10/05/2017
938
Suy niệm Chúa Nhật 5 Phục Sinh_Nhiều tác giả




















CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH – Năm A

Lời Chúa: Cv 6,1-7; 1Pr 2,4-9; Ga 14,1-12

 

MỤC LỤC

1. Xao xuyến

2. Con Đường Giêsu

3. Xao xuyến

4. Đường Giêsu – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

5. Đường đi có Chúa

6. Xin cho chúng con thấy Chúa Cha

7. Lưu giữ Kỷ niệm sống động về Đức Giêsu

8. Con đường sự sống

9. Suy niệm của Barbara E. Reid

10. Cuộc đời là một chuyến đi

11. Niềm tin vào đời sau – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền

12. Nhà Cha – Lm. Giuse Trần Việt Hùng

13. Đường Giêsu, Đường con đi

14. Chúa Nhật 5 Phục Sinh

15. Con đường hạnh phúc

16. Ra đi & Trở về

17. Đường Về Nhà Cha – Lm. Trịnh Ngọc Danh

18. Chọn lựa con đường

19. Hai chân lý Đức Tin

20. Đường về Nhà Cha

21. Đường tình yêu

22. Vững tin vào Thiên Chúa, không xao xuyến

23. Trở nên hình ảnh Chúa Giêsu – Lm. Trần Ngà

24. Khát vọng đời thường

25. Con đường Giêsu

26. Con đường mang tên Giêsu

27. Bước về nhà Cha

28. Trong Chúa Kitô

29. Chúa Giêsu là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống

30. Ai biết Thầy là biết Chúa Cha

31. “Lòng anh em đừng xao xuyến..."

32. Đường hy vọng

33. Hãy tin vào Thầy

34. Chúc thư của Chúa Kitô

35. Hoàn toàn đúng

36. Đi trên con đường Chúa – Lm. Jos. Nguyễn Hữu An 

37. Niềm tin

38. Đường tình yêu

39. Khuôn mặt Thiên Chúa

40. Đường

41. Niềm tin

42. Mái nhà

43. Trở về

44. Nẻo đường đích thật – Lm. Bùi Quang Tuấn

45. Suy niệm của JKN

46. Suy niệm của Lm. Trần Nguyên

47. Về cùng Chúa

48. Con đường

49. Con đường

50. Hãy tìm một chỗ trong trái tim Chúa

51. Chú giải của Noel Quession

52. Con đường Giêsu

 

 

 

 

 

1. Xao xuyến

 

Lòng các con đừng xao xuyến.

Mặc dù Chúa Giêsu đã khuyên chúng ta như thế, nhưng nhìn vào đời sống chúng ta cảm thấy có rất nhiều băn khoăn lo lắng. Trước hết chúng ta băn khoăn lo lắng về tiền bạc. Phải lo cho mình, cho gia đình mình có đủ những phương tiện sinh sống, phải tiết kiệm phòng khi nghèo túng, tai ương bệnh hoạn. Đó là sự khôn ngoan của người biết lo xa. Tuy nhiên không nên lo lắng thái quá, vì trời sinh voi sinh cỏ. Chim trời không gieo không gặt mà chẳng con nào bị chết đói, hoa cỏ đồng nội không dệt không may, mà áo cẩm bào của Salomon vẫn chẳng thế nào sánh nổi. Hơn nữa, lời Chúa còn đem lại cho chúng ta niềm an ủi và khích lệ: Hãy tìm kiếm Nước Trời trước đã còn mọi sự khác Chúa sẽ ban cho sau.

Tiếp đến chúng ta băn khoăn lo lắng về địa vị và danh vọng. Khi chưa có địa vị, chúng ta bon chen tìm đủ mọi cách để tìm kiếm cho mình chỗ đứng ngoài xã hội. Khi đã có rồi, chúng ta lo gây phe cánh, để duy trì chức vị đó. Nhưng chúng ta nên nhớ danh vọng chính là của đồng lần thiên hạ tiêu chung, nay thuộc về ta và mai thuộc về người. Hơn nữa, như lời Chúa đã phán: Ai đong đấu nào thì sẽ được đong lại bằng đấu ấy. Gieo gió thì gặt bão. Một khi đã có những hành vi tội ác, thì lương tâm sẽ bị cắn rứt, và công lý sẽ lên án phạt.

Nhưng có lẽ cái làm cho chúng ta băn khoăn lo lắng nhất chính là sự chết. Thực vậy, đã là người thì ai cũng phải chết. Cái chết ở trước  mặt người già và ở sau lưng người trẻ. Nếu như thế thì băn khoăn lo lắng mà làm chi. Thực sự, chúng ta không lo mình sẽ phải chết, nhưng lo về những điều xảy ra sau khi chết, chẳng hạn như sợ bị Chúa phán xét, sợ hậu quả không hay do đời sống tội lỗi và bê bối. Đây mới là nỗi băn khoăn và lo lắng chính đáng. Tuy nhiên, để khỏi băn khoăn lo lắng thì ngay từ giờ, chúng ta hãy sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương.

Szécheny người Hung Gia Lợi và là một nhân vật nổi danh. Ngày kia ông đang tắm trên bờ biển thì thình lình bị sóng cuốn đi. Ông ra sức bơi, hai tay chống cự nhưng sóng gió cứ đẩy ông vào chỗ nước xoáy. Trong lúc thất vọng và tưởng rằng mình sẽ bị cuốn trôi, ông nghĩ rằng mình mới xưng tội và rước lễ, và ông cảm thấy an tâm ra sức chống đỡ và sau cùng đã thoát nạn.

Trái lại biết bao người tội lỗi, không giục lòng ăn năn, đã thực sự hoảng sợ khi tử thần đến gõ và đã chết một cách bàng hoàng kinh hãi. Hãy tin tưởng vào Chúa bằng cách khử trừ tội lỗi, thực hiện bác ái yêu thương, nhờ đó mà cuộc đời chúng ta sẽ không còn băn khoăn lo lắng.

 

 

 

 

 

2. Con Đường Giêsu

 

Đầu tháng hai năm 1990, báo chí đã làm cho nổi tiếng một con đường ở ngoại ô thành phố Saigon. Con đường ấy, một đầu là biểu ngữ giăng ngang khai trương phòng vật lý trị liệu, một kiểu mãi dâm trá hình. Còn đầu kia là sừng sững một khách sạn mini sang trọng, làm nhà riêng của ông giám đốc Xacogiva, người đã từng biển thủ công quỹ. Con đường ấy chợt nổi tiếng vì những vụ tai tiếng.

Thế nhưng, đã 20 thế kỷ trôi qua, trong Giáo Hội chúng ta biết có một con đường luôn nổi tiếng. Con đường ấy mở ra bằng một tình thương và kết thúc bằng một hạnh phúc. Con đường ấy trải dài bằng tin yêu để vươn lên tới sự sống bất diệt. Con đường ấy thắp sáng niềm hy vọng và dẫn tới quê hương Nước Trời. Con đường dẫn tới vĩnh cửu. Đó là con đường mang tên Giêsu.

Thực vậy, qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, Ngài đã trả lời cho Tôma: Thầy là đường là sự thật và là sự sống. Qua đó, chúng ta thấy: chỉ có một con đường duy nhất được mở ra cho ơn cứu độ. Và con đường ấy chính là Ngài.

Trước hết, Ngài là đường chân lý, một chân lý sống động, làm tiêu chuẩn hướng dẫn cho mọi cuộc đời. Đường chân lý ấy, không phải là một mớ những tín điều, những sự phải tin, nhưng là toàn thể cuộc sống của Ngài, từ tư tưởng cho đến lời nói và việc làm. Tất cả đều hướng tới chân trời cứu độ. Nhưng không phải ai cũng nhận ra con đường này, bởi vì trong phiên toà xet xử, Philatô cũng đã hỏi: Sự thật là gì? và Chúa Giêsu đã không trả lời bởi vì sự thật chính là Ngài đang đứng đó.

Tiếp đến, Ngài là đường sự sống bởi vì Ngài là nguồn phát sinh mọi sự sống tự nhiên cũng như siêu nhiên. Sự sống phần xác trong công trình tạo dựng, cũng như sự sống phần hồn trong công trình cứu chuộc. Ngài đã chết để mọi người được sống và Ngài đã sống lại để mãi mãi mở ra một con đường dẫn vào cõi sống vĩnh cửu. Sự sống vật chất một ngày nào đó sẽ tan biến, nhưng sự sống mà Ngài trao ban sẽ là một sự sống trường tồn bất diệt. Chính vì thế mà chúng ta thường kết thúc lời cầu nguyện bằng câu: Người hằng sống và hiển trị cùng Chúa Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.

Sau cùng, Ngài là con đường dẫn tới nhà Cha, dẫn tới quê hương Nước Trời, bởi vì Chúa Cha và Ngài không thể tách lìa nhau. Chúa Cha ẩn mình trong Chúa Con và Chúa Con ẩn mình trong Chúa Cha. Vẫn là một tự ngàn xưa và mãi mãi là một đến muôn thuở muôn đời. Vì thế con đường mang tên Giêsu, tất nhiên sẽ dẫn tới địa chỉ Nhà Cha và ngược lại, muốn đến nhà Cha thì phải đi trên con đường Giêsu. Có nghĩa là muốn được bước vào quê hương Nước Trời, chúng ta phải thực thi những điều Đức Kitô truyền dạy.

 

 

 

 

 

3. Xao xuyến

 

Con tàu ra khơi thì gặp phải giông bão. Gió to và sóng lớn. Mọi hành khách đều hốt hoảng. Chỉ một mình em nhỏ vẫn bình tĩnh ngồi chơi nơi xó góc. Người ta hỏi em tại sao thì em trả lời: Làm sao tôi có thể sợ hãi đang khi ba tôi là người điều khiển con tàu. Cũng thế trong một cuộc động đất, người ta thấy một bà già hăng say giúp đỡ các nạn nhân, mặc dù nhà cửa của bà cũng đã bị sụp đổ. Người ta hỏi bà tại sao lại không lo lắng sợ hãi, thì bà trả lời: Thiên Chúa quyền năng. Người làm được mọi sự và Ngài luôn lo liệu cho tôi những sự tốt đẹp nhất.

Từ hai mẩu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay với lời khuyên nhủ của Chúa: Các con đừng xao xuyến. Băn khoăn xao xuyến là một cái gì đụng đến trái tim, là phần sâu thẳm nhất của con người. Có ai trong chúng ta đã không từng bị băn khoăn, xao xuyến và lo lắng?

Các môn đệ đã xao xuyến khi các ông được nghe biết về sự phản bội của Giuđa, về sự chối bỏ của Phêrô, về cái chết gần kề của Chúa Giêsu. Những biến cố kinh hoàng này đã ảnh hưởng đến đời sống các ông, phá vỡ những gì các ông đã xây dựng, đã vun trồng. Phải xa cách Thầy, phải đương đầu với một thế gian thù nghịch, tất cả những điều ấy đã làm cho các ông lo lắng và xao xuyến.

Không phải chỉ các môn đệ mới lo lắng và xao xuyến, mà chính Chúa Giêsu cũng đã nhiều lần lâm vào một hoàn cảnh như thế. Ngài đã xao xuyến khi thấy Maria và những người Do Thái khóc nức nở bên nấm mồ Lagiarô. Ngài đã xao xuyến khi thấy giờ Ngài được tôn vinh qua đau khổ và cái chết đã đến: Giờ đây, tâm hồn Thầy xao xuyến, Thầy biết nói gì. Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. Ngài đã xao xuyến khi loan báo về việc phản bội của một người môn đệ.

Như thế, Chúa Giêsu không phải là một con người sắt đá, hay đã tôi luyện cho mình một thái độ vô cảm trước những nỗi đau của bản thân và của người khác. Trái lại, Ngài cũng có một trái tim như chúng ta. Và trái tim ấy cũng đã thổn thức và xót thương, cũng đã lo lắng và xao xuyến. Vì thế, Ngài rất hiểu và cảm thông với chúng ta.

Xao xuyến và băn khoăn là một tâm trạng bình thường, đó không phải là một tội, nếu nó không đưa chúng ta đến chỗ sợ hãi mà bỏ cuộc, không chu toàn thánh ý Chúa. Trong vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu cũng đã băn khoăn lo lắng, nhưng Ngài đã vượt thắng những băn khoăn lo lắng ấy, Ngài đã can đảm chấp nhận thập giá, không lùi bước trước khổ đau và hiểm nguy.

Chúng ta không xin cho mình tránh khỏi mọi xao xuyến nhưng dạy chúng ta vượt qua những xao xuyến ấy bằng niềm tin: Lòng các con đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Chính niềm tin sẽ đem lại cho chúng ta sự bình an. Thực vậy, hiểm nguy vẫn còn đó, khổ đau vẫn còn đó, nhưng chúng ta luôn an tâm vì biết rằng quyền năng và tình thương của Chúa còn lớn hơn mọi sóng gió như muốn nhận chìm con người và cuộc đời chúng ta.

 

 

 

 

 

4. Đường Giêsu – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

 

Băn khoăn về nguồn cội con người, thắc mắc về ý nghĩa cuộc đời, thao thức truy tìm cứu cánh của đời người đã tiếp nối bằng bao thế kỷ mà không có được câu trả lời thoả đáng. Con người bơ vơ giữa ngã ba không biết phải đi về đâu. Khi xuống trần, Chúa Giêsu đã cho ta biết nguồn cội của Người là Đức Chúa Cha, ý nghĩa đời Người là thi hành thánh ý Chúa Cha, và cùng đích đời Người là trở về với Chúa Cha. Muốn về với Đức Chúa Cha, ta phải theo một con đường. Đường ấy có tên là GIÊSU. Đường này chắc chắn an toàn đi đến nơi về đến chốn vì Chúa Giêsu là người mở đường. Người chính là con đường và Người là tâm điểm của đích tới.

Chúa Giêsu là người mở đường.

Đi đâu cũng cần có đường. Không con đường nào tự nhiên có. Phải có người mở đường.

Có người mở ra những con đường vật chất, nhờ có óc phiêu lưu mạo hiểm, có tầm nhìn bao quát, có óc tính toán thực tế.

Có người mở ra những con đường suy tư triết học, sáng tác nghệ thuật, nhờ trí tuệ thông minh xuất chúng, có tư duy sáng tạo, có trực giác bén nhạy, có trí tưởng tượng phong phú.

Nhưng không ai có thể mở con đường lên trời. Đường lên trời hoàn toàn vượt khả năng con người. Phải có Đấng, ấy là Chúa Giêsu, Người đã đến từ Đức Chúa Cha, nay Người trở về cùng Đức Chúa Cha. Người lại hứa dọn chỗ cho ta trong Nhà Cha. Với những thông tin như thế, Người đã cho ta biết Trời chính là Nhà Cha. Quê Trời trở thành Quê Cha. Nước Trời trở thành một cõi đi về thân thương của con người. Con đường đi về ấy, chính Chúa Giêsu đã mở.

Chúa Giêsu là đường.

Không chỉ là người mở đường. Chúa Giêsu chính là con đường. Để về Nhà Cha, ta không chỉ đi theo, đi với mà còn phải đi trong Người. Không chỉ đi trong đường lối, trong tinh thần, nhưng trong chính bản thân Người. Như cành nho gắn liền với thân nho và sống bằng sự sống của thân nho. Như bánh rượu tan hoà vào trong máu thịt trở nên thành phần của bản thân ta. Như bản tính Thiên Chúa kết hợp với bản tính loài người trong bản thân Người. Đi trong Người để ta ở trong Người như Người ở trong Chúa Cha. Đi trong Người để ta mang hình ảnh của Người, để ai thấy ta cũng như thấy Người, như “Ai thấy Thầy là thấy Cha Thầy”.

Chúa Giêsu là đích tới của con đường.

Đi trong Chúa Giêsu là một hành trình dài. Đi suốt cả đời chưa chắc đã tới.

Để đi trong Chúa Giêsu ta phải từ bỏ hết những gì của bản thân mình, kết hiệp trọn vẹn với Người, cũng như Người đã từ bỏ ý riêng để hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha, để trở nên một với Chúa Cha.

Khi đã hoàn toàn từ bỏ hết ý riêng và trở nên một với Người cũng là lúc ta đạt tới đích điểm, là lúc ta gặp được Chúa Cha, là lúc ta ở trong Nhà Cha, là lúc ta đạt tới Quê Hương yêu dấu trên trời.

Lạy Chúa Giêsu là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, xin cho con biết đi trong con đường của Người.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Bạn hãy thử tìm ra những đặc điểm của con đường Giêsu (Vd: hiền lành, khiêm nhường…)

2) Bạn còn xa hay đã gần con đường Giêsu?

3) Bạn có mong đi trọn vẹn trong con đường Giêsu không? Nếu muốn, bạn cần những điều kiện nào nữa?

 

 

 

 

 

5. Đường đi có Chúa

 

Thưa anh chị em,

Chúa nhật thứ V Phục Sinh hôm nay Chúa Giêsu trả lời cho Tông đồ Tôma, khi ngài hỏi làm sao biết đường mà đi theo Chúa: "Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy" (Ga 14,6). Như vậy chính Chúa Giêsu là con đường dẫn chúng ta đến với Thiên Chúa, là ơn cứu độ duy nhất mà Thiên Chúa ban tặng cho trần gian, là con đường đưa chúng ta đến hạnh phúc viên mãn; bởi vì ở đâu có Thiên Chúa, ở đấy chính là thiên đàng.

Vậy làm sao chúng ta có thể đi trên con đường là Chúa Giêsu hay làm sao chúng ta có Chúa đi cùng trong cuộc hành trình đời người của mình?

Như chúng ta đã biết mọi con đường đều dẫn đến một nơi nào đó, dù đó là đường mòn, đường đất, đường nhựa hay đường sông, đường biển. Không có đường thì không thể đi đến nơi mình muốn được. Và để thực hiện chuyến đi, chúng ta sử dụng nhiều phương tiện khác nhau: đi bộ, đi xe máy, đi máy bay, đi bằng ghe, tàu..v.v..

Chúa Giêsu hôm nay chỉ cho chúng ta biết Ngài chính là con đường dẫn ta tới Chúa Cha, vì Người là sự thật, là hình ảnh Chúa Cha trong thế gian. Chính vì vậy, Người cũng là sự sống, nguồn thông ban ơn Thần Khí, là chính sự sống của Thiên Chúa cho những ai lớn lên trong Người là các kẻ tin. Cho nên Chúa Kitô là con đường duy nhất dẫn chúng ta đến với Chúa Cha mà không sai lầm. Có Chúa Kitô là có Thiên Chúa, mà Thiên Chúa ở đâu thì thiên đàng, hạnh phúc thật cũng ở đấy.

Xác định được như thế, chúng ta tự vấn xem mình đang đi trên con đường nào: con đường của Chúa hay con đường riêng của chúng ta, vắng bóng Thiên Chúa.

Có con đường đam mê những thú vui trần thế, lo tìm thú vui xác thịt, sống chỉ để thoã mãn những khát vọng nhục dục, những nhu cầu ích kỷ của chính mình, không bận tâm đến tha nhân và những lý tưởng cao đẹp.

Có con đường chỉ mong kiếm tìm những lợi lộc trần thế. Cuộc sống chạy theo những gì là có lợi cho mình. Lợi thì làm, không lợi thì thôi. Bế tắc. Bởi vì con con người còn có niềm vui lớn hơn, khi sống cho những giá trị tâm linh.

Có con đường chỉ biết giành giật chổ đứng trong xã hội. Mục đích chỉ là sống sao cho hơn người, được người đời trọng vọng, ca tụng..hay cho rằng con người có khả năng giải quyết mọi sự, mà quên rằng tất cả đều là ơn ban của Thiên Chúa. Sức người có hạn. Cuộc sống mỏng dòn. Con người không thể tự mãn về chính mình được.

Con đường có Chúa là con đường chăm chăm hướng về Chúa là mục đích đời mình. Sống vâng phục tin tưởng như Abrahma, như Mẹ Maria. Cùng đồng hành với Chúa như hai môn đệ Emmau. Sống như "thấy Đấng vô hình" đang hiện diện bên mình.

Để con đường cuộc đời chúng ta luôn luôn có Chúa, cần liên lỉ cầu nguyện xin Chúa thêm lòng tin cho chúng ta. Cần năng chạy đến các Bí tích để hưởng nhờ ơn trợ lực nâng đỡ của Chúa, nhất là Bí tích Thánh Thể, để có Chúa trong tâm hồn.

Lạy Chúa, cuộc đời có Chúa cùng đi, con an tâm vui bước!

 

 

 

 

 

6. Xin cho chúng con thấy Chúa Cha

(Trích trong ‘Manna’)

 

Suy Niệm

Ông Philipphê xin với Thầy Giêsu: "Xin cho chúng con thấy Chúa Cha" (Ga 14,8).

Khao khát của ông cũng là khao khát của biết bao người, những người thiện chí không ngừng tìm kiếm Thiên Chúa, Đấng mà họ gọi bằng những tên khác nhau: Đấng Tối Cao, Đấng Tuyệt Đối, Đấng vượt trên mọi danh...

Con người muốn bắc một nhịp cầu với Đấng siêu việt, muốn có cảm nghiệm và tương quan với Tạo Hóa.

Thiên Chúa đã đáp lại khát vọng Ngài gieo nơi lòng người khi cho Con Một Ngài làm người, ở giữa chúng ta.

Nơi Đức Giêsu Kitô, chúng ta gặp được Thiên Chúa, dễ gần, dễ thấy, dễ quen.

Thiên Chúa đâu chỉ ở nơi cao thẳm ngàn trùng, Thiên Chúa hiện diện nơi con người Đức Giêsu khiêm hạ. Giữa Ngài và Thiên Chúa Cha có một gắn bó lạ lùng đến nỗi Đức Giêsu dám nói: "Ai biết Thầy là biết Cha" (14,7) "Ai thấy Thầy là thấy Cha" (14,9) vì "Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy" (14,10).

Lời nói và việc làm của Đức Giêsu chính là lời nói và việc làm của Thiên Chúa (14,10). Toàn bộ cuộc đời Đức Giêsu được Cha chiếm ngự. Ngài như tấm gương trong suốt, phản chiếu khuôn mặt và trái tim Thiên Chúa, đầy nhân ái và bao dung với hết mọi người.

Làm Kitô hữu là làm người như Đức Giêsu Kitô, là trở nên một Giêsu khác cho con người hôm nay, là ước ao nói được rằng: "Ai biết tôi là biết Đức Kitô, ai thấy tôi là thấy Đức Kitô."

Như thế cũng là biết và thấy Thiên Chúa.

"Xin cho chúng con thấy Chúa Cha"

Xin dẫn chúng con đến gặp Thiên Chúa Cha.

Đức Giêsu không phải chỉ là người đưa đường dẫn lối; Ngài tự nhận mình là Con Đường, thậm chí là Con Đường độc nhất dẫn đến Cha: "Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy" (14,6). Mọi con đường cứu độ đều phải đi vào Con Đường Giêsu.

"Thiên Chúa không ban một danh nào khác dưới bầu trời,

để nhờ danh đó mà chúng ta được ơn cứu độ" (Cv 4,12).

Nhân loại được cứu độ nhờ Danh Đức Giêsu, kể cả những ai không biết Ngài - tuy không do lỗi của họ - nhưng đã sống theo những đòi hỏi của lương tâm.

Đức Giêsu đã về với Chúa Cha trong vinh quang phục sinh, sau khi đã sống một đời yêu thương tự hiến. Cuộc đời Đức Giêsu trở thành con đường cho chúng ta đi.

Khi chiêm ngắm Ngài trong Tin Mừng, chúng ta biết mình phải nghĩ gì, nói gì, làm gì.

Khi đi vào Con Đường Giêsu, chúng ta cũng trở nên nẻo đường cho con người hôm nay, nẻo đường dẫn đến Giêsu.

Gợi Ý Chia Sẻ

1. Người ta thường nói đạo nào cũng như đạo nào, đạo nào cũng dạy ăn ngay ở lành. Còn bạn, tại sao bạn là Kitô hữu? Đức Giêsu có gì đặc biệt khiến bạn chọn theo?

2. Có khi nào bạn thấy mình bị lạc hướng không? Cách sống của Đức Giêsu trong Tin Mừng có khi nào giúp bạn tìm thấy hướng giải quyết không?

Cầu Nguyện

Lạy Cha, Cha muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý, chân lý mà Cha đã bày tỏ nơi Đức Giêsu, Con Cha.

Xin Cha nhìn đến hàng tỉ người chưa nhận biết Đức Giêsu, họ cũng là những người đã được cứu chuộc.

Xin Cha thôi thúc nơi chúng con khát vọng truyền giáo, khát vọng muốn chia sẻ niềm tin và hạnh phúc, niềm vui và bình an của mình cho tha nhân, và khát vọng muốn giới thiệu Đức Giêsu cho thế giới.

Chúng con thấy mình nhỏ bé và bất lực trước sứ mạng đi đến tận cùng trái đất để loan báo Tin Mừng.

Chúng con chỉ xin đến với những người bạn gần bên, giúp họ quen biết Đức Giêsu và tin vào Ngài, qua đời sống yêu thương cụ thể của chúng con.

Chúng con cũng cầu nguyện cho tất cả những ai đang xả thân lo việc truyền giáo.

Xin Cha cho những cố gắng của chúng con sinh nhiều hoa trái. Amen.

 

 

 

 

 

7. Lưu giữ Kỷ niệm sống động về Đức Giêsu

(Suy niệm của Daniel J. Harrington. SJ. – Văn Hào SDB, chuyển ngữ)

 

“Ai thấy Thầy là thấy Cha” (Ga 14,9).

Vào phần 2 mùa Phục sinh, những câu hỏi chính được đặt ra cho mọi người: “Làm sao lưu giữ được những kỷ niệm sống động về Đức Giêsu? - Làm sao để những công việc Đức Giêsu đã thực hiện và khơi mào trước đây, được tiếp nối sau khi Ngài chết và trở về với Chúa Cha?”. Để trả lời những câu hỏi này, chúng ta hãy trở về với những chỉ dẫn nơi bài huấn từ của Đức Giêsu trong bữa tiệc ly mà Thánh Gioan đã ghi lại (Ga 14,17). Bối cảnh của bài diễn từ này nằm trong bữa tối cuối cùng với các môn đệ, trước khi Chúa Giêsu thọ nạn. Đức Giêsu đã nhắn gửi những học trò thân thiết của mình, cách thức lưu giữ những kỷ niệm về Ngài và thực hiện sứ mạng Ngài trao phó. Những chỉ huấn này vẫn  thức thời và luôn mang tính thời sự cho Giáo hội trong mọi thời đại, đặc biệt cho chúng ta ngày hôm nay.

Khởi đầu bài diễn từ, Đức Giêsu và các môn đệ đã trò chuyện với nhau. Trong mẩu đối thoại đó, Ngài đưa ra một khẳng quyết. Một môn đệ  đã bình phẩm,  hiểu sai điều  Chúa giáo huấn.Vì thế, Chúa  Giêsu đã nói những lời dạy bảo rõ nét hơn và tích cựu hơn về chính Ngài.

Trong bài Tin Mừng hôm nay trích trong Gioan chương 14, Đức Giêsu thoạt đầu nói về việc đi dọn chỗ cho các môn đệ, và chỉ cho các ông đâu là lối đường đưa họ đến  đó. Tôma cắt ngang và hỏi Chúa, “Chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao biết được đường đi”. Đức Giêsu trả lời, chỗ đó chính là tình trạng “chúng ta được sống với Chúa Cha”, và “Ngài chính là con đường đi, là sự thật và là sự sống”.

Rồi đến lượt Philip,  Ông ta nói với Chúa là hãy cho họ thấy Chúa Cha, và điều đó cũng đủ rồi. Điều này không giản đơn, có gì đó xem ra có vẻ ngô nghê và hơi khó chịu. Tuy nhiên, yêu cầu của Philip đã khiến đức Giêsu truyền đạt cho các học trò của mình nhãn quan sâu xa nhất và thâm thúy nhất được diễn đạt trong suốt Tin mừng của Thánh Gioan. “Ai thấy Thầy là thấy Cha”. Sứ điệp mà Gioan nhắm tới, là trình bày Đức Giêsu vừa như là người khải thị về Chúa Cha, vừa là hiện thân của chính Chúa Cha. Nếu ta muốn biết Thiên Chúa là ai, Thiên Chúa nghĩ gì, và Thiên Chúa muốn gì nơi ta, chúng ta phải đến với đức Giêsu, Ngôi Lời của Chúa Cha.

Đức Giêsu chính là “Lời” của Thiên Chúa được gởi trao cho con người, nên những gì chúng ta biết và nhớ về Ngài, sẽ trở nên rất quý báu. Bởi lẽ khi chúng ta biết  Đức Giêsu là chúng ta biết  Chúa Cha. Đối với chúng ta là những kẻ tin, cũng như đối với toàn thế Hội Thánh, việc cần thiết phải làm là lưu giữ những kỷ niệm về Chúa Giêsu cho thật sống động. Chúng ta làm được điều đó, bằng việc đọc và gẫm suy Lời Chúa, bằng việc cùng nhau cử hành Thánh Thể để tưởng nhớ đến đức Giêsu, bằng việc thực hành những truyền thống đức tin của Hội Thánh, và cùng nhau sống theo những chỉ dạy khôn ngoan của chính Ngài. Những kỷ niệm về đức Giêsu sẽ đưa dẫn chúng ta hướng về giá trị cao quý của cuộc sống làm người, sẽ giúp chúng ta loại trừ những hành vi sai trái, sẽ làm cho chúng ta ý thức tầm quan trọng của một tình yêu vị kỷ, biết yêu thương cả những kẻ thù, sẽ công bố cho mọi người biết rằng chết không phải là hết, và sẽ giúp chúng ta xác tín rằng trong Đức Giêsu, tình yêu và sự sống sẽ chiến thắng hận thù và cái chết.

Giữ mãi kỷ niệm về đức Giêsu cho thật sống động, là một thách đố lớn nhất cho chúng ta trong mùa Phục sinh. Về vấn đề này, Giáo hội  với những định chế của mình đóng một vai trò chủ đạo và quan trọng. Bài đọc ngày hôm nay trong sách Công vụ tông đồ chương 6, cho chúng ta thấy được các Kitô hữu buổi sơ khai đã áp dụng những định chế cụ thể. Trường hợp các bà góa trong xã hội theo văn hóa Hy Lạp ngày xưa thời giáo hội sơ khai, là một ví dụ. Để giải quyết, nhóm 12 tông đồ đã chỉ định 7 người Hy Lạp (có lẽ là phó tế?) để chăm sóc cho họ và cho những người khác. Sự kiện này cho thấy Giáo hội ban đầu đã thiết định những quy chế để áp dụng, và Giáo hội vẫn giữ mãi những kỷ niệm về Chúa Giêsu cách sống động. Kết quả là Lời của Chúa vẫn tiếp tục được tỏa rộng.

Trong thân thể mầu nhiệm đức Kitô, chúng ta được chuyển giao để thủ đắc một căn tính mới và một phẩm giá mới. Các Kitô hữu gốc dân ngoại, được nói tới trong thơ thứ nhất của Thánh Phêrô, vẫn bị coi như là nhửng người bị gạt ra bên ngoài, trên phương diện chính trị và xã hội. Nhưng Thánh Phêrô đã mặc cho họ một tước hiệu ấn tượng nhất như tước hiệu dành cho dân Israel thời cựu ước. Qua phép rửa nhân danh Đức Giêsu, họ trở thành “Một dân được tuyển chọn, thuộc hàng tư tế vương giả, chủng tộc thánh thiện, là dân riêng của Chúa”. Công việc của họ bây giờ là làm chứng tá về đức Giêsu, như một viên đá sống động, bị con người loại bỏ nhưng được tuyển chọn và trở nên quý giá trong con mắt của Thiên Chúa. Những con người đã một thời lưu lạc chẳng còn dân tộc, nay đã là dân của Thiên Chúa. Họ kết liên với nhau để cho mọi người biết cách thức Thiên Chúa đã kêu gọi họ thoát khỏi vùng tối tăm đến nơi đầy ánh sánh huy hoàng như thế nào.

Giữ mãi những kỷ niệm về Chúa Giêsu một cách sinh động là bổn phận của mọi Kitô hữu và của cả Hội Thánh. Nếu chúng ta thật sự tin rằng Đức Giêsu là đường, là sự thật và là sự sống, chúng ta sẽ biết khám phá ra những cách thức mới mẻ và đầy sáng tạo để lưu giữ mãi những kỷ niệm sống động về Ngài. Nếu chúng ta thật sự tin rằng “Ai thấy và nghe Đức Giêsu, chính là nghe và xem thấy Chúa Cha”, thì việc lưu tồn những kỷ niệm sống động về Ngài sẽ là một công việc quan hệ nhất và ý nghĩa nhất mà mỗi người chúng ta có thể và phải đem ra thực hành.

 

 

 

 

 

8. Con đường sự sống

 

Có người cho rằng tiền quí nhất, có người cho rằng tình yêu quí nhất hoặc quyền lực, danh vọng quí nhất... Nhưng theo tôi, cái quí nhất chính là sự sống, cho dù có tất cả mọi thứ nhưng khổ nỗi mình đang mắc chứng bệnh ung thư giai đọan cuối thì sao? Chắc chắn sự sống là quí nhất.

Người ta làm tất cả mọi việc chỉ để sống. Nhưng rất tiếc sự sống ở đời này lại quá ngắn ngủi. Vì thế, vua Tần Thủy Hoàng đi tìm thuốc trường sinh bất tử, vì ông ta muốn có sự sống đời đời. Hôm nay Chúa Giêsu bảo đảm cho chúng ta một cuộc sống vĩnh cửu và hạnh phúc, nếu chúng ta đi trên con đường của Chúa, vì Chúa là đường dẫn chúng ta tới sự sống đời đời. Đối với các nhà thám hiểm, các hoa tiêu, các phi công thì vấn đề phương hướng rất quan trọng! Đi đúng đường, đúng hướng là có hy vọng tới đích, đi lạc đường là nguy hiểm đến tính mạng của mình và của bao nhiêu người khác nữa.

Năm 1989 chiếc phi cơ hàng không dân dụng của Nam Triều Tiên lạc đường vào lãnh thổ Liên Xô. Hậu quả, máy bay bị bắn hạ làm mọi người chết hết. Có đi đúng đường, đúng hướng mới về đích an toàn. Đường dẫn đến sự sống đời đời chỉ có một. Ai tìm được là sống, ai lạc đường sẽ mất sự sống.

Con đường của Chúa đi không trải bằng những thảm hồng và nhung lụa, nhưng là con đường thập giá, đòi hỏi phải hy sinh và từ bỏ. Thường thì ai ai cũng muốn chọn cho mình con đường dễ đi của hưởng thụ, sung sướng cho bản thân, nhưng lại bất chấp mọi điều gian ác, tội lỗi. Người ta sợ đi trên con đường của Chúa vì phải hy sinh và từ bỏ.

Sự sống trường sinh mà Chúa ban cho ta phát xuất từ tình yêu và cái chết đau thương trên thập giá. Thập giá và sự phục sinh không tách rời nhau nhưng gắn liền với nhau. Có con đường thập giá thì mới có con đường phục sinh vinh quang. "Sống là chết mà chết là sống". Sống là từng ngày chết đi con người cũ tội lỗi để trở thành con người mới trong Chúa. Cái chết từng phần mà mỗi ngày chúng ta gọi là hy sinh chính là điều kiện để đạt đến sự sống đời đời. Đó là sự sống của chính Chúa. Nếu Đức Kitô đã chết và đã sống lại thì chúng ta cũng sẽ chết và sống lại với Ngài.

Trong một xã hội hưởng thụ như ngày nay, cái lợi trước mắt vẫn hơn, vinh hoa phú quí, tiền của, tình dục, dang vọng đang cung ứng cho mình thì mình cứ hưởng thụ, tương lai hậu xét. Nhiều người còn nghĩ rằng; chắc gì có tương lai, có đời sau. Nếu không có đời sau thì những phấn đấu nỗ lực của con người thật vô nghĩa và đáng thương, rốt cuộc rồi cũng chết như con vật sao? Không, chính Chúa Giêsu sống lại là niềm tin và là con đường dẫn chúng ta đến sự sống đời đời. Khi chết rồi chúng ta được gì chứ? Tiền của chăng? danh vọng chăng? Tất cả mọi sự đều là phù vân. Chỉ có chúa là đường dẫn chúng ta đến sự sống đời đời thôi. "Ngay trong đêm nay người ta lấy linh hồn ngươi thì tất cả những của cải ngươi tích trữ sẽ về tay ai".

Là người Kitô hữu, tôi tin rằng có Chúa Giêsu là đường dẫn tôi đến sự sống đời đời, vậy niềm tin này thúc bách tôi có thái độ sống thích hợp hơn, hãy coi ngày hôm nay là ngày cuối đời. Cuộc sống đời này vẫn tốt đẹp và hạnh phúc nhưng nó không phải là điểm dừng của chúng ta. Đời sau có được hạnh phúc trên thiên đàng hay phải trầm luân trong hỏa ngục là tùy cách sống hiện tại của mọi người.

Vậy ngay từ bây giờ, chúng ta hãy bám lấy Chúa Giêsu là đường dẫn chúng ta đến sự sống đời đời. Để được như vậy chúng ta nên áp dụng phương châm sau đây: tạo vật nào đưa chúng ta đến với chúa thì chúng ta sử dụng, ngược lại tạo vật nào ngăn cản chúng ta đến với Chúa thì ta không dùng nó".

Thế thì để có một cuộc sống trường sinh bất diệt chúng ta cần phải làm gì? Tôi thiết nghĩ chẳng có cách nào hơn là chúng ta phải sống theo đường lối của Chúa dạy: đó là mến Chúa và yêu người. Mến Chúa qua việc giữ những điều Chúa dạy, siêng năng tham dự thánh lễ, lãnh nhận các bí tích...Yêu người được thể hiện qua cuộc sống hằng ngày yêu thương người nghèo đó là điều kiện để chúng ta được sự sống đời đời.

Chúa không cần chúng ta làm những việc to tát, nhưng là những việc rất nhỏ, tầm thường với một tình yêu chân thành.

Lạy Đức Kitô phục sinh, Ngài là đường để con bước đi, là sự thật để con tín thác, là sự sống để con no thỏa, và là điểm hẹn để con gặp gỡ trong niềm vui muôn đời.

Tin vào sự phục sinh của Chúa cũng chính là tin vào sự phục sinh của con, để con không quản ngại trên đường thập giá, không nao núng dấn thân cho sự thật, không sợ chết đi cho sự sống. Amen.

 

 

 

 

 

9. Suy niệm của Barbara E. Reid

(Barbara E. Reid, nữ tu Đa Minh, giáo sư môn Tân Ước tại Đại học Công giáo ở Chicago. Bà cũng là trưởng khoa và là phó viện trưởng tại trường đại học này. – Văn Hào SDB, chuyển ngữ)

 

“Tâm hồn anh em đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và cũng hãy tin vào Thầy” (Ga 14,1)

Có nhiều người được phú ban khả năng đặc biệt. Đó là, họ vẫn giữ được bộ dạng thanh thản, an bình, ngay cả trong những thời điểm khốn khó nhất. Họ không có vẻ căng thẳng hay cảm thấy phiền toái, dù bên trong họ vẫn phải đắng lòng gánh lấy những bầm dập và nghiệt ngã. Không phải chỉ vì họ là những con người lạc quan, biết nhìn ra những khía cạnh tích cực trong mọi trạng huống. Cũng không phải vì họ biết khôn khéo giải quyết sự việc khi nhìn vào những khổ đau hoặc bất công người khác phải gánh chịu  sau đó được minh oan. Nhưng trên hết, niềm vui sẽ được hiện lộ ra bên ngoài rõ ràng khi họ biết nhìn thực tại bằng một cặp mắt cắm sâu trong niềm hy vọng, và hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa. Họ có thể biểu tỏ trạng huống tâm hồn họ theo cách thức sâu xa mà Đức Giêsu đã khuyến mời các môn đệ thực hành trong bài Tin Mừng hôm nay: “Tâm hồn anh em đừng xao xuyến”. Bạn có bao giờ gặp những con người như vậy không? Hay có thể chính bạn là con người như thế?

Trong Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu không chỉ khuyên mời các học trò của mình hãy để tâm hồn của họ tĩnh lặng, đừng lo lắng, nhưng Ngài còn vạch dẫn cho họ cách thái để đạt được điều ấy. Bối cảnh câu chuyện xảy ra trong bữa tiệc ly, các môn đệ có nhiều lý do khiến họ lo âu, buồn sầu. Đức Giêsu  nói với họ về viễn cảnh sẽ đi xa, xa thật xa, sẽ bị trao nộp, và sẽ bị phản bội bởi hai người bạn thân tín nhất. Các môn đệ nhốn nháo hỏi nhau, Ngài sẽ đi xa, nhưng đi đâu? Làm sao họ biết con đường Ngài đi để có thể cùng đi với Ngài. Tin mừng Marcô đề cập đến vấn đề “ Ai” sẽ là người phản bội (2,7; 4,41; 8,29). Nhưng trong Tin mừng Gioan, trọng tâm của khúc mắc là chuyện đó xảy ra “ở đâu”. Người môn đệ được Đức Giêsu trao quyền hành lớn nhất tức Phêrô, muốn biết “Thầy ở đâu” (Ga 1,38). Đức Giêsu biết Ngài từ đâu đến và sẽ đi về đâu, nhưng những kẻ thù của Ngài không biết (Ga 7,27; 8,14; 9,29). Trước tòa án, Philatô tra hỏi, muốn biết Chúa Giêsu từ đâu đến (19,9). Khi đến ngôi mộ trống, Maria Madalêna cũng bộc bạch sự lo lắng “Chúng tôi không biết họ để Người ở đâu” (Jn 20,2; 20,13).

