CHÚA NHẬT III MÙA CHAY – NĂM A
Xh 17,3-17; Rm 5,1-2.5.8; Ga 4,5-42
NƯỚC HẰNG SỐNG
Cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và một phụ nữ Samaria
I. Bối cảnh
Sau khi được thánh Gioan Tẩy Giả giới thiệu cho dân chúng tại Đông ngạn sông Giođan, Đức Giêsu chiêu mộ một số môn đệ, làm phép lạ tại Cana miền Galilê, thanh tẩy đền thờ, tiếp đón ông Nicôđêmô, rồi đi Giuđê (Ga 3,22) và băng qua miền Samaria mà về Galilê. Tại Samaria xảy ra cuộc đàm thoại giữa Chúa Giêsu và một phụ nữ miền này. Khi mở đầu câu chuyện với người phụ nữ Samaria, Chúa Giêsu đã bắc những nhịp cầu nối liền dòng sông ngăn cách. Thái độ gần gũi của Người nói lên lòng thương xót của Thiên Chúa vượt ra khỏi giới hạn về quốc gia, văn hóa, sắc tộc và phái tính. Sự cứu rỗi được ban cho tất cả nhân loại, đó là tâm điểm của cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và người đàn bà Samaria. Lời của Người chính là nhịp cầu dẫn vào đời sống thần linh như được trình bày dưới đây.
II. Cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ Samaria
Trong bài Tin Mừng hôm nay, ta để ý đến cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ Samaria về đề tài nước. Đây là đề tài quan trọng trong Thánh Kinh. Vì nước là một yếu tố cần thiết cho cuộc sống, nhất là trong một xứ gần hoang địa như It-ra-en.
Trong Cựu Ước, nước tượng trưng cho Thiên Chúa (Gr 2,13; 17,1 3); cho Đức khôn ngoan, cho thần khí. Còn trong Tân Ước, nước tượng trưng cho đạo lý khôn ngoan, một yếu tố cần thiết giúp loài người thông hiểu ý Chúa để đạt tới sự sống vĩnh cửu (Ga 41,25); nước còn tượng trưng cho Thánh Thần, Đấng ban sự sống vĩnh cửu (Ga 7,38-39).
Tác giả Tin Mừng tường thuật Đức Giêsu gặp người phụ nữ bên bờ giếng Giacóp. Cuộc gặp gỡ bắt đầu bằng một lời xin của Đức Giêsu: “Chị cho tôi xin chút nước uống”, khi nói lời xin một chút nước uống tức là Đức Giêsu muốn nối kết người với người, vượt lên trên những rào cản về văn hóa tôn giáo hay chính trị khác biệt. Sự liên đới được biểu hiện bằng việc sẵn sàng chia sẻ những nhu cầu thiết yếu và căn bản nhất, vì cùng là con người với nhau.
Thế nhưng, “Người phụ nữ Samaria liền nói: ông là người Do Thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samaria cho ông nước uống sao? Quả thế, người Do Thái không được giao thiệp với người Samaria” (c.9), câu hỏi của người phụ nữ phản ánh sự ngạc nhiên của chị. Chị không hiểu được tại sao một người đàn ông Do Thái lại xin một phụ nữ Samaria cho uống nước. Tác giả Tin Mừng cung cấp cho chúng ta một chi tiết lịch sử để hiểu lý do của sự ngạc nhiên đó.
Theo Thánh Kinh, sau khi thất thủ năm 721, Samaria bị năm dân ngoại, cùng các vị thần của họ đến ở (x. 2V 17,24tt). Họ ở đất của Đức Chúa, nhưng lại thờ thần của họ. Hơn nữa, sau lưu đầy, những người Do Thái hồi hương đã cải cách tôn giáo một cách quá khắt khe và không cho người Samaria đóng góp vào việc tái thiết đền thờ. Do đó phát sinh ly giáo gọi là “Ly giáo Samaria”. Nhóm Do Thái và nhóm Samaria thù nghịch nhau. Chúng ta còn thấy đó đây trong Cựu Ước cũng như trong Tân Ước: người Do Thái đạo đức thì không được qua lại với người Samaria (x. Hc 50,25-26; Ga 8,48).
