20/02/2017
1108
Tông huấn Amoris Laetitia - Chương IV: Tình yêu trong hôn nhân


 

89. Tất cả những gì đã nói cho tới đây vẫn chưa đủ để diễn tả Tin mừng về hôn nhân và gia đình, nếu chúng ta không dừng lại để đặc biệt nói về tình yêu. Bởi vì chúng ta không thể khuyến khích một cuộc hành trình của lòng trung thành và tự hiến cho nhau nếu không khích lệ sự lớn lên, sự củng cố và đào sâu tình yêu hôn nhân và gia đình. Thật vậy, ơn sủng của Bí tích Hôn Phối được nhắm trước hết là “để làm cho tình yêu của đôi bạn nên trọn hảo”.[1] Trong trường hợp này chúng ta cũng có thể nói rằng “giả như tôi có tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có tình yêu, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài bố thí hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có tình yêu, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1 Cr 13,2-3). Tuy nhiên, nếu từ “tình yêu” rất hay được dùng thì nó cũng rất hay bị lạm dụng.[2]

Tình yêu hằng ngày của chúng ta

90. Trong cái được gọi là bài ca đức mến của Thánh Phaolô, chúng ta gặp thấy một số nét của tình yêu đích thực:

“Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu,

Không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc,

Không làm điều bất chính, không tìm tư lợi,

Không nóng giận, không nuôi hận thù,

Không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật.

Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả”. (1 Cr 13,4-7).

Tình yêu được sống và được vun trồng trong cuộc sống mà hằng ngày đôi vợ chồng và con cái họ cùng chia sẻ. Do đó, dừng lại để xác định ý nghĩa của các diễn ngữ của bản văn này, để rồi thử áp dụng vào cuộc sống cụ thể của mỗi gia đình, là điều đáng quí.

Tình yêu thương thì nhẫn nhục

91. Diễn ngữ đầu tiên được dùng là macrothymei. Từ ngữ này không chỉ được chuyển dịch là “chịu đựng tất cả”, vì chúng ta gặp thấy ý tưởng ấy ở cuối câu 7. Ý nghĩa của từ này được làm sáng tỏ nhờ bản dịch tiếng Hi lạp của Cựu Ước, ở đó người ta khẳng định rằng Thiên Chúa “chậm giận” (Xh 34,6; Ds 14,18). Nó cho thấy khi một người không hành động theo những xung năng bộc phát và tránh gây tổn thương. Đó là một đặc tính của vị Thiên Chúa của Giao ước, Đấng kêu gọi chúng ta bắt chước Ngài cả trong đời sống gia đình. Các bản văn của Thánh Phaolô có dùng từ ngữ này phải được đọc trên nền hậu cảnh của sách Khôn Ngoan (cf. 11,23; 12,2.15-18): ở đó người ta ca tụng sự kiềm chế của Thiên Chúa nhằm chừa chỗ cho khả năng thống hối, đồng thời vẫn khẳng định quyền năng của Ngài được bộc lộ khi hành động với lòng thương xót. Sự nhẫn nhục của Thiên Chúa là việc thực thi lòng thương xót của Ngài đối với tội nhân, và là sự biểu lộ quyền năng đích thực của Ngài.

92. Nhẫn nhục không có nghĩa là cho phép mình thường xuyên bị xử tệ, hoặc dung túng cho những bạo hành trên thân xác, hay cho phép người khác đối xử với mình như một đồ vật. Vấn đề xảy ra là khi chúng ta đòi các mối tương quan phải êm ả hay người ta phải hoàn hảo, hoặc khi chúng ta đặt mình ở trung tâm và mong đợi duy nhất một điều là mọi sự đi theo ý muốn của mình. Rồi thì mọi sự làm chúng ta mất kiên nhẫn, mọi sự làm chúng ta phản ứng cách hung hăng. Nếu chúng ta không vun xới thái độ nhẫn nhục, chúng ta sẽ luôn luôn phải hối tiếc vì cư xử giận dữ, và rốt cuộc chúng ta sẽ không thể sống chung với nhau, chống lại xã hội, chúng ta không có khả năng làm chủ được các xung năng của mình, và gia đình sẽ biến thành bãi chiến trường. Vì thế Lời Chúa khuyên chúng ta: “Đừng bao giờ chua cay gắt gỏng, nóng nảy giận hờn, hay la lối thóa mạ, và hãy loại trừ mọi hành vi gian ác” (Ep 4,31). Đức nhẫn nhục được tăng thêm khi tôi nhìn nhận người khác cũng có quyền sống trên trái đất này cùng với tôi, như sự thực là thế. Việc họ có ngăn trở tôi, làm xáo trộn các kế hoạch của tôi, hay họ làm tôi bực mình do lối sống của họ hay bởi cách suy nghĩ của họ, hoặc trong mọi sự không theo cách mà tôi vẫn mong đợi, là điều không quan trọng. Tình yêu luôn luôn bao hàm một ý thức thương cảm sâu xa dẫn tới việc chấp nhận người khác như một phần của thế giới này, ngay cả khi người ấy hành động khác với kì vọng của tôi.