Xuyên suốt Tin mừng của Thánh Gioan, ý niệm “ở đâu” không mang ý nghĩa một nơi chốn không gian, nhưng là trạng huống con người kết hợp sâu xa với Đức Giêsu, trong đó họ được nghỉ ngơi trong Chúa và tin vào Ngài. Đức Giêsu cũng muốn những kẻ tiếp bước theo Ngài sống theo cách thức mà Ngài đã sống, là luôn kết hợp với Chúa Cha, như Ngài đã nói “Cũng như Cha ở trong con và con ở trong Cha, để họ cũng vui hưởng được ở trong Cha, và ở trong chúng ta” ( Ga 17,21). Có lần Đức Giêsu còn minh giải thêm “Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở và Ngài còn cắt nghĩa rõ hơn “Thầy đi để dọn chỗ cho anh em” (Ga 14,2). Nhiều Kitô hữu phác vẽ một viễn cảnh về một nơi ở trên trời, nơi Đức Kitô đã chuẩn bị sẵn môt “căn hộ năm sao” cho những ai trung thành bước theo Ngài. Nơi ở mà Chúa Giêsu nói đến không phải vậy, nhưng chính là tình trạng kết hợp sâu xa với Ngài. Đó vừa là một thực tại hiện sinh, vừa là một động thái sâu xa hướng về sự viên toàn vào thời cánh chung.

Đây không phải là điều chúng ta dễ dàng lãnh hội được, cũng không phải là một cuộc hành trình giản đơn. Tuy nhiên, theo một nghĩa khác, có một điều khá đơn giản: Đức Giêsu chính là con đường đi. Trong Tin mừng Gioan, Thánh Tôma luôn là đại biểu cho những người hay chất vấn và nghi ngờ, đã lên tiếng “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường đi?” (câu 5) Không biết đường đi, là một cách biểu lộ dễ nhất của một người muốn đứng ngoài cuộc. Philip đã đưa ra một chiến thuật khác để đối kháng “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, thế là đủ cho chúng con” (câu 8). Ông ta bày tỏ ước muốn chỉ cần nhìn thấy Đấng mời gọi chúng ta sống kết hợp sâu tận với Ngài, thế thôi, giống như chỉ cần nhìn thấy căn phòng khách sạn rẻ tiền đã trang bị sẵn đồ đạc để ta đến trú ngụ, không cần điều gì khác. Dù chúng ta không biết cách thâm nhập vào cõi lòng đầy an bình của Thiên Chúa, nhưng chúng ta đã gặp được Đức Giêsu, thấy được vẻ thần linh, kín nhiệm của Thiên Chúa nơi Ngài. Tin Ngài và dấn bước theo Ngài, ngay cả khi trực diện cái chết, tâm hồn chúng ta sẽ trở nên tĩnh lặng và an bình, không còn xao xuyến, giống như một đứa bé thơ chẳng lo âu, đang ngủ yên trong vòng tay của mẹ nó (Tv 131,2)

 

 

 

 

 

10. Cuộc đời là một chuyến đi

(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)

 

Người ta nói cuộc đời là một chuyến đi. Có chuyến đi dài. Có chuyến đi ngắn. Có chuyến đi đến vô tận. Chuyến đi nào cũng có thể gặp người ta yêu nhưng cũng có thể phải chia tay và bỏ họ lại phía sau. Chuyến đi nào cũng có niềm vui nhưng cũng có những chuyến đi mang lại nỗi buồn. Vui buồn lẫn lộn trong kiếp người cũng tùy thuộc vào chuyến đi mang theo mục đích gì? Mục đích chuyến đi sẽ quyết định về sự vui buồn trong hành trình của chúng ta.

Càng đi, ta lại càng thêm dẻo dai. Như một lực sĩ, càng chạy, ta càng mềm dẻo để có thể dấn thân vào một chuyến đi mới, vào những cuộc chiến đấu mới. Đi càng nhiều thì đời càng cho ta thêm kinh nghiệm. Thế nhưng, có khi càng đi, con người lại càng thêm buồn đau hơn! Vì thất bại nên thất vọng. Vì không như ý muốn nên chán nản...

Tựu trung trong cuộc đời chúng ta có ba chuyến đi:

1/ Những chuyến đi thể lý:

Đó là những chuyến đi theo nhu cầu tự nhiên của một người bình thường. Nhu cầu công việc. Nhu cầu về thăm quê hương. Nhu cầu thăm nom cha mẹ và anh chị em trong gia đình... Đây là những chuyến đi của bổn phận nhưng đòi hỏi chúng ta vượt lên sự ngại ngùng, lười biếng để dấn thân về phía trước.

2/ Những chuyến đi nhân ái

Có những chuyến đi không phải của bổn phận mà là của tình người chia sẻ, hiệp thông với tha nhân. Có chuyến đi đến với người nghèo để cho họ bữa ăn, hay đến với người bất hạnh để ủi an nâng đỡ họ. Mỗi năm giáo xứ chúng tôi vẫn có chuyến đi thăm người nghèo ở những vùng xa xôi hẻo lánh như Cao Nguyên hay Miền Trung khô cằn. Nhìn nét mặt hân hoan của họ khi nhận quà mà lòng mình cũng hân hoan. Lúc đó mới thấy chuyến đi mình thật ý nghĩa.

3/ Những chuyến đi tâm linh

Sự sống con người không dừng lại ở những chuyến đi thể lý hay nhân ái mà còn có chuyến đi về với cội nguồn là Thiên Chúa, Đấng tạo thành con người. Chuyến đi này xuyên suốt trong những chuyến đi thể lý hay nhân ái. Chính chuyến đi này làm cho những gánh nặng, những khó khăn trở nên nhẹ nhàng hơn. Ai đã từng đau khổ hay mang gánh nặng nề nếu biết hướng lòng về chuyến đi cùng đích sẽ cảm thấy nhẹ vơi, bình an. Vì sau đêm dài là ánh bình minh. Sau thập giá là vinh quang.

Chúa Giê-su đã từng thực hiện chuyến đi ấy trong suốt cuộc đời Ngài luôn hướng về Chúa Cha, luôn sống trong chờ đợi “Giờ” mà Chúa Cha đã định cho Ngài. Ngài đã sống trọn vẹn một hành trình vâng phục thánh ý Chúa Cha. Cho dầu đó là thập giá đau thương, Ngài vẫn đón nhận trong niềm tín thác nơi Cha.

Sau cuộc hành trình đầy thương khó, Ngài đã về Trời để lãnh triều thiên vinh quang. Ngài đã bước qua thập giá để tiến tới vinh quang Phục sinh.

Hôm nay Ngài bảo: “Ngài về cùng Chúa Cha”. “Ngài đi trước để dọn chỗ cho chúng ta. Ngài mong rằng Ngài ở đâu thì chúng ta cũng ở đó với Ngài. Nhưng để có thể ở bên Ngài trong Nước Cha Ngài, chúng ta cũng phải đi trên con đường Ngài đã đi. Con đường của thập giá tiến tới vinh quang. Thập giá trong bổn phận. Thập giá trong sự chia sẻ trách nhiệm với tha nhân. Thập giá trong những hy sinh phục vụ đồng loại. Nhất là thập giá trong hy sinh từ bỏ những quyến luyến tội lỗi, những đam mê lầm lạc để sống theo thánh ý Chúa.

Là người Kitô hữu, chúng ta được mời gọi bước theo con đường Chúa Giê-su đã đi. Đó là con đường đi tìm thánh ý Chúa và thực thi đến hơi thở cuối cùng. Đó không phải là con đường trải thảm rộng thênh thang mà là con đường hẹp, đầy chông gai giăng kín hành trình. Đó là con đường từ bỏ, đường thập giá, đường hiến tế đẫm máu trên đỉnh đồi Calve. Đó là con đường của tình yêu, tận hiến và hy sinh như Thầy Chí Thánh Giêsu. Và như thế, đó chính là con đường duy nhất để chúng ta tiến vào nhà Cha, nơi đó, Chúa Giê-su đã đi trước để dọn chỗ cho chúng ta.

Cuộc đời là một chuyến đi trở về nguồn. Trở về với Thiên Chúa là Cha. Trở về thiên đàng là nơi dành sẵn cho con người. Xin cho chúng ta biết đi theo Con Đường Chúa Giêsu đã đi để tiến về nhà Cha. Xin đừng vì những đam mê bất chính, những thói hư tật xấu, những lười biếng mà lạc mất hướng đi về trời. Xin Chúa Giêsu luôn đồng hành và nâng đỡ chúng ta trên hành trình tiến về nhà Cha. Amen.

 

 

 

 

 

11. Niềm tin vào đời sau – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền

 

Chúa Giêsu đã hứa rằng: "Thầy đi trước để dọn chỗ cho các con, để Thầy ở đâu các con cũng ở đó với Thầy". Đây là một lời hứa thật đẹp. Đẹp vì nó mở ra cho chúng ta một khung trời hy vọng vì ngày mai tốt đẹp hơn. Đẹp vì cuộc sống của chúng ta không đi vào ngõ cụt. Cuộc sống của chúng ta từ nay đã có một lối đi về. Cuộc sống của chúng ta không dừng lại ở cái chết là hết một kiếp người. Cuộc sống vẫn tiếp diễn. Cuộc sống được nối dài vĩnh viễn trong sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa là Cha, là cội nguồn sự sống.

Người ta kể rằng: Có một gia đình kia. Chồng là người ngoại đạo. Ông không tin vào Chúa. Ông còn luôn miệng nhạo báng, khinh miệt những hành vi thờ phượng kính mến Chúa. Ngược lại, bà vợ thì rất sùng đạo, luôn dạy con giữ đạo sốt sắng. Ngày nào bà cũng dắt con đi lễ cầu nguyện. Dù sống giữa hai niềm tin trái ngược nhau, nhưng đứa con trai duy nhất của họ vẫn hiếu thảo với cha mẹ. Cho tới một hôm, em lâm bệnh hiểm nghèo. Em biết rằng mình chẳng còn sống được bao lâu ở dương gian. Em đã mạnh dạn hỏi bố rằng: "Bố ơi, trong ít ngày nữa con sẽ không còn sống ở dương gian nữa! Con xin bố hãy dạy cho con biết, con phải tin theo ai? Theo bố hay theo mẹ? Tin theo bố thì chẳng có thiên đàng để tiếp tục sự sống, chẳng có Chúa hay có Mẹ để yêu thương và bảo vệ cho con được hạnh phúc đời đời? Còn tin theo mẹ, thì có Thiên Chúa là cha nhân lành sẽ ban thưởng hạnh phúc thiên đàng vĩnh cửu và có Mẹ Maria luôn bầu cử chở che.

Ông bố nghe mà tái tê lòng. Ông ôm con vào lòng và nói: "Con hãy tin theo mẹ". Đứa bé lại nói tiếp: "Nhưng nếu bố không tin theo mẹ, thì làm sao con có thể chờ đợi bố ở trên thiên đàng được?" Trước lời nói đơn sơ và chân thành của em bé, ông bố đã không kiềm nổi những giọt nước mắt ứ tràn nơi khoé mắt, và để mặc cho nó tuôn tràn trên gò má già nua của ông. Kể từ ngày đó, ông đã đổi đời, ông chọn Chúa là lẽ sống và là cùng đích của đời mình.

Vâng câu nói: "Con hãy tin theo Mẹ" của người cha là câu nói hay nhất trong cuộc đời của ông. Câu này đã giúp cho con ông cảm thấy thanh thản khi bước vào đời sau. Câu này cũng giúp ông thay đổi đời sống mà từ trước tới nay ông đã cố tình không sống theo. Ông biết rằng phải có đời sau. Ông biết rằng là người thì hơn muôn loài muôn vật, vì con người có sự sống thần linh, con người có hồn thiêng bất tử. Thế nhưng, vì lười biếng và cố chấp ông đã không dám nhìn nhận sự thật từ trong sâu thẳm lòng mình là tin có Trời, có thần thánh, có hồn thiêng và cả đời sau. Ông lừa đối chính mình và lừa dối tha nhân. Hôm nay, ông đã phải nuốt những giọt nước mắt mặn đắng để nói lên sự thật của lòng mình trước mặt đứa con yêu dấu, sắp sửa từ giã ông tiến vào đời sau.

Thực vậy, là người ai cũng tin có đời sau. Là người ai cũng tin có quả phúc. Có thưởng có phạt đời sau. Từ trong sâu thẳm tâm hồn luôn có tiếng nói của Thượng Đế nhắc nhở con người phải sống ngay lành, sống thánh thiện như tình trạng ban đầu là "nhân chi sơ tính bản thiện". Sống đúng theo lề luật tối thượng của Thượng Đế, con người mới được bình an và hạnh phúc. Người khôn ngoan phải biết sống thuận theo ý trời mới được trời chúc phúc cho cuộc sống an khang hạnh phúc. Đạo lý đó đã được cha ông ta gom lại thành đạo lý tam tài: "Thiên thời - Địa lợi - Nhân hòa".

Chúa Giêsu trong tư cách là một con người. Ngài đã luôn tìm kiếm ý Cha trên trời để thực thi. Cuộc sống của Ngài luôn mang hai chiều kích: hướng về Thiên Chúa và hướng về tha nhân. Ngài phục vụ tha nhân để tôn vinh Thiên Chúa. Ngài phụng sự Thiên Chúa qua việc phục vụ nhân loại theo thánh ý Chúa Cha. Có thể nói, Ngài đã sống cả cuộc đời vì yêu thương nhân loại và tôn vinh Chúa Cha. Vì Chúa Cha mà Ngài đã nhập thể làm người. Vì Chúa Cha mà Ngài đã hy sinh chịu chết cho con người được sống dồi dào.

Là người Kitô hữu, chúng ta được mời gọi bước theo con đường Chúa Giêsu đã đi. Đó là con đường đi tìm thánh ý Chúa và thực thi đến hơi thở cuối cùng. Đó không phải là con đường trải thảm rộng thênh thang mà là con đường hẹp, đầy chông gai giăng kín hành trình. Đó là con đường từ bỏ, đường thập giá, đường hiến tế đẫm máu trên đỉnh đồi Calve. Đó là con đường của tình yêu, tận hiến và hy sinh như thầy Chí Thánh Giêsu. Và như thế, đó chính là con đường duy nhất để chúng ta tiến vào nhà Cha, nơi đó, Chúa đã đi trước để dọn chỗ cho chúng ta.

Nguyện xin Chúa Giêsu Phục Sinh luôn đồng hành với chúng ta trong cuộc sống. Xin Người nâng đỡ những yếu đuối của chúng ta. Xin Người chỉ đường dẫn lối để chúng ta luôn tiến bước về nhà Cha trong an bình và thanh thoát với những bận rộn của cuộc sống bon chen hôm nay. Amen.

 

 

 

 

 

12. Nhà Cha – Lm. Giuse Trần Việt Hùng

 

Những điều làm chúng ta lo lắng nhiều trong cuộc sống đời tạm này là tìm kiếm có nhà để ở, có của ăn nuôi dưỡng, có gia đình, bạn bè và bà con thân thuộc chung sống. Chứng kiến cảnh những người vô gia cư sống lang thang nay đây mai đó, chúng ta thấy thật tội! Trong khu vực tôi đang phục vụ, hàng ngày tôi vẫn thấy có nhiều người vô gia cư sống bên lề đường. Một hôm tôi bắt truyện với một người và mới được biết anh là người Việt Nam. Ngày trước, quê ở Saigòn, anh được bảo lãnh sang Hòa Kỳ theo diện con lai. Không may mắn, vợ con từ bỏ và đi sống ở tiểu bang khác. Anh bơ vơ một mình. Quanh năm suốt tháng, với năm ba cái vali và bao bì, anh di chuyển từ chỗ này đến chỗ kia bên lề đường. Tôi không biết anh giải quyết các nhu cầu cá nhân ở đâu. Mùa Hè qua, mùa Đông đến, anh luôn có mặt đó. Anh không xin ăn. Anh đứng hoặc ngồi đó, miệng luôn lẩm bẩm nói điều gì không rõ. Biết rằng anh có bệnh trong người, nhưng hình như anh an phận và không than van trách móc. Tôi nghĩ có lẽ tâm trí của anh không được bình thường lắm. Tôi cũng không thể tưởng tượng nổi làm sao anh có thể sống sót ngoài đường sương gió tuyết lạnh và nóng nảy quanh năm suốt tháng như vậy. Anh không có nhà để về, không có nơi để ở và không có chốn để dung thân. Chính anh lại không muốn vào ‘shelter’ chỗ sống chung dành cho người vô gia cư. Thật đáng thương! Thân phận một đời người. Tôi chẳng giúp được gì cho anh.

Chúng ta dù có đi đâu, rồi cũng mong về nhà. Nhà là tổ ấm của yêu thương. Ai ai cũng mong có một mái nhà để được đùm bọc sinh sống. Dù là mái tranh nghèo, nhưng cuộc sống ấm áp là đủ. Người ta thường nói: Hai trái tim vàng, một túp lều tranh là thế. Thật là lý tưởng và đơn sơ. Trong thực tế cuộc sống văn minh ngày nay, hình như sự đòi hỏi các phương tiện và nhu cầu cuộc sống cao hơn nhiều. Nhưng chúng ta biết rằng nhà to hay nhỏ không quan trọng, điều cần thiết là có mái nhà. Nhà là nơi mọi thành viên trong gia đình có thể qui tụ và vui hưởng hạnh phúc bên nhau. Chúng ta đang trong cuộc lữ hành trần thế, chúng ta chỉ có thể sống tạm nơi đây một thời gian. Đôi khi, vì nhu cầu cuộc sống, chúng ta đã chuyển đổi từ nơi này tới nơi khác nhiều lần. Cho nên các ngôi nhà dù có xây cất kiên cố, cũng không thể giữ chân của chúng ta tại một chỗ. Chúng ta luôn phải đi kiếm tìm cuộc sống tươi đẹp hơn. Ai cũng như ai, cuộc đời con người bước tới và phát triển mỗi ngày. Dù nhà có sang có đẹp, rồi một ngày nào đó, mỗi người chúng ta đều phải giã từ.

Niềm tin hy vọng của con người trên trần thế có cùng đích và có nơi để về. Chúa Giêsu sau khi phục sinh từ cõi chết, Ngài đã mạc khải cho các môn đệ: Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở, nếu không Thầy đã nói với các con rồi; Thầy đi để dọn chỗ cho các con (Ga 14,2). Chúa Giêsu đi trước để dọn chỗ cho chúng ta. Còn gì hạnh phúc hơn. Chúng ta biết chắc chắn là sẽ có đường để đi theo và có nhà để tới. Chúa Giêsu mở một chân trời mới đáp ứng mọi ngưỡng vọng của đời người. Có người ví đời người như cánh bèo trôi, lênh đênh dòng nước, khi trôi khi dừng, lững thững theo dòng nay đây mai đó và cuối cùng tàn rụi. Nhưng người có niềm tin vào Thiên Chúa là có niềm hy vọng. Đời tạm này sẽ đi qua và cuộc đời trần thế sẽ kết thúc, nhưng hồn thiêng sẽ sống mãi. Chúa Giêsu đã hứa sẽ trở lại đón chúng ta về nhà Cha. Ngày hạnh phúc đó, xác hồn kết hợp trong một cuộc sống mới và nơi đó không còn bóng dáng sự chết.

Chúa Giêsu đã dọn cho chúng ta có chỗ dung thân đời đời. Nhưng để tìm đạt cùng đích của cuộc đời, chúng ta không thể đi con đường nào khác ngoài con đường Chúa Giêsu đã vạch ra. Chúa nói: Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy (Ga 14,6). Con đường dẫn tới sự sống viên mãn là con đường sự thật. Chúa Giêsu đến trần gian là để làm chứng cho sự thật. Có rất nhiều người chưa hiểu biết sự thật là chi? Sự thật là Chúa Kitô, Con Thiên Chúa giáng thế làm người và đã hy sinh thân mình để cứu độ chúng sinh. Chúa Kitô là sự thật tuyệt đối. Sự thật của Chúa sẽ giải thoát chúng ta khỏi mọi điều bất chính. Sự thật thì đơn sơ, trong sáng và thanh khiết. Chúa Thánh Thần chính là Thân Chân Lý. Muốn học biết sự thật, chúng ta phải biết hướng thiện và tìm về nguồn cội rễ của sự hiện hữu. Thiên Chúa Cha đã mạc khải sự thật qua chính Con Một của Người. Chúng ta chỉ có thể đến với Chúa Cha qua Đức Kitô.

Ngay sau khi Chúa Giêsu về trời, các tông đồ đã ra đi làm nhân chứng. Công việc chính yếu của các ngài là: Còn chúng tôi, thì sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ lời Thiên Chúa (Tđcv 6,4). Sứ vụ của các tông đồ là cầu nguyện và rao giảng. Các tông đồ đã nhiệt tâm và hăng say rao giảng tin mừng Chúa Kitô phục sinh và đón nhận các tín hữu. Đặt nền tảng và xây dựng Giáo Hội sơ khai. Tuy phải đối diện với nhiều khó khăn cả về mặt tôn giáo và xã hội, các ngài đã can đảm vượt qua mọi gian khổ để mở mang Nước Chúa: Lời Chúa lan tràn và số môn đồ ở Giêrusalem gia tăng rất nhiều. Cũng có đám đông tư tế vâng phục đức tin (Tđcv 6,7). Giáo hội mở rộng cửa và có rất nhiều người đã ăn năn sám hối trở về gia nhập đạo thánh. Hình thành tổ chức của Đạo Công Giáo thời sơ khai là do chính các người Do-thái. Họ đã giơ tay xin đóng đinh Chúa Giêsu vào thánh giá, nay trở thành môn đệ của Chúa. Một số các vị tư tế xin giết Chúa, nay cũng tin nhận Chúa Kitô phục sinh và ăn năn sám hối đổi đời.

Niềm tin vào Chúa Kitô là căn cốt của ơn cứu rỗi: Vậy vinh dự cho anh em là những kẻ tin; nhưng đối với những người không tin, thì tảng đá mà thợ xây loại bỏ, đã trở thành đá góc tường (1Petr 2,7). Chúa Kitô trở thành tảng đá góc của niềm tin. Chúa Kitô là tất cả, là đầu hết và là cùng đích. Mọi sự đều qui phục dưới chân Người. Các tông đồ đã nhờ Danh của Đức Kitô làm mọi sự lạ lùng: Thật, Thầy bảo thật các con: Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm những việc Thầy đã làm. Người ấy còn làm được những việc lớn lao hơn, vì Thầy về với Cha (Ga 14,12). Chúa Giêsu trao ban trực tiếp cho các tông đồ quyền giảng dậy, làm các phép lạ và xua trừ ma quỉ. Biết rằng, không thể cáng đáng mọi công việc, các tông đồ đã tuyển chọn và đặt tay cầu nguyện trên những người cộng tác tiếp tục sứ mệnh. Ân sủng của Chúa Kitô là kho tàng chung của Giáo Hội được kế thừa qua mọi thời.

Thánh Phêrô tràn đầy sinh lực của Chúa Thánh Thần đã mạnh dạn công bố tin mừng và xác tín điều giảng dậy: Còn anh em là dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân tộc thánh thiện, dân riêng của Chúa, để rao giảng quyền năng của Đấng đã gọi anh em ra khỏi tối tăm mà vào ánh sáng kỳ diệu của Người (1Pr 2,9). Chính nhờ Chúa Kitô, cùng với Chúa Kitô và trong Chúa Kitô, các tín hữu trở thành dân riêng được tuyển chọn. Qua Bí tích Thanh Tẩy, mỗi người được trở nên tạo vật mới, được tháp nhập vào nhiệm thể Chúa Kitô và được chung phần gia nghiệp mà Chúa đã dọn sẵn cho. Chúa Kitô là trưởng tử đã sống lại từ cõi chết và đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Ngài đã chuẩn bị sẵn chỗ cho chúng ta trong Nhà Cha của Ngài.

Lạy Chúa, hôm nay là ngày Chúa đã dựng nên, chúng ta hãy mừng rỡ hân hoan. Chúng ta hãy sống niềm vui phục sinh ngay khi còn đang lữ hành dưới thế. Xin cho chúng con luôn biết dõi theo con đường chính thật để đạt tới sự sống đời đời.

 

 

 

 

 

13. Đường Giêsu, Đường con đi

(Trích trong ‘Với Cả Tâm Tình’ – ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống)

 

Trong những ngày đầu tháng 02 năm 1990, có một con đường ở huyện ngoại thành đã được báo chí làm cho nổi tiếng. Con đường ấy một đầu là giăng ngang biểu ngữ khai trương phòng vật lý trị liệu trá hình, còn đầu kia là sừng sững một khách sạn mini sang trọng làm nhà riêng của người biển thủ, chức danh là giám đốc. Con đường ấy chợt nổi tiếng vì những vụ tai tiếng.

Từ hai mươi thế kỷ nay, trong Giáo Hội, người ta biết có một con đường thật danh tiếng và luôn luôn nổi tiếng. Con đường ấy mở ra bằng một tình thương và kết thúc bằng một hạnh phúc. Con đường ấy trải dài tin yêu để lâng lâng vươn lên sự sống. Con đường ấy thấp sáng hy vọng để dẫn tới Nhà Cha trên trời. Đường mở về miên viễn, Đường dẫn đến vĩnh hằng. Đó là đường mang tên Chúa Giêsu.

1. Đường hy vọng tin yêu.

Nếu có một câu hỏi được các Tông đồ đặt ra nhiều nhất thì đó phải là câu hỏi thuộc về nơi chốn. “Thầy ở đâu?” là câu hỏi của Gioan đặt ra trong lần đầu gặp gỡ, để được gọi đến xem và bước vào ơn gọi; “Thầy muốn chúng con dọn lễ Vượt Qua ở đâu?” là câu hỏi của các Tông đồ đặt ra để có được địa chỉ chính xác cho Bửa Tiệc Ly; và hôm nay lại là Tôma nôn nóng bật ra câu hỏi “Thầy đi đâu?” trước một tương lai vẫn còn ẩn khuất.

Bận tâm về nơi chốn là bởi vì trong đời theo Chúa, các ông luôn được dẫn vào những cuộc hành trình, mà cuộc hành trình cuối cùng là tiến về Giêrusalem để chứng kiến Thầy mình chịu chết. Có khối ông đã coi đây là con đường thất bại của Chúa để trở thành con đường thất vọng của mình. Mấy năm dài miệt mài theo Chúa những mong có ngày tả hữu vinh quang, nào ngờ Người lại bị đóng đinh như tên tử tội. Công dã tràng! Khi mọi vốn luyến hy vọng đặt cả vào canh bạc cuộc đời, rồi bổng dưng lật ngữa trắng tay, người ta như rớt từ trên cao quay cuồng chao đảo. Thế mới hay ước vọng thì rộng lớn nhưng khung đời lại chật hẹp mà thực tế lại phũ phàng!

“Thầy đi đâu?” Ẩn sâu dưới câu hỏi ấy là một tâm trạng hoang mang trước một quá khứ vứa mới khép lại mà tương lai chưa kịp mở ra. Tương lai ấy mới mẻ hay chỉ là quá khứ đươc lặp lại ở thì sẽ đến? Đã một lần vỡ mộng, các Tông đồ băn khoăn là chuyện thường tình. Giống như đứa trẻ lỡ một lần phải bỏng, hễ thấy lửa là tự nhiên rụt tay lại. Vì thế, nghe trong câu hỏi “Thầy đi đâu?” có âm hưởng lo âu tự hỏi “mình đi đâu?”.

Thất vọng về quá khứ và hoang mang trước tương lai, đó là những con đường các Tông đồ đã nếm trải. Nhưng mở đầu Tin Mừng hôm nay lại là lời của Chúa Giêsu: “Các con đừng xao xuyến”. Đó là lời an ủi vỗ về, đồng thời cũng là lời cắt băng khai mở một con đường mới trong hy vọng tin yêu.

2. Đường mang tên Giêsu.

“Ta là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống”. Trả lời cho Tôma, cùng lúc Chúa Giêsu để lộ cho biết từ nay chỉ có một con đường duy nhất được mở ra trong ơn cứu độ, và tên gọi con đường ấy lại chính là Người.

Người là Đường Sự Thật bởi Người là Chân Lý, một chân lý sống động khả tín làm nền tảng và hướng đi cho mọi cuộc đời, một thực tại năng động đầy Thần Khí làm sức mạnh giải thoát cho mọi kẻ tin. Đường Sự Thật không phải là một hệ thống tín điều do Chúa Giêsu thiết định, nhưng là toàn thể cuộc sống lời nói việc làm của Người trong ý nghĩa cứu độ. Nhưng đâu phải ai cũng nhận ra? Giữa phiên tòa dịp lễ Vượt Qua, trước mặt Chúa Giêsu, Philatô đã hỏi một câu ngớ ngẩn: “Sự Thật là chi?- Quid est Veritas?” Chúa Giêsu không trả lời, vì Sự Thật hiện thân chính là Người đứng đó. Có biết đâu hỏi là đã trả lời, chỉ cần sắp xếp lại thứ tự các mẫu tự sẽ thành hàng chữ: “Est Vir qui adest” (x. Tihamet Toth, Chúa Cứu Thế Với Thanh Niên, p. 95).

Người là Đường Sự Sống bởi Người là Sự Sống thượng nguồn phát sinh các sự sống khác trong công trình sáng tạo, và là Sự Sống cội nguồn mà mọi sự sống khác phải tìm về trong công cuộc tái tạo của ơn cứu độ. Người thông ban sự sống cho mọi sinh linh, và luôn đi bước trước để lôi kéo mọi người về với Sự Sống của Thiên Chúa. Người chịu chết để nhân loại được sống, và Người sống lại để mãi mãi mở ra nẻo đường dẫn vào cõi sống. Mọi sự sống trần gian có thể đổi thay tan biến, nhưng Sự Sống Người là vĩnh cữu trường tồn. Người hằng sống hằng trị muôn đời.

Người là Đường dẫn tới Nhà Cha bởi Người và Cha không thể tách lìa: Chúa Con ẩn mình trong Chúa Cha và Chúa Cha tỏ hiện trong Chúa Con. Vẫn là Một từ ngàn xưa và mãi là Một tới ngàn sau. Thế nên Đường mang tên Giêsu tất yếu cũng là địa chỉ Nhà Cha, và ngược lại tìm đến Nhà Cha cũng là hành trình vào Đường Sự Thật và Sự Sống.

3. Đường con đi.

Dẹp bỏ con đường cũ của thất vọng hoang mang để khai mở con đường mới bằng toàn diện con người mình, Chúa Giêsu muốn truyền lại cho các Tông đồ cái kinh nghiệm hiện sinh phong phú liên kết với Cha qua Chân Lý và Sự Sống; đồng thời đó cũng chính là lời mời gọi Giáo Hội cất bước lên đường với những hành trang đi về hạnh phúc.

Đi trên Đường Giêsu là đi bằng cả niềm tin gắn bó hiệp thông của những con người biết mình có một lí tưởng để theo đuổi, và sẵn sàng hy sinh tất cả để đạt được lí tưởng ấy. Trút bỏ những hành trang cồng kềnh của danh lợi thú, đoạn tuyệt với những ngõ cụt lối mòn sao gợn sỏi đá của cuộc sống khô khan, chấp nhận canh tân để có được bước đi vừa thanh thót vừa thanh thản của đời nhân đức chính là hát lên khúc ca mới trên con đường mới. Vì lí tưởng ấy chính là lẽ sống, cũng chính là vinh dự một đời: “Anh em là dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là chủng tộc thánh thiện, Dân riêng của Chúa…” (bài đọc thứ hai).

Đi trên Đường Giêsu cũng là đi bằng niềm hy vọng bền vững. “Thầy đi dọn chổ cho các con”. Vận mệnh tương lai đã mở ra. Không còn xa xôi tít tắp, nhưng đã châm rễ từ cuộc đời này. Sống hôm nay là chuẩn bị sống ngày mai, và ngày mai tại Nhà Cha đã được định hình ngay từ bây giờ trong bước đường lữ thứ của Hội Thánh ở giữa lòng đời. Đi trong hy vọng là nhận ra rằng con người được tạo dựng để hướng về một cứu cánh, được tái sinh trong giới hạn nhưng không ngừng hướng về vô hạn. Thiết tưởng lời kinh của Thánh Auguatinô có thể là tóm kết của bước đi hy vọng đã biến thành khát vọng: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con để cho Chúa, nên con mãi khắc khoải cho tới khi được nghĩ ngơi trong Ngài”.

Đi trên Đường Giêsu còn là đi bằng cả tình yêu chan hòa phục vụ. Bài đọc thứ nhất là hình ảnh đẹp về một Giáo Hội trẻ đang cựa mình vươn vai tiến tới. Có những phân công khác biệt: kẻ phục vụ bàn thánh, người phục vụ bàn ăn; kẻ chuyên chăm rao giảng Lời Chúa, người chuyên lo hạnh phúc anh em. Nhưng vẫn là nhịp bước đồng hành. Có thể nói được rằng tình yêu và phục vụ là đôi chân của Giáo Hội lữ hành đặt bước chân mình trong dấu chân Chúa. Và cũng có thể hiểu được rằng cách nhìn “con người là con đường của Giáo Hội” (Gioan Phaolô II) chính là tốc độ mới của tình yêu chan hòa phục vụ trên Đường Giêsu hôm nay.

Và lời cuối cùng sẽ là một lời kinh, dệt nên khúc hát hy vọng cho những ai đang băn khoăn tìm kiếm một con đường sống, và biến nên hành khúc tin yêu cho những ai đã một lần cất bước hành trình: “Chúa muốn nhận con đường con đi, nên Ngài đã sinh xuống dương gian. Chúa đã nhận đôi bàn tay con, dìu từng bước, bước đi trên đường. Chúa ôi, khi nhìn đời con, con không hiểu từng giọt lệ sầu. Chúa ôi, khi nhìn đời Ngài, con đã gặp đường hướng con đi”.

 

 

 

 

 

14. Chúa Nhật 5 Phục Sinh

 

NHỮNG LỜI CHÚA GIÊSU TÂM SỰ VỚI CÁC TÔNG ĐỒ SAU BỮA TIỆC LY

1. Tìm hiểu: 3 điều:

a/ Thiên đàng có nhiều chỗ

b/ Thầy là Đường đi...

c/ Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha.

- Câu 14,2 Nhà Cha Thầy có nhiều chỗ

Chúa cho biết trong nước Trời của Chúa, tức là trên thiên đàng có nhiều cấp bậc, nhiều phần thưởng khác nhau, tùy Chúa ban, tùy công phúc người ta cố gắng lập khi còn sống. Rất công bằng và thương xót. Không có chuyện "Bé không đi học, lớn lên làm đại úy".

- Câu 14,6 Thầy là đường đi...

Nhờ ông Tôma hỏi, Chúa nói rõ Ngài chính là đường đi về quê trời, là sự thật và là sự sống, chỉ qua Chúa Giêsu chúng ta mới có thể đến được với Chúa Cha, đến được Nước Trời.

- Câu 14,9 Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha.

Nhiều khi người ta tự hỏi: Không biết Chúa Cha thế nào? Có giống như người ta vẽ cụ già đầu râu tóc bạc, uy nghi dễ sợ không?

Chúa Giêsu trả lời rõ ràng: Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Cha cũng trẻ, cũng nhân từ, hiền lành, thương xót như Thầy, đừng sợ.

2. Suy niệm:

Truyện: Đi tìm minh chủ

Truyện kể rằng: có một chàng thanh niên khỏe mạnh, muốn tìm một ông chủ tốt làm sư phụ.

- Anh ta đến với một người giầu có trong làng, anh rất hài lòng về cách cư xử của người này. Nhưng một hôm, theo người này đến một nơi, thấy người này quì lạy một người tự xưng là ông quỉ. Chàng thanh niên phân vân tự nghĩ: như vậy ông chủ mình còn thua ông quỉ. Anh ta liền xin ông chủ cho đi theo ông quỉ.

- Ông quỉ hài lòng với người thanh niên lắm, sai hắn làm cái này cái kia… đều được việc, nhưng một hôm chàng theo ông quỉ tới đầu làng, chàng thấy ông quỉ không dám đi gần cây Thánh giá dựng ở đó, chàng thanh niên bỡ ngỡ, hỏi căn cớ tại sao thì ông quỉ cho biết, người chết trên đó là ông Giêsu. Chàng thanh niên lại bỏ ông quỉ đi tìm hiểu Ông Giêsu.

- Người ta giới thiệu chàng vào gặp cha xứ.

Sau một thời gian tìm hiểu, chàng được rửa tội, cha xứ thấy chàng to con, khỏe mạnh, cha đề nghị chàng làm việc bác ái, đưa đồ giúp người qua khúc sông, vì nơi đó không có thuyền không có cầu. Chàng vui vẻ làm theo, ngày nào cũng có mặt để giúp những người mang vác nặng nề.

Nhưng một hôm, chàng vác một em bé trên vai cho mẹ em rảnh tay lội nước.

Chàng cảm thấy Em bé gì mà nặng quá, nặng như cả mấy bao gạo trên vai, làm chàng thanh niên khỏe mạnh lực lưỡng muốn té nhào. Chàng than: " Sao em nhỏ ăn cái gì mà nặng thế, anh vác không nổi!

Em bé đang ôm đầu chàng, bật cười lớn, em nói: "Anh vác nổi sao được, anh đang vác cả một Thiên Chúa dựng nên trời đất đấy mà! Này chàng thanh niên, Ta rất hài lòng với việc giúp đỡ của con. Ta là Giêsu con đang tìm kiếm.

Chàng thanh niên đó chính là ông thánh Giorgiô, đã từ bỏ mọi sự trần gian đi theo Chúa Kitô.

Có 3 điều quan trọng cho cuộc sống con người:

a/ Đi đúng đường, không sợ lạc.

b/ Tìm ra sự thật, không hồ nghi.

c/ Tìm được sự sống, không sợ chết. Theo Chúa Kitô, sẽ được cả 3 thứ trên.

1/ Đường đi: Nếu bạn đến một thành phố xa lạ và hỏi thăm đường đi, có người chỉ dẫn rằng:

"Đến ngã tư thứ nhất anh rẽ sang phải, đến ngã tư thứ hai anh rẽ sang trái, đi qua công viên, vượt qua một nhà thờ, đến ngã tư thứ ba thì rẽ sang phải nữa… con đường anh tìm là con đường thứ tư bên trái.

Nếu chỉ dẫn như thế, có thể đi được nửa đường, anh đã bị lạc.

Nhưng nếu có người nói: "Anh đi theo tôi, tôi sẽ dẫn anh đến đó", người ấy sẽ đưa ta tới nơi, sẽ không lạc đâu.

Đó là việc Chúa Giêsu đang làm cho ta. Người không đưa ra những lời khuyên, chỉ hướng đi xong rồi thôi, nhưng Người nắm lấy bàn tay và dẫn ta đi. Người cùng đi với ta, Người thêm sức cho ta, hướng dẫn ta mỗi ngày. Người là Đường đi: Người làm gương về cách hành động vâng ý Chúa Cha, và Người đưa kẻ tin Người đến cùng Chúa Cha. Sướng thật.

2/ Sự thật: Không ai thích người nói dối, không ai thích hàng giả.

Phụ nữ Việt Nam không mấy ai muốn đeo nữ trang giả, ai cũng thích thứ thật, vàng thật, đôla thật, hột xoàn thứ thiệt.

Ngày nay, có nhiều thứ giổm, giổm lại còn độc chết người. Nhiều người nói với ta về sự thật, nhưng họ không phải là sự thật.

Chỉ có mình Chúa Giêsu nói: "Ta là sự thật". Ngài không lừa dối ai và không ai lừa dối được Ngài. Chúa Giêsu đã tỏ ra những mầu nhiệm về Thiên Chúa Cha cách không sai lầm.

3/ Sự Sống: Thông thường, người ta tìm kiếm sự sống, ai cũng muốn sống, sống khỏe, sống hạnh phúc… sống hoài sống muôn năm. Không ai muốn sống nhăn răng.

Chúa Giêsu hứa ban sự sống đời đời cho những ai tin vào Người. Đời đời quí hơn một đời là cái chắc.

Thế nên Chúa nói: "Được lời lãi cả thế gian mà mất sự sống đời đời nào có ích gì?" (Mt 16,26)

3. Chúa muốn tôi làm gì?

- Bằng giá nào, tôi cũng phải tìm mọi cách để chiếm được một chỗ trên thiên đàng. Vì Chúa Giêsu nói "Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ". Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu nói: " Ta trông cậy thế nào, Chúa sẽ ban cho như vậy".

- Xin Mẹ Maria, giúp con bền lòng theo Chúa Giêsu "bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Chúa là Đường đi,

Luôn nghĩ tưởng, nói năng, làm thật thà theo Chúa là Sự Thật,

Luôn bênh vực sự sống, theo Chúa là Sự Sống như thánh Giorgiô trên đây. Noi gương các thánh tử đạo VN: chết cũng không bỏ đạo, không bỏ Giáo hội Công giáo, để được ơn cứu rỗi muôn đời trong nhà Cha Cả. Amen.

