27/05/2016
1238
Lòng Thương Xót của Chúa Kitô nơi Bí tích Truyền Chức Thánh































“Hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy” (Lc 22,19).

Khi thiết lập Bí tích Bàn Thờ, Chúa chúng ta cũng đã thiết lập Bí tích Truyền Chức Thánh. Bí tích Bàn Thờ chỉ có thể được thực hiện, và được duy trì, nhờ hy tế, và hy tế này chỉ có thể được dâng bởi một linh mục. Do đó, không thể thiếu việc thiết lập chức linh mục là những người vĩnh viễn có khả năng thánh hiến Bí tích Bàn Thờ và duy trì nó. Vì lý do này, Chúa chúng ta, ngay sau khi Ngài thiết lập Bí tích Thánh Thể, đã làm cho các Tông Đồ trở thành những linh mục của Tân Ước, bằng những lời: “Hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy” (Lc 22,19). Tuy nhiên, Bí tích này là một hành động khác của Lòng Chúa Thương Xót, vừa dành cho các Tông Đồ và vừa cho các Giám mục và linh mục là những người sẽ kế vị các ngài, và cũng dành cho các tín hữu.

I. Trong mọi quyền năng và tước vị mà Chúa chúng ta trao ban cho các Tông đồ, quyền năng và tước vị của chức linh mục là cao nhất và vinh quang nhất; làm họ nổi trội, nâng họ lên trên mọi người khác. Bởi vì con người bày tỏ sự ngưỡng mộ và tôn trọng đối với các linh mục, vì các ngài là những người nhận Mầu nhiệm Thiên Chúa, người quản lý các Bí tích, và là máng chuyển thông lời cầu nguyện và ân sủng. Có bốn hoạt động chính của chức linh mục, qua đó mà Lòng Chúa Thương Xót được tuôn đổ trên nhân loại: dâng hy tế không đổ máu, cử hành các Bí tích, cầu nguyện cho mọi người, và hướng dẫn các tín hữu trong chân lý tôn giáo và luật luân lý.

Nói một cách chính xác, chính Chúa Kitô dâng Hy tế không đổ máu – nói cách khác, là người dâng mỗi Thánh Lễ, nhưng người linh mục là khí cụ, thừa tác viên và người đại diện hữu hình của Ngài, và thật sự Ngài thực hiện hành động hy tế Thánh Lễ. Và Hy tế không đổ máu này chính là linh hồn và chóp đỉnh của mọi sự thờ phượng, là hành động chính yếu của tôn giáo, diễn tả sự tối cao của Chúa và sự phụ thuộc của con người. Nó có thể được so sánh với mặt trời, vốn mặt trời cách xa trái đất, và tuy nhiên, nhờ các tia sáng nó lại quá gần, ban sự sống cho mọi loài, sưởi ấm và tô điểm, vẽ nên bất kỳ thứ gì mà mặt trời chạm tới với màu sắc tinh tế. Cũng vì thế, trong cách nào đó, những hiệu quả của Thánh Lễ có thể được phân chia thành những màu sắc khác biệt – hy tế ngợi khen, tạ ơn, đền tội và cầu xin.

Hoạt động thứ hai của chức linh mục nằm trong việc cử hành các Bí tích, để tiếp tục – và sẽ còn tiếp tục cho đến ngày tận thế – để tiếp tục công trình cao cả nhất của Lòng Chúa Thương Xót - là công trình cứu độ nhân loại, và sự công chính hóa từng cá nhân. Đấng Cứu Thế ban cho các linh mục danh dự cao trọng biết bao – Ngài nâng họ lên những đỉnh cao vời vợi – theo cách này cho phép họ cộng tác trong công trình thật sự thuộc về Chúa – sự cứu rỗi các linh hồn, và hoàn tất sự cứu độ thế giới. Ở đây, chúng ta thấy sự tốt lành của Thiên Chúa ở mức độ cao nhất, bởi vì Ngài trao phó cho những con người tội lỗi các hành động mà thậm chí không thể được thực hiện bởi các thiên thần cao trọng nhất, như các Seraphim và Cherubim.