Nhân hậu

93. Từ ngữ kế tiếp là chrestéuetai chỉ được dùng một lần duy nhất ở đây trong toàn bộ Thánh Kinh, được rút ra từ chữ chrestós (có nghĩa: người tốt, người cho thấy lòng tốt qua các việc làm của mình). Tuy nhiên, xét vị trí của từ ở đây đứng song song gắn chặt với động từ đi trước, nó được dùng như một bổ ngữ. Như thế thánh Phaolô muốn nói rõ rằng “nhẫn nhục” được nêu ra đầu tiên không phải là một thái độ hoàn toàn thụ động, nhưng là một thái độ gắn liền với hoạt động, với một tương tác năng động và sáng tạo với người khác. Nó cho thấy rằng yêu là làm điều tốt cho người khác và thăng tiến người khác. Vì vậy nó được dịch là “nhân hậu”.

94. Xem toàn bản văn, ta thấy thánh Phaolô muốn nhấn mạnh tình yêu không chỉ là một cảm xúc thuần túy, nhưng đúng hơn, nó phải được hiểu theo động từ “yêu” của tiếng Hípri; nghĩa là “làm điều tốt”. Như Thánh Inhaxiô Loyola nói: “Tình yêu phải được thể hiện bằng việc làm nhiều hơn bằng lời nói”.[3] Như thế nó cho thấy tất cả sự phong nhiêu của nó và giúp ta cảm nghiệm niềm hạnh phúc của việc trao ban, sự cao quí và vĩ đại của việc dâng hiến chính mình một cách hào phóng, vô lượng, không đòi được đền đáp, nhưng chỉ vui qua trao ban và phục vụ.

Chữa lành ghen tương

95. Một thái độ, bởi đó, cũng bị từ chối vì đối nghịch với tình yêu, được diễn tả bằng chữ zelos (ghen tương hay đố kị). Điều này có nghĩa là trong tình yêu không có chỗ cho sự khó chịu trước điều may mắn tốt lành của người khác (cf. Cv 7,9; 17,5). Ghen tị là buồn bực trước một điều thiện hảo của người khác, nó chứng tỏ ta không quan tâm đến hạnh phúc của người khác mà chỉ tập chú vào lợi ích của ta. Trong khi yêu thương đưa chúng ta ra khỏi chính mình, thì ghen tị lại qui chúng ta trở về với cái tôi của mình. Tình yêu đích thực thì quí trọng sự thành công của người khác, không xem điều ấy như một sự đe dọa đối với mình, giải thoát ta khỏi vị đắng cay của ghen tị. Nó nhìn nhận rằng mỗi người có những ơn ban khác nhau và có những lối đường khác nhau trong cuộc sống. Vì thế nó cố gắng khám phá con đường hạnh phúc của mình, trong khi để cho người khác tìm thấy con đường của họ.

96. Tóm lại, yêu thương có nghĩa là chu toàn hai giới răn cuối cùng của Lề Luật Thiên Chúa: “Ngươi không được ham muốn nhà người ta; ngươi không được ham muốn vợ người ta, tôi tớ nam nữ, con bò con lừa, hay bất cứ vật gì của người ta” (Xh 20,17). Tình yêu khơi lên một niềm quí trọng chân thành đối với mỗi người và nhìn nhận quyền được hạnh phúc của người khác. Tôi yêu con người này, và tôi nhìn người ấy với ánh nhìn của Thiên Chúa là Cha, Đấng trao ban cho chúng ta mọi sự “để chúng ta được hưởng dùng” (1 Tm 6,17), và như vậy, tôi chấp nhận trong lòng rằng người ấy có thể vui hưởng một khoảnh khắc hạnh phúc. Dù sao đi nữa, chính tình yêu cội rễ này cũng sẽ hướng tôi đến chỗ chối bỏ sự bất công vì lẽ một số người chiếm hữu quá nhiều và những người khác thì không có gì cả, tình yêu ấy thúc giục tôi làm cách nào để giúp những người bị xã hội loại bỏ cũng hưởng được chút niềm vui. Nhưng đó không phải là ghen tị, nhưng là khát vọng về sự bình đẳng.