 

 

 

 

 

15. Con đường hạnh phúc

 

Sau nhiều năm học chung, tôi mới có dịp về Cà Mau thăm nhà người bạn thân, trước khi đi tôi cứ nghĩ Cà Mau sẽ rất xa, mình phải ngồi trên xe lâu lắm mới tới. Đúng như tôi suy nghĩ. Cuộc hành trình về Cà mau của chúng tôi rất vất vả. Sáng sớm chúng tôi đã đón được chuyến xe tốc hành về Cà Mau. Tuy đường từ Cần Thơ về Cà Mau có nhiều chỗ "ổ gà" thậm chí cũng có rất nhiều "ổ voi", nhưng cũng không thấm vào đâu so với sức trẻ của chúng tôi. Chúng tôi hãnh diện là những người khỏe, trẻ không sợ gian khó, nhưng chúng tôi cũng phải chùn bước khi thấy con đường từ Cà Mau về nhà bạn tôi. Từ Cà Mau vào phải đi qua hai chiếc đò, và đi bộ thêm hai giờ đồng hồ trên đường đất nhỏ với bốn chiếc cầu khỉ mới đến được nhà bạn tôi. Trong đoàn chúng tôi có tất cả sáu người, nhưng khi ngồi xe đến Cà Mau, thì đã có ba người không đi nổi nữa phải ở lại. Còn lại ba người tuy rất ngán ngẫm về con đường phía trước, nhưng vẫn phải đi vì không còn con đường nào dẫn về nhà bạn tôi được. Cuối cùng chúng tôi quyết tâm đi với hy vọng cũng sẽ tới và tâm niệm trong đầu "ai bền đỗ đến cùng người đó sẽ được rỗi". Cuối cùng chúng tôi đã tới. Thật là vui mừng và sung sướng vì chúng tôi đã đi đến đích cách thành công.

Trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu đã giới thiệu cho chúng ta biết như một lệnh truyền độc nhất không thể huỷ bỏ "Thầy là đường". Có thể lúc Chúa Giêsu nói Tôma vẫn chưa thể hiểu hết câu nói của Người. Ông còn đang mơ tưởng đến một quê hương nào đó, vì ông thuộc mẫu người thực nghiệm, muốn tay sờ, mắt thấy, tai nghe... Nhưng Đức Giêsu đã khẳng định chỉ cần nhìn vào Người, vì Người là con đường độc nhất dẫn về cùng đích duy nhất. Trong thực tế thì "đường" đã có sẵn và có từ muôn đời, nhưng người ta lại không muốn đi, có người thi lại không chịu nghe lời hướng dẫn để rồi bị đi lạc như Giuđa Iscariô. Có người đã đi đúng đường, đã tìm được sự hướng dẫn đích thực, nhưng lại bị lôi kéo bởi những con đường giả tạo, phù phiếm... để rồi bị lạc đường và bị lún sâu vào vũng lầy bóng tối, xa cách sự sáng mãi mãi.

Trên đường về thăm nhà bạn tôi, cũng chỉ có ba người về đến đích, còn ba người phải tạm chia tay hay nói đúng hơn là bỏ cuộc. Tượng tự những người lữ hành về quê trời cũng vậy, tất cả đều đang đi, nhưng cũng có người vì bị một lý do chủ quan hay khách quan nào đó mà phải ở lại, đành bỏ cuộc. Thật đúng như lời Đức Giêsu đã nói "Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy". Đi theo Người đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ mình vác thập giá mình hàng ngày mà theo. Nếu đường đã có sẵn mà chúng ta không chịu đi thì không bao giờ về đến đích. Đức Giêsu chính là con Đường và là Người dẫn đường, nhưng nếu chúng ta chán nản chúng ta không chịu đi thì Ngài cũng đành "bó tay", vì Ngài luôn cho ta có một sự tự do để lựa chọn.

Còn những người về đích, không phải họ là những người may mắn, mà là những người đã đi đúng đường, với nỗ lực bản thân vượt qua được những trở ngại trước mắt để về đến đích bình an.

Trong đời sống thiêng liêng, chúng ta vẫn chưa đạt tới đích, tất cả chúng ta đều đang đi, trên quãng đường này chắc chắn có rất nhiều chông gai thử thách, cám dỗ mời mọc... nó sẽ thật nguy hiểm cho đời sống đạo của chúng ta. Có rất nhiều ngã và lối rẽ, nếu ta không thức tỉnh, nếu ta không vững vàng, ta sẽ bị sụp bẫy của kẻ thù mà đi lạc hướng, đi vào con đường của bóng tối và sự chết.

Lạy Chúa, xin cho con xác tín chỉ có Chúa mới là con đường nhanh nhất, và chắc chắn nhất dẫn chúng con về với Chúa Cha. Amen.

 

 

 

 

 

16. Ra đi & Trở về

 

Đoạn Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy việc Chúa Giêsu ra đi và trở về. Hẳn nhiên chúng ta thấy vấn đề đặt ra là Chúa Giêsu đi đâu và trở về đâu? Sứ mạng của Ngài là gì?

Chúa Giêsu là Thiên Chúa, từ nơi Chúa Cha mà đến trần gian trong thân phận xác phàm nhưng không mất bản tính Thiên Chúa nơi mình. Sau khi hoàn thành sứ mạng ở trần gian, Ngài trở về cùng Chúa Cha. Sứ mạng của Ngài là "Cứu Thế", Vị Cứu Tinh không chỉ cho dân Do Thái mà còn cho toàn thể nhân loại, cho cả vũ trụ vạn vật vì tất cả vũ trụ vạn vật được sinh ra nhờ Người và trong Người (x. Cl 1,16).

Một trong những sứ mạng của Chúa Giêsu là mạc khải cho con người biết Chúa Cha. Chúa Giêsu cũng chỉ rõ "Ai thấy Thầy là thấy Cha" (Ga 14,9) vì "Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy" (Ga 14,10). Nơi Đức Giêsu Kitô, chúng ta gặp được Thiên Chúa, dễ gần gũi, dễ yêu thương. Giữa Ngài và Thiên Chúa Cha có một gắn bó mật thiết lạ lùng đến nỗi Chúa Giêsu dám nói: "Ai biết Thầy là biết Cha" (Ga 14,7). Như thế, Lời nói và việc làm của Chúa Giêsu chính là lời nói và việc làm của Thiên Chúa (Ga 14,10).

Cuộc đời Chúa Giêsu phản chiếu khuôn mặt và trái tim Thiên Chúa, đầy nhân ái và bao dung với hết mọi người. Điều kỳ diệu và tuyệt vời là chính Đấng Tuyệt Đối, Đấng Toàn Năng, Cao Cả và Hằng Hữu đã có thể trở thành con người thấp hèn, đơn sơ như em bé nơi máng cỏ Belem, sinh sống nơi làng Nadarét, giao tiếp với người thu thuế, người tội lỗi,... cuối cùng phải chết khổ nhục trên thập giá. Điều kỳ diệu nơi Chúa Giêsu, sự uy nghi của Thiên Chúa tỏ hiện trong khiêm tốn và yếu đuối cách lạ thường như thế.

Không ai thấyThiên Chúa  bao giờ (Ga 1,18). Tuy nhiên, chúng ta có thể biết Thiên Chúa qua công trình sáng tạo và lịch sử cứu độ, thấy sự hiện diện đầy kỳ diệu và huyền nhiệm trong vũ trụ này. "Ai thấy Thầy là thấy Cha", điều này cho chúng ta một xác quyết mạnh mẽ hơn, một niềm tin vững chắc hơn khi chúng ta tiếp cận Lời Chúa, chúng ta đón nhận Mình Máu Chúa, chúng ta lãnh nhận các bí tích và ân sủng tràn lan của Thiên Chúa ban qua Hội Thánh của Người cho chúng ta. Đó là con đường, là cơ hội, là cách thức nhận biết Thiên Chúa để củng cố và nâng đỡ đời sống đức tin của chúng ta.

"Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy" (Ga 14,6). Mọi con đường cứu độ đều phải đi vào Con Đường Giêsu. "Thiên Chúa không ban một danh nào khác dưới bầu trời, để nhờ danh đó mà chúng ta được ơn cứu độ" (Cv 4,12). Hơn nữa, hằng ngày chúng ta có thể gặp Chúa nơi tha nhân, nơi những người nghèo khổ, nơi những người bị bỏ rơi,... (x Mt 28) hay nơi những người sống và thi hành ý muốn của Thiên Chúa...

Chúa Giêsu mạc khải cho con người biết Chúa Cha. Ngài còn mạc khải chính Ngài cho chúng ta biết: "Ta là Đường, là Sự thật và là sự sống". Nơi Chúa Giêsu Kitô có sự sống đời đời, có niềm hạnh phúc vĩnh cửu. Ngài đã mạc khải về con đường đó và Ngài cũng chính là con đường mà ta có thể bước theo để được hưởng ơn cứu độ nhưng không của Thiên Chúa. Chính Ngài mạc khải là lời chân lý, không sai lạc, không hề lừa dối ai bao giờ. Đi trong đường lối Ngài là ta đang đi trong Sự Thật, đi trong đường lối Ngài là ta được đi trong tình thương và ân sủng của Ngài. Đi theo Ngài ta có được sự sống đời đời. Ở trong Lời Ngài, ta sẽ gặp được bình an. Bước đi theo Ngài ta sẽ được hạnh phúc đời đời. Đó chẳng phải là  khao khát của chúng ta, khao khát của biết bao người, của những người thành tâm thiện chí đi tìm kiếm Thiên Chúa, Đấng mà họ gọi bằng những tên khác nhau: Đấng Tối Cao, Đấng Tuyệt Đối, Đấng vượt trên mọi danh hiệu... Như thế, con người đang muốn bắc một nhịp cầu với Đấng siêu việt, với Đấng là Đường là Sự Thật và là sự sống đời đời, con người muốn cảm nghiệm và đi sâu vào mối tương quan, vào mối hiệp thông thâm sâu với Đấng Tạo Hóa ấy.  Phần của Thiên Chúa, Ngài đã đáp lại khát vọng, Ngài gieo nơi lòng người khi cho Con Một Ngài làm người, ở giữa chúng ta và cũng chính Ngài là Đấng khơi lên và giúp con người biết khát vọng và muốn tìm về cội nguồn của mình, tìm về Đấng đã yêu thương, sáng tạo và quan phòng chăm sóc.

Sau khi đã sống trọn sứ mạng yêu thương tự hiến, Chúa Giêsu đã về với Chúa Cha trong vinh quang Phục Sinh. Ngài cũng muốn chúng ta đi theo Ngài mà về nơi đó. Chúa Giêsu trở thành con đường cho chúng ta đi. Là Kitô hữu, chúng ta can đảm bước đi theo Chúa, chúng ta hãy gạt bỏ những gì không phù hợp với đời sống của người Kitô hữu, đi trên con đường Chúa chỉ dẫn. Con đường mà Chúa Giêsu đã đi là con đường mà Thiên Chúa muốn, là con đường vâng phục theo thánh ý Chúa Cha, là con đường đón nhận đau khổ, chết và phục sinh như Chúa Giêsu. Làm Kitô hữu là làm người như Đức Giêsu Kitô, là trở nên một Giêsu khác cho con người hôm nay, là ước ao để có thể nói được rằng: "Ai biết tôi là biết Đức Kitô, ai thấy tôi là thấy Đức Kitô." Nếu chúng ta có tình yêu và đức tin, chúng ta sẽ thấy Chúa Giêsu nơi tha nhân vì họ đều là hình ảnh của Thiên Chúa để chúng ta yêu thương họ, bất kể họ thế nào, bất kể họ khác biệt ta đến mức độ nào, vì chính Ngài cũng yêu thương họ, muốn cứu chuộc họ, phục vụ họ. Ngài đã tự đồng hóa Ngài với họ đến nỗi ai làm gì cho họ thì cũng là làm cho chính Ngài, không làm cho họ thì cũng là không làm cho chính Ngài (x. Mt 10.40; 18,5; 25, 40.45; Lc 10,16). Ngài muốn ta yêu thương họ bằng trái tim của ta, phục vụ họ bằng đôi tay của ta.  

Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con hiểu được tình thương mà Chúa dành cho chúng con để chúng con đón nhận và đáp lại tình yêu đó, cho chúng con luôn trung thành bước theo Chúa như Chúa hằng khao khát và mạc khải cho chúng con. Amen.

 

 

 

 

 

17. Đường Về Nhà Cha – Lm. Trịnh Ngọc Danh

 

Sau biến cố Chúa Giêsu chịu chết và đã sống lại như một số môn đệ đã thấy, đa số các môn đệ vẫn còn bàng hoàng, buồn bã, chua thực sự an tâm: một sự kiện quá sức hiểu biết của con người! Một Đấng Tiên Tri đầy uy lực trong cả lời nói và hành động mà lại chịu chết cách nhục nhã đến thế! Tin Chúa đã sống lại cũng chưa làm cho họ an tâm và tin tưởng thực sự; và Thánh Phêrô đã phải nhiều làn lên tiếng để trấn an và củng cố đức tin: “Vinh dự cho anh em là những kẻ tin… anh em là dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân tộc thánh thiện, dân riêng của Chúa, để rao giảng quyền năng của Đấng đã gọi anh em ra khỏi tối tăm mà vào ánh sáng kỳ diệu của Người.” (1 Pr. 2,7.9)

Tin Mừng hôm nay, Chúa nhật V mùa Phục sinh năm A (Ga 14,1-12), Giáo Hội muốn chúng ta sống lại những giây phút cuối cùng giữa Thầy Giêsu và các môn đệ, và những gì Thầy trăn trối trước khi chia tay.

Chia ly nào chẳng ít nhiều gây buồn rầu, nuối tiếc! Hiểu được tâm trạng ấy, trong bữa ăn cuối cùng Chúa Giêsu đã phải lên tiếng trấn an các môn đệ:

- “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở” (Ga 14,1-2)

Ông Simon Phêrô hỏi lại Thầy: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu vậy?”

Thầy Giêsu trả lời: “Nơi Thầy đi, bây giờ anh không thể theo đến được; nhưng sau này anh sẽ đi theo.” (Ga 13,36) “Thầy đi để dọn chỗ cho anh em. Và khi Thầy đã ra đi và dọn chỗ cho anh em rồi, Thầy sẽ trở lại đem anh em đi với Thầy, để Thầy ở đâu anh em cũng ở đó. Thầy đi đâu, anh em đã biết đường rồi” (Ga 14, 2-4)

Ông Tôma hỏi lại: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường đi!” (Ga 14,5)

Thầy Giêsu đáp: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy.”…

Như thế Chúa Giêsu là ĐƯỜNG VỀ NHÀ CHA

Điều chúng ta cần khẳng định trước tiên là chúng ta cùng ANH EM một nhà, chúng ta có một người CHA và có chung một mái NHÀ. Để về NHÀ CHA, chúng ta không có con đường nào khác hơn là CON ĐƯỜNG GIÊSU: Thầy là đường, là sự thật và là sự sống.

Nhiều lúc, con người thắc mắc không biết mình là ai? Từ đâu tới? Có mặt trên thế gian này để làm gì? Tại sao lại phải sống và chết? Tại sao phải bệnh hoạn, đau khổ…? Và nhiều vấn nạn khác nữa mà không biết bao nhiêu triết gia, bác học, khoa học… chưa tìm được lời giải thích thỏa đáng. Còn chúng ta, chúng ta tin con người được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa. Chúng ta là con cái Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu thương chúng ta và đã làm mọi cách để cho chúng ta được hiển vinh như  Cha chúng ta ở trên trời, ngay cả việc cho Ngôi Hai, người con yêu dấu duy nhất của Ngài xuống thế gian chịu mọi cực hình khốn khổ để tìm cách cứu vớt chúng ta khỏi sự hủy diệt…

Chúng ta là anh em có một Cha chung. Người Cha nhân hậu ấy vẫn hằng mong mỏi những người con lưu lạc trở về như hình ảnh người cha nhân từ mà Chúa Giêsu đã một lần ám chỉ.

Và có lẽ cũng như Philiphê, chúng ta muốn biết hình dáng người Cha chung của chúng ta: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha và như thế là đủ cho chúng con.”

Và Thầy Giêsu đã trả lời: “Ai thấy Thầy là xem thấy Cha… Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy.” (Ga 14,8-9). Thầy Giêsu và Người Cha chung của chúng ta là một.

Sống và chết đối với chúng ta không phải không phải là đi vào cõi hư không, nhưng chỉ là một biến đổi từ trạng thái này qua trạng thái khác, là giã từ trần gian để về nhà Cha, là chờ ngày đoàn tụ với Người Cha nhờ sự sống của Anh Cả Giêsu.

Chúng ta sẽ về Nhà Cha bằng con đường nào?

Đường có nhiều loại: Có đường quanh co, thẳng tắp; có đường gồ ghề, trơn tru; có đường một chiều hai chiều; có xa lộ không đèn; có lối mòn yên tĩnh… CON ĐƯỜNG GIÊSU hẹp mà rộng, trơn tru mà sỏi đá.

CON ĐƯỜNG GIÊSU có Tin Mừng hướng dẫn chỉ đường để đi về sự sống trường sinh. Đi trên con đường đó, phải biết lách mình mà đi, phải chống chọi với nhiều thú dữ, phải canh chừng thức tỉnh với những phù phiếm xa hoa bên đường, phải vững tin bước đi theo những hướng dẫn của Tin Mừng, phải biết “vác thánh giá mỗi ngày” mà đi, phải biết gạt bỏ những dục vọng, đam mê cuốn hút… Con đường ấy rộng thênh thang nhưng có rất nhiều cạm bẫy. Mất cảnh giác là gặp phải tai nạn. Con đường thênh thang nhưng gồ ghề khúc khuỷu là thế.

Nếu có bị lạc đường, lấy đèn sáng đức tin mà đọc lại bản Tin Mừng hướng dẫn. Con đường đến với Thiên Chúa gây nhiều trở ngại và bối rối cho nhiều người. Có người vì quá bối rối mà mất cả niềm hy vọng, mất phương hướng, lạc đường. Những lúc mất phương hướng và lạc đường như thế, hãy tìm lại CON ĐƯỜNG GIÊSU, vì “Thầy là đường, là sự thật, và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy.” Con đường Giêsu là con đường sự thật, là con đường dẫn đến sự sống.

Như thế, Chúa Giêsu muốn cho chúng ta hiểu rằng không kết hợp với Ngài, không đi theo đường lối hướng dẫn của Ngài, con người sẽ khó đi đến cùng đích, sẽ khó đạt được vinh quang vĩnh hằng, sẽ khó mà vào được nhà Nhà Cha.

Chỉ khi nào chúng ta khám phá ra gương mặt của Chúa Giêsu trong mọi biến cố của cuộc đời mình, lúc đó chúng ta mới thực sự hiểu thế nào là Con đường Giêsu.

Cuộc sống của chúng ta hiện nay là một cuộc hành trình đi về Miền Đất Hứa, là một cuộc hành trình đi về Nhà Cha, một cuộc hành trình Đức tin.

Trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta, có những lúc chúng ta gặp khủng hoảng về đức tin. Chính những lúc như thế, cần có đức tin nâng đỡ, thì chúng ta lại buông xuôi; và cũng chính những như thế, chúng ta mời thấy lòng tin vào Thiên Chúa ở mức độ nào.

Khi gặp khủng hoảng về đức tin, điều duy nhất mà chúng ta có thể làm là bước đi trong sự kiên quyết tín nhiệm nơi Thiên Chúa.

Lòng tin đích thực giúp chúng ta xác tín rằng Thiên Chúa luôn ở với chúng ta. Đó là điểm tựa, là niềm hy vọng cho cuộc sống chúng ta. Ai có đức tin đều có nguồn an ủi và niềm cảm hứng ấy, đặc biệt khi gặp cảnh bối rối.

Chúa Giêsu là đường, là sự thật và là sự sống. Trong Ngài và với Ngài, chúng ta nhận ra thân phận, ý nghĩa cuộc đời mình. Ngài là phần thưởng và là cùng đích của mỗi Kitô hữu chúng ta. Chúng ta hãy bước đi trên con đường của Chúa Giêsu đã vạch ra. Sống chân lý tình yêu của Ngài. Và sống sức sống thần linh của Ngài mỗi ngày trong cuộc sống chúng ta.

Lạy Chúa, chúng con tin rằng: “Lời Chúa là lời chân chính, bao việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu chuộng điều công minh chính trực, địa cầu đầy ân sủng Chúa. Chúa để mắt trông coi những kẻ kính sợ Chúa, nhìn xem những ai trông cậy ân sủng của Chúa để cứu giúp họ khỏi tay thần chết và nuôi dưỡng họ trong cảnh cơ hàn.” (Tv.32,18-19). Nhờ Chúa, chúng con được cứu chuộc và trở nên nghĩa tử, xin Chúa đoái nhìn đến chúng con, những kẻ tin vào Chúa Giêsu Kitô, cho được hưởng tự do thật sự và phần gia nghiệp muôn đời nơi nhà cha trên trời.

Câu hỏi:

1. Tại sao Chúa Giêsu nói: “Trong nhà Cha thầy có nhiều chỗ ở.” Nhiều chỗ ở có ý nghĩa gì?

2. Chúa nói: “Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm những việc Thầy đã làm.” Câu nói ấy ám chỉ gì?

3. Thánh Phêrô đã nói: “Chính anh em là như những tảng đá sống động”. Tảng đá sống động biểu tượng cho vấn đề gì?

 

 

 

 

 

18. Chọn lựa con đường

 

Anh chị em thân mến.

Một lần tôi vào quán ăn trên đường, tôi chú ý đến bàn ăn bên cạnh, vì nơi đó có một đứa bé khó tánh. Thức ăn bày ra trước mặt nó, vậy mà nó không bằng lòng với những gì đang có. Người mẹ ngồi bên cạnh hết sức nhẫn nại, vừa năn nỉ vỗ vành, vừa cố gắng cho thức ăn vào miệng cho con, nhưng cuối cùng, bà không thể nào làm gì hơn được. Bên cạnh đó, cũng có một đứa bé lẵng lặng đứng nhìn. Nó nhìn những tô thức ăn của thực khách đã dùng xong nhưng còn thừa lại. Nó cũng nhìn vào tô thức ăn mà đứa bé khó tánh kia đang làm khó mẹ nó. Người mẹ trẻ cũng nhìn thấy đứa bé đang đứng nhìn như thế, bà gọi em đến và cho em tô thức ăn gần như còn nguyên vẹn. Em rục rè cho tất cả những gì trong tô vào trong chiếc lon của em và mang ra ngoài. Bên ngoài còn một đứa trẻ khác nhỏ hơn, đang ngồi chờ đợi. Người chị vui mừng, cho em ăn trước, sau đó nó mới dùng phần còn lại.

Tôi chợt suy nghĩ. Đứa bé có người mẹ bên cạnh, được nâng niu chiều chuộng, nó không biết tận hưởng hạnh phúc mà nó đang có, mà lại đòi hỏi cái gì không có trong hiện tại, nên nó khó chịu và không chấp nhận hiện tại. Còn đứa bé có đứa em đang ngồi chờ bên ngoài, nó biết tận dụng những gì mình có được, để mang lại lợi ích cho mình và cho người khác.

Hạnh phúc không ở đâu xa, nó ở ngay bên cạnh, nếu ai biết tận hưởng thì sẽ được, còn ai không biết thì sẽ không bao giờ nhận được.

Các Tông Đồ sống với Chúa Giêsu bao nhiêu năm trời, các ông nhìn thấy những việc làm, những điều lạ mà Ngài đã thực hiện. Các ông còn được nghe những lời giảng dạy riêng cho các ông để hướng dẫn cho bước đường tương lai. Vậy mà trong giờ phút quyết định, các ông lại thốt lên qua miệng của Tôma: "Chúng con không biết Thầy đi đâu làm sao chúng con biết đường đi". Còn Philipphê thì sao? Ông không nhận ra được người mà mình đã theo bao nhiêu năm trời đây là ai, ông chỉ thấy đây là một con người, vì mặc dù sống với Chúa Giêsu, nhưng ông chỉ lắng nghe chính mình, ông chỉ theo những gì mình muốn, nên những gì của Chúa Giêsu không ảnh hưởng đến ông.

Chúa Giêsu bảo các ông "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống... Ai thấy Thầy là xem Thấy Cha". Ngài muốn nói với các ông: những gì các ông đòi hỏi, nó đang ở trong hiện tại trước mắt các ông, nếu biết nhìn thấy để nhận ra mà sống thì thật là hạnh phúc. Một học giả nói rằng: "Con người luôn nuối tiếc quá khứ, mơ ước đến tương lai, nhưng lại hờ hững với hiện tại". Cái hiện tại là kết quả của quá khứ, là đường để đi đến tương lai, nhưng con người thường quên nó đi.

Các Tông đồ ngày xưa đã như thế, nhưng các ông được dạy bảo, nhắc nhở và các ông đã biết sống trở lại cho tốt. Câu chuyện của ngày xưa, tưởng đã đi vào quá khứ, nhưng nó vẫn còn là một câu chuyện thời sự nóng bỏng của ngày hôm nay đối với mỗi người trong chúng ta. Cũng như các Tông Đồ khi xưa, chúng ta cũng thường đòi hỏi, mơ ước những gì không có trong hiện tại, để những đòi hỏi, những mơ ước đó nó làm khổ chúng ta trong cuộc sống. Biết bao lần chúng ta bất mãn với hiện tại, không bằng lòng về chính mình, không bằng lòng về cách sống, không bằng lòng với người chung quanh và thường hay hỏi tại sao tôi không được như người khác, tại sao tôi không được tốt hơn... Những lần như thế, chúng ta đang đi trên con đường của các tông đồ khi xưa. Những lúc đó, Chúa Giêsu cũng nói với chúng ta lời nói khi xưa "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống... ai xem thấy Thầy là xem thấy Cha". Những khi đó chúng ta có cảm nhận được hạnh phúc mà mình đang có, cảm nhận được hồng ân Chúa bao bọc chúng ta không? Nếu chúng ta biết trân trọng hiện tại và chu toàn trách nhiệm mình cho tốt: trách nhiệm của một con người mà Thiên Chúa đã đặt để trong xã hội, trách nhiệm của một người Công Giáo. Cụ thể hơn là trách nhiệm của một người cha, người mẹ trong gia đình, chúng ta có làm gương tốt, có dạy dỗ con cái theo thánh ý Chúa không? Nếu trong cuộc sống đời thường, chúng ta biết vượt qua những trở ngại, những vất vả, để chấp nhận cuộc sống và hoàn thành trách nhiệm của mình mà không phàn nàn trách móc.

Đó là chúng ta như đứa trẻ biết tận dụng cái mình đang có để đem lợi ích đến cho mình và cho người khác. Khi đó chúng ta đang nhận ra Chúa là đường, là sự thật và là sự sống cho chính chúng ta.

 

 

 

 

 

19. Hai chân lý Đức Tin

(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An - Giêrusalem 13.05.2014)

 

Chúng tôi đang ở Giêrusalem. Đoàn hành hương gồm 38 người (9 linh mục và 29 giáo dân) đi từ Việt Nam qua Ai cập đến Israel và sẽ qua Giocđan rồi trở về với hành trình 14 ngày.

Đi hành hương theo dấu chân Chúa Giêsu với tâm tình tạ ơn và cảm mến. Mỗi nơi đến, chúng tôi đều dành thời giờ đọc phúc âm và cầu nguyện, hát thánh ca. Nhờ đó mỗi người càng thêm xác tín những chân lý đức tin.

Đọc Tin mừng Chúa nhật V Phục sinh trong bầu khí cầu nguyện tại Đất Thánh, tôi suy niệm về lời giảng dạy của Chúa Giêsu.

Hai thánh Tông đồ Tôma và Philípphê đã hỏi Chúa hai câu và Chúa đã mạc khải hai chân lý thật quan trọng:

- Thầy là đường là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy.

- Ai thấy Thầy là thấy Cha; Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy.

Chỉ có thể đạt tới Cha khi chúng ta đi theo Đấng tự nhận là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Và cũng không ai có thể tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa mà lại không do Thánh Thần. Hiểu biết đích thực về Cha và Con mang dấu ấn Thánh Thần. Chính trong Thánh Thần mà Thiên Chúa là Cha và Đức Giêsu là Con. Thiên Chúa mà mọi tín hữu tôn thờ và yêu mến hết linh hồn, hết sức lực, hết trí khôn, chính là Thiên Chúa hiện thân nơi Đức Giêsu Kitô "Ai thấy Thầy là thấy Cha" (Ga 14, 9) vì "Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy" (Ga 14, 10).

Trải qua bao thời, con người kiếm tìm con đường dẫn đến chân lý và sự sống thật. Đã có biết bao nhiêu suy tư siêu hình học, triết học, thần học, tôn giáo, chiêm niệm, thần bí và khoa học… tìm kiếm sự thật về vũ trụ chung quanh và về cuộc sống con người. Bao nhiêu chất xám đã đầu tư để đi tìm nguồn sự sống và cùng đích của cuộc sống. Dù đã cố gắng hết mình con người vẫn còn bế tắc trong nhiều lĩnh vực của sự thật và sự sống.

Cách đây trên hai ngàn năm, Chúa Giêsu đã xuất hiện mặc khải cho con người con đường đi đến chân, thiện, mỹ. Ngài mở ra nhân loại con đường: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6).

1. Thầy là Đường

Thánh Gioan Tiền Hô đã loan báo ơn cứu độ. Gioan kêu gọi mọi người hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng. Để đón nhận Đấng Cứu Thế, mọi người phải chuẩn bị sám hối, cải đổi đời sống và mở rộng tâm hồn.

Thường khi đón chào một vị Vua, Hoàng đế hay Nữ hoàng, người ta chỉ cần sửa sang lối đi, quét dọn nhà cửa sạch sẽ và đón chào trong tiếng kèn tiếng trống náo nhiệt, hân hoan vui vẻ. Đón nhận Đức Chúa hoàn toàn khác biệt, Gioan gióng lên lời mời gọi: Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi (Mc 1,3). Chúa cần đi lối thẳng thắn nơi tâm hồn. Con đường Chúa đi là con đường dẫn tới đời sống nội tâm bên trong. Con đường Chúa đi là con đường khiêm tốn và yêu thương.

Chúa là con đường dẫn tới sự sống. Ngài giới thiệu cho các môn đệ con đường dẫn tới Nhà Cha: Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi (Ga 14,4). Con đường Chúa đi không phải là con đường thênh thang rộng mở và không phải là con đường trần thế vinh quang. Con đường Chúa đi là con đường phục vụ, hy sinh. Con đường Chúa đi là con đường lên dốc đồi Calvariô để chịu nạn và chịu chết.

Chúa Giêsu là con đường tiến lên. Các môn đệ còn nhiều thắc mắc về đường đi nước bước của Chúa. Tâm tư các tông đồ còn đang mong mỏi một con đường vinh hoa phú quý. Ông Tôma nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?” (Ga 14,5). Các Tông đồ không biết con đường nào Chúa sẽ đi. Không ai mong muốn con đường thập giá, con đường khổ đau, chết chóc. Chúa đã từng bước dẫn dắt các Tông đồ qua con đường sự chết để vào con đường sự sống. Qua con đường nhỏ hẹp để bước vào cõi sống hạnh phúc trường sinh.

2. Thầy là Sự Thật

Chúng ta đang sống trong một thế giới có nhiều ảnh hưởng của mê lầm và dối trá. Các nhà lãnh đạo quốc gia không dám nói hết sự thật. Các cấp lãnh đạo tôn giáo đôi khi cũng sợ nói sự thật. Các nhà giáo dục cũng không muốn đặt vấn đề sự thật trong các ngành nghề. Các bậc bề trên, phụ huynh và người hướng dẫn cũng che dấu sự thật. Vì nói sự thật thì có khi mất lòng, mất danh dự, mất uy tín, mất địa vị, mất công ăn việc làm và mất chính mình. Chúng ta sợ sự thật của gia đình, của con cái, của cha mẹ, của nhân viên, của các cộng tác viên và của chính mình bị phơi bầy và tỏ lộ. Có khi vì sự thật liên quan đến miếng cơm manh áo và tiếng tăm địa vị. Mấy ai can đảm nói hết sự thật.

Chúa Giêsu là Sự Thật. Chúa thấu tỏ lòng người. Chúa hiểu thấu được lòng con người nghĩ gì và muốn gì. Nhiều người nghe Chúa giảng đã phải thốt lên: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy nói và dạy một cách thẳng thắn, không thiên vị ai, nhưng theo sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa” (Lc 20,21). Chúa Giêsu thẳng thắn phê bình những lầm lỗi và cách hành xử của các nhà lãnh đạo tôn giáo. Họ chỉ thích được ưa chuộng những hình thức xuất hiện bên ngoài, giả dạng và khoe khoang. Họ ngại bước vào đời sống nội tâm vì sợ nhìn thấy mặt trái của đời sống mình. Vì sống theo sự thật là sống trong ánh sáng: Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa (Ga 3,21).

Chúa Giêsu là con đường dẫn tới sự thật. Nghĩ thật, nói thật và rao giảng sự thật. Con người Chúa Giêsu là con người trong sáng và chân thật tuyệt đối. Ngài ra giảng dạy công khai và minh chứng cụ thể qua các việc làm. Ngài giảng dạy chân lý và áp dụng lời giảng trong cuộc sống mình. Còn chúng ta đôi khi nói một đàng, làm một nẻo. Ngôn hành bất nhất. Chúng ta muốn có sự thật nhưng không thực hành sự thật. Sự dối trá cứ len lỏi ràng buộc chúng ta vào những mê lạc tự vệ, cố chấp, ương ngạnh và sống giả hình.

Chỉ có sự thật mới giải thoát chúng ta. Chúa Giêsu nói với những người Do Thái rằng: Các ông sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải phóng các ông (Ga 8,32). Sự thật thì đơn sơ chân thành ví như tâm hồn trong trắng của trẻ thơ. Tâm hồn chân thật thì thanh thoát và không lệ thuộc vào những tranh đua hơn thua ở đời. Khi so sánh hơn thiệt và đua đòi cuộc sống dễ dẫn chúng ta đến những sự giấu giếm, giả trá, lừa lọc và dối gian. Người đời thường nói rằng: Sông sâu còn có kẻ dò, lòng người nham hiểm ai đo cho cùng. Chúa Giêsu thì hiểu thấu lòng con người hơn ai hết. Chúa biết những ý nghĩ thầm kín của người đời. Chúa thường yêu và cầu nguyện cho các môn đệ được thành tín chân thật: Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật (Ga 17,17).

3. Thầy là Sự Sống

Chúa Giêsu là nguồn sự sống và là bánh trường sinh. Chúa phán: Tôi là bánh trường sinh (Ga 6,48). Chính nhờ Người, với Người và trong Người, Thiên Chúa Cha đã tác tạo muôn loài. Chúa Giêsu là đầu và là cùng đích của các loài thụ tạo. Ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại (Ga 1,4). Chúa Giêsu là sự sống và là ánh sáng đến trong trần gian. Người đến để mọi người được sống và sống dồi dào. Người là bánh ban sự sống, dưỡng nuôi và dẫn chúng ta đến sự sống đời đời. Thánh Gioan, người tông đồ được Chúa yêu mến đã xác tín rằng: “Vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian” (Ga 6,33). Chúa Giêsu là chủ thể có quyền trên vũ trụ vạn vật và uy quyền trên sự sống và sự chết.

Sự sống mà Chúa sẽ ban là sự sống thật. Con đường dẫn vào sự sống là chu toàn lề luật và các giới răn. Đức Giêsu đáp: “Sao anh hỏi tôi về điều tốt? Chỉ có một Đấng tốt lành mà thôi. Nếu anh muốn vào cõi sống, thì hãy giữ các điều răn” (Mt 19,17). Chúa Giêsu căn dặn chúng ta rằng đừng quá lo lắng cho cuộc sống tạm bợ này. Ngày tháng sẽ trôi qua, tuổi đời sẽ chồng chất và sự chết sẽ đến. Tiên vàn chúng ta hãy tìm kiếm nước trời, mọi sự khác Người sẽ ban thêm cho. Vì sự sống hay chết đều nằm trong sự quan phòng của Chúa. Chúa Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Vì vậy, Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc; vì mạng sống thì hơn của ăn, và thân thể thì hơn áo mặc” (Lc 12,22-23).

Chúa Giêsu đã chết và đã sống lại. Sự chết không còn làm chủ được Người nữa. Người đã đi vào sự sống vĩnh cửu. Chúa phán: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống” (Ga 11,25). Chúng ta cần đặt niềm tin tưởng vào Chúa Kitô Phục Sinh. Nơi Người, chúng ta sẽ tìm được câu giải đáp cho thân phận con người. Thiên Chúa tạo dựng loài người là muốn cho tất cả mọi người được chung hưởng niềm hạnh phúc viên mãn.

Chúa Giêsu là đường dẫn đến sự sống thật. Người là sự thật đưa dẫn đến sự sống đời đời và sự sống thật là con đường kết hợp mật thiết với Đấng Tạo Thành. Chúa Giêsu trở thành trung tâm cốt lõi cho tất cả mọi suy tư tìm kiếm nguồn chân lý, sự thánh thiện và sự hoàn hảo tuyệt mỹ.

Lạy Chúa, Chúa là đường, là sự thật và là sự sống. Xin Chúa dẫn dắt chúng con theo đường chân lý của Chúa để chúng con được hưởng niềm vui sự sống muôn đời.

 

 

 

 

 

20. Đường về Nhà Cha

 

Có lẽ những ai đã học qua chương trình Văn Học lớp 12 đều không quên một tiểu tiết vui vui trong truyện ngắn "Đôi Mắt" của Nam Cao. Trong đó, anh Hoàng kể cho anh Độ nghe một câu chuyện "nực cười nhưng chẳng dám cười". Anh kể rằng: "Tôi kể cho anh nghe chuyện nầy thế nào anh cũng cho là bịa. Nhưng tôi có bịa tí nào, tôi chết. Một hôm, tôi đi chợ Huyện chơi. Ở nhà đã hỏi đường cẩn thận rồi, nhưng đến một ngã ba, lại quên béng mất, không biết phải rẽ lối nào. Đành đứng lại, chờ có người đi qua thì hỏi, chờ mãi mới thấy có một anh thanh niên vác một bó tre đi tới. Tôi chào rồi hỏi: 'Đi chợ Huyện lối nào, ông làm ơn chỉ giúp tôi'... Anh ta bảo: 'Ông cứ đi lối nầy, đến chỗ có một cây đa to thì rẽ về tay phải, đi một quãng lại rẽ về tay trái, qua một cánh đồng, vào đường gạch làng Ngò, vòng ra đằng sau đình, rẽ về tay phải, đi một quãng nữa thì đến chợ'. Đại khái như thế chứ không hoàn toàn đúng như thế. Chỉ biết nó lôi thôi rắc rối, nhiều bên phải bên trái, đến nỗi tôi không tài nào nhận ra được. Cuối cùng, anh bày cho tôi một cách: Đứng đợi đấy, gặp ai gánh hàng đi chợ thì đi theo...".

Tình huống của anh Hoàng đôi khi chúng ta cũng có thể gặp phải. Nếu ta đang ở một nơi xa lạ cần phải hỏi thăm đường đi. Đôi khi cách chỉ đường quá phức tạp đến nỗi ta "hỏi cũng bằng không". Nhưng cũng có thể ta may mắn gặp được một người tử tế, nhiệt tình, người ấy nói: "Thật khó chỉ cho anh. Thôi, anh cứ đi theo tôi, tôi sẽ dẫn anh đi".

Bối cảnh Tin Mừng hôm nay cho ta thấy tâm trạng âu lo của các Tông đồ khi biết mình sắp phải đơn độc. Trong Bữa Tiệc Ly, khi được biết Thầy không còn ở với mình nữa, các Tông đồ đã hết sức hoang mang và xao xuyến. Chúa Giêsu biết được tâm trạng của các ông nên Người đã trấn an, đồng thời hé mở cho các ông thấy việc ra đi của Người hoàn toàn cần thiết và có lợi cho các ông: "Anh em đừng xao xuyến!... vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em". Tôma vẫn chưa yên tâm vì chưa biết làm sao đi đến đó được. Ông hỏi Thầy: "Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao biết được đường?". Chúa Giêsu không chỉ đường bằng cách đưa ra nhiều phương hướng phức tạp. Thay vào đó, Người nói: "Thầy là Đường, là Sự thật và là Sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy".

Như thế, Chúa Giêsu đã chỉ rõ mục đích của cuộc hành trình đời người là về với Thiên Chúa là Cha; và trong cuộc hành trình đó, chính Chúa Giêsu vừa là con đường, vừa là người dẫn đường cho mọi người.

Thật vậy, bước vào cuộc trần nầy là chúng ta bước vào một cuộc hành trình, hành trình hướng về Thiên Chúa là nguồn cội và cùng đích của đời mình. Nhưng con đường đến với Thiên Chúa không phải lúc nào cũng bằng phẳng. Nếu ta tự mình dò dẫm bước đi thì rất dễ lạc mất phương hướng, rất dễ rơi vào trạng thái lo âu chán nản rồi mất cả niềm hy vọng. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã dọn đường dẫn lối cho ta. Đi trên con đường Giêsu, ta không bao giờ sợ lạc lối. Trên con đường Giêsu, ta không đi lẻ loi một mình mà có Chúa Giêsu dẫn bước ta đi, có những anh chị em cùng đồng hành với ta.

