phiền phức có thể xảy đến với bản thân. Ông cũng không lảng tránh, cho dù đó là một người Dothái. Thời đó, người Dothái và Samaria coi nhau như kẻ thù. Ở đây, ông chỉ thấy nạn nhân là một kẻ bất hạnh, một người như mình, nhưng lại không được như mình. Ông thấy bổn phận phải yêu thương người ấy như chính mình. Ông đầy ắp tình người, đã săn sóc nạn nhân, sau đó đưa về quán trọ. Ông là người có nhân bản, đã trở thành người thân cận với nạn nhân.

Làm sao người Samaria có thể thực hiện được điều đó? Điều đó không thể đạt được trong ngày một ngày hai. Những việc lớn không thể hoàn thành được trong một tính cách bốc đồng, nó là kết quả của mỗi việc nhỏ liên kết với nhau. Phần thưởng đích thực cho một việc tốt, là nó tạo ra việc tốt tiếp theo dễ hơn, tốt hơn. Tính cách con người được tạo ra hay không, đều do mỗi hành vi nhỏ mọn thường ngày. Người Samaria có hành động nhân ái, tự phát đối với người bị nạn, rõ ràng lòng tốt của ông đã trở thành một thói quen, bản tính thứ hai của ông. Ông luôn luôn hướng về người khác, lấy người khác làm trung tâm.

Với câu hỏi thầy thông luật “Ai là người thân cận của tôi? Câu trả lời chung thời đó có lẽ là “người thân cận của ta là người thuộc bộ tộc của mình, hoặc thuộc nhóm giới của mình, hoặc cùng tôn giáo với mình”. Nhưng câu trả lời của Đức Giêsu lại là “người thân cận là bất kỳ người nào mà ta chọn để kết thân với họ. Vấn đề thật sự không phải là coi ai là thân cận của ta, nhưng là ta sẵn sàng đối xử như thân với ai?”. Kết thúc cuộc đối thoại, Đức Giêsu bảo thầy thông luật: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy”, nghĩa là như người Samaria.

Lạy Chúa, xin cho con phụng thờ Chúa trong đền thờ. Nhưng đừng quên phụng thờ Chúa trên đường phố nơi người anh em.

 

 

 

 

 

50. Tốt hơn là hãy tin!

 

Có hai người đàn ông đang chạy bộ ở ngoài bờ biển vào một buổi sáng. Họ bỗng ngừng lại bởi vì cả hai bắt gặp một cái đèn cổ đẹp đẽ bị chôn vùi trong cát một nửa. Một người đàn ông đã cấm lấy chiếc đèn và lau cho sạch cát. Bỗng dưng, từ trong chiếc đèn xuất hiện một ông thần. Ông thần nói, “Hai ông kia, các ông đã chà vào cái đèn thần này, tôi sẽ toại nguyện cho hai ông mỗi người một ước nguyện.” Người đàn ông thứ nhất liền nói, “Tôi mong là người đàn ông thông minh nhất trên thế giới.” Thần đáp, “Được, ước nguyện của ông sẽ được toại nguyện.” Người đàn ông thứ hai nói, “Tôi mong là người thông minh hơn cả người thông minh nhất thế giới.” Rồi thì người đàn ông thứ hai đã được hoá thành một người đàn bà.

Người ta thường nói, “Cuộc sống này đầy những điều ngạc nhiên.” Hơn thế nữa, đó cũng là điều mà Phúc Âm thường nhắc đi nhắc lại: cuộc đời của Chúa Giêsu đầy những cái ngạc nhiên. Ngài đã xuất hiện trong một cái thế giới đang chờ đợi một Đấng Thiên Sai theo nghĩa chính trị để giải thoát và làm cho dân tộc được vinh dự. Tuy nhiên, khi Ngài xuất hiện thì Ngài đã nói với họ rằng Đấng Thiên Sai sẽ phải chịu đau khổ, giết chết. Thật là một điều ngạc nhiên!

Ngài đã xuất hiện trong một thời đại mà con người đầy những triết lý trả thù: mắt đền mắt, răng đền răng… nhưng Ngài lại dạy rằng, hãy đưa luôn má bên kia, hãy đi với người ta thêm một dặm nữa, hãy yêu thương kẻ thù, hãy cầu nguyện cho họ. Thật là một điều ngạc nhiên!

Một thầy thông luật đến và hỏi Chúa Giêsu, “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để đoạt được cuộc sống vĩnh cửu?” Chúa Giêsu trả lời ông bằng cách đặt câu hỏi, “Điều gì đã viết trong sách Luật?” “Ngươi hãy yêu thương Thiên Chúa ngươi hết lòng hết sức hết trí khôn ngươi… và người thân cận như chính mình,” thầy thông luật trả lời Ngài. “Anh trả lời đúng, hãy làm điều đó và anh sẽ được sống,” Chúa Giêsu trả lời anh. Tuy nhiên, người thông luật muốn làm cho Chúa Giêsu bị quê trước đám đông nên anh hỏi tiếp, “Nhưng ai là người thân cận của tôi?” Chúa Giêsu trả lời anh bằng dụ ngôn người Samarita tốt lành…

Qua dụ ngôn đó, Chúa Giêsu muốn dạy cho thầy thông luật đó một bài học không nên hỏi câu, “Ai là người thân cận của tôi?” Ngược lại, phải hỏi rằng với ai mà tôi phải là người thân cận?” Câu trả lời là với những người đang cần đến tôi mà không kể chi đến thân phận của người đó cho dù là họ thấp kém hay là cao cả, cho dù họ thuộc về tôn giáo nào, cho dù là đến cả kẻ thù của ta nữa. Đọ là một điều ngạc nhiên!

Điều này làm cho nhiều người chúng ta không những phải ngạc nhiên nhưng còn giật mình nữa khi chúng ta phải đối diện với cuộc sống hiện tại.

Tôi phải hy sinh giúp cho kẻ thù của tôi, người mà tôi không ưa chút nào cả, người mà không có một chút gì gọi là biết điều cả? Thật là một điều không thể nào tin nổi!

Chúa Giêsu phán với chúng ta rằng: “Các con tốt hơn hết là hãy tin nếu các con muốn nhận biết ra được khả năng đầy đủ của các con. Tốt hơn hết là các con hãy tin nếu các con muốn cảm nghiệm được sự sống hoàn hảo. Tốt hơn hết là các con hãy tin nếu các con chiếm được sự bình an trong tâm trí và tâm hồn. Tốt hơn hết là các con hãy tin nếu các con muốn hưởng nếm được sự sống đời đời ở thế gian này.”

Một cha xứ nọ ở nhà thờ Riverside Church tại thành phố New York kể một câu truyện như sau. Trong giáo xứ của ngài có một bà nọ rất ghét ngài. Bà ta đã đi kể tội ngài với nhiều người khác và lôi kéo họ vào hùa với bà.

Một ngày nọ, khi ngài phải đến nhà bà ấy. Ngài đã đi qua đi lại ở trước căn nhà của bà nhiều lần và mong rằng khi lên gõ cửa nhà bà thì bà sẽ không có ở nhà. Sau một hồi lấy hết can đảm, ngài đã đi lên và gõ cửa. Cho đến lần thứ ba cũng không có ai trả lời gì cả mà chỉ có một tiếng kêu nhẹ ở bên trong.

Sau đó, ngài đã quì xuống để nhìn qua lỗ khoá bởi vì ngài cho rằng hay là bà bị bệnh chăng. Ngạc nhiên thay, khi ngài nhìn qua lỗ khoá thì ngài nhìn thấy ánh mắt của bà kia. Người đàn bà đó nói, “Đây là lần đầu tiên chúng ta nhìn nhau trong khi chúng ta phải quỳ xuống.”

Cách đây hai ngàn năm, đã có nhiều người không thèm nhìn thẳng vào con mắt của Chúa Giêsu, và cho tới bây giờ cũng thế, họ không thể nào chấp nhận được giáo huấn của Ngài. Họ nghĩ là họ thông minh hơn Ngài. Đó chính là tội nguyên tổ lại tái phạm lần thứ hai.

Sự thù ghét, khinh khi, phân biệt chủng tộc… là những cái không được tồn tại trong tâm hồn chúng ta. Hãy làm hoà, yêu thương, nhân hậu với những kẻ thân cận của mình để chúng ta có thể đón nhận ơn bình an trong tâm trí và tâm hồn như chính Chúa Giêsu đã dạy. Các bạn hãy tin điều đó.

 

 

 

 

 

51. Yêu và làm – Lm. Vũ Xuân Hạnh

 

“Tôi phải LÀM gì để được sống đời đời?”. Bài Tin Mừng bắt đầu bằng một lời hỏi thử Chúa Giêsu của một nhà thông luật, với một động từ chủ chốt cho chính lời hỏi ấy: “LÀM”. Cũng với động từ chủ chốt ấy, bài Tin Mừng kết thúc bằng một câu trả lời xác định, và là một lời sai đi, một trách nhiệm cho một sứ mệnh của kẻ muốn sống đời đời: “Ông hãy đi và LÀM như vậy”.

“Làm” là một hoạt động không ngơi nghỉ, gắn kết với ta suốt cả đời. “Làm” có thể đưa ta đến đỉnh cao của danh vọng, của nhân phẩm. Nhưng cũng do “làm”, người ta có thể tự bán đứng chính mình như một thứ hàng xa xí phẩm cho những đổ vỡ lương tâm, cho bao nhiêu thất bại luân lý. Có khi người ta “làm” những điều tồi tệ không thể tưởng tượng, ngay cả thủ đoạn, nặng hơn, độc ác để mua lấy quyền cao chức cả, điều mà bên ngoài nhìn vào ai cũng cho rằng, họ là những người có địa vị, có giá trị cao, thực chất đó là những cọng rác thối không gì bằng. Chính vì vậy, “làm” có thể cho chúng ta cuộc sống đời đời. Nhưng cũng chính do “làm”, ta trở thành kẻ đáng lãnh án chết đời đời.

Vậy, “làm” để đạt sự sống đời đời là làm gì? Hay như một người đã hỏi Chúa Giêsu: “Tôi phải làm gì để được sống đời đời?”. Rất đơn giản, muốn sống đời đời, chỉ có mỗi một việc làm duy nhất: YÊU! Yêu Chúa và yêu người. Nói là đơn giản, nhưng để làm được những gì đã nói, là cả một khoảng cách rất lớn. Nhất là khoảng cách ấy thuộc về lãnh vực đức tin, lãnh vực của giáo huấn đến từ Thiên Chúa. Chỉ có một đời sống chìm trong đức tin mới có thể rút ngắn dần cả một khoảng cách lớn lao ấy. Chính trong ý nghĩa này mà thánh Augustinô mới dạy rằng: “Hãy yêu rồi làm”. Cũng chính vì phải yêu rồi hãy làm, chúng ta cần nhắc nhớ cho nhau rằng: Nếu phải làm, thì hãy làm trong tình yêu.

Yêu và Làm. Nói như thế vẫn chưa là cụ thể. Chúa Giêsu không dừng lại ở một giáo trình nào, dẫu lý thuyết mà Người dạy là điểm trọng tâm đi nữa. Người đã đưa ra một bằng chứng cụ thể để giải quyết thấu đáo cho vấn đề yêu – làm, vấn đề nền tảng của sự sống đời đời. Bài học cụ thể mà Chúa hướng dẫn là: “Một người đi từ Giêrusalem xuống Giêricô…” (Lc 10,30-37). Bài học ấy, câu chuyện người Samari nhân hậu ấy, là bằng chứng của tình yêu. Nếu hôm nay, bạn và tôi có được những nghĩa cử yêu thương như nghĩa cử lớn lao, thật cảm động của người Samari, bạn và tôi đã là người biết yêu và sống yêu: Yêu Chúa, yêu người. Vì yêu Chúa, đòi ta phải sống cho anh em. Và sống cho anh em là bằng chứng lòng ta yêu mến Chúa.

Sau khi đưa ví dụ về người Samari nhân hậu như một bằng chứng của lòng yêu thương, Chúa Giêsu kết luận bằng một lời ban mệnh lệnh: “Ông hãy đi và làm như vậy”. Có nghĩa là: “Ông hãy bắt chước người Samari nhân hậu sống đời sống bác ái yêu thương, để chính ông sẽ được sống đời đời”.