Hoạt động thứ ba của linh mục là cầu nguyện cho mọi người mà hằng ngày họ dâng lên Thiên Chúa cho cả nhân loại, bằng việc đọc kinh Thần Vụ được chọn lọc một cách chính xác. Tại đây người linh mục nói như là người phát ngôn viên của Giáo Hội Chiến Đấu, mà qua các ngài, cất tiếng cầu nguyện liên lỉ, thanh khiết và đầy hiệu lực. Đúng như đại sứ của một đất nước đại diện những mối bận tâm của chính phủ và công dân của nó tại tòa án của người cai trị nước ngoài, cũng thế các linh mục đại diện cho nhân loại tại tòa Vua Thiên Đàng, và cho toàn thể nhân loại, dâng lên Ngài vinh dự và tôn thờ, tạ ơn, đền tội và cầu xin.

Và sau cùng, các linh mục được dành riêng cho việc giảng dạy các chân lý mạc khải nhân danh Chúa chúng ta và Hiền thê của Người. Chúa Thánh Thần phán qua miệng các ngài – Chúa Thánh Thần là Đấng đã phán qua các Tiên Tri trong Cựu Ước, và các Tông Đồ trong Tân Ước. Thiên Chúa tỏ bày cho chính các linh mục thấy được Lòng Thương Xót cao cả biết bao, những người được Ngài tuyển chọn trong số các tín hữu, không phải do công trạng của riêng của các ngài, nhưng chỉ do Lòng Thương Xót: “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại, hầu tất cả những gì anh em xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy, thì Người ban cho anh em” (Ga 15,16). Những lời này được áp dụng cho tất cả các linh mục, mà Ngài đã hứa ban cho họ không chỉ các ân sủng trong đời vĩnh cửu mà còn gìn giữ họ ở đời hiện tại.

II. Chức linh mục sở hữu có một bản tính xã hội đặc thù, bởi vì nó được thiết lập, không vì lợi ích cho chính linh mục, nhưng vì lợi ích cho các tín hữu. Những lời của Chúa Kitô đã làm rõ điều này: “Để anh em hãy đi và mang lại nhiều hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại”. Cuối cùng thánh Phaolô tông đồ đã trình bày suy nghĩ này: “thượng tế nào cũng là người được chọn trong số người phàm, và được đặt lên làm đại diện cho loài người, trong các mối tương quan với Thiên Chúa, để dâng lễ phẩm cũng như tế vật để đền tội. Vị ấy có khả năng cảm thông với những kẻ ngu muội và những kẻ lầm lạc” (Dt 5,1-2). Đây là cách đầu tiên mà các Kitô hữu quan niệm về chức linh mục, là những người hiểu rõ Tin Mừng nhất. Và khoảng 25 năm sau Bữa Tiệc Ly, đây là cách thánh Phaolô đã trình bày trước chúng ta Bí tích Thánh Thể được cử hành bởi linh mục cho các tín hữu, là những người thật sự không chỉ tham dự vào hy tế không đổ máu, nhưng mà còn ăn Mình và uống Máu Chúa chúng ta: “Điều tôi lãnh nhận nơi Chúa, tôi xin truyền lại cho anh em: trong đêm bị nộp, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra và nói: “Đây là Mình Thầy hiến dâng vì anh em; anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy”. Cũng thế, sau bữa ăn, Người cầm lấy chén rượu và nói: “Chén này là Giao Ước Mới, lập bằng Máu Thầy; mỗi khi uống, anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ Thầy”. Thật vậy, cho tới ngày Chúa đến, mỗi lần ăn Bánh và uống chén này, là anh em đã loan truyền Chúa đã chịu chết” (1 Cr 11,23-26).