Do đó, mỗi người chúng ta hãy hoà cùng cộng đoàn Dân Chúa, vững tâm tiến bước dưới sự dẫn dắt của vị thủ lãnh là Đức Giêsu Kitô. Hãy tin tưởng ta có một mái nhà vĩnh cửu để hướng về, nơi đó ta sẽ có một cuộc sống thật, một cuộc sống hạnh phúc đời đời.

 

 

 

 

 

21. Đường tình yêu

(Trích “Như Thầy Đã Yêu” của Thiên Phúc)

 

Đức Khổng Tử trong giờ phút lâm chung cho gọi thầy Tăng Tử là môn đệ mà Ngài đặt nhiều tin tưởng, đến bên giường bệnh và nói:

- Này Tăng Tử con ơi! Trước giờ thầy nhắm mắt lìa đời, con có điều gì thắc mắc về nhữnglời ta đã cùng con thảo luận?

Thầy Tăng Tử đáp:

- Bạch Thầy, Thầy quả là bậc chí nhân quân tử. Những lời Thầy đã chỉ dạy làm cho chúng con thấy khó mà thực hiện cho trọn vẹn.

Đức Khổng Tử mới nói:

- Này Tăng tử, trong các điều ta đã giáo huấn có điều đúng, có điều sai. Nhưng có một cái mà ta chắc chắn không bao giờ sai đó là điều ta không biết!

***

Đức Khổng Tử là bậc thánh hiền, học thuyết của ông đã ảnh hưởng đến bao đời, thế mà trước lúc lâm chung, ông phải tự nhận mình không biết gì. Khác với Khổng Tử là người chỉ đường Đức Giêsu chính là đường. Trước khi lìa các môn đệ để về cùng Cha, Người đã khẳng định: “Chính Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua thầy” (Ga 14,6).

Đức Giêsu chính là Đường, dẫn chúng ta đi từ nhịp cầu đau khổ đến bến bờ vinh quang, từ cõi chết trở về cõi sống, từ đời sống tạm bợ tới cuộc sống vĩnh hằng, từ trần gian tục lụy về quê hương Thiên đàng.

Đức Giêsu chính là sự thật. Sự thật tuyệt đối, sự thật về một Thiên Chúa yêu thương và cứu chuộc con người. Sự thật sẽ giải thoát chúng ta (Ga 8,32)

Đức Giêsu chính là Sự Sống. sự sống vĩnh cửu, sự sống từ cung lòng Cha ban cho mọi loài được sống. Sự sống đã giải thoát con người khỏi chết muôn đời.

Người chính là Đấng cứu độ duy nhất. Cũng như “mọi con đường đều dẫn tới Roma”, thì mọi con đường cứu độ đều phải dẫn đến con đường Giêsu. Tất cả loài người đều được cứu độ nhờ danh của Người, kể cả những con người không biết Người, nhưng sống theo lương tâm ngay lành, đều được Người ban ơn cứu độ. Sách công vụ tông đồ viết: “Thiên Chúa không ban một danh nào khác dưới bầu trời, để nhờ danh đó mà chúng ta được ơn cứu độ” (Cv 4,12).

Con đường của Người là đường phục vụ, đường yêu thương. Vì thế những ai muốn đi trên con đường của Người cũng phải dấn thân phục vụ anh chị em, và tận tình yêu thương con người.

Con đường của Người là đường thánh giá, đường đau khổ. Vì thế những ai bước đi trên con đường ấy cũng phải dám hy sinh bản thân, và sẵn lòng chịu khổ vì danh Đức Giêsu.

Hy sinh bao giờ cũng cho tâm hồn đẹp cao thượng. Với tình yêu, những khó khăn kia dường như nhỏ lại, những vất vả như bị xóa nhòa. Lòng chúng ta lại thấy vui hơn, cuộc đời thênh thang rộng mở.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã về với Chúa Cha trong vinh quang sau khi đã sống một đời yêu thương tự hiến. Xin cho chúng con cũng biết đi trên con đường của Chúa, là yêu thương phục vụ anh em, để cuối con đường thập giá và đau khổ chúng con được hợp hoan với Chúa trong vinh quang Nước Trời. Amen.

 

 

 

 

 

22. Vững tin vào Thiên Chúa, không xao xuyến

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

 

Bước vào Chúa nhật thứ V Phục Sinh, Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta đọc và suy niệm về những lời của Chúa Giêsu trước lúc ra đi về Trời. Sắp từ giã Thầy yêu quí, tâm trạng các môn đệ không khỏi " xuyến xao", vì họ hiểu rằng con đường Thầy đi qua sẽ là cái chết ; và có lẽ họ lo cho sự sống của chính mình. Chúa Giêsu trấn an họ: "Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy " (Ga 14,1). Người mời gọi họ hãy tin vào Thiên Chúa là Chúa của Israel, Đấng đã cứu dân Ngài vượt qua Biển Đỏ, nay hãy tin vào Người, Người cũng sẽ cứu họ vượt qua dòng nước của sự chết. Khi nói thế, Chúa Giêsu không chỉ quả quyết rằng cái chết không thể cầm giữ được Người nữa, Người còn cho các môn đệ biết Người sẽ làm một cuộc xuất hành với các ông là mở lối đi cho dân mới của Thiên Chúa.

"Thầy đi để dọn chỗ cho các con" (Ga 14,2). Lời nói trên biểu lộ ý nghĩa cứu độ của Chúa Giêsu. Người ra đi để chuẩn bị chỗ cho các ông và xin Chúa Cha ban cho mỗi người một chỗ trong nhà của Chúa Cha. Vì yêu thương, nên Người muốn, Người ở đâu, thì chúng cũng ở đó với Người.

Dường như Chúa Giêsu muốn gợi ý khiến Tôma thắc mắc khi nói: "Thầy đi đâu, các con đã biết đường rồi" (Ga 14,4). Đường nào, và đi đâu các ông nào có hay, khiến Tôma phản ứng: "Lạy Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường đi?" (Ga 14,5). Đó là lý do để Người khẳng định: "Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống" (Ga 14,6). Ai bước đi trên con đường Giêsu, thì sẽ được về cùng Chúa Cha, vì Người chính là đường đi. Không có con đường nào khác để về cùng Chúa Cha, để đạt tới mục đích cuối cùng của đời người, ngoài con đường Giêsu, Người đã tuyên bố: "Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy " (Ga 14,6).

Chúa Giêsu là Sự Thật, là Chân Lý; Người cho chúng ta biết sự thật về Thiên Chúa và sự thật về con người. Nhờ Chúa Giêsu chúng ta biết rõ Thiên Chúa đích thực là ai và con người là ai, sinh ra ơ trần gian để làm gì và chết rồi sẽ đi đâu. Người mặc khải cho chúng ta biết Thiên Chúa là Tình Thương, và ai yêu thương thì sẽ giống như Thiên Chúa.

Chúa Giêsu là Sự Sống; Người đến thế gian trao ban sự sống của Thiên Chúa cho con người, với sứ mạng đến trần gian để cho nhân loại được sống và sống dồi dào (x. Ga 10,10). Người là Đấng cứu tinh, Người đến giải thoát chúng ta khỏi mọi sự dữ, khỏi mọi tội lỗi và khỏi chết đời đời, nay Người trở về nhà Cha sau một hành trình dài. Người cảm thấy hạnh phúc biết bao khi được trở về "nhà Cha"! Niềm vui ngập tràn trước lúc lên đường, hạnh phúc và niềm vui ấy cần được chia sẻ. Người đi chuẩn bị cho mỗi người một chỗ, đích thân Người sẽ trở lại đón chúng ta đi. Chúa Giêsu đến thế gian ấp ủ trong lòng sự khắc khoải là một ngày nào đó đón được chúng ta về nhà " Cha của Người và cũng là Cha chúng ta, Thiên Chúa của Người cũng là Thiên Chúa của chúng ta " (Ga 20,17) để chia sẻ sự sống thần linh với Thiên Chúa và sẽ sống với Chúa Giêsu Ktiô trong cung lòng Chúa Cha.

Đối với Philipphê, chỉ cần thầy Chúa Cha là đã đủ rồi, nên ông thưa: "Lạy Thầy, xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha, và như thế là đủ cho chúng con" (Ga 14,8). Thêm một cơ hội để Chúa Giêsu mạc khải Thiên Chúa Cha, Người nói: "Thầy ở với các con bấy lâu rồi, thế mà con chưa biết Thầy ư, Philipphê? Ai thấy Thầy là xem thấy Cha, sao con lại nói 'Xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha'? Con không tin rằng Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy ư? (Ga 14, 8-10).

Đúng theo những lời Đức Kitô đã nói với Philípphê, việc "thấy Chúa Cha" việc thấy Thiên Chúa trong đức tin - đạt được trong sự gặp gỡ lòng thương xót của Ngài một cấp độ đơn sơ và chân thật nội tâm giống như cấp độ chúng ta nhận ra trong dụ ngôn người con hoang đàng (Lc 15,11s).

"Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha" (Ga 14,9). Tất cả những gì làm thành việc "thấy" Đức Kitô trong đức tin sống động và trong lời giảng dạy của Giáo Hội đều đưa chúng ta lại gần việc "thấy Chúa Cha" trong sự thánh thiện của lòng Ngài thương xót. Trích Thông điệp "Thiên Chúa Đấng giầu lòng thương xót số 13".

Ở chỗ khác Chúa Giêsu nói, "Ta ở trong Cha và Cha ở trong Ta, Ta và Cha là Một" (Ga 10,30). Thật lôgích để nói rằng "ai thấy Thầy là xem thấy Cha"; nghĩa là ai đón nhận Lời Chúa Con trong đức tin, thì cũng biết Chúa Cha mà Chúa Giêsu mạc khải rõ khuôn mặt đích thực.

Vượt qua ngưỡng cửa này, những người tin được hứa: "Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm những việc Thầy đã làm. Người ấy còn làm được những việc lớn lao hơn" (Ga 14,12). Mỗi người chúng ta có ơn gọi mạc khải khía cạnh sự dịu dàng vô biên của Chúa Cha, "Đấng đã gọi anh em ra khỏi tối tăm mà vào ánh sáng kỳ diệu của Người" (1 Pr 2,9) đây là cách chúng ta trở nên "những tảng đá sống động, xây dựng toà nhà thiêng liêng," được xây dựng trên "nền tảng" là chính Chúa Kitô.

Như các môn đệ sau ngày Lễ Ngũ Tuần, "đầy đức tin và Chúa Thánh Thần" họ là "dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân tộc thánh thiện, dân riêng của Chúa" (1 Pr 2,5), có trách nhiệm loan báo cho mọi người biết Chúa Giêsu là con đường chân chính, Người sẽ dẫn đưa chúng ta sự sống đời đời. Thiên Chúa nhắc lại cho chúng ta và tất cả những người mà chúng ta được sai đến: "Các điều ấy Ta đã nói với các ngươi rồi, ngõ hầu sự vui mừng của Ta có nơi các ngươi, và sự vui mừng của các ngươi được nên trọn" (Ga 15,11).

Lạy Mẹ Maria, giữa bao nghịch cảnh của cuộc đời, xin giúp con vững tin vào Chúa như Mẹ. Amen.

 

 

 

 

 

23. Trở nên hình ảnh Chúa Giêsu – Lm. Trần Ngà

 

Nhiều lần Chúa Giêsu nói về Chúa Cha khiến các môn đệ đâm ra tò mò. Chúa Cha là Ai? Ngài ở đâu? Ngài là Đấng thế nào?

Thế nên Philípphê mới đề nghị với Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện."

Dùng ngôn ngữ vốn rất hạn hẹp của con người để diễn tả mầu nhiệm cao vời về Chúa Cha thì khác chi lấy gang tay đo chín tầng trời. Vì vậy, thay vì dùng lời để diễn giải, Chúa Giêsu dùng phương pháp trực quan. Ngài chỉ cho Philípphê cũng như các môn đệ xem chân dung, xem hình ảnh đích thực của Thiên Chúa Cha. Chân dung đó, hình ảnh đó chính là Ngài: "Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha".

Tiếp theo, Chúa Giêsu cũng tỏ cho các môn đệ biết giữa Ngài và Chúa Cha có một mối hiệp thông hết sức mật thiết. Những lời Chúa Giêsu nói chính là những lời của Chúa Cha được phát ra qua môi miệng Chúa Giêsu: "Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình. (Ga 14,10). Những gì Chúa Giêsu thực hiện trong cuộc đời đều cũng là những hành động của Chúa Cha...

Thế là Chúa Cha tự tỏ mình qua Chúa Giêsu. Nhìn vào Chúa Giêsu, nhân loại sẽ biết được Thiên Chúa Cha.

* * *

Thánh A-tha-na-si-ô đã diễn tả chân lý nầy như sau: "Chúa Cha được bày tỏ qua Chúa Con và Chúa Con được bày tỏ qua Giáo Hội." Nói khác đi, Chúa Con là hình ảnh trung thực của Chúa Cha, còn Giáo Hội là hình ảnh trung thực của Chúa Con, và chúng ta, vì là thành phần của Giáo Hội, nên cũng phải là hình ảnh trung thực của Chúa Giêsu.

* * *

Theo nhật báo Chứng Nhân kitô hữu (Témoignage Chrétien), vào năm 1941 có một vị linh mục bị Đức Quốc Xã giam trong trại tập trung dành cho người gốc Do Thái. Như bao tù nhân khác, ngài cũng bị hành hạ và ngược đãi thậm tệ. Tuy nhiên ngài vẫn vui vẻ và luôn sẵn sàng giúp đỡ anh em đồng cảnh ngộ đang lâm vào tình trạng khủng hoảng và tuyệt vọng.

Trong cảnh tù đày đói khát, một vụn bánh còn quý hơn vàng, vậy mà ngài dám chia sớt phần ăn ít ỏi của mình cho những bạn tù yếu sức hơn.

Những lúc trời rét buốt xương, tấm áo len được xem là kho tàng vô giá, thế mà có lần ngài tặng không chiếc áo len đang mặc cho bạn tù đang lâm trọng bệnh nằm run cầm cập trong xó nhà.

Ngài là nhịp cầu yêu thương giữa những kẻ bất hoà, đem sự khích lệ tinh thần cho những tâm hồn sầu muộn... Ngài đã cứu được mấy bạn tù tuyệt vọng khỏi tự huỷ mình nhờ những khuyên lơn an ủi... Vì thế, các tù nhân trong trại rất yêu quý và xem ngài như người cha thứ hai. Họ đều gọi ngài cách thân thương là... Bố.

Trong trại tù còn có một thanh niên bụi đời, lớn lên nơi đầu đường xó chợ, căm hờn mọi người, không ngần ngại phạm bất kỳ tội ác nào.

Vị linh mục khả ái từng bước tiếp cận, trò chuyện, giúp đỡ, khuyên răn, và cuối cùng đã cảm hoá được chàng thanh niên chai đá và tưởng chừng như vô phương cứu chữa nầy. Ngài cũng mong ước dần dần dẫn dắt cậu về với đạo thánh Chúa.

Thế rồi, một hôm, có lệnh chuyển cha sang trại Ao-sơ-vích (Auschwitz), một trại tập trung mà chỉ mới nghe danh xưng, mọi trại viên đều phải kinh hoàng. Đó là lò hủy diệt con người bằng những hầm hơi ngạt và lò thiêu xác.

Trước khi chia tay với các bạn tù và đặc biệt với cậu thanh niên mới hoàn lương, ngài quyết định phải giới thiệu đôi nét về Chúa Giêsu cho cậu với hy vọng cậu sẽ trở thành người con Chúa.

Ngài vỗ vai cậu và ôn tồn nói "Này, con yêu của Bố, đã từ lâu Bố rất mong con nhận biết và trở thành môn đệ Chúa Giêsu."

Cậu thanh niên thưa lại: "Nhưng con chưa biết gì về Chúa Giêsu cả. Bố có thể kể sơ lược về Ngài cho con biết được không?"

Biết mình không còn thời gian để giới thiệu dông dài vì giờ chuyển trại sắp đến, vị linh mục già thinh lặng cúi đầu, cầu nguyện giây lát, rồi ngài ngẩng lên khiêm tốn đáp: "Chúa Giêsu mà Bố muốn cho con tin và yêu mến, Ngài giống như Bố đây!"

Bấy giờ cậu thanh niên nhìn thẳng vào mắt ngài cách trìu mến và chân thành đáp lại: "Nếu Chúa Giêsu mà giống Bố thì có thể một ngày nào đó, con sẽ tin và yêu mến Chúa Giêsu!"

Sau thế chiến thứ hai, người ta không còn gặp lại vị linh mục nầy nữa. Còn cậu thanh niên thì được sống sót qua các trại tập trung trở về với gia đình và đã thuật lại câu chuyện trên đây về một mục tử đã thực sự trở thành hình ảnh trung thực của Chúa Cứu Thế. Cũng chính nhờ hình ảnh Chúa Giêsu ngời sáng lên nơi con người và cuộc đời của vị mục tử tốt lành nầy, chàng thanh niên được cảm hoá và trở thành người con Chúa.

Lạy Chúa Giêsu,

Đã bao lần chúng con làm cho khuôn mặt Chúa trở méo mó, biến dạng và có thể là rất khó thương vì đời sống không đẹp của chúng con.

Xin cho chúng con biết nhìn lên Chúa như một khuôn mẫu tuyệt vời để đào tạo bản thân mình thành con người mới, có phẩm chất cao đẹp, có đạo đức và văn hoá để nhờ đó, chúng con trở thành hình ảnh trung thực về Chúa cho thế giới hôm nay.

 

 

 

 

 

24. Khát vọng đời thường

 

Trong đời sống đức tin của người Công giáo, hình ảnh mà chúng ta có về Thiên Chúa là rất quan trọng. Bởi lẽ, tuỳ như hình ảnh mà mình nuôi dưỡng về Thiên Chúa như thế nào, thì mình sẽ xây dựng đời sống đạo đức của mình như thế.

1. Hình ảnh con người có về Thiên Chúa trong Cựu ước:

Nhìn lại lịch sử dân Do Thái qua những trang Kinh Thánh thời Cựu Ước, chúng ta thấy được rằng: đối với họ,Thiên Chúa còn là một vị thần quá xa vời, mặc dầu họ vẫn cảm nhận được rằng Ngài rất yêu thương họ, luôn bảo vệ họ và ở với họ trong mọi biến cố quan trọng của đời sống. Vì thế, tâm tình của họ dành cho Thiên Chúa là sợ hãi hơn là yêu mến. Họ sợ Thiên Chúa vì: "có ai nhìn thấy Thiên Chúa mà còn được sống bao giờ". Chẳng hạn Ông Ma-nô-ác liền nói với vợ: "Chúng ta chết mất thôi, vì đã thấy Thiên Chúa." (Tl 13,22), hay Ông Gia-cóp đặt tên cho nơi đó là Pơ-nu-ên, "vì ông nói: tôi đã thấy Thiên Chúa mặt đối mặt, mà tôi đã được tha mạng." (St 32,31), nên họ sợ nhìn thấy Thiên Chúa và sợ gặp Thiên Chúa lắm. Những hình ảnh ấy nếu không được giải thích cho tận tường có thể sẽ làm méo mó khuôn mặt đích thực về Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa vẫn chấp nhận cho con người tô vẽ về Ngài với những điều chưa đúng đắn ấy để dần dần Ngài sẽ dẫn đưa họ tới sự thật về Ngài khi đến giờ Ngài đã định.

2. Khuôn mặt đích thực của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô:

Đến thời Tân Ước, thời của Chúa Giêsu Kitô đến làm người và sống với con người, thì mọi mặc khải rõ ràng và chuẩn mực về Thiên Chúa được trình bày cho con người. Đức Giêsu đã âu yếm gọi Thiên Chúa là Cha và dạy cho con người biết nhìn về Thiên Chúa như người Cha đích thực của mình; một sự thật vượt quá suy nghĩ và tưởng tượng của con người. Ngài không ngừng nói về Thiên Chúa Cha cho con người qua những dụ ngôn "người cha nhân hậu", "ông chủ thương xót tên đầy tớ"... Thiên Chúa là một người cha hết mực yêu thương con người dù Ngài vẫn là Thiên Chúa toàn năng và là Thiên Chúa sáng tạo mọi loài.

3. Khát vọng của con người về Thiên Chúa:

Các môn đệ của Đức Giêsu ao ước được nhìn thấy Cha lắm. Do đó, Philipphê đã không bỏ qua cơ hội xin Đức Giêsu cho mình và anh em được nhìn thấy Thiên Chúa Cha khi Ngài nói về Thiên Chúa Cha cho họ "Lạy Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Cha và như thế là đủ cho chúng con".

Khát vọng của Philipphê và của các tông đồ cũng là khát vọng của biết bao con người trên thế gian này, những con người thiện chí không ngừng tìm kiếm Thiên Chúa, Đấng mà họ gọi bằng những tên gọi khác nhau: Đấng tối cao, Đấng Tạo thành, Thượng Đế... Con người muốn bắc một nhịp cầu với Đấng siêu việt, muốn cảm nghiệm và tương quan với Đấng Tạo hoá. Khát vọng ấy suy cho cùng là chính đáng, là khôn ngoan. Bởi lẽ, con người nào mà không muốn biết mặt, không muốn nhìn thấy và sớ mó đến cha của mình bao giờ, nhất là người cha ấy lại là Thiên Chúa.

Thiên Chúa đã thấu hiểu nỗi niềm của con người nên Ngài đã đáp lại khát vọng ấy khi cho Con Một của Ngài làm người và ở giữa chúng ta. Để qua Đức Giêsu Kitô, chúng ta được gặp gỡ Chúa với chính Thiên Chúa, được diện kiến mặt đối mặt với Ngài, một Thiên Chúa dễ gần, dễ thấy, dễ quen, dễ cảm thông với con người. Như vậy, Thiên Chúa đâu chỉ ở nơi cao thẳm ngàn trùng hay vô phương thấu đạt nữa. Qua Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa hiện diện cách khiêm hạ với con người. Nhưng điều này con người không dễ chấp nhận nếu không được Thiên Chúa ban ơn đức tin cho họ. Đức Giêsu đã nói "Ai thấy Thầy là thấy Cha" vì "Cha ở trong Thầy và Thầy ở trong Cha" (Ga 14,10) và Ngài còn mạnh dạn khẳng định "Cha và Tôi là một". Đây là một sự gắn bó và kết hiệp cách lạ lùng giữa Đức Giêsu và Cha của Ngài và cũng là Thiên Chúa của chúng ta.

Sự hiệp thông giữa Chúa Giêsu và Thiên Chúa Cha đạt tới sự trọn vẹn để giờ đây lời nói và việc làm của Chúa Giêsu chính là lời nói và việc làm của Chúa Cha. Toàn bộ cuộc đời của Chúa Giêsu được Cha chiếm ngự. Đức Giêsu trở nên một tấm gương trong suốt phản chiếu trái tim và khuôn mặt của Thiên Chúa: đầy lòng nhân ái và hết mực bao dung với hết mọi người "Ai thấy Thầy là thấy Cha".

Sứ mạng của mỗi người chúng ta là hãy sống như Đức Giêsu đã sống. Chúng ta hãy cố gắng sao cho đời sống của mỗi người chúng ta trở nên trong suốt khỏi những lớp bụi mờ của lòng ích kỷ, ghen tương, hận thù, để người khác nhìn thấy được Đức Giêsu trong chúng ta. Sứ mạng của người Kitô hữu là trở nên một Chúa Kitô khác cho con người hôm nay, là phấn đấu để nói lên rằng: "Ai biết tôi là biết Đức Giêsu. Ai thấy tôi là thấy Đức Giêsu" và như thế cũng là biết và thấy Thiên Chúa vậy.

Jack là một công nhân khai thác đá. Anh tuy ít học, nhưng lại có một đời sống rất tất lành. Anh gần gũi, cảm thông và chia sẻ với mọi người trong những công việc nặng nhọc hay nhẹ nhàng. Không ai thấy sự nóng nảy, cáu gắt trên khuôn mặt của anh bao giờ, dù có những lúc anh làm việc rất vất vả... Một người bạn của anh hỏi anh: "Này Jack, tại sao anh đối xử tốt với mọi người như vậy?". Anh đơn sơ trả lời rằng: "vì Chúa dạy tôi như vậy đó". Bạn anh lại tiếp tục hỏi anh: "Chúa của anh ra sao?" Anh quá bối rối trước câu hỏi này vì anh không phải biết trình bày Chúa của mình như thế nào để cho bạn anh hiểu đây. Nhưng sau một phút ngập ngừng, anh trả lời với bạn của anh rằng: "Chúa tôi giống như tôi vậy nè". Người bạn của Jack nghe vậy quá xúc động và nói với anh rằng: "Vậy thì tôi xin tin vào Chúa của anh". Vài ngày sau, người ta thấy Jack dẫn người bạn của mình đến một ngôi nhà thờ gần đó để người ấy được gia nhập vào đạo và trở thành Kitô hữu.

Xin Chúa cho mỗi người chúng ta không ngừng khao khát trở thành hình ảnh của Đức Giêsu và của Thiên Chúa Cha trong cuộc đời mình bằng một đời sống yêu thương phục vụ và hy sinh vì anh em đồng loại, để mọi người nhận ra được khuôn mặt đích thực của Thiên Chúa và để cho Danh Ngài được cả sáng khắp mọi nơi. Amen.

 

 

 

 

 

25. Con đường Giêsu

 

Cái trớ trêu của các môn đệ Chúa là các Ngài đã sống với Chúa một thời gian đủ để nhận, hiểu và biết Chúa, nhưng các Ngài vẫn tỏ ra thật ngớ ngẩn khi Chúa nói: "... Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó. Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi". Ông Tôma nói với Đức Giêsu: "Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?".

Đọc lại Kinh Thánh, chúng ta hiểu được rằng Lời của Chúa thường ví cuộc đời như một cuộc hành trình. Từ lúc Ađam và Evà trốn Chúa tới Nôe và cả đại gia đình của ông xuống tàu, Abraham cùng gia đình ra đi tới một vùng đất thật xa lạ, đến ngày vội vã ra đi của Mẹ Maria, thánh cả Giuse và Hài Nhi Giêsu sang đất Ai Cập, và cả một cuộc đời di chuyển rầy đây mai đó của Chúa Giêsu. Những hình ảnh này diễn tả cuộc hành trình đức tin không ngừng của người Kitô hữu. Đời con người là một cuộc hải hành, là một cuộc hành trình không ngừng. Sinh ra, lớn lên với tất cả tranh dành để sống, rồi tuổi già đến, tất cả đều cho con người thấy cuộc đời ở trần gian chỉ là tạm bợ mà thôi. Chúa Giêsu đã cho ta thấy chính Ngài đã trải qua cuộc đời này bằng biết bao nhiêu cuộc hành trình: Chúa sinh ra trong cuộc hành trình, cha mẹ Ngài trở về quê khai lại sổ nhân danh, Ngài vừa sinh ra đã được cha mẹ vội vàng đưa đi lánh nạn bên Ai Cập. Năm 12 tuổi, Chúa cũng lạc mất trong một cuộc hành trình về Giêrusalem mừng lễ. Những năm rao giảng, Ngài đi không mệt mỏi khắp vùng Palestina và các vùng phụ cân. Cuối cuộc hành trình của đời sống trần thế của Ngài là Giêrusalem và đồi Canvê. Qua cả một cuộc đời hành trình, Chúa Giêsu đã tuyên bố:" Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống". Tuyên bố như vậy, Chúa Giêsu muốn nói lên một sự thực: ''Ai tin vào Ngài và đi theo Ngài" sẽ không bao giờ bị trệch hướng trong cuộc hành trình đức tin dài lâu của mình.

Thánh Gioan Phaolô II cũng đã từng nói về Đức Mẹ là Mẹ Chúa Giêsu, vào ngày 16.10.1978 tại Quảng Trường thánh Phêrô: "Tôi trình diện với hết thảy anh chị em để tuyên xưng đức tin chung của chúng ta, lòng trông cậy và tín thác của chúng ta nơi Đức Mẹ Chúa Kitô và nơi Giáo Hội, và cũng là để lại - khởi hành trên con đường lịch sử là con đường Công Giáo tông truyền". Thánh Gioan Phaolô II đã đặt Triều Đại Giáo Hoàng của Ngài dưới lá cờ phù hộ đặc biệt của Đức Mẹ Maria. Cả triều đại của Chân Phước Gioan Phaolô là một cuộc hành trình. Bởi vì, nói cho cùng tất cuộc đời trần thế là một cuộc hành trình đức tin liên lỉ. Thánh Tôma lúc đó vẫn chưa hiểu lời của Chúa Giêsu nói. Do đó, Tôma đã thưa với Chúa: "... chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường". Thánh Tôma làm sao biết được Chúa Giêsu tự nhận là đường. Con đường tình yêu, con đường mở ra hạnh phúc. Con đường hy vọng, con đường tin yêu, con đường cứu độ. Con đường ấy có tên Giêsu. Chúa Giêsu là đường, là sự thật và là sự sống, bởi vì Ngài là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình. Ngài đến trần gian là để hướng dẫn con người về với Thiên Chúa Cha, đạt được hạnh phúc đích thực và được thông dự vào sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi. Trong Chúa Kitô, chúng ta tìm được con đường và được mời gọi vươn cao lên mãi, vươn lên không ngừng. Càng mặc lấy Đức Kitô, chúng ta càng cảm nghiệm sâu xa lời của thánh Phaolô tông đồ: "Tôi sống nhưng không phải tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi".

Con người là con đường dẫn tới Thiên Chúa. Nên, dù chưa thấy Nhan Thánh Chúa qua Chúa Giêsu Kitô, con người vẫn có thể đi vào tương quan mật thiết với Ngài. Con người đến với Chúa bằng một tương quan thân mật Cha-Con. Chúa dạy chúng ta hãy đi theo con đường của Chúa trong suốt cuộc sống trần thế của chúng ta. Có Chúa, chúng ta sẽ hiên ngang vững bước và như thánh Phaolô trong thư Philíp đã nói: “Tôi có thể làm được mọi sự trong Đấng ban sức mạnh cho tôi". Có Chúa chúng ta sẽ không cô đơn vì Chúa đã hứa: “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế". Chính vì thế, cuộc hành trình đức tin của chúng ta sẽ không vô ích bởi vì chắc chúng ta đang tìm hạnh phúc nghĩa là tìm thông hiệp với Chúa, chắc chắn chúng ta sẽ đạt được.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa là ánh sáng, là đường, là sự thật, xin hướng dẫn chúng con để chúng con lúc nào cũng đi trên con đường của Chúa và sau cõi đời này, chúng con được về quê trời với Chúa. Amen.

 

 

 

 

 

26. Con đường mang tên Giêsu

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

 

Theo Báo Thanh Niên số 69 ngày thứ ba 30.4.1996, Thành phố Hồ Chí Minh đang tiến hành công việc chỉnh đổi tên đường trên địa bàn toàn thành phố. Bởi vì trong hơn 1000 con đường của thành phố có khoảng 100 con đường trùng tên và hơn 300 con đường mang số. Đợt đổi tên này sẽ đặt tên mới cho các con đường trên. Ngoài ra, một số nhân vật lịch sử trước kia có tên đường, nhưng đã bị huỷ bỏ, nay có thể sẽ được phục hồi, như gần đây đã phục hồi tên đường cho Giáo sĩ Alexandre de Rhodes.

Tới đây, dự kiến sẽ có con đường mang tên Đức Tổng Giám Mục Phaolô Nguyễn Văn Bình. Con đường TGM. Nguyễn Văn Bình sẽ thay thế đường Nguyễn Hâu, nối liền đường Hai Bà Trưng với bên hông Nhà Thờ Chính Toà và Công Xã Paris với công viên Nữ Vương Hoà Bình trước mặt tiền Vương Cung Thánh Đường Đức Bà.

Có một con đường thật danh tiếng và luôn luôn nổi tiếng, không thể thay đổi được, từ hai mươi thế kỷ nay, trong Giáo Hội chúng ta ai cũng biết, đó là con đường mang tên Giêsu. Chính Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Ta là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống”. Trả lời cho ông Tôma, đồng thời Chúa Giêsu để lộ cho biết từ nay chỉ có một con đường duy nhất được mở ra trong ơn Cứu Độ, và tên gọi con đường ấy chính là Ngài.

Ngài là Đường Sự Thật, bởi Ngài là Chân Lý, một chân lý sống động khả tín làm nền tảng và hướng đi cho mọi cuộc đời, một thực tại năng động đầy Thần Khí làm sức mạnh giải thoát cho mọi kẻ tin. Đường Sự Thật không phải là một hệ thống giáo điều, nhưng là toàn thể cuộc sống, lời nói và việc làm của Chúa Giêsu trong ý nghĩa cứu độ. Nhưng đâu phải ai cũng nhận ra con đường Sự Thật này. Tổng trấn Philatô, giữa phiên toà dịp lễ Vượt Qua, trước mặt Chúa Giêsu, đã hỏi một câu ngớ ngẩn: “Sự thật là gì?”. Chúa Giêsu không trả lời. Vì hỏi là đã trả lời rồi: Sự thật hiện thân chính là Ngài đang đứng đó. “Ta là Sự Thật”.

Ngài là Đường Sự Sống, bởi vì Ngài là Sự Sống thượng nguồn phát sinh các sự sống khác trong công trình sáng tạo, và là sự sống cội nguồn mà mọi sự sống khác phải tìm về trong công cuộc tái tạo của ơn Cứu Độ. Ngài thông ban sự sống cho mọi sinh linh và luôn đi bước trước để lôi kéo mọi người về với sự sống của Thiên Chúa. Ngài chịu chết để nhân loại được sống và Ngài sống lại để mãi mãi mở ra nẻo đường dẫn vào cõi sống. Mọi sự sống trần gian có thể đổi thay tan biến, nhưng sự sống Ngài là vĩnh cửu thường tồn. Ngài hằng sống hằng trị muôn đời.

Ngài là Đường dẫn tới Nhà Cha, bởi vì Ngài và Cha là một. Chúa Con ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Chúa Con. Vẫn là một từ ngàn xưa và mãi mãi là một tới ngàn sau. Chính Ngài quả quyết: “Con đường dẫn đến Chúa Cha chính là Thầy”. “Không ai đến được Cha mà không qua Thầy”. “Ai thấy Thầy là thấy Cha”. Cho nên đường mang tên Giêsu tất yếu cũng là địa chỉ Nhà Cha, và ngược lại, tìm đến Nhà Cha cũng là hành trình vào đường Sự Thật và Sự Sống.

Thưa anh chị em,

Dẹp bỏ con đường cũ của thất vọng hoang mang để khai mở con đường mới, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta cất bước lên đường theo Ngài. Đi trên Đường Giêsu là đi bằng cả niềm tin gắn bó hiệp thông của những con người biết mình có một lý tưởng để theo đuổi, và sẵn sàng hy sinh tất cả để đạt được lý tưởng ấy. Trút bỏ những hành trang cồng kềnh của danh lợi thú, đoạn tuyệt với những ngõ cụt lối mòn của cuộc sống khô khan, chấp nhận canh tân để có được bước đi vừa thanh thoát vừa thanh thản của đời nhân đức, chính là “hát lên khúc ca mới trên con đường mới” (Thánh Augustinô). Vì lý tưởng ấy chính là lẽ sống, cũng chính là vinh dự một đời: “Anh em là dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là chủng tộc thánh thiện, dân riêng của Chúa” (Bài đọc 2).

Đi trên Đường Giêsu cũng là đi bằng niềm hy vọng bền vững. “Thầy đi dọn chỗ cho các con”. Vận mệnh tương lai đã mở ra. Không còn xa xôi tít tắp, nhưng đã châm rễ từ cuộc đời này. Sống hôm nay là chuẩn bị sống ngày mai, và ngày mai tại Nhà Cha đã được định hình ngay từ hôm nay trên bước đường lữ thứ của Hội Thánh giữa lòng đời. Đi trong hy vọng là nhận ra rằng con người được tạo dựng để hướng về một cứu cánh, được tái sinh trong giới hạn nhưng không ngừng hướng về vô hạn. Thiết tưởng lời kinh của Thánh Augustinô có thể tóm kết của bước đi hy vọng đã biến thành khát vọng: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con đẻ cho Chúa, nên con mãi khắc khoải cho tới khi được nghỉ ngơi trong Ngài”.

Đi trên Đường Giêsu còn là đi bằng cả tình yêu chan hoà phục vụ. Bài đọc thứ nhất là hình ảnh đẹp về một Giáo Hội trẻ đang cựa mình vươn vai tiến tới. Có những phân công khác biệt: kẻ phục vụ Bàn Thánh, người phục vụ bàn ăn; kẻ chuyên chăm rao giảng Lời Chúa, người chuyên lo hạnh phúc anh em. Nhưng vẫn là nhịp bước đồng hành đặt chân mình trong dấu chân Chúa Giêsu. Và cũng có thể hiểu được rằng: “Con người là con đường của Giáo Hội” (Gioan Phaolô II), là đối tượng mà Giáo Hội yêu mến và phục vụ đến hơi thở cuối cùng, như Chúa Giêsu đã sống. Đó chính là tốc độ mới của tình yêu chan hoà phục vụ trên Con Đường Giêsu hôm nay.

Anh chị em thân mến,

Nếu mai ngày thành phố chúng ta có một con đường mang tên Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình bên cạnh Nhà Thờ Chính Toà thì đó là điều chính đáng. Vì Đức Tổng Giám Mục luôn đặt từng bước chân của Ngài vào đúng vết chân của Chúa Giêsu trên dòng lịch sử dân tộc và thế giới, với niềm xác tín rằng: bước theo dấu chân Ngài là sẽ gặp được niềm vui xum họp đông đủ với mọi người anh em trong Nhà Cha chúng ta trên trời.

Con Đường mang tên Giêsu hôm nay là Con Người sống động đang hiện diện ở đây, trong Thánh lễ này. Ngài lấy Lời Ngài làm ánh sáng chiếu soi Chân Lý và lấy Mình Máu Ngài làm lương thực dưỡng nuôi sự sống. Như thế, Thánh lễ phải là đỉnh cao của lời tuyên xưng: “Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống”, đồng thời là khởi điểm cho hành trình chung bước với Chúa Giêsu trên đường yêu thương phục vụ.

 

 

 

 

 

27. Bước về nhà Cha

 

Ai cũng hiểu về đến Nhà Cha mới là một thành công thật sự cho mọi nổ lực của những người theo Chúa. Nhà Cha được hiểu đó chính là Thiên đàng, nơi con người được sống trong hạnh phúc bất diệt với Thiên Chúa. Đường trần gian đi đã khó, đường về Thiên đàng thì lại càng khó hơn. Đường trần gian có những bóng mờ, thì đường về thiên đàng cũng có khi mịt lối vì những quyến luyến trần gian làm khuất mắt con người. Nếu nói đường đời có nhiều ngã rẽ thì đường nhà Cha chỉ có một lối mòn nhưng khó ai chịu đi đúng hướng. Nhiều người đã tự ý đi theo lối đi của riêng mình.

"Thầy là đường là sự thật và là sự sống" (Ga14,6). Lời Chúa Giêsu như vừa tự giới thiệu về mình, vừa như muốn hối thúc nhiều người hãy đến với Ngài. Chính Ngài sẽ đứng ra dẫn lối, đồng thời Ngài cũng là lối đi duy nhất dẫn về Chúa Cha. "Thầy đi Thầy dọn chỗ cho anh em" (Ga14,2). Đường về nhà Cha có nhiều cách đi. Thành công của kẻ lữ hành là phải đến nơi mình định tới.

Đường đi một mình

Mỗi người phải tự quyết định ngay từ ban đầu, đi hay không đi. Sự quyết định nói lên sự tự do chọn lựa và một trách nhiệm về số phận của mình. Chúa kêu gọi từng cá nhân theo Ngài, dó đó mỗi người phải có lời đáp trả cách riêng tư. Tuy nhiên, cho dù vai trò cá nhân được đề cao đến đâu đi nữa thì con đường đi một mình là con đường nguy hiểm: Mệt lã không ai nâng đỡ; lạc hướng không kẻ chỉ đường; buồn phiền không người an ủi. Nếu biết thế, dại gì ta đi một mình trong khi ta có quyền chọn lựa những cách đi khác: Đồng hành với Chúa và với anh chị em.

Đồng hành với anh chị em

"Và tôi vẫn nhớ hoài một loài cây sống gần nhau thân mới thẳng..." Lời hát như nhắc nhớ con người sống giữa mọi người cần có sự nâng đỡ của người khác để mình được lớn lên. Một sự lớn lên theo đường hướng tốt đẹp. Cây được thẳng là nhờ những cây khác mọc xung quanh mình. Người sống với người cũng rất cần sự nâng đỡ nhau như thế. Hôm nay tôi ngã có người nâng đỡ tôi. Và đến lượt tôi cũng có trách nhiệm để nâng đỡ kẻ khác khi họ cần đến.

Chúa Giêsu đến trần gian, Ngài không chọn duy nhất một "đệ tử ruột" để truyền hết "bí kiếp võ công" cho riêng kẻ ấy. Không, Ngài đã chọn nhiều tông đồ và sai đi "Cứ dấu này mà người ta nhận các con là môn đệ của Thầy là các con hãy yêu thương nhau". Ngài muốn môn đệ của mình phải sống với nhau bằng sợi dây yêu thương không thể tách rời.