Nếu động từ “làm” ở câu đầu tiên, người thông luật đặt ra chỉ để hỏi thử Chúa Giêsu, “Tôi phải làm gì để được sống đời đời?”, thì ở câu cuối cùng, Chúa cũng trả lời bằng động từ “làm”: “Ông hãy đi và làm như vậy”, thì câu trả lời này, không chỉ là trả lời thật, nhưng còn là câu trả lời mở ra một sứ mạng cho những ai xưng mình là người Công giáo.

Nếu Chúa nhật tuần rồi, Giáo Hội cho chúng ta suy niệm bài Tin Mừng về việc Chúa chọn bảy mươi hai môn đệ và sai đi rao giảng Lời Chúa, thì sứ mạng sống và làm chứng cho Lời của Người, không thể không có đức bác ái, lòng mến yêu làm nền tảng. Vì không ai có thể hiểu nổi, một người chuyên cao rao Lời Chúa, dạy giáo lý rất hay cho anh chị em, giảng thuyết rất thuyết phục người nghe…, lại là người xơ cứng trước nỗi đau của anh chị em, không có một chút tình yêu nào đối với đồng loại, không bao giờ thực hiện một nghĩa cử yêu thương cho bất cứ anh chị em nào… Nếu lời nói là một trời, còn thái độ sống là một vực như thế, thì tất cả những gì mình nói và sống chỉ là phản chứng của Tin Mừng, chỉ là sự chống đối chính Lời của Thiên Chúa mà thôi.

Như vậy, đức ái chính bằng chứng cho biết một người có sống Tin Mừng của Chúa hay không. Nói cách khác, nhìn từ một góc cạnh nào đó, chính đời sống bác ái là lời rao giảng Tin Mừng hùng hồn nhất, thu hút nhất. Vì rao giảng Lời Chúa, không phải là trao cho người thụ nhận một mớ kiến thức, nhưng là trao cho họ một bằng chứng sống. Nhưng có bằng chứng nào đẹp cho bằng chính đời sống chứng tá của người rao giảng!

Xin cho bạn và tôi là những người Samari của thời đại này, biết “yêu” và biết “làm”, để tất cả chúng ta trở nên dấu chỉ hữu hiệu cho Tin Mừng Tình Yêu của Chúa Kitô. Vậy chúng ta cùng thành tâm dâng lên Chúa một lời nguyện, ai đó đã từng cầu nguyện thế này:

Lạy Chúa, lúc đầu chúng con chỉ muốn cầm tay nhau để làm thành một vòng tròn khép kín. Sau đó chúng con hiểu rằng, cần phải buông tay nhau để nhận những người bạn mới, để vòng tròn được mở rộng đến vô cùng và trái tim dược lớn lên mãi.

Lạy Chúa, chúng con biết rằng, cần phải nối dòng tay lớn, xuyên qua các đại dương và lục địa, để vòng tay của người được nối với người. Sau hết, tất cả những vòng tay ấy nối với Tạo Hoá.

Chúng con thích Chúa đứng chung một vòng tròn với tất cả loài người chúng con, nắm lấy tay chúng con và đưa chúng con lên cao.

Ước gì việc Chúa giang tay trên thập giá, giúp chúng con biết cầm lấy tay nhau và nhận nhau là anh em.

 

 

 

 

 

52. Đừng sợ! – Lm. Vũ Xuân Hạnh

 

Nỗi sợ là tên trùm khủng bố kinh khủng nhất vây quanh đời người, luôn rình rập chụp xuống tâm não con người. Có những nỗi sợ chính đáng. Nhưng cũng có những nỗi sợ chẳng chính đáng chút nào…

Hôm nay, kể câu chuyện người Samaritanô nhân hậu, Chúa “lật đổ” thái độ vô tâm cách đáng tội của hàng giáo sĩ trong Hội Thánh. Hãy nghe Chúa nói về hàng giáo sĩ của Chúa: “Một người kia từ Giêrusalem xuống Giêricô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống, nửa chết. Tình cờ, có thầy tư tế cũng đi xuống trên con đường ấy. Trông thấy nạn nhân, ông tránh qua bên kia mà đi. Rồi một thầy Lêvi tới chỗ ấy, thấy thế, cũng tránh qua một bên mà đi…” Tư tế là ai? Lêvi là ai? Những người đó tương đương những bậc “chân tu” của thời đại. Họ là tất cả Giám mục, linh mục của Chúa.

Tôi vẫn có thói quen tìm những lý lẽ để biện minh cho người bị “kết tội”, để dù có tội, tội của người ấy cũng sẽ được nhìn ở khía cạnh nhẹ nhất. Cứ coi như Chúa kết tội thái độ vô tâm của hàng giáo sĩ, thì tôi vẫn nhìn thấy bên trong sự vô tâm ấy là một nỗi sợ hãi. Tôi biện minh cho thái độ vô tâm ấy là do sợ hãi. Bởi sợ nên vô tâm. Tư tế và Lêvi vô tâm đối với người bị cướp vì họ sợ bị nhiễm ô uế. Luật Do thái quy định, ai đụng chạm vào xác chết, nhất là đụng chạm hoặc tiếp xúc người ngoại giáo, sẽ bị nhiễm ô uế. Tư tế và Lêvi chắc chắn thông suốt lề luật. Chính vì thế, họ hiểu rõ luật về nhiễm ô uế. Mà đã nhiễm ô uế, sẽ không được phép tham dự mọi nghi thức phụng vụ chung của cộng đoàn… Cứ cho rằng, người bị cướp có thể là người ngoại, lại còn sắp chết nữa. Vì thế, để khỏi nhiễm ô uế, Tư tế và Lêvi trong dụ ngôn đã “tránh qua một bên mà đi”.

Ngày hôm nay, biết đâu vẫn còn những nhà lãnh đạo trong Hội Thánh sống trong sự nơm nớp lo sợ tương tự như thế. Chẳng hạn như ai đó sợ không được xây nhà thờ chỉ vì cho phép phát tờ bướm bảo vệ sự sống. Tôi đã từng gặp vài anh chị em trong nhóm Bảo vệ sự sống ở Sài Gòn kể rằng, có những linh mục, khi được ngỏ lời để chỉ xin phát những “tờ rơi” quảng bá việc bảo vệ sự sống ở một góc nào đó thật khiêm tốn trong khuôn viên nhà thờ thôi, lại bị từ chối, thậm chí bị đuổi ngay lập tức. Lý do rất… vô lý rằng: “Sợ… không được xây nhà thờ”. Không lẽ việc xây nhà thờ lại quan trọng đến nỗi, công tác bảo vệ sự sống, là một trong những công tác hàng đầu, hơn thế, là nhiệm vụ thuộc thánh chức linh mục, lại phải nhường bước? Nỗi sợ nào chính đáng? Để nỗi sợ không đáng để sợ lên ngôi, trong trường hợp này, linh mục trở thành kẻ vô tâm hết sức, nếu không muốn nói là đã phạm tội.

Vì sao cấm phát tờ bướm nơi nhà thờ của mình lại phạm tội? Hội Thánh là Mẹ và là Thầy. Hơn nữa, Hội Thánh không hề sai lầm và sẽ không bao giờ sai lầm trong vấn đề bảo vệ luân lý, bảo vệ chân lý đức tin. Trong vai trò là Mẹ, là Thầy không thể sai lầm, Hội Thánh dạy nhiều lề luật luân lý và chân lý đức tin. Bảo vệ sự sống là luật luân lý hàng đầu, là vấn đề cấp bách, bởi đang gây sóng gió cho nền luân lý của Hội Thánh, làm nhức nhối lương tâm Hội Thánh, chúng ta không được phép làm ngơ. Hãy trung thành bảo vệ sự sống của mình cũng như của đồng loại. Không dám nói rằng, cấm phát tờ rơi là không bảo vệ sự sống. Vì nói như thế là hàm hồ. Người ta có thể bảo vệ sự sống bằng nhiều cách, chứ không phải chỉ phát tờ rơi. Có khi phát tờ rơi không hiệu quả bằng những sáng kiến khác để bảo vệ sự sống. Tuy nhiên, nếu để len lỏi trong tâm hồn mình một sự sợ hãi đối với luật dân sự, đến nỗi xem nhẹ luật Hội Thánh là Mẹ và là Thầy không sai lầm của mình, thì chúng ta đã thật sự có lỗi. Tội là ở điểm này. Nếu đúng như thế, thì sự sợ hãi của ta hôm nay, có khác gì sự sợ hãi của tư tế, Lêvi trong dụ ngôn của Chúa ngày xưa! Sợ một thứ luật thấp hèn để loại trừ luật cao trọng. Sợ một thứ luật của một nền thống trị để loại trừ luật nhân ái đối với con người. Sợ một thứ đụng chạm để loại trừ tình yêu. Sợ bị nghi kỵ mà làm thinh để cho việc giết người trở thành công khai, trở thành hợp thức hóa, được luật pháp không những cho phép mà hình như còn có vẻ khuyến khích. Sợ bị trả thù nơi thân xác mà sẵn sàng làm thinh và thỏa hiệp với tội lỗi. Sợ bị bắt bớ, bị kết tội mà làm thinh để chuốc lấy tội có sức hủy diệt tâm hồn mình… Cuối cùng, nặng hơn: sợ con người mà bỏ qua Thiên Chúa.

Đáng buồn hơn, người bị thế giới của sự sợ hãi giam hãm, thế giới của quyền lực tối tăm “bỏ tù” đến nỗi phải sợ hãi như thế, lại chính là linh mục của Chúa… Nghĩ lại mà hỗ thẹn, mà cảm thấy có lỗi với cha ông. Bởi chúng ta thua xa đức tin của cha ông chúng ta. Dù đức tin còn mới mẻ vô cùng vì mới được truyền giáo, nhưng suốt ba thế kỷ bắt đạo là ba thế kỷ hằn lên một niềm tin kiên vững, bất khuất, bất chấp tất cả nỗi sợ hãi.

Cha Ông chúng ta, các thánh Tử Đạo Việt Nam là một bằng chứng sống động cho lời Chúa Giêsu đã từng dạy: “Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng ra, các con phải sợ Đấng có thể tiêu diệt cả xác lẫn hồn trong hỏa ngục…” Cha Ông chúng ta đã chẳng sợ bất cứ điều gì. Các ngài bất chấp tất cả mọi nguy hiểm, mọi thế lực, dù những nguy hiểm, những thế lực ấy hung bạo đến đâu, tàn khốc đến đâu, dã man đến đâu đi nữa. Cha Ông chúng ta còn bất chấp cả sự chết, đã quyết một đời trung kiên theo Chúa, thì giây phút cuối cùng của mạng sống, sẽ hiến dâng trọn vẹn một đời cho Chúa. Cha Ông chúng ta đã trung thành cao rao danh Chúa không chỉ bằng lời, không chỉ bằng hành động, không chỉ bằng đời sống, nhưng bằng cả SỰ SỐNG của mình. Là người, như chúng ta, các thánh Tử Đạo Việt Nam, chắc không khỏi khiếp đãm trước cái chết, không khỏi sợ hãi trước những quyền lực thế gian đen tối, không khỏi sợ hãi trước những thói tàn nhẫn, bạo ngược… Nhưng vì lòng yêu mến Chúa, các thánh Tử Đạo Việt Nam đã bỏ lại nỗi sợ hãi phía sau mạng sống đời này của mình, để đi tới trong đời vĩnh cửu. Hiến dâng mạng sống vì lòng tin, các thánh Tử Đạo Việt Nam đã đi đến tận cùng của lòng thần phục Thiên Chúa, “Đấng có thể tiêu diệt cả xác lẫn hồn trong hỏa ngục…”

Hội Thánh của Chúa, Nước Chúa ở trần gian đã được trao lại cho mỗi Kitô hữu hôm nay gìn giữ và bảo vệ. Các Kitô hữu ấy chính là hàng hàng lớp lớp người đang nhìn nhận Chúa là Thiên Chúa của đời mình. Các Kitô hữu ấy chính là mọi tầng lớp giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân của Chúa. Nước Chúa mà các Kitô hữu ra sức gìn giữ là gia tài, là kho báu vô giá mà họ phải bất chấp tất cả nỗi sợ hãi để ra sức gìn giữ đến cùng. Đúng hơn, đứng trước gia tài vĩnh cửu là Nước Chúa, đứng trước vấn đề của đức tin, các Kitô hữu chỉ giữ lại cho mình một nỗi sợ cuối cùng mà thôi, đó là LÒNG KÍNH SỢ CHÚA, SỢ TỘI LỖI LÀM MẤT LÒNG CHÚA.