Qua chức linh mục, Chúa chúng ta vẫn hiện diện về mặt thể lý giữa chúng ta, và tuôn đổ Lòng Thương Xót của Ngài trên chúng ta, như những ngày Ngài sống trên trần gian. Nếu ngày nay không còn thân phận nô lệ nữa, nếu sự tàn bạo đã tan biến; nếu phụ nữ không còn là những người nô lệ và chỉ là công cụ của sự dâm dục nữa; nếu lề luật và trật tự dần dần tăng lên giữa con người; chúng ta mắc nợ Chúa Kitô, khi Ngài hoạt động qua các linh mục của Ngài, và qua họ ban ánh sáng đức tin xuống trên lý trí, và ân sủng đầy thương xót cho ý chí. Thậm chí chính những ngành học nào đó, những phát minh nào đó, cũng như là ánh sáng của văn hóa hiện đại và những luật bảo vệ công nhân và người nghèo, có thể được gán cho chức linh mục do Chúa Kitô thiết lập.

Khi nào thiếu vắng các linh mục – như vào thời bị bách hại – việc rao giảng Lời Chúa được dừng lại, và, với nó, những lợi ích xuất phát từ Thánh Lễ, và cử hành các Bí tích; người tín hữu có quyền xem như một sự trừng phạt lớn, như thỉnh thoảng Thiên Chúa giáng xuống một sự trừng phạt cho việc thờ ơ trong vấn đề đức tin. Sự trừng phạt này đã được tiên báo bởi Ngôn Sứ: “Đây sắp đến những ngày, sấm ngôn của Đức Chúa là Chúa Thượng. Ta sẽ gieo nạn đói trên xứ này, không phải đói bánh ăn, cũng không phải khát nước uống, mà là đói khát được nghe lời Đức Chúa. Chúng sẽ thất thểu từ biển này qua biển nọ, từ phương bắc đến phương đông, chúng sẽ lang thang để kiếm tìm lời Đức Chúa mà không gặp được” (Am 8,11-12).

Đấng Cứu Thế cũng đã tiên báo hình phạt này với người Do Thái: “Bởi đó, tôi nói cho các ông hay: Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi” (Mt 21,43). Ngày nay, người Do Thái không còn các tư tế, hy lễ hay đền thờ, và hơn nữa, họ đã mất đức tin. Cũng có thể nói như thế về các tôn giáo khác, như là phái Luther và Calvin, đã bãi bỏ chức linh mục - cùng với chức linh mục là các Bí tích khác, và điều này dẫn đến việc mất đức tin.

Đấng Cứu Độ muốn Hội Thánh là một xã hội hoàn hảo, với một người đứng đầu. Đó là lý do tại sao Ngài nói với các Tông Đồ: “Ai nghe anh em là nghe Thầy, và ai khước từ anh em là khước từ Thầy” (Lc 10,16); “Dưới đất anh em cầm buộc những gì, trên trời cũng cầm buộc như vậy” (Mt 18,18). Chỉ có các Tông Đồ được nhận lệnh phải chăm sóc đoàn chiên (Ga 21,15); Ngài đã làm cho họ là nền tảng của Hội Thánh (Mt 16,17), bởi vì họ sẽ cai quản Hội Thánh dưới sự lãnh đạo của thánh Phêrô và các vị kế nhiệm (Mt 18,17). Do đó, cao cả thay lòng thương xót mà Đấng Cứu Độ đã biểu lộ cho nhân loại nơi Bí tích xã hội, qua đó nơi Bí Tích xã hội này Ngài hành động như Ngài đã hoạt động trong suốt cuộc sống trần gian của Ngài.

Chức linh mục là vinh quang của Giáo Hội. Vì vậy, mỗi người Công giáo phải cầu nguyện cho có nhiều ơn gọi tốt lành trong số những người trẻ, và theo hết khả năng của mình, đóng góp cho việc đào tạo họ. Bởi tiêu chuẩn tôn giáo về xã hội lệ thuộc vào chính chức linh mục.

Biên Dịch Chủng Viện Thánh Gioan XXIII

Gp. Mỹ Tho

(Nguồn: SOPOCKO, M., The mercy of God in his works, nxb. Great Britain 1962, tr. 211-214, số 56)