Trong tập suy niệm "Đường Đi Một Mình", Cha Nguyễn Tầm Thường có nhắc đến câu chuyện về những người lữ hành trong trận bão tuyết. Người thứ nhất đi đầu và bị ngã quỵ trong cơn bão. Người thứ hai đi ngang qua cúi nhìn rồi bỏ đi. Người thứ ba đi đên thấy và vác kể xấu số đã quỵ ngã ấy. Ông cố chống tuyết, ôm người ngất xỉu trên vai. Đến ngôi làng, người ta thấy xác của người thứ hai chết trên đường. Rõ ràng cái chết bí ẩn không phải vì do cái giá lạnh của tuyết nhưng nằm ẩn kín trong tim của mỗi con người. Người thứ ba còn bước đi nỗi bởi vì khi vác kẻ xấu số trên vai, hơi ấm của họ đã truyền sang nhau nên cả hai còn sống sót. Bấy giờ ông hiểu, có những con đường không thể tự mình đi.

Đồng hành với Chúa Giêsu

Người tông đồ dù cho tự mình có đứng vững ở mức nào, dù bản thân có được sự nâng đỡ của người khác ra sao thì tự bản thân người ấy không thể đến với vinh quang Thiên Chúa được. Tự bản chất có một hố sâu ngăn cách thế giới trên cao và thế giới ta đang sống. Thế giới trên cao không phải là điều gì quá mơ hồ khiến con người không thể vươn tới. Tôma thì coi việc trở về với Cha là điều gì rất bí nhiệm, rất mong manh.

Chúa Giêsu đã tự nói "Thầy là Đường... ai thấy Thầy là xem thấy Cha" (Ga14,6.9). Chúa Giêsu chính là con đường độc nhất dẫn tới nơi duy nhất. Tiếc rằng có nhiều người đã không dám đón nhận con đường ấy. Có nhiều người quá chú ý đến những chi tiết phụ tuỳ. Họ chỉ nghĩ đến những chuyện trước mắt như thiếu phụ Samaria chỉ biết nghĩ đến nguồn nước tươi mát vọt lên từ dòng suối (Ga 4,11-15) mà không nghĩ tới Đấng đang ở trước mặt bà. Họ giống như người Do Thái chỉ trông chờ vào bánh manna mà không màng chi đến Bánh Hằng Sống mà Người đem lại (Ga 6,33).

Đường về nhà cha xem ra đã quá rõ ràng mà không bị bí lối. Chính Chúa Giêsu đã khai mở con đường. Duy chỉ một con đường mà chính Ngài là người dẫn đường và cũng chính Ngài là con đường. Ai theo Người, cùng đi với Người sẽ không hề bị lạc lối bao giờ.

Tâm nguyện

Lạy Chúa đường đời còn nhiều ngã rẽ, khiến con dễ lầm lạc. Xin cho con luôn bước đi trong lối bước duy nhất của Ngài. Đường gian trần còn nhiều bóng mát mời gọi. Xin cho con đừng vì thế mà dừng lại quá lâu nhưng luôn hăng hái tiến về nhà Cha. Vì nhà Cha là nơi hạnh phúc thật mà chúng con kiếm tìm.

 

 

 

 

 

28. Trong Chúa Kitô

 

ĐIỀU KHÔNG THỂ ĐƯỢC ĐÃ CÓ THỂ ĐƯỢC TRONG CHÚA KITÔ

Đoạn này diễn tả cách gián tiếp điểm độc đáo và thâm sâu nhất của cuộc sống Kitô hữu, đồng thời tóm tắt sứ điệp của Phúc Âm theo thánh Gioan. Nó thuộc về toàn bộ lời dạy của Chúa Giêsu nhằm cắt nghĩa về chính thân thế Ngài. Qua đó, Ngài cũng trình bày cho chúng ta rõ Ngài là gì đối với chúng ta và chúng ta phải làm gì đối với Ngài. Chúa Giêsu là người đích thật, giống chúng ta trong mọi sự, ngoại trừ tội lỗi. Đồng thời Ngài thấm nhuần thực tại thần linh sống động đến mức giữa Ngài và Chúa Cha có sự duy nhất và đồng nhất về hữu thể, hiện hữu và bản tính. Đối với chúng ta, Ngài là mặc khải chính xác về Chúa Cha, tỏ bầy cá vị, lời nói, hành động của Chúa Cha. Liên kết với Chúa Giêsu là chúng ta liên kết với Chúa Cha. Đối với Ngài, chúng ta là những kẻ Chúa Cha đã ban cho và Ngài muốn rằng Ngài ở đâu chúng ta cũng được ở đấy với Ngài.

Ngài cầu nguyện và hành động để cho chúng ta được chia phần trong Ngài vào sự sống Chúa Cha thông ban. Ở đây chúng ta đứng trước một mầu nhiệm trí khôn không thấu suốt, nhưng cởi mở đón nhận sự dấn thân linh hoạt do đức tin thúc đẩy. Mọi trang của Phúc Âm thánh Gioan đều gợi ra những suy niệm bất tận. Khi đọc qua đoạn văn ngày hôm nay, chúng ta hãy dừng lại đây đó, như khi đi đường chúng ta thấy một phong cảnh mở rộng, làm cho tâm hồn chúng ta cũng như chân trời sáng ngời lên.

1) Tâm hồn các con thôi đừng bối rối. Các con tin nơi Thiên Chúa thì cũng hãy tin nơi Ta.

Điều này có nghĩa là trọng tâm của đức tin chúng ta chính là Ngài, con người Ngài, sứ điệp Ngài. Người ta có thể thắc mắc: làm sao Chúa Giêsu Kitô cũng là Thiên Chúa lại có thể nói về Thiên Chúa như một ai khác? Ở đây chúng ta chạm đến một trong những khía cạnh của mầu nhiệm Nhập Thể, nghĩa là mầu nhiệm Thiên Chúa đi vào thời gian và không gian, chịu các giới hạn nhân loại. Con Thiên Chúa, tuy vẫn còn chức phẩm mình, đã như thể tự thu hẹp theo kích thước của thực tại nhân loại. Chúa Giêsu muốn nói: Con người hữu hình của Ngài dễ cho chúng ta đặt lòng tin sống động hơn Thiên Chúa vô hình. Nhờ tin vào Ngài, Chúa Con, chúng ta có thể tin vào Chúa Cha. Mà tin vào Chúa Cha là ước nguyện thâm sâu nhất của con người bị đau khổ dày vò. Lòng tin sống động vào Chúa Giêsu Kitô và qua đó sự quy thuận Chúa Cha chẳng khiến sự bối rối xa lìa chúng ta, mang lại cho chúng ta an bình, vui mừng, sức mạnh sao?

2) Ta là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống

Trong cuộc sống của con người vô thần, đường là một hệ thống tư tưởng hay một minh triết sự thật, là một chọn lựa trong số các ý kiến; sự sống là một hoạt động; một tình yêu mong manh, thường là một sự chịu đựng.

Đối với người theo Đức Kitô, sự dấn thân là một thông hiệp mở ra những lối bất khả. Nơi Đức Kitô, người Kitô hữu tìm thấy đường đi, lối thoát vượt qua biên giới của một thế giới khép kín vô vọng. Hơn nữa con đường ấy, chính Đức Kitô, là một lời mời gọi cất bước, tiến tới, đi lên không ngừng. Nơi Đức Kitô, người Kitô hữu khám phá được sự đáp ứng cho nhu cầu kỳ lạ của con người, là cảm thấy cần nương tựa vào một chân lý chắc chắn, nhưng còn để rộng chỗ cho việc tìm tòi. Hơn thế nữa, việc chắc chắn đã tìm thấy kích thích sự tìm tòi. Ngươi đã không tìm kiếm Ta nếu ngươi đã không gặp Ta rồi. Chân lý sống động không bao giờ là một sở hữu, nhưng cho người ta sự đảm bảo chân thực. Càng gặp Chúa Giêsu, càng tìm biết Ngài. Cần xác định, biết Đức Kitô trước hết là sống bởi Ngài. Khi sống bởi Đức Kitô, các thực tại tự nhiên của cuộc sống có thay đổi không? Không. Người Kitô hữu có một hoạt động nhân loại và thực tế như mọi người, nhưng hoạt động ấy có được một linh hồn. Có một cách suy nghĩ, chọn lựa mục đích, gặp gỡ người khác… do sự hiện diện của Đức Kitô trong cuộc sống. Chúng ta có biết ngạc nhiên về việc trong Đức Kitô điều bất khả thi đã được biến thành điều khả thi hay không?

 

 

 

 

 

29. Chúa Giêsu là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống

(Suy niệm của Lm. Giuse Maria Nguyễn Đức Vinh)

 

Khung cảnh của bài tin mừng hôm nay thật đầm ấm. Đó là một buổi nói chuyện, chia sẻ và giáo huấn của Đức Giêsu cho các Tông đồ trong bầu khí thật thân thương, tràn đầy tình mến. Buổi nói chuyện hôm nay diễn ra trong tình yêu của Chúa Giêsu và sự tích cực của các Tông đồ.

Khởi đầu bài tin mừng Chúa Giêsu mời gọi các tông đồ: “Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”, để làm gì? để đừng xao xuyến! Lời mời gọi cho chúng ta thấy Chúa Giêsu thấu hiểu nỗi lòng của các ông, thấu hiểu những lo toan… có cả nỗi sợ hãi của cuộc sống hiện tại và tương lai mà các ông đang và sẽ trải qua. Cuộc đời con người là như thế, được dệt nên bởi những niềm vui – nỗi buồn, bởi những thành công – thất bại, bởi những hy vọng – lo lắng…, xem ra dễ dàng dẫn họ tới thất vọng, chán nản, xao xuyến và buông xuôi tất cả. Thế nhưng cuộc đời người tông đồ của Đức Giêsu thì lại không như vậy; dẫu biết rằng họ vẫn sống, vẫn trải qua những vui – buồn của kiếp người như bao người khác, nhưng tinh thần thì lại khác hẳn, vì sao? Vì họ có Chúa Giêsu đồng hành và nâng đỡ nên họ không còn xao xuyến và sợ hãi nữa, mà ngược lại họ sống đầy hy vọng bởi đã thiết lập với Thiên Chúa qua Chúa Giêsu mối tương giao được đặt trên nền tảng Đức Tin.

Không ai sống mãi ở đời này, đó là chân lý mà Giáo lý của Hội Thánh Công Giáo dạy chúng ta. Chân lý này không chỉ được người Kitô hữu đón nhận mà được cả nhân loại đón nhận vì thực tế cuộc sống cho thấy như vậy (mọi người đều phải chết). Ra khỏi cuộc đời này, con người trở về với Thiên Chúa là nơi mình phát xuất ra. Sự trở về đó diễn tả cho chúng ta thấy sự cần thiết của ‘con đường’, vì không có đường đi thì làm sao mà trở về?

Hình ảnh ‘con đường’ rất gần gũi, vì đó là thực tế cuộc sống mà hằng ngày mọi người đều cảm nhận sự cần thiết không thể thiếu của nó (con đường). Để có thể đi đến nơi này nơi kia, thực hiện việc này việc nọ, mọi người đều phải đi trên ‘đường’; nếu không có đường đi, con người không thể đến được nơi mình muốn đến và càng không thể thực hiện được ước muốn mà mình muốn. Từ ‘con đường’ của trần thế mà mọi người đi trên đó để đạt được mục đích của mình, đến được nơi mình muốn đến; chúng ta suy nghĩ ‘con đường về trời’ (con đường thiêng liêng); và một khi hiểu được ý nghĩa và sự cần thiết ‘phải có con đường’, chúng ta mới nhận ra và hiểu lời mà Chúa Giêsu nói hôm nay: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy”.

Lời Chúa Giêsu nói và sự khẳng định của Ngài đã cho chúng ta ‘chân lý sống’, khiến chúng ta an tâm vì đã tìm được ‘con đường’ để đi, tìm được ‘sự thật’ để sống, tìm được sự sống vĩnh cửu mai sau là đích điểm chúng ta hướng đến. Tất cả những thao thức và tìm kiếm của con người cho một con đường để đi, cho một sự thật để sống đều có nơi con người Giêsu. Từ đó, chúng ta có thể nói được rằng: có Chúa là có tất cả: ‘con đường, sự thật và sự sống’; ngược lại, thiếu vắng Giêsu trong đời, con người chỉ còn bóng tối và sự trống rỗng.

Lạy Chúa, với Lời Chúa dạy hôm nay, tự vấn lại chính mình; chúng con nhận ra mình đang sống đầy sợ hãi trước những thách đố của cuộc đời: những thách đố có sức làm cho chúng con ngã gục, thất vọng và xao xuyến. Xin Chúa ban ơn thánh và giúp chúng con luôn biết đáp lại lời Chúa mời gọi: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”. Xin Chúa nâng đỡ và ban Thánh Thần để chúng con luôn tin nhận Chúa là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống của đời chúng con. Amen.

 

 

 

 

 

30. Ai biết Thầy là biết Chúa Cha

(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)

 

“Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện”, thiết tưởng lời thỉnh cầu của ông Philipphê cũng đồng thời diễn tả ước nguyện sâu xa của chính tôi, cũng như của nhiều tín hữu khác qua mọi thời đại. Như biết bao người ‘có đạo’ khác, tôi vẫn đinh ninh rằng mình thật sự tin có Thiên Chúa, và mình có trách nhiệm phải nói, phải chứng minh, phải thuyết phục để mọi người cùng tin rằng thật sự có Thiên Chúa, rằng Thiên Chúa thực sự hiện hữu. Thế nhưng thú thật, khi làm công việc đó tôi thấy mình cần phải là một triết gia, một nhà lý luận hơn là một tín hữu; đồng thời cũng nhận ra rằng, cho dầu có học hành thông minh tới mấy tôi cũng chẳng thuyết phục được mấy người. Nhiều người trong chúng ta đã từng có lần tự vấn: có thật tôi biết, tôi tin cách xác thực Thiên Chúa, như thể tôi đã tận mắt thấy Ngài? Trong thâm tâm biết bao người trong chúng ta vẫn thầm ấp ủ mộng ước một ngày nào đó mình sẽ được ‘thấy’ Thiên Chúa, qua một phép lạ nhãn tiền chẳng hạn, khi Ngài tỏ lộ cách công khai quyền năng và thượng trí khôn ngoan của Ngài.

Cũng thế đối với các môn đệ, cụ thể hai ông Tôma và Philipphê. Biết sâu hơn về Thiên Chúa là ước vọng chính đáng, đồng thời cũng là mục đích của việc các ông đi theo Thầy Giêsu. Chắc chắn các ông đã từng được nghe Thầy nói nhiều về Chúa Cha; tuy nhiên giữa những gì Đức Giêsu trình bày và ý niệm các ông có về Đức Chúa Cựu Ước xem ra chẳng mấy ăn khớp với nhau. Trong thâm tâm các ông vẫn mơ ước một ngày nào đó Đức Giêsu tỏ cho các ông được thấy Chúa Cha trong uy quyền sáng láng, như hình ảnh các ông vẫn có về Ngài. Chỉ như thế các ông mới cảm thấy toại nguyện: “xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha!”

Đức Giêsu tỏ thái độ vô cùng kinh ngạc trước lời thỉnh nguyện này của các ông: “Tại sao anh lại nói: ‘Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha’?” Quả thật Người ngạc nhiên vì vẫn yên trí rằng sự hiện diện trần thế của Người hiển nhiên là để mạc khải Chúa Cha, rằng Người chính là Lời của Cha. Người coi như minh nhiên việc các môn đệ phải hiểu được điều căn bản đó. Vậy mà các ông vẫn hoàn toàn mù tịt! “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà… anh chưa biết thầy ư? Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người… Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha”.

Giai thoại trên cho thấy: có nhiều cách để một người tin hoặc biết về Thiên Chúa. Sơ đẳng nhất là người ta mơ hồ biết rằng có Thiên Chúa; sau đó người ta có thể biết thêm một vài yếu tính của Ngài như Ngài tự hữu, Ngài tạo dựng trời đất, Ngài quyền năng, thông minh, thánh thiện vô cùng… Đầu óc suy luận của con người có thể tiến tới một niềm tin, hay hiểu biết về Thiên Chúa đại loại như thế. Thế nhưng có một thứ ‘biết’ khác, thứ biết mà Kinh Thánh quen sử dụng, biết trong tương quan sống động và mật thiết mà chỉ có tiếp xúc trực tiếp mới có được. Thứ biết này cần một tiếp súc, hay ít ra một cầu nối, và như thế thì chỉ duy nhất một mình Đức Giêsu, Đấng từ cung lòng Thiên Chúa mà đến, mới có thể cho biết được. “Không ai đã lên trời (để mà thật sự hiểu biết được Thiên Chúa), ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống” (Ga 3,13). Thiên Chúa mà người Kitô hữu tin khác xa một trời một vực với Thiên Chúa của triết học, hay của các tôn giáo khác. Vì thế cho nên, dầu không phủ nhận những khái niệm về Thiên Chúa của người Do Thái đương thời, Đức Giêsu, bằng lời giảng dạy, nhưng nhất là bằng chính cuộc sống và cái chết thập giá của Người, đã tỏ lộ cho các môn đệ thấy một Thiên Chúa vô cùng độc đáo: “Ngài yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một… Ngài không lên án thế gian… nhưng muốn thế gian được cứu độ” (Ga 3, 16-17).

Trong cụ thể, một linh mục như tôi đã bao giờ được ‘thấy’ Thiên Chúa chưa? Hay ít ra tôi đã ‘hiểu biết’ về Ngài như thế nào, cái biết chi phối cuộc sống tôi và làm nền tảng cho những gì tôi trình bày cho giáo dân trong hướng dẫn mục vụ? Rất có thể hình ảnh và hiểu biết tôi có về Thiên Chúa, sau bao năm tu học, vẫn quá nặng tính triết học hay Cựu Ước, chứ chưa phải thực sự là diện mạo mà Đức Giêsu cố tâm trình bày? Tôi vẫn thấy một Đức Chúa hùng mạnh, thưởng phạt công minh vừa dễ hiểu lại vừa thiết thực hơn, nhất là trong việc giữ cho các giáo dân làm lành lánh dữ...; thậm chí đôi lúc tôi còn dám đối kháng chính Đức Giêsu với Cha Ngài khi khảng định cái chết của Người trên thập giá là để làm nguôi cơn thịnh nộ công thẳng của Chúa Cha?! Cái lô-gic hạ đẳng rất nhân cách hóa đó đã bị Đức Giêsu thẳng thắn gạt bỏ, vì nó phá vỡ nội dung Tin Mừng của sứ điệp cứu chuộc của Người: Người và Chúa Cha chỉ là một, không thể bị chia cắt. “Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình. Anh em hay tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy”. Khi khảng định Thiên Chúa là Đấng từ bi và giầu lòng thương xót, chúng ta không ngụ ý chỉ nói riêng về Đức Giêsu, Đấng đã chết trên thập giá để cứu độ chún ta. Cái chết đó là một khảng định hùng hồn: chính Thiên Chúa, toàn bộ Thiên Chúa (Cha, Con và Thánh Thần), là giầu lòng thương xót. Ta nghe biết điều đó qua những lời giảng dạy của Đức Giêsu, tôi đã thấy điều đó trong cái chết thập giá tự hiến của Người, và ta gọi điều đó là Tin Mừng, là niềm tin cất khỏi chúng ta mọi mối sợ hãi, kể cả trong trường hợp ta có lỗi phạm và sa ngã vào những tội tày trời nhất. Thấy và biết một Thiên Chúa như thế sẽ làm cho toàn bộ đời sống ta trở thành một niềm vui bất tận, cho dầu vẫn tồn tại nơi bản thân ta những yếu đuối và thất bại nặng nề. Tông đồ Phao-lô, trong chương 5 thư gửi các tín hữu Rô-ma, khẳng định với chúng ta rằng: niềm tin Kitô hữu chính yếu hệ tại ở điều này.

Như thế, là Kitô hữu, tôi không cần cầu xin được thấy Chúa Cha, vì Đức Giêsu đã cho tôi được thấy rồi đó. Người cho tôi được thấy tỏ tường bộ mặt thật của Thiên Chúa qua chính Thập Giá của Người!

Lạy Chúa từ nhân, kể từ lần được thoáng gặp Chúa qua biến cố chết lâm sàng tại Mongolia cuối năm 2007, con mới thực sự được‘thấy’ Chúa, trước hết như một Thiên Chúa giầu lòng từ nhân và hay thương xót. Lẽ ra con đã phải nhận biết điều này từ lâu trước, khi con từng học giáo lý và thần học. Tạ ơn Chúa đã cho con được ‘thấy’ Chúa Cha là như thế. Con cầu xin để tất cả các Kitô hữu đều cùng con cảm nghiệm được Thiên Chúa là như thế, để niềm vui của chúng con được nên trọn vẹn, và để chúng con vui mừng lên đường loan báo Tin Mừng về một Thiên Chúa yêu thương cứu độ cho mọi người. Amen.

 

 

 

 

 

31. “Lòng anh em đừng xao xuyến..."

 

Trước khi rời khỏi thế gian này để về cùng Chúa Cha. Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Lòng anh em đừng xao xuyến...".

Trong Tin Mừng ngày hôm nay viết về ngày thứ Năm Tuần Thánh vào cuối bữa ăn sau cùng của Đức Giêsu. Quả thật bầu khí của nhóm các môn đệ thật bi thương: Đức Giêsu vừa loan báo sự phải bội của Giuđa và y đã đi ra khỏi căn phòng vào đêm tối bên ngoài (Ga 13,21-30)... rồi Đức Giêsu bảo rằng Người sẽ ra đi và nơi Người đi, các bạn hữu Người không thể theo được (Ga 13,31-36)... sau cùng, đầy nỗi lo sợ, Đức Giêsu báo trước cho Phêrô rằng ông sẽ chối Người "ba lần" trong đêm hôm ấy trước khi gà gáy (Ga 13,37-38)... Như thế, người ta biết được sự xao xuyến kinh hoàng đang xiết chặt mọi tâm hồn và tư tưởng các môn đệ.

Trong đời sống của chúng ta cũng thế có chăng giờ phút sự sợ hãi kinh hoàng ập xuống trên chúng ta: một tương lai bấp bênh, một thiệt hại không vượt qua được, những suy sụp của tuổi già, một căn bệnh không thể chữa khỏi. Và còn có những sợ hãi tập thể: sự thất nghiệp, bạo lực, nạn nhân mãn, nạn đói, sự ô nhiễm môi trường, những nguy cơ của nguyên tử. Và trong bối cảnh khủng hoảng ấy, những câu hỏi nghiêm trọng mà mọi tín hữu chân chính phải đặt ra: Những giá trị cao cả của con người chẳng phải đang bị xoá nhòa đó sao? Nhân loại ngày mai sẽ tin vào điều gì? Và một ngọn gió hoảng sợ cũng xâm chiếm những tín hữu mạnh mẽ nhất và người ta lẩm bẩm rằng trong Giáo Hội cũng không có gì là ổn cả.

Chính trong bối cảnh nhân loại như thế mà tính lạc quan không gì thắng nỗi của Đức Giêsu bùng lên như một ngọn lửa nồng nàn, cháy sáng trong đêm tối! Chỉ còn mấy giờ nữa Người phải lên thập giá thế mà Người đã cố sức vực dậy tinh thần của các bạn hữu của Người: "Lòng anh em đừng xao xuyến!”. Chúng ta hãy lắng nghe những lý do Người sẽ đưa ra để chúng ta không bao giờ còn sợ nữa, về bất cứ điều gì.

"Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy".

Đức Giêsu yêu cầu các bạn hữu bang xao xuyến của Người hướng cái nhìn về một hướng duy nhất: Đức tin thâm sâu xa của Đức Giêsu, vượt qua mọi nỗi sợ hãi không dựa trên sức người, nhưng dựa trên Thiên Chúa. Tất cả, không chừa môt ai đều có thể suy sụp, chỉ có Đức Giêsu nắm giữ sự trợ giúp siêu nhiên nằm bên ngoài ảnh hưởng của mọi sức mạnh phá hoại. Cái chết cũng không thể phá hủy sự bình an của Người: Sự bình an của Người không do sức con người mà do Thiên Chúa! Vả lại, chúng ta nhận thấy rằng Đức Giêsu đòi hỏi đối với bản thân một thái độ đức tin mà người ta có thể có đối với Thiên Chúa. Tính duy lý của con người vỡ tung như một nhân nguyên tử, dưới sức ép khó quan niệm nổi của cái vô cùng thánh thiêng: Làm thế nào mà Đức Giêsu vốn là Thiên Chúa lại có thể nói về Thiên Chúa như một Đấng khác mình? Và điều đó mang lại công thức làm ngạc nhiên: “Hãy tin vào THIÊN CHÚA... Hãy tin vào THẦY…” Vậy thì Người là ai để nói như thế?

"Trong nhà Cha của Thầy có nhiều chỗ ở, nếu không Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em".

Phải, đó là mầu nhiệm không thể hiểu thấu của Nhập Thể Đức Giêsu với tư cách con người, phân biệt không ngừng với Thiên Chúa! Người nói về Thiên Chúa như thể đó là một Đấng Khác (Tha Thể Tuyệt Đối). Người nói về Chúa Cha. Không bao giờ Đức Giêsu hướng cái nhìn của con người về chính mình. Không bao giờ Đức Giêsu lôi kéo sự tôn kính hay thờ phượng về bản thân Người: Người hoàn toàn hướng về một Đấng Khác... và Người muốn xoay hướng chúng ta về Đấng Khác ấy. Đấng Hoàn Toàn Khác, Đấng mà chưa có ai đã từng trông thấy, tức là Chúa Cha. Như thế, Đức Giêsu đối diện với cái chết của Người, sự ra đi khỏi thế gian này, như một sự trở về nhà mình: Người sẽ tìm lại nơi đó một Đấng mà Người yêu mến và mến yêu Người. Đức Giêsu biết mình được yêu.

Sau những lời làm vỡ tung lý trí, giờ đây là những lời hoàn toàn thân mật, những lời thường nói mỗi ngày: nhà, chỗ ở, dọn chỗ...

Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy”.

Đây là những lời dịu đàng không tả nổi: "Đem về với Thầy... trở lại …” Thiên Chúa tất nhiên là Đấng Hoàn Toàn Khác không thể đạt đến được nhưng cũng là Đấng Rất Thân Thiết. Chúng ta không có một Thiên Chúa dửng dưng và lãnh đạm, nhưng là một người Cha đầy tình âu yếm, một người Anh để cho những nỗi lo sợ của chúng ta làm thương tổn và Người nói với chúng ta những lời an ủi và thân ái.

"Để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó".

Chúng ta chớ lướt qua nhanh quá trên những lời xem ra có vẻ đơn giản và thân mật một cách ngây thơ. Có cả một thần học được diễn tả xuyên qua mạc khải ấy. Khi dám nói rằng “Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó". Đức Giêsu mở ra cho nhân loại một viễn cảnh có âm vang vô tận, siêu nhân, siêu nhiên: Chính "đời sống thánh thiêng" được ban chúng ta. Mục đích của con người không còn ở trong con người, mà ở trong Thiên Chúa? Nhân loại đi về hướng có Đức Giêsu ở đó. Con người đã được lập trình để trở thành "như Thiên Chúa". Người ta hiểu được lời Người nói: “Lòng anh em đừng xao xuyến!".

“Và Thầy đi đâu thì anh em biết đường rồi". Ông Tôma nói với Đức Giêsu: "Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?”.

Đây là một điệp khúc: "Thầy đi "chúng con không biết Thầy đi đâu...". Đó là câu hỏi nền tảng của nhân loại mà Tôma dũng cảm đặt ra nhân danh chúng ta. Chúng ta sẽ đi về đâu? ý nghĩa, mục đích sau cùng của đời sống là gì? Có cái gì sau khi chết?

Đức Giêsu đáp: "Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy”.

Đối với Đức Giêsu, chân trời không bao giờ bị ngăn chặn, gây ra sự tuyệt vọng.

Đối với người tin, ai chấp nhận lời Đức Giêsu, lịch sử sẽ có một ý nghĩa, đời sống sẽ không còn phi lý nữa. Đức Giêsu là "người mở đường", Người đã mở ra một lối thoát cho các hữu hạn và cho đăc tính phải chết của con người. Không có Đức Kitô con người bị giam hãm trong những giới hạn của mình. Với Người, và chỉ với Người, như Người khẳng định có một con đường không dẫn tới cái hố đen của nấm mộ, nhưng về "nhà của Chúa Cha".

“Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng sẽ biết Cha của Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người “.

Câu này của Thánh Gioan là một câu làm hiện ra tính không thể diễn tả của Thiên Chúa, sự "mạc khải” này vẫn còn một phần "không thể quan niệm được": ánh sáng... nhưng vẫn còn một thứ ánh sáng của đêm tối... ánh sáng của đức tin.

Thật vậy, câu này gồm hai khẳng định bề ngoài trái ngược nhau: Anh em cũng (sẽ) biết Cha của Thầy (ở thì tương lai)... bây giờ, anh em biết Người (thì hiện tại).

Rõ ràng là Thiên Chúa không hiển nhiên và thật ra, chúng ta không biết Người. Người ta cũng có thể nói rằng chúng ta hiểu được Người! rõ ràng có một thứ hồ nghi. Không chắc chắn đã xuất hiện trong câu hỏi của Tôma: chúng con không biết...". Tính cảnh của chúng ta hiện nay đúng là như thế. Có thể một ngày nào dó, chúng ta sẽ biết Thiên Chúa. Sự vô tri về Thiên Chúa hôm nay, sẽ biến đổi thành tri thức, như lời Đức Giêsu nói: Anh em sẽ biết Người! Vả lại trong Đức Giêsu, sự hiện diện vô tri của Thiên Chúa chịu một "cú sốc của tương lai" đến độ những thực tại phải đến đã trở thành hiện tại: "Ngay từ bây giờ, anh em biết Thiên Chúa và đã thấy Người?". Có thể nói rằng, bằng một cảm thức siêu nhiên, tướng lai được tiên cảm trong hiện tại đối với những người tin Đức Giêsu: thời sau hết đã ở đó, mặc dù chưa hoàn tất. Giáo Hội, nơi cư ngụ của các tín hữu đã trở thành nơi cư ngụ của Thiên Chúa ở giữa con người" (Khải Huyền 21,3). Một ngày nào đó, chúng ta sẽ có một sự hiểu biết nào đó về Chúa Cha, còn bây giờ chúng ta đã hiểu biết Chúa Cha qua bức màn của đức tin. Đó là điều mà các nhà thần học gọi là cánh chung? tương lai được cảm nghiệm trước trong lòng của các tín hữu trong Đức Giêsu Kitô.

Ông Philípphê nói: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện". Đức Giêsu trả lời: "Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Philípphê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha? Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao?”.

Mới rồi, chúng ta vừa nghe Đức Giêsu phân biệt Người với Chúa Cha. Giờ đây Người đồng hóa với Chúa Cha. Đức Giêsu đi về với Chúa Cha, Người là con đường dẫn đến Chúa Cha và đồng thời, Người ở trong Chúa Cha và ai thấy Đức Giêsu là thấy Chúa Cha. Đức Giêsu là một con người, nhưng một con người "chứa đầy Thiên Chúa" một con người Thiên Chúa! Chúng ta phải để những từ có vẻ đơn giản ấy thấm nhuần chúng ta: "Thầy ở trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở trong Thầy... Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy...".

Phải, có một con người là Giêsu Nagiarét, sống cách nay hai ngàn năm trong một tổng nhỏ ít người biết đến của Đế quốc La Mã, một con người bằng xương bằng thịt đã đứng trên đôi chân của mình và trên một miền đất xác định, đất Israel, một con người có những bạn hữu, một con người ăn uống như mọi người... một người sắp chết như mọi người... và con người này lúc này đây hiệp thông với Thiên Chúa và đồng nhất với Thiên Chúa và hoàn toàn không là một kẻ điên. Một con người quân bình tột bậc, khiêm tốn, không tham vọng và kiêu ngạo: một con người vừa mới quỳ gối trước các bạn hữu để rửa chân cho họ như một tôi tớ bình thường vào thời đó... đồng thời giao nộp thân thể tan nát, và đã đổ máu ra vì họ.

"Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy chính Người làm những việc của mình. Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy, bằng không thì hãy tin vì chính các việc kia vậy. Thật Thầy bảo thật anh em ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc. Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha".

Thiên đàng không phải là môt sự chạy trốn vào một giấc mơ của tương lai hoang tưởng. Thiên đàng không phải một miếng đường được hứa ban cho sau này để bỏ qua chua cay hiện tại. Thiên Chúa không phải là một thứ thuốc phiện dùng để ru ngủ những đau khổ cho một cuộc đời đời.

Một thiên đàng đã bắt đầu và được cảm nghiệm bởi những người "làm những việc Đức Giêsu làm": Có một cách nào đó để suy nghĩ, để chọn lựa, để gặp gỡ Thiên Chúa và con người, một cách sống nào đó công chính là cách sống của Đức Giêsu.

 

 

 

 

 

32. Đường hy vọng

 

Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu? Nếu có một câu hỏi nào thường được các môn đệ đặt ra thì đó phải là câu hỏi thuộc về nơi chốn.

Thực vậy, thuở ban đầu, lúc mới gặp Chúa, các ông đã hỏi:

- Thưa Thầy, Thầy ở đâu?

Và rồi Chúa Giêsu đã trả lời:

- Hãy đến mà xem.

Trước bữa tiệc ly, các ông muốn biết một địa chỉ, một nơi chốn chính xác để mà chuẩn bị, nên đã hỏi Chúa Giêsu:

- Thưa Thầy, Thầy muốn chúng con ăn lễ vượt qua ở đâu?

Và hôm nay trước một tương lai còn mù mờ và bấp bênh, Tôma đã hỏi Chúa:

- Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường đi.

Sở dĩ các ông bận tâm về nơi chốn là vì trong quãng đời theo Chúa, các ông luôn được dẫn vào những cuộc hành trình, nay đây mai đó, không có một địa chỉ, một nơi chốn cố định:

- Con cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người thì không có cả chốn để mà tựa đầu.

Còn cuộc hành trình cuối cùng lại là cuộc hành trình tiến về Giêrusalem để chứng kiến Thầy mình chịu chết trên thập giá. Các ông đã coi đây là con đường thất bại của Chúa Giêsu, đồng thời đã trở nên con đường tuyệt vọng cho các ông. Mấy năm dài miệt mài theo Chúa những mong có ngày tả hữu vinh quang, nào ngờ Ngài lại bị đóng đinh như một tên tử tội… Đúng là dã tràng xe cát biển đông, nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì.

Khi mọi vốn liếng hy vọng đặt cả vào canh bạc cuộc đời, rồi bỗng dưng lật ngửa trắng tay. Các ông như từ trên cao rớt xuống. Hụt hẫng, chới với, chao đảo. Ước mơ bị sụp đổ, các ông như người bị phá sản. Thế mới hay mơ ước thì to lớn, nhưng khung đời lại chật hẹp. Mơ ước thật nhiều mà thực tế chẳng được bao nhiêu, nhiều lúc còn cay đắng phũ phàng.

Thầy đi đâu? Đằng sau câu hỏi này là tâm trạng hoang mang bất ổn trước một dĩ vãng vừa mới khép lại mà tương lai thì chưa kịp mở ra. Tương lai ấy hoàn toàn đổi mới hay chỉ là một dĩ vãng được lặp lai nơi chính bản thân mình. Đã một lần vỡ mộng, các ông băn khoăn là chuyện thường tình. Giống như đứa trẻ lỡ một lần bị phỏng, hễ thấy lửa, là tự nhiên rụt tay lại. Vì thế trong câu hỏi: Thầy đi đâu? Cũng nói lên nỗi âu lo rằng mình sẽ đi đâu? Thất vọng về dĩ vãng. Hoang mang trước tương lai đó là con đường các tông đồ đã nếm trải.

Thế nhưng, mở đầu đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, Chúa Giêsu đã khuyên nhủ các ông:

- Các con đừng xao xuyến.

Đó là một lời an ủi, mở ra một con đường mới, tràn ngập hy vọng và tin yêu. Thực vậy, Chúa Giêsu nói tiếp:

- Thầy đi để dọn chỗ cho các con.

Và như thế một tương lai đã được hé mở. Tương lai ấy không còn xa xôi, nhưng đã bén rễ ngay từ cuộc đời này. Sống hiện tại là chuẩn bị cho tương lai. Ngày mai đang bặt đầu từ hôm nay. Hay nói cách khác, cuộc sống trong nước trời phải được chuẩn bị, phải được định hình ngay từ bây giờ.

Đi trong hy vọng là nhận ra rằng con người được tạo dựng để hướng tới một mục đích, chứ không phải sống một cách vất vưởng, như thuyền không lái, như ngựa không cương. Và mục đích chúng ta cần phải đạt tới là chính Thiên Chúa trong niềm hạnh phúc bất tận.

Để kết luận, tôi xin mượn lời cầu nguyện của thánh Augustinô:

- Lạy Chúa, Chúa dựng nên con là để cho Chúa, nên con luôn khắc khoải, cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa.

 

 

 

 

 

33. Hãy tin vào Thầy

 

Cuộc sống của mỗi con người là một cái gì đó mong manh, dễ vỡ. Nhìn vào viễn cảnh của xã hội lại càng thấy bấp bênh cho số phận của mỗi con người. Một thế giới đầy những biến động của chính trị, bạo lực; một thế giới đầy những toan tính đầy những nguy cơ đẩy con người ta đến chỗ phải tận diệt. Trước những diễn tiến như thế, con người tự đặt câu hỏi cho chính mình: Cuộc sống con người có ý nghĩa gì? Con người rồi sẽ ra sao hay cũng chỉ là được tồn tại nơi cõi dương gian này một thời gian rồi lại biến mất trong hư vô? Nếu có cõi sống trường sinh thì con người có thể làm gì cho mình trong cõi sống vô biên ấy?...

Đoạn Tin Mừng mà Giáo hội cho chúng ta suy niệm ngày hôm nay nằm trong bối cảnh sau khi Chúa Giêsu tiên báo Người sẽ chịu sự phản bội, chịu đau khổ và sẽ chịu chết... Nghe nói thế các môn đệ đầy phân vân xao xuyến. Sao mà không xao xuyến được, một người thầy đầy quyền năng trong lời nói và hành động lại có thể chịu những sự âý hay sao? Chúng ta (những môn đồ) lâu nay theo Thầy Giêsu, nay Thầy bảo rằng phải đi xa rồi chúng ta sẽ theo ai, sẽ làm gì cho tương lai của mỗi người chúng ta?... Với những tâm tình đó các môn đệ xao xuyến, sợ hãi. Chúa Giêsu thấu hiểu tâm trạng của các môn đệ nên Chúa Giêsu nói "Anh em đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy..." (Ga14,1). Anh em (các môn đồ) đừng xao xuyến bởi hãy nhìn vào những việc Thầy làm từ lúc khởi đầu hành trình rao giảng cho đến bây giờ, Thầy có đủ quyền năng để làm mọi sự, nhiều lần người Do Thái định giết Thầy nhưng họ không làm gì được Thầy bởi "Giờ Thầy chưa đến" (Ga2,4), nhưng cuộc ra đi này là Thầy tự hiến, Thầy đi dọn chỗ cho anh em, Thầy đi trước để đưa anh em đi theo Thầy... Còn tâm tình nào sâu lắng mặn nồng, đầy tình cảm hơn tình yêu Chúa Giêsu đã dành cho các môn đệ cũng là cho mỗi người chúng ta. "Anh em đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy..." đó là câu nói mà Chúa Giêsu muốn nói với mỗi người chúng ta hôm nay. Đừng xao xuyến nhưng hãy đặt nền tảng cuộc đời của mình trên quyền năng và sự hướng dẫn của Thiên Chúa, đừng xao xuyến bởi Chúa có đủ quyền năng để thực hiện trong mỗi người chúng ta những sự việc lớn lao ngoài sự tưởng nghĩ của chúng ta.

Chúng ta đang sống trong mùa Phục sinh, chúng ta mừng mầu nhiệm Chúa sống lại. Chúa Giêsu sống lại chứng tỏ rằng Ngài là Thiên Chúa thật và là Đấng cứu độ trần gian. Chúng ta có diễm phúc hơn các tông đồ xưa vì đã xác tín Đức Giêsu đã chết và sống lại thật. Tin vào Đức Giêsu phục sinh cho ta biết được rằng những lời Ngài nói, những việc Ngài làm đều mang lại giá trị cứu độ bởi đó là hành động của chính Thiên Chúa. Tin vào Chúa Giêsu phục sinh cho ta một niềm hy vọng lớn lao rằng chúng ta cũng sẽ được phục sinh như Ngài, cuộc đời chúng ta không là vô nghĩa, cuộc sống của chúng ta không là vô vọng mà mở ra một viễn cảnh đẹp, tốt lành trong Đức Kitô phục sinh.