Thế giới quanh ta vẫn còn đó, rất nhiều những người bị cướp như người khách bị cướp hại trong dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu. Họ là những bào thai không phương thế tự vệ, là những trẻ em ngỗ nghịch, thất học, là những mảnh đời ngụp lặn trong dòng đời nhầy nhụa, đến một cụ già bị bỏ quên trên góc phố… Tất cả những người ấy, đều rất cần chúng ta, những bàn tay của người Samaritanô thời đại. Chúng ta hãy dẹp bỏ thái độ vô tâm của tư tế, Lêvi để cúi xuống trên những anh chị em đau khổ của mình. Hãy nhớ rằng, chỉ khi trở thành người Samaritanô, ta mới thật sự là anh em của những người “bị cướp” ấy.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã vượt lên trên nỗi sợ hãi của bạo quyền thế gian, vượt lên trên nỗi sợ hãi đối với lòng người đen tối, để quyết đi đến cùng con đường cứu chuộc chúng con. Lẽ nào, hôm nay, chúng con vẫn chưa thuộc bài học Chúa dạy “Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng ra, các con phải sợ Đấng có thể tiêu diệt cả xác lẫn hồn trong hỏa ngục…”. Xin cho chúng con biết nhìn lên Chúa, và nhìn những tấm gương vượt thoát sợ hãi nơi anh chị em mà đi đến cùng con đường theo Chúa, bất chấp tất cả nỗi sợ hãi đe dọa chúng con.

Lạy Chúa, người Samaritanô nhân hậu đã cúi xuống, ôm lấy nỗi đau của anh em mình. Nhân loại hôm nay vẫn còn đầy đau thương và nước mắt. Nhân loại vẫn cay đắng cơ hàn, đói lương thực, đói tinh thần và đói cả tình thương. Xin cho chúng con, những kẻ được thừa hưởng tình yêu thương vô bờ của Chúa, biết vượt lên mọi nỗi sợ hãi của trần thế, chỉ sợ mất lòng Chúa mà thôi. Từ đó giúp con can đảm trở thành người Samaritanô hôm nay, để sống vì và sống cho sự sống của anh chị em chúng con. Amen.

 

 

 

 

 

53. Suy niệm 1 của Gp Vĩnh Long

 

Anh chị em thân mến.

Người Việt Nam thường nêu lên câu:”ách giữa đàng mang vào cổ” để tránh né những việc mà họ cho là không mang lại ích lợi gì cho mình mà nhiều khi con mang đến những phiền phức không đâu.

Vừa qua trên một trang báo, tôi đọc thấy một câu chuyện thương tâm: một cô gái trẻ bị bảy chàng thanh niên hãm hiếp. Vì quá khiếp đảm, thần kinh bị suy sụp nặng. Tôi tự hỏi vì sao có tình trạng như thế. Cô ta đi lạc đường, tìm cách hỏi thăm đường về nhà, nhưng mọi người tưởng cô là người không tốt nên tìm cách xa lánh, không dám tiếp xúc. Trời tối dần, việc gì đến rồi cũng phải đến. Nếu những người khách qua đường quan tâm hơn một chút thì không việc gì xảy đến. Nếu họ dám để ra một chút ít thời giờ để lắng nghe, nếu họ chịu để cho con tim của mình biết rung động một chút, để đáp ứng nhu cầu của người khác. Nếu họ biết quên mình một chút mà hướng đến người khác, thì mọi sự sẽ trở nên tốt hơn rất nhiều.

Trong bài phúc âm chúng ta vừa nghe, Chúa Giêsu cho người thông luật một thí dụ điển hình để thực hành luật yêu thương. Ông ta thuộc lòng hơn 600 điều luật trong sách, ông ta tuân giữ thật chu đáo. Nhưng chỉ giữ trong lý thuyết, còn thực hành cụ thể thì: “ai là người thân cận của tôi”. Ngài cho một câu chuyện và bảo: “ngươi hãy đi và làm như thế”. Người thân cận để thực hành yêu thương là tất cả mọi người, không loại trừ ai, khi những người đó có nhu cầu cần thiết đến sự giúp đỡ, lòng thương xót, sự tha thứ. Yêu thương thì không còn chọn lựa, không còn phân biệt đẳng cấp sang hèn. Đó mới là điều mà Chúa Giêsu bảo: “Ngươi hãy đi và làm như thế”.

Mỗi người trong chúng ta, thuộc kinh thánh rất nhiều, thuộc giáo lý cũng rất nhiều, còn kinh đọc thì không biết bao nhiêu mà kể cho cùng. Nhưng để thực hành những gì mình biết, những gì mình gọi là đã giữ từ nhỏ thì thật là rắc rối. Chúng ta cũng không biết ai là người thân cận để thi hành lề luật. Chúng ta thuộc lòng mười điều răn, rồi còn tóm lại hai điều: kính mến Chúa và thương yêu người.

Nhưng thương yêu ai và bằng cách nào thì không bao giờ dám nghĩ đến. Vì chúng ta giữ đạo làm sao không thiệt hại bản thân, không mất mát những gì mình có, không đụng đến quyền lợi cá nhân, chúng ta cũng sợ ách giữa đàng mang vào cổ, nên không thể nào nhìn thấy được nhu cầu của người thân cận để thi hành luật yêu thương được. Nhiều lần chúng ta cũng hỏi như người thông luật trong bài phúc âm: “ai là người thân cận của tôi”? Chúa Giêsu không chỉ cho chúng một câu chuyện, nhưng rất nhiều và rất nhiều, Ngài cũng bảo chúng ta nhiều lần: “hãy đi và làm như thế”.

Mỗi người trong chúng ta để ra một phút suy tư, nhìn lại những gì mình đã làm gọi là giữ đạo, để xem mình đã sống đạo như thế nào?

Biết bao lần, chúng ta từ chối những lời van xin thống thiết của người khác khi họ cần đến chúng ta. Rất nhiều lần chúng ta né tránh những việc mà đáng lẽ ra mình phải làm để cho người khác vơi đi phần nào khó khăn. Cũng rất nhiều lần chúng ta từ chối vì nhiều lý do: không phải việc của tôi, hay tôi không có thời gian, không có khả năng. Hay một câu nói hết sức không chút tình người “đừng dại mà vướng vào”. Có phải đó là những lúc mà chúng ta sống đạo đó sao? Vậy thì lời Chúa Giêsu bảo chúng ta “hãy đi và làm như thế”, chúng ta thực hành như thế nào? Không lẽ lời đó chỉ có giá trị cách đây 2000 còn bây giờ thì không giá trị gì cho chúng ta sao? Như vậy thì vô ích quá.

Nếu chúng ta biết nói một lời dịu dàng khi cần thiết, biết nở một nụ cười an ủi, biết mở rộng vòng tay để đón nhận ai cần đến, biết để cho con tim rung động trước những cảnh thương tâm và sẵn sàng hành động, thì lúc đó, Lời của Chúa Giêsu “hãy đi và làm như thế”, đã thực sự được thể hiện cách chu đáo nơi bản thân của chúng ta rồi đó.

Xin Chúa cho mọi người biết thực hành yêu thương cách sống động trong cuộc sống đời thường.

 

 

 

 

 

54. Suy niệm 2 của Gp Vĩnh Long

 

BÁC ÁI BẰNG HÀNH ĐỘNG

“Thương người như thể thương thân”, hay “Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”: những câu ca dao tục ngữ như thế nói lên sự thông cảm chia sẻ với nhau trong cuộc sống cho dù có thể có những khác biệt. Thế nhưng trong cuộc sống không thiếu những người chỉ biết quan tâm đến mình mà chẳng hề biết giúp đỡ người khác, dù trong lúc đó họ rất cần đến sự giúp đỡ của ta. Đó cũng là thái độ vô tâm của thầy tư tế và thầy trợ tế (Lêvi) đối với người bị nạn như trong dụ ngôn mà Chúa dùng để nói với người thông luật, thái độ này đối nghịch với thái độ đầy nhân ái của người bị xem là ngoại đạo Samaria.

Thầy tư tế và trợ tế trên lộ trình của mình đã thấy một nạn nhân bị kẻ cướp đánh nhừ tử, nhưng cả hai đều bỏ qua, như thể không hay biết gì! Các ông tránh qua một bên vì sợ những phiền luỵ có thể đến với mình, khi dừng chân lại giúp người bị nạn. Bởi biết đâu kẻ cướp còn đang rình rập gần xa đâu đó? Biết đâu nạn nhân nầy không có một xu dính túi, nếu dừng lại giúp đỡ vừa mất thời giờ, công sức và tiền bạc? Biết đâu khi giúp nạn nhân nầy sau đó còn phải mất giờ làm chứng khi nhà chức trách đến làm việc? Còn nếu nạn nhân nầy đã chết rồi, mà đụng chạm như thế thì bị mắc uế…! Có nhiều lý do, nhưng tự trung lại những bậc thầy nầy chỉ biết luật mến Chúa yêu người trên lý thuyết. Còn trong thực tế, các thầy chẳng quan tâm gì đến nỗi khốn khổ của người khác!

Ngược lại người Samaria, bị xem là kẻ ngoại lai, vô đạo lại cư xử rất nhân đạo “thương người như thể thương thân”. Đang trên lộ trình, có thể anh rất bận rộn, nhưng khi thấy người bị nạn giờ đây việc hàng đầu của anh là cứu người. Bất chấp người đó có đồng chủng, đồng đạo với mình hay không, điều này không cần thiết! Tin Mừng cho thấy anh tự tay chăm sóc nạn nhân, anh cũng không sợ hao tốn sức lực, tiền bạc, ô uế… gì cả. Anh hiểu rằng tình người và mạng người là trên hết. Không biết anh biết luật bác ái đến mức độ nào? Nhưng anh đã thực thi bác ái. Anh đã bén nhạy cảm thông trước nỗi đau của đồng loại. Anh đã giữ luật nội tâm.

Thầy tư tế và trợ tế xem ra không phạm một tội gì, nhưng lại bỏ qua việc phải làm, đó là giúp đỡ người bị nạn. Còn người Samaria thật đáng khen đã làm một điều khi nhận ra điều mình phải làm.

Chúa bảo người thông luật đang đối thoại với Chúa, cũng là bảo mọi người chúng ta cứ “làm như vậy” là sẽ được sống. Chúng ta lưu ý cụm từ “làm như vậy” được lập đi lập lại (x. Lc 10,28;37), tức là muốn có được sự sống đời đời hãy thực thi, hãy làm việc bác ái đối với người khác chứ không chỉ nói suông. Trong Tin Mừng Matthêu chương 25 nói về việc phán xét chung, tiêu chuẩn hàng đầu được Chúa đưa ra đó là chúng ta có thực thi bác ái đối với tha nhân, hiện thân của Thiên Chúa, nhất là những người đau khổ, thiếu thốn đang cần sự giúp đỡ của ta hay không? Có thể nói, những việc bác ái như là tấm vé thông hành để ta vào NướcTrời. Hãy biến lòng yêu thương thành những hành động cụ thể, bởi nếu chỉ nói suông hay chỉ có lòng yêu thương mà không thể hiện bằng việc làm thì đâu có lợi ích gì cho người mình yêu thương! Ta vẫn thường nghe nói:“Từ trái tim đến đôi tay là một con đường dài”. Vì thế Mẹ Têrêsa Calcutta đề nghị mỗi tối trước khi đi ngủ, ta chỉ cần xét mình nhờ nhìn vào 2 bàn tay: hôm nay tôi đã làm gì cho Đức Giêsu và với Đức Giêsu?