Về phần mình, Đức Giêsu đã muốn phá bỏ hàng rào ngăn cách giữa người Do Thái và người Samaria. Khi mở lời xin nước với một người phụ nữ Samaria, như thế là Người muốn bãi bỏ sự tự coi mình là cao trọng hơn của những người Do Thái trong tương quan với dân Samaria. Người muốn hiện diện đơn giản của một con người với những nhu cầu thiết yếu như mọi con người. Nhưng câu trả lời của người phụ nữ Samaria khiến cho cuộc đối thoại dường như bị rơi vào ngưng trệ.
Thế nhưng Đức Giêsu trả lời: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị “cho tôi chút nước uống”, thi hẳn chị đã xin, và người ấy đã ban cho chị nước hằng sống” (c. 10).
Đức Giêsu không trả lời trực tiếp cho câu hỏi của chị phụ nữ, Người nói với chị về một ân huệ của Thiên Chúa, về một loại nước hằng sống mà Người sẵn sàng ban cho con người. Đức Giêsu đã ngỏ lời xin chị một ân huệ, nhưng một trật, Người cũng sẵn sàng ban cho chị một ân huệ cao trọng hơn bội phần.
Ân huệ của Thiên Chúa là chính Đức Giêsu, Con Một của Ngài, Đấng đem ơn cứu độ cho tất cả mọi người, không phân biệt giữa những người này với những người khác, bởi vì tình yêu của Thiên Chúa là thực tại dành cho toàn thể nhân loại: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Như thế, Đức Giêsu chính là nguồn mạch sự sống hằng tuôn chảy. Người sẵn sàng ban cho người phụ nữ Samaria chính sự sống thần linh đó.
Chị ấy nói: “Thưa ông, ông không có gàu, mà giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống” (c.11). Người phụ nữ Samaria chưa biết đến bất cứ thứ nước nào khác, ngoài nước giếng Giacóp, và chị thấy rằng Đức Giêsu không có những phương tiện cần thiết để có thể múc nước ấy. Chị chưa biết đến, cũng không hình dung được và không quen nghĩ về tính cách nhưng không của ân huệ Thiên Chúa ban.
Thế nên, chị phụ nữ Samaria nói tiếp: “Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ chúng tôi là Giacóp, người đã cho chúng tôi giếng này?” (c.12)
Ở đây, người phụ nữ Samaria biết ơn ân huệ của ông Giacóp, như chị nói: người đã cho chúng tôi giếng này, nhưng không biết ơn huệ của Thiên Chúa. Vì thế đối với chị thật là khó hiểu và khó chấp nhận việc Đức Giêsu đề nghị một thứ nước sự sống khác, như Đức Giêsu nói: “Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên đem lại sự sống đời đời” (cc 13-14)
Lúc ấy, người phụ nữ vội nói với Đức Giêsu: “Thưa ông xin cho tôi thứ nước ấy để tôi hết khát, và khỏi đến đây lấy nước”.
Nói tóm lại lúc đầu khi nghe nói đến nước, người phụ nữ Samaria nghĩ đến thứ nước trong giếng Giacóp. Nhưng rồi từ thứ nước bên ngoài ấy, chị được Đức Giêsu dẫn đi tìm thứ nước nằm trong lòng con người. Thứ nước đem lại sự sống đời đời. Nước ấy sẽ do chính Đức Giêsu ban tặng, đó là Thánh Thần của Người.
Cuối cùng thì phụ nữ đã nhận ra Đức Giêsu là một ngôn sứ (4,19), là Đấng ban nước hằng sống. Và chị trình bày thắc mắc với Đức Giêsu: “Người Do Thái dạy thờ Thiên Chúa tại Giêrusalem mới đúng, còn cha ông chúng tôi dạy thờ phượng trên núi này. Đây là một sự tranh cãi, mỗi bên đều có lập trường vững chắc, luật dạy “phải thờ phượng Thiên Chúa ở một nơi mà thôi” (Đnl 12,1-14), nhưng nơi nào không nói rõ. Núi Garizim, nơi Abraham đã hiến tế Isaac, người Samaria cho đó là nơi thờ phượng mới đúng. Chúa Giêsu dạy: “Đã đến giờ, chính là lúc này, những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật”, đó là những người tôn thờ mà Chúa Cha muốn. Thiên Chúa là tinh thần và những người tôn thờ Người phải tôn thờ trong tinh thần và chân lý. Vậy thờ phượng Chúa Cha đích thực phải do Chúa Thánh Thần hướng dẫn và phải thực hiện trong Chúa Kitô, Đấng thi hành thánh ý Chúa Cha hoàn toàn.