Như thế cuộc sống của con người đầy những ý nghĩa, vì sự sống là do chính Đức Giêsu đã chuộc lấy bằng máu mình, cuộc sống không là "đoản hậu" bởi chúng ta có sự sống bất diệt trong Đức Kitô. Cho dù cuộc sống có những biến chuyền, cho dù cuộc sống đầy những cam go... nhưng với niềm tin tưởng vào Thiên Chúa và nơi Đức Giêsu chúng ta tin chắc rằng tất cả đều nằm trong sự quan phòng đầy yêu thương của một Thiên Chúa quyền năng. Khi biết tin tưởng phó thác như thế thì cũng là lúc ta đang xây dựng cho mình một cuộc sống vĩnh cửu trong tình thương Thiên Chúa, như là Đức Giêsu đã nói: "Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống." (Ga 8,12)

 

 

 

 

 

34. Chúc thư của Chúa Kitô

 

Chắc chắn rằng nhiều người trong chúng ta còn nhớ rõ chuyện vui đã đọc được từ nhỏ về những người mù đi xem voi, xem xong họ kể lại và bênh vực lập trường riêng của mình về con voi như thế nào. Những người đứng bên cạnh sờ vào lưng con voi thì nhất định bảo nó giống như một bức tường. Anh mù sờ vào ngà voi thì cho con voi giống như một ngọn đao nhọn. Người sờ vào răng voi thì bảo con voi giống như một thanh kiếm ngắn. Người sờ vào chân thì bảo con voi giống như một cây cột nhà. Người sờ vào lỗ tai thì quả quyết con voi giống như cái quạt mo.

Chúng ta có thể nói rằng, không ai nói đúng trọn vẹn về con voi và ngược lại không ai có thể nói là sai hoàn toàn, mỗi anh mù đều bị giới hạn và chỉ mô tả con voi dựa theo kinh nghiệm riêng của bản thân, không thể nào nhìn thấy được trọn vẹn con voi như thế nào.

Khoảng cách giữa con người chúng ta và thực tại mầu nhiệm Thiên Chúa là hết sức trổi vượt biết bao nhiêu ngàn lần khoảng cách giữa con voi và người mù sờ nó. Nếu chúng ta muốn biết về Thiên Chúa như thế nào mà chỉ cậy dựa vào khả năng riêng của con người phàm trần, chắc chắn những gì chúng ta hiểu biết và nói về Thiên Chúa thì không biết bao nhiêu lần tệ hơn những lời mô tả của những anh mù xem voi. Chúng ta khao khát hướng về Thiên Chúa, muốn hiểu biết về Ngài vì chúng ta được tạo dựng giống hình ảnh Ngài, nhưng tự sức mình chúng ta không thể thỏa mãn được khát vọng sâu xa này, chúng ta cần đến sự trợ giúp của Thiên Chúa, chúng ta cần đến mạc khải của Thiên Chúa, chúng ta cần chính Thiên Chúa đến chỉ đường mạc khải cho chúng ta biết về Ngài, chỉ cho chúng ta biết con đường trở về với Ngài: "Không ai đã thấy Thiên Chúa bao giờ, chỉ Con Một Ngài Đấng hằng ở cùng Thiên Chúa", chỉ Con Một Ngài mới có thể mạc khải cho chúng ta biết chắc chắn mà thôi.

Trong bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta được dịp nghe lại những lời quả quyết hết sức quan trọng của Chúa Giêsu: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy, và ai nhìn thấy Thầy là nhìn thấy Cha Thầy, nếu các con biết Thầy thì cũng biết Cha". Thiên Chúa đã nhập thể, đã chấp nhận cuộc sống con người, đã dùng những hình ảnh con người, đã sử dụng những ngôn ngữ của con người có giới hạn để mạc khải cho chúng ta biết Thiên Chúa Cha là ai và con đường nào phải đi để trở về với Ngài mà không bị lạc lối.

Chúa Giêsu Kitô đã trở thành hình ảnh của Thiên Chúa Cha cho tất cả mọi người chúng ta, Ngài đã đến để mạc khải sự thật của Thiên Chúa Cha cho chúng ta, và Ngài đến để hướng dẫn chúng ta, để đưa chúng ta trở về cùng Thiên Chúa Cha, trở về với Ngài vì Ngài hằng ở cùng Cha và Ngài cũng muốn cho mỗi người chúng ta đến xin trở thành hình ảnh của Ngài cho anh chị em xung quanh. Chúng ta có hãnh diện về hồng ân Chúa ban cho và đồng thời khiêm tốn ý thức về trách nhiệm của mình, của mỗi người chúng ta để trở thành hình ảnh của Thiên Chúa cho anh chị em xung quanh, trở thành có thể nói được là con đường để anh chị em đi về cùng Thiên Chúa, để trở thành lời mời gọi anh chị em trở về với Thiên Chúa.

Xin Chúa hướng dẫn và biến đổi mỗi người chúng ta mỗi ngày một trở nên hình ảnh đích thực của Thiên Chúa nhiều hơn, để giúp nhau sống đức tin về Chúa, đức tin mà chúng ta đã tuyên xưng.

 

 

 

 

 

35. Hoàn toàn đúng

 

Có câu chuyện kể rằng hai người đàn ông sống trong một ngôi làng nhỏ nọ, hai người ấy đã đấu khẩu với nhau cách kịch liệt nhưng vẫn không giải quyết được vấn đề của họ; thế là họ quyết định đi hỏi ý kiến của một người có tiếng là khôn ngoan nhất làng. Người thứ nhất đến nhà người khôn ngoan đó kể hết câu chuyện của mình xong liền hỏi: "Thưa ông, ông nghĩ sao?" Người khôn ngoan trả lời: "Ông đúng hoàn toàn". Rồi người thứ hai cũng đến và kể câu chuyện xảy ra giữa họ rồi hỏi như người thứ nhất, và câu trả lời của người khôn ngoan đó cũng là: "Ông hoàn toàn đúng". Sau khi khách đã về thì bà vợ của người khôn ngoan đó mới trách chồng: "Sao ông có thể trả lời như vậy được. Hai người họ kể hai câu chuyện hoàn toàn khác nhau mà ông lại nói cả hai hoàn toàn đúng. Điều ấy thật vô lý, cả hai người không thể cùng hoàn toàn đúng được!" Người khôn ngoan cũng trả lời cho bà vợ: "Bà hoàn toàn đúng!"

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói cùng các môn đệ: "Các con đừng để lòng mình bị bối rối. Hãy tin vào Thiên Chúa... và tin vào Thầy... Thầy bảo thật cùng các con, bất cứ ai tin vào Thầy thì sẽ làm được các việc Thầy đã làm" (Jn 14:1,12).

Các bạn nghĩ sao? Các bạn có tự nói với mình là Chúa Giêsu đúng hoàn toàn không? Hay các bạn chưa thật sự để tâm lắng nghe lời Ngài? Lời của Chúa có phải như gió thoảng qua tai?

"Đừng để lòng trí các con bị bối rối. Hãy tin vào Thiên Chúa... và tin vào Thầy". Điều quyết định quan trọng nhất trong cuộc đời các bạn đó là sự quyết định hoàn toàn tin tưởng và phó thác thác trong Chúa Tình Yêu là Đấng đã dựng nên các bạn và muốn các bạn thuộc trọn về Ngài. Khi các bạn tới đây cùng chia sẻ tham gia việc thờ phượng của cộng đoàn này là các bạn đã tiến một bước ra khỏi chính mình. Đó chính là lý do tại sao các bạn lại tới đây. Các bạn muốn biểu lộ niềm tin và cậy trông của mình vào Thiên Chúa Chí Thánh; và đó cũng là một phần của tất cả sự tôn thờ Thiên Chúa. Nhưng khi các bạn làm một việc ra khỏi chính mình như vậy thì trước hết các bạn đã làm một việc hết sức quan trọng là đi vào chính nội tâm mình để tìm thấy Thiên Chúa Tình Yêu đang thật sự hiện diện trong tâm hồn các bạn chưa nhỉ? Một Thiên Chúa Ân Sủng thật đang hiện diện trong thẳm sâu tâm hồn các bạn ngay lúc này đây-- Ngài muốn xuất hiện qua bạn, muốn gợi lại trong bạn lời nói: "Chúa Giêsu đúng hoàn toàn!" Tôi phải tin, phải phó thác mọi sự nơi Ngài!

"Bất cứ ai tin vào Ta đều có thể làm được những việc Ta đã làm", đó chính là những lời Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ trong bài Tin Mừng hôm nay. Hay nói một cách khác là: "Nếu các con thật sự tin vào Thầy thì các con sẽ tín thác nơi Thầy, sẽ phó thác mạng sống con cho Thầy, và con sẽ làm tất cả những gì Thầy dạy con làm- con sẽ làm những gì chính Thầy đã làm". Là một Kitô hữu trưởng thành thì chúng ta phải hiểu rằng Thánh Ý Chúa luôn luôn tuyệt đối đúng cho chúng ta. Ví dụ như khi Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta về thánh ý Chúa Cha trong tình thương xót và tha thứ. Thánh Phêrô hỏi Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, khi anh em xúc phạm tới con thì con phải tha cho họ bao nhiêu lần? Có phải bảy lần không?" Chúa Giêsu trả lời: "Không phải bảy lần mà là bảy mươi lần bảy" (Mt 18:21-22). Ý Chúa Giêsu muốn chúng ta phải tha thứ cho người khác không giới hạn trong việc thi hành lòng thương yêu và tha thứ. Chúa Giêsu đã giải thích cho Thánh Phêrô đó là Vương Quốc Thiên Chúa được xây trên nền tảng thương yêu và tha thứ vô giới hạn.

 

 

 

 

 

36. Đi trên con đường Chúa – Lm. Jos. Nguyễn Hữu An

 

Phúc Âm Thánh Gio-an chương 14 là lời tâm sự của Chúa Giêsu với các môn đệ. Nó có cấu trúc xoay quanh cuộc trở về với Chúa Cha của Chúa Con và vai trò độc nhất của Chúa Con trong việc đưa dẫn các môn đệ về với Chúa Cha.

Tô-ma và Philípphê đã hỏi Chúa 2 câu và Chúa đã mạc khải 2 chân lý hết sức quan trọng:

- Thầy là đường là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy.

- Ai thấy Thầy là thấy Cha; Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy.

Chỉ có thể đạt tới Cha khi chúng ta đi theo Đấng tự nhận là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Và cũng không ai có thể tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa mà lại không do Thánh Thần. Hiểu biết đích thực về Cha và Con mang dấu ấn Thánh Thần. Chính trong Thánh Thần mà Thiên Chúa là Cha và Đức Giêsu là Con (x. Gm. Bùi Văn Đọc, Thiên Chúa Cha, Đấng giàu lòng thương xót, trang 184). Thiên Chúa mà mọi tín hữu tôn thờ và yêu mến hết linh hồn, hết sức lực, hết trí khôn, chính là Thiên Chúa hiện thân nơi Đức Giêsu Kitô "Ai thấy Thầy là thấy Cha" (Ga 14,9) vì "Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy" (Ga 14,10).

Toàn bộ Lịch Sử Cứu Độ được xây dựng trên tương quan Cha - Con "Chúa Cha yêu Chúa Con". Hai chữ Tình Yêu là cách diễn tả sâu thẳm nhất tương qua Cha- Con. Tình yêu đó được Chúa Giêsu thể hiện qua đời sống nhân hậu, bao dung vô bờ của Ngài. Lời nói việc làm của Ngài chính là lời nói việc làm của Chúa Cha (Ga 14,10). Toàn bộ cuộc đời của Ngài được Chúa Cha chiếm ngự. Ngài như tấm gương trong suốt phản chiếu khuôn mặt và trái tim Chúa Cha.

Chúa Giêsu dạy cho chúng ta biết về Chúa Cha bằng nhiều cách: bằng lời nói, bằng việc làm, nhưng nhất là chính phận làm Con. Nhiều lần và bằng nhiều cách khác nhau, Đức Giêsu đã nói với con người về Thiên Chúa là Cha, Đấng mà họ phải tin tưởng phó thác (Mt 6,32), noi gương (Mt 5,45-48), nguyện cầu (Lc 11,2), phải tôn thờ vì Ngài là Chúa trời đất (Mt 10,28), là Cha đầy quan tâm ân cần (Mt 6,25-32) và đặc biệt gần gũi với những kẻ tội lỗi (x. sđd tr. 191).

Điều kỳ diệu và tuyệt vời là chính Đấng Tuyệt Đối, Đấng Toàn Năng, Cao Cả, Chí Thánh Chí Tôn và Hằng Hữu đã có thể trở thành tương đối, thấp hèn, bạn với quân thu thuế với phường tội lỗi, cuối cùng phải chết khổ hình. Nơi Đức Giêsu, sự uy nghi của Thiên Chúa tỏ hiện trong khiêm tốn và yếu đuối cách nghịch thường. Điều đó sự khôn ngoan của bậc hiền triết không lý giải được, nhưng nói như Pascal, trái tim lại hiểu được vì nó có lý lẽ riêng của nó.? Thiên Chúa của Đức Giêsu không phải là Thiên Chúa ngự trên toà cao cho người ta sấp mình thờ lạy mà không dám nhìn đến tôn nhan, không dám gọi tên mà chỉ dám cầu xin với niềm sợ hải. Thiên Chúa của Đức Giêsu dễ gần, dễ thấy, dễ quen. Thiên Chúa hiện diện nơi con người Đức Giêsu khiêm hạ. Chính Ngôi Lời làm người đã chọn máng cỏ làm tổ ấm lúc chào đời, đã chọn xóm làng Na-da-rét làm nơi sinh sống, đã chọn những kẻ thấp hèn trong xã hội làm bầu bạn, đã quỳ gối rửa chân cho các Môn Đệ, rồi chọn cây thập giá làm giường khi chết cùng với hai kẻ cướp làm bạn đồng hành đi vào thế giới bên kia. Thiên Chúa làm người đã chọn nhà Da-kêu để tạm trú, chọn người thiếu phụ Sa-ma-ri để gặp gỡ đối thoại, đã chấp nhận cử chỉ biết ơn của người phụ nữ tội lỗi Ma-đa-lê-na, đã chọn kẻ trộm lành làm ứng viên đầu tiên vào Thiên Đàng, đã chọn Phao-lô kẻ bắt bớ Giáo hội làm Tông Đồ Dân Ngoại...

Quả thật Thiên Chúa của Đức Giêsu chẳng giống tí nào với Thiên Chúa các đạo binh của Ít-ra-en. Người Do-thái nghĩ rằng Thiên Chúa chỉ về phe với dân Người chọn, chỉ bênh vực những người Do-thái ngoan Đạo và lên án nguyền rủa, trừng phạt các dân ngoại cùng người tội lỗi. Thiên Chúa của Đức Giêsu không về phe với kẻ cầm quyền độc ác, người giàu có ích kỷ hay người đạo đức giả. Vì thế các bậc kinh sư, tư tế, kỳ lão trong dân không chấp nhận Thiên Chúa ấy mà trái lại họ đã giết Đức Giêsu để bảo vệ Thiên Chúa của họ. Họ đã giết Đấng Thánh để bảo vệ đền thờ, đã chà đạp và xoá bỏ "hình ảnh Thiên Chúa vô hình" (Cl 1,15) để bảo vệ Thiên Chúa của lề luật.

Thiên Chúa của Đức Giêsu, Thiên Chúa của chúng ta cũng không phải là Thiên Chúa của các triết gia, không phải là Thiên Chúa của các nhà du hành vũ trụ tìm kiếm mà là Người Cha nhân hậu, từ bi, đầy lòng thương xót. Người chỉ muốn lòng nhân chứ không cần lễ tế. Người không phải là Người Cha nghiêm khắc độc đoán, Người Cha dễ tính xuề xoà mà là Người Cha yêu thương, tha thứ. Một Người Cha chuẩn bị sẵn sàng quần áo, giày dép, nhẫn đeo tay và vỗ béo con bê chờ sẵn đứa con hoang đàng trở về và hơn thế nữa còn ra ngoài ngóng trông rồi vui sướng tiến về phía con đón nó vào lòng hôn lấy hôn để (Lc 15,11-32). Lòng nhân hậu được tỏ bày khi tha thứ. Thánh Phao-lô là người cảm nhận sâu xa lòng từ bi, nhân hậu, thứ tha ấy (2 Cr 3,7-11).

"Thiên Chúa không ai thấy bao giờ, Con Một, Đấng ở nơi cung lòng Cha, chính Người đã thông tri" (Ga 1,18). Con người có thể biết Thiên Chúa qua công trình sáng tạo và lịch sử cứu độ, nhưng chưa ai thấy khuôn mặt Ngài. Chính Chúa Con tỏ bày cho nhân loại biết sự thật sâu xa của Thiên Chúa "Ai thấy Thầy là thấy Cha". Qua cuộc sống và lời giảng dạy, Chúa Giêsu đã chỉ cho nhân loại thấy Chúa Cha, một Thiên Chúa là Cha nhân hậu từ bi, đầy lòng xót thương, tha thứ và còn hơn thế nữa Chúa Giêsu là Con đường độc nhất dẫn đến Cha "Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy" (Ga 14,6). Mọi con đường cứu độ đều phải đi vào Con Đường Giêsu. "Thiên Chúa không ban một danh nào khác dưới bầu trời, để nhờ danh đó mà chúng ta được ơn cứu độ" (Cv 4,12). Nhân loại được cứu độ nhờ Danh Đức Giêsu.

Đức Giêsu đã về với Chúa Cha trong vinh quang Phục Sinh, sau khi đã sống một đời yêu thương tự hiến. Cuộc đời Đức Giêsu trở thành con đường cho chúng ta đi. Đọc và suy niệm Tin Mừng trong tin yêu, Chúa sẽ dạy chúng ta nghĩ gì, nói gì, làm gì. Khi đi vào con đường Chúa đã đi qua chúng ta cũng trở nên nẻo đường cho anh chị em mình, nẻo đường dẫn lối về Thiên Chúa là Cha yêu thương.

 

 

 

 

 

37. Niềm tin

 

Có năm anh mù sờ vào một con voi. Anh thứ nhất sờ vào cái bụng thì bảo con voi giống như một bức tường lớn. Anh thứ hai sờ vào chiếc ngà thì bảo con voi giống như một thanh gươm cùn. Anh thứ ba sờ vào cái vòi thì bảo con voi giống như một con đỉa khổng lồ. Anh thứ thứ tư sờ vào cái tai thì bảo con voi giống như một chiếc quạt nan. Anh thứ năm sờ vào cái đuôi thì bảo con voi giống như một sợi dây thừng.

Câu trả lời của mỗi người đều đúng theo quan điểm riêng của mìnnh. Chỉ nhờ đối thoại chung với nhau, họ mới có được một cái nhìn sáng suốt và một hình ảnh đầy đủ để hiểu biết con voi thực sự là như thế nào mà thôi.

Đối với Thiên Chúa cũng vậy. Người Do Thái có một cách hiểu về Ngài. Người theo Hồi giáo có cách hiểu thứ hai. Người theo Phật giáo có cách hiểu thứ ba. Người theo Ấn độ giáo có cách hiểu thứ tư. Và các Kitô hữu có cách hiểu thứ năm.

Như vậy, phải nhờ đến đối thoại chung với nhau, người ta mới có thể đạt được một cái nhìn đầy đủ hơn về Thiên Chúa.

Thế nhưng, tại sao các Kitô hữu lại dám xác quyết rằng mình có một cái chính xác về Thiên Chúa hơn bất kỳ một tôn giáo nào?

Câu trả lời dĩ nhiên phải được đặt nền tảng trên đức tin. Thực vậy, Chúa Giêsu đã tuyên bố: Ngài biết Thiên Chúa bằng một cách thức tuyệt vời mà không vị lãnh đạo tôn giáo nào dám mơ tưởng đến.

Hơn thế nữa, Ngài còn đồng hóa mình với Thiên Chúa. Điều này không một nhà lãnh đạo tôn giáo nào dám làm.

Chẳng hạn qua đoạn Tin mừng hôm nay, Ngài đã xác quyết với Philipphê:

- Ai thấy Ta là thấy Cha.

Nơi khác Ngài cũng nói:

- Cha Ta và Ta là một.

Nếu quả thực đúng như vậy, thì chúng ta, những người Kitô hữu đã có được một cái nhìn thật chính xác về Thiên Chúa hơn bất kỳ một tôn giáo nào khác trên mặt đất này.

Thực vậy, chỉ mình Chúa Giêsu mới dám nói:

- Ta ở trong Cha và Cha ở trong Ta.

Chỉ mình Chúa Giêsu mới dám bảo:

- Ta là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Ta.

Chỉ mình Chúa Giêsu mới dám xác quyết:

- Ta là ánh sáng thế gian. Ai theo Ta sẽ có ánh sáng ban sự sống…Ai theo Ta, sẽ không bao giờ phải bước đi trong tăm tối.

Chỉ mình Chúa Giêsu mới dám công bố:

- Ai tin vào Ta, sẽ không bao giờ phải chết, nhưng sẽ có sự sống đời đời… Và Ta, Ta sẽ cho họ sống lại ngày sau hết.

Vậy Đức Kitô là ai?

Đây cũng là vấn đề mà chính Ngài đã đưa ra cho các môn đệ:

- Người ta bảo Thày là ai?

Các ông thưa:

- Người thì bảo là Gioan tiền hô, là Elia, là Giêrêmia hay một tiên tri nào đó.

Và Chúa Giêsu đã đặt một câu hỏi cân não, đòi buộc các ông phải dứt khoát lập trường và tuyên xưng đức tin của mình:

- Còn các con, các con bảo Thày là ai?

Thánh Phêrô đã thay mặt cho nhóm mười hai đã dứt khoát lập trường và tuyên xưng đức tin của mình:

- Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.

Và Chúa Giêsu liền tỏ cho Phêrô được hay:

- Phúc cho con, không phải do xác thịt hay máu huyết, nhưng do Cha Thày, Đấng ngự ở trên trời đã tỏ cho con biết.

Lời xác quyết này có nghĩa là chân lý này đến với thánh Phêrô không phải từ bất cứ ai, mà từ chính Chúa Cha, Đấng đã trực tiếp mạc khải cho thánh Phêrô.

Là người Kitô hữu, là người môn đệ của Chúa, ngay từ hồi còn tấm bé, chúng ta đã xác tín Ngài là Con Thiên Chúa và chúng ta cũng đã tin vào Ngài.

Thế nhưng, điều quan trọng hơn, đó là chúng ta phải biến niềm tin thành việc làm, biến xác tín thành cuộc sống, bằng cách tuân giữ những điều Ngài truyền dạy, nhờ đó chúng ta thực sự tuyên xưng Ngài trong thẳm sâu cõi lòng cũng như làm chứng về Ngài trong lòng cuộc đời chúng ta đang sống.

 

 

 

 

 

38. Đường tình yêu

 

Đức Khổng Tử trong giờ phút lâm chung cho gọi thầy Tăng Tử là môn đệ mà ngài đặt nhiều tin tưởng, đến bên giường bệnh và nói:

- Này Tăng Tử con ơi! Trước giờ thầy nhắm mắt lìa đời, con có điều gì thắc mắc về những lời ta đã cùng con thảo luận?

Thầy Tăng Tử đáp:

- Bạch Thầy, thầy quả là bậc chí nhân quân tử. Những lời thầy đã chỉ dạy làm cho chúng con thấy khó mà thực hiện cho trọn vẹn.

Đức Khổng Tử mới nói:

- Này Tăng Tử, trong các điều ta đã giáo huấn có điều đúng, có điều sai. Nhưng có một cái mà ta chắc chắn không bao giờ sai đó là điều ta không biết!

Đức Khổng Tử là bậc thánh hiền, học thuyết của ông đã ảnh hưởng đến bao đời, thế mà trước lúc lâm chung, ông phải tự nhận là mình không biết gì. Khác với Khổng Tử là người chỉ đường Đức Giêsu chính là con đường. Trước khi lìa các môn đệ để về cùng Cha, Người đã khẳng định: “Chính Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy”.

Đức Giêsu chính là Đường, dẫn chúng ta đi từ nhịp cầu đau khổ đến bến bờ vinh quang, từ cõi chết trở về cõi sống, từ đời sống tạm bợ tới cuộc sống vĩnh hằng, từ trần gian tục lụy về quê hương thiên đàng.

Đức Giêsu chính là Sự thật. Sự thật tuyệt đối, sự thật về một Thiên Chúa yêu thương và cứu chuộc con người. Sự thật sẽ giải thoát chúng ta.

Đức Giêsu chính là Sự sống. Sự sống vĩnh cửu, sự sống từ cung lòng Cha ban cho mọi loài được sống. Sự sống đã giải thoát con người khỏi chết muôn đời. Người chính là Đấng cứu độ duy nhất. Cũng như “Mọi con đường đều dẫn tới Rôma”, thì mọi con đường cứu độ đều phải dẫn đến con đường Giêsu. Tất cả loài người đều được cứu độ nhờ danh của Người, kể cả những con người không biết Người, nhưng sống theo lương tâm ngay lành, đều được Người ban ơn cứu độ. Sách Công vụ Tông đồ viết: “Thiên Chúa không ban một danh nào khác dưới bầu trời, để nhờ danh đó mà chúng ta được ơn cứu độ”.

Con đường của Người là đường phục vụ, đường yêu thương. Vì thế những ai muốn đi trên con đường của Người cũng phải dấn thân phục vụ anh em, và tận tình yêu thương con người.

Con đường của Người là đường thánh giá, đường đau khổ. Vì thế những ai bước đi trên con đường ấy cũng phải dám hy sinh bản thân, và sẵn lòng chịu khổ vì danh Đức Giêsu.

Hy sinh bao giờ cũng cho tâm hồn nét đẹp cao thượng. Với tình yêu, những khó khăn kia dường như nhỏ lại, những vất vả như bị xóa nhòa. Lòng chúng ta lại thấy vui hơn, cuộc đời thênh thang rộng mở.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã về với Chúa Cha trong vinh quang sau khi đã sống một đời yêu thương tự hiến. Xin cho chúng con cũng biết đi trên con đường của Chúa, là yêu thương phục vụ anh em, để cuối con đường thập giá và đau khổ chúng con được hợp hoan với Chúa trong vinh quang nước trời.

 

 

 

 

 

39. Khuôn mặt Thiên Chúa

 

Nếu gom các hình vẽ, các bức tượng Chúa lại để so sánh, chúng ta sẽ thấy Thiên Chúa có nhiều khuôn mặt khác nhau, tùy theo sự tưởng tượng của các họa sĩ và của các nhà điêu khắc.

Từ ghi nhận này, ta có thể liên tưởng đến hình ảnh Thiên Chúa mà mỗi người khắc họa cho đời mình. Thiên Chúa chỉ có một, nhưng mỗi người lại hình dung về Người một cách khác nhau, tùy theo sự suy nghĩ và sở thích riêng của mình chứ không hẳn đã đúng như hình ảnh đích thực của Người. Đây là điều rất quan trọng, bởi chính cái nhìn của ta về Thiên Chúa sẽ chi phối và ảnh hưởng đến niềm tin cũng như cách sống đạo của ta. Ta có thể đưa ra một vài thí dụ:

- Người Do Thái đã hình dung Thiên Chúa là Đấng thánh thiện tuyệt đối nên Người hoàn toàn tách biệt với những gì phàm tục và tội lỗi. Từ quan niệm này họ cũng nghĩ rằng: Nếu muốn là con cái Chúa, người cũng phải sống tách biệt như vậy. Điều này đúng, nhưng không đúng ở chỗ nhân danh Thiên Chúa toàn thiện, người ta coi khinh và loại trừ những người tội lỗi, là những người rất cần đến sự nâng đỡ của mọi người. Vả lại, Thiên Chúa dù ghét tội lỗi nhưng lại rất yêu thương các tội nhân và muốn họ được cứu thoát.

- Có những người hình dung Thiên Chúa là một ông thẩm phán khắc nghiệt, chỉ biết dò xét tội lỗi của con người để trừng phạt. Nghĩ về Thiên Chúa như thế nên họ sống đạo, họ giữ lề luật chỉ vừa đủ để khỏi bị phạt. Và nghĩ về Thiên Chúa như thế, nên khi thấy một người gặp tai ương hoạn nạn, họ cho rằng đó là người tội lỗi. Quan niệm rằng: Tai ương, hoạn nạn là hình phạt của Thiên Chúa vẫn còn ăn sâu nơi tâm trí của nhiều người.

- Có người lại tưởng Thiên Chúa là một ông quan thích tham nhũng hối lộ. Vì thế, họ xin lễ, họ dâng cúng tiền bạc vào nhà thờ như để mua chuộc Thiên Chúa chúc lành cho những công việc của mình, kể cả những công việc mờ ám.

- Có người lại nghĩ Thiên Chúa chỉ là một ông thủ kho. Khi cần điều gì, họ đến gõ cửa xin Người mở kho để đáp ứng nhu cầu của họ. Nghĩ như thế nên đời sống đạo của những người này thu hẹp lại trong việc xin xỏ. Mà hầu hết chỉ là xin xỏ những nhu cầu vật chất. Nếu Thiên Chúa không đáp ứng điều họ yêu cầu, họ sẽ phản kháng, sẽ trách móc, thậm chí buông những lời xúc phạm đến Người.

- Có những người coi Chúa như một vị thần xa lạ, không liên hệ gì tới đời sống của họ, vì thế họ dửng dưng với Người…

Và còn rất nhiều cách nhìn khác về Thiên Chúa. Do đó, cũng có rất nhiều cách sống đạo, nhiều cách sống mối quan hệ đối với Thiên Chúa,

Ghi nhận những cách nhìn như thế về Thiên Chúa để thấy câu hỏi của ông Philipphê rất quan trọng: “Lạy Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Cha”. Và câu trả lời của Chúa Giêsu còn quan trọng hơn: “Ai thấy Thầy là thấy Cha”. Thiên Chúa là Đấng vô hình, nhưng đã trở nên hữu hình nơi Đức Giêsu. Vì thế, cứ nhìn vào Đức Giêsu ta sẽ thấy được dung nhan đích thực của Thiên Chúa.-Nhìn Chúa Giêsu lân la với người tội lỗi để an ủi, để cứu vớt, ta sẽ biết Thiên Chúa không ruồng bỏ người có tội, nhưng yêu thương và tha thứ.

- Thấy Chúa Giêsu đến với những người nghèo khổ, những người đau ốm tật nguyền, ta biết Thiên Chúa là Đấng không vô tâm trước những nỗi thống khổ của kiếp người.

- Nhìn Chúa Giêsu thổn thức trước mộ ông Lagiarô, động lòng trắc ẩn trước cảnh người mẹ góa đi chôn xác con trai mình, thương cảm đám dân chúng bơ vơ đói khát như chiên không có người chăn, ta thấy Thiên Chúa gần gũi con người biết bao.

- Nhìn Chúa Giêsu quì xuống rửa chân cho các môn đệ, chiêm ngắm Chúa Giêsu quằn quại trên thập giá, ta biết Thiên Chúa yêu thương ta dường nào.

- Nghe Chúa Giêsu xin Chúa Cha tha thứ cho kẻ giết mình, ai dám nghĩ rằng Thiên Chúa thích báo thù và trả oán…Vì Chúa Giêsu biểu lộ khuôn mặt đích thực của Thiên Chúa, nên nếu muốn thấy Thiên Chúa, muốn hiểu biết Thiên Chúa, thì phải gần gũi và gắn bó với Chúa Giêsu.Chỉ khi có cái nhìn đúng về Thiên Chúa ta mới có được thái độ sống phù hợp với đạo làm con.

Chớ gì chúng ta không bị Chúa Giêsu trách cứ như Người đã trách cứ ông Philipphê: Con theo đạo biết bao lâu rồi mà vẫn chưa biết Thầy, chưa biết Cha ư?

 

 

 

 

 

40. Đường

 

Nhà tu đức học nổi tiếng của Ấn độ, cha An tôn Mê-lô có làm một bài thơ, nội dung như sau: “Một hôm lang thang trên phố, tôi thấy một cửa hiệu với hàng chữ: Tại đây có bán chân lý”. Tò mò tôi bước vào. Cô bán hàng niềm nở đón tiếp tôi và hỏi: “Ông muốn mua loại chân lý nào? Chân lý từng phần hay chân lý toàn diện?”. Tôi cho cô biết dĩ nhiên tôi đang đi tìm thứ chân lý toàn diện, thứ chân lý không pha trộn giả dối, thứ chân lý mà lý trí tôi phải đầu hàng vô điều kiện. Tôi muốn có chân lý đơn thuần và toàn diện.

Cô bán hàng nhìn tôi lắc đầu rồi chỉ sang một cửa hiệu khác, nơi có bán thứ chân lý mà tôi đang đi tìm. Người đàn ông đứng bán hàng nhìn tôi với lòng thông cảm. Ông chỉ cho tôi xem giá biểu của món hàng mà tôi muốn mua, rồi nói với tôi:”Thưa ông, giá của món hàng rất cao”. Đã cương quyết mua cho được chân lý toàn diện, tôi liền hỏi:”Giá bao nhiêu, xin cho tôi biết”. Người bán hàng trả lời: “Nếu ông muốn mua thứ chân lý này, ông phải trả bằng cả cuộc sống của ông”.

Tôi ra khỏi cửa hiệu, lòng buồn rười rượi. Tôi cứ nghĩ rằng tôi có thể mua chân lý toàn diện bằng giá rẻ. Thì ra tôi chưa sẵn sàng để đón nhận chân lý. Tôi vẫn chưa muốn cho đi cuộc sống của tôi. Tôi vẫn còn bám chặt vào những xác tín của riêng tôi”.

Bài thơ ngụ ngôn trên đây hẳn muốn nói lên thái độ của nhiều người trong chúng ta đối với Đấng tự xưng là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Chúng ta chưa tin tưởng đầy đủ và sống trọn vẹn cho Ngài. Vì thế, bài Tin mừng hôm nay, một lần nữa, nhắc nhở chúng ta hãy khẳng định, hãy xác tín hơn nữa vào Chúa Giêsu.

Tất cả chúng ta đều biết ý nghĩa của con đường. Dù đó là xa lộ hay con đường mòn, đều có mục đích là để đi. Đường là để đi, nghĩa là đường sẽ dẫn đến nơi nào đó, nên đường không bao giờ là nơi cư trú, mà là để dẫn đến nơi cư trú. Do đó, người nào dùng đường làm nơi cư trú thì chẳng bao giờ đến nơi cư trú của mình. Vì vậy, chúng ta phải xác định với lòng mình rằng: Cuộc sống hôm nay ở trần gian là đường đưa đến một quê hương khác. Nếu cuộc sống hôm nay không phải là cùng đích, mà chúng ta lại chọn làm nơi cư trú, tức là chúng ta không lên đường đến nơi chúng ta phải đến. Sống ở đời, ai cũng phải lên đường. Đời là cõi rộng mênh mông. Sống là đi. Nhưng đi về chốn nào? Trong cõi rộng mênh mông ấy, đâu là đường?

Bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã trả lời cho chúng ta biết: “Ta là Đường, Là Sự Thật và là Sự Sống”. Nghĩa là đường của cuộc đời chúng ta đi là Chúa, những gì chúng ta đang thiếu thốn và lo âu đều liên quan đến hạnh phúc của chúng ta. Khi Chúa nói Chúa là Sự Sống, có nghĩa là Chúa là hạnh phúc chúng ta đang túng thiếu. Khi Chúa nói Chúa là Đường, có nghĩa là để dẫn chúng ta tới hạnh phúc đó. Như vậy, Chúa là cùng đích và cũng là phương tiện dẫn tới cùng đích. Chúa là hạnh phúc và cũng là đường dẫn tới hạnh phúc. Chúa là con đường duy nhất, nhưng mỗi người chúng ta lại đi trên đường theo cách riêng của mình, hay mỗi người chúng ta lại có riêng đường đời của mình, nghĩa là mỗi người có một cuộc sống riêng, nên không đường của ai giống đường của ai, và vì thế nỗi lòng của mỗi người cũng khác nhau. Quả thực, trên đường đi, chúng ta đã thấy có nhiều quán trọ. Có quán cho chúng ta bóng mát. Có quán bảo chúng ta đừng đi. Mệt nhọc làm chúng ta dừng nghỉ. Chống đối, hiểu lầm, ghen tị, kết án làm chúng ta muốn bỏ cuộc. Và dường như nếu chúng ta càng dừng nghỉ thì chúng ta càng ngại đi. Nếu chúng ta càng làm quen với lười biếng thì chúng ta càng ngại ngùng trở về con đường mà Chúa muốn chúng ta sống. Rồi, đường đi cứ thế mà chậm thêm.

Rồi cũng trên đường đi, sao có nhiều quãng thật xấu, gồ ghề như quãng đường Chúa đi xưa. Hình ảnh đồi Sọ làm chúng ta tính toán, lưỡng lự. Có những quãng đường sao mà tối tăm làm chúng ta hồ nghi không biết có phải là đường thật không? Đây là lúc chúng ta phân vân không biết thánh ý Chúa ở đâu. Và cũng là lúc chúng ta bị cám dỗ nghi ngờ đủ thứ. Nên Chúa đã dặn: “Đường dễ dãi sẽ dẫn đến hư đi”. Và những lúc như thế chúng ta vẫn nghe tiếng Chúa khuyến khích: Cứ đi đi, tuy khó khăn nhưng hứa hẹn cuối con đường là hạnh phúc. Chúa đang đợi chờ ở đó.

Đó là chân lý toàn diện chúng ta phải tìm kiếm và mua cho bằng được. Trần gian có sóng gió, đường về có dài lâu, cạm bẫy có giăng đầy, nhưng có Chúa, cùng với thiện chí của chúng ta, thì khó khăn mấy cũng vượt qua, đường dài mấy cũng phải tới, cạm bẫy thế nào cũng chẳng hề hấn gì. Cầu chúc ông bà anh chị em biết tuân nghe lời Chúa, cùng đi con đường hẹp, để rồi chúng ta sẽ lại gặp nhau ở cõi sống hạnh phúc.

 

 

 

 

 

41. Niềm tin

 

Trong suốt bữa tiệc ly, khi Đức Giêsu bắt đầu nói về cái chết của Người, thì các tông đồ liền bị rơi vào trạng thái khủng hoảng. Khi nghe tin này, tâm hồn họ xao xuyến và ngập tràn nỗi sợ hãi. Nhận biết lòng tin của các tông đồ sẽ bị thử thách nặng nề, nên Đức Giêsu đã cố gắng chuẩn bị cho họ đối đầu với cuộc thử thách này. Người nói với các ông: “Lòng anh em đừng xao xuyến, hãy tin tưởng vào Thiên Chúa, và cũng hãy tin tưởng vào Ta”. Bởi vì các tông đồ đã tin tưởng, nên Đức Giêsu nói với họ “Anh em phải bước đi trong niềm tin tưởng vào Thiên Chúa và vào Ta”.

Trong những lúc bị đau khổ và khủng hoảng, người ta hay nghĩ rằng Thiên Chúa ruồng bỏ họ. Nhưng Đức Giêsu đã trấn an các tông đồ rằng, mặc dù rời xa họ, nhưng Người không hề bỏ rơi họ. Nói đúng hơn, Người đang chuẩn bị một mái nhà cho họ, và sẽ trở lại đón họ vào nhà đó. Do đó, bất chấp điều gì diễn ra, bất chấp những khó khăn có thể xảy đến (và họ gặp nhiều khó khăn), họ vẫn phải tiến bước trong niềm tin tưởng, trong sự tín nhiệm vào Đức Giêsu và vào Chúa Cha. Đó là tất cả những điều họ phải làm. Tiến lên trong niềm tin tưởng, tiến lên trong sự tín nhiệm. Nói thì dễ hơn làm.

Nhưng khi gặp khủng hoảng, điều duy nhất mà chúng ta có thể làm là: Bước đi trong sự kiên quyết tín nhiệm nơi Thiên Chúa. Sự tín nhiệm là một điều vĩ đại nhất mà chúng ta có thể đem đến cho người khác. Vào thời điểm đó, chúng ta phải tin tưởng rằng bằng cách này hay bằng cách khác, mọi sự vẫn có mục đích của nó, và trong cảnh tối tăm, một tia sáng le lói sẽ xuất hiện. Lòng tin đích thực trấn an chúng ta rằng Thiên Chúa luôn ở với chúng ta trong lúc bị khủng hoảng. Chính cảm giác đó, chính niềm tin tưởng rằng chúng ta không bị cô đơn, không bị bỏ rơi, đem lại khả năng giúp chúng ta vượt qua cơn khủng hoảng. Nếu không có Thiên Chúa, chúng ta không thể hiểu nổi, và không thể chịu đựng nổi cuộc sống. Đó là lý do tại sao lòng tin vô cùng quan trọng. Khi Charlie Lansboro, một ca sĩ người Anh, trở thành người Công giáo, anh đã nói: “Tôi hoàn toàn tin tưởng. Tôi không thể tưởng tượng cuộc sống của tôi sẽ ra sao, nếu không có đức tin. Nhưng tôi phải mất nhiều thời gian, mới có được lòng tin này”.

Những ai có đức tin đều có được nguồn an ủi và niềm cảm hứng, đặc biệt khi gặp cảnh bối rối. Họ nhận biết rằng Thiên Chúa sẽ cư xử nhân hậu với họ cho đến tận cùng, cả trong thế giới này, lẫn trong thế giới mai sau. Không phải chúng ta giữ lấy đức tin, mà chính đức tin gìn giữ chúng ta.

“Người nào dù chỉ có đôi chút lòng tin nơi Thiên Chúa mà thôi, sẽ không bao giờ bị mất niềm hy vọng, bởi vì người đó tin tưởng vào chiến thắng cuối cùng của chân lý”.

Như vậy, khi sự việc trở nên tồi tệ, chúng ta hãy lắng nghe những lời êm dịu của Đức Giêsu “Hãy tin tưởng vào Thiên Chúa, và cũng hãy tin tưởng vào Ta”.