Ngay cả về phương diện tự nhiên, sống trên đời này không ai mà không cần đến sự giúp đỡ người khác, không ai là một hòn đảo, chúng ta vẫn thường nghe nói “sỏi đá cũng cần có nhau”, vật vô tri vô giác mà còn phải nương tựa vào nhau. Hôm nay ta chưa gặp hoạn nạn, nhưng biết đâu một ngày rất gần chúng ta lại cần đến sự giúp đỡ của người khác, cho nên hãy tập tinh thần nhạy bén quan tâm, giúp đỡ người khác. Muốn vậy phải bỏ bớt cái tôi ích kỷ, cái vô tâm của mình.

Mỗi người hãy nhìn lại, là thành viên của gia đình, cộng đoàn, nhóm tông đồ… nhưng chúng ta có thấu hiểu, cảm thông, chia sẻ nỗi niềm đau đớn tinh thần cũng như thể xác của người thân trong gia đình, của cộng đoàn, của nhóm mình hay không? Hay chúng ta vẫn vô tâm trước những đau khổ của người khác? Hay chúng ta thay vì xoa dịu lại còn gây thêm đau khổ cho người khác?

Hành động bác ái còn có tác dụng rất lớn trong việc truyền giáo. Tôi biết được nhiều người trở lại đạo vì họ cảm kích việc bác ái của người Công Giáo. Chẳng hạn như ở họ đạo mà tôi đang phục vụ, có nhiều người Công Giáo sống xa nhà thờ, xen lẫn với bà con lương dân, khi các gia đình Công Giáo hay các gia đình lương dân nầy có tang chế, những người giáo dân trong họ đạo không quản ngại xa xôi, hao tốn đến giúp về tinh thần lẫn vật chất… những việc làm như thế rất đánh động bà con lương dân và sau đó thường có những người xin học đạo. Như thế hành vi bác ái không những chứng tỏ chúng ta là môn đệ thật của Đức Giêsu, mà còn có thể qua đó giúp tha nhân đến với Chúa nữa.

Mến Chúa và yêu người không thể tách rời nhau. Thật vậy, yêu thương giúp đỡ người khác mà thiếu lòng yêu mến Chúa thì việc làm đó khó bền vững và thường dẫn tới tự cao tự mãn. Yêu thương giúp đỡ người khác như là dấu chỉ của lòng yêu mến Chúa, như thánh Giacôbê đã từng dạy rằng: đức tin không có việc làm là đức tin chết. Hay như mẹ Têrêsa đã nói: hoa trái của đức tin là bác ái, hoa trái của bác ái là phục vụ, hoa trái của phục vụ là bình an.

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết quan tâm giúp đỡ nhau, như là giúp cho chính Chúa. Amen.

 

 

 

 

 

55. Suy niệm 3 của Gp Vĩnh Long

 

AI LÀ ANH EM?

“Thưa Thầy, nhưng ai là anh em thật của tôi.” (Lc 10,29)

Trước năm 75, có một bài hát sinh hoạt lời như sau: “kẻ thù ta đâu có phải là người, giết người đi thì ta ở với ai?” Đúng, kẻ thù không phải là con người; bài hát kể tiếp: kẻ thù chính là sự gian ác – vô luân – hờn câm… Bởi vì nếu kẻ thù là con người, thì khi ta giết họ, ta sẽ ở với ai đây. Sau năm 75, Có một câu người ta hay lấy làm châm ngôn: “Bạn bè, phải giúp đỡ; kẻ thù, phải tiêu diệt”. Câu này chắc chắn có nhiều người không nhận. đây chình là đề tài ta sẽ suy niệm trong Chúa nhật hôm nay.

Một vài ghi chú để hiểu rõ bài dụ ngôn này:

con đường từ Giêrusalem xuống Giêricô: lối 20 cs, băng qua sa mạc gồ ghề khúc khuỷ, đến ngày hôm nay vẫn còn nhiều bọn cướp lộng hành

Thày Tư tế: theo luật có bổn phận lo việc phụng tự lễ bái. Ông vừa làm phận sự xong và từ Giêrusalem trở về Giêricô. Hiện tại, ông không có gì ngăn trở để giúp đỡ nạn nhân này, nhưng ông né tránh vì nghĩ mình đã đủ bổn phận rồi.

Thầy Lêvi: tuy Luật có định, ai đụng vào xác chết là bị ô uế trong ngày đó (Lv 11,24); nhưng người bị cướp này vẫn chưa chết mà! Chúng ta cũng nên biết trong Đệ nhị Luật còn qui định (Đnl 22,4): khi thấy bò hay lừa bị ngã, thì đỡ nó dậy… Bò hay lừa mà Luật còn định như thế, huống cho con người ta. Vậy mà Thầy Lêvi vẫn bỏ đi; đây là một thiếu sót lớn lắm…

người Samaritanô: dân Samaria cũng gốc là người Do thái, nhưng tách lìa nhau từ năm 935 vì lý do Do thái bị chia làm hai nước nam và Bắc, thời vua Omri. Dân Samaria sống chung với dân ngoại nên bị lây nhiễm thói tục ngoại bang. Sau thời lưu đày, Nêhêmia đưa dân trở về quê hương và xây lại đền thờ Giêrusalem. Người Do thái khinh bỉ dân Samaria nên đã không cho họ góp phần vào việc xây lại đền thờ; vì thế, họ tức giận nên đã xây đền thờ riêng trên núi Garizim. Dân Samaria cũng tôn thờ một Chúa Giavê, nhưng chỉ tin vào 5 cuốn sách đầu của Cựu Ước mà thôi. Giữa người Do thái và Samaria luôn có sự kỳ thị kình chống nhau rất lớn. Chúa Kitô muốn dùng hình ảnh người Samaritanô nhân hậu không phải để đả kích người do thái, nhưng chắc chắn Chúa muốn nói lên tình yêu chân thật xuất phát từ trái tim, không phải từ nguồn gốc, địa vị hay chủng tộc…

Chúng ta hôm nay nghĩ gì đây? Người ta có thể nói: Dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu nói lên các hình ảnh khá rõ nét: hình ảnh người Samaritanô chính là Đức Kitô. Con đường Giêricô: là con đường ở trần gian. Quán trọ: là Hội thánh Chúa Kitô. Dầu và rượu: hình ảnh phép Thánh Thể. Người bị cướp: con người, nhân loại chúng ta…

Đây là một trong những dụ ngôn rất đẹp, Luca muốn ghi lại để gởi cho người Do thái; (vì Tin Mừng của Luca viết ra là để dành cho người Do thái đọc) nói lên lòng mến Chúa yêu người đích thực hệ tại ở đâu, phải thể hiện ra sao, để có được sự sống vĩnh cửu. Như trên ta thấy, người Samaritanô nhân hậu, đã sẵn sàng cuối xuống ôm lấy đau thương của anh em mình, dù người đó là ai: Do thái hay Samria, người đó có yêu thương kính trọng mình hay không. Tấm lòng bao dung nhân ái của người Samaritanô cao cả quá! Ngay hôm nay, nhân loại hô hào yêu thương, quảng đại, tha thứ, xoá bỏ hận thù, nhưng thực sự được mấy người. Con người ngày nay không chỉ đói lương thực, mà còn đói cả tình thương nữa!

Gợi ý sống và chia sẻ: Chúng ta hãy dâng lên Chúa lời cầu nguyện chân thành như sau: Lạy Chúa xin dạy cho con biết sống bao dung, quảng đại, tha thứ như người Samritanô nhân lành, để giảm đi cơn đói khát của nhân loại không phải chỉ cơm bánh hàng ngày, mà là những đau thương nước mắt, nhất là cơn đói tình thương. Amen.

 

 

 

 

 

56. Hãy về và làm như vậy – Giuse Vinc. Ngọc Biển

 

Trong xã hội hiện thời, chúng ta thấy tình trạng bạo lực ngày càng gia tăng. Chuyện đâm thuê, chém mướn, bóc lột là những tội ác đang hoành hành trong thời đại của chúng ta hôm nay.

Đứng trước tình trạng đó, hơn bao giờ hết, tình yêu thương, vị tha, lòng bao dung là điều cần thiết để làm vơi đi những đau thương, mất mát.

Bài Tin Mừng hôm nay khơi gợi cho chúng ta về tình yêu hướng tha, lòng bao dung vô vị lợi đó.

Bối cảnh vấn đề

Câu chuyện được khởi đi bằng việc trao đổi giữa Đức Giêsu và một người thông luật: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời”. Câu hỏi này nếu thoáng nghe, thoạt nghĩ, chúng ta sẽ dễ dàng kết luận rằng nhà thông luật này có vẻ khao khát đi tìm hạnh phúc viên mãn. Nhưng kỳ thực đây chỉ là câu hỏi nhằm thử Đức Giêsu để gài bẫy và hạ thấp uy tín của Ngài mà thôi.

Bởi vì trong luật Cựu Ước có tới 613 điều, trong đó có 365 điều cấm không được làm và có 248 điều buộc phải làm. Một bộ luật khổng lồ đã làm cho dân phải khốn đốn và không ai có thể chu toàn. Họ không biết khởi đầu từ đâu và kết thúc ở điều luật nào! Và, đâu là điều quan trọng nhất. Ngay trong nội bộ của những nhà thông luật cũng chưa đưa ra được điều luật nào là chính yếu. Đây chính là cơ hội để họ thử Đức Giêsu.

Tuy nhiên, qua câu hỏi của vị Luật Sĩ: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời”. Thay vì trả lời trực tiếp cho ông ta biết phải làm sao, Đức Giêsu đã lật ngược ván cờ, từ người thụ động sang thế thượng phong khi hỏi lại ông ta: “Trong Lề luật đã chép như thế nào? Ông đọc thấy gì trong đó?”. Qua câu hỏi mang tính chất vấn như vậy, Đức Giêsu đã tước được vũ khí từ đối phương, và như một mũi tên xoáy sâu vào tận căn của ông ta, buộc ông phải nói lên điều mà ông đã biết: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn ngươi (Đnl 6,5), và hãy thương mến anh em như chính mình” (Lv 19,8). Tuy nhiên, vì biết được lối sống giả hình của giới học giả Do Thái, họ luôn đeo ách nặng nề trên dân và buộc dân phải thi hành, còn chính họ thì lại không giữ (x. Mt 23,27-28). Vì thế, Đức Giêsu đã bảo ông ta: “Ông đã trả lời đúng, hãy làm như vậy và ông sẽ được sống”.

Qua câu nói đó của Đức Giêsu, Ngài đã tố cáo lối sống cứng ngắc của họ; đồng thời bẻ gãy mưu mô của họ; mặt khác, Ngài cũng khơi gợi lên trong lòng họ hướng chiều về điều thiện và khuyên họ nên làm để được sự sống đời đời.

Khi bị thất thế hoàn toàn, nhà thông luật như muốn bào chữa mình, nên thưa cùng Đức Giêsu rằng: “Nhưng ai là anh em của tôi?” Đức Giêsu dựa trên câu hỏi của ông để kể cho ông dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu. Kết thúc câu chuyện, lại một lần nữa Đức Giêsu hỏi ông ta: “Theo ông nghĩ, ai trong ba người đó là anh em của người bị rơi vào tay bọn cướp?” Người thông luật trả lời: “Kẻ đã tỏ lòng thương xót với người ấy”. Và Đức Giêsu đã nói cho ông ta biết rằng: hãy về và làm như thế thì sẽ được cứu độ, chứ không phải chỉ kêu: ‘Lạy Chúa! lạy Chúa!’ là được vào Nước Trời cả đâu!

Sứ điệp Lời Chúa cho mỗi chúng ta

“Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi… Còn điều răn thứ hai, cũng giống như điều răn ấy, là ngươi phải yêu người thân cận như chính mình”. Đây phải là điều răn quan trọng nhất và là thước đo đời sống đạo của mỗi chúng ta. Nếu yêu Chúa mà không yêu người thì chúng ta tự mâu thuẫn với chính mình. Chính thánh Giacôbê Tông đồ đã nói: tin phải đi đôi với hành động, nếu tin mà không hành động thì đức tin chết. Quả thật, Chúa là Đấng chúng ta không thấy, còn con người thì ai cũng thấy trong cuộc sống. Mến Chúa mà lại không yêu người thì là kẻ nói dối. Quả thực, Thánh Gioan đã nói: “Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1 Ga 4:20). Và “Ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình” (1 Ga 4:21).