Không vênh vang, không tự đắc

97. Tiếp đến là diễn ngữ perpereuetai hàm nghĩa sự tự đắc, lo lắng thể hiện sự trổi vượt của mình nhằm tạo ấn tượng trên những người khác qua thái độ mô phạm và hung hăng. Người yêu thương thì không những biết tránh không nói quá nhiều về chính mình, mà hơn nữa, vì tập chú vào người khác, người ấy biết đặt mình vào vị trí của người khác, không đòi làm trung tâm của mọi sự chú ý. Từ ngữ physioutai tiếp theo sau cũng có nghĩa tương tự, cho thấy rằng yêu thương thì không cao ngạo. Theo sát nghĩa từ ấy muốn diễn tả chúng ta không “lên mặt” trước người khác, cũng cho thấy một cái gì đó tinh tế hơn. Đó không chỉ là một nỗi ám ảnh muốn khoe khoang những phẩm chất của mình mà còn là mất ý thức về thực tại. Ta tự xem mình cao trọng hơn sự thực mình là, vì tưởng rằng mình “đạo đức” hơn hay “khôn ngoan” hơn. Thánh Phaolô còn dùng động từ này trong những trường hợp khác nữa, như khi ngài nói “sự hiểu biết sinh lòng kiêu ngạo, còn tình yêu thì xây dựng” (1 Cr 8,1). Cũng đáng nói là, một số người nghĩ rằng họ cao trọng vì họ hiểu biết hơn những người khác, và ra sức đòi hỏi và khống chế những người khác, trong khi điều thực sự làm ta cao trọng chính là một tình yêu biết cảm thông, quan tâm, và nâng đỡ những người yếu đuối. Trong một đoạn khác, thánh Phaolô dùng từ này để phê bình những người “tự cao tự đại” (cf. 1 Cr 4,18), nhưng thực sự họ chỉ nói những lời trống rỗng hơn là những lời thực sự có “quyền năng” của Thần Khí (cf. 1 Cr 4,19).

98. Thật quan trọng việc người Kitô hữu sống thái độ này trong cách họ cư xử với những người thân trong gia đình ít hiểu biết hơn mình về đức tin, họ là những người yếu đuối hoặc thiếu một xác tín chắc chắn. Có khi xảy ra điều ngược lại: những tín hữu được cho là trưởng thành trong gia đình thì lại trở thành kẻ cao ngạo không ai chịu nổi. Thái độ khiêm hạ ở đây có vẻ như một điều gì đó thuộc về tình yêu, bởi vì, để có thể thông cảm, tha thứ và thành tâm phục vụ người khác, thì cần thiết phải chữa trị thói kiêu ngạo và vun đắp lòng khiêm nhu. Đức Giêsu lưu ý các môn đệ rằng trong thế giới của quyền lực mỗi người đều tìm cách để thống trị kẻ khác, và bởi thế Người nói “giữa anh em thì không như thế” (Mt 20,26). Lối nghĩ về tình yêu Kitô giáo không phải là lối nghĩ của người đứng bên trên người khác và cần để họ biết đến quyền lực của mình, nhưng là lối nghĩ “ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em” (Mt 20,27). Trong đời sống gia đình không thể để bao trùm lối nghĩ thống trị lẫn nhau và sự cạnh tranh để xem ai là người thông minh hơn hay quyền lực hơn, vì như thế sẽ làm hủy diệt tình yêu. Lời khuyên cho gia đình sau đây cũng thật đáng giá: “Tất cả anh em hãy lấy đức khiêm nhường mà đối xử với nhau, vì Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (1 Pr 5,5).