 

 

 

 

 

42. Mái nhà

 

Thật không thể nào cường điệu về tầm quan trọng của mái nhà. Có một lần tôi được nghe một quản giáo trại tù nói “Nếu bạn cho các tù nhân được quyền chọn lựa giữa việc trở về nhà, và ở lại trại giam, mà được cho ăn mặc sang trọng, có đầy đủ tivi màu, phòng tắm hơi, phòng uống rượu… thì sẽ không có một tù nhân nào không chọn lựa cách trở về nhà”.

Khi mọi sự đều thất bại, khi chúng ta cảm thấy mệt mỏi và cô đơn, thì chúng ta luôn luôn có một mái nhà để trở về, và có rất nhiều trường hợp, chúng ta đã được người ta nói, hoặc chính chúng ta nói những câu này: “Chúng ta hãy trở về nhà”. “Tôi muốn trở về nhà”. Mái nhà là một nơi chúng ta được an toàn. Mái nhà là một nơi của sự hiệp thông. Nếu bạn nhận biết rằng mình đang trên đường trở về nhà, thì không bao giờ bạn cảm thấy cuộc hành trình quá lâu dài hoặc quá khó khăn nữa. Chúng ta phải đi ra thế giới bên ngoài, thì mới nhận biết được mái nhà của mình đáng yêu ra sao. Bạn hãy thử tưởng tượng xem, nếu không có nhà để trở về, thì sẽ ra sao?

Nelson Mandela đã kể lại trong suốt những năm dài bị giam hãm tại đảo Robben, ông bị một cơn ác mộng lập đi lập lại ra sao. Ông nói: “Trong một giấc mơ, tôi mơ thấy mình được phóng thích khỏi nhà tù – chỉ có điều đó không phải là đảo Robben, nhưng là một nhà tù ở Johannesburg. Tôi bước ra bên ngoài cổng, rồi đi vào thành phố, và nhận ra là không có ai gặp tôi. Trên thực tế, ở đó không hề có ai, không một người nào, không có xe hơi, không có taxi. Rồi tôi đi bộ đến Soweto. Tôi đi bộ trong nhiều giờ, trước khi tới phía tây Orlando, và sau đó, tôi quẹo về hướng nhà số 8115. Cuối cùng, tôi nhìn thấy căn nhà của tôi, nhưng đó là một căn nhà trống rỗng, một căn nhà ma quái, với tất cả các cửa ra vào và cửa sổ đều mở toang, nhưng không hề có ai ở trong đó cả”.

Có một mái nhà, không nhất thiết mang ý nghĩa là phải có một căn nhà. Mà là phải có hàng loạt những mối dây ràng buộc thân thiết, với những người biết chấp nhận chúng ta vì chính con người của chúng ta, và tạo cho chúng ta cảm giác được thuộc về người đó. Nhưng bất kể tất cả những tòa cao ốc mà chúng ta đã dựng lên, và những gốc rễ mà chúng ta đã tạo ra, thì nơi đây, trên trái đất này, chúng ta vẫn không hề có được một mái nhà lâu bền. Như thánh Phaolô nói, tất cả những gì chúng ta có, chỉ là một thứ lều tạm bợ. Khi chúng ta chết đi, thì căn lều đó sẽ được gấp lại.

Do đó, chúng ta cần có một mái nhà, không chỉ ở trên trái đat này. Sau khi cái chết đã vén mở bức màn cuộc sống, chúng ta cũng cần phải có một mái nhà để trở về. Nếu không có một cuộc sống mới, ở trong một mái nhà khác, thì hành trình cuộc đời của chúng ta sẽ không đi đến đâu cả.

Trong suốt Bữa Tiệc ly, Đức Giêsu bắt đầu nói với các tông đồ về sự kiện Người sắp rời xa họ. Khi nghe biết tin đó, lòng các ông tràn ngập đau khổ. Nhưng Người đã an ủi họ bằng những lời sau đây, chắc chắn được coi là những lời nói đầy yêu thương nhất trong Tin mừng “Trong nhà của Cha Ta có nhiều chỗ. Ta sắp sửa đến đó để chuẩn bị chỗ cho anh em. Ta sẽ trở lại để đón anh em đi với Ta; sao cho Ta ở đâu, thì anh em cũng sẽ được ở đó”. Điều này có nghĩa là chúng ta có một mái nhà vĩnh cửu để trở về, là nhà của Chúa Cha.

Đối với một đứa trẻ, mái nhà không hẳn là một nơi trú ngụ, cho bằng là một tương quan của yêu thương và tin tưởng. Một đứa trẻ có thể đi khắp mọi nơi, mà vẫn không hề cảm thấy mình không có nhà, miễn là có cha mẹ của bé cùng ở đó. Đây cũng là cảm giác của những người có tương quan thân thiết với Thiên Chúa.

Chúng ta trải qua cuộc sống của mình trong sự tìm kiếm Thiên Chúa, và dò dẫm lối đi của mình hướng về Người. Chết đi có nghĩa là tìm được Thiên Chúa, gặp gỡ Người, nhìn thấy Người.

Chết đi có nghĩa là trở về với Thiên Chúa, và trở về với Thiên Chúa nghĩa là trở về mái nhà của mình.

 

 

 

 

 

43. Trở về

 

Một lần kia, trên một bãi biển cách Dublin khoảng 40 dặm về phía Đông Nam, tôi nhìn thấy một người đàn ông lấy ra từ trong thùng xe của mình một cái sọt đựng chim bồ câu nuôi. Sau đó, ông ta mở sọt, và phóng thích chim. Chúng bay thẳng lên không trung. Tuy nhiên, thay vì quay đầu trực chỉ về hướng Dublin, là nơi ở của chúng, những con chim bồ câu lại cứ bay lòng vòng chung quanh chúng tôi. Chúng cứ thế vòng tới vòng lui. Đối với những người không hiểu điều gì sắp xảy ra, thì sự kiện này có vẻ như là ngớ ngẩn và mất thì giờ. Nhưng rõ ràng là những con chim bồ câu này đang tìm kiếm phương hướng của chúng. Một khi đã định hướng rồi, thì chúng ta sẽ bắt đầu lên đường trở về nơi ở của chúng. Ở nhiều loài chim, bản năng xác định được nơi trú ngụ là một điều kỳ lạ. Đối với một số loài, dường như đó là một bản năng gắn liền với chúng. Đối với những loài khác, chẳng hạn như chim bồ câu, thì chúng phải được huấn luyện. Yêu cầu cơ bản của việc huấn luyện là giữ cho chúng được sức khỏe tốt sao cho chúng có thể duy trì được khả năng bay. Sương mù, tuyết, mưa, và những luồng gió thổi ngược là các trở ngại mà chúng phải vượt qua.

Chúng ta cũng phải có một bản năng trở về nơi trú ngụ. Thiên Chúa, Đấng đã dựng nên chúng ta vì chính Người, đã không để mặc chúng ta không có phương hướng. Người đặt để nơi chúng ta một bản năng về quê hương. Đây là một điều rất tế nhị và mỏng giòn, bởi vì Thiên Chúa sẽ không bao giờ tước đoạt sự tự do của chúng ta. Bản năng này mang hình thức thao thức và không hài lòng. Sự thao thức, không hài lòng, khát vọng này không phải là tai họa, mà là một sự chúc lành.

Bản năng xác định nơi trú ngụ không cứu thoát loài chim khỏi nhu cầu phải đấu tranh chống lại mưa gió, tương tự như vậy, đức tin không hề che chở chúng ta khỏi những va chạm đầy khó khăn của cuộc đời và cái chết. Nhưng điều mà bản năng đó đem lại cho chúng ta, đó là biết cách xác định phương hướng. Bản năng này đem đến cho chúng ta khả năng sống trong thế giới, mà không đánh mất hoặc đầu hàng sự thất vọng. Bản năng này trấn an chúng ta rằng chúng ta có một mái nhà để trở về, và chỉ cho chúng ta phương hướng, để trở về mái nhà đó.

Trong suốt Bữa Tiệc Ly, khi Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng Người sắp sửa rời xa họ, các ông đều đau khổ sâu xa. Nhưng Người đã an ủi họ bằng những lời sau đây, chắc chắn được coi là những lời nói đầy yêu thương nhất trong Tin mừng “Trong nhà của Cha Ta có nhiều chỗ. Ta sắp sửa đến đó để chuẩn bị chỗ cho anh em. Ta sẽ trở lại để đón anh em đi với Ta; sao Ta ở đâu, thì anh em cũng sẽ được ở đó”.

Điều này có nghĩa là chúng ta có một mái nhà vĩnh cửu để trở về, nơi đó chúng ta sẽ được thỏa mãn tất cả những hy vọng của mình. Nhưng vẫn còn có vấn đề là phải làm sao để đi đến đó.

Nếu bạn đang ở trong một thành phố xa lạ, và hỏi thăm đường đi, thì người ta có thể nói là “Bạn hãy đi thẳng, cho đến khi đến một chốt đèn giao thông. Quẹo phải ngay chỗ ngọn đèn đó…” Đôi khi, cách chỉ dẫn quá phức tạp, đến nỗi bạn không thể nhớ được. Nhưng có thể bạn may mắn, khi gặp một người tử tế, người đó nói với bạn “Thật khó giải thích. Bạn cứ đi theo tôi, và tôi sẽ cho bạn đường đi”.

Con đường đến với Thiên Chúa gây trở ngại và bối rối cho nhiều người. Một số người đã quá bị bối rối, đến độ mất cả niềm hy vọng; một số người khác bị lạc mất phương hướng. Khi thánh Tôma hỏi Đức Giêsu “Xin Thầy chỉ cho chúng con thấy Cha”, thì Đức Giêsu đã không đưa ra nhiều phương hướng phức tạp. Thay vào đó, Người nói “Ta là Đường”. Thật vậy, Người còn nói “Hãy theo Ta, và Ta sẽ chỉ cho anh em biết đường đi”.

Trong khi chờ đợi, với Giáo Hội, chúng ta có một mái nhà thiêng liêng, được xây dựng trên nền đá tảng của Đức kitô (xem bài đọc 2). Ở đây, chúng ta có những anh chị em cùng đồng hành với chúng ta, trên cuộc hành trình tiến về mái nhà này, đó là quê hương nước trời.

Một người phụ nữ đang trở về Ailen cùng với chồng bà, sau ba năm sinh sống ở Úc. Khi gần đến nước Anh, bà đã gọi điện thoại cho mẹ của bà ở Dublin, bà cụ này sẵn sàng đón bà ngay tại tàu ở Dun Laoghaire. Bà đã nói với mẹ “Mẹ sẽ dễ dàng nhận ra con thôi. Con sẽ mặc một cái áo khoác màu đỏ tươi”. Khi nghe đến đó, bà mẹ nói “Con đừng ngớ ngẩn. Thế con nghĩ rằng mẹ sẽ không nhận ra con gái của mẹ sao?”.

Chúng ta đều là con cái của Thiên Chúa. Bạn có nghĩ rằng Thiên Chúa sẽ không nhận ra chúng ta, khi chúng ta trở về mái nhà của Người, sau hành trình cuộc đời không?.

“Chỉ những người nào bay về mái nhà của Thiên Chúa, mới có thể bay bổng được”.

 

 

 

 

 

44. Nẻo đường đích thật – Lm. Bùi Quang Tuấn

 

"Đường, Sự Thật, và Sự Sống chính là Ta. Không ai đến được với Cha mà không nhờ Ta" (Ga 14:6).

Bước vào trần gian để được sống kiếp con người không ai lại không khát khao và tìm kiếm hạnh phúc. Không một lãnh tụ của đất nước nào lại không đoan quyết với nhân dân những đường lối hấp dẫn, có thể đưa họ đến với chân trời hạnh phúc. Không một chính khách hay nhà đầu tư nào lại không hứa hẹn những tương lai rực sáng cho niềm khát mong nền tảng của con người là hạnh phúc. Thế nhưng trả lời cho thật đúng câu hỏi "hạnh phúc là gì" và "đi tìm hạnh phúc nơi đâu" lại không phải là một chuyện dễ dàng?

Đối với quan niệm của nhiều người, hạnh phúc là khi có việc làm ngon lành vững chắc, hạnh phúc là có vợ đẹp con khôn, hạnh phúc là tiền bạc đầy túi, hay danh vọng quyền lực đầy mình, ăn chơi thoải mái. Thế rồi điều người ta có hứa hẹn hay kiếm tìm không gì khác hơn là làm sao cho đời mình có nhiều danh vọng, quyền lực, tiền bạc, của cải, sắc đẹp... Cứ càng nhiều càng tốt. Càng nhiều càng thấy "hạnh phúc."

Từ quan điểm đó con người cũng sẽ dễ đi đến kết luận: ai bị nghèo túng, đau buồn, đói khổ, yếu đuối, chèn ép là bất hạnh, vô phúc.

Ấy thế mà trong Hiến Chương Nước Trời, bài giảng đầu tiên của cuộc sống công khai, Đức Giêsu lại công bố một sứ điệp hoàn toàn mới và đầy vẻ nghịch lý: phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó; phúc cho những ai đau buồn; phúc cho những ai đói khát; phúc cho những ai sống trong sạch; phúc cho những ai bị bách hại, đánh đập, khủng bố vì sự công chính.

Trong số báo Time đầu năm 2002 có nói đến Cliff Baxter, một nhân vật cao cấp trong tổ hợp kinh tài năng lượng Enron, người đang có trong nhà băng hàng triệu đôla, đang có vợ đẹp con khôn, đang có căn nhà đáng nhà 700 ngàn, thế mà tuần trước Baxter đã lái chiếc xe Mercedes mới mua 80 ngàn đôla của mình đến một con đường nhỏ, rút súng bắn vào đầu một phát để kết thúc cuộc sống mà có lẽ anh cho là không hạnh phúc bằng cái chết.

Cứ tưởng vừa giàu có sang trọng vừa được nhiều người mến mộ thì hạnh phúc lắm. Thành ra quan niệm về hạnh phúc của con người không có gì là bảo đảm chắc chắn hết.

Vậy cái gì có thể bảo đảm mang hạnh phúc cho tôi đây? Nghèo khổ, đói khát, thương đau à?

Xin thưa: Cội nguồn mang lại hạnh phúc đích thực và vững chắc cho con người chính là Thiên Chúa, và là Thiên Chúa hiện thân trong Đức Kitô. Cốt lõi của hạnh phúc không phải là cái nghèo, đói khát, khổ đau, nhưng là Nước Trời, là Thiên Chúa. Kinh Thánh nói rõ lắm: Phúc cho người có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ; phúc cho ai hiền lành vì họ sẽ được Nước Chúa làm cơ nghiệp; phúc cho ai trong sạch vì họ sẽ được nhìn xem Thiên Chúa; phúc cho ai ăn ở thuận hoà vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa...

Phải là như thế, chứ nghèo khổ hay đói khát mấy mà không có Chúa, không có Nước Trời thì đó là hoả ngục chứ phúc gì! Cho nên cần phải hiểu cho đúng giá trị của nẻo đường dẫn đến Thiên Chúa. Người nghèo khổ, đói khát, ưu phiền, trong sạch, chịu bắt bớ được gọi là có phúc vì họ rất gần Chúa, rất dễ gặp được Chúa, bởi vì Chúa đã đến trong thân phận giống như họ.

Chúa Giêsu đã đến trong thân phận của một người nghèo, và rất nghèo. Sinh ra trong chuồng súc vật, sống không có nơi gối đầu, chết trần truồng trên thập giá.

Chúa Giêsu không những nghèo mà Ngài còn hiền lành, khiêm nhường. Hiền lành khiêm nhường đến nỗi không có hạng người thấp kém hay tội lỗi đến đâu mà Ngài không tiếp nhận, ủi an, và thương xót.

Chúa Giêsu còn là một con chiên tinh tuyền, trong sạch, chịu hành hạ, bắt bớ, và chịu chết để mang lại niềm hy vọng hân hoan và sự sống phong phú, sâu xa, trường tồn cho con người.

Có điều là lắm khi con người chỉ đi tìm những sự sống nông cạn và nhất thời của thế gian mà quên đi những giá trị thiêng liêng và vĩnh hằng của Nước Trời mà Đức Giêsu mang đến. Phải chăng chính vì thế mà lắm người đã không cảm nhận được niềm hạnh phúc đích thực trong cuộc đời. Có những người đã tìm được rất nhiều tiền, đạt được nhiều danh vọng, trải qua biết bao nhiêu lần hưởng thụ xác thịt, nhưng vẫn cảm thấy cuộc đời hụt hẫng, trống vắng vô cùng. Tại sao? Phải chăng vì họ chưa kiếm tìm Thiên Chúa? Phải chăng vì họ chưa biết tựa nương vào nền tảng vững chắc duy nhất là Đức Giêsu, "Đấng là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống"?

 

 

 

 

 

45. Suy niệm của JKN

 

Câu hỏi gợi ý:

1. "Thầy đi là để dọn chỗ cho anh em". Câu này có ý nghĩa gì? Đức Giêsu đi đâu? Dọn chỗ là gì và dọn ở đâu?

2. "Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở", Câu này có ý nghĩa gì? Trên thiên đàng nơi sống đời đời hạnh phúc có dung nạp đủ mọi hạng người đầy tính đa dạng và khác biệt như ở trần gian không?

3. "Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha". Có thể thấy Chúa Cha hay Đức Giêsu gần gũi và cụ thể nhất ở đâu?

Suy tư gợi ý:

1. "Thầy đi là để dọn chỗ cho anh em" ở "trong nhà Cha Thầy"

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu cho biết Ngài "đi là để dọn chỗ cho anh em" ở "trong nhà Cha Thầy". Đây là một trong những lời cáo biệt của Ngài với các môn đệ trước khi Ngài bước vào cuộc khổ nạn và chết trên thật giá. Vì thế, chữ "đi" ở đây có nghĩa là đi vào đau khổ và cái chết. "Dọn chỗ cho anh em… trong nhà Cha Thầy" có nghĩa là chuẩn bị sự sống đời đời cho con người. Như vậy, Đức Giêsu đã dùng sự đau khổ và sự chết để chuẩn bị sự sống đời đời cho con người. Nói cách khác, nhờ đau khổ và cái chết, Ngài trở thành con đường dẫn tới sự sống đời đời.

Ngài đã phải đau khổ và chết mới có thể đem lại sự sống đời đời cho chúng ta. Phần chúng ta, để hưởng được sự sống đời đời ấy, chúng ta cũng phải góp một phần nào hy sinh và đau khổ của mình vào khi quyết tâm sống phù hợp với sự đòi hỏi của tình yêu. Tình yêu ở đây là tình yêu đối với Thiên Chúa được cụ thể hóa thành tình yêu đối với tha nhân. Tình yêu luôn đòi hỏi phải được chứng tỏ cụ thể bằng đau khổ và hy sinh. Không chấp nhận đau khổ và hy sinh cho ai hết có nghĩa là không yêu ai cả. Nhưng yêu cũng là… chấp nhận sự khác biệt của người mình yêu.

2. "Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở"

Đức Giêsu phải chịu đau khổ và chết không phải chỉ để cứu rỡi hay đem lại sự sống đời đời cho một mình ta, hay nhóm của ta, cộng đoàn của ta, Giáo Hội của ta, hoặc những người có cùng khuynh hướng với ta. Ngài muốn cứu tất cả mọi người, mọi khuynh hướng, mọi cộng đoàn, mọi tập thể… khác nhau. Thánh Phao-lô viết: "Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý" (1Tm 2,4). Điều đó đã được Đức Giêsu tỏ cho biết trong câu: "Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở". "Nhiều chỗ ở" có nghĩa là dung nạp được nhiều: nhiều người, nhiều chủng tộc, màu da, khuynh hướng (chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, tâm linh, tôn giáo…).

Nhìn trong thế giới tự nhiên này, ta thấy sự vật hết sức đa dạng, nghĩa là đủ loài đủ kiểu, rất khác biệt nhau. Thế giới sẽ trở nên đơn điệu và buồn tẻ biết bao nếu thiếu sự đa dạng và khác biệt ấy. Hãy thử tưởng tượng xem: nếu trên đời chỉ có một loài hoa duy nhất cho dù hết sức đẹp, hoa nào cũng giống y hệt hoa nào, thì chúng đâu thỏa mãn nhu cầu thích cái đẹp của con người như khi có hàng trăm ngàn loài hoa khác nhau như trong thế giới ta đang sống đây! Thế giới này sẽ ra sao nếu chỉ có một loài chim, một loại cá, hay tệ hơn, chỉ có một loài thú duy nhất?

Thế giới tuy đa dạng và đầy khác biệt, các loài các vật trong đó vẫn luôn luôn hài hòa, bổ túc cho nhau, ăn khớp với nhau. Nếu thế giới tự nhiên đầy bất toàn này mà còn phong phú đa dạng như thế, còn có sự hài hòa giữa những khác biệt như thế, thì sự sống đời đời hay thiên đàng, là một thực tại hoàn hảo, ắt nhiên phải phong phú, đa dạng và nhất là hài hòa hơn biết bao!

Vì thế, ngay ở đời này, chúng ta cũng cần trang bị cho mình một tinh thần sẵn sàng chấp nhận mọi khác biệt nơi những người chung quanh chúng ta. Chính Thiên Chúa đã dựng nên con người và vạn vật đầy khác biệt như thế. Vì thế, mọi thành viên của Thiên Đàng đều phải có khả năng chấp nhận khác biệt rất cao độ để sự hài hòa giữa những khác biệt ấy trở nên hoàn hảo. Điều ấy đòi hỏi họ phải có tình yêu và lòng bao dung cao độ. Nếu không có tình yêu và lòng bao dung, thiên đàng không còn là thiên đàng nữa, sự sống đời đời không còn là hạnh phúc nữa.

Nếu ta đang giận hờn ai, không muốn nhìn mặt ai, ghét cay ghét đắng ai, và chủ trương không thể sống chung với họ, không thể cùng đội chung một bầu trời với họ, v.v…, hãy tự hỏi: nếu cả hai gặp nhau trên thiên đàng, ta sẽ đối xử với người ấy thế nào? Người ấy cũng được Thiên Chúa và Đức Giêsu yêu thương, cứu chuộc, tha thứ như ta. Nếu lúc ấy ta không thể nhìn người ấy với tình yêu thương anh em, thì chính ta là người không xứng đáng ở thiên đàng. Với sự thù hận và ác cảm ấy, ta chỉ làm cho thiên đàng bị ô nhiễm và không còn là nơi hạnh phúc nữa. Ta đáng ở một nơi khác không phải là thiên đàng. Vì thiên đàng chỉ thích hợp với những con người tràn đầy yêu thương. Vậy, muốn là công dân của thiên đàng, thì ngay ở trần gian này, hãy tập yêu thương và sống hài hòa với những người khác biệt chúng ta. Muốn thế, ta phải nhìn thấy Thiên Chúa nơi tha nhân.

3. "Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha"

Câu nói ấy của Đức Giêsu chắc hẳn đã làm cho các tông đồ hết sức ngạc nhiên. Thấy Đức Giêsu cũng chính là thấy Chúa Cha, vì Đức Giêsu chính là hiện thân, là hình ảnh trung thực của Chúa Cha. Người ta có thể thấy được tình yêu của Chúa Cha qua tình yêu của Đức Giêsu, thấy được vẻ đáng yêu của Chúa Cha qua sự đáng yêu của Đức Giêsu, v.v… Và một cách nào đó, Đức Giêsu cũng chính là Chúa Cha, vì cả hai cùng là một Thiên Chúa duy nhất. Các tông đồ có diễm phúc nhìn thấy Đức Giêsu, sống với Ngài, cảm nghiệm Ngài, nên cũng là nhìn thấy, sống với và cảm nghiệm chính Thiên Chúa Cha.

Còn chúng ta, chúng ta không có diễm phúc ấy. Tuy nhiên, nếu chúng ta có tình yêu và đức tin, chúng ta sẽ thấy Thiên Chúa hay Đức Giêsu nơi bất cứ người nào ta gặp trong cuộc đời. Cho dù người ấy là ai, thương ta hay ghét ta, làm lợi cho ta hay hại ta, thánh thiện hay tội lỗi, dễ thương hay dễ ghét, miễn họ là con người, thì họ đều là hình ảnh của Thiên Chúa với nhiều mức độ trung thực khác nhau. Đức Giêsu muốn ta yêu thương họ, bất kể họ thế nào, bất kể họ khác biệt ta đến mức độ nào, vì chính Ngài cũng yêu thương họ, muốn cứu chuộc họ, phục vụ họ. Ngài đã tự đồng hóa Ngài với họ đến nỗi ai làm gì cho họ thì cũng là làm cho chính Ngài, không làm cho họ thì cũng là không làm cho chính Ngài (x. Mt 10.40; 18,5; 25,40.45; Lc 10,16). Ngài cũng rất ước muốn được yêu thương họ bằng trái tim ta, nói với họ, an ủi họ bằng miệng lưỡi ta, và làm việc cho họ, phục vụ họ bằng đôi tay của ta. Ngài chỉ thực hiện được ước muốn đó nếu ta cho phép và hợp tác với Ngài. Vậy bạn có muốn Ngài dùng bạn như một khí cụ để yêu thương của Ngài không?

CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, nhà Cha có rất nhiều chỗ có thể dung nạp được rất nhiều người với rất nhiều khuynh hướng khác biệt. Xin Cha cho tâm hồn con, lòng trí con cũng có nhiều chỗ để có thể dung nạp được tất cả mọi người là anh chị em con, với nhiều khuynh hướng, tính khí, chủ trương khác nhau. Xin cho con biết chấp nhận mọi người như họ đang là, để yêu thương họ bất chấp họ như thế nào. Xin cho con yêu thương họ giống như Cha đã yêu thương họ và đã yêu thương con. Amen.

 

 

 

 

 

46. Suy niệm của Lm. Trần Nguyên

 

Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy.

Nhân đọc chứng từ của cụ Đỗ Duy Huỳnh về những ngày tù gian khổ của cụ và Đức HY. FX. Nguyễn Văn Thuận ở trại giam Vĩnh Quang, tôi thấy càng thêm lòng kính trọng một nhân chứng của niềm hy vọng. Thiết nghĩ đây cũng là lẽ sống và gương sống sáng chói nhất của Đức HY.

Nuôi được niềm hy vọng trong cuộc sống lao tù giữa hoàn cảnh cực kỳ khó khăn. Trở thành nguồn hy vọng và nâng đỡ tinh thần cho người khác trong lúc chính tương lai của mình cũng bị bao phủ bằng một màn đen dầy đặc. Thiết nghĩ nếp sống và những hành động đó xuất phát từ sức mạnh tinh thần của một bậc vĩ nhân.

Gương sáng của chứng nhân niềm hy vọng này giúp tôi hiểu rõ hơn đoạn Tin mừng dành cho Chúa nhật hôm nay. Chúng ta đã mừng đại lễ Phục sinh được 5 tuần, nhưng bài Tin mừng dẫn chúng ta ngược dòng thời gian trở về khung cảnh buổi Tiệc ly để nghe những lời trăng trối của Đức Giêsu:

Đây là một trong những lời trấn an và nâng đỡ tinh thần mạnh mẽ nhất trong toàn bộ Phúc âm. Nhưng chúng ta không khỏi tự hỏi: Nghe những lời này trong hoàn cảnh chúng ta đang sống hiện nay, đó có phải là những lời trấn an quá ư là không thực tế.

Sao Đức Giêsu lại có thể bảo lòng chúng ta đừng xao xuyến:

Trong khi sau biến cố 11.9, nạn khủng bố quốc tế vẫn còn là mối đe dọa có thể dẫn đến tiến trình tiêu diệt cả một nền văn minh toàn cầu.

Trong khi đất nước Việt Nam đang điêu linh, đa số đồng bào đang phải vật lộn với cuộc sống hằng ngày, đang phải chạy ăn từng bữa, các nạn bão lụt tới tấp, các quyền lợi căn bản của con ngườI đang bị chà đạp. Trong cuộc sống cá nhân và gia đình, với bao khó khăn về công ăn việc làm, các vấn đề hôn nhân, giáo dục con cái, khác biệt thế hệ v.v.. và v.v... Nhiều lúc chúng ta không khỏi nghi nan tự hỏi: Không biết Đức Giêsu có hiện diện và đồng hành với chúng ta trong cuộc sống thường nhật không? "Lòng các con đừng xao xuyến". Những lời này đôi khi xem ra có vẽ vô tình và hờ hững trước những gánh nặng đang đè nặng trên đôi vai chúng ta.

Đoạn Tin mừng hôm nay một lần nữa khẳng định với chúng ta là: Đức Giêsu biết và hiểu rất rõ các vấn đề chúng ta đang phải chạm trán, vì khi nói lên những lờI trấn an trên, chính ngài cũng đang kinh nghiệm những vầy vò của nhiều vấn đề của cuộc sống

Nhóm Biệt phái và Luật sĩ đang rình mò tìm cơ hội để thanh toán Ngài. Các môn đệ không hiểu sứ mệnh và các giáo huấn của Ngài. Giuđa đang tìm dịp bán nộp Ngài. Phêrô sẽ chối từ Ngài, và cuộc thương khó đẫm máu sẽ dẫn Ngài đến cái chết đau đớn và ngục ngã trên Thập tự.

Vâng, trong chính bối cảnh tang thương đó, Đức Giêsu đã quên những vấn đế và đau khổ của chính mình để nói lên những lời ủi an các môn đệ. Ngài dư biết là khi Ngài chết đi, họ sẽ có thể rơi xuống vực sâu của tuyệt vọng.

Trong tuần tới, chúng ta hãy lấy đôi phút mỗi ngày để đọc và thấm nhuần những lý do khiến chúng ta có thể vững tâm trong những nổi khó khăn của cuộc sống, vì thật sự:

Đức Giêsu là Đàng, là Sự Thật và là Sự Sống. Ai thấy Thầy là xem thấy Cha.

 

 

 

 

 

47. Về cùng Chúa

 

Chúng ta thường nói:

- Đã là người, thì làm bất cứ việc gì, cũng đều theo đuổi một mục đích nào đó.

Chẳng hạn tôi vất vả trên ruộng đồng là để gia đình có chén cơm manh áo. Tôi cặm cụi lao động trong nhà máy là để kiếm tiền nuôi sống gia đình. Tôi cắp sách tới trường là để trau dồi thêm những kiến thực làm giàu cho cuộc sống.

Thế nhưng, khi hỏi về mục đích của cuộc đời, nhiều người lại phân vân không biết phải trả lời như thế nào. Đúng thế, chúng ta sống trên đời là để làm gì? Câu hỏi này nhiều lúc đã ám ảnh tâm trí, để rồi chúng ta cảm thấy băn khoăn và day dứt:

- Tôi bởi đâu mà tới và rồi tôi sẽ đi về đâu?

Câu hỏi tuy đơn sơ nhưng lại vô cùng quan trọng, vì nó ấn định toàn bộ hướng đi của cuộc đời chúng ta.

Thực vậy, có những kẻ coi tiền bạc, địa vị hay vui thú phần xác là mục đích cuối cùng của cuộc sống, để rồi đầu tư mọi công sức vào đó. Họ sử dụng mọi biện pháp, kể cả những biện phát bất chánh để tìm tiền kiếm bạc, miễn sao nhét đầy túi tham của mình. Còn để leo lên ghế nọ ghế kia trong xã hội, họ không ngần ngại đạp lên người khác mà tiến thân, nhưng rồi khi phải đối đầu với cái chết, họ mới bẽ bàng nhận ra rằng mình đã lầm.

Với chúng ta thì sao? Sách giáo lý đã trả lời:

- Đời sống chính là một cuộc hành hương trở về cùng Chúa trong niềm hạnh phúc vĩnh cửu.

Niềm hạnh phúc vĩnh cửu được ở bên Chúa phải là điểm tới cuối cùng và bắt buộc cho mỗi người chúng ta. Tuy nhiên, muốn được như thế, chúng ta phải sống đạo, phải bước đi trên con đường Chúa đã chỉ dạy, bởi vì đạo là đường. Con đường nào cũng có một hướng đi, con đường nào cũng dẫn tới một bến bờ.

Đạo của chúng ta được gồm tóm trong những điều Chúa truyền dạy, đó là mến Chúa và yêu người. Con đường của chúng ta là chính Chúa và con đường này sẽ dẫn chúng ta đến cuộc sống muôn đời, như lời Ngài đã phán:

- Thầy là đường, là sự thật và là sự sống.

Bởi vậy, ngay từ bây giờ, chúng ta phải lên đường và trở về cùng Chúa, đồng thời mỗi ngày sống phải là một bước chúng ta tiến đến với Chúa, mỗi tháng năm chúng ta phải chất đầy trên đôi tay nhỏ bé những công nghiệp, được kết đọng từ những hành động bác ái yêu thương, nhờ đó chúng ta sẽ được Chúa đón nhận vào quê hương Nước Trời. Chính những hành động bác ái yêu thương này sẽ ấn định số phận đời đời của mỗi người chúng ta. Vì thế, chúng ta có thể nói được rằng:

- Niềm hạnh phúc vĩnhcửu được ở bên Chúa đang nằm trong lòng bàn tay chúng ta, bởi vì tương lai phải được bắt đầu từ hiện tại và ngày mai phải được bắt đầu từ ngày hôm nay.

Có một bà giàu sang mơ thấy mình được đưa vào thiên đàng. Bà ta đi một vòng và nhìn thấy một tòa biệt thự huy hoàng đang được được xây dựng. Bà ta bèn hỏi thiên thần dẫn đường:

- Tòa biệt thự này được xây dựng cho ai thế?

Thiên thần trả lời:

- Cho người làm vườn của bà đó.

Bà ta ngạc nhiên bởi vì ở trần gian, người làm vườn của bà ta chỉ ở trong một túp lều tranh xiêu vẹo, nhỏ bé đến nỗi không có đủ chỗ cho cả gia đình bác ấy nữa. Thấy vậy, thiên thần liền nói:

- Ở trần gian, bác ấy có thể khá hơn, nếu bác ấy đã không quảng đại, đã không bác ái.

Đi được một quãng, nhìn thấy một căn nhà lụp xụp cũng đang được cất lên, bà ta liền hỏi:

- Căn nhà lụp xụp này được cất lên cho ai thế?

Thiên thần trả lời:

- Cho bà đó.

Bà ta bực tức và nói:

- Tôi quen ở nhà cao cửa rộng, làm sao chui rúc được trong một căn nhà tồi tàn như thế này.

Thiên thần đáp:

- Chúng tôi đã làm hết sức mình mà chỉ được có vậy mà thôi, bởi vì vật liệu bà gửi lên quá ít.

Người đàn bà tỉnh giấc, suy nghĩ và đã tìm ra bài học của giấc mơ, đó là hạnh phúc mai sau tùy thuộc vào những hành động bác ái yêu thương mình làm khi còn sống ở trần gian. Vì thế, kể từ ngày ấy, bà ta đã ra sức lập công, tích lũy cho mình một kho tàng thiêng liêng trên trời.

Bởi đó, hãy sống thế nào để trong này sau hết, chúng ta sẽ được Chúa mời gọi:

- Hời nhưng kẻ đã được Cha Ta chúc phúc, hãy đến lãnh nhận phần thưởng nước trời đã được dành sẵn cho các con.

Hãy sống thế nào để ngày sau hết, chúng ta sẽ được nghe lời Chúa phán:

- Thầy ở đâu, các con cũng sẽ được ở đó với Thầy.

 

 

 

 

 

48. Con đường

 

Có một tác giả đã nói lên tính cách bí ẩn của cuộc sống con người bằng một câu chuyện như sau: Tại một vùng quê nọ bên Tây phương, một ông từ coi nhà thờ có thói quen mỗi ngày cứ 15 phút trước giờ ngọ, ông gọi điện thoại đến người phụ trách tổng đài trong vùng và hỏi giờ. Ngạc nhiên về thói quen lạ lùng ấy, người tổng đài đã hỏi lại: “Thưa ông, nếu không có gì làm phiền ông, xin ông cho biết lý do tại sao ông hỏi như thế mỗi ngày?” Ông từ nhà thờ giải thích: “Thưa ông, có gì đâu, tôi là người có trách nhiệm phải kéo chuông mỗi ngày vào đúng giờ ngọ. Tôi cần hỏi giờ chính xác thôi”. Người tổng đài điện thoại mới vỡ lẽ ra, ông nói với ông từ nhà thờ: “Thật là buồn cười, trong khi ông điện thoại đến hỏi giờ nơi tôi, thì chính tôi là người điều chỉnh đồng hồ của tôi theo tiếng chuông của ông”.

Tác giả của câu chuyện trên kết luận: “Cuộc sống quả là bí ẩn mà những người trong cuộc không thể nào tự mình tìm ra được câu trả lời”. Chúng ta cần có một câu giải đáp từ bên ngoài về ý nghĩa và mục đích của cuộc sống, và người ta có thể nói với chúng ta về ý nghĩa và mục đích của cuộc sống chính là Thiên Chúa, chủ tể của sự sống. Kinh Thánh, lời của Ngài, thường ví cuộc sống như một cuộc hành trình. Từ lúc Nô-ê xuống tàu, Abraham cất bước ra đi vào vùng đất xa lạ, đến ngày vội vã ra đi của Đức Maria, và cả cuộc đời không ngừng di động của Chúa Giêsu. Tất cả đều là những hình ảnh diễn tả cuộc hành trình trong đức tin của người Kitô hữu.

Đời người là cuộc hành trình, ra khỏi lòng mẹ là nhập cuộc và ra đi không ngừng: tuổi trẻ và thanh niên được dệt đầy những năng động để không ngừng dự phóng và sáng tác. Tuổi trung niên thành công tràn ngập, nhưng thất bại cũng giăng đầy những lối đi: có những người bạn chợt đến rồi đi, vui tươi hớn hở chớm nở, nhưng thất vọng cũng bao trùm. Rồi tuổi già đến, chúng ta nhận ra rằng: tất cả trên đời này chỉ là tạm bợ.

Đời là một hành trình, Đức Kitô đã trải qua đời trần thế bằng không biết bao nhiêu cuộc hành trình: Sinh ra trong một cuộc hành trình, và mở mắt chào đời để phải vội vã ra đi như một người tị nạn, năm 12 tuổi, lạc mất trong một cuộc hành trình, trong cuộc sống công khai, Ngài không ngừng đi lại khắp nẻo đường Palestine, và cuối cùng Giêrusalem, đồi Canvê là điểm đến của cuộc hành trình. Qua cuộc hành trình không ngừng nghỉ ấy, Đức Kitô đã tuyên bố: “Chính thầy là con đường, là sự thật và là sự sống”, nghĩa là ai tin Ngài và đi theo dấu chân của Ngài mới thực sự tìm được hướng đi cho cuộc hành trình. Ngài là con đường dẫn chúng ta về cõi phúc vinh quang.

Thực vậy, trên thế giới không thiếu những con đường nổi tiếng, nhưng có một con đường thật danh tiếng và luôn luôn nổi tiếng. Con đường ấy mở ra bằng một tình thương và kết thúc bằng một hạnh phúc. Con đường ấy trải dài tin yêu để vươn lên sự sống. Con đường ấy thắp sáng hy vọng để dẫn tới nhà Cha trên trời. Đó là con đường mang tên Giêsu. Đúng vậy, đối với chúng ta, chỉ có một con đường duy nhất để được cứu độ, để đạt tới cuộc sống bất diệt và hạnh phúc vĩnh cửu, tên gọi của con đường ấy là Giêsu.

Đi trên đường Giêsu là đi bằng cả niềm tin gắn bó hiệp thông của những người biết mình có một lý tưởng để theo đuổi, và sẵn sàng hy sinh tất cả để đạt được lý tưởng ấy. Đi trên đường Giêsu cũng là đi bằng niềm hy vọng bền vững. Sống hôm nay là chuẩn bị sống ngày mai, và ngày mai tại nhà Cha đã được định hình ngay từ bây giờ trong bước đường lữ thứ giữa lòng đời. Đi trên đường Giêsu còn là đi bằng cả tình yêu chan hòa phục vụ. Bởi vì con đường của Giêsu chính là con đường của yêu thương và phục vụ. Vì thế, khi chúng ta sống trong yêu thương, sống trong phục vụ là lúc chúng ta đang đi trên con đường của Chúa.

Vì hoàn cảnh, ơn gọi mỗi người thường khác nhau, không phải ai cũng thích hợp với ơn gọi làm linh mục hay tu sĩ. Nhưng một điều chắc chắn mà có lẽ ít khi chúng ta nghĩ tới, đó là tất cả chúng ta đều được Chúa kêu mời nên thánh, sống hạnh phúc trong ơn gọi làm người và làm con cái Chúa. Chúa Giêsu đã sống ơn gọi làm người và làm con Thiên Chúa của Ngài một cách tuyệt đối hoàn hảo và đã trở thành mẫu gương lý tưởng cho chúng ta. Vì thế, Chúa bảo chúng ta hãy đi theo con đường của Ngài trong suốt hành trình của cuộc sống. Với Chúa, chúng ta sẽ không cảm thấy cô đơn. Chúng ta sẽ mệt mỏi, nhưng không kiệt quệ. Chúng ta sẽ khổ đau, nhưng không thất vọng. Chúng ta sẽ chán nản, nhưng không bị bỏ rơi. Chúng ta kiếm tìm hạnh phúc, và chúng ta sẽ đạt được.

Xin Chúa là ánh sáng, là đường đi, là chân lý, hướng dẫn chúng ta lúc nào cũng đi trên con đường của Chúa, để sau cuộc hành trình đời này, chúng ta được về bên Chúa là cùng đích của chúng ta.