Nhưng điều quan trọng là ta yêu người như thế nào? Đây mới là điều quan trọng!

Người Luật sĩ đã hỏi Đức Giêsu đâu là người thân cận của ông ta, và Ngài đã trả lời cho ông thấy người thân cận chính là anh em của mình, và phải yêu thương họ như chính mình. Qua câu nói đó, Ngài muốn chúng ta đi xa hơn để vượt ra khỏi ranh giới chủng tộc, quốc gia, giai cấp, địa vị để yêu thương bằng một tình yêu vị tha thay thế cho vị ngã. Người Samaritanô đã chạnh lòng thương đến người bị nạn, ông đã coi nỗi đau khổ của người bị nạn chính là nỗi đau của ông, nên ông cảm thấy trách nhiệm và cần phải giúp đỡ người bị nạn. Tình thương đã khiến cho ông gần tha nhân hơn là những rào cản tôn giáo, dân tộc.

Có vị linh mục nọ than phiền về lối sống đạo của giáo dân một cách xót xa, ngài nói: giáo dân ở đây họ thích rước sách linh đình. Cứ rước kiệu nhiều là họ mừng. Họ thích trống to, kèn lớn, ăn mặc đẹp để đi rước…. Nếu đội bên kia trống to, kèn lớn hơn thì bên này phải tìm mọi cách để của mình bằng hoặc to hơn bên họ. Nhưng xót xa thay, nhiều người trong giáo xứ bỏ lễ, nhiều năm không xưng tội. Giới trẻ lao vào con đường nghiện ngập, cờ bạc… Họ sẵn sàng đánh chửi lẫn nhau. Họ sống như những người không biết Chúa. Nếu có mời gọi họ đi học Giáo lý, Kinh Thánh thì họ bảo không có giờ, nhưng lại vùi đầu trong các sòng bạc cả ngày lẫn đêm… Đời sống đạo như thế thì làm sao chống chọi được với những trào lưu tục hóa tinh vi trong xã hội hôm nay! Một thực trạng đáng lo ngại.

Thật vậy, nếu chỉ sống đạo cách hình thức hay hời hợt bên ngoài, chúng ta cũng sẽ rơi vào tình trạng như những tư tế, trợ tế trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay.

Như vậy, sứ điệp lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi chúng ta hãy yêu thương tha nhân với một tình yêu chân thành, quả cảm. Khi yêu thương như vậy, chúng ta đang đi vào và ở trong Tình Yêu của Thiên Chúa, bởi vì “Thiên Chúa là Tình Yêu”; đồng thời mỗi chúng ta hãy vượt ra khỏi những thứ bề ngoài để sống một cuộc đời có Chúa thực sự. Được như thế, nỗi đau của người anh em cũng là của chính ta. Và khi giúp đỡ người anh em đang đau khổ là chúng ta đang góp phần làm cho thế giới này vơi đi phần nào sự bất công do những trào lưu tục hóa gây nên; mặt khác, qua họ, Thiên Chúa muốn gặp gỡ chính chúng ta và mời chúng ta sống hiệp thông với Ngài.

Ước gì, Lời Chúa nói: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa! lạy Chúa!’ là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7:21) sẽ là lời cật vấn lương tâm của mỗi chúng ta.

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết yêu Chúa trên hết mọi sự; đồng thời cũng biết yêu người anh chị em chúng con cách chân thành và sẵn sang giúp đỡ họ như Chúa dạy qua bài Tin Mừng hôm nay. Amen.

 

 

 

 

 

57. Tôi đã để đi qua – Lm Mark Link

 

Chủ đề: “Không phải mất công nhiều để đến với anh chị em đang đau khổ với lòng trắc ẩn, như Đức Giêsu đã làm.”

Một bà đứng bên lề đường đang chờ đèn báo để sang đường. Đối diện với bà bên kia đường là một thiếu nữ khoảng 17 tuổi. Cô ta cũng đợi để sang đường. Bà không thể nào không thấy là thiếu nữ này đang khóc. Thật vậy, nỗi buồn của cô quá lớn đến nỗi cô không thèm giấu nó. Trong khoảnh khắc ánh mắt hai người gặp nhau. Dù chỉ là khoảnh khắc nhưng cũng đủ để bà thấy được sự đau khổ lớn lao ngập đầy đôi mắt người thiếu nữ. Cô gái xoay mặt nhìn chỗ khác.

Khi đèn báo bật sáng. Mỗi người bước khỏi lề và khởi sự bước sang đường. Khi thiếu nữ gần đến, người đàn bà có thể thấy cô thật xinh xắn, ngoại trừ nỗi buồn hiện rõ trên khuôn mặt.

Ngay khi hai người sắp sửa gặp nhau, bản năng làm mẹ của bà bỗng nhiên nổi dậy. Mọi thứ trong người bà như muốn đến với cô ta để an ủi cô.

Ao ước đó lại càng gia tăng vì người thiếu nữ này cũng trạc tuổi cô con gái của bà. Nhưng bà đã để cô đi qua. Ngay cả một lời thăm hỏi cũng không. Bà chỉ để cô đi qua mà không nói một lời. Nhiều giờ sau, đôi mắt ngập tràn đau khổ của cô gái vẫn tiếp tục ám ảnh bà. Bà luôn luôn tự hỏi, “Tại sao mình không quay lại hỏi thăm, ‘Cưng ơi, tôi có thể giúp gì cho cô không?’ Nhưng mình đã không làm vậy. Mình bước đi. Chắc chắc là cô ta có thể khước từ mình và nghĩ mình là người tò mò. Nhưng có sao đâu! “Chỉ mất có vài giây đồng hồ, nhưng vài giây đó cũng đủ cho cô ấy biết được là có ai đó quan tâm đến cô. Nhưng mình đã bỏ đi. Mình đã làm như thể cô ấy không hiện diện.”

Câu chuyện có thật đó là một trong các câu chuyện cho thấy điều Đức Giêsu muốn nói trong dụ ngôn thật hay của bài phúc âm hôm nay. Đó là: Không phải mất công nhiều để đến với anh chị em đang đau khổ với lòng trắc ẩn. Để hiểu rõ hơn dụ ngôn của Đức Giêsu, chúng ta cần biết chút đỉnh về hoàn cảnh thời bấy giờ. Con đường trong dụ ngôn của Đức Giêsu không phải trong tưởng tượng. Thật vậy, đó là một con đường rất nổi tiếng. Đó là con đường duy nhất thời xưa đi từ Giêrusalem đến Giêrikhô. Lúc ấy con đường ngoằn ngoèo vì các tảng đá lớn. Hậu quả là con đường trở thành sào huyệt nổi tiếng của bọn cướp.

Một lá thư viết từ năm 171 AD than phiền với nhà chức trách về tội ác xảy ra trên con đường này. Có những hồ sơ lịch sử ghi nhận việc người đi đường phải nộp tiền mãi lộ cho bọn cướp để được yên ổn băng qua. Chính con đường nổi tiếng này đã làm khung cảnh thực tế cho dụ ngôn của Đức Giêsu về người Samari nhân hậu. Trong dụ ngôn, Đức Giêsu vẽ ra ba loại người khác nhau: một người tư tế, một thầy Lêvi, và một người Samari.

Trước hết, người tư tế. Có lẽ ông đang trên đường đến Giêrusalem để tế lễ trong Đền Thờ. Có lẽ ông nghĩ nạn nhân nằm bên vệ đường đã chết nên ông đi qua. Nếu một tư tế chạm đến xác người chết, ông bị nhiễm uế và tạm thời bị cấm không được vào Đền Thờ. Do đó, người tư tế không muốn dính dáng đến.

Kế đó là người Lêvi. Ông ta cũng giống như thầy phó tế ngày nay. Không rõ lý do tại sao ông lại bỏ qua. Có lẽ lý do của ông cũng giống như của người tư tế. Hoặc có lẽ ông sợ nạn nhân này chỉ giả vờ và sẽ tấn công ông nếu ông đến giúp. Do đó, thầy Lêvi cũng không muốn dính líu tới.

Sau cùng, đó là người Samari. Khi đề cao người Samari thành anh hùng trong dụ ngôn, Đức Giêsu chắc đã làm thính giả phải bàng hoàng sửng sốt, vì họ thường tránh xa người Samari như quân phản loạn không đạo đức đàng hoàng. Người Samari bị cấm không được vào Đền Thờ. Tiến lễ của họ bị từ chối, và lời chứng của họ không được chấp nhận ở toà án.

Nhưng Đức Giêsu biết việc Người làm khi đưa người Samari thành anh hùng trong câu chuyện. Người muốn dạy cho lớp thính giả Do Thái thấy rằng tình yêu thì không có biên giới. Tình yêu đến với mọi người đang có nhu cầu. Nó không bỏ qua. Nó dừng lại để giúp đỡ; nó muốn dính líu, bất kể người đó là ai.

Và điều đó đưa chúng ta trở lại câu chuyện của người phụ nữ và cô gái phiền muộn. Đến với cô ta và giúp đỡ cô ta thì thật dễ. Như chính bà đã nói: “Chỉ mất có vài giây đồng hồ, nhưng vài giây đó cũng đủ để cô ta biết là có ai đó lưu tâm đến cô.” Và, nhiều khi, đó là điều mà tất cả những gì một người đau buồn muốn được biết.

Thường những gì họ cần thì không phải tốn nhiều sức lực của chúng ta, không phải mất nhiều thời giờ của chúng ta, không phải tốn kém nhiều tiền bạc của chúng ta. Thường tất cả những gì họ cần thì đơn giản là được thấy chúng ta lưu tâm đến họ.

Và dụ ngôn hôm nay mời gọi chúng ta hãy nhìn đến sự tương giao của chúng ta với người khác. Nó mời gọi chúng ta hãy tự hỏi chính mình: Chúng ta đáp ứng thế nào với nhu cầu của người khác? Chúng ta có dừng bước và sẵn sàng giúp đỡ họ không? Hay chúng ta bỏ đi, làm như họ không hiện diện?

Đặc biệt, chúng ta có thi hành điều này đối với các phần tử trong gia đình chúng ta hay không? Một dữ kiện buồn thảm của đời sống là đôi khi chúng ta đối xử với người lạ còn tốt hơn với người thân, như vợ chồng, cha mẹ, hay con cái.

Dụ ngôn hôm nay không mời gọi chúng ta đi ra xa, nguy hiểm đến tính mạng và trở thành anh hùng. Nó mời gọi chúng ta đến với người khác, liều mất sự tự cao tự đại của mình và trở nên nhân bản hơn. Nó mời gọi chúng ta lên tiếng hỏi, “Tôi có thể giúp gì không?” Và nếu lời ngỏ ý của chúng ta bị từ chối thì sao? Như người phụ nữ trong câu chuyện nó, “Thì có sao đâu!” Tối thiểu ai đó biết rằng chúng ta lưu tâm đến hộ. Tối thiểu ai đó biết rằng chúng ta đã ngỏ lời, “Tôi có thể giúp gì không?”

Lạy Chúa, xin ban cho chúng con cặp mắt để nhìn thấy sự đau khổ trong ánh mắt của người khác, nhất là những người trong chính gia đình chúng con.

Lạy Chúa, xin ban cho chúng con đôi tai để nghe tiếng than khóc của người khác, nhất là những người cùng dòng máu với chúng con.

Lạy Chúa, xin ban cho chúng con lòng trắc ẩn để dám dính dáng đến nhu cầu của người khác, nhất là nhu cầu của những người thân yêu của chúng con.

Lạy Chúa, xin ban cho chúng con sự khiêm tốn đừng bao giờ bỏ qua vì sợ bị khước từ. Nhưng xin ban cho chúng con sự can đảm để đến với họ và hỏi họ, “Tôi có thể giúp gì không?”

 

 

 

 

 

58. Luật Samaritanô – Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

 

Câu chuyện kể của Chúa Giêsu về người Samarianô nhân hậu đã khởi hứng cho một câu chuyện phim khá lý thú. Nội dung chuyện phim như sau: Một cô sinh viên trường y đang học năm cuối chương trình y khoa một lần kia chứng kiến một người đứng tuổi mập mạp đang trong cơn đột quỵ. Hoàn cảnh lúc ấy thật cấp bách, theo sự hiểu biết về y khoa mà cô sinh viên đã tiếp thu ở nhà trường thì cần phải có một tiểu phẩu nhỏ nơi cổ nạn nhân mới có thể cứu sống nạn nhân kịp thời trước khi đưa vào bệnh viện cấp cứu. Cô sinh viên ngành y ấy đã theo tiếng lương tâm mà làm tiểu phẩu trước khi được đưa vào bệnh viện cấp cứu. Nạn nhân được cứu sống, nhưng lại bị một di chứng là khó phát âm vì khi làm tiểu phẩu, cô sinh viên chưa tốt nghiệp ấy bị một sai sót nhỏ. Cô sinh viên bị nạn nhân kiện. Nhiều thế lực không tốt cũng nhân cơ hội ấy để kiện luôn cả khoa và trường mà cô sinh viên đang theo học. Vụ kiện làm xôn xao dư luận, trở thành đề tại “hot” và cô sinh viên đang ở trong cảnh thế bí chỉ vì lý do chính là chưa tốt nghiệp, chưa có bằng chứng nhận được phép hành nghề y khoa. Và nhà trường cũng như bị liên lụy trách nhiệm đáng kể. Câu chuyện tưởng như không có hậu ấy đã thay đổi vào phút chót khi viên luật sư trẻ đầy tâm huyết đã tìm ra một luật để bào chữa đó là luật Samaritanô. Câu chuyện phim trở thành có hậu khi cô sinh viên được tòa tuyên vô tội.

Thánh tông đồ dân ngoại nói: “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người thì đã chu toàn mọi Lề Luật” (Rm 13,8). Có thể nói rằng luật tình yêu là luật của các luật. Tuy nhiên cần xác định thế nào là yêu thương. Dưới khía cạnh tiêu cực, “đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại” (Rm 13,10). Khổng Tử dạy: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân”. Theo Tanmút Do Thái giáo thì Rapbi Hinlen cũng nói: “Đừng làm cho người khác điều chính mình không thích”. Ông Tobia cha, đã khuyên bảo người con một đạo lý tương tự như trên: “Này con, hãy cẩn thận trong mọi việc con làm, và hãy tỏ ra con là nhà gia giáo trong mọi cách ăn thói ở của con. Điều gì con không thích thì cũng đừng làm cho ai cả” (Tb 4,14-15). Chúa Kitô đã đưa luật tình yêu này đến tận cùng với chiều kích tích cực: “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì luật Môsê và các lời ngôn sứ là thế đó” (Mt 7,12).

Bài Tin mừng Chúa Nhật XV TN C tường thuật khi được Chúa Giêsu hỏi rằng trong Luật đã viết những gì thì vị thông luật đã trả lời đó là: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình”. Chúa Giêsu đã khẳng định rằng ông ta trả lời chính xác và hãy làm như vậy thì sẽ được sự sống đời đời làm gia nghiệp (x.Lc 10,25). Kitô hữu chúng ta ít băn khoăn hay tranh luận về giới luật phải yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết sức, hết linh hồn và hết trí khôn. Quả thật nếu đã tin nhận Thiên Chúa là căn nguyên và là cứu cánh của mọi vật mọi loài, nhất là loài người chúng ta thì việc phải yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự là lẽ tất yếu. Tuy nhiên, cũng như vị thông luật kia, chúng ta nhiều khi cảm thấy khó khăn với giới luật yêu tha nhân như chính mình.

Cựu Ước ghi rõ là phải yêu người thân cận như chính mình. Thế thì ai là người thân cận của chúng ta? Hạn từ người thân cận dường như giả thiết một sự giới hạn nào đó cả về mối tương quan cũng như điều kiện hoàn cảnh. Người Do Thái vốn ưu tiên đặt nặng mối dây tương quan niềm tin tôn giáo, kế đến là là mối tương quan màu da quốc tịch… Và chắc chắn trong phạm trù người thân cận không hề có kẻ thù. Chúng ta nhận ra điều này khi họ được dạy rằng “hãy yêu thương đồng loại và hãy ghét kẻ thù” (Mt 5,43).

Chúa Giêsu đã làm chưng hửng vị thông luật kia, khi mở rộng phạm trù người thân cận đến tất cả mọi người, không trừ ai. Người lại còn khẳng định tính tất yếu và vô điều kiện của giới luật yêu người. Câu chuyện “người Samaritanô nhân hậu” là một ví dụ minh họa rõ nét. Dù là luật của nghi lễ tế tự như trường hợp vị tư tế hay dù là một sự cẩn trọng, khôn ngoan cần có như trường hợp của vị trợ tế hay dù bất cứ lý do gì cũng không thể là nguyên cớ khiến ta xao nhãng hay thoái thác nghĩa vụ sống yêu thương. Theo nội dung câu chuyện kể, khi truyền cho vị thông luật là hãy đi và làm như người Samaritanô nhân hậu thì Chúa Giêsu nhắc nhớ vị ấy cũng như chúng ta rằng đừng hỏi ai là người thân cận của tôi mà hãy tự hỏi tôi là người thân cận của những ai. Chúng ta phải trở nên người thân cận của tất cả những ai đang cần đến lòng xót thương, ngay ở đây và lúc này.

Là Kitô hữu, chúng ta không thể bỏ qua nội dung dụ ngôn cuộc phán xét chung trong Tin mừng Matthêu đã được Giáo hội viết thành lời kinh “mười bốn mối thương người”. “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho Ta ăn; Ta khát, các ngươi đã cho Ta uống… Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta… Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Ta đói các ngươi đã không choTa ăn; Ta khát các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước, Ta mình trần, các ngươi đã không cho mặc…” (Mt 25,31-46).

“Hãy đi và hãy làm như người Samaritanô nhân hậu!” Một lệnh truyền mang tính cấp thiết vì nó liên hệ đến hạnh phúc vĩnh cửu của chúng ta. Lạy Chúa, con phải là người thân cận của ai đây? Không phải ở đâu xa hay là ngày mai, nhưng hôm nay và ở nơi này, lạy Chúa, những ai đang cần lòng thương xót, sự cứu giúp và nâng đỡ của con? Nếu thật lòng và xác tín với lời cầu nguyện trên, chắc chắn chúng ta sẽ biết phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp.

 

 

 

 

 

59. Chú giải mục vụ của Hugues Cousin

 

MẾN CHÚA VÀ YÊU NGƯỜI THÂN CẬN

Phải làm gì để được sống đời đời? Bản tóm tắt Lề Luật nói rất rõ (cc. 25-28). Với đề tài điều răn lớn nhất; mà cả hai tác giả Nhất Lãm khác cũng có (x. Mc 12,28-31) có một câu hỏi khác, riêng của Luca, câu hỏi về người thân cận; câu hỏi này được làm sáng tỏ bằng dụ ngôn người Samari tốt lành (cc. 29-37), những tác giả Tin Mừng không ngừng lại giữa đường; đoạn nói về hai chị em Matta và Maria, cho phép ông tiếp tục minh hoạ cho điều răn lớn nhất (cc. 38-42). Dụ ngôn đã giải thích phải hiểu thế nào là yêu người thân cận; câu chuyện về hai chị em cũng làm một công việc tương tự về điều răn yêu mến Chúa. Toàn bộ bản văn dạy phải trao ban có người khác trong khi tiếp nhận từ Chúa.

Điều Răn Lớn: 10,25-28

Và này có người thông luật kia đứng lên, một trong những kẻ khôn ngoan và thông thái vắng mặt ở hoạt cảnh trước. Muốn thử thách Chúa Giêsu về kiến thức của Ngài trong vấn đề Luật, ông ta ép buộc Ngài tự tuyên bố về điều Ngài quan tâm, dựa vào truyền thống và suy tư cá nhân của Ngài, đối với cái cốt yếu và quan trọng nhất trong Luật (S. Légasse). Để đạt mục đích này, ông ta đặt ra một câu hỏi, đã được thoả thuận trong Do Thái giáo, về điều răn lớn nhất (x. Mc 12,28) hoặc về những phương thế để đón nhận sự sống của Thiên Chúa (như ở đây và ở Lc 18,18). Lời đáp của Chúa Giêsu thực ra là một câu hỏi ngược lại về luật; như đối thủ của mình, Ngài biết rằng đọc Kinh Thánh chính là giải thích Kinh Thánh. Vì thế Ngài mới hỏi: về vấn đề này: ông đọc thế nào?

Lúc đó Luật sĩ trưng ra điều luật của Đnl 6,4 mà mọi người Do Thái đạo đức đọc hai lần một ngày trong kinh Shema Israel và nó đòi hỏi nơi họ một sự gắn bó hoàn toàn vào Thiên Chúa duy nhất. Rồi ông ta nói thêm điều luật của Lv 19,18 về tình yêu người thân cận. Khi đặt hai câu ấy nối tiếp nhau, ông đã tuân theo truyền thống Do Thái đánh giá tình yêu tha nhân bằng cách đặt nó ngang tầm mức với tình yêu Thiên Chúa. Một cách đọc Kinh Thánh như vậy hoàn toàn ăn khớp với lời giải thích của Chúa Giêsu, chính Người đã đặt ra tình yêu kẻ thù ở trung tâm của ơn gọi Kitô hữu (x. 6,27tt). Trong khi tán thành ý kiến của ông, Chúa Giêsu mời vị luật sĩ đem ra thi hành giới răn yêu thương thương theo hai chiều kích: làm như vậy thì sẽ được hưởng sự sống tròn đầy mà câu hỏi ban đầu đã nói đến. Độc giả cũng được mời gọi nối kết với hoạt cảnh trước (10,21-24): kết quả cuối cùng của tình yêu đối với Thiên Chúa và với người thân cận nảy sinh qua năm tháng, phải chăng không là việc hiểu biết Chúa Cha? Nếu ông luật sĩ thực hành luật mà ông đã phụng tự, ông sẽ trở lại tình trạng của những người bé mọn và sẽ thấy được sự hiện diện hoạt động của Thiên Chúa.

Dụ Ngôn Người Samari Tốt Lành: 10,29-37

Hoạt cảnh lại tiếp diễn bởi vì ông luật sĩ đặt một câu hỏi mới, mà ông cho là tuỳ phụ thôi: ông muốn tỏ ra mình có lý khi đặt vấn nạn ban đầu. Ở đây Chúa Giêsu không trả lời câu hỏi. Đưa ra một định nghĩa về người thân cận có thể sẽ rơi vào cái chi li của luật mà Ngài đã từng trách các Kinh sư và nhóm Pharisêu; Chúa Giêsu sẽ trở thành một luật sĩ mất! Trái lại, Ngài kể một dụ ngôn (cc.30-35) mà Ngài sẽ kết thúc bằng một câu hỏi ngược lại (c.36).

Trong hoạt cảnh, những người ẩn danh được biết qua vai trò xã hội hay tôn giáo của họ: kẻ cướp và chủ quán cư ngụ tại con đường này; thầy tư tế và Lêvi là khách qua đường, người Samari đi đường. Người này là một tên lạc giáo chỉ chấp nhận có Luật thành văn là bộ Ngũ thư và từ chối hoàn toàn luật truyền khẩu. Dưới mắt ông luật sĩ, anh ta hoàn toàn trái ngược với hai vị đáng kính phục vụ Đền Thờ. Còn về con người nửa sống nửa chết thì không hề có một lý lịch xã hội nào; người ta cũng chẳng biết anh ta có phải là Do Thái hay không nữa. Khi dàn dựng các nhân vật như thế, Chúa Giêsu tránh được cái lôgich của câu hỏi mà ông luật sĩ đặt ra, có thể đưa Ngài tới chỗ trình bày người thân cận dưới dáng vẻ một anh chàng Samari nửa sống nửa chết. Thế nhưng, người Samari là một trong những người đi đường ấy. Cũng như các công chức của Đền Thờ, ông nhìn thấy kẻ bị thương. Nhưng người kia đứng cách xa bởi vì biết chừng đâu đó là một tử thi và sẽ làm họ bị nhiễm uế: họ tuân giữ Luật cấm (Ds 19,11-16). Trái lại, người Samari chạnh lòng thương – cũng chính là thái độ của Chúa khi thấy bà goá ở Nain (7,13). Trong khi các giáo sĩ, vì tôn trọng Luật về sự trong sạch, tách rời tình yêu Chúa khỏi tình yêu người thân cận (xc.27) và “tránh qua bên kia” mà đi, thì người Samari lại săn sóc người bị thương, một hành động được diễn tả bằng sáu động từ ở câu 34 và tiếp tục những biến thái ở câu 35. Thực vậy, ông ta trao tiền cho chủ quán để ông này săn sóc người xa lạ này thay cho ông. Như thế, thay vì phải ở lại do biến cố bất ngờ, ông một mình tiếp tục lên đường. Nếu ông dự trù trở lại để thanh toán tổn phí phải trả thêm, ông không nói đến việc sẽ hỏi tin tức về người ông đã cứu giúp.