Cuộc đối thoại bị ngưng vì các môn đệ trở lại, và người đàn bà đã để chiếc vò múc nước ở giếng trở về làng. Bà trở về làng mà không mang vò nước theo chứng tỏ rằng bà rất vội vã muốn chia sẻ Tin Mừng gặp gỡ Đấng Cứu Thế cho những người Samaria khác ở trong thành. Còn những người Samaria, sau khi gặp và xin Chúa ở lại với họ, đã hân hoan tuyên xưng rằng: “Không còn phải vì lời chị kể lại mà chúng tôi tin. Chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Ngài thật là Đấng cứu độ của trần gian”. (Ga 4,42)
III. Tin vào Đức Kitô, đường về nguồn mạch sự sống.
Theo thánh Phaolô: “Vì chúng ta tin nên Đức Giêsu đã mở lối cho chúng ta vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa” (bài đọc 2). Thánh Gioan thì dạy: “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi ban Con Một Người cho chúng ta, để ai tin vào Ngài thì không phải hư mất nhưng được sống đời đời” (Ga 3,16). Do đó, tin vào Đức Kitô là nẻo đường tìm về nguồn mạch sự sống. Tuy nhiên người Kitô hữu thừa biết mối quan hệ của họ đối với Chúa không phải lúc nào cũng dễ dàng. Nói được rằng có cả một hệ thống rào cản, ngăn lối người Kitô hữu tìm đến cuộc sống dồi dào, đến đời sống tâm linh vốn là khát vọng sâu xa của con người. Đó có thể là “gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ” (Rm 8,35), cũng có thể là thất vọng, chán nản hay “lề thói, tập tục” của xã hội loài người. Nhưng trong mọi hoàn cảnh cũng như trong mọi cử hành, người Kitô hữu phải gặp được Chúa và ở lại với Ngài là nguồn mạch sự sống. Từ đó, cuộc sống của những Kitô hữu đã khám phá và gặp gỡ Đức Giêsu luôn là cuộc sống chứng tá, giới thiệu Đức Giêsu là Đấng thông ban cho con người sự sống phong phú dồi dào. Vì thế, sống trong cuộc đời, người Kitô hữu chia sẻ nỗi khát khao của mọi người: khát nước, khát công bằng, khát tự do và nhân phẩm... đồng thời người Kitô hữu cũng chia sẻ với anh em mình nỗi khát khao sâu lắng nhất là khao khát Thiên Chúa, và giới thiệu Đức Giêsu cho mọi người vì chỉ nơi Ngài, mọi nỗi khát khao mới được đong đầy và cũng chỉ nơi Ngài, sự sống phong phú dồi dào mới được tặng ban.
Trong Mùa Chay, Giáo Hội muốn chúng ta ý thức về nỗi khao khát sâu xa nhất, nỗi khát khao mà tác giả Thánh Vịnh 42 đã viết lên: “Linh hồn con khao khát Chúa Trời hằng sống”. Đó cũng là nỗi khao khát thầm kín trong cõi lòng của người phụ nữ Samaria. Và qua câu chuyện người phụ nữ với vò nước để lại ấy, Thánh Gioan muốn nói với chúng ta rằng Chúa Giêsu chính là mạch nước diệu kỳ thoả mãn tất cả những nỗi khát vọng của chúng ta.
Vì một thế giới công bằng và tự do, yêu thương và hạnh phúc, vì Thiên Chúa và con người, vì Nước Trời, Đức Giêsu đã vượt qua khổ nạn và cái chết để dẫn đầu đoàn người vượt qua đi vào sự sống vĩnh cửu. Hội Thánh, nhờ bàn tiệc Lời Chúa và Mình Máu Chúa nâng đỡ, không ngừng vượt qua với Đức Kitô. Vượt trên mọi thử thách, Hội Thánh luôn gắn bó với Đức Giêsu và cộng tác với Ngài trong công cuộc xây dựng “trời mới, đất mới”, đem lại sự sống vĩnh cửu cho con người. Amen.
Lm Giuse Phạm Thanh Minh
Gp. Mỹ Tho