 

 

 

 

 

49. Con đường

 

Họa sĩ Broulette đã vẽ một loạt ba bức tranh để diễn tả điều đã nhìn thấy trong đời sống văn minh hiện đại. Bức tranh thứ nhất vẽ một người đàn ông điên loạn đang cố gắng tìm kiếm một miếng giấy quan trọng trong căn phòng bề bộn. Tất cả những ngăn kéo đã mở toang ra, giấy tờ ném bừa bãi khắp nơi, Khăn trải giường rách nát, các bức tranh rơi xuống khỏi vách tường. Một tên quỷ đang đi theo con người điên loạn đó. Tay nó nắm giữ tờ giấy quan trọng ông đang tìm kiếm một cách tuyệt vọng.

Bức tranh này diễn tả con người thời đại đang mải miết kiếm tìm một điều thần diệu mang lại hạnh phúc cho họ trong cuộc đời. Có lẽ tờ giấy đã bị mất sẽ không bao giờ được tìm thấy, nhưng trên con đường tìm kiếm, nhiều người đã thử tìm trong men rượu, sắc dục, cờ bạc… mà chẳng bao giờ thấy hạnh phúc.

Bức tranh thứ hai diễn tả một người đàn ông xanh xao gầy còm hốc hác với một cái xuổng đang nỗ lực đào bới trong cánh đồng bát ngát. Đàng sau lưng, ông để lại vô số những cái lỗ đã tốn công đào bới. Và bên cạnh mỗi cái lỗ là một chiếc hộp mở nắp ra, bên trong hoàn toàn trống rỗng.

Bức tranh này cho thấy một con người đang đi tìm kiếm mục đích của cuộc đời, nhưng chẳng tìm thấy cái nào mang lại hạnh phúc. Con người luôn đi tìm kiếm điều gì lớn lao và tốt đẹp hơn. Tôi phải có cái này, cái kia, thì cuộc đời mới đầy đủ. Cuộc đời luôn thúc đẩy, lôi kéo con người vào một nhu cầu mới, và chẳng bao giờ có được một giây phút để tận hưởng cái mình đang có.

Bức tranh thứ ba vẽ về một người bị bịt miệng và bị trói vào một cái ghế, với đôi con mắt trợn trừng kinh khiếp nhìn đăm đăm vào một tên cướp đang thu dọn tất cả những đồ đạc có giá trị trong căn phòng của mình.

Bức tranh này chứng tỏ những nỗ lực vô ích của một người tìm kiếm hạnh phúc qua của cải vật chất trong cuộc đời. Sau cùng thần chết sẽ cướp đi tất cả mọi sự.

Bài Phúc âm hôm nay, là những lời chỉ đạo cho các tông đồ khi cuộc đời của họ bước vào một giai đoạn mới: cuộc đời sau cái chết của Chúa Giêsu với bối cảnh thù nghịch từ phía xã hội, trong tâm trạng hoang mang lo sợ của họ. Phải làm sao bây giờ? Đâu là ý nghĩa cuộc đời? Chúa Giêsu đã cho họ những hướng dẫn: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống”.

Thầy là đường

“Nếu Tin Mừng là mạc khải sự thật rằng đời sống con người là cuộc lữ hành về nhà Cha, thì Tin Mừng cũng đồng thời là tiếng gọi tới đức tin cho phép ta lên đường như những lữ khách. Tin Mừng đòi ta một niềm tin của kẻ lữ hành”.

Gerhard Frost đã dùng một ví dụ như sau: “Hãy tưởng tượng bạn đi bộ ngang qua nhà hàng xóm. Cả gia đình đang chất hành lý lên xe hơi để đi nghỉ hè. Họ có ba người con đều dưới năm tuổi đang ngồi trong xe mini-van nóng lòng chờ ba má hoàn tất mọi sự để lên đường. Bạn bước tới chiếc xe mini-van, thò đầu vào trong cửa sổ và hỏi: “Các cháu sẽ đi đến đâu?” Chúng chẳng biết gì! “Các cháu sẽ lấy xa lộ nào?” “Tối nay, các cháu sẽ ăn cơm ở đâu?” Chúng cũng chẳng biết! Nhưng nếu bạn hỏi: “Các cháu sẽ đi với ai?” Các bé reo lên: “À, với ba mẹ!”

Các em bé không biết chính xác là đi đâu, không biết cả đường đi, cũng không biết sẽ ăn uống ngủ nghỉ ở đâu, nhưng biết chắc chắn rằng mình sẽ đi với ai. Niềm tin tưởng vào ba má là tất cả vấn đề. Ba má sẽ săn sóc, dẫn đưa các bé đi tới nơi tới chốn bình an.

Thiên Chúa cũng không trả lời tất cả các câu hỏi, các chi tiết hay thắc mắc về điều gì sẽ xảy ra, nhưng Người ban cho chúng ta chính Con Một của Người, Đức Giêsu Kitô, vừa là người hướng dẫn, vừa là con đường cho chúng ta đi. “Chúa Giêsu là con Thiên Chúa và cùng bản thể với Chúa Cha. Là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi ánh sáng, Ngài đã làm người để trở nên con đường dẫn ta về với Cha.

 

 

 

 

 

50. Hãy tìm một chỗ trong trái tim Chúa

 

Bài đọc 1 hôm nay cho chúng ta cơ hội tốt để kiểm tra lại tình hình giáo hội địa phương. Các bài đọc công vụ mùa Phục sinh gây ấn tượng Hội thánh tiên khởi có sự đoàn kết chặt chẽ và vững bền, nhờ đức tin vào Chúa Kitô sống lại. Nhưng thực tế chúng ta không luôn cảm nghiệm như vậy ở các Hội thánh địa phương. Thường xảy ra những tranh cãi lớn nhỏ. Trên bình diện quốc gia và quốc tế cũng vậy, luôn có đe doạ chia rẽ về nhiều vấn đề. Thí dụ, những năm cuối đời của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, tiếng nói đòi ngài từ chức không phải là hiếm, có những lúc tưởng như đổ vỡ. Hiện nay ở giáo phận tôi phục vụ, các trường công giáo đang là một vấn đề. Kẻ đòi đóng cửa vài trường vì không đủ kinh phí, người khác đề nghị đầu tư thêm. Cuộc tranh cãi có lúc bùng nổ lớn, lan đến các phương tiện truyền thông xã hội. Không hiểu tháng 9 tới đây (mùa khai trường) vụ việc sẽ được quyết định ra sao? Hiện thời thì chưa ngã ngũ. Lại còn việc các giáo sỹ gây gương xấu, trách nhiệm của các vị lãnh đạo giáo phận đến đâu Ai buộc phải từ nhiệm, ai không?

Trước sự lớn mạnh và nhiệt thành của giáo đoàn tiên khởi, hình như sách công vụ tông đồ chỉ chú ý ghi lại phần tích cực, bỏ qua những tiêu cực, cho nên chúng ta nghĩ rằng mình kém cỏi hơn các vị tiền bối trong đức tin. So sánh với Hội thánh tiên khởi, các Giáo hội hiện thời luôn phải đối mặt với nhiều sa sút, chia rẽ. Vì vậy, hình như chúng ta không được “chính thống” như các tín hữu đầu tiên. Đó là cảm nghiệm chung mọi người đều thấy được. Tuy nhiên, bài đọc 1 hôm nay không củng cố quan điểm đó, ngược lại nó cho thấy các tín hữu cũng có những “khó khăn” riêng: Số là khi cộng đồng thêm đông, các tín hữu gốc Do Thái nhưng nói tiếng Hy lạp cảm thấy bị thiệt thòi vì các goá phụ của họ không được anh em đồng đạo Do Thái chính gốc đối xử cộng bằng. Sách Công vụ kể: “Thời đó các môn đệ thêm đông, thì các tín hữu Do Thái theo văn hoá Hy lạp kêu trách những tín hữu Do Thái bản xứ, vì trong việc phân phát lương thực hằng ngày, các bà goá trong nhóm họ bị bỏ quên.” Rõ ràng giáo đoàn tín hữu đã gặp sự khác biệt về sắc tộc và bất bình đẳng trong các thành phần cộng đoàn. Dấu chỉ hợp nhất chứng minh Chúa phục sinh đang hiện diện không còn chặt chẽ nữa. Tuy lúc đầu, sách công vụ kể cộng đoàn làm chứng mạnh mẽ Chúa đã phục sinh bằng dấu chỉ họ yêu thương, đoàn kết với nhau khăng khít. Nhưng bây giờ chủ nghĩa thiên tư đã để lộ chân tướng. Họ cố tình bỏ quên những kẻ thấp cổ bé miệng trong cộng đoàn. Đây cũng là thách đố của chúng ta hôm nay. Khi đọc đoạn Kinh Thánh này, chúng ta nên thành thực với ơn Chúa Thánh Thần, loại trừ khỏi tâm hồn thói giả hình giả điệu, dấu diếm những lỗi lầm, làm ra vẻ là môn đệ Chúa, nhưng thực tế lòng đầy gian tham, ghen tỵ và loại trừ lẫn nhau. Hãy noi gương giáo đoàn tiên khởi, giải quyết các khó khăn trong ơn Chúa và sự thật. Duy chỉ sự thật mới giải thoát chúng ta khỏi chia rẽ. Lấp liếm không phải là cách giải quyết tốt. Cứ như tông đồ công vụ thuật lại thì toàn bộ giáo hữu tụ họp, không thấy kể có ai vắng mặt. Họ cùng bàn bạc và nhất trí chọn ra 12 thanh niên Do Thái gốc Hy lạp, đầy Thánh thần. Các tông đồ đặt tay trên họ để thành lập một nhóm riêng, có nhiệm vụ trông coi vật chất cho cộng đoàn. Chẳng bao lâu sau, người ta thấy nhóm này cũng đi rao giảng Lời Chúa như Stêphanô ở Giêrusalem, Philiphê ở Samaria. Tuy nhiên, nhiệm vụ chính yếu của họ là giúp đỡ các tông đồ, phân phát nhu cầu vật chất cho những người thiếu thốn. Hôm nay trước bàn thờ thánh thể, chúng ta cùng cầu xin cho chúng ta ý thức được nhiệm vụ chính yếu của mình là rao giảng Lời Chúa, săn sóc những người thiếu thốn, yếu đau, bệnh tật và đừng tìm kiếm thanh danh, lợi lộc riêng tư.

Bài Phúc âm trích diễn từ cuối cùng của Chúa Giêsu trong bữa tiệc ly. Bối cảnh là sau biến cố rửa chân, Chúa Giêsu loan báo Giuđa phản bội. Các môn đệ nhìn nhau bối rối, rồi chuyển sang hoang mang về tương lai. Chúa Giêsu trấn an các ông: “Anh em đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở, nếu không Thầy đã nói với anh em rồi.” Các tông đồ hoang mang vì khi Chúa ra đi rồi các ông sẽ rơi vào hoàn cảnh như rắn mất đầu, con cái không cha mẹ, đạo binh không tướng lãnh. Họ biết chống đỡ ra sao với các thế lực thù địch, nhất là với quyền bính đền thờ đang tìm cơ hội để tiêu diệt họ? Đúng là họ sẽ gặp nhiều khó khăn nếu vắng bóng Chúa Giêsu giữa họ. Ngày nay cũng vậy, Hội thánh sẽ vô cùng lo sợ nếu Chúa không hiện diện để nâng đờ hằng ngày. Bởi kẻ thù của mình, đứng đầu là Satan, luôn chờ cơ hội để quấy phá và nếu có thể được thì tiêu diệt luôn. Đức Thánh cha, hàng giáo phẩm, những vị có trách nhiệm đều cảm thấy được như vậy. Cho nên, năm 1978, khi vừa đắc cử giáo hoàng, Đức Gioan Phaolô II đã phải tuyên bố ngay trước giáo dân tại quảng trường thánh Phêrô: “Anh chị em đừng sợ!” Một lời bảo đảm vững chắc nhưng bao hàm tình hình quá ư bấp bênh, đầy nguy hiểm. Cho nên chúng ta không lấy làm lạ về thái độ của Chúa Giêsu đối với các môn đệ đang sợ sệt. Ngài nói nhiều về Chúa Cha: “Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở”(c 2). Ngài là đường dẫn đến Chúa Cha (c 4). Xem thấy Thầy là xem thấy Cha (c 7). Những lời ngài giảng dạy, các việc ngài làm là của Chúa Cha (c 10). Tất cả những nội dung đó bảo đảm Ngài luôn ở với các môn đệ và Hội thánh. Ngài không để chúng ta một mình bơi qua biển đời trần gian, chống chọi với phong ba bão táp của hoả ngục. Đến đây, xin liên tưởng tới trường hợp của Phêrô đi trên biển vào ban đêm để đến với Ngài (Mt 15, 22), hay mẻ cá lạ lùng sau một đêm làm vịêc luống công (Ga 21, 3).

Lời tuyên bố của Chúa Giêsu: “Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống” bao hàm nhiều chân lý khác nữa và đối với các môn đệ, chúng hợp thành nền tảng đức tin của họ vào Ngài. Ngài thực sự là con đường để các môn đệ đến với Chúa Cha, thay vì những tục lệ của các lãnh đạo tôn giáo áp đặt trong việc tuân thủ lề luật, thì chỉ cần tin vào Chúa Kitô. Ngài chính là con đường để mọi người được cứu độ. Ngoài Ngài ra không có con đường nào khác nữa. Tin vào Chúa Giêsu, chúng ta được hưởng tràn đầy thánh nhan Thiên Chúa. (Tôi và Cha tôi là một). Ai thấy Chúa Con thì cũng thấy Chúa Cha (Ga 6, 16). Ngoài ra, Ngài là con đường yêu thương đưa đến sự sống. Cho nên, muốn học biết yêu thương thì phải học với Ngài, chứ không bày ra những tưởng tượng rồi gọi đó là yêu thương. Yêu mến Chúa Giêsu là tuân giữ các giới răn của Ngài. Yêu thương nhân loại là làm gương lành gương sáng cho họ, lôi kéo họ về với tình thương của Thiên Chúa. Như vậy, Ngài đích thực là con đường chúng ta tin cậy. Con đường duy nhất mặc khải cho chúng ta biết về bản tính Thiên Chúa. Chúng ta vững lòng tin theo khi Ngài rao giảng về lòng thương xót của Thiên Chúa, về sự tha thứ Người ban cho những linh hồn sám hồn. Nếu ai đó rêu rao về một Thiên Chúa trả thù, oán giận, hằn học, chúng ta có thể bỏ ngoài tai. Chúa Giêsu chính là chân lý về Chúa Cha. Sống theo như Ngài đã sống dẫn đưa nhân loại đến thể hiện hoàn toàn thánh ý Thiên Chúa. Do đó, nếu chúng ta mường tượng ra một lối sống khác, kỳ quặc thì đấy là lối sống của ma quỷ. Tai hại thay, thiên hạ thường cỗ võ lối sống này, rồi hô là văn minh, hợp thời đại, không bị tụt hậu, hay nói nhẹ nhàng hơn “nhân bản”. Tôi nhớ cha Bernard Pro O.P. phát biểu một câu chí lý: “Dieu seul est humain - Chỉ một mình Đức Chúa là nhân bản”, còn loài người dù sống tốt thế nào đi nữa cũng vương mùi tục luỵ. Cho nên, đừng kiêu ngạo, tự hào mình “nhân bản” hơn Thiên Chúa. Con đường của Chúa là nhân bản tối thượng.

Chúng ta không có khả năng tự thân sống theo cuộc sống của Chúa Giêsu, cũng chẳng tự sức lấy Ngài làm gương mẫu. Đúng hơn, Ngài là “sự sống” của mỗi người. Chúng ta hoàn toàn lệ thuộc vào ơn Ngài để có thể sống như Ngài. Đây là chân lý nền tảng của cuộc đời tinh thần. Chúng ta phải ghi nhớ luôn, kẻo sai lầm, sống theo khả năng riêng, xa rời giới răn của Chúa Giêsu. Từ đó, sinh ra tự phụ về đàng thiêng liêng. Chúa Giêsu là nguyên lý của sự sống siêu nhiên, chúng ta hoàn toàn lệ thuộc vào Ngài để có thể sống tốt. Ngoài ơn Ngài ra là sống sai lầm. Sống buông thả theo dục vọng của mình thì thế nào gọi là có ơn Chúa hướng dẫn? Khi Ngài tuyên bố với các môn đệ: “Thầy về cùng Thiên Chúa Cha” tức thời các môn đệ nhớ lại lời hứa của Ngài là Ngài sẽ trở lại mang họ cùng đi với Ngài: “Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở nếu không Thầy đã nói với anh em rồi, Thầy đi dọn chỗ cho anh em và Thầy sẽ trở lại đem anh em về với Thầy.” Trong khi chờ đợi Chúa thực hiện chân lý đó, chúng ta cần cầu xin Thần khí của Ngài gìn giữ mình trung thành với ơn nghĩa Chúa. Lễ Ngũ tuần đã gần kề, nhớ lại biến cố Chúa Thánh Thần ngự xuống chan hoà trên Giáo hội tiên khởi, chúng ta cũng mong ước biến cố này còn tiếp tục xảy ra trong hội thánh ngày nay, để Thần khí Chúa thúc đẩy mỗi tín hữu, ban cho mỗi người khả năng sống thánh thiện theo đời sống Chúa Kitô.

Trong các trường phổ thông cơ sở công giáo, đôi khi người ta tổ chức ngày họp mặt các cựu học sinh. Thường thì vài năm một lần. Đúng là một truyền thống tốt đẹp, đáng ghi nhớ. Mỗi lớp sẽ gửi thiếp mời đến các học sinh cũ của nhà trường, chỉ định ngày giờ. Mọi người hồi hộp đợi ngày trở về tổ ấm (homecoming), gồm cả những nhân vật thành đạt trên trường đời như tổng thống, thương gia, nghĩ sĩ, nghị viện, không loại trừ vô danh tiểu tốt. Trong thánh lễ tạ ơn, người ta chọn đọc bài phúc âm hôm nay. Đó là một chọn lựa khôn ngoan, bởi lẽ Chúa Giêsu tuyên bố Ngài đi là để dọn chỗ cho các môn đệ và Ngài sẽ trở lại mang họ theo. Phải chăng đây không phải là một sự trở về tổ ấm thực sự hay sao? Ý nghĩa thật sâu sắc! Những học sinh đã rời nhà trường tản lạc đi khắp ngả đông tây để kiếm sống, danh vọng, địa vị, tiền tài. Bao nhiêu thời giờ, nghị lực, tham vọng đã bỏ ra cùng muôn nỗi nhớ nhung ngôi trường cũ, bạn bè xưa. Nay được trở về sum hợp, đúng là cơ hội mừng vui. Những mối giàng buộc thân tình ngày xưa lại được làm cho sống lại. Ai nấy đều cảm thấy hạnh phúc, tạm thời gạt bỏ những khó nhọc vì công việc hằng ngày.

Có điều gì đó liên quan đến lời tuyên bố của Chúa Giêsu: “Ta là con đường, là sự thật và là sự sống” cho những cựu sinh viên, và cho toàn thể tín hữu, khi mà việc trở về họp mặt với Chúa Giêsu trong vương quốc ân sủng, trong hạnh phúc tuyệt vời. Bởi Ngài chính là tổ ấm của chúng ta. Những linh hồn đón nhận Ngài đều cảm nhận nơi Ngài có nhiều chỗ ở, không phải đợi tới đời sau mới được, mà ngay từ đời này. Chính cuộc sống của Ngài là địa chỉ họp mặt của tất cả chúng ta. Khi Ngài đồng bàn với các môn đệ không thấy đặt bảng hiệu chỉ rõ chỗ ngồi cho những chức sắc hay vị trí của những kẻ thân cận tri kỷ. Mọi người đều bình đẳng, không phân biệt nghèo khó, sang giàu, người thu thuế hay thợ chài lưới, Phêrô hay Gioan. Ngược lại, Ngài cung cấp chỗ nghỉ ngơi cho những ai gồng gánh nặng nề, ủi an những linh hồn đau khổ, phiền muộn. Tất cả đều được danh dự trước mặt Ngài, tìm thấy sự ấm cúng trong trái tim Ngài và được Cha Ngài yêu thương. Chẳng lạ gì mọi người dù tội lỗi đến đâu cũng được Ngài tiếp đón. Khi rao giảng Ngài luôn ban phát ơn lành cho những linh hồn gặp Ngài. Thí dụ, các phụ nữ nơi công cộng, Ngài chấp nhận họ như những môn đệ của mình, điều mà các thầy thông luật, các biệt phái từ chối. Nếu họ là những tội nhân, những người bị thần ô uế ám hại, các kẻ bị loại trừ vì lý do tôn giáo, các thân phận ngoài lề xã hội, chắc chắn họ tìm thấy nơi nương ẩn nơi lòng thương xót của Ngài, vì Ngài giải thích lề luật theo căn bản của nó, chứ không đặt thêm gánh nặng trên vai người có lỗi bằng các tập tục, các thói lệ của đời xưa, xa lìa ý định Thiên Chúa. Ngài là sự hiện diện của Thiên Chúa trước mặt các tội nhân. Vì vậy, người trộm lành được một nơi cư ngụ tốt đẹp trên thiên đàng. Chị phụ nữ ngoại tình được ơn tha thứ và bình an. Ngài ngỏ lời với tất cả các linh hồn tìm kiếm Thiên Chúa: “Chúc mừng cuộc trở về tổ ấm nhà ta.”

Đúng vậy, Chúa Giêsu cung cấp mái ấm cho những ai lắng nghe và chấp nhận lời Thiên Chúa. Nội dung được gói ghém trong tuyên bố: “Ta là con đường, là sự thật và là sự sống”. Bất cứ những ai chấp nhận Ngài như vậy đều tìm thấy nơi cư ngụ trong trái tim Thiên Chúa, không sợ bị loại bỏ ra ngoài. Hãy để những thứ phù phiếm trôi vào quá khứ. Những tội lỗi, tham vọng, gánh nặng vào hư vô. Bởi chúng ta là con Thiên Chúa, chúng ta có thể cảm nghiệm Ngài như cha mẹ và Ngài ra đi để dọn chỗ cho chúng ta. Đức tin vào Chúa Giêsu như vậy là nơi cư ngụ của nhân loại. Ngài ban khả năng cho chúng ta sống tốt, làm điều thiện hảo. Nhờ đó, những kẻ còn ở xa có thể tìm thấy nơi ở vững bền. Những người yếu kém về kinh tế, xã hội tìm được sự nâng đỡ thăng tiến. Hôm nay, trước bàn thờ Thánh thể, buổi phụng vụ của chúng ta đúng lý phải là nơi cư ngụ quen thuộc cho hết thảy mọi người, thường xuyên dự lễ hay khô khan nguội lạnh. Nhưng thực tế không được như vậy. Có những kẻ còn bị loại trừ như di dân, ly dị, đồng tính luyến ái, con hoang, xì ke, ma tuý, trộm cướp, v. v. Chúng ta cầu xin Chúa cho mọi người tìm thấy chỗ ở trong trái tim Chúa. Xin Ngài củng cố chúng ta trong các hoạt động bác ái ngõ hầu Hội thánh, thế giới này trở thành mái ấm cho mọi linh hồn, không phân biệt già trẻ, trai gái, sắc tộc, trình độ, sang hèn. Chúng ta đợi trông Chúa Thánh Thần đổi mới mọi sự để trái đất này thực sự là mái ấm cho loài người cư ngụ. Bởi vì tự thân chúng ta chẳng thể thực hiện được ước mơ đó. Amen.

 

 

 

 

 

51. Chú giải của Noel Quession

 

Trước khi rời khỏi thế gian này để về cùng Chúa Cha. Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Lòng anh em đừng xao xuyến".

Trong Tin Mừng ngày hôm nay viết về ngày thứ Năm Tuần Thánh vào cuối bữa ăn sau cùng của Đức Giêsu. Quả thật bầu khí của nhóm các môn đệ thật bi thương: Đức Giêsu vừa loan báo sự phải bội của Giuđa và y đã đi ra khỏi căn phòng vào đêm tối bên ngoài (Ga 13,21-30); rồi Đức Giêsu bảo rằng Người sẽ ra đi và nơi Người đi, các bạn hữu Người không thể theo được (Ga 13,31-36). Sau cùng, đầy nỗi lo sợ, Đức Giêsu báo trước cho Phêrô rằng ông sẽ chối Người "ba lần" trong đêm hôm ấy trước khi gà gáy (Ga 13,37-38). Như thế, người ta biết được sự xao xuyến kinh hoàng đang xiết chặt mọi tâm hồn và tư tưởng các môn đệ. Trong đời sống của chúng ta cũng thế có chăng giờ phút sự sợ hãi kinh hoàng ập xuống trên chúng ta. Một tương lai bấp bênh, một thiệt hại không vượt qua được, những suy sụp của tuổi già, một căn bệnh không thể chữa khỏi Và còn có những sợ hãi tập thể: sự thất nghiệp. Bao lực, nạn nhân mãn, nạn đói, sự ô nhiễm môi trường những nguy cơ của nguyên tử. Và trong bối cảnh khủng hoảng ấy, những câu hỏi nghiêm trọng mà mọi tín hữu chân chính phải đặt ra: Những giá trị cao cả của con người chẳng phải đang bị xoá nhòa đó sao? Nhân loại ngày mai sẽ tin vào điều gì? Và một ngọn gió hoảng sợ cũng xâm chiếm những tín hữu mạnh mẽ nhất và người ta lẩm bẩm rằng trong Giáo Hội cũng không có gì là ổn cả.

Chính trong bối cảnh nhân loại như thế mà tính lạc quan không gì thắng nỗi của Đức Giêsu bùng lên như một ngọn lửa nồng nàn, cháy sáng trong đêm tối! Chỉ còn mấy giờ nữa Người phải lên thập giá thế mà Người đã cố sức vực dậy tinh thần của các bạn hữu của Người: "Lòng anh em đừng xao xuyến!” Chúng ta hãy lắng nghe những lý do Người sẽ đưa ra để chúng ta không bao giờ còn sợ nữa về bất cứ điều gì.

"Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy".

Đức Giêsu yêu cầu các bạn hữu đang xao xuyến của Người hướng cái nhìn về một hướng duy nhất: Đức tin thâm sâu của Đức Giêsu, vượt qua mọi nỗi sợ hãi không dựa trên sức người, nhưng dựa trên Thiên Chúa. Tất cả, không chừa môt ai đều có thể suy sụp, chỉ có Đức Giêsu nắm giữ sự trợ giúp siêu nhiên nằm bên ngoài ảnh hưởng của mọi sức mạnh phá hoại. Cái chết cũng không thể phá hủy sự bình an của Người: Sự bình an của Người không do sức con người mà do Thiên Chúa! Vả lại, chúng ta nhận thấy rằng Đức Giêsu đòi hỏi đối với bản thân Người một thái độ đđc tin mâ người ta có thể có đối với Thiên Chúa. Tính duy lý của con người vỡ tung như một nhân nguyên tử, dưới sức ép khó quan niệm nổi của cái vô cùng thánh thiêng: Làm thế nào mà Đức Giêsu vốn là Thiên Chúa lại có thể nói về Thiên Chúa như một Đấng khác mình? Và điều đó mang lại công thức làm ngạc nhiên: “Hãy tin vào THIÊN CHÚA, Hãy tin vào THẦY” Vậy thì Người là ai để nói như thế?

"Trong nhà Cha của Thầy có nhiều chỗ ở, nếu không Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em".

Phải, đó là mầu nhiệm không thể hiểu thấu của Nhập Thể Đức Giêsu với tư cách con người, phân biệt không ngừng với Thiên Chúa! Người nói về Thiên Chúa như thể đó là một Đấng Khác (Tha Thể Tuyệt Đối). Người nói về Chúa Cha. Không bao giờ Đức Giêsu hướng cái nhìn của con người về chính mình. Không bao giờ Đức Giêsu lôi kéo sự tôn kính hay thờ phượng về bản thân Người: Người hoàn toàn hướng về một Đấng Khác; và Người muốn xoay hướng chúng ta về Đấng Khác ấy, Đấng Hoàn Toàn Khác, Đấng mà chưa có ai đã từng trông thấy, tức là Chúa Cha. Như thế, Đức Giêsu đối diện với cái chết của Người, sự ra đi khỏi thế gian này, như một sự trở về nhà mình; Người sẽ tìm lại nơi đó một Đấng mà Người yêu mến và mến yêu Người. Đức Giêsu biết mình được yêu.

Sau những lời làm vỡ tung lý trí, giờ đây là những lời hoàn toàn thân mật, những lời thường nói mỗi ngày: nhà, chỗ ở, dọn chỗ…

Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy”.

Đây là những lời dịu đàng không tả nổi: "Đem về với Thầy, trở lại …” Thiên Chúa tất nhiên là Đấng Hoàn Toàn khác không thể đạt đến được nhưng cũng là Đấng rất thân thiết. Chúng ta không có một Thiên Chúa dửng dưng và lãnh đạm, nhưng là một người Cha đầy tình âu yếm, một người Anh để cho những nỗi lo sợ của chúng ta làm thương tổn và Người nói với chúng ta những lời an ủi và thân ái.

"Để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó".

Chúng ta chớ lướt qua nhanh quá trên những lời xem ra có vẻ đơn giản và thân mật một cách ngây thơ. Có cả một thần học được diễn tả xuyên qua mạc khải ấy. Khi dám nói rằng “Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó". Đức Giêsu mở ra cho nhân loại một viễn cảnh có âm vang vô tận, siêu nhân, siêu nhiên: Chính "đời sống thánh thiêng" được ban cho chúng ta. Mục đích của con người không còn ở trong con người, mà ở trong Thiên Chúa? Nhân loại đi về hướng có Đức Giêsu ở đó. Con người đã được lập trình để trở thành "như Thiên Chúa". Người ta hiểu được lời Người nói: “Lòng anh em đừng xao xuyến!".

“Và Thầy đi đâu thì anh em biết đường rồi". Ông Tôma nói với Đức Giêsu: "Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?”.

Đây là một điệp khúc: "Thầy đi”, “chúng con không biết Thầy đi đâu...". Đó là câu hỏi nền tảng của nhân loại mà Tôma dũng cảm đặt ra nhân danh chúng ta. Chúng ta sẽ đi về đâu? ý nghĩa, mục đích sau cùng của đời sống là gì? Có cái gì sau khi chết?

Đức Giêsu đáp: "Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy”.

Đối với Đức Giêsu, chân trời không bao giờ bị ngăn chặn, gây ra sự tuyệt vọng.

Đối với người tin, ai chấp nhận lời Đức Giêsu, lịch sử sẽ có một ý nghĩa, đời sống sẽ không còn phi lý nữa. Đức Giêsu là "người mở đường", Người đã mở ra một lối thoát cho các hữu hạn và cho đăc tính phải chết của con người. Không có Đức Kitô con người bị giam hãm trong những giới hạn của mình. Với Người, và chỉ với Người, như Người khẳng định có một con đường không dẫn tới cái hố đen của nấm mộ, nhưng về "nhà của Chúa Cha".

“Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng sẽ biết Cha của Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người”.

Câu này của Thánh Gioan là một câu làm hiện ra tính không thể diễn tả của Thiên Chúa, sự "mạc khải” này vẫn còn một phần "không thể quan niệm được": ánh sáng... nhưng vẫn còn một thứ ánh sáng của đêm tối... ánh sáng của đức tin.

Thật vậy, câu này gồm hai khẳng định bề ngoài trái ngược nhau: Anh em cũng (sẽ) biết Cha của Thầy (ở thì tương lai)... bây giờ, anh em biết Người (thì hiện tại).

Rõ ràng là Thiên Chúa không hiển nhiên và thật ra, chúng ta không biết Người. Người ta cũng có thể nói rằng chúng ta hiểu được Người! rõ ràng có một thứ hồ nghi. Không chắc chắn đã xuất hiện trong câu hỏi của Tôma: “chúng con không biết...". Tình cảnh của chúng ta hiện nay đúng là như thế. Có thể một ngày nào dó, chúng ta sẽ biết Thiên Chúa. Sự vô tri về Thiên Chúa hôm nay, sẽ biến đổi thành tri thức, như lời Đức Giêsu nói: Anh em sẽ biết Người! Vả lại trong Đức Giêsu, sự hiện diện vô tri của Thiên Chúa chịu một "cú sốc của tương lai" đến độ những thực tại phải đến đã trở thành hiện tại: "Ngay từ bây giờ, anh em biết Thiên Chúa và đã thấy Người?". Có thể nói rằng, bằng một cảm thức siêu nhiên, tương lai được tiên cảm trong hiện tại đối với những người tin Đức Giêsu: thời sau hết đã ở đó, mặc dù chưa hoàn tất. Giáo Hội, nơi cư ngụ của các tín hữu đã trở thành nơi cư ngụ của Thiên Chúa ở giữa con người" (Kh 21,3). Một ngày nào đó, chúng ta sẽ có một sự hiểu biết nào đó về Chúa Cha, còn bây giờ chúng ta đã hiểu biết Chúa Cha qua bức màn của đức tin. Đó là điều mà các nhà thần học gọi là cánh chung? Tương lai được cảm nghiệm trước trong lòng của các tín hữu, trong Đức Giêsu Kitô.

Ông Philípphê nói: ' Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện". Đức Giêsu trả lời: "Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Philípphê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha? Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao?”.

Mới rồi, chúng ta vừa nghe Đức Giêsu phân biệt Người với Chúa Cha. Giờ đây dường như Người đồng hóa với Chúa Cha. Đức Giêsu đi về với Chúa Cha, Người là con đường dẫn đến Chúa Cha và đồng thời, Người ở trong Chúa Cha và ai thấy Đức Giêsu là thấy Chúa Cha Đức Giêsu là một con người, nhưng một con người "chứa đầy Thiên Chúa" một con người Thiên Chúa! Chúng ta phải để những từ có vẻ đơn giản ấy thấm nhuần chúng ta: "Thầy ở trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở trong Thầy... Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy...".

Phải, đâu có một con người là Giêsu Na-da-rét, sống cách nay hai ngàn năm trong một tổng nhỏ ít người biết đến của Đế quốc La Mã, một con người bằng xương bằng thịt đã đứng trên đôi chân của mình và trên một miền đất xác định, đất Israel, một con người có những bạn hữu, một con người ăn uống như mọi người; một người sắp chết như mọi người; và con người này lúc này đây hiệp thông với Thiên Chúa và đồng nhất với Thiên Chúa và hoàn toàn không là một kẻ điên. Một con người quân bình tột bậc, khiêm tốn, không tham vọng và kiêu ngạo: một con người vừa mới quỳ gối trước các bạn hữu để rửa chân cho họ như một tôi tớ bình thường vào thời đó... đồng thời giao nộp thân thể tan nát, và đã đổ máu ra vì họ.

Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình. Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không thì hãy tin vì công việc Thầy làm. Thật, Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha.

Thiên đàng không phải là môt sự chạy trốn vào một giấc mơ của tương lai hoang tưởng. Thiên đàng không phải một miếng đường được hứa ban cho sau này để bỏ qua chua cay hiện tại. Thiên Chúa không phải là một thứ thuốc phiện dùng để ru ngủ những đau khổ cho một cuộc đời.

Một thiên đàng đã bắt đầu và được cảm nghiệm bởi những người "làm những việc Đức Giêsu làm": Có một cách nào đó để suy nghĩ, để chọn lựa, để gặp gỡ Thiên Chúa và con người, một cách sống nào đó công chính là cách sống của Đức Giêsu.

 

 

 

 

 

52. Con đường Giêsu

(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng)

 

Có một tác giả đã nói lên tính cách bí ẩn của cuộc sống con người bằng một câu chuyện như sau: Tại một vùng quê nọ bên Tây Phương, một ông từ coi nhà thờ có thói quen mỗi ngày cứ 15 phút trước giờ ngọ, ông gọi điện thoại đến người phụ trách tổng đài trong vùng và hỏi giờ. Ngạc nhiên về thói quen lạ lùng ấy, người tổng đài đã hỏi lại: "Thưa ông, nếu không có gì làm phiền ông, xin ông cho biết lý do tại sao ông hỏi như thế mỗi ngày?". Ông từ nhà thờ giải thích: "Thưa ông, có gì đâu, tôi là người có trách nhiệm phải kéo chuông mỗi ngày vào đúng giờ ngọ. Tôi cần hỏi giờ chính xác thôi". Người tổng đài điện thoại mới vỡ lẽ ra, ông nói với ông từ nhà thờ: "Thật là buồn cười, trong khi ông điện thoại đến hỏi giờ nơi tôi, thì chính tôi là người điều chỉnh đồng hồ của tôi theo tiếng chuông của ông".

Tác giả của câu chuyện trên kết luận: "Cuộc sống quả là bí ẩn mà những người trong cuộc không thể nào tự mình tìm ra được câu trả lời". Chúng ta cần có một câu giải đáp từ bên ngoài về ý nghĩa và mục đích của cuộc sống, và người có thể nói với chúng ta về ý nghĩa và mục đích của cuộc sống chính là Thiên Chúa, chủ tể của sự sống. Kinh Thánh, lời của Ngài, thường ví cuộc sống như một cuộc hành trình. Từ lúc Nô-ê xuống tàu, Ap-ra-ham cất bước ra đi vào vùng đất xa lạ, đến ngày vội vã ra đi của Đức Maria, và cả cuộc đời không ngừng di động của Chúa Giêsu. Tất cả đều là những hình ảnh diễn tả cuộc hành trình trong đức tin của người Kitô hữu.

Đời người là cuộc hành trình, ra khỏi lòng mẹ là nhập cuộc và ra đi không ngừng: tuổi trẻ và thanh niên được dệt đầy những năng động để không ngừng dự phóng và sáng tác. Tuổi trung niên thành công tràn ngập, nhưng thất bại cũng giăng đầy những lối đi: có những người bạn chợt đến rồi đi, vui tươi hớn hở chớm nở, nhưng thất vọng cũng bao trùm. Rồi tuổi già đến, chúng ta nhận ra rằng: tất cả trên đời này chỉ là tạm bợ.

Đời là một hành trình, Đức Kitô đã trải qua đời trần thế bằng không biết bao nhiêu cuộc hành trình: Sinh ra trong một cuộc hành trình, và mở mắt chào đời để phải vội vã ra đi như một người tị nạn, năm 12 tuổi, lạc mất trong một cuộc hành trình, trong cuộc sống công khai, Ngài không ngừng đi lại khắp nẻo đường Pa-lét-tin, và cuối cùng Giêrusalem, đồi Can-vê là điểm đến của cuộc hành trình. Qua cuộc hành trình không ngừng nghỉ ấy, Đức Kitô đã tuyên bố: "Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống", nghĩa là ai tin Ngài và đi theo dấu chân của Ngài mới thực sự tìm được hướng đi cho cuộc hành trình. Ngài là con đường dẫn chúng ta về cõi phúc vinh quang.

Thực vậy, trên thế giới không thiếu những con đường nổi tiếng, nhưng có một con đường thật danh tiếng và luôn luôn nổi tiếng. Con đường ấy mở ra bằng một tình thương và kết thúc bằng một hạnh phúc. Con đường ấy thắp sáng hy vọng để dẫn tới nhà Cha trên trời. Đó là con đường mang tên Giêsu. Đúng vậy, đối với chúng ta, chỉ có một con đường duy nhất để được cứu độ, để đạt tới cuộc sống bất diệt và hạnh phúc vĩnh cửu, tên gọi của con đường ấy là Giêsu.

Đi trên đường Giêsu là đi bằng cả niềm tin gắn bó hiệp thông của những người biết mình có một lý tưởng để theo đuổi, và sẵn sàng hy sinh tất cả để đạt được lý tưởng ấy. Đi trên đường Giêsu cũng là đi bằng niềm hy vọng bền vững. Sống hôm nay là chuẩn bị sống ngày mai, và ngày mai tại nhà Cha đã được định hình ngay từ bây giờ trong bước đường lữ thứ giữa lòng đời. Đi trên đường Giêsu còn là đi bằng cả tình yêu chan hòa phục vụ. Bởi vì con đường của Giêsu chính là con đường của yêu thương, sống trong phục vụ là lúc chúng ta đang đi trên con đường của Chúa.

Vì hoàn cảnh, ơn gọi mỗi người thường khác nhau, không phải ai cũng thích hợp với ơn gọi làm linh mục hay tu sĩ. Nhưng một điều chắc chắn mà có lẽ ít khi chúng ta nghĩ tới, đó là tất cả chúng ta đều được Chúa kêu mời nên thánh, sống hạnh phúc trong ơn gọi làm người và làm con cái Chúa. Chúa Giêsu đã sống ơn gọi làm người và làm con Thiên Chúa của Ngài một cách tuyệt đối hoàn hảo và đã trở thành mẫu gương lý tưởng cho chúng ta. Vì thế, Chúa bảo chúng ta hãy đi theo con đường của Ngài trong suốt hành trình của cuộc sống. Với Chúa, chúng ta sẽ không cảm thấy cô đơn. Chúng ta sẽ mệt mỏi, nhưng không kiệt quệ. Chúng ta sẽ khổ đau, nhưng không thất vọng. Chúng ta sẽ chán nản, nhưng không bị bỏ rơi. Chúng ta kiếm tìm hạnh phúc, và chúng ta sẽ đạt được.

Xin Chúa là ánh sáng, là đường đi, là chân lý, hướng dẫn chúng ta lúc nào cũng đi trên con đường của Chúa, để sau cuộc hành trình đời này, chúng ta được về bên Chúa là cùng đích của chúng ta.