Phù hợp với tâm trạng của các nhân vật trong dụ ngôn, câu hỏi ngược lại đầy năng động của Chúa Giêsu đặt ra làm biến đổi câu hỏi của ông luật sĩ (câu 33 so sánh với câu 29). Ông luật sĩ tự đặt mình làm trung tâm thế giới khi hỏi ai là người thân cận của ông. Chúa Giêsu đảo ngược vấn đề: “Ai đã là người thân cận của người bị rơi vào tay kẻ cướp?”. Người thân cận là người tỏ lòng thương xót chứ không phải kẻ thụ hưởng lòng thương xót. “Người thân cận không còn phải là người khác để yêu thương, nhưng là kẻ đã tỏ ra gần gũi với họ, mà là chủ thể của hành động đã được làm vì anh ta” (J.Delorme). Người thông luật đã trả lời được chính xác khi bảo người thân cận chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót (Cl 37). Chẳng sao cả: chính một kẻ lạc giáo, tức là có một tương quan sai lạc với luật, đã biết giữ luật của Lêvi 19,18 chứ không phải các chuyên viên phụng tự… Lúc đó, Chúa Giêsu chỉ cần kêu mời ông luật sĩ cũng làm những việc giống như vậy.

 

 

 

 

 

60. Chú giải của Noel Quesson

 

Và này có người thông luật kia đứng lên hỏi Đức Giêsu để thử Người rằng: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?”

Vào thời Đức Giêsu, câu hỏi này tất nhiên không phải mọi người Do Thái đều đặt ra. Những người Pha-ri-sêu tin có đời sau và sự sống lại của người chết. Nhưng những người Sa-đu-xê-ô không tin chuyện đó.

Ngày nay, những người ở xung quanh chúng ta tiếp tục có những ý kiến trái ngược về vấn đề đó. Vậy, điều này không có gì là mới cả. Dù câu trả lời là khẳng định hay phủ định thì vấn đề đời sống vĩnh cửu là một trong những vấn đề nghiêm trọng nhất mà con người có thể tự đặt ra, một vấn đề nghiêm túc nhất, mà sự được thua, rất là mạo hiểm. Pascal đã thử đem lại một câu trả lời nổi tiếng cho vấn đề đó với “sự đánh cuộc của Pascal” (Tư tường 343): “Thiên Chúa hiện hữu hoặc không hiện hữu. Nhưng chúng ta nghiêng về phía nào? Phải đánh cuộc thôi. Điều này không cố ý bạn đã bị lôi kéo vào rồi. Khi chọn “Thiên Chúa hiện hữu”, nếu bạn thắng, bạn được tất cả; nếu bạn thua, bạn không mất gì cả. Vậy bạn hãy đánh cuộc Người hiện hữu không chút ngần ngại… Ở đây bạn được một cuộc sống vô cùng với hạnh phúc vô tận, một khả năng được cuộc đổi lại một con số hữu hạn, những khả năng mất mát, và điều bạn dùng đặt cược cũng hữu hạn. Điều này loại bỏ hết mọi do dự…”

Thực vậy, hai giả thuyết (Thiên Chúa hiện hữu… Thiên Chúa không hiện hữu) không có cùng một trọng lượng. Nếu chúng ta muốn đánh cuộc trên vấn đề này, vậy có một sự chọn lựa giữa “mặt sấp” và “mặt ngửa”: một cơ may trên một con số giới hạn các ngẫu nhiên. Nhưng nếu chúng ta nhận định về cái được có thể xảy ra (tất cả… hoặc không gì cả), lúc đó, theo Pascal, không người đánh cuộc nào mà không ngần ngại chọn lựa, “Điều xấu nào xảy đến với bạn khi thực hiện sự chọn lựa ấy? bạn sẽ sống trung tín, khiêm nhường, biết ơn, từ thiện, là một người bạn chân thành, trung thực.

Thực ra, bạn sẽ không sống trong những lạc thú bại hoại, trong vinh quang, trong các thú vui; nhưng bạn sẽ không có những điều vui mừng khác đó sao? Tôi nói với bạn rằng bạn sẽ thu được những điều đó ngay trong cuộc đời này; và ở mỗi bước chân bạn thực hiện trên con đường ấy bạn sẽ thấy rõ sự chắc chắn của sự thắng cuộc và sự hư vô của điều mà bạn dùng để đặt cuộc, rồi bạn sẽ biết rằng bạn đã đánh cược cho một điều chắc chắn, vô cùng, mà bạn đã không cho gì cho sự đánh cược ấy”.

Mọi thời đại và trong mọi nền văn minh, con người đều hy vọng vào “một đời sau”. Đức Giêsu thường nói về nó. Người cũng nói rằng “đời sống vĩnh cửu” ấy đã được bắt đầu. Đối với những ai tin, nó đã có mặt nó đã được sống, dù rằng chưa hoàn thành, dĩ nhiên rồi. Nhưng sự sống ấy chủ yếu là gì? Và phải làm gì để có nó? Đó là câu hỏi của người thông luật. Cũng là câu hỏi của chúng ta.

Người đáp: “Trong Luật đã viết gì? ông đọc thế nào? Ông ấy thưa: “Ngươi hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn người và người thân cận như chính mình” Đức Giêsu bảo ông ta: “ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống”.

Trước hết, người thông Luật đọc lại kinh cầu hằng ngày của những người Do Thái, Kinh Shéma, trích ra từ sách Đệ Nhị Luật 6,5. Đức Giêsu cũng thường đọc kinh ấy mỗi ngày nhiều lần. Nhưng Người thêm vào một đoạn rút ra từ sách Lê vi 19,18.

Để được sự sống đời đời, phải yêu thương! Yêu thương! Câu hỏi và câu trả lời ấy cũng được tìm thấy trong hai Tin Mừng nhất lãm khác (Mát thêu 22,34-40; Máccô 12,28-31). Nhưng chính Lu ca không còn phân biệt một giới răn “thứ nhất” và một giới răn “thứ hai” lòng yêu mến Thiên Chúa và lòng yêu thương người thân cận không thể tách rời nhau. Còn trong cuộc đời tôi, có được như thế không?

Nhưng ông ấy muốn chứng tỏ là mình có lý, nên mới thưa cùng Đức Giêsu rằng: “Nhưng ai là người nhân cận của tôi?”

Cho tới lúc này, chúng ta chưa thấy có gì độc đáo.

Giáo huấn của Đức Giêsu không khác Luật của Cựu Ước… và luật của mọi tôn giáo lớn. Sứ điệp của Đức Giêsu nhân bản một cách sâu xa. Yêu thương là luật nền tảng của con người.

Nhưng câu trả lời của Đức Giêsu cho câu hỏi: “Ai là người thân của của tôi?” sẽ hướng chúng ta về cái mới mẻ thật sự có tính cách mạng của Tin Mừng. Đây là một tình yêu phổ quát, yêu thương cả “kẻ thù” mình.

Đức Giêsu đáp: “Một người kia từ Giê-ru-sa-lem xuống Giê-ri-khô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống, nửa chết. Tình cờ, có thầy tư tế cũng đi xuống trên con đường ấy. Trông thấy người này, ông tránh qua bên kia mà đi. Rồi cũng thế, một thầy Lê vi đi tới chỗ ấy, cũng thấy, cũng tránh qua bên kia mà đi…

Một “thầy tư tế”, một “thầy Lê vi”! Đức Giêsu dùng cách nói mạnh. Hai chuyên viên về sự thờ phụng, hai nhà phụng vụ của Đền thờ, lo lắng tuân giữ tỉ mỉ Luật và các nghi thức. Đức Giêsu lấy hai hạng người ấy để cho chúng ta ví dụ về việc không nên làm! Hai người này, luôn chăm lo phục vụ Thiên Chúa nhưng có một thái độ hoàn toàn ghê tởm đối với con người. Ngày nay, các toà án dù không phải của Kitô giáo hẳn phải buộc họ vào tội danh “không giúp đỡ người đang gặp nguy hiểm”. Tuy nhiên, từ quan điểm riêng, họ có lý: trong tâm thức và Luật Do Thái, họ nghĩ rằng bổn phận của họ là không được “sờ vào máu” để được ở trong tình trạng thanh khiết về nghi thức và để bảo đảm việc phụng vụ tại Đền thờ. Như thế, trong đời sống của chúng ta, một đôi khi chúng ta cáo từ không muốn giúp đỡ bằng cách viện ra những lý do tất cả thiện ý.

Bằng việc cố ý chọn lựa hai ví dụ đó, Đức Giêsu nhắc lại cho chúng ta một chân lý quan trọng của Kinh Thánh (Ô-sê 6,6) mà Người đã dùng hai lần để bào chữa việc Người không tôn trọng Luật phụng tự, vì lợi ích cho một luật khác quan trọng hơn về tình yêu thương huynh đệ (Mát-thêu 9,13-12,7; 23,23). Sự lặp lại này, sự nhấn mạnh này rất có ý nghĩa. Thiên Chúa gắn cho sự “thực hành” bác ái và phục vụ tha nhân trong đời sống hằng ngày tầm quan trọng to lớn hơn việc thực hành phụng tự và cầu nguyện của chúng ta. Người ta không phục vụ Thiên Chúa trong Đền thờ nếu trước tiên người ta không phục vụ Thiên Chúa trong đường phố!

Tôi có là một Người “hành đạo” chân chính không? Tôi cho từ hành đạo ấy một ý nghĩa nào?

Tôi có “thực hành” bác ái, có quan tâm đến tha nhân, và phục vụ người khác không?

Nhưng một người Sa-ma-ri kia đi đường, tới ngang chỗ người ấy, cũng thấy và chạnh lòng thương ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc. Hôm sau, ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói: “Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác?

Luca là thánh sử duy nhất thuật lại cho chúng ta dụ ngôn kỳ diệu này. Luca là thánh sử của lòng nhân hậu, thương xót, của sự truyền giáo cho dân ngoại và của sự nghèo khó.

Các bạn hãy đọc lại sáu hành động của lòng tốt được mô tả tỉ mỉ ở đây: đây là Triều đại của Thiên Chúa, đây sự thờ phụng mới chân thật, đây là sự trỗi dậy của nhân ái mới sẽ biến đổi lịch sử cho phù hợp với thánh ý của Thiên Chúa.

Và đó là một “Người Sa-ma-ri”! Một kẻ dị giáo, một người ly giáo, một kẻ thù của những Người Do Thái trung kiên, một người anh em giả hiệu, một người đáng ghét không chịu “thực hành” tôn giáo chân chính, một người ô uế không bao giờ đặt chân vào Đền thánh, một người mà việc mới cùng bàn bị ngăn cấm, một vài ngày, Giacôbê và Gioan muốn làm lửa từ trời trút xuống họ (Lc 9,52-55). Và Đức Giêsu lại lấy một người như thế để làm gương!

“Ông chạnh lòng thương xót…” “esplanchnisthè” Động từ tiếng Hy-lạp này chứa đựng một hình ảnh: “Splanchna” chính là “ruột gan, bộ lòng”. Vậy phải dịch là: “ông xúc động đến ruột gan”. Và từ ấy trong tiếng Do Thái hay tiếng A-ra-mê-en mà Đức Giêsu đã sử dụng xem ra cũng mang cùng một ý nghĩa: “Rahamim” cũng chỉ “ruột gan”, “lòng mẹ”, “tấm lòng”, “sự dịu dàng”, “lòng tốt”, “lòng trắc ẩn sâu xa”. Vả lại, trong toàn bộ Tân Ước, từ “chạnh lòng thương” chỉ được dùng để chỉ tình cảm của Đức Giêsu trước những đám đông khốn khó, những người bệnh tật, những người sầu khổ đủ loại (Mt 9,36; 14,14; 15,32; 20,34; Mc 6,34; 8,2; 9,22; Lc. 7,13; 15,20).

Các Giáo phụ, vốn gắn với những phương thức suy nghĩ cổ xưa, hầu như đều nhất trí chú giải dụ ngôn này bằng cách áp dụng vào Đức Giêsu Kitô. Cả Tin Mừng, và trang này cũng thế, trước tiên không phải là một sách bàn về đạo đức những là sự “công bố”, sự “mạc khải” về tình yêu thương của Thiên Chúa: người Sa-ma-ri tốt lành, trước hết chính là Đức Giêsu… người đi đường bị thương gần chết, chính là nhân loại bị sự ác quất ngã… quán trọ, chính là Giáo Hội nơi Đức Giêsu đưa con người đến cứu chữa. Nếu chúng ta chỉ biến trang Tin Mừng tuyệt diệu này thành một bài học đạo đức thì quả là tai hại vì trang Tin Mừng này nói với chúng ta “Thiên Chúa làm điều gì cho con người”. Người không ngừng “sinh ra” con người trong cung lòng Người. Đức Giêsu đã là “hình ảnh của Thiên Chúa vô hình”, thể hiện lòng trắc ẩn như mẹ hiền của Thiên Chúa, và chúng ta, đối với người “thân cận” của mình chúng ta phải chia sẻ lòng trắc ẩn đến từ Thiên Chúa! Nếu Tin Mừng trước tiên không phải là một “khoa đạo đức” điều đó không có nghĩa là Tin Mừng không chứa đựng những yêu sách đạo đức… vô cùng sâu xa và mạnh mẽ hơn mọi nguyên tắc.

Hãy yêu thương! phải, bạn hãy yêu thương! Bạn hãy đoàn kết, phải! Đó chính là “sự thờ phụng” thật. Tại sao? Bởi vì điều đó chính là Thiên Chúa. “Thiên Chúa là tình yêu, và ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa!” (1 Gioan 4,8). Hỡi thầy tư tế hoặc thầy Lê vi, coi chừng việc thờ phụng của thầy. Thiên Chúa không thích lễ lạy của Thầy. Người chờ đợi thầy bên ngoài, lúc thầy sẽ gặp mặt Người thân cận, lúc thầy sẽ ra khỏi nơi làm lễ tế. “Bạn có yêu không? Bạn có yêu thương tôi không?” Và không chỉ bằng lời chứ?

Vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay lũ cướp?” Người thông luật trả lời: “Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy” Đức Giêsu bảo ông ta: “ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy”.

Đức Giêsu lật ngược hoàn toàn ý niệm về người thân cận. Người thông luật đã hỏi: “Ai là người thân cận của tôi? (theo nghĩa thụ động)… trong ý nghĩa này, chính ” những người khác” là Người thân cận của tôi. Đức Giêsu trả lời ông: “Bạn tỏ ra mình là người thân cận của ai?” (theo nghĩa chủ động)… trong nghĩa này, chính chúng ta phải là người thân cận” của những người khác, hoặc là không. Người, “thân cận”, nghịch lý siêu phàm của Đức Giêsu, lại chính là “tôi” khi tôi đến gần những người khác với lòng yêu thương Người tạ không c.ăn tự hỏi “ai” là người thân cận của tôi… nhưng “tôi” sẽ là người thân cận của mọi người, không phân biệt như thế nào?.. ôi, sự mạc khải này là của Thiên Chúa!

 

 

 

 

 

61. Ngươi hãy đi làm như vậy – William Barclay

 

Chúa kể dụ ngôn về người Samari nhân hậu nhân dịp một luật sĩ kia cậy mình hiểu biết Kinh Thánh và những lối diễn dịch khéo léo của các rabi đến để đối chất với Chúa với ý định đánh hạ Ngài. Trong cuộc tranh luận, ông hỏi Chúa câu này: “Tôi phải làm gì để được hưởng sự sống đời đời?” Chắc ông tưởng rằng Chúa sẽ kể ra một lô những nghi lễ, những quy tắc mới lạ và sẽ làm giảm giá trị của Luật pháp. Nhưng ông ta giật mình khi nghe Chúa hỏi ngược lại: “Trong Luật đã viết gì? Ông đọc thế nào?” Câu trả lời dưới hình thức hỏi lại đã tước mất khí giới của đối phương. Tuy nhiên ông ta cũng khôn khéo trả lời rằng Luật pháp gồm tóm trong đòi hỏi kính Chúa yêu người. Chúa bảo: “Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống”. Không có gì mờ ám, né tránh hay lường gạt trong câu nói của Chúa Giêsu. Lòng yêu mến vẹn toàn đối với Thiên Chúa và loài người nhất định là con đường sự sống. Nhưng ai có thể bày tỏ ra tình yêu vẹn toàn ấy? Chúa Giêsu đến không phải để phá hỏng điều răn ấy mà để làm ứng nghiệm trọn vẹn, đem lại ơn tha tội cho những kẻ vi phạm luật ấy và ban quyền năng cho những kẻ cảm biết mình cần thiết. Câu trả lời của Chúa đánh hạ luật sĩ, nó còn đụng đến lương tâm ông nữa. Ông tự biết mình không thể làm trọn những đòi hỏi của những điều luật mà ông biết rất rõ. Bởi vậy ông cố tự biện minh bằng cách thâu hẹp địa hạt mà luật tình yêu áp dụng. Đó luôn luôn là kinh nghiệm của những kẻ tìm cách tự cứu mà từ chối sự cứu rỗi của Chúa Kitô. Không ai có thể dùng sức mình để làm trọn vẹn những đòi hỏi của Luật pháp, hoặc là chúng ta phải tìm cầu sự giúp đỡ từ bên ngoài nơi Chúa Giêsu từ ái, hoặc phải tìm cách giảm thiểu những đòi hỏi của luật. Ý của luật sĩ là không thể nào chu toàn được luật yêu mọi người, dầu là điều răn yêu người lân cận. Để tự biện minh, ông hỏi: “Ai là người thân cận?” Chúa Giêsu đáp lại bằng một câu chuyện một người Do Thái gặp nạn trên đường từ Giêrusalem xuống Giêrikhô. Con đường này nổi tiếng là nguy hiểm, Giêrusalem có độ cao 766 mét cao hơn mặt biển. Chỉ trong một khoảng hơn 32 cây số, con đường này đổ dốc sâu tới 1200 mét. Đó là con đường chật hẹp, qua nhiều đèo hiểm trở, có nhiều khúc ngoặt bất ngờ, thuận tiện cho những bọn cướp rình rập. Đến thế kỷ thứ V, thánh Hiêrônimô cho chúng ta biết con đường đó còn mang tên là “Con đường đỏ hay con đường máu”. Đến thế kỷ thứ XIX, ai muốn đi con đường đó phải trả trước tiền an ninh cho những quận trưởng Ả rập địa phương. Đầu năm 1930, H. Morton cho biết ông được cảnh cáo, nếu ông định đi con đường đó thì phải về nhà trước khi trời tối, vì có tên cướp Aben Jidah chuyên cướp ô tô và trấn lột hành khách, du khách, rồi trốn vào núi trước khi cảnh sát kịp tới. Khi kể chuyện này, Chúa Giêsu nói về một việc thường xảy ra trên con đường từ Giêrusalem tới Giêrikhô. Chúng ta thử quan sát các nhân vật được nêu ra. Khách bộ hành: đây là người bất cẩn, liều lĩnh. Ít ai mang hành lý hay tư trang quý mà dám đi một mình trên đường từ Giêrusalem xuống Giêrikhô. Bao giờ họ cũng trẩy đi thành đoàn, thành toán, để được an ninh. Người này không thể quy lỗi cho ai hết ngoài chính mình trong thảm hoạ đã xảy ra.

Thầy tư tế trông thấy nạn nhân, ông vội vàng bước qua. Chắc ông đang nhớ rằng kẻ nào sờ vào mình người chết thì sẽ bị ô uế bảy ngày (Ds 19,11). Ông không dám khẳng định, nhưng ông e ngại người đó đã chết và nếu ông chạm vào người đó, ông sẽ mất phiên phục vụ trong Đền Thờ, ông không muốn liều lĩnh như vậy. Ông là người đặt lễ nghi lên trên tình yêu thương. Đề thờ và các nghi lễ tại đó có ý nghĩa đối với ông hơn là sự đau khổ của con người.

Thầy Lêvi mà chức vụ là người giúp đỡ thầy tư tế, một người nhẹ bổn phận hơn và chắc có nhiều thời giờ hơn để có thể cứu trợ. Hình như ông này đã lại gần nạn nhân trước khi ông bỏ đi. Quân cướp thường dùng mồi nhử bằng cách cho một tên trong bọn chúng giả làm nạn nhân, và khi có ai đó vô tình dừng lại bên cạnh nạn nhân, thì cả bọn liền ập đến bắt trói hành khách đó. Người Lêvi này sống với khẩu hiệu “an toàn trước hết”, ông không muốn liều để giúp đỡ ai hết.

Người Samari: Người nghe chuyện lúc bấy giờ chắc tưởng là người này tới là tai hoạ rồi đó. Có thể người này không có dòng máu Samari. Người Do thái không giao thiệp với người Samari, nhưng người này có lẽ thuộc hạng thương gia lưu hành thường quen lui tới nhà quán. Trong Gioan 8,48, người Do thái gọi Chúa Giêsu là người Samari. Danh từ đó đôi khi được dùng để chỉ một tên rối đạo hay một kẻ không tuân phục nghi lễ. Có lẽ người này chỉ là người Samari theo nghĩa một người mà giới chính thống ngoan đạo khinh bỉ. Chúng ta nhận xét hai điều về người này:

– Anh là người được tín nhiệm: rõ ràng chủ quán sẵn lòng tin lời anh. Có thể là anh không đi đúng thần học, nhưng anh là người tốt.

– Chỉ có anh là người sẵn sàng giúp đỡ. Anh có thể bị xem là người rối đạo, nhưng tình thương của Thiên Chúa chan chứa trên tâm hồn anh. Người ta dễ gặp những người ngoan đạo thích giáo lý hơn thích giúp đỡ và cũng gặp người mà giới ngoan đạo khinh bỉ lại biết yêu thương đồng loại. Cuối cùng, chúng ta sẽ bị Chúa phán xét, không phải vì giáo lý trong đầu óc chúng ta, song vì cách chúng ta đã sống.

Chúng ta thử tìm sự dạy dỗ của dụ ngôn người luật sĩ đặt câu hỏi lòng đầy hăng hái. Chúa hỏi lại ông đọc gì trong luật. Luật sĩ đáp theo như đã ghi: “Ngươi phải yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi.” (Đnl 6,3), và thêm “Phải yêu người thân cận như mình.” (LV 18,19). Nhưng giới đạo sĩ Do thái vốn ưa thích định nghĩa, họ ra sức định nghĩa người thân cận là ai, và với tư tưởng hẹp hòi của họ, họ đã thu hẹp người thân cận vào đồng bào Do thái của họ thôi. Vậy câu hỏi của luật sĩ “ai là người thân cận của tôi” là câu hỏi thích đáng. Và câu trả lời qua dụ ngôn dạy ta ba điều:

Ta phải giúp đỡ kẻ khác dầu khi kẻ đó tự gieo hoạ cho mình, như người hành khách bất cẩn liều lĩnh này.

Dù người thuộc quốc tịch nào, khi lâm nạn, đều là người thân cận của chúng ta, sự giúp đỡ của chúng ta phải rộng lớn như tình yêu Thiên Chúa.

Sự giúp đỡ phải thực tế chứ không dừng lại ở cảm xúc. Hẳn thầy tư tế cũng như thầy Lêvi cũng cảm thấy xót xa cho người lâm nạn, nhưng không hành động gì. Sự cảm thương thành thực phải đi đôi với hành động thiết thực.

Điều Chúa Giêsu phán với thầy dạy luật thì Ngài cũng nói với chúng ta “Ngươi hãy đi làm như vậy”.