Không khiếm nhã

99. Yêu thương cũng có nghĩa là làm cho mình đáng yêu, và đây là ý nghĩa ẩn chứa trong diễn ngữ aschemonei. Từ ngữ này muốn nói rằng tình yêu thì không hành động thô lỗ, khiếm nhã, không cư xử gay gắt. Các cách thức, lời nói và cử chỉ của nó đem lại sự dễ chịu và không chua chát hay cứng cỏi. Yêu thương thì không muốn làm cho người khác đau khổ. Hòa nhã “là một trường học dạy sự mẫn cảm và tinh thần vô vị lợi”, nó đòi người ta “phải vun xới tâm tư và tình cảm của mình, học biết lắng nghe, ăn nói, và có những lúc cũng biết thinh lặng”.[4] Hòa nhã không phải là một lối sống mà một Kitô hữu có thể chọn lựa hay từ chối: nó là thành phần trong những đòi hỏi thiết yếu của tình yêu, bởi thế “mỗi người đều phải để tâm sống thuận thảo với những người xung quanh mình”.[5] Mỗi ngày, “việc bước vào đời sống của một người khác, ngay cả khi người ấy vốn đã là phần đời của mình, thì vẫn đòi hỏi một thái độ tế nhị không xâm phạm, điều này có sức làm mới lại niềm tin tưởng và sự kính trọng. Tình yêu càng thân mật và sâu xa, càng đòi hỏi tôn trọng tự do và khả năng chờ đợi người ấy mở cửa lòng ra”.[6]

100. Để sẵn sàng đón nhận một cuộc gặp gỡ đích thực với người khác, đòi hỏi phải có một cái nhìn nhân hậu đối với người ấy. Điều này không thể có được khi ta luôn có thái độ bi quan nhìn người khác như muốn vạch ra những khuyết điểm và sai lầm của họ, có lẽ là để khỏa lấp những mặc cảm của mình. Một cái nhìn nhân hậu cho phép chúng ta không dừng lại quá nhiều trên những giới hạn của người khác, và như thế chúng ta có thể khoan dung với họ và hiệp nhất với nhau trong một kế hoạch chung, bất chấp những khác biệt. Tình yêu thương nhân hậu sẽ tạo ra các mối dây liên kết, vun xới các tương quan, kiến tạo các mạng lưới hội nhập mới và xây dựng một cơ cấu xã hội vững chắc. Bằng cách này, tình yêu sẽ tự bảo vệ mình, vì nếu không có một cảm thức thuộc về, thì người ta không thể bền bỉ dấn thân cho người khác; rốt cuộc mỗi người sẽ chỉ tìm kiếm những gì tiện ích cho mình và không thể có đời sống chung được. Một người dị ứng với xã hội tin rằng những người khác tồn tại chỉ để thỏa mãn các nhu cầu của mình, và cho rằng khi làm như thế là họ chỉ hoàn thành nghĩa vụ của họ. Vì thế không có chỗ cho lòng tử tế  của tình yêu cũng như không có chỗ cho ngôn từ để diễn tả nó. Ai yêu thương thì có khả năng nói những lời động viên có sức vỗ về, trợ lực, an ủi, khích lệ. Chúng ta hãy xem, chẳng hạn, một vài lời mà Đức Giêsu đã nói với người ta: “Này con, cứ yên tâm!” (Mt 9,2); “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật!” (Mt 15,28); “Hãy trỗi dậy đi!” (Mc 5,41); “Chị hãy đi bình an” (Lc 7,50); “Anh em đừng sợ” (Mt 14,27). Đó không phải là những lời hạ giá người ta, gây buồn phiền, chọc tức hay khinh dể. Trong gia đình, chúng ta cần học cách ăn nói hòa nhã với nhau như thế của Đức Giêsu

(còn tiếp)

 

[1] GLHTCG, 1641.

[2] Cf. DCE, 2: AAS 98 (2006), 218.

[3] Inhaxiô Loyola, Linh thao, Chiêm ngắm để được tình yêu (Esercizi spirituali, Contemplazione per raggiungere l’amore), 230.

[4] Octavio Paz, La llama doble, Barcelona 1993, 35.

[5] ST II-II, q. 114, a. 2, ad 1.

[6] HG (13.5.2015): L’Osservatore Romano, 14.5.2015, tr. 8.

(Nguồn: Văn phòng Hội đồng Giám mục Việt